Đề tài Khảo sát tình hình nhiễm Ascaris suum trên lợn chăn nuôi gia đình tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk và biện pháp phòng, trị

Tài liệu Đề tài Khảo sát tình hình nhiễm Ascaris suum trên lợn chăn nuôi gia đình tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk và biện pháp phòng, trị: PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Trong các loài gia súc thường được nuôi ở nước ta như: trâu, bò, dê, lợn…thì lợn là loài gia súc cho thu hoạch nhanh nhất và đem lại giá trị kinh tế cao. Lợn là loài gia súc phàm ăn, dễ thuần tính. Do vậy nó rất thuận lợi cho quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng. Người nuôi lợn có thể tận dụng thức ăn thừa của người và các phụ phẩm nông – công nghiệp cho lợn ăn, giảm bớt chi phí. Krông Bông – một huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh Đắk Lắk. Nền nông nghiệp nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng đã có từ lâu nhưng chưa thật sự phát triển. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển mạnh mẻ của ngành trồng trọt và ngành bảo quản chế biến nông sản trên địa bàn huyện ngành chăn nuôi đã có động lực để phát triển tương đối nhanh. Chăn nuôi lợn đã trở thành nhu cầu cải thiện đời sống không thể thiếu của người dân nơi đây. Nhất là đối với các hộ gia đình nghèo. Ở đây đã có nhiều phương thức chăn nuôi khác nhau như: trang trại, hộ gia đình,…Chiếm một số lượng đáng kể là chăn...

doc43 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1123 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Khảo sát tình hình nhiễm Ascaris suum trên lợn chăn nuôi gia đình tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk và biện pháp phòng, trị, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Trong các loài gia súc thường được nuôi ở nước ta như: trâu, bò, dê, lợn…thì lợn là loài gia súc cho thu hoạch nhanh nhất và đem lại giá trị kinh tế cao. Lợn là loài gia súc phàm ăn, dễ thuần tính. Do vậy nó rất thuận lợi cho quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng. Người nuôi lợn có thể tận dụng thức ăn thừa của người và các phụ phẩm nông – công nghiệp cho lợn ăn, giảm bớt chi phí. Krông Bông – một huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh Đắk Lắk. Nền nông nghiệp nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng đã có từ lâu nhưng chưa thật sự phát triển. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển mạnh mẻ của ngành trồng trọt và ngành bảo quản chế biến nông sản trên địa bàn huyện ngành chăn nuôi đã có động lực để phát triển tương đối nhanh. Chăn nuôi lợn đã trở thành nhu cầu cải thiện đời sống không thể thiếu của người dân nơi đây. Nhất là đối với các hộ gia đình nghèo. Ở đây đã có nhiều phương thức chăn nuôi khác nhau như: trang trại, hộ gia đình,…Chiếm một số lượng đáng kể là chăn nuôi gia đình. Tuy nhiên hiệu quả chăn nuôi lợn chưa cao. Có thể là do nhiều nguyên nhân. Song, một trong những nguyên nhân có thể kể đến là tình trạng nhiễm ký sinh trùng. Nguy hiểm và gây nhiều thiệt hại như: làm cho lợn chậm lớn, còi cọc, tiêu tốn nhiều thức ăn, có thể tắc ruột, thủng ruột và chết… là do nhiễm giun đũa lợn (Ascaris suum). Mặt khác, ở Krông Bông, việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp phòng trị giun đũa trên lợn một cách có hiệu quả thì tương đối ít. Thế nên thực tế đặt ra một câu hỏi là lợn nuôi theo hộ gia đình ở Krông Bông có nhiễm giun đũa lợn hay không? Tỉ lệ và cường độ nhiễm là bao nhiêu? Làm thế nào để phòng, trị bệnh giun đũa lợn có hiệu quả, đảm bảo cho chăn nuôi phát triển bền vững. Đó là nhiệm vụ quan trọng của ngành thú y, của các nhà nghiên cứu. Xuất phát từ đòi hỏi đó tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Khảo sát tình hình nhiễm Ascaris suum trên lợn chăn nuôi gia đình tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk và biện pháp phòng, trị.” + Với mục đích: Đề ra biện pháp phòng, trị bệnh giun đũa lợn một cách tốt nhất. + Mục tiêu: - Khảo sát tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn theo các địa điểm, độ tuổi, giống lợn, tính biệt, phương thức chăn nuôi. - Áp dụng biện pháp phòng, trị bệnh tại huyện Krông Bông. PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của huyện Krông Bông 2.1.1 Điều kiện tự nhiên Krông Bông là một trong 14 huyện- thành phố của tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 55 km. Được thành lập từ tháng 11 năm 1981 với tổng diện tích tự nhiên là 125.020 ha. Huyện có 13 xã và 1 thị trấn với dân số bao gồm nhiều dân tộc khác nhau sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp. Là một huyện miền núi nằm giữa cao nguyên Buôn Ma Thuột với dãy núi Chư Yang Sin. Đất đai ở đây phong phú, đa dạng thích hợp cho nhiều loại cây trồng, đặc biệt rất phù hợp với cây lương thực- thực phẩm cho năng suất cao. Rừng Krông Bông với nhiều chủng loại động vật đặc trưng cho khu vực Tây Nguyên là nguồn lợi lâm sản không chỉ về mặt kinh tế mà có tác dụng rất lớn về sinh thái môi trường. 2.1.1.1. Vị trí địa lý Huyện Krông Bông nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Đắk Lắk, cách Thành phố Buôn Ma Thuột 55 km, là địa bàn rộng lớn dọc theo dãy núi Chư Yang Sin với tổng diện tích tự nhiên là 125.020 ha, bao gồm 1 thị trấn và 13 đơn vị hành chính xã: Yang Reh, Êa Trul, Hòa Sơn, Khuê Ngọc Điền, Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Cư Đrăm, Yang Mao, Hòa Tân, Hòa Thành, Cư Kty và Yang Kang. Phía Bắc giáp 3 huyện nằm trên đường quốc lộ 26 (Krông Pắk, Ea Kar, M’Drăk). Phía Tây giáp huyện Krông Ana, với quốc lộ 27 nối Đắk Lắk với Lâm Đồng. Phía Nam giáp huyện Lắk. Phía Đông giáp vùng núi hiểm trở của hai tỉnh Khánh Hòa và Lâm Đồng. 2.1.1.2. Địa hình Địa hình Krông Bông nằm trên cao nguyên Đắk Lắk (nơi giáp ranh với 3 tỉnh, Đăk Lắk, Lâm Đồng, Khánh Hòa) nên có kiểu địa hình phức tạp, toàn bộ địa hình là lòng chảo, ở giữa có đồng bằng và vùng trũng được tạo thành bởi 3 hệ thống sông chính là Krông Ana, Krông Bông, Krông Pắk. Xung quanh được bao bọc bởi các dãy núi cao hiểm trở. Nhất là dãy núi Đông Nam, đoạn cuối của dãy Trường Sơn cao trung bình 2000 m. 2.1.1.3. Thời tiết khí hậu Do tính chất đặc thù về vị trí địa lý và địa hình, huyện Krông Bông nằm giữa vùng Cao Nguyên Buôn Ma Thuột và dãy Chư Yang Sin nên khí hậu vừa chịu chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang tính khí hậu Cao Nguyên dịu mát, có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Do ảnh hưởng của khí hậu duyên hải miền Trung nên mùa mưa trong vùng thường đến sớm, mưa nhiều vào tháng 9- 11, chiếm 80- 85% lượng mưa hàng năm, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể, có năm nắng hạn kéo dài thiếu nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. 2.1.1.4. Chế độ nhiệt - Nhiệt độ bình quân hàng năm: 23,7oC - Nhiệt độ cao nhất trung bình hàng năm: 32,8oC - Nhiệt độ thấp nhất trung bình hàng năm: 17,6oC - Tháng có nhiệt độ bình quân cao nhất: tháng 4, 5. - Bình quân giờ nắng chiếu sáng/ năm: 2250- 2700 2.1.1.5. Chế độ ẩm - Lượng mưa bình quân hàng năm: 1800- 2400 mm. - Lượng mưa cao nhất: 3000 mm - Độ ẩm bình quân hàng năm: 80,2 mm - Độ bốc hơi mùa khô: 1,04- 2,98 mm/ ngày - Độ bốc hơi mùa mưa: 1,53- 3,31 mm/ ngày 2.1.1.6. Chế độ gió Mùa khô có gió mùa Đông Bắc thổi mạnh, vận tốc có thể đạt từ 15- 16 m/s, mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam. Tốc độ gió từ 3,5- 4,5 m/s. 2.1.1.7. Đất đai Đất đai ở đây tương đối đa dạng, theo kết quả điều tra đất trên địa bàn huyện có 9 nhóm đất khác nhau, cụ thể một số nhóm chính như sau: - Đất mùn vàng đỏ trên đá Granit (ha) với diện tích 35.280 ha, chiếm 28,22%. Chủ yếu ở khu vực phía Nam và Đông Nam của huyện, vùng có địa hình đồi núi với độ dốc từ 15- 20o, đất có thành phần cơ giới là đất thịt trung bình và có đá lộ đầu rải rác. - Đất vàng trên đá Granit (Fa) chiếm tỉ lệ lớn nhất 34,16% với 42.710 ha, phân bố chủ yếu ở phía Đông Nam (giáp Lâm Đồng) và khu vực xã Ea Trul trên các vùng có đồi núi thấp, chia cắt mạnh, tương đối nghèo chất dinh dưỡng và tầng mỏng, thành phần cơ giới thịt nặng sét, giữ ẩm kém, có đá lẫn, nhóm đất này thích hợp cho các loại cây lương thực, thực phẩm và có thể phát triển một số cây ăn quả. - Nhóm đất nâu đỏ, vàng trên đá Bazan (Fk, Fu) với tổng diện tích khoảng 1.185 ha chiếm 0,95%, tập trung chủ yếu tại vùng phía Tây huyện giáp Krông Ana, phân bố trên địa hình lượn sóng, nhóm đất này rất giàu dinh dưỡng và các nguyên tố như: Sắt, nhôm, calci, magie, phospho, kali, natri..., có tầng dày, cấu tượng viên hạt, độ xốp cao, thành phần cơ giới nặng, khả năng giữ nước và giữ màu tốt, thích hợp cho các loại cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả nhiệt đới. - Đất phù sa được bồi (Pb) diện tích khoảng 4.824 ha,chiếm 3,86% phân bố tập trung ở khu vực Hòa Phong, Cư Kty, Hòa Thành và Hòa Tân. Đất có tầng dày lớn, khá phì nhiêu, hơi chua, thành phần cơ giới từ trung bình đến nhẹ, một số ngập vào mùa mưa, phân bố ven sông suối, thích hợp cho cây lúa nước chuyên màu và cây công nghiệp ngắn ngày. - Đất phù sa Glay (Pg) với diện tích 2.910 ha chiếm 2,33%, phân bố chủ yếu ở Hòa Lễ, Hòa Phong, thuộc dạng đất pha cát, một số có lẫn đá 30%. - Đất đỏ vàng trên phiến sét (Fs) với diện tích 30.920 ha, chiếm 24,73% phân bố chủ yếu ở khu vực phía Đông Bắc (Hòa Phong, Hòa Lễ, Hòa Tân) có thành phần cơ giới thịt trung bình tầng dày < 30 cm. - Ngoài ra còn có các nhóm đất khác: Đất phù sa loang lỗ đỏ vàng (Pf) diện tích 1.611 ha, chiếm 1,29%; đất phù sa sông ngòi, suối (Py) diện tích 1480 ha (1,18%); đất xám trên phù sa cổ (X) 1.815 ha (1,45%), đất xám Glay (Xg) 1000 ha (0,80%), đất dốc tụ thung lũng (D) 280 ha (0,22%), đất nâu trên đá Bazan (Ru) 420 ha (0,34%). CƠ CẤU THÀNH PHẦN CỦA ĐẤT NHƯ SAU: Nhóm đất Ký hiệu Diện tích (ha) Tỉ lệ (%) Phân bố Đất mùn vàng đỏ trên đá Granit Ha 35280 28,22 Khu vực trung tâm Khuê Ngọc Điền và phía Đông Nam huyện Đất đỏ vàng trên đá Granit Fa 42710 34,16 Phía Đông, Đông Nam và Ea Trul Đất đỏ vàng trên phiến sét Fs 30920 24,73 Chủ yếu ở khu vực Đông Bắc Đất nâu đỏ vàng trên đá Fk, Fu 1185 0,95 Khu vực phía Tây Đất phù sa được bồi Pb 4824 3,86 Khu vực Hòa Tân, Cư Kty, Hòa Thành, Hòa Phong Đất phù sa ngòi suối Py 1480 1,18 Đất phù sa loang lỗ đỏ vàng Pf 1611 1,29 Đất phù sa Glay Pg 2910 2,33 Chủ yếu ở xã Hòa Phong, Hòa Lễ Đất lầy J 275 0,22 Đất vàng trên phù sa cổ X 1815 1,45 Khu vực thị trấn và phía Bắc huyện Đất xám Glay Xg 1000 0,80 Đất dốc tụ thung lũng D 280 0,22 Đất nâu trên sản phẩm Bazan Ru 420 0,34 Hồ 70 0,06 Tổng diện tích 125020 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên: - Thuận lợi: Khí hậu thổ nhưỡng đa dạng thích hợp với nhiều loại cây trồng khác nhau. Trong đó đặc biệt thích hợp cho sự phát triển cây lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và một số nơi rất thích hợp cho cây công nghiệp ngắn ngày cũng như dài ngày và cây ăn quả. Với vùng đất phù sa được bồi đắp hàng năm, mật độ sông suối dày đặc là lợi thế cho việc xây dựng các công trình thủy nông vừa và nhỏ, phục vụ cho sản xuất các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao và chi phí thấp. - Khó khăn: Một số vùng có địa hình phân cách, độ dốc nên dễ bị thoái hóa do xói mòn, rửa trôi nên cần chú ý việc khoanh nuôi bảo vệ, trồng rừng bảo vệ đầu nguồn (băng rừng, đai rừng...), ngược lại vùng phù sa ven sông thường bị ngập úng gây lụt lội một số nơi ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. Mùa mưa đến sớm và thường mưa nhiều vào thời gian thu hoạch nên cần chú trọng khâu sơ chế và chế biến sau thu hoạch để giảm hao hụt sản lượng và chất lượng sản phẩm. Địa bàn rộng, cơ sở hạ tầng thuộc miền núi phát triển chưa cao và có những nền tảng thúc đẩy kinh tế xã hội phải có sự ưu tiên và đầu tư về mọi mặt. 2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 2.1.2.1. Điều kiện kinh tế - Về dân số: Toàn huyện có 13 xã: Yang Reh, Ea Trul, Hòa Sơn, Khuê Ngọc Điền, CưKty, Hòa Thành, Yang Kang, Hòa Tân, Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, CưDrăm, Yang Mao và 1 thị trấn Krông Kmar, với dân số năm 2009 là 87.136 người, trong đó nữ là 42.783 người. + Dân cư ở đây chủ yếu là người Kinh, bên cạnh đó còn có một số các dân tộc thiểu số khác như: Ê đê, Tày, H’Mông,… Người Kinh chủ yếu có nguồn gốc từ Quảng Nam, Đà Nẵng; chính nguồn gốc dân cư của người Kinh đã tạo ra tại đây một môi trường văn hóa-xã hội có nhiều nét tương đồng như quê hương gốc của họ. + Mật độ dân số trung bình toàn huyện là: - Về văn hóa giáo dục: - Về y tế: bệnh viện huyện có quy mô 100 giường bệnh, tương đối hiện đại, nhiều năm đạt danh hiệu bệnh viện xuất sắc toàn quốc. - Về giao thông vận tải: Huyện có vị trí thuận lợi về giao thông vận tải, có tỉnh lộ 12 nối liền với quốc lộ 26 và 27, do vậy giá trị hàng hóa có tăng hàng năm. Krông Bông đã có cơ sở hạ tầng tương đối tốt: 100% số xã đã có điện lưới quốc gia và đường nhựa đến trung tâm xã; từ Krông Bông có thể đến 2 thành phố lớn mỗi ngày thông qua các chuyến xe khách chất lượng tốt (Đà Nẵng 2 chuyến/ngày và TP.HCM 3 chuyến/ngày) nên giao thông đi lại rất thuận lợi; hầu hết trường học đều khang trang. - Krông Bông chủ yếu phát triển kinh tế bằng nông-lâm nghiệp; hiện nay đang có xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ sang công nghiệp-du lịch-dịch vụ nhờ phát triển thủy điện và có nhiều điểm du lịch nổi tiếng - nhất là thác Krông Kmar. 2.1.2.2. Điều kiện xã hội 2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh giun đũa lợn trong và ngoài nước 2.2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh giun đũa lợn ngoài nước Skrjabin (1925)[2], đã mô tả tỉ mỉ về đặc điểm của 42 loài giun sán heo trên thế giới và đã chỉ ra những loại gây tác hại nhiều cần tập trung phòng ngừa. Drozaca (1930)[2], cho biết có 57 giun sán ký sinh ở heo trên thế giới. Zarexynki (1959)[2], cho biết có 79 loài giun sán ký sinh ở heo. Erchov (1963)[2], cho biết có 58 loài giun sán ký sinh ở heo, trong đó có 11 loài tác giả cho là những giun sán lạc chủ. Oslov (1958)[2], cho biết có 73 loài giun sán ký sinh trên heo, quá trình gây bệnh của chúng và phương pháp phòng trị. Mosgvoi (1967)[2], cho biết có 139 loài giun sán ký sinh ở heo nhà và heo rừng trên thế giới, trong đó lớp Trematoda có 29 loài, lớp Cestoda có 16 loài, lớp Nematoda có 93 loài và lớp Acanthocephala có 1 loài. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh giun đũa lợn trong nước Houdemer (1925)[2], đã nghiên cứu trên heo ở Bắc Bộ và cho biết heo nhiễm Ascarissuum với tỷ lệ 48,35%. Lương Văn Huấn mổ khám toàn diện theo độ tuổi 891 heo tại 12 tỉnh thành phố cho biết tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn là 55%.[2] Trần Thị Thanh Thuý qua mổ khám không theo tuổi 204 heo tại thị xã Cao Lãnh - Đồng Tháp cho biết tỷ lệ nhiễm Ascaris suum là 53,39%.[2] Trịnh Văn Thịnh Và Dương Công Thuận (1959 - 1960)[2], đã xét nghiệm phân trên 2.200 heo cho biết tỷ lệ nhiễm Ascaris suum là 56%. Kết quả của việc điều tra về thành phần loài giun sán ở heo từ năm 1963-1975 [2] (viện Pasteur Sài Gòn), công việc chủ yếu là thu thập giun sán trên heo giết mổ tại lò mổ Chánh Hưng và từ khắp nơi Miền Nam gửi tới trong đó tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn là 70%. 2.3. Tình hình chăn nuôi lợn và công tác thú y tại huyện Krông Bông 2.3.1. Tình hình chăn nuôi lợn Năm 2007, tổng đàn lợn trên địa bàn huyện khoảng: 22.064 con ( do ảnh hưởng của dịch Lở mồm long móng và giá lợn xuống thấp) Năm 2008, tổng đàn lợn: 35.570 con Năm 2009, tổng đàn lợn 35.380 con. Trong đó, lợn thịt: 29.507 con, lợn nái: 5732 con, lợn đực giống: 141 con. (Nguồn: Niên giám thống kê Krông Bông, 01/10/2010) Các giống lợn được nuôi chủ yếu ở đây bao gồm: Lợn ngoại: chủ yếu là lợn đực giống (Duroc, Landrace), lợn nội (lợn Móng Cái, lợn Ỉ) và lợn lai từ các giống lợn ngoại và lợn nội trên. Lợn được nuôi phổ biến ở tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Tại 3 địa điểm nghiên cứu thì lợn nuôi nhiều nhất là ở xã Hòa Sơn, sau đó là Thị trấn Krông Kmar, ít hơn cả là xã Ea Trul. Nhìn chung, tổng đàn lợn trên địa bàn huyện ngày một tăng lên. Tuy nhiên, số hộ gia đình chăn nuôi lợn có xu hướng giảm dần, lợn nuôi phân bố không đồng đều, có nơi tập trung nuôi nhiều thì có nơi hầu như không nuôi. Nguyên nhân chính là do trong thời gian gần đây giá lợn thấp, giá thức ăn gia súc tăng dẫn đến chăn nuôi không đem lại lợi nhuận. Qua thực tế cho thấy chăn nuôi tại huyện có hai phương thức chính là: nuôi tập trung và nuôi nhỏ lẻ. Nuôi tập trung chủ yếu là ở Thị trấn Krông Kmar, quy mô vừa và nhỏ, chuồng trại được xây dựng kiên cố (nuôi sàn, lồng, chuồng hai dãy), thoáng mát, sạch sẽ, lợn được vệ sinh tắm rửa hàng ngày. Công tác tiêm phòng bệnh cho lợn cũng được chú trọng hơn nhiều so với chăn nuôi nhỏ lẻ. Chăn nuôi tập trung tương đối đảm bảo vệ sinh thú y. Vì vậy lợn rất ít bị bệnh. Đối với chăn nuôi nhỏ lẻ, chuồng trại được làm bằng tường gạch, nền xi măng, mái tôn hoặc ngói, có nơi thì tường ván, nền ván, mái tranh. Tuy vậy nhưng ý thức về vệ sinh chuồng trại, phòng bệnh cho lợn tương đối tốt. Phân lợn nuôi ở đây được xử lý hầm biogas, có nơi ủ phân bón cho cây trồng, có nơi dùng phân tươi bón cho rau màu, rau xanh. Thức ăn cho lợn ngoài nguồn thức ăn chính là thức ăn công nghiệp như: Cám Cargill, cám Greenfeed, cám Anco, … Bà con nơi đây còn tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp như: cám gạo, sắn, khoai lang, rau xanh, bèo, thân cây chuối…làm thức ăn cho lợn. Bên cạnh được tiêm phòng vaccine phòng các bệnh truyền nhiễm, lợn cũng được người dân nơi đây chú trọng phòng, trừ giun sán. Một số thuốc tẩy giun mà người dân thường dùng là: vimectin, levavet (Vemedim), Bio-bivermectin (Bio- Pharmachemi), Một số bệnh lợn hay mắc phải: bệnh suyễn lợn, tụ huyết trùng, phó thương hàn, E.coli phù đầu,…bệnh giun đũa, ghẻ,… 2.3.2. Công tác thú y + Tổ chức nhân sự: Số cán bộ kỹ thuật trạm được biên chế: 04 người, trong đó có 01 hợp đồng. Số cán bộ cơ sở ở 14 xã, thị trấn: 33 người, trong đó số cán bộ thú y xã, thị trấn được ký kết hợp đồng chính thức là 14 người. + Phòng và chống dịch bệnh gia súc, gia cầm 1. Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến hết tháng 7/2009 dịch bệnh không xảy ra với đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn huyện, có một số bệnh xảy ra lẻ tẻ như E.Coli, ỉa chảy heo con, toi gia cầm… ngày 19/8/2009 bệnh Lở mồm long móng xảy ra ở xã Cư Đrăm, sau đó lây lan ra các xã như Cư Pui, Hòa Phong, Hòa Lễ với tổng số gia súc mắc bệnh là 242 con, trong đó có 02 con trâu, 240 con bò. Đến ngày 13 tháng 11 năm 2009 dịch bệnh đã được khống chế và được Trung tâm Thú y vùng V và Chi cục Thú y tỉnh về kiểm tra và chuẩn bị công bố hết dịch. 2. Các biện pháp phòng chống dịch, nhận định tình hình - Biện pháp phòng chống dịch: Năm 2008 và 7 tháng đầu năm 2009 dịch bệnh không xảy ra, Trạm và mạng lưới Thú y không lơ là trong công tác phòng, chống dịch bệnh, mà luôn chủ động trong công tác phòng chống dịch bệnh như triển khai tiêm phòng các loại vắc xin theo định kỳ, tổ chức phun thuốc sát trùng tiêu độc ở 14 xã, thị trấn, thường xuyên cùng các Ban Thú y cơ sở kiểm tra tình hình chăn nuôi và dịch bệnh đến từng đơn vị thôn, buôn. Khi dịch bệnh xảy ra Trạm Thú y và ban Thú y xã Cư Drăm đã triển khai ngay biện pháp chống dịch là gom toàn bộ 38 con bò dự án về tại khu vực buôn Chàm B để nuôi nhốt điều trị bệnh, không cho chăn thả tự do và phun thuốc sát trùng ngày 01 lần tại các thôn buôn có dịch bệnh, báo Chi cục Thú y tỉnh cung ứng vật tư chống dịch như thuốc bencocid, vắc xin. Đặc biệt các xã có dịch đã thành lập các chốt chặn ở lối ra vào thôn buôn không cho mua bán, vận chuyển trâu bò ở thôn buôn có dịch. UBND huyện có Quyết định số 2083/QĐ-UB thành lập 03 chốt chặn tại các địa điểm như xã Yang Kang, Yang Réh, Hòa Phong để không cho mua bán, vận chuyển trâu bò trong thời gian có dịch. Bên cạnh đó, các xã trong toàn huyện đã chủ động tiêm phòng vắc xin LMLM cho đàn trâu bò. Vì vậy mà dịch bệnh không lây lan trên diện rộng và đã được khống chế vào ngày 13 tháng 11 năm 2009. Cuối tháng 10 và tháng 11 năm 2009 toàn huyện đã tổng tiêu độc chuồng trại chăn nuôi để có cơ sở cho công bố hết dịch trên địa bàn huyện. Đối với một số bệnh thông thường trên đàn gia súc thì Ban Thú y các xã, thị trấn đã luôn can thiệp kịp thời để giảm thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi, giảm được nguy cơ lây lan dịch bệnh truyền nhiễm ở gia súc trên địa bàn huyện. - Nhận định tình hình dịch bệnh: Hiện nay đang là mùa khô, nên thức ăn chăn nuôi đại gia súc khan hiếm, thời tiết thất thường, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm chênh lệch cao từ 12-150c, gió thường thổi mạnh làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức đề kháng của gia súc, gia cầm nên gia súc, gia cầm rất dễ mắc bệnh như Cúm gia cầm, Tiêu chảy bê nghé, viêm phổi cấp ở bê nghé, tiêu chảy heo con, THT. Với tình hình dịch bệnh LMLM vừa xảy ra trên địa bàn 04 xã do vậy bệnh LMLM vẫn có nguy cơ xảy ra trên địa bàn huyện do quá trình mua bán, vận chuyển gia súc. 3. Công tác tiêm phòng Tổng đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn huyện: Loại gia súc, gia cầm Số con Chó 15.000 Trâu, bò 26.040 Lợn 35.380 Dê 2.500 Gia cầm 233.000 Để tạo được sự miễn dịch cho đàn gia súc, hàng năm Trạm và mạng lưới Thú y cơ sở đã triển khai tiêm phòng 2 vụ: Vụ 1 vào tháng 4 đến tháng 6, vụ 2 từ tháng 9 đến tháng 11 với các loại Vắc xin như sau: -Vắc xin Dại chó: 2.500 liều. - Vắc xin THT trâu, bò: 17.700 liều - Vắc xin THT heo: 1000 liều (tiêm cho gia súc các xã đồng bào dân tộc) -Vắc xin dịch tả heo: 1000 liều (tiêm cho gia súc các xã đồng bào dân tộc) - Vắc xin PTH heo: 1000 liều (tiêm cho gia súc các xã đồng bào dân tộc) - Vắc xin Lở mồm long móng trâu, bò: 41.275 liều -Vắc xin LMLM heo: 1.500 liều (tiêm cho heo nái và heo đực giống) Cụ thể từng vụ tiêm phòng như sau: TT Loại vắc xin Tổng đàn (con) Vụ 1/2009 Vụ 2/2009 Tiêm được (con) Tỷ lệ % so tổng đàn Tiêm được (con) Tỷ lệ % so tổng đàn 1 Dại chó 15.000 (chó) 2.500 16.67 2 THT trâu bò 26.042 (trâu bò) 8.700 33.41 9.000 34.56 3 LMLM trâu bò 26.042 (trâu bò) 20.600 79.1 20.675 79.4 4 THT heo 35.380 (heo) 500 1.41 500 1.41 5 Dịch tả heo 35.380 (heo) 500 1.41 500 1.41 6 PTH heo 35.380 (heo) 500 1.41 500 1.41 7 LMLM heo 35.380 (heo) 1.500 4.24 1.500 4.24 8 Tam liên heo 35.380 (heo) 6.250 17.67 5.430 15.35 Kết quả cụ thể từng đơn vị: STT Tên đơn vị Loại vắc xin Dại chó LMLM trâu bò LMLM heo THT trâu bò THT heo PTH heo Dịch tả heo 1 Yang Réh 30 5.475 400 1.300 200 200 100 2 Ea Trul 130 2.975 50 2.050 150 200 200 3 Hòa Sơn 205 4.000 300 1.750 100 100 50 4 TT.Krông Kmar 260 1.025 200 500 100 100 50 5 Khuê Ngọc Điền 120 2.000 125 1.350 0 25 0 6 Hòa Tân 70 2.400 100 550 0 0 0 7 Cư Kty 310 4.250 300 1.950 50 50 50 8 Hòa Thành 270 2.300 400 600 0 0 0 9 Yang Kang 150 2.500 400 1.000 150 150 100 10 Hòa Lễ 200 1.825 225 900 0 0 0 11 Hòa Phong 479 5.000 75 2.750 200 125 100 12 Cư Pui 100 3.000 25 700 0 0 0 13 Cư Đrăm 65 2.600 200 1.100 50 50 350 14 Yang Mao 50 1.925 200 1.200 0 0 0 TỔNG CỘNG 2.439 41.275 3.000 17.700 1.000 1.000 1.000 Qua kết quả trên chúng ta nhận thấy sự nỗ lực của toàn thể mạng lưới Thú y trong công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, góp phần tạo được sự miễn dịch cho đàn gia súc, khống chế không cho dịch bệnh lây lan trên diện rộng, tiến đến dập tắt dịch bệnh. 4. Công tác tiêu độc khử trùng: Số hóa chất được cấp trong năm 2009 là : 900 lít. Số hoá chất trên đã được triển khai trong 03 đợt sát trùng tiêu độc trên toàn huyện và ở thôn buôn có dịch. Bên cạnh đó còn cung cấp cho các chốt chặn để phun tiêu độc các xe qua lại. Công tác vệ sinh sát trùng tiêu độc năm nay tương đối thuận lợi kinh phí cho một thôn buôn (gồm xăng nhớt, công phun, công Thú y được ngân sách chi trả cho từng thôn buôn là 180.000 đ) và một số đơn vị vẫn được nhận được sự quan tâm của UBND xã hỗ trợ ít nhiều nữa, song bên cạnh đó có những đơn vị vì nhiều lý do mà triển khai chậm hơn nhiều so với kế hoạch triển khai. Tiêm phòng vắc xin LMLM vụ 2/2009 kết thúc muộn hơn 1 tháng do nguồn vắc xin từ nhà sản xuất cung cấp trễ. + Kiểm tra, kiểm soát giết mổ gia súc (KSGMGS) Công tác kiểm soát giết mổ gia súc là một công tác chuyên môn đòi hỏi mỗi cán bộ Thú y làm công tác KSGMGS phải thật kiên trì, chịu khó và nắm vững chuyên môn như nắm rõ về bệnh tích của từng bệnh trên gia súc, biết được bệnh nguy hiểm cần tiêu hủy … để từ đó phân biệt và xử lý đúng từng trường hợp cần xử lý. Bên cạnh đó, Trạm Thú y cũng thường xuyên đi kiểm tra đến tận các chợ, các lò giết mổ, điểm giết mổ gia súc để nhắc nhở các chủ kinh doanh giết mổ gia súc thực hiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Song một số lò, điểm giết mổ gia súc còn có chủ kinh doanh giết mổ gia súc chống đối cán bộ Thú y làm công tác kiểm tra kiểm soát giết mổ gia súc như không nộp đúng, đủ tiền lệ phí, coi thường cán bộ làm công tác KSGMGS, giết mổ gia súc không tuân thủ theo qui định giờ giấc trong nội quy lò giết mổ gia súc tập trung gây khó khăn không nhỏ cho cán bộ làm công tác KSGMGS. Trong năm toàn huyện có 05 lò giết mổ gia súc tập trung, 07 điểm giết mổ gia súc tại nhà và đã kiểm tra, kiểm soát được số lượng sau: TT Loại động vật Kiểm soát được Trường hợp xử lý Nguyên nhân Biện pháp xử lý 1 Heo 5137 02 Heo bệnh luộc chín 2 Bò 195 + Kiểm dịch động vật (KDĐV) và sản phẩm động vật Công tác KDĐV luôn là vấn đề mà trạm quan tâm vì trên thực tế gia súc tiêu thụ trong tỉnh thì các chủ gom hàng không qua kiểm dịch mà tự mua, tự bán và đây cũng là nguồn lây lan dịch bệnh vào địa phương, hơn thế khi các chủ kinh doanh mua bán gia súc trên địa bàn huyện ở từng đơn vị xã, thị trấn chưa được quản lý chặt chẽ nên tình trạng mua bán vận chuyển gia súc mua vào bán ra trên địa bàn huyện còn nhiều bất cập. Song năm qua trạm cũng đã làm KDĐV xuất tỉnh được số gia súc, gia cầm như sau: TT Loại ĐV, SPĐV Đ.v tính Xuất Nhập Vi phạm Lý do và BP xử lý 1 Heo Con 1685 2 Bò dự án Con 82 3 Vịt Con 2500 + Công tác khác - Quản lý thuốc Thú y: Toàn huyện có 6 điểm dịch vụ thuốc thú y (vừa bán thuốc, thức ăn gia súc, làm dịch vụ chữa trị bệnh, phối tinh nhân tạo cho heo). Trạm đã kiểm tra địa điểm kinh doanh và giấy phép hành nghề, giấy phép kinh doanh thì hiện nay có 03 điểm đủ điều kiện, còn lại 03 điểm chưa có giấy phép hành nghề của Chi cục Thú y cấp, Trạm đã nhắc nhở và đề nghị Chi cục Thú y năm 2009 mở lớp học tập huấn để 3 chủ điểm kinh doanh đi học, nếu không 03 chủ điểm này sẽ bị đóng cửa và không được hành nghề buôn bán, dịch vụ Thú y nữa. - Trạm cùng với Ban Thú y các xã đã mở được 6 lớp tập huấn cho nông dân ở các xã Yang Mao, Cư Đrăm, Hòa Phong, Cư Kty, Hòa Sơn, Ea Trul. Đồng thời, Trạm cùng phối hợp với Trạm Khuyến nông mở thêm 03 lớp tập huấn cho nông dân ở các xã Cư Đrăm, Hòa Tân, Hòa Phong về các biện pháp phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm, mỗi lớp có khoảng 40 – 50 người tham dự. - Trạm cùng ban Thú y các xã, thị trấn thường xuyên kiểm tra tình hình dịch bệnh trên địa bàn huyện để phát hiện, xử lý dịch bệnh và báo cáo cho UBND huyện, Chi cục Thú y để chỉ đạo kịp thời chống dịch bệnh. (Nguồn: Trạm thú y huyện) 2.4. Cơ sở lý luận của đề tài 2.4.1. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của giun đũa lợn Giun đũa lợn ký sinh ở ruột non lợn, màu trắng sữa, hình ống, hai đầu hơi nhọn. Đầu giun có ba môi bao bọc quanh miệng, một môi ở phía lưng và hai môi ở phía bụng. Trên rìa môi có một hàng răng cưa, cấu tạo hai môi này khác nhau giữa hai loài giun đũa, hàng răng cưa ở môi giun đũa người không rõ ràng bằng răng cưa của giun đũa lợn. Giun đực dài 12- 25 cm, đường kính 3 mm. Giun cái dài 30- 35 cm, đường kính 5- 6 mm. Phân biệt giun đực và giun cái: giun đực nhỏ, đuôi cong về mặt bụng, đuôi giun cái thì thẳng. Giun đực có hai gai giao hợp dài bằng nhau, khoảng 1,2- 2 mm, không có túi giao hợp. Trứng hình bầu dục hơi ngắn, kích thước 0,056- 0,087 x 0,046- 0,067 mm, vỏ rất dày có bốn lớp vỏ, lớp ngoài cùng là màng protit, nhấp nhô làn sóng, do tác dụng dịch mật nên màng có màu vàng cánh dán. 2.4.2. Chu kỳ phát triển của giun đũa lợn Không cần ký chủ trung gian, lợn trực tiếp nuốt phải trứng giun đũa gây bệnh, rồi phát triển thành giun trưởng thành. Giun cái đẻ trung bình một con là 27.000.000 trứng, mỗi ngày đẻ 200.000 trứng (Cram, 1925). Trứng theo phân lợn ra ngoài gặp độ ẩm thích hợp và nhiệt độ khoảng 24oC, sau hai tuần thành phôi thai, qua một tuần nữa phôi thai lột xác thành trứng có sức gây bệnh. Trứng này lợn nuốt phải, vào ruột non thành giun trưởng thành. Theo một số tác giả, nếu tiêm những trứng này vào xoang bụng hoặc tiêm dưới da bụng đều nở thành ấu trùng, ngoài ra có thể nuôi cấy ở môi trường glucose và đạm vẫn có thể nở ra ấu trùng. Như vậy, dịch dạ dày không phải là một yếu tố cho trứng nở thành ấu trùng. Ấu trùng nở ở ruột, chui vào mạch máu niêm mạc, theo máu về gan. Một số ít chui vào ống lâm ba màng treo ruột rồi vào gan. Sau khi nhiễm 4- 5 ngày thì hầu hết ấu trùng di hành tới phổi, sớm nhất là 18 giờ, muộn