Đề tài Khảo sát tỷ lệ bệnh hen kèm theo ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính

Tài liệu Đề tài Khảo sát tỷ lệ bệnh hen kèm theo ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính: KHẢO SÁT TỶ LỆ BỆNH HEN KÈM THEO Ở BỆNH NHÂN VIÊM MŨI XOANG MẠN CÓ BIỂU HIỆN DỊ ỨNG VÀ SKIN PRICK TEST DƯƠNG TÍNH TÓM TẮT Đặt vấn đề: nhiều giả thuyết cho rằng viêm mũi dị ứng và hen là một bệnh, xảy ra ở hai vị trí khác nhau trên đường hô hấp. Trên thế giới, có khá nhiều nghiên cứu dịch tễ học về mối liên quan giữa hai bệnh hen và viêm mũi dị ứng, tại Việt Nam, vẫn chưa có nghiên cứu nào về mối liên quan giữa 2 bệnh này. Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ bệnh hen kèm theo và những triệu chứng gợi ý hen thường gặp ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu tiền cứu, mô tả, cắt ngang. Cỡ mẫu N=160. Tiêu chuẩn chọn mẫu: những bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên viêm mũi xoang mạn có triệu chứng dị ứng mũi và skin prick test (SPT) dương tính với một trong 3 dị nguyên: Blomia tropicalis (B.T), Dermatophagoides farinae (D.F), Dermatophagoides pteronyssinus (D.P). Tất cả bệnh nhâ...

pdf38 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Khảo sát tỷ lệ bệnh hen kèm theo ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHẢO SÁT TỶ LỆ BỆNH HEN KÈM THEO Ở BỆNH NHÂN VIÊM MŨI XOANG MẠN CÓ BIỂU HIỆN DỊ ỨNG VÀ SKIN PRICK TEST DƯƠNG TÍNH TÓM TẮT Đặt vấn đề: nhiều giả thuyết cho rằng viêm mũi dị ứng và hen là một bệnh, xảy ra ở hai vị trí khác nhau trên đường hô hấp. Trên thế giới, có khá nhiều nghiên cứu dịch tễ học về mối liên quan giữa hai bệnh hen và viêm mũi dị ứng, tại Việt Nam, vẫn chưa có nghiên cứu nào về mối liên quan giữa 2 bệnh này. Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ bệnh hen kèm theo và những triệu chứng gợi ý hen thường gặp ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu tiền cứu, mô tả, cắt ngang. Cỡ mẫu N=160. Tiêu chuẩn chọn mẫu: những bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên viêm mũi xoang mạn có triệu chứng dị ứng mũi và skin prick test (SPT) dương tính với một trong 3 dị nguyên: Blomia tropicalis (B.T), Dermatophagoides farinae (D.F), Dermatophagoides pteronyssinus (D.P). Tất cả bệnh nhân trong mẫu được khám và đo chức năng hô hấp tìm bệnh hen. Kết quả: Tỷ lệ hen phế quản ở bệnh nhân viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng và SPT dương là 30%. Những triệu chứng gợi ý hen thường gặp ở bệnh nhân viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng và SPT dương là: ho, nặng ngực về đêm. Kết luận: Tỷ lệ hen phế quản kèm theo ở bệnh nhân viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng và SPT dương là 30%. Những triệu chứng gợi ý hen thường gặp ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và SPT dương là: ho, nặng ngực về đêm. ASBTRACT RISK OF ASTHMA IN SUBJECTS WITH ALLERGIC RHINOSINUSITIS: A CROSS-SECTIONAL STUDY FROM 7/2007 TO 8/2008 AT ENT HOSPITAL, HCMCITY, VIETNAM Tran Doan Trung Cang, Nguyen