Đề tài Khái quát về lịch sử, địa lý, văn hoá - Xã hội Ấn Độ cổ đại

Tài liệu Đề tài Khái quát về lịch sử, địa lý, văn hoá - Xã hội Ấn Độ cổ đại: Phần mở đầu Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt nam nêu rõ: “ Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động, từ phong trào cách mạng của quần chúng”. Đối với Đảng ta, kiên trì, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin có tính nguyên tắc số một. Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin một cách sáng tạo. Là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, được Lênin phát triển, Đảng Cộng sản Việt nam vận dụng sáng tạo trên thực tiễn sinh động Việt nam, triết học Mác- Lênin đã tạo ra vũ khí tinh thần sắc bén cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng...

doc15 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Khái quát về lịch sử, địa lý, văn hoá - Xã hội Ấn Độ cổ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt nam nêu rõ: “ Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động, từ phong trào cách mạng của quần chúng”. Đối với Đảng ta, kiên trì, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin có tính nguyên tắc số một. Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin một cách sáng tạo. Là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, được Lênin phát triển, Đảng Cộng sản Việt nam vận dụng sáng tạo trên thực tiễn sinh động Việt nam, triết học Mác- Lênin đã tạo ra vũ khí tinh thần sắc bén cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Triết học Mác- Lênin là một môn học hết sức quan trọng, nó đã và đang được cán bộ, đảng viên và toàn dân ta tiếp đón nhiệt tình và say mê học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Tuy nhiên triết họcMácLênin, mặc dù là một cuộc là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học, nhưng nó là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp quy luật. Nó là kết tinh tất cả những tinh hoa, giá trị cao quý của tư duy triết học, văn học, khoa học của lịch sử nhân loại. Có thể nói, sự ra đời của triết học Mác-Lênin vừa là bước ngoặt cách mạng, là đỉnh cao trong sự phát triển lý luận triết học, vừa là sự tiếp thu, kế thừa biện chứng những di sản triết học và khoa học của nhân loại. Do đó chúng ta không thể nắm chắc triết học Mác- Lênin nếu chúng ta không nghiên cứu lịch sử triết học của nhân loại nói chung, triết học ấn độ cổ đại nói riêng. Bởi vậy ở bài viết này chúng ta cùng nghiên cứu những nét đặc thù của triết học ấn độ cổ đại, tư tưởng triết học Phật giáo, và những giá trị của nó. Cấu trúc của bài viết này bao gồm: Phần mở đầu Chương I: Những đặc thù của triết học ấn độ cổ đại 1. Khái quát về lịch sử, địa lý, văn hoá - xã hội ấn độ cổ đại 2.Những nét đặc thù của triết học ấn độ cổ đại 3. Sự hình thành và phát triển của triết học ấn độ cổ đại 4. Những trường phái triết học chính thống 5. Những trường phái triết học không chính thống Chương II: Tư tưởng triết học Phật giáo, và những giá trị của nó Người sáng lập ra đạo Phật Nội dung tư tưởng triết học và triết lý nhân sinh quan, cùng con đường giải thoát “Bể khổ” của Phật giáo Những giá trị của triết học Phật giáo Phần kết luận i. Những đặc thù của triết học ấn độ cổ đại ấn độ là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Nơi đây triết học đã xuất hiện từ rất sớm, tư tưởng triết học ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên nhiên kỷ thứ II đầu thiên nhiên kỷ I trước CN. Những tư tưởng triết học cao siêu, những triết lý tôn giáo lớn của Đạo Phật, Đạo Jaina, Đạo Hindu...