nhất sau 12 ngày vẫn có ấu trùng vào phổi. Khi tới phổi, ấu trùng lột xác thành ấu trùng III. Ấu trùng này từ mạch máu phổi chui vào phế bào, qua khí quản, và cùng với niêm dịch ấu trùng lên hầu, rồi xuống ruột non. Khi trở lại ruột non, lột xác lần nữa thành giun trưởng thành. Trong khi di hành, một số ấu trùng vào một vài khí quan khác như: lách, tuyến giáp trạng, não…v.v. Hoàn thành vòng đời cần 54- 62 ngày. Giun đũa sống nhờ vào chất dinh dưỡng của ký chủ, đồng thời tiết dịch tiêu hóa phân giải tổ chức ở niêm mạc ruột, lấy tổ chức đó nuôi sống bản thân. Tuổi thọ của giun đũa không quá 7- 10 tháng, hết tuổi thọ giun đũa theo phân ra ngoài. Nhưng gặp điều kiện không thuận lợi (con vật bị bệnh truyền nhiễm, sốt cao…) thì tuổi thọ của giun đũa ngắn lại. Số lượng giun có thể vài con tới trên một nghìn con trên cơ thể một con lợn. 2.4.3. Đặc điểm dịch tễ học của bệnh giun đũa lợn Giun đũa phân bố rộng khắp thế giới, nguyên nhân chính là vòng đời của giun đũa lợn rất đơn giản, truyền trực tiếp và sức đề kháng của trứng rất cao. Đặc điểm của trứng giun đũa lợn có 4 lớp vỏ: lớp trong cùng bảo vệ phôi thai, giữ cho các chất hữu cơ không ảnh hưởng tới trứng, hai lớp giữa giữ cho chất lỏng của trứng không bị bốc hơi, lớp ngoài cùng là lớp protit có màu vàng cánh dán giữ cho tia tử ngoại không xâm nhập được vào bên trong. Trứng sống rất lâu 6- 12 tháng trong đống phân, trong điều kiện tự nhiên sống 1- 2 năm. Nhiệt độ thích hợp cho trứng phát triển khoảng 25oC. Khi nhiệt độ xuống thấp (12oC) trứng phát triển chậm. Trứng ở sâu 3 cm, nhiệt độ 26- 33oC, hàm lượng nước 9,5-19% thì 89% trứng phát triển. Trứng ngừng phát triển khi nhiệt độ ở rất thấp: - 4,8oC đến – 13,4oC, hàm lượng nước 6,3-17%. Trứng có thể bị chết khi gặp một trong ba trường hợp sau: - Độ ẩm quá thấp - Độ ẩm quá thấp, nhiệt độ cao. - Độ ẩm và nhiệt độ cao. Khi nhiệt độ 45-50oC trứng chết trong nửa giờ, nước nóng 60oC diệt trứng trong 5 phút, nước 70oC chỉ cần 1-10 giây. Chính vì vậy việc ủ phân sẽ làm tăng nhiệt độ trong đống phân sẽ diệt hết trứng giun đũa. Masnicova lần đầu tiên dùng nhiệt khí (170oC) diệt trứng trong phân lợn và chuồng lợn. Khi phun nhiệt khí vào phân khô hoặc ướt, chỉ 10-30 giây trứng đã chết. Ngoài ra trứng có sức đề kháng mạnh với một số chất hóa học như: focmon 2% trứng vẫn còn sống và tiếp tục phát triển, ereolin 3%, dung dịch bão hòa sunfat đồng, axit sunfuric 10%, xút 2%, hypochlorit canxi 10% không diệt được trứng. Vào mùa hè nắng chiếu trực tiếp lên đất cát thì trứng bị chết nhanh. Oxi cần cho trứng phát triển ở môi trường yếm khí, trứng không phát triển được, nhưng vẫn duy trì sự sống, vì thế trứng vẫn sống được một thời gian ở nước bẩn, hoặc môi trường thiếu oxi. + Đường truyền bệnh: Trứng giun đũa vào cơ thể chủ yếu qua miệng. Lợn thích liếm, gặm dụng cụ, máng ăn, bãi chăn…nên trứng dễ theo vào đường tiêu hóa. Khi bón phân lợn tươi cho ruộng trồng thức ăn, trứng giun sống được vài tháng ở thức ăn xanh. Ruồi, chuột, cũng có thể phân tán trứng giun, gió cuốn được trứng giun theo bụi từ chuồng này sang chuồng khác. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu khi bú sữa mẹ, nuốt phải trứng ở đầu vú. Ngoài ra có tài liệu cho biết ấu trùng gây bệnh ở trứng giun đũa người khi có nhiệt độ 34oC, thì nở ra ấu trùng và có thể chui qua da người mà vào cơ thể. + Mối liên quan giữa giun đũa người và giun đũa lợn: về mặt sinh học, nhất là gây nhiễm chéo, trong nhiều năm gần đây đã tranh luận là hai loại đó khác hay là cùng một loài. Nói chung gây nhiễm nhân tạo thấy giun đũa người có thể xâm nhiễm vào lợn và giun đũa lợn có thể xâm nhiễm vào người. Hiraishi (1928), Boer (1935), đã gây nhiễm giun đũa người cho lợn khi lợn ăn thức ăn thiếu vitamin A. Soulsby (1961) cũng gây nhiễm được cho lợn mới đẻ không được bú sữa đầu đối với giun đũa người. Takate (1951) lấy trứng giun đũa lợn gây nhiễm cho 19 người lớn, có 7 người bị nhiễm. Theo Mozgovoi (1953) nghiên cứu thấy ký chủ nhiễm giun đũa người thì ngoài người ra còn có tới 10 loại động vật khác như lợn, chó…cũng bị nhiễm. Vì vậy tác giả thừa nhận giun đũa lợn và giun đũa người không cùng một loài. Xét về mặt dịch tễ, ở một khu vực lợn nhiễm giun đũa lợn với tỉ lệ rất cao nhưng người không nhiễm cao, hoặc người nhiễm với tỉ lệ rất cao nhưng lợn không nhiễm cao chứng tỏ chúng khác loài và không có liên quan trực tiếp. 2.4.4. Tỉ lệ và cường độ nhiễm của bệnh giun đũa lợn Ở miền Bắc tỉ lệ nhiễm dao động 13-14% (Phạm Văn Khuê, Trịnh Văn Thịnh, 1982). Năm 1978, Phạm Văn Khuê, Phan Văn Lục điều tra 1055 lợn nuôi tại 6 tỉnh Nam Bộ cho biết tỉ lệ nhiễm giun đũa là 31,04%, trong đó heo ba tỉnh miền Đông nhiễm 40% cao hơn ở ba tỉnh đồng bằng sông Cửu Long là 23%. Năm 1995, Lương Văn Huấn mổ khám 891 lợn thuộc 4 lứa tuổi và khảo sát 5044 lợn lớn thuộc 12 tỉnh thành ở phía Nam cho thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa là 53%. Bình Trị Thiên là 34%, Quảng Nam-Đà Nẵng là 61%, Bình Định 45%, Phú Yên, Khánh Hòa 75%, Đồng Nai 64%, Sông Bé 51%, Tây Ninh 45%, Thành phố Hồ Chí Minh 41%, Tiền Giang 73%, Kiên Giang 70%. Phạm Văn Chức, Châu Bá Lộc và cộng sự (1986) cho biết heo Hậu Giang nhiễm 28-50%. Bùi Lập, Nguyễn Đăng Khải, Vũ Sỹ Nhàn (1979) cho biết heo miền Trung nhiễm 36-58%. Trịnh Văn Thịnh, Phạm Văn Khuê, 1982 cho biết: Lợn dưới 3 tháng tuổi nhiễm 39,2% Lợn 3-4 tháng tuổi nhiễm 48,0% Lợn 5-7 tháng tuổi nhiễm 58,3% Lợn trên 7 tháng tuổi nhiễm 24,9% Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương, 1995 cho biết: Lợn dưới 3 tháng tuổi nhiễm 49,8% Lợn 3-4 tháng tuổi nhiễm 67,1% Lợn 5-7 tháng tuổi nhiễm 62,6% Lợn trên 7 tháng tuổi nhiễm 40,6% 2.4.5. Cơ chế phát sinh bệnh của bệnh giun đũa lợn Thời kỳ ấu trùng hay giun trưởng thành giun đũa lợn đều gây bệnh. Khi ấu trùng ở ruột chui vào thành ruột gây tổn thương sẽ mở đường cho các vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Khi ấu trùng di chuyển qua phổi làm cho bệnh suyễn nặng hơn và tỉ lệ phát sinh bệnh có thể tăng gấp 10 lần. Theo Underdahl (1957), Phổi nặng gấp 10 lần so với lợn chỉ bị suyễn lợn. Khi ấu trùng theo máu về gan, dừng lại ở mạch máu gây ra lấm tấm xuất huyết, đồng thời gây hủy hoại tế bào gan, ấu trùng từ mạch máu phổi di chuyển tới phế bào nên mạch máu bị vỡ, ở phổi có nhiều điểm xuất huyết. Khi ấu trùng di hành qua phổi gây ra viêm, triệu chứng viêm còn phụ thuộc vào mức độ nhiễm, có thể kéo dài 5-14 ngày, cho khi làm cho con vật bị chết. Thức ăn thiếu Vitamin A làm cho lợn con dễ bị viêm phổi do giun đũa gây ra. Ấu trùng di hành độ 2-3 tuần, khi thành giun trưởng thành thì tác dụng gây viêm giảm dần. Khi giun trưởng thành ở ruột non làm niêm mạc bị loét và đau bụng, khi nhiều gây tắc ruột, thủng ruột. Có khi vào ống mật gây hoàng đản. Giun đũa còn tiết độc tố gây nhiễm độc thần kinh trung ương và mạch máu, triệu chứng thần kinh như tê liệt hoặc hưng phấn. Ngoài ra trong quá trình trao đổi chất giun còn thải chất cặn bã gây độc làm lợn chậm lớn, còi cọc. 2.4.6. Tác hại của bệnh giun đũa lợn Khi ấu trùng di hành qua phổi gây viêm phổi, xuất huyết. Ấu trùng L2 và L3 gây những điểm hoại tử xuất huyết ở gan kích thước khoảng 1 cm và có nhiều sợi Fibrin. Ấu trùng cũng gây tổn thương và làm rách các mao mạch, phế nang làm cho bệnh suyễn nặng hơn. Đồng thời ấu trùng còn mang vi khuẩn E.coli vào trong máu. Giun trưởng thành ký sinh ở ruột làm viêm cơ ruột, gây loét ruột. Lấy các chất dinh dưỡng của quá trình trao đổi chất gây còi cọc, chậm lớn, gây tắc ruột, thủng ruột. Giun sử dụng nhiều Ca2+ làm cho lợn co giật, mềm xương, còi xương. Khi di hành qua ống mật gây vỡ ống mật. 2.4.7. Triệu chứng, bệnh tích của bệnh giun đũa lợn 2.4.7.1. Triệu chứng Triệu chứng ở lợn lớn không rõ, phần nhiều là mang giun đũa, trở thành nguồn gieo rắc mầm bệnh. Bệnh nặng ở lợn con từ 3 đến 6 tháng, lợn chậm lớn, gầy còm, ấu trùng ở phổi gây viêm phổi, thân nhiệt tăng cao, ăn uống giảm sút, hô hấp nhanh, thường xuyên có các triệu chứng viêm phổi, khi giun trưởng thành thì triệu chứng không rõ: chậm lớn, gầy, sút cân, rối loạn tiêu hóa; khi có nhiều giun làm tắc ruột, thủng ruột, đau bụng, viêm xoang bụng, một số con bị quá mẫn thì có triệu chứng thần kinh, nổi mẫn, ho…v.v. 2.4.7.2. Bệnh tích Lúc đầu phổi bị viêm, trên mặt phổi có đám huyết màu hồng thẫm. Khi mổ phổi thấy nhiều ấu trùng. Khi nhiều giun trưởng thành ở ruột non làm ruột non viêm cata. Khi ruột bị vỡ thì gây viêm phúc mạc và xuất huyết. 