Thi Ngoc Dung, Le Thi Tuyet Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 256 - 263 Objective: The aim of this cross-sectional study was to investigate the prevalence of the coexistence of asthma in patients suffering from allergic rhinosinusitis and having positive skin prick test (SPT) reaction. Methods: Cross-sectional study of patients over 16 years of age, who completed a detailed questionnaire and underwent skin prick test (SPT) and lung function tests. Results: Of 160 patients with allergic rhinosinusitis symptoms and having positive SPT, the prevalence of positive SPT reaction with three testing allergens are: D. pteronyssinus (90%), D. farinae (83.75%) and B. tropicalis (71.25%). Between them, 142 patients (88.75%) had SPT positive with multiple allergens in which 90 patients (56.25%) with three allergens and 52 patients (32.5%) with two allergens. Of 160 patients had to undergo lung function tests, 30% (48/160pts) had suggestive asthma. Nocturnal cough (79.2%) and chest tightness (25%) were the most common symptoms in those patients. Conclusion: With the patients who had allergic rhinosinusitis symptoms, the most common aetiologic allergen was D. pteronyssinus (90%). Among 160 allergic rhinosinusitis patients who had the evidence of asthma clinically and SPT positive, 48 patients (30%) had restricted lung function test that suggested asthma. The most common symptoms of asthma were nocturnal cough and chest tightness (p<0.05). ĐẶT VẤN ĐỀ Hen và viêm mũi dị ứng là hai bệnh thường xảy ra đồng thời, vì thế nhiều giả thuyết cho rằng đó là một bệnh, xảy ra ở hai vị trí khác nhau trên đường hô hấp. Hen là biểu hiện bệnh ở đường hô hấp dưới và viêm mũi dị ứng là biểu hiện bệnh ở đường hô hấp trên (1). Viêm mũi dị ứng và hen dị ứng là hai bệnh xuất phát từ phản ứng miễn dịch qua trung gian IgE, thường khởi phát từ những yếu tố dị ứng như: phấn hoa, phấn của một số loài cây cỏ, bụi nhà, lông xúc vật như chó, mèo, khói thuốc lá… Tuy nhiên, ở bệnh nhân vừa viêm mũi dị ứng vừa hen, điều trị bằng thuốc kháng histamine và glucocorticoids xịt mũi chỉ có khả năng làm giảm triệu chứng hen, mà không thể điều trị triệt để bệnh hen. Chính vì vậy, khi bệnh nhân cùng một lúc vừa viêm mũi dị ứng vừa hen chúng ta phải có kế hoạch điều trị kết hợp thì kết quả sẽ tốt hơn. Trên thế giới, có khá nhiều nghiên cứu dịch tễ học về mối liên quan giữa hai bệnh hen và viêm mũi dị ứng. Khoảng 78% bệnh nhân hen có kèm viêm mũi dị ứng và 38% bệnh nhân viêm mũi dị ứng có kèm hen, 64% trường hợp viêm mũi có trước hen trong nhóm bệnh nhân vừa viêm mũi vừa hen. Điều này cho thấy viêm mũi dị ứng có thể là yếu tố nguy cơ gây ra hen. Trong một nghiên cứu khác theo dõi suốt 23 năm, nhóm viêm mũi dị ứng có tần suất hen nhiều gấp 3 lần so với nhóm không viêm mũi (1). Tại Việt Nam, vẫn chưa có nghiên cứu nào về mối liên quan giữa 2 bệnh này, trong khi một thực trạng tại Việt Nam là các bác sĩ tại khoa khám bệnh luôn làm việc trong tình trạng quá tải, thời gian dành