đã từng toả sáng tới nhiều quốc gia trên thế giới và đã được lãnh tụ của nhân dân ấn độ vận dụng trong bước đường đấu tranh giải phóng dân tộc mình. ở Đông- Nam á, trong đó có Việt nam, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân từ những năm đầu kỷ nguyên và sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống nhân dân ta ngày nay còn khá sâu đậm và phức tạp. Vì vậy việc nghiên cứu lịch sử triết học ấn độ nói riêng và văn minh ấn độ nói chung là hết sức cần thiết. Suy ngẫm về nền triết học lâu đời ấy không chỉ để tìm hiểu, học hỏi trong đó những nét tinh tuý, độc đáo của tri thức đa dạng về tự nhiên và về con người ấn độ mà còn chính là mài sắc tu duy, góp vào hành trang tư tưởng của mình tri thức có một không hai của nhân loại, vươn tới đỉnh cao của khoa học, như Anghen đã từng nhắc nhở, góp phần làm sống động tình hữu nghị hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc trên thế giới. 1.1 Khái quát về lịch sử xã hội –văn hóa ấn độ cổ đại a. Về hoàn cảnh địa lý: ấn Độ cổ đại là một bán đảo lớn ở nam Châu á. Điều kiện tự nhiên rất phức tạp, có sông ngòi và các vùng đồng bằng trù phú, có núi non trùng điệp, hiểm trở, có sa mạc khô khan nóng nực, khí hậu có những vùng nóng, ẩm, mưa nhiều, giá lạnh khác nhau. Chính sự đa dạng và khắc nhiệt của điều kiện tự nhiên đã tác động nhiều tới đời sống, ghi đậm nét những dấu ấn trong tâm trí người ấn độ. b. Về xã hội: Xã hội ấn độ cổ đại xuất hiện sự phân chia giai cấp rất sớm. Từ thế kỷ thứ VI-IV trước CN Nhà nước đã được xác lập. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia lớn nhỏ vào thế kỷ VI trước CN đã dẫn tới sự thôn tính lẫn nhau, lập nên quốc gia rộng lớn vào thế kỷ IV trước CN. Xã hội ấn độ cổ đại có sự giao lưu kinh tế với Địa Trung Hải rất sớm. Nét đặc thù của xã hội ấn độ cổ đại là sự tồn tại lâu dài công xã nông thôn với lao động của người dân công xã là chủ yếu, thì chế độ nô lệ kiểu gia trưởng và nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, trong đó các đế vương nắm quyền lực vô hạn về sở hữu ruộng đất và thần dân đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới tính chất và sự phát triển của tự nhiên và chế độ đẳng cấp, thể chế xã hội luôn đè nặng lên đời sống của người dân ấn độ Một nét đặc thù khác nữa của xã hội ấn độ cổ đại là sự phân chia đẳng cấp rất khắc khe và nghiệt ngã, nó không những đụng chạm đến quyền lực của nông dân, mà còn đụng chạm đến cả thương nhân và thợ thủ công thành thị. Nó ngăn trở con đường phát triển của sức sản xuất xã hội. Một làn sóng phản đối sự thống trị của đạo Bà la môn và chế độ đẳng cấp được biện minh của luật lệ thần thánh và sự bảo vệ của pháp luật thế quyền đã làm rung động cả nông thôn và thành thị ấn độ cổ đại. Trong lĩnh vực tư tưởng, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần, chủ nghĩa hoài nghi chống uy quyền của kinh Vê đa và tín điều tôn giáo Bà la môn đã diễn ra rất quyết liệt, thể hiện rõ ở phong trào tự do tư tưởng, đòi bình đẳng xã hội ở ấn độ cổ đại. Một nét đặc thù nữa của xã hội ấn độ cổ đại là tôn giáo bao trùm toàn bộ đời sống xã hội. Trong xã hội ấn độ cổ đại người ta thờ cúng nhiều thần thánh khác nhau. c. Về văn hoá khoa học: Nền văn minh sông