2.4.8. Chẩn đoán bệnh giun đũa lợn + Lợn dưới hai tháng tuổi: Lợn con theo mẹ nếu có giun, thì giun chưa đẻ trứng (54-62 ngày mới đẻ trứng). Bởi vậy nếu muốn chẩn đoán bệnh, có thể mổ khám rồi tìm ấu trùng ở phổi và gan. + Lợn trên hai tháng tuổi: Kiểm tra phân bằng phương pháp phù nổi để tìm trứng. Ngoài ra có thể mổ khám để tìm trứng ở ruột non. + Chẩn đoán bằng phản ứng biến thái nội bì: Có nhiều cách chế kháng nguyên tiêm nôi bì, nhưng thường dùng cách chế của Ecsop: Rửa sạch giun đũa còn sống, nghiền nát hòa với hai phần nước cất, cứ 1ml dung dịch trên cho thêm 8g men tuyến tụy và 10ml clorofoc, điều chỉnh pH = 7,6-7,8. Để tủ ấm 7-12 ngày, giun tan hết thì ly tâm, lấy nước ở trên cho vào lọ pha với cồn 90o, tỉ lệ 1:5 để cho kháng nguyên lắng xuống, lấy kháng nguyên ở đáy cho vào lọ con để tủ ấm. Sau khi khô bảo quản ở tủ lạnh trên 8 tháng vẫn không ảnh hưởng đến đặc tính kháng nguyên. Khi tiêm, pha loãng 1:200. Có thể tiêm nội bì vành ngoài tai hoặc nhỏ vào xoang kết mạc mắt. Phương pháp chẩn đoán này rất tốt, không có phản ứng chéo với lợn nhiễm giun tóc, giun kết hạt và giun đầu gai. Sau khi lợn nhiễm giun đũa từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 11 bắt đầu có phản ứng dương tính. Phản ứng này duy trì được khoảng 110-140 ngày. Thời gian phản ứng biến thái xuất hiện phù hợp với thời gian kháng thể tập trung trong máu sau khi nhiễm giun và không phụ thuộc vào giun trưởng thành ở ruột. 2.4.9. Biện pháp phòng, trị bệnh giun đũa lợn 2.4.9.1. Phòng bệnh - Dùng thuốc tẩy cho lợn giai đoạn sau tách mẹ và giai đoạn 3-4 tháng. Nếu cần thiết tẩy cho lợn 5-7 tháng tuổi. Lợn lớn nhiễm ít nhưng là nguồn gieo rắc mầm bệnh, cần thiết thì tẩy cho lợn lớn. - Diệt căn bệnh ngoài cơ thể lợn: Trứng giun đũa phán tán ra ngoài là nguyên nhân chính làm bệnh lan tràn, để diệt trứng ta cần thực hiện các biện pháp sau: + Phân lợn tập trung đem ủ nhiệt sinh vật để diệt trứng và chống ô nhiễm, hoặc ủ phân Biogas. + Máng ăn, máng uống phải sạch sẽ. + Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt. + Chú ý khi lợn nái trong thời kỳ tiết sữa có thể truyền cho con. + Phòng bằng vaccine: Thu thập trứng có chứa ấu trùng gây nhiễm, chiếu phóng xạ 700 R. Số lượng trứng là 500-2000/ liều vaccine cho ăn. Những lợn cho ăn vaccine tỉ lệ nhiễm giun đũa giảm 4,7 lần so với heo đối chứng. Thời gian miễn dịch khoảng 4 tháng. + Dùng Hygromycine 1,5 kg/ 1 tấn thức ăn phòng cho lợn. 2.4.9.2. Trị bệnh Khi lợn bị nhiễm giun đũa ta sử dụng một trong các loại thuốc sau để điều trị: - Tetramisole (Nilverm hoặc Ascaridin): liều dùng 20g thuốc tinh chất/ kg trọng lượng (P), trộn vào thức ăn hoặc cho uống một lần. - Levamisole (Vinacor, Decaris): ở dạng dung dịch 7,5% dạng chai 100 ml hoặc 240 ml hoặc 500 ml. Khi dùng sử dụng 6-8 mg/ kg P, chích bắp cho lợn nhỏ hơn 30 kg. Lợn lớn hơn chích liều 5-6 mg/ kg P. - Levomisole: nồng độ 6,5% dạng chai 100 ml. Lợn nhỏ hơn 30 kg chích bắp liều 1 ml/ 6 kg P. Lợn lớn chích liều 1 ml/ 9 kg P. - Tetravermex: dạng bột 10%, liều dùng 20 mg/ kg P cho ăn hoặc uống. - Themisole: dạng 15% đóng chai 200 ml. Chích bắp liều 1 ml/ 20 kg P, không quá 5 ml/ con. - Nilverm: Do Australia sản xuất nồng độ 7,5% đóng chai 500 ml. Chích liều 1 ml/ 7-8 kg P. - Nichlozamide-Tetramisole B: dạng viên 5 g, dùng 1 viên/ 75 kg P. - Piperazine: đối với lợn chỉ dùng dạng Hexahydrate piperazine và các dạng muối Adipinat, Phosphate, Sunfate cho ăn hoặc cho uống. Lợn nhỏ hơn 50 kg dùng liều 0,3 g/ kg P. Lợn lớn hơn 50 kg dùng liều 15 g/ con, dùng 2 lần/ ngày. - Mebendazole (Mebenvet): dùng liều 20 mg/ kg P cho ăn hoặc uống. Sau khi dùng lợn có thể bị tiêu chảy nhẹ. - Dichlovos (DDVP): 0,2 g/ kg P cho ăn hoặc uống. - Benacine: liều 150 mg/ kg P cho ăn hoặc uống. - Phenothiazine: 0,5 g/ kg P cho ăn hoặc uống. - Ivermectin: 0,1-0,3 mg/ kg P chích bắp hoặc chính dưới da. - Doramectin: liều 0,1-0,3 mg/ kg P chích bắp hoặc chính dưới da. - Ngoài ra còn có thể sử dụng: Safersan, Morantel, Benzimidazole, Febantel, Panacur, Parbendazole, Rintal, … - Hạt keo dậu: phơi khô, rang vàng, giã nhỏ. Dùng 60-100 g/con. Tùy độ tuổi trộn với cám cho lợn ăn. Dùng liên tục 3 ngày. - Vỏ xoan tươi 50 g và 20 g rễ cây sòi, sắc nước cho lợn uống 3 ngày liền. - Hạt cau già: 5-20 g/con, sắc thuốc trộn thức ăn ngon cho lợn ăn. 2.4.10. Một số thông tin về loại thuốc tẩy giun sán Vimectin và Levavet hiện có bán tại các đại lý thuốc thú y trên địa bàn huyện Krông Bông 2.4.10.1. Thông tin về thuốc Vimectin Thành phần: Ivermectin Đóng chai: 100 ml Công dụng: Phòng và trị các bệnh ký sinh trùng như: giun đũa, giun chỉ, giun xoăn, giun lươn, giun đầu gai, giun tim ở chó, mèo, heo, cừu, trâu, bò… Phòng và trị các bệnh ngoại ký sinh trùng như: cái ghẻ, ve, bọ chét, chấy rận gây ghẻ, xà mâu ở chó, mèo, dê, cừu, trâu, bò… Cách dùng: Trâu, bò, dê, cừu: 1ml/14-16 kg thể trọng. Heo: 1ml/8-10 kg thể trọng Chó, mèo, thỏ: 1ml/ 12-15 kg thể trọng Gia cầm: 1ml/ 15 kg thể trọng Khi phát hiện bệnh chỉ tiêm một liều duy nhất Để phòng bệnh 2-3 tháng sau tiêm lại một lần Lưu ý: Không dùng quá liều quy định Không dùng cho chó, mèo, thỏ dưới 2 tháng tuổi Thuốc còn thừa trong lọ nếu bảo quản tốt vẫn còn hiệu lực sau 3-4 tháng 2.4.10.2. Thông tin về thuốc Levavet Thành phần: Levamisole...100 mg Tá dược vừa đủ .....5 g Công dụng: Trị nội, ngoại ký sinh trùng, giun tròn, giun lươn, giun phổi.... Cách dùng: Trộn vào thức ăn hoặc pha vào nước uống 1 gói/ 12-15 Kg trọng lượng. Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát. (Theo Vemedim) PHẦN III NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Tình hình nhiễm giun đũa lợn tại các địa điểm 3.2. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo độ tuổi 3.3. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo tính biệt 3.4. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo phương thức chăn nuôi 3.5. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo giống lợn 3.6. Triệu chứng, bệnh tích của bệnh giun đũa lợn 3.7. Thí nghiệm sử dụng Vimectin và Bio-Levamisol 10% để điều trị 3.8. Phương pháp tiến hành 3.8.1. Địa điểm và thời gian khảo sát a) Địa điểm - Các điểm giết mổ tập trung trên địa bàn huyện - Một số hộ gia đình tại: + Thị trấn Krông Kmar (vùng trung tâm) + Xã Hòa Sơn (vùng cận trung tâm) + Xã EaTrul (vùng ven trung tâm) b) Thời gian - Từ tháng 01 năm 2010 đến tháng 05 năm 2010. 3.8.2. Dụng cụ - Kính hiển vi quang học - Dụng cụ thủy tinh: lọ, đũa thủy tinh, cốc, phiến kính, lam kính, đĩa petri, rây lọc. - Bao nylon, túi đựng phân, găng tay, cân… 3.8.3. Hóa chất - Dung dịch NaCl bão hòa - Dung dịch Formalin 10% - Thuốc tẩy giun sán Vimectin và Bio-Levamisol 10% 3.8.4. Địa điểm xét nghiệm phân và tiến hành điều trị - Phòng xét nghiệm bộ môn thú y chuyên ngành, Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Tây Nguyên. - Một số hộ nuôi lợn tại: Thị trấn Krông Kmar, xã Hòa Sơn, xã EaTrul. 3.8.5. Phương pháp nghiên cứu a) Phương pháp lấy mẫu + Lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng: Lấy mẫu phân tươi, vào buổi sáng Trước khi lấy mẫu phân, tắm lợn và xua đuổi nhẹ đàn lợn để cho chúng đi phân nhanh. Sau đó tiến hành lấy mẫu phân cho vào túi nylon. Lấy tại 3 điểm (điểm đầu, điểm giữa, điểm cuối) trên đống phân, mỗi mẫu lấy 10g phân, cột chặt và dùng viết lông không phai ghi các thông tin (địa điểm, độ tuổi, giống, tính biệt, phương thức chăn nuôi) của từng con lên túi nylon. p(1-p) + Số lượng mẫu nghiên cứu được ước tính theo công thức: n = (1,96)2 d 2 b) Phương pháp xét nghiệm phân + Tiến hành xét nghiệm phân lợn bằng phương pháp phù nổi với dung dịch muối NaCl bão hòa của Willis. - Nguyên lý của phương pháp: phương pháp này sử dụng muối NaCl bão hòa có tỷ trọng cao hơn trứng giun sán nhưng thấp hơn cặn phân, do đó trứng giun sẽ được đẩy lên trên bề mặt. - Cách tiến hành: cho 1-2g phân vào cốc thủy tinh, cho vào đó một ít nước muối NaCl bão hòa (450g/ml) khuấy đều, lọc qua lưới lọc có 81 lỗ/cm2 vào một lọ miệng hẹp. Cho nước muối bão hòa vào cho đầy miệng lọ, đậy phiến kính lên miệng lọ để yên 10-15 phút, lấy nhanh phiến kính ra, đảo ngược, phủ lá kính lên và kiểm tra trên kính hiển vi với độ phóng đại 10X và 40X. - Cách xem tiêu bản: Mỗi mẫu phân được quan sát trên 3 tiêu bản, nếu thấy có trứng giun đũa thì quy định là dương tính (+), còn những mẫu quan sát trên 3 tiêu bản nếu không thấy trứng giun đũa thì quy định là âm tính (-). + Tiến hành xét nghiệm phân trong 24 giờ (trong trường hợp chưa xét nghiệm kịp thì bảo quản bằng dung dịch Formalin 10%). c) Phương pháp mổ khám Mổ khám không toàn diện: Lợn sau khi giết chỉ cắt lấy phần ruột, vuốt chất chứa ra, gạn rửa, thu nhặt giun. 3.8.6. Phương pháp bố trí thí nghiệm kiểm tra hiệu lực tẩy trừ của thuốc - Để kiểm tra hiệu lực tẩy trừ của hai loại thuốc trên, tiến hành chọn một số lượng lợn thích hợp ở các lứa tuổi khác nhau đã tiến hành xét nghiệm phân và cho kết quả dương tính vào thí nghiệm thuốc. Chia thí nghiệm làm hai lô: một lô sử dụng thuốc Vimectin, lô còn lại sử dụng Levavet. - Trước khi cấp thuốc, cân trọng lượng từng con để xác định liều thuốc theo trọng lượng cơ thể. - Sau khi cấp thuốc 1 giờ, kiểm tra các triệu chứng, phản ứng phụ sau khi sử dụng thuốc. - 3 ngày sau khi cấp thuốc, tiến hành lấy phân xét nghiệm. Đối với các mẫu dương tính với giun đũa lợn sau khi kiểm tra, tiếp tục kiểm tra ở ngày thứ 5 và ngày thứ 7. Tên thuốc Liều lượng (ml/kg P) Số lợn thí nghiệm (con) Tỉ lệ tẩy sạch (%) sau 3 ngày 5 ngày 7 ngày Vimectin Bio-Levamisol 10% 3.8.7. Phương pháp xử lý số liệu + Xử lý theo phương pháp thống kê sinh học. - Tỉ lệ nhiễm = (số con nhiễm/số con nghiên cứu) * 100% - Cường độ nhiễm theo từng địa điểm, từng độ tuổi, theo tính biệt, theo phương thức chăn nuôi: Xác định số lượng giun đũa trong đường ruột cao nhất và thấp nhất theo từng địa điểm, từng độ tuổi, theo tính biệt, theo phương thức chăn nuôi. - Hiệu lực tẩy trừ của thuốc (%) = (số con tẩy sạch/số con thí nghiệm)*100% + Xử lý số liệu bằng phần mềm Excel. PHẦN IV KẾT QUẢ -THẢO LUẬN 4.1. Tình hình nhiễm giun đũa lợn trên lợn chăn nuôi gia đình tại Krông Bông 4.1.1. Tình hình nhiễm giun đũa lợn tại các địa điểm Bệnh giun đũa lợn là bệnh giun sán truyền qua đất ( quá trình phát triển vòng đời không cần qua vật chủ trung gian). Chính vì vậy, bệnh giun đũa lợn chịu sự tác động rất lớn của điều kiện khí hậu, tính chất thổ nhưỡng, độ cao so với mật nước biển, sự hoạt động của con người, sự tác động qua lại của khu hệ động vật và khu hệ thực vật; tóm lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Mỗi vùng sinh thái khác nhau điều kiện tự nhiên cũng khác nhau, hoạt động của con người trong lao động cũng không giống nhau. Thế nên, việc xem xét mỗi vùng sinh thái khác nhau tác động đến tình hình nhiễm giun đũa lợn như thế nào là điều hết sức cần thiết. Vì vậy, chúng tôi tiến hành chọn ba địa điểm đại diện cho ba vùng sinh thái khác nhau tại huyện Krông Bông là: Thị trấn Krông Kmar (vùng trung