Tài liệu Đề tài Khảo sát các nguyên nhân gây mù và khiếm thị tại Trường Nguyễn Đình Chiểu Thành phố Hồ Chí Minh – Phan Hồng Mai: 83
KHẢO SÁT CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY MÙ VÀ KHIẾM THỊ
TẠI TRƯỜNG NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
PHAN HỒNG MAI, VÕ NGUYÊN UYÊN THẢO, LÊ THỊ KIM CHI, NGUYỄN THỊ HỒNG PHỤNG
Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Mục tiêu: khảo sát nguyên nhân gây mù của học sinh trường phổ thông đặc biệt
Nguyễn Đình Chiểu TP. HCM năm học 2006 - 2007. Đối tượng và phương pháp:
nghiên cứu mô tả cắt ngang trên tất cả học sinh đang theo học và học sinh tái hòa nhập
của trường Nguyễn Đình Chiểu TP. HCM theo mẫu khám trẻ mù và khiếm thị của Tổ
chức Y tế thế giới. Kết quả: 102 học sinh dưới 16 tuổi có thị lực mắt tốt nhất dưới 1/10
gồm 59 nam (57,8%), 43 nữ, tuổi trung bình 10,14±3,83. Bệnh lý võng mạc sinh non
(ROP) là nguyên nhân gây mù nhiều nhất 30,4% (chiếm 68,4% trong số trẻ dưới 6
tuổi). Nguyên nhân gây mù thứ 2 là đục thể thủy tinh bẩm sinh (đục TTTBS) 14,9%, tất
cả đều đã được mổ nhưng thị lực không cải thiện vì nhược thị hoặc biến chứng phẫu
thuật. Tổn thương võng mạc c...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Khảo sát các nguyên nhân gây mù và khiếm thị tại Trường Nguyễn Đình Chiểu Thành phố Hồ Chí Minh – Phan Hồng Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
83
KHẢO SÁT CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY MÙ VÀ KHIẾM THỊ
TẠI TRƯỜNG NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
PHAN HỒNG MAI, VÕ NGUYÊN UYÊN THẢO, LÊ THỊ KIM CHI, NGUYỄN THỊ HỒNG PHỤNG
Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Mục tiêu: khảo sát nguyên nhân gây mù của học sinh trường phổ thông đặc biệt
Nguyễn Đình Chiểu TP. HCM năm học 2006 - 2007. Đối tượng và phương pháp:
nghiên cứu mô tả cắt ngang trên tất cả học sinh đang theo học và học sinh tái hòa nhập
của trường Nguyễn Đình Chiểu TP. HCM theo mẫu khám trẻ mù và khiếm thị của Tổ
chức Y tế thế giới. Kết quả: 102 học sinh dưới 16 tuổi có thị lực mắt tốt nhất dưới 1/10
gồm 59 nam (57,8%), 43 nữ, tuổi trung bình 10,14±3,83. Bệnh lý võng mạc sinh non
(ROP) là nguyên nhân gây mù nhiều nhất 30,4% (chiếm 68,4% trong số trẻ dưới 6
tuổi). Nguyên nhân gây mù thứ 2 là đục thể thủy tinh bẩm sinh (đục TTTBS) 14,9%, tất
cả đều đã được mổ nhưng thị lực không cải thiện vì nhược thị hoặc biến chứng phẫu
thuật. Tổn thương võng mạc chiếm tỉ lệ cao nhất 41,1%, toàn nhãn cầu 19,6%, TTT
12,7%, màng bồ đào 7,8%, thị thần kinh 7,9%, giác mạc 7,8%, mù vỏ não 2,9%. Kết
luận: ROP là nguyên nhân gây mù chủ yếu ở trẻ em nếu không được phát hiện và điều
trị sớm. Mù do đục TTTBS có thể giảm nếu được phát hiện và điều trị sớm, kỹ thuật mổ
tốt, theo dõi hậu phẫu và điều trị nhược thị.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỉ lệ và các nguyên nhân gây mù
thay đổi theo thời gian và địa điểm trên
thế giới [1], sẹo giác mạc là nguyên nhân
gây mù chủ yếu ở các nước nghèo, trong
khi tổn thương thần kinh trung ương lại
là nguyên nhân chủ yếu ở các nước phát
triển, còn ở các nước đang phát triển là
một bức tranh hỗn hợp của các nguyên
nhân có thể phòng tránh được như bệnh
võng mạc sinh non (ROP). Trong cả
nước có trên 20 nghìn trẻ mù và khiếm
thị từ 0 đến dưới 15 tuổi. Hiện tại, chưa
có một hệ thống quản lý toàn bộ các
trường dành cho trẻ em mù và khiếm thị
trong cả nước.