cho một bệnh nhân rất ít để có thể chẩn đoán được một bệnh chứ chưa nói đến là bệnh nhân bị cùng một lúc hai bệnh. Do đó, để thuận lợi hơn trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu khảo sát tỷ lệ bệnh hen kèm theo ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng, tuy nhiên vì điều kiện y tế hiện nay tại TPHCM chưa đủ để chẩn đoán xác định viêm mũi dị ứng nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu tỷ lệ bệnh hen kèm theo ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng trên lâm sàng và nghiệm pháp châm trên da (skin prick test) dương tính để có kế hoạch điều trị phối hợp đúng đắn cho bệnh nhân, mang lại kết quả tốt nhất, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu * Mục tiêu tổng quát: Khảo sát tỷ lệ bệnh hen kèm theo và những triệu chứng gợi ý hen thường gặp ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính. * Mục tiêu chuyên biệt: - Xác định những bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính - Xác định những triệu chứng gợi ý hen thường gặp ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính. - Xác định tỷ lệ bệnh hen kèm theo ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và skin prick test dương tính. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Tiền cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu Áp dụng công thức tính cỡ mẫu: Þ N = 94 Đối tượng nghiên cứu * Tiêu chuẩn chọn mẫu Viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng là viêm mũi xoang mạn tính có triệu chứng chảy nước mũi và một trong ba triệu chứng ngứa mũi, hắt hơi và nghẹt mũi và skin prick test dương tính (triệu chứng viêm mũi dị ứng theo tiêu chuẩn IPAG) . Tất cả những bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Tai Mũi Họng TP.HCM phù hợp với tiêu chuẩn viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng, từ 16 tuổi trở lên, đồng ý tham gia nghiên cứu. * Tiêu chuẩn loại trừ: 1. Những bệnh nhân dưới 16 tuổi 2. Đã sử dụng thuốc kháng dị ứng trong vòng 5 ngày trước khi làm SPT 3. Bệnh nhân có thai 4. Bệnh nhân không đo được chức năng hô hấp 5. Những bệnh nhân không thể ngưng được thuốc kháng histamine vì triệu chứng quá nặng. 6. Không đồng ý tham gia nghiên cứu * Phương pháp nghiên cứu: Phương tiện tiến hành nghiên cứu: - Bộ thuốc thử gồm 5 lọ dụng dịch: Lọ 1: Histamine hydrochloride (10mg/ml) Lọ 2: Phenolated glycero-saline Lọ 3: Blomia tropicalis (B.T) Lọ 4: Dermatophagoides farinae (D.F) Lọ 5: Dermatophagoides pteronyssinus (D.P) Các bước tiến hành Tất cả những bệnh nhân đến khám tại phòng khám bệnh viện Tai Mũi Họng được chẩn đoán viêm mũi xoang mạn tính và có những biểu hiện dị ứng được chuyển đến phòng khám dị ứng. Tại đây, bệnh nhân được hỏi bệnh sử và khám lâm sàng đầy đủ. Dùng bảng câu hỏi để đánh giá các triệu chứng và xác định bệnh nhân có triệu chứng dị ứng(3). Làm skin prick test với ba dị nguyên: Dermatophagoides pteronyssinus, Dermatophagoides farinae và Blomia tropicalis cùng với một chứng âm và một chứng dương. Vị trí làm test là mặt