ấn, hay là nền văn minh Indus, hay là nền văn minh Harapapa là nền văn minh thành thị xuất hiện rất sớm từ khoảng 2500 năm trước CN. Ngay từ thời Vê đa thiên văn học ấn độ đã bắt đầu xuất hiện. Người ấn độ cổ đã biết sáng tạo ra lịch pháp, phỏng đoán trái đất hình cầu và tự quay quanh trục của nó. Cuối thế kỷ V trước CN người ấn độ đã giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Về toán học họ cũng đã phát minh ra chữ số thập phân, tính được trị số pi...Hoá học, y học cũng rất phát triển. Tất cả những đặc điểm về hoàn cảnh địa lý, xã hội, văn hoá và khoa học kỹ thuật là những tiền đề lý luận và thực tiễn phong phú làm nẩy sinh những tư tưởng triết học của ấn độ thời cổ đại. 1.2 Những nét đặc thù của triết học ấn độ cổ đại Các luận thuyết triết học được phát sinh từ tư tưởng triết học đầu tiên là kinh thánh Vê đa, một trong những bộ kinh cổ của ấn độ. Các luận thuyết triết học sau thường dựa vào các luận thuyết có trước. Các nhà triết học sau chỉ là phát triển các quan điểm ban đầu không đạt mục đích tạo ra thứ triết học mới. Đa số hệ thống triết học dựa vào tri thức đã có trong Vê đa, mức độ nội dung của nó đã thay đổi. Các luận thuyết triết học ấn độ cổ đại rất chú ý tới vấn đề nhân bản, đó là vấn đề nhân sinh quan và con người được giải thoát. Hầu hết các trường phái triết học đều bàn tới cuộc sống con người, dù cách tiếp cận của các trường phái triết học khác nhau. Phạm trù “tính không’’ được chú ý nhiều trong một số trường phái triết học, đem đối lập “không’’ và “ hữu”, qui cái “hữu” về cái “không”. Biểu hiện một trình độ tư duy trừu tượng khá cao ở triết học ấn độ cổ đại. Giữa triết học và tôn giáo, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình thường có đan xen vào nhau, tạo ra vẻ đẹp riêng của nhiều luận thuyết triết học ấn độ cổ đại. Về vấn đề bản thể luận: Quan điểm duy tâm, tôn giáo và nhị nguyên luận trong triết học ấn độ cổ đại đều thừa nhận: “Tinh thần thế giới” Brát man sáng tạo và chi phối toàn bộ vũ trụ, linh hồn của con người (at man) là hiện thân của Brát man tồn tại vĩnh viễn theo luật luân hồi. Mục đích của linh hồn là siêu thoát, là điều kiện để linh hồn cá nhân thống nhất với “tinh thần thế giới”. Muốn vậy, con người không tham gia gì biết đổi cuộc sống trần thế, coi đó là cuộc sống xấu xa để thiên định nhờ sự linh báo của kinh Vê đa. Riêng Phật giáo không thừa nhận “ tinh thần thế giới” hay Thượng đế , có nghĩa là không thừa nhận có chúa. Phật giáo thừa nhận những nguyên tố tạo thành vũ trụ có tính chất vĩnh hằng. Nhưng Phật giáo thừa nhận linh hồn (at man) bất tử, độc lập với thể xác, trải qua nhiều kiếp do Nghiệp qui định, Phật hướng con người vào cõi Niết bàn và để đến được Niết bàn con người phải khổ công tu luyện, hướng tới cái tâm. Quan điểm duy vật trong triết học ấn độ cổ đại thừa nhận thế giới là vật chất, bao gồm vất chất Thô và Tinh. Không có lực lượng thần thánh nào tham gia, thừa nhận thế giới vật chất vận động, không có sự tồn tại của linh hồn phi vật chất, con người là sản phẩm của vật chất. Về phép biện chứng: phép biện chứng chất phát thô sơ là một gía trị lớn của triết học ấn độ cổ đại, thừa nhận thế giới vật chất vận động, biến đổi theo luật nhân quả. Thấy được mâu thuẫn của thế giới vật chất, nằm trong sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.Thế giới bao quanh con người vừa vận động, vừa đứng im. Đó là một