Tại TP. HCM, trường phổ thông
đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu là nơi qui tụ
nhiều học sinh mù và khiếm thị. Chính vì
thế chúng tôi thực hiện cuộc khảo sát các
nguyên nhân gây mù và khiếm thị ở trẻ
em tại trường Nguyễn Đình Chiểu TP.
HCM năm học 2006 -2007 để có được
cái nhìn ban đầu về các nguyên nhân gây
mù ở trẻ em TP. HCM.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP
Tất cả học sinh trường Nguyễn
Đình Chiểu năm học 2006-2007 đều
được thăm khám, các số liệu được thu
thập theo mẫu của Tổ chức Y tế thế giới
84
dành cho trẻ mù và khiếm thị nặng để ghi
nhận thị lực, vị trí giải phẫu bị tổn
thương, và căn nguyên gây mất thị lực.
Chỉ có số liệu của học sinh dưới 16 tuổi
và thị lực mắt tốt nhất từ 1/10 trở xuống
(mù và khiếm thị nặng) được đưa vào
phân tích bằng phần mềm SPSS 11.5.
III. KẾT QUẢ
Tổng số học sinh của trường đã
được khám là 141, trong đó 3 em (2,1%)
có ít nhất một mắt thị lực tốt hơn 1/10
loại khỏi nghiên cứu. Trong số 138 em
mù và khiếm thị, có 102 em dưới 16 tuổi
(73,9%) bao gồm 59 nam và 43 nữ với
tuổi trung bình là 10,14±3,83 (từ 3 đến
15 tuổi).
3.1. Vị trí giải phẫu bị tổn thương
Bảng 1: Tổn thương xếp theo vị trí giải phẫu
Vị trí tổn thương Số học sinh Tỉ lệ %
Toàn nhãn cầu 20 19,6
Giác mạc 8 7,8
Thể thủy tinh 13 12,7
Màng bồ đào 8 7,8
Võng mạc 45 41,1
ROP 31 30,4
Thần kinh thị 5 7,9
Mù vỏ não 3 2,9
Tổng cộng 102 100
Trong số 102 học sinh mù và
khiếm thị nặng dưới 16 tuổi, tổn thương
võng mạc là vị trí thường gặp nhất,
chiếm 41,1% (bảng 1).
Tổn thương toàn nhãn cầu chiếm
19,6% với đa số là các dị tật bẩm sinh
không xác định được (8,8%) và lồi mắt
trâu (5,9%). Đục TTT chiếm 12,7%, tất
cả bệnh nhân đều đã được phẫu thuật
nhưng không thành công với các biến
chứng như viêm màng bồ đào, dính bít
đồng tử, loạn dưỡng giác mạc, hoặc phẫu
thuật không đặt thể thủy tinh nhân tạo
nhưng không điều chỉnh kính sau phẫu
thuật. Các vị trí khác như giác mạc,
màng bồ đào, thị thần kinh từng loại
chiếm 7,8%. Còn lại 2,9% (3 trường hợp)
tổn thương vỏ não.
3.2. Bệnh căn
Bảng 2: Bệnh căn gây mù và tổn thương thị lực nặng
Nguyên nhân Số học sinh Tỉ lệ %
Di truyền 9 8,8
Trong tử cung 9 8,8
Chu sinh 31 30,4
85
Sau sinh 22 21,6
Không xác định 31 30,4
Tổng cộng 102 100
Trong 9 trường hợp mắc bệnh di
truyền (8,8%), chúng tôi xác định được 4
trường hợp bệnh võng mạc sắc tố dựa
trên khám lâm sàng và hỏi bệnh sử.
Những trường hợp khác không xác định
được bệnh lý cụ thể vì không có hồ sơ
bệnh án ban đầu.
6/9 bệnh nhân mắc bệnh là do mẹ bị
bệnh trong thời gian mang thai, những
trường hợp còn lại đã có tổn thương ngay
từ lúc sinh ra.
Bệnh trong thời gian chu sinh là phổ biến
nhất (30,4%), với 30/31 trường hợp do
ROP.
Các bệnh lý sau sinh (21,6%) do
một số nguyên nhân như chấn thương,
bong võng mạc, thiếu vitamine A, teo thị
thần kinh, với số lượng không khác
nhau đáng kể. Những trường hợp không
khai thác được thông tin cần thiết để xếp
loại, chúng tôi đưa vào nhóm không xác
định (30,6%) với 2 nguyên nhân chủ yếu
là đục TTT (10,9%) và glôcôm (4,9%).