tâm và cũng là vùng cao nhất), xã Hòa Sơn (vùng cận trung tâm), và xã Êa Trul (vùng ven trung tâm). Tại ba địa điểm này chúng tôi đã tiến hành xét nghiệm phân 384 mẫu phân lợn (trong đó có 135 mẫu phân được lấy ngẫu nhiên tại 8 khối và buôn Ya của thị trấn, 147 mẫu phân lợn lấy ngẫu nhiên tại 15 thôn xã Hòa Sơn và 102 mẫu phân lợn lấy ngẫu nhiên tại 9 thôn, buôn đồng bào dân tộc tại xã Êa Trul) bằng phương pháp phù nỗi với NaCl bão hòa và ghi nhận kết quả về tỉ lệ nhiễm ở bảng sau: Địa điểm nghiên cứu Số con nghiên cứu (n) Số con nhiễm (+) Tỉ lệ nhiễm (%) Cường độ nhiễm (max-min) Thị trấn Krông Kmar 135 39 28,89 4,78 ± 0,43 Xã Hòa Sơn 147 57 38,78 5,26 ± 0,39 Xã EaTrul 102 48 47,06 6,50 ± 0,73 Tổng 384 144 37,50 5,33 ± 0,27 Như vậy, qua bảng số liệu chúng tôi thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn tại ba địa điểm mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu là 37,50 %. Cao hơn so với tình hình nhiễm giun sán ở một số vùng như: Thanh Hóa 13,2 %, Quảng Ninh 26,5 %, Nam Hà 33,3 % nhưng thấp hơn một số vùng khác như: Hải Hưng 40,5 %, Hà Bắc 42,1 %, Nghĩa Lộ 43,5 %, Hà Tĩnh 43,6 %. Ngoài ra, theo công bố của một số tác giả miền Bắc tỉ lệ nhiễm giao động từ 13 – 14 % (Phạm Văn Khuê và Trịnh Văn Thịnh, 1982). Năm 1978, Phạm Văn Khuê và Phan Lục điều tra 1055 lợn tại 6 tỉnh Nam Bộ cho thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn là 31,04 %. Trong đó tại 3 tỉnh miền Đông nhiễm 40 %, 3 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhiễm 23 %. Năm 1995, Lương Văn Huấn mổ khám 891 lợn thuộc 4 lứa tuổi (< 3 tháng tuổi, 3 – 4 tháng tuổi, 5 – 7 tháng tuổi và trên 7 tháng tuổi) và khảo sát 5044 lợn tại 12 tỉnh phía Nam cho thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa là 53 %, Bình Trị Thiên là 34 %, Quảng Nam-Đà Nẵng là 61 %, Binh Định 45 %, Thành phố Hồ Chí Minh 41 %, Long An 47 %, Tiền Giang 73 %, Kiên Giang 70 %. Phạm Chức, Châu Bá Lộc và cộng sự (1986) cho biết lợn Kiên Giang nhiễm từ 28 – 50 %. Bùi Lộc, Nguyễn Đăng Khảo, Vũ Sỹ Nhàn (1979) cho biết lợn miền Trung nhiễm 36 – 58 %. Như vậy ta thấy rằng trong thời gian trở lại đây tình hình nhiễm giun đũa có khuynh hướng giảm dần. Có thể nói đó là nổ lực khá nhiều của các nhà nghiên cứu, của người chăn nuôi, của cơ quan thú y trong việc phòng và trị bệnh cho gia súc, gia cầm nói chung và phòng và trị bệnh giun đũa lợn nói riêng. Tuy nhiên, tỉ lệ nhiễm như vậy vẫn còn khá cao. Như đã nói ở trên đó là do sự tác động của điều kiện tự nhiên, do điều kiện khí hậu có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, tính chất thổ nhưỡng tương đối thuận lợi cho sự khu trú và phát triển của ký sinh trùng mà đặc biệt là giun đũa lợn. Vì vậy, việc nghiên cứu để có biện pháp phòng trị bệnh giun đũa lợn một cách hiệu quả nhằm hạn chế tác hại do bệnh giun đũa gây ra là điều vẫn còn rất cần thiết, cần được thực hiện. Tỉ lệ nhiễm chung là 37,50 %, tuy nhiên tại mỗi địa điểm có sự khác biệt rõ rệt. Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tại Thị trấn Krông Kmar tỉ lệ nhiễm là 28,89 %, tại xã Hòa Sơn 38,78 %, và tại Êa Trul là 47,06 %. Đồng thời, qua xử lý số liệu cho thấy P = 0,015 < 0,05 chứng tỏ sự sai khác này có ý nghĩa về mặt thống kê. Sỡ dĩ, tại thị trấn Krông Kmar tỉ lệ nhiễm thấp hơn so với các vùng khác là vì: Thứ nhất, Trạm thú y huyện nằm ở Thị trấn Krông Kmar nên công tác phòng chống bệnh tại đây được chú trọng và đôn đốc thường xuyên. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ thú y cơ sở ở đây cũng thường xuyên tiếp xúc với Trạm nhiều hơn nên học tập cũng như được phổ biến kiến thức nhiều hơn, là đội ngũ cán bộ thú y cơ sở đi đầu trong toàn huyện trong công tác phòng và điều trị bệnh gia súc, gia cầm. Họ cũng thường xuyên khuyến cáo đến người chăn nuôi về tác hại của bệnh giun đũa lợn để người chăn nuôi chủ động phòng và điều trị bệnh. Công việc tẩy giun sán là một phần trong công việc thường ngày của họ. Trong khi đó tại xã Hòa Sơn và xã Ea Trul là hai địa điểm tương đối xa Trạm, cán bộ thú y ít tiếp xúc nhiều với Trạm, nên đôi khi còn lơ là trong việc phòng và điều trị bệnh mà nhất là đối với bệnh ký sinh trùng, trong đó có bệnh giun đũa lợn. Thứ hai, đa phần người dân sống tại thị trấn là người dân tộc kinh có trình độ văn hóa và nhận thức cao hơn. Hơn nữa họ gần gũi và tiếp xúc nhiều với các phương tiện truyền thông thông tin, với trạm khuyến nông huyện thông qua các chương trình như: bạn của nhà nông, hội thảo tập huấn về chăn nuôi thú y, qua tạp chí chăn nuôi, tạp chí thú y, tủ sách dành cho nhà nông…. Vì vậy họ hiểu rằng để chăn nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao thì phải có kiến thức về chăn nuôi và phòng trị bệnh. Thế nên, họ chú trọng trong việc chọn giống lợn có năng suất và phẩm chất tốt, nhất là khả năng chống chịu và kháng bệnh để nuôi kinh tế. Thức ăn đa phần là thức ăn công nghiệp, tăng tính thèm ăn, đảm bảo dinh dưỡng và tăng khả năng phòng bệnh. Chuồng trại được xây dựng kiên cố, thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông. Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, chuồng trại khô ráo. Xu hướng đã và đang chuyển dần từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung với quy mô công nghiệp. 4.1.2. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo độ tuổi Mỗi độ tuổi khác nhau hay mỗi giai đoạn sinh trưởng và phát triển khác nhau khả năng tiếp xúc, cảm nhiễm với yếu tố gây bệnh của lợn là khác nhau. Theo một số công trình nghiên cứu về giun đũa lợn trước đây, ta thấy rằng ở các độ tuổi khác nhau tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun đũa lợn có sự khác biệt nhất định. Ở các độ tuổi tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm là không giống nhau: Trịnh Văn Thịnh, Phạm Văn Khuê, 1982 cho biết: Lợn dưới 3 tháng tuổi nhiễm 39,2% Lợn 3-4 tháng tuổi nhiễm 48,0% Lợn 5-7 tháng tuổi nhiễm 58,3% Lợn trên 7 tháng tuổi nhiễm 24,9% Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương, 1995 cho biết: Lợn dưới 3 tháng tuổi nhiễm 49,8% Lợn 3-4 tháng tuổi nhiễm 67,1% Lợn 5-7 tháng tuổi nhiễm 62,6% Lợn trên 7 tháng tuổi nhiễm 40,6% Thế nên, khi tiến hành nghiên cứu tình hình nhiễm giun đũa lợn không thể bỏ qua việc khảo sát tình hình nhiễm giun đũa lợn theo độ tuổi. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 384 mẫu phân lợn theo bốn độ tuổi khác nhau là: 3 – 5 tháng tuổi, > 5 – 7 tháng tuổi và trên 7 tháng tuổi và ghi nhận kết quả ở bảng và biểu đồ như sau: Tuổi (tháng tuổi) Số con nghiên cứu (n) Số con nhiễm (+) Tỉ lệ nhiễm (%) Cường độ nhiễm (max-min) <3 121 37 30,58 3,32 ± 0,32 3-5 140 65 46,43 6,59 ± 0,43 >5-7 40 16 40,00 5,57 ± 0,55 >7 83 26 31,33 3,73 ± 0,45 Tổng 384 144 37,50 5,33 ± 0,27 Nhìn vào bảng và biểu đồ ta thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn có xu hướng tăng theo lứa tuổi, tỉ lệ nhiễm tăng dần từ 5 - 7 tháng tuổi và có xu hướng giảm dần ở độ tuổi > 7 tháng tuổi giống như kết quả nghiên cứu của các tác giả trên đây. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều: Lợn dưới 3 tháng tuổi: 30,58 % Lợn từ 3 đến 5 tháng tuổi: 46,43 % Lợn từ 5 đến 7 tháng tuổi: 40,00 % Lợn trên 7 tháng tuổi: 31,33 % Như vậy, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi cả nước nói chung và ngành chăn nuôi huyện Krông Bông nói riêng có thể nói tỉ lệ nhiễm bệnh giun đũa lợn trong thời gian trở lại đây có xu hướng giảm so với trước đây khá nhiều. Ý thức của con người ngày càng cao: sản phẩm chăn nuôi phải trở thành hàng hóa, mà muốn trở thành hàng hóa thì phải có chất lượng, muốn vậy thì ngoài chăm sóc nuôi dưỡng phải chú ý đến khâu phòng trừ dịch bệnh. Ý thức đó đã tác động làm giảm tỉ lệ nhiễm. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì ở độ tuổi từ 3 đến 5 tháng tuổi tỉ lệ nhiễm là cao nhất (46,43 %), kế đến là lợn ở độ tuổi từ 5 đến 7 tháng tuổi (40,00 %), thấp hơn hai độ tuổi trên là lợn trên 7 tháng tuổi (31,33 %) và thấp hơn cả là lợn dưới 3 tháng tuổi (30,58 %). Để lý giải vì sao lợn từ 3 đến 5 tháng tuổi tỉ lệ nhiễm cao, qua thực tế chúng tôi thấy rằng ở đây hình thức nuôi chủ yếu là hộ gia đình nhỏ lẻ, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và vệ sinh thú y chưa được đảm bảo đã tác động lớn đến lợn ở độ tuổi này. Hơn nữa, ở độ tuổi này là giai đoạn lợn nuôi để xuất thịt, hình thức nuôi là tập trung theo từng bầy khoảng 8 – 10 con, có nơi nuôi từ 12 – 15 con. Việc nuôi với một số lượng nhiều con trong cùng một ô chuồng như vậy thì hàng ngày sản phẩm thải ra là rất lớn nếu như không được quét dọn thường xuyên nó rất dễ dàng dính vào thức ăn của lợn hoặc lợn nằm lên, vô tình vào miệng. Nuôi nhốt đông chúng cũng tranh giành nhau thức ăn dẫn đến cắn xé nhau gây trầy xướt sẽ tạo điều kiện cho sự xâm nhập của giun đũa lợn qua da. Khi nuôi nhốt đông chế độ dinh dưỡng chắc chắn sẽ không đảm bảo con nào cũng giống con nào nên trong đàn sẽ có con thiếu chất, chậm lớn,… đây là những con hay gậm nhấm, liếm láp nền chuồng, tường chuồng, máng ăn,… nên rất dễ bị nhiễm bệnh. Vì vậy khi trong đàn có con nhiễm thì khả năng cảm nhiễm sang các con trong đàn là điều không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, lợn trong giai đoạn này hay ăn và rất phàm ăn nên để cung cấp thêm thức ăn cho lợn bên cạnh nguồn thức ăn công nghiệp giàu chất dinh dưỡng người ta thường tận dụng nguồn thức ăn thừa trong sinh hoạt gia đình, phụ phẩm công – nông nghiệp như: rau lang, rau muống, rau xanh các loại…là chủ yếu và đây là những nguồn thức ăn có khả năng vấy nhiễm trứng giun đũa lợn khá cao. Một lý do nữa cũng nên kể đến là ở độ tuổi này lợn được nuôi thịt nên nuôi thường nhiều ô chuồng, nếu có dụng cụ dùng chung thì cũng có thể có sự cảm nhiễm từ ô chuồng