trong cẳng tay. - Cách đọc kết quả chứng dương: đường kính của quầng đỏ sau 20-30 phút > 3mm được xem là dương tính. - Cách đọc kết quả chứng âm: đường kính của vị trí châm kim sau 20-30 phút < 3mm. - Cách đọc kết quả tại vị trí thử dị nguyên (lọ 3, lọ 4, lọ 5): đọc kết quả là dương tính khi: + Đường kính của vị trí châm kim lớn hơn ít nhất 3mm so với chứng âm và + Đường kính của vị trí châm kim ít nhất bằng một nửa đường kính nốt chứng dương. Làm các xét nghiệm góp phần chẩn đoán dị ứng mũi xoang: phết mũi tìm bạch cầu ái toan, vị trí phết ở niêm mạc cuốn dưới, huyết đồ (theo kỹ thuật thường quy bằng máy đếm tế bào) tìm số lượng bạch cầu ái toan trong máu, chụp Blondeau, Hirtz, chụp CT các xoang. Sau khi có chẩn đoán viêm mũi xoang mạn theo tiêu chuẩn Dolan và tiêu chuẩn đọc CT xoang đã nêu trong phần tổng quan y văn, có biểu hiện triệu chứng dị ứng trên lâm sàng (có triệu chứng chảy nước mũi và có một trong ba triệu chứng ngứa mũi, hắt hơi, nghẹt mũi) và skin prick test (+), các tiêu chuẩn chọn mẫu nêu trên đều đạt, bệnh nhân sẽ được được đưa vào lô nghiên cứu. Những bệnh nhân trong lô nghiên cứu sẽ được giới thiệu đến Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM (cơ sở 1) để khám chuyên khoa hô hấp tìm bệnh hen. Tại Bệnh viện Đại Học Y Dược, bệnh nhân sẽ được hỏi bệnh sử, trả lời bảng câu hỏi (phụ lục 2) và khám lâm sàng đầy đủ. Bệnh nhân được chụp phim phổi thẳng, đo chức năng hô hấp dựa theo tiêu chuẩn của Hiệp hội lồng ngực Hoa Kỳ. Đánh giá các thông số: thể tích khí thở ra tối đa trong 1 giây (FEV1), đo dung tích sống gắng sức (FVC), xác định tỷ lệ FEV1/FVC, đo lưu lượng đỉnh (PEF) và so sánh với các chỉ số bình thường theo bảng số liệu tính được dựa theo công thức Knudson (Phụ lục 3). Đo lại FVC, FEV1, FEV1/FVC, PEF sau khi hít thuốc đồng vận b2 (thuốc giãn phế quản). Để chẩn đoán hen, phải dựa vào bệnh sử, khám lâm sàng và đo chức năng hô hấp. Tiêu chuẩn chẩn đoán: - Trả lời có với 1 trong 7 câu hỏi ở phần phụ lục bảng câu hỏi về hen phế quản. - Chức năng hô hấp có hội chứng tắc nghẽn, nghĩa là có một trong những tiêu chuẩn sau * FEV1 < 80% hoặc PEF < 80% * Thử nghiệm giãn phế quản (+): FEV1 tăng ≥ 12% hoặc PEF tăng ≥ 15% sau hít thuốc giãn phế quản 15 phút – 20 phút. * Trong những trường hợp khó chẩn đoán, có triệu chứng lâm sàng và tiền căn rõ ràng, nhưng đo hô hấp ký cho kết quả bình thường thì hẹn bệnh nhân tái khám sau 2-4 tuần để đo lại. Nếu chức năng hô hấp lần đo lại vẫn trong giới hạn bình thường thì sẽ đo PEF sáng, chiều để so sánh. Công thức tính sự thay đổi sáng và chiều: % thay đổi Kết luận có hen phế quản khi: % thay đổi > 10%. Bệnh nhân sẽ mang kết quả hô hấp ký về BV Tai Mũi Họng. Cuối cùng sẽ thu được kết quả gồm 2 nhóm: Nhóm 1: số bệnh nhân viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng và skin prick test (+) bị hen kèm theo Nhóm 2: số bệnh nhân viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng skin prick test (+) không kèm hen. Từ đó tính ra tỷ lệ bệnh nhân viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng và skin prick test (+) bị hen kèm theo. Khi phân tích số liệu, bệnh nhân sẽ được chia làm 4 nhóm theo tiêu chuẩn phân loại viêm mũi dị ứng mới của ARIA: (1) Dị ứng từng đợt, nhẹ; (2) Dị ứng từng đợt, trung bình - nặng; (3) Dị ứng dai dẳng, nhẹ; (4) Dị ứng dai dẳng trung bình - nặng. Sau đó, so sánh tỷ lệ hen giữa các nhóm. KẾT QUẢ Những đặc điểm về dịch tễ học Bảng 1. Đặc điểm của mẫu về giới Số lượng bệnh nhân Tỷ lệ % Nam 67 41,88% Nữ 93 58,12% Tổng cộng 160 100% Bảng 2. Tỷ lệ của từng triệu chứng trong mẫu nghiên cứu Số lượng bệnh nhân Tỷ lệ Ngứa mũi 152 95% Hắt hơi 158 98,75% Sổ mũi 158 98,75% Nghẹt mũi 145 90,63% Có cả 4 triệu chứng 137 85,63% Có 2 triệu chứng ngứa mũi + nhảy mũi và một trong 2 triệu chứng nghẹt mũi và sổ mũi 149 93,13% Có triệu chứng sổ mũi và một trong 3 triệu chứng: ngứa mũi, nhảy mũi và nghẹt mũi 158 98,75% Nhận xét: triệu chứng cơ năng dị ứng mũi ở mẫu nghiên cứu rất rõ ràng, 85,63% BN có cả 4 triệu chứng: ngứa mũi, hắt hơi, sổ mũi và nghẹt mũi. 93,13% Có 2 triệu chứng ngứa mũi + nhảy mũi và một trong 2 triệu chứng nghẹt mũi và sổ mũi và 98,75% Có triệu chứng sổ mũi và một trong 3 triệu chứng: ngứa mũi, nhảy mũi và nghẹt mũi. Trong 4 triệu chứng trên thì hắt hơi, sổ mũi chiếm tỷ lệ rất cao: 98,75%. Bảng 3. Tỷ lệ dương tính của từng dị nguyên sau khi làm Skin prick test Dị nguyên Số bệnh nhân làm test Số BN kết quả dương tính Tỷ lệ B. tropicalis 160 114 71,25% D. farinae 160 134 83,75% D. pteronyssinus 160 144 90% Nhận xét: số BN dương tính với dị nguyên D. pteronyssinus chiếm tỷ lệ cao nhất (90%). Bảng 4. Tỷ lệ dương tính của một và nhiều dị nguyên sau khi làm Skin prick test Dị nguyên B.T D.F D.P B.T+D.F B.T+D.P D.F+D.P B.T+D.F+D.P Tần số 114 134 144 99 104 119 90 Tổng số 160 160 160 160 160 160 160 Tỷ lệ % 71,25 83,75 90 61,87 65 74,37 56,25 Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có kết quả SPT dương tính với D.P cao nhất là 90%. Tỷ lệ BN dương tính với hỗn hợp cả 3 dị nguyên là 56,25%, dương tính với hỗn hợp D.F và D.P là 74,37%. Bảng 5. Tỷ lệ hen trên bệnh nhân viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng và SPT (+) Tần số Tỷ lệ % Hen 48 30% Không hen 112 70% Tổng 160 100% Bảng 6. Mối liên quan giữa hen và phân loại viêm mũi dị ứng theo ARIA Tần số bệnh nhân hen Tần số bệnh nhân không hen Số bệnh nhân của từng phân loại Tỷ lệ % Từng đợt, nhẹ 3 6 9 33,33 Từng đợt, TB-nặng 17 41 58 29,31 Dai dẳng, nhẹ 3 8 11 27,27 Dai dẳng, TB-nặng 25 57 82 30,49 Tổng cộng 48 112 160 30 Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ hen ở 4 nhóm BN theo phân loại ARIA (p>0,05). Bảng 7. So sánh mức độ liên quan giữa các triệu chứng gợi ý hen Triệu chứng Hen Không hen Likelihood ratio (LR) Ho gây thức giấc 33 3 2,29 Tức ngực, nặng ngực về đêm 7 2 0,73 Khò khè 3 4 0,21 Ho + tức ngực, nặng ngực 5 1 1,04 Tổng 48 10 BÀN LUẬN Đặc điểm về triệu chứng của mẫu nghiên cứu Trên lâm sàng, phim Blondeau-Hirtz và phim CT, 100% trường hợp trong mẫu nghiên cứu có biểu hiện