Như vậy 2 nguyên nhân gây mù và
khiếm thị nặng hay gặp nhất là ROP
(30,4%) và đục TTT (14,9%), là những
nguyên nhân có thể không tránh được.
Bảng 3: Các nguyên nhân theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
NN
0 – 5 tuổi 11 – 15 tuổi
n = 19 % n = 58 %
ROP 13 68,4 6 10,3
Đục TTT 0 0 11 19,0
Glôcôm 1 5,3 4 6,9
Viêm MBĐ 0 0 4 6,9
Khác 4 21,0 21 36,2
Không rõ 1 5,3 12 20,7
Bảng 3 cho thấy các nguyên nhân
theo nhóm tuổi, ở nhóm tuổi nhỏ từ 0-5
tuổi, nguyên nhân chủ yếu là ROP,
không có trường hợp nào đục thể thủy
tinh. Trong khi đó, ở nhóm tuổi từ 11-15,
đục thể thủy tinh lại là nguyên nhân
chính.
IV. BÀN LUẬN
Trường phổ thông đặc biệt Nguyễn
Đình Chiểu là một trường dành cho trẻ
em mù và khiếm thị lớn nhất tại
TP.HCM, nhưng không phải tất cả trẻ em
mù của TP.HCM đều được học tại
trường, những trẻ mù từ các tỉnh cũng có
thể xin vào học nội trú tại trường. Mặc
dù trẻ em ở một trường mù không thể đại
diện cho toàn bộ trẻ em mù trong quần
thể [1], nhưng đây cũng là những số liệu
đầu tiên về các nguyên nhân gây mù trẻ
em ở TP. HCM và các vùng lân cận.
86
Đại đa số học sinh của trường đều
thuộc loại mù và khiếm thị nặng theo
phân loại của WHO, 97,9%. Vì khảo sát
các nguyên nhân gây mù trẻ em của
WHO chỉ thực hiện ở trẻ từ 0-15 tuổi nên
chúng tôi chỉ phân tích 102 em trong tiêu
chuẩn này.
Các nước đang phát triển như
Indonesia [3], Malaysia [4], Sri Lanka
[5], và Trung Quốc [6], các nguyên nhân
di truyền chiếm tỉ lệ cao nhất. Trong
nghiên cứu của chúng tôi bệnh xảy ra
nhiều nhất trong thời gian chu sinh với
nguyên nhân hàng đầu là ROP tương tự
như Thái Lan và Philippines [7]. Điều
này có thể được giải thích vì khả năng
cứu sống trẻ sinh non nhẹ cân của Việt
Nam tăng đáng kể trong những năm vừa
qua, đặc biệt là tại các thành phố lớn,
trong khi điều trị ROP mới chỉ bắt đầu
thực hiện tại TP.HCM từ 3 năm nay.
Chương trình tầm soát ROP được bắt đầu
từ năm 2001, khi đó, những trẻ mắc ROP
nặng được giải thích để gửi đi điều trị tại
Thái Lan bằng kinh phí tự túc, chỉ có 1/2
số gia đình được tư vấn đưa trẻ đi điều trị
[8] vì chi phí khá cao, hiểu biết của gia
đình hạn chế, điều trị trễ, và nay
chúng tôi đã gặp lại một số trẻ trong
nghiên cứu này. Nếu phân tích các
nguyên nhân theo lứa tuổi, tỉ lệ ROP lên
đến 68,4% ở trẻ từ 0-5 tuổi, chủ yếu là từ
3 - 5 tuổi. Đục TTT là nguyên nhân
gây mù quan trọng ở tất cả các nước trên
thế giới [9]. Trong nghiên cứu này là đục
TTT là nguyên nhân chủ yếu gây mù loà
ở lứa tuổi 11-15. Tất cả các trường hợp
này đều đã được phẫu thuật với nhiều
biến chứng cũng như theo dõi không sát
sau phẫu thuật. Ngoài ra, việc phát hiện
sớm cũng chưa được chú trọng cách đây
10 năm. Trong khoảng 5-6 năm trở lại
đây, kỹ thuật mổ đục thể thủy tinh ở trẻ
em tại bệnh viện Mắt TP.HCM tiến bộ
đáng kể, với sự hỗ trợ của chương trình
ánh mắt trẻ thơ và tổ chức ORBIS, rất
nhiều bệnh nhân đục TTT được phát hiện
và điều trị sớm, điều đó có thể lý giải
được vì sao không có trường hợp đục
TTT nào ở trẻ dưới 6 tuổi trong nghiên
cứu của chúng tôi.