này sang ô chuồng khác thông qua các dụng cụ chứa đựng, cho ăn, cho uống… Lợn trên 7 tháng tuổi chủ yếu là lợn nái sinh sản và lợn đực giống. Chúng đều là những loại lợn phục vụ cho mục đích sản xuất con giống (lợn nái sinh sản) và khai thác tinh (lợn đực giống) nên rất được chú trọng chăm sóc và nuôi dưỡng. Chúng thường được nuôi nhốt riêng, có chế độ ăn uống hợp lý đảm bảo đầy đủ về lượng và chất, được tắm rửa và vận động thường xuyên nên cơ thể tương đối khỏe mạnh. Khả năng đề kháng với bệnh tật vì thế được tăng cường. Bên cạnh đó, nếu như lợn bị nhiễm giun từ trước thì ở độ tuổi này giun cũng bị đào thải ra ngoài vì giun không thể sống trong cơ thể quá 7 – 10 tháng. Chính vì lẽ đó mà lợn trên 7 tháng tuổi tỉ lệ nhiễm thấp hơn so với các lứa tuổi khác (31,33 %). Đối với lợn dưới 3 tháng tuổi tỉ lệ nhiễm có thấp hơn so với lợn trên 7 tháng tuổi một chút (30,58 %). Ở độ tuổi này chủ yếu là lợn con theo mẹ, lợn sau cai sữa và bắt đầu tập ăn. Đối với những lợn dưới 54 – 62 ngày tuổi hầu hết nếu có nhiễm bệnh thì vẫn chưa có trứng theo phân ra ngoài nên hạn chế được khả năng lây nhiễm của mầm bệnh. Thêm một lý do nữa là thị trường thuốc thú y ngày một nhiều, sản phẩm thì đa dạng nên có thể lựa chọn những loại thuốc tẩy bằng cách trộn vào thức ăn cho ăn rất dễ làm nên đa phần trong chăn nuôi ở đây người dân đã chủ động tẩy giun sán cho lợn ở ngay giai đoạn sau khi cai sữa 15 – 20 ngày. Vì vậy, đã làm giảm đáng kể tỉ lệ nhiễm bệnh nên trong giai đoạn này tỉ lệ nhiễm có thấp hơn. Đối với lợn từ 5 đến 7 tháng tuổi tỉ lệ nhiễm (40 %) thấp hơn lợn ở độ tuổi từ 3 đến 5 tháng tuổi nhưng vẫn cao hơn hai độ tuổi còn lại. Lợn ở giai đoạn này đa phần là lợn nái và lợn đực giống nuôi hậu bị chuẩn bị cho vào khai thác. Những loại lợn nhằm mục đích này thường được chăm sóc nuôi dưỡng tương đối kỹ, công tác phòng bệnh và vệ sinh thú y cũng được chú trọng nhiều nên một phần giảm tỉ lệ nhiễm so với lợn ở độ tuổi từ 3 đến 5 tháng tuổi. Tuy nhiên, bên cạnh những lợn nuôi với mục đích như vậy thì có một phần không nhỏ là lợn nuôi thịt nhưng còi cọc, chậm lớn nên chưa xuất bán để lại tiếp tục nuôi sau đó mới bán hoặc giết thịt. Mà những lợn còi cọc, chậm lớn thì khả năng nhiễm giun đũa là tương đối cao. Chính vì vậy tỉ lệ nhiễm giun đũa ở độ tuổi này tại huyện vẫn còn cao. Qua xử lý số liệu cho thấy P = 0,034 < 0,05 chứng tỏ sự sai khác về tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn ở các độ tuổi là có ý nghĩa về mặt thống kê. Vì vậy, một trong những yếu tố cần được quan tâm về mặt dịch tễ học để phục vụ tốt việc phòng và điều trị bệnh giun đũa lợn là đánh giá đúng và chính xác tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn theo độ tuổi. 4.1.3. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo tính biệt Khi nghiên cứu tình hình nhiễm giun đũa lợn một vấn đề đặt ra mà chúng tôi quan tâm là tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn có phụ thuộc vào tính biệt hay không? Giữa con đực và con cái tỉ lệ nhiễm có sự sai khác hay không? Đực hay cái mẫn cảm hơn với giun đũa lợn? Để trả lời cho những thắc mắc kể trên chúng tôi đã tiến hành xét nghiệm 384 mẫu phân lợn, trong đó có 204 mẫu phân lợn đực, 180 mẫu phân lợn cái. Kết quả nghiên cứu được chúng tôi tổng hợp ở bảng sau: Tính biệt (đực-cái) Số con nghiên cứu (n) Số con nhiễm (+) Tỉ lệ nhiễm (%) Cường độ nhiễm (max-min) Đực 204 73 35,78 5,23 ± 0,39 Cái 180 71 39,44 5,45 ± 0,38 Tổng 384 144 37,50 5,33 ± 0,27 Qua bảng trên ta thấy trong 204 mẫu phân lợn đực có 73 mẫu dương tính chiếm 35, 78 %, còn 180 mẫu phân lợn cái có 71 mẫu dương tính chiếm 39,44 %. Tỉ lệ nhiễm ở lợn cái cao hơn so với lợn đực nhưng qua xử lý số liệu cho thấy P = 0,46 > 0,05 nên sự sai khác về tỉ lệ nhiễm giun đũa ở lợn đực và lợn cái là không rõ rệt, không có ý nghĩa về mặt thống kê. Tỉ lệ nhiễm bệnh không phụ thuộc vào tính biệt và không có sự mẫn cảm hơn giữa lợn đực hay lợn cái đối với giun đũa lợn. 4.1.4. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo giống lợn Trên địa bàn huyện Krông Bông, qua thực tế cho thấy ngoài giống lợn lai được nuôi khá phổ biến. Ở một số hộ gia đình chăn nuôi theo quy mô tập trung đã bắt đầu đưa lợn đực giống và lợn nái sinh sản giống ngoại vào trong sản xuất. Bên cạnh đó một số hộ gia đình nghèo và hộ gia đình đồng bào dân tộc, chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn còn duy trì nuôi giống lợn nội. Thế nên giống lợn ở đây khá phong phú và đa dạng. Giống lợn nội nuôi chủ yếu là: Móng Cái và Ỷ. Giống ngoại thường là: Landrace, Duroc, York Shire, PD… Giống lợn lai là con đẻ của giống lợn nội x giống lợn ngoại trên. Giống lợn nội phàm ăn và ăn rất tạp nhưng tính năng sản xuất kém nên ít được nuôi nhiều. Trong khi đó giống lợn ngoại thường ít chịu đựng được kham khổ và khả năng kháng bệnh kém, tương đối khó thích nghi trong điều kiện khí hậu Việt Nam và chúng thường được nuôi ở các trại hoặc hộ gia đình chăn nuôi tập trung với quy mô chăn nuôi hiện đại. Giống lợn lai là sự tổ hợp của hai giống lợn trên nên khả năng thích nghi cao, chịu được kham khổ tốt nên được nuôi phổ biến. Chính sự đa dạng, phong phú về giống lợn đã đặt ra cho chúng tôi một câu hỏi rằng: giống lợn có ảnh hưởng đến tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn hay không? Để có câu trả lời cho vấn đề này chúng tôi đã tiến hành xét nghiệm 49 mẫu phân lợn nội, 35 mẫu phân lợn ngoại, 300 mẫu phân lợn lai và thống kê kết quả ở bảng như sau: Giống lợn Số con nghiên cứu (n) Số con nhiễm (+) Tỉ lệ nhiễm (%) Cường độ nhiễm (max-min) Nội 54 29 53,70 9,92 ± 0,93 Ngoại 38 11 28,95 1,50 ± 0,50 Lai 292 104 35,62 4,86 ± 0,24 Tổng 384 144 37,50 5,33 ± 0,27 Nhìn vào bảng chúng tôi thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa của giống lợn nội là cao nhất 53,70 %, tiếp theo là lợn lai 35,62 %, thấp nhất là giống lợn ngoại 28,95 %. Qua xử lý thống kê P = 0,022 < 0,05 chứng tỏ có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê. Như thế là giống lợn có ảnh hưởng rõ rệt đến tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn. Giống lợn nội sỡ dĩ có tỉ lệ nhiễm cao nhất là do chúng là giống lợn phàm ăn và ăn tạp. Thức ăn của chúng rau, bèo, thân cây chuối, các loại củ, quả, rau các loại… ít và dường như không được ăn thức ăn công nghiệp. Hơn nữa, chúng được nuôi chủ yếu ở các thôn, buôn đồng bào dân tộc và thường được thả rong. Vì thế, bản tính tự nhiên được phát huy: hay gậm nhấm, ủi đất, … tìm thức ăn. Giống lợn ngoại tỉ lệ nhiễm thấp hơn nhiều là do khả năng kháng bệnh cao hơn, chúng ít mẫn cảm với mầm bệnh hơn. Vả lại, chúng được nuôi hầu hết trong các trang trại với phương thức tập trung, được nuôi dưỡng với chế độ dinh dưỡng đầy đủ, chăm sóc chu đáo hơn. Lợn giống ngoại hầu hết là lợn đực giống và lợn nái sinh sản, ở địa phương không có nguồn cung cấp con giống mà chúng đều được nhập ở những cơ sở sản xuất con giống từ nơi khác về nên kinh phí đầu tư ban đầu tương đối lớn. Hơn nữa, chúng là những con giống phục vụ cho mục đích kinh tế của nhà chăn nuôi. Thế nên, việc chăm sóc, bảo vệ chúng như là chăm sóc, gìn giữ tài sản, “miếng cơm manh áo” hàng ngày. Chính vì vậy, ngoài việc phòng và điều trị bệnh truyền nhiễm thì phòng và điều trị bệnh ký sinh trùng cũng quan trọng không kém. Bởi những lý do như trên mà chúng ta thấy giống lợn ngoại có tỉ lệ nhiễm bệnh thấp hơn giống lợn nội và giống lợn lai. Giống lợn lai thường là các con lai F1 phục vụ cho mục đích nuôi kinh tế, chúng là giống lợn phục vụ cho mục đích nuôi để khai thác thịt, mà nhu cầu thịt lợn trên thị trường là rất lớn nên để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi phải nuôi với số lượng nhiều, không có cách nào khác là nuôi thành từng đàn, mà đã nuôi theo đàn thì ít nhất phải từ 8 – 10 con. Do đó, khả năng cảm nhiễm từ con này sang con khác sẽ rất cao nếu trong đàn có con nhiễm bệnh như đã giải thích ở phần tình hình nhiễm giun đũa lợn theo độ tuổi ở trên. 4.1.5. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo phương thức chăn nuôi Trong xu thế phát triển của ngành chăn nuôi, để chăn nuôi mang lại hiệu quả kinh tế và có sức cạnh tranh trên thị trường không những trong nước mà kể cả ngoài nước đòi hỏi chăn nuôi không những đáp ứng đầy đủ về số lượng mà còn phải đảm bảo về số lượng, điều đó buộc các nhà chăn nuôi phải từng bước chuyển đổi phương thức chăn nuôi một cách hợp lý. Từ đó mà phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ theo hướng ngày càng giảm đi thay vào đó là phương thức chăn nuôi tập trung có xu hướng thích nghi và có chiều hướng ngày một tăng dần. Chăn nuôi theo phương thức tập trung: Con giống đa phần là giống lợn lai, ở một số hộ gia đình chăn nuôi với quy mô vừa và lớn còn có thêm giống lợn ngoại. Thức ăn là thức ăn công nghiệp. Chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng đều được tính toán và có kế hoạch cụ thể. Công tác phòng bệnh, điều trị bệnh có người hiểu biết về chuyên môn phụ trách… Như vậy, có thể nói là tương đối đảm bảo về mặt vệ sinh thú y. Và cũng có thể khẳng định là khi nuôi theo phương thức tập trung thì lợn thường ít bị bệnh hơn so với nuôi theo phương thức nhỏ lẻ. Để kiểm chứng điều này trên khía cạnh bệnh ký sinh trùng và tìm hiểu xem phương thức chăn nuôi tác động như thế nào đến tỉ lệ nhiễm giun đũa trên lợn. Chúng tôi tiến hành xét nghiệm phân 143 mẫu phân nuôi tập trung và 241 mẫu phân nuôi nhỏ lẻ. Chúng tôi ghi nhận kết quả ở bảng và biểu đồ như sau: Phương thức chăn nuôi Số con nghiên cứu (n) Số con nhiễm (+) Tỉ lệ nhiễm (%) Cường độ nhiễm (max-min) Tập trung 143 44 30,77 6,08 ± 0,35 Nhỏ lẻ 241 100 41,49 3,65 ± 0,26 Tổng 384 144 37,50 5,33 ± 0,27 Qua bảng thống kê kết quả cho thấy: Tỉ lệ nhiễm