tình trạng viêm xoang mạn tính. Kết quả chụp phim Blondeau, Hirtz biểu hiện cũng theo nhiều dạng khác nhau như: nhiều nhất là mờ xoang hàm, mờ xoang sàng, kế đến là dầy niêm mạc xoang hàm. Trên phim CT thì biểu hiện dầy niêm mạc xoang rất rõ ràng, tất cả các trường hợp có chụp CT xoang trong nghiên cứu của chúng tôi đều cho thấy biểu hiện dầy niêm mạc xoang hàm, xoang sàng 2 bên, ngoài ra còn phát hiện thêm nhiều bất thường về cấu trúc khác như: vẹo vách ngăn, concha bullosa, điểm tiếp xúc vách ngăn-cuốn mũi. Tuy nhiên, bệnh lý viêm xoang trong những trường hợp này là không nặng. Tỷ lệ các triệu chứng dị ứng mũi như: ngứa mũi (95%), nhảy mũi (98,75%), chảy mũi (98,75%) và nghẹt mũi (90,63%) đều cao (> 90%). Trong đó, số bệnh nhân có cả bốn triệu chứng đạt 85,63% và số bệnh nhân có triệu chứng sổ mũi và có một trong 3 triệu chứng còn lại là ngứa mũi, hắt hơi và nghẹt mũi (theo IPAG) chiếm 98,75%. Biểu hiện dị ứng ở mũi của những bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu này phần lớn đều rõ ràng: đầu tiên là triệu chứng ngứa mũi thường được bệnh nhân mô tả ngứa trong hai lỗ mũi, có khi phải lấy tay giụi mũi hoặc lấy ngón tay ngoáy mũi. Sau khi giụi mũi thì hắt hơi liên tục từ 5 cái đến 20 – 30 cái rồi sau đó chảy nước mũi trong. Sau khoảng 15-20 phút, bệnh nhân thấy nghẹt mũi lúc đầu 1 bên dần dần nghẹt cả 2 bên. Nếu so sánh với nghiên cứu của Erkka Valovirta thì tỷ lệ ngứa mũi là 70%, chảy nước mũi là 77% và nghẹt mũi là 75% (5) sự khác biệt đối với cả 3 triệu chứng này đều có ý nghĩa (p < 0,001). Điều này có thể lý giải là vì ông nghiên cứu triệu chứng dị ứng mũi ở bệnh nhân đã được chẩn đoán hen trước trong khi đó chúng tôi nghiên cứu trên những bệnh nhân có biểu hiện về mũi xoang trước. Bảng 8. So sánh từng triệu chứng của nghiên cứu với tác giả Erkka Valovirta Tác giả Triệu chứng Erkka Valovirta (2006) Trung Cang (2008) Giá trị p Ngứa mũi 70% 95% P < 0,001 Sổ mũi 77% 98,75% Nghẹt mũi 75% 90,63% Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có vấn đề về giấc ngủ trong 48 bệnh nhân có bệnh hen phế quản đi kèm chiếm 41,67%, trái lại ở nhóm nghiên cứu của Erkka Valovirta thì tỷ lệ bệnh nhân cùng một lúc bị viêm mũi dị ứng và hen có vấn đề giấc ngủ là 79% (5). Sự khác biệt này có ý nghĩa (p < 0,001). Điều này có thể là do nghiên cứu của Erkka Valovirta có khác với chúng tôi, ông nghiên cứu tỷ lệ những bệnh nhân có triệu chứng viêm mũi dị ứng ở nhóm đã được chẩn đoán xác định hen phế quản. Như chúng ta đã biết, triệu chứng hen thường xảy ra về đêm, do đó, bệnh nhân sẽ có vấn đề giấc ngủ nhiều hơn nghiên cứu của chúng tôi. Những ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống khác như: Giảm hoạt động thể thao, thư giãn và giảm khả năng làm việc trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có tỷ lệ lần lượt là: 22,92% và 43,75%. So sánh với nghiên cứu của Erkka Valovirta thì tỷ lệ này là 75% và 69%. Điều này cũng có thể là vì bệnh hen liên quan đến vấn đề vận động thể lực nhiều hơn viêm mũi dị ứng mà