Cũng như các nghiên cứu tại
Ethiopia [1], Thái Lan và Phillippines
[7], tỉ lệ các trường hợp không xác định
được nguyên nhân của chúng tôi khá
nhiều vì hầu hết học sinh, nhất là những
học sinh lớn đều không có hồ sơ sức
khỏe.
V. KẾT LUẬN
Những nguyên nhân chủ yếu gây
mù cho trẻ em trong nghiên cứu của
chúng tôi là những nguyên nhân có thể
phòng tránh được. Với chương trình tầm
soát và điều trị ROP hiện nay tại
TP.HCM và mở rộng ra các tỉnh phía
Nam, tỉ lệ trẻ mù do ROP có thể giảm
đáng kể trong những năm tới. Bên cạnh
đó, chương trình chăm sóc mắt ban đầu
hiện nay sẽ tiếp tục giúp phát hiện và
điều trị kịp thời các trường hợp đục TTT
trẻ em. Việc phát hiện, can thiệp sớm cho
trẻ đục TTTBS và điều trị nhược thị tích
cực sau phẫu thuật cũng cần được quan
tâm hơn nữa. Những nghiên cứu rộng
hơn là cần thiết để có được bức tranh
toàn cảnh về các nguyên nhân gây mù ở
trẻ em Việt Nam.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. KELLO A. B, GILBERT C. (2003) Causes of severe impairment and blindness in
children in schools for blind in Ethiopia. Br. J. Ophthalmol; 87;526-530
2. WEBSITE WWW.GSLHCM.ORG.VN
3. SITORUS R, PREISING M, LORENZ B. (2003) Causes of Blindness at the
“Wiyata Guna” school for blind, Indonesia. Br. J. Ophthalmol; 87;1065-1068
4. REDDY SC, TAN BC. (2002) Causes of childhood blindness in Malaysia: results
from a national study of blind school students. Int ophthalmol; 24:53-59
5. ECKSTEIN MB, FOSTER A, GILBERT CE. (1995) Causes of childhood
blindness in Sri Lanka: results from children attending six school students for the
blind. Br J Ophthalmol; 79:633-636.
6. HORNBY SJ, XIAO Y, GILBERT CE et al. (1999) Causes of childhood
blindness in the People’s Republic of China: results from 1131 blind school
students in 18 provinces. Br J Ophthalmol; 83:929-932
7. GILBERT C, FOSTER A. (1993) Causes of blindness in children attending four
schools for the blind in Thailand and the Philippines. A comparison between
urban and rural blind school populations. Int Ophthalmol. Aug;17(4):229-234
8. PHAN MH, NGUYEN PN, REYNOLDS JD. (2003) Incidence and severity of
retinopathy of prematurity in Vietnam, a developing middle-income country. J
Pediatr Ophthalmol Strabismus; 40:208-212.
9. GILBERT C, FOSTER A. (2001) Childhood blindness in the context of VISION
2020 – The right to sight. Bull World Health Organ. ;79(3):227-233. Epub 2003
Jul 7.
SUMMARY
CAUSES AND PREVALENCE OF BLINDNESS AND SEVERE
VISUAL IMPAIRMENT AT BLINDNESS SCHOOL, HO CHI MINH
CITY, VIETNAM
Objectives: To determine causes of blindness at Nguyen Dinh Chieu Blind
School of HCMC, shool year 2006-2007. Methods: prospective cross-sectional study of
all pupils of Nguyen Dinh Chieu School, HCMC using WHO/PBL examination record
for children with blindness and low vision. Results: 102 pupils under 16 year-old with
visual acuity of the better eye less than 6/60, including 59 boys (57.8%), and 43 girls
with mean age 10.14±3.83. Retinopathy of prematurity (ROP) was the most common
cause of blindness with 30.4% of cohort, but 68.4% of children less than 6 years old.
88
Congenital cataract was the second common cause of blindness of 14.9%. The major
anatomical site of visual loss was retina 41.1%, whole eye 19.6%, cataract 12.7%, uvea
7.8%, optic nerve 7.9%, cornea 7.8%, and cortical blindness 2.9%. Conclusions: ROP
without early detection and treatment was the most important cause of blindness in
children. Congenital blinding cataract could be decreased with early detection and
treatment, improved operative techniques, postoperative amblyopic treatment.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_khao_sat_cac_nguyen_nhan_gay_mu_va_khiem_thi_tai_truo.pdf