giun đũa của lợn nuôi theo phương thức tập trung là 30,77 %, cao hơn là phương thức nuôi nhỏ lẻ 41,49 %. Trên biểu đồ có sự chênh lệch nhất định nhưng sự chênh lệch đó có ý nghĩa không. Thì qua xử lý số liệu cho thấy P = 0,036 < 0,05 nghĩa là tỉ lệ nhiễm bệnh ở hai phương thức có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê. Để giải thích về điều này, ta có thể xem bảng so sánh về một số thông tin mà trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi thu thập được dưới đây. Chỉ tiêu so sánh Phương thức nuôi tập trung Phương thức nuôi nhỏ lẻ Chuồng trại - Chuồng sàn, chuồng lồng. - Được thiết kế và xây dựng kiên cố. Cân bằng về nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng… - Đảm bảo về diện tích và mật độ thích hợp. - Chuồng gỗ, chuồng xi măng, tường ván, tường xây. Thiết kế và xây dựng thuận theo nhà ở, không kiên cố lắm. - Diện tích thường hẹp hơn và mật độ nuôi thường nhiều hơn so với sự cần thiết. Thức ăn - Thức ăn công nghiệp và thức ăn hỗn hợp. - Một phần thức ăn công nghiệp, một phần thức ăn pha trộn, phế phụ phẩm nông - công nghiệp. Giống lợn - Lợn ngoại và lợn lai - Lợn nội và lợn lai Chăm sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh chuồng trại - Lợn nuôi có chế độ ăn uống, tắm rửa theo giờ quy định. - Lợn ở các giai đoạn khác nhau có sự chăm sóc, nuôi dưỡng khác nhau. Nói chung, dinh dưỡng luôn được đảm bảo. - Phân được xử lý hầm biogas. Được quét dọn hàng ngày. - Việc ăn uống và tắm rửa không có quy định chặt chẻ. Lợn đôi khi 2 – 3 ngày mới được tắm một lần, có khi cả tuần. - Lợn ở các giai đoạn khác nhau đôi khi cho ăn đồng đều như nhau. Lợn thường phát triển không đồng đều. - Phân ít được xử lý hầm biogas mà còn dùng bón cho rau làm thức ăn cho người và động vật, trong đó có lợn. Vệ sinh môi trường sống và phòng trị bệnh. - Chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng trại được định kỳ tiêu độc, khử trùng. 3 – 4 tháng một lần. - Sau mỗi đợt xuất lợn hoặc chuyển lợn đến hoặc đi đều được vệ sinh chuồng và tiêu độc, khử trùng. - Công việc tẩy giun sán rất được chú trọng ngay từ lợn cai sữa, lợn thịt, lợn nái và đực giống. - Việc làm này không thường xuyên và hầu như ít gặp. Trừ những chuồng lợn mắc bệnh truyền nhiễm trước đây. - Thường thì chỉ tẩy cho lợn nuôi thịt một lần từ khi bắt đầu nuôi đến khi xuất bán. Tóm lại, phương thức chăn nuôi có sự tác động đến sự cảm nhiễm đối với yếu tố gây bệnh và tỉ lệ nhiễm bệnh. 4.2. Triệu chứng, bệnh tích của bệnh giun đũa lợn Căn cứ vào lý thuyết và xem xét triệu chứng của lợn nhiễm giun đũa khi đi lấy mẫu phân, bệnh tích khi mổ khám không toàn diện ở lò mổ tập trung tại Thị trấn Krông Kmar, xã Hòa Sơn, xã Êa Trul; chúng tôi đưa ra bảng so sánh triệu chứng và bệnh tích của bệnh giun đũa lợn trên lý thuyết và trên thực tế như sau: Trên lý thuyết Trên thực tế Triệu chứng - Không rõ ràng. Lông bị xù, đi đứng chậm chạp, Bệnh tích 4.3. Hiệu quả điều trị bệnh giun đũa lợn của thuốc tẩy giun sán Vimectin và Levavet. Hiện nay, thuốc thú y trên thị trường rất phong phú và đa dạng về sản phẩm là do bên cạnh những công ty thuốc thú y đã có từ lâu, nhiều công ty mới đã xuất hiện. Vì vậy, không phải sản phẩm của công ty nào cũng tốt cả. Tuy nhiên, một công ty đã có từ lâu và sản phẩm của nó rất được bà con chăn nuôi tin tưởng và hay dùng, đó là công ty thuốc thú y Vemedim. Để có biện pháp điều trị bệnh giun đũa lợn một cách có hiệu quả, chúng tôi cũng đã tin tưởng và tiến hành chọn hai loại thuốc Vimectin và Levavet (sản phẩm của công ty Vemedim) đưa vào thí nghiệm. Đồng thời chọn 60 lợn xét nghiệm phân cho kết quả dương tính vào thử thuốc. Để đảm bảo đánh giá chính xác và hiệu quả chúng tôi đã bố trí thí nghiệm làm hai lô: Một lô sử dụng Vimectin, Lô còn lại sử dụng Levavet. Các lợn được thử thuốc được nuôi trong cùng một điều kiện như nhau. Thí nghiệm cho kết quả như sau: Tên sản phẩm Liều sử dụng Số lợn thí nghiệm Hiệu quả tẩy trừ Độ an toàn Hiệu quả chung Sạch trứng sau 3 ngày Sạch trứng sau 5 ngày Sạch trứng sau 7 ngày Có phản ứng phụ Số chết Số lợn (n) % Số lợn (n) % Số lợn (n) % Số lợn (n) % Số lợn (n) % Số lợn (n) % Vimectin 8-10 ml/kg P 30 26 86.66 2 6.67 2 6.67 0 0 0 0 30 100 Levavet 1 gói/ 12-15 kg P 30 23 76.67 2 6.67 1 3.33 1 3.33 0 0 26 86.67 Như vậy, qua bảng trên ta thấy cả 30 lợn đem thí nghiệm dùng thuốc Vimectin thì tất cả đều sạch bệnh. Nghĩa là hiệu lực tẩy trừ của Vimectin đạt 100%. Tỉ lệ sạch trứng sau 3 ngày là 86,66% (26 lợn), sau 5 ngày là 6,67% (2 lợn) và sau 7 ngày là 6,67% (2 lợn). Sỡ dĩ tỉ lệ tẩy sạch bệnh cao như vậy là do thuốc Vimectin là dung dịch tiêm vô trùng, được đưa vào cơ thể bằng đường tiêm nên thuốc hấp thu nhanh vào máu và sớm phát huy hiệu lực tẩy trừ. Mặt khác, vì là thuốc dạng tiêm nên trong quá trình cấp thuốc thuốc được đưa vào cơ thể đúng với liều ước tính theo trọng lượng một cách đầy đủ. Tại lô thí nghiệm dùng thuốc tẩy giun sán Vimectin ta không thấy có lợn mẫn cảm và chết. Điều đó cho thấy thành phần thuốc là Ivermectin có độ an toàn cao, không gây mẫn cảm cho lợn. Còn tại lô thí nghiệm sử dụng Levavet, trong số 30 lợn đem thí nghiệm sau 7 ngày thì chỉ có 26 lợn được tẩy sạch, hiệu lực tẩy trừ chỉ đạt 86,67%. Tỉ lệ tẩy sạch sau 3 ngày là 76,67% (23 lợn), sau 5 ngày là 6,67% (2 lợn), sau 7 ngày là 3,33% (1 lợn). Mặc dù trong cùng một điều kiện thử thuốc như nhau nhưng qua kết quả trên cho thấy hiệu lực tẩy trừ của Levavet thấp hơn so với Vimectin về hiệu quả chung cũng như giai đoạn sau 3, 5 và 7 ngày. Trước hết là vì Levavet là thuốc dạng gói ngoài thành phần chính là Levamisole còn có một lượng tá dược vừa đủ kèm theo. Bên cạnh đó thuốc lại được đưa vào cơ thể bằng đường tiêu hóa: hòa vào thức ăn lỏng hoặc cho vào nước uống. Ở đây chúng tôi đã hòa thuốc vào thức ăn lỏng và trộn đều. Chính vì thế lượng thuốc vào cơ thể phụ thuộc vào việc ăn của lợn, lợn ăn nhiều hơn thì lượng thuốc nhiều hơn một chút, ăn ít hơn thì lượng thuốc ít hơn một chút. Như vậy lượng thuốc cung cấp cho mỗi lợn có thể không đều nhau, và liều lượng ít nhiều thừa hoặc thiếu so với liều ước lượng so với thể trọng của lợn. Cũng vì lẽ đó, mà trong lô thí nghiệm dùng thuốc Levavet có một vài lợn có phản ứng, phản ứng rõ như nôn mửa, hắt hơi, và sốt nhẹ, bỏ ăn. Như vậy, sau khi tiến hành thí nghiệm và đánh giá kết quả, chúng tôi ghi nhận và khuyến cáo bà con chăn nuôi tại huyện Kroong Bông nên sử dụng sản phẩm tẩy giun sán Vimectin và Levavet. Nếu có điều kiện tốt nhất hãy sử dụng Vimectin để cho hiệu quả tốt nhất. PHẦN V KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Ghi nhận những kết quả mà chúng tôi đã thu được khi tiến hành xét nghiệm 384 mẫu phân lợn tại huyện Krông Bông, chúng tôi có một số kết luận như sau: Tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn tại huyện Krông Bông là 37.50 %. Địa điểm có tỉ lệ nhiễm cao nhất là xã Ea Trul 46.67 %, thấp hơn là xã Hòa Sơn 34.03 % và thấp nhất là Thị trấn Krông Kmar 32.50 %. Tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn phụ thuộc vào độ tuổi của lợn. Tỉ lệ đó như sau: - Lợn dưới 3 tháng tuổi: 30,48 % - Lợn từ 3 đến 5 tháng tuổi: 45,00 % - Lợn từ 5 đến 7 tháng tuổi: 40,00 % - Lợn trên 7 tháng tuổi: 29,73 % Tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn không phụ thuộc vào tính biệt của lợn. Tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn nuôi theo phương thức tập trung thấp hơn tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn nuôi theo phương thức nhỏ lẻ. - Phương thức tập trung: 30.53 % - Phương thức nhỏ lẻ: 41.11 % 5. Tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn có sự khác nhau giữa các giống lợn. Tuy nhiên, nó chịu sự chi phối chủ yếu là do phương thức nuôi. Các giống lợn khác nhau không có sự miễn dịch khác nhau đối với mầm bệnh. Với sự chỉ định của nhà sản xuất thuốc thú y Công ty Vemedim: Chúng tôi thấy Vimectin cho hiệu quả tẩy trừ cao hơn so với Levavet. Nên sử dụng Vimectin để tẩy giun sán là tốt nhất. 5.2. Kiến nghị - Để chăn nuôi có hiệu quả, tránh được tác hại do giun đũa gây ra biện pháp tốt nhất là tẩy giun sán cho lợn vào thời điểm lợn khoảng 60 ngày tuổi bằng Vimectin. Tẩy giun cho lợn nái trước và sau khi sinh. Định kỳ tẩy giun cho lợn nái, đực giống. - Cần nâng cao kiến thức hơn nữa cho bà con chăn nuôi trong việc phòng trừ bệnh giun sán cho lợn. Ý thức vệ sinh chuồng trại trong chăn nuôi. Nhất là đối với bà con chăn nuôi tại xã Êa Trul. - Đẩy mạnh công tác thú y về mọi mặt. - Phát huy mô hình chăn nuôi theo phương thức tập trung. - Định kỳ tiêu độc, khử trùng và vệ sinh chuồng trại cũng như khu vực xung quanh chuồng nuôi. - Cần có những thử nghiệm thuốc khác để mang lại nhiều loại thuốc tẩy giun hiệu quả cho bà con chăn nuôi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Văn Diên (1999), “Bài giảng Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng”. Trường Đại học Tây Nguyên. Võ Văn Hiền, 2001. Luận văn thạc sỹ khoa học “ Tình hình nhiễm giun sán trên tiêu hoá trên heo nuôi thịt tại huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận và thử hiệu lực của Fenbendazole trong tẩy trừ”. Lương Văn Huấn (1995), “Giun sán ký sinh ở lợn vùng đồng bằng sông Hồng”. Luận án phó tiến sĩ khoa học thú y, Hà Nội. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), “Ký sinh trùng thú y”. Nhà xuất bản nông nghiệp. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978), “Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam, tập II”. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội. Nguyễn Phước Tương (2002), “Bệnh ký sinh trùng của vật nuôi và thú hoang lây sang người, tập II”. Nhà xuất bản nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_van_mai_con_muc_2717.doc