nghiên cứu của ông trên toàn bộ bệnh nhân hen nên sự khác biệt với nghiên cứu của chúng tôi có ý nghĩa (p < 0,001). Tuy nhiên, những than phiền về tình trạng khó chịu thì nghiên cứu của chúng tôi là 62,5% trong khi nghiên cứu của Erkka Valovirta là 57%, sự khác biệt này không có ý nghĩa (p = 0,441). Điều này có thể hiểu rằng bệnh viêm mũi dị ứng và hen phế quản đều gây ra cảm giác khó chịu ở bệnh nhân cũng tương tự nhau. Bảng 9. So sánh biểu hiện suy giảm chất lượng cuộc sống của nghiên cứu này với Erkka Valovirta Tác giả Triệu chứng Erkka Valovirta (2006) Trung Cang (2008) Giá trị p Khó ngủ 79% 41,67% P < 0,001 Giảm vận động thể lực, thư giãn 75% 22,92% P < 0,001 Giảm khả năng làm việc, học tập 69% 43,75% P < 0,001 Cảm giác khó chịu 57% 62,5% P = 0,441 Nói đến bệnh dị ứng là phải nói đến tiền căn dị ứng, nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 99 (61,88%) trường hợp trên 160 trường hợp có tiền căn gia đình: bố, mẹ hoặc anh chị em ruột bị dị ứng mũi. Tỷ lệ này dựa trên sự trả lời theo hiểu biết của bệnh nhân. Trong nghiên cứu của A Navarro thì tiền căn gia đình viêm mũi dị ứng chỉ là 33% trong số 89,5% bệnh nhân viêm mũi dị ứng (2). Điều này cho thấy viêm mũi dị ứng không hẳn là một bệnh di truyền. Thử nghiệm da cho thấy tỷ lệ dương tính với D. farinae và D. pteronyssinus cao hơn B. tropicalis. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Anthony PW Yuen ở Hồng Kông năm 2007(7). Trong số 651 bệnh nhân có SPT dương (dương tính với ít nhất một trong 6 nhóm dị nguyên: Bụi, con gián, lông mèo, lông chó, nấm mốc và phấn hoa) thì riêng nhóm bụi, ông thử với 3 loại: D. pteronyssinus, D. farinae và B. tropicalis. Kết quả của ông là nhóm bệnh nhân dương tính với B. tropicalis ít hơn 2 nhóm kia. Đặc biệt là với hỗn hợp D. pteronyssinus và D. farinae, nghiên cứu của Anthony PW Yuen (7) cho thấy dương tính lên đến 99% là phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi: 99,4% (p = 0,634). Bảng 10. So sánh tỷ lệ dương tính với những dị nguyên của nghiên cứu này với nghiên của Anthony PW Yuen Anthony PW Yuen N = 651 Trung Cang N = 160 Giá trị p Hỗn hợp D. pteronyssinus và D. farinae 99% 99,4% P = 0,634 Mối liên quan giữa những triệu chứng gợi ý hen và hen Trong 3 triệu chứng: ho gây thức giấc, tức nặng ngực và khò khè (bảng 7) thì LR của triệu chứng ho gây thức giấc là cao nhất (2,29) nên nhiều khả năng liên quan đến bệnh hen kèm theo nhiều hơn các triệu chứng khác. Kế đến LR của triệu chứng vừa ho vừa có tức, nặng ngực cao thứ 2 (1,04). Những triệu chứng tức, nặng ngực và khò khè có liên quan rất ít đến bệnh hen kèm theo. Mối liên quan giữa hen và những biểu hiện dị ứng mũi Tỷ lệ hen trong nhóm bệnh nhân có SPT dương với B.T, D.F và D.P lần lượt là: 32,33%, 29,85% và 31,25%. Nếu so sánh tỷ lệ hen trên từng loại dị nguyên thì thấy sự khác biệt không có ý nghĩa (p1 = 0,147, p2 = 0,925 và p3 = 0,301). Tỷ lệ hen giữa các dị nguyên cũng xấp xỉ nhau, điều này cho thấy khi bệnh nhân có SPT dương với B.T, D.F hoặc D.P đều có khả năng bị hen như nhau. Tỷ lệ hen trên từng triệu chứng viêm mũi như: ngứa mũi, hắt hơi, sổ mũi và nghẹt mũi cũng không có sự khác biệt. Điều này cho thấy 4 triệu chứng chính của viêm mũi dị ứng không có ý nghĩa trong việc hướng bệnh nhân đến việc chẩn đoán hen. Về phân loại viêm mũi dị ứng theo tiêu chuẩn ARIA, tỷ lệ hen ở các nhóm phân bố khá đồng đều, từng đợt, nhẹ là 33,33%, từng đợt, TB-nặng là 29,31%, dai dẳng, nhẹ là 27,27% và dai dẳng, TB-nặng là 30,49%. Tỷ lệ hen chung ở đây là: 30%. Bảng 11. Tỷ lệ hen theo từng phân loại Hen Không hen Số lượng Tỷ lệ % Từng đợt, nhẹ 3 6 9 33,33 Từng đợt, TB-nặng 17 41 58 29,31 Dai dẳng, nhẹ 3 8 11 27,27 Dai dẳng, TB-nặng 25 57 82 30,49 Tổng cộng 48 112 160 30 Tỷ lệ bệnh nhân có biểu hiện viêm mũi dị trung bình-nặng ở trạng thái từng đợt hay dai dẳng cao hơn bệnh nhân có biểu hiện viêm mũi dị ứng nhẹ và tỷ lệ bệnh hen kèm theo trong các nhóm này cũng tương đương với 2 nhóm kia nhưng có ý nghĩa hơn vì số lượng nhiều hơn. Tỷ lệ bệnh hen phế quản ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng và SPT (+) là 30%, trong khi nghiên cứu của Jonathan Corren năm 1997 thì tỷ lệ này là 38%. Điều này có thể giải thích là do số loại dị nguyên thực hiện SPT trong nghiên cứu của chúng tôi còn hạn chế, chỉ gồm 3 loại B.T, D.F và D.P nên đã loại ra một số trường hợp viêm mũi xoang mạn dị ứng với các kháng nguyên khác. Tương tự như vậy, tỷ lệ hen của chúng tôi thấp hơn Vũ Minh Thục (35,5%)(6) và Riccardo Polosa (46,1%)(4). KẾT LUẬN Qua nghiên cứu trên 160 bệnh nhân, chúng tôi nhận thấy Viêm mũi xoang mạn có biểu hiện dị ứng: - Về triệu chứng lâm sàng: hầu hết những bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu đều có triệu chứng sổ mũi và có 1 trong 3 triệu chứng còn lại là: nhảy mũi, ngứa mũi và nghẹt mũi (98,75%). - Về triệu chứng cận lâm sàng: tất cả những bệnh nhân đều thể hiện tình trạng viêm xoang mạn trên phim Blondeau, Hirtz và CT. - Skin prick test: Tất cả bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu đều dương tính với ít nhất một trong 3 loại dị nguyên B. tropicalis, D. farinae và D. pteronyssinus. Trong đó, tỷ lệ dương tính với D. pteronyssinus cao nhất (90%). Mối liên quan giữa hen phế quản và viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng và SPT dương: - Tỷ lệ hen chung của cả nhóm viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng và SPT dương là 30%. - Tỷ lệ hen của riêng từng phân loại theo tiêu chuẩn ARIA cũng gần giống nhau: (1) Từng đợt, nhẹ: 33,33%; (2) Từng đợt, trung bình nặng: 29,31%; (3) Dai dẳng, nhẹ: 27,27%; (4) Dai dẳng, trung bình nặng: 30,49%. - Những triệu chứng gợi ý hen thường gặp ở bệnh nhân viêm mũi xoang có biểu hiện dị ứng và SPT dương là: ho, tức, nặng ngực về đêm. - Triệu chứng khò khè thường gặp trong bệnh hen lại không thường gặp ở bệnh nhân Tai Mũi họng có bệnh hen đi kèm, có lẽ những bệnh nhân có khò khè thường đến với chuyên khoa hô hấp nhiều hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf85_7608.pdf
Tài liệu liên quan