mâu thuẫn con người cần phải chấp nhận. Đặc biệt đạo Phật với nguyên tắc căn bản là đạo lý duyên sinh chi phối vũ trụ và nhân sinh. Duyên sinh là do nhân duyên sinh ra, các hiện tượng vũ trụ nhân sinh đều do mối quan hệ kết hợp với nhau mà sinh ra. Hiện tượng quan hệ này liên quan đến quan hệ khác là nhân duyên. Sự vật xuất hiện là nhân duyên hội tụ, sự vật tiêu vong là do nhân duyên ly tán. Đó là duyên sinh, duyên diệt . Vì thế mà vạn vật trong vũ trụ biến hoá không ngừng. Về vấn đề đạo đức: Đạo đức là một trong những hình thái ý thức sớm nhất của các hình thái ý thức xã hội. Mẫu người lý tưởng của xã hội ấn độ cổ đại là con người đạo sỹ tâm linh, là con người ý thức vũ trụ. Các nhà triết học duy tâm, tôn giáo chủ trương con người từ bỏ cuộc đời trần tục xấu xa, không tham gia gì vào cuộc đời đó, phái thiền hoặc Niết bàn, nghĩa là chủ trương sống khổ hạnh. Các nhà duy vật cho rằng: Đời người phải được hưởng mọi thú vui của cuộc sống, quyền đó là hợp với tự nhiên. 1.3. Sự hình thành và phát triển của triết học ấn độ cổ đại Thời kỳ Vê đa (từ thế kỷ VII trước CN): Đây là thời kỳ xa xưa nhất, là thời kỳ dân Aryen thiết định dần dần trên đất ấn độ và truyền bá văn hoá, văn minh Aryen Là thời kỳ thờ nhiều thần, có tín ngưỡng của thổ dân Dravidien, và của nhiều dân tộc xâm lăng, đặc biệt là dân da trắng ấn-Âu Aryen tràn vào bắc ấn độ đầu thiên nhiên kỷ thứ II trước CN. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Vê đa, vì cơ sở tư tưởng của thời kỳ này là bộ kinh Vê đa. Nghĩa đen chữ Vê đa là biết, kinh Vê đa chứa tất cả cái biết của dân Aryen khi du nhập vào lưu vực Tây ấn Hà...Chữ Aryen không chỉ vào một giai cấp, một đô thị, hay một dân tộc. Họ từ Trung á du nhập vào ấn độ khoảng 3500-1200 trước CN, dần dần lan truyền sang lưu vực sông Hằng chinh phục và đồng hoá dân bản xứ thuộc chủng tộc Dravidien. Tư tưởng triết học thời kỳ này được biểu hiện trong những tác phẩm chủ yếu: Kinh Vê đa, Kinh Upanisad, và hai cuốn sử thi Ramayyana, Mahacharata. *Kinh Vê đa: là một trong những bộ kinh cổ của ấn độ và nhân loại. Vê đa không phải là một nhân vật sáng tác, mà nó là bộ sách thu lượm tất cả những bộ ca dao, vịnh phú, những tư tưởng quan điểm, tập tục lễ nghi của nhiều bộ lạc người Aryen, được chép bằng chữ và phân chia thành 4 tập chủ yếu sau: +Rig Vê đa: Tri thức về thánh ca, tán tụng, “Rig” có nghĩa là “tán ca”. Đây là bộ kinh cổ nhất gồm 1017 bài dùng để cầu nguyện chúc tụng công đức các bậc thánh thần trong đó có hai vị thánh thần được nhắc đến nhiều nhất là thần lửa và thần sấm sét. +Sama Vê đa: Tri thức về các giai điệu ca chầu khi hành lễ, gồm 1549 bài, là bộ sưu tầm những bài ca, vần điệu ca ngợi thần linh. Kinh này chuyên dùng cho các bậc “Ca vinh sư”. +Yajur Vê đa: Tri thức về các lời khấn tế, những công thức, nghi lễ khấn bái trong hiến tế. Còn gọi là “Tế tự Vê đa”, chuyên dùng cho các “hành lễ sư”. +Atharva Vê đa: Tách riêng với ba bộ trên, gồm 731 bài văn vần, là những lời khấn bái mang tính bùa chú, ma thuật, phù phép nhằm đem lại những điều tốt lành cho bản thân và người thân, gây tai họa cho kẻ thù. Vê đa còn có các bộ phận muộn hơn là: Brahmana-gồm những bài cầu nguyện, giải thích các nghi lễ của Vê đa giành cho các tu sĩ; Aranyaka – nghĩa là suy tưởng trong rừng, giải thích ý nghĩa huyền bí của những nghi lễ Vê đa,dùng cho những tu sĩ khổ hạnh, ẩn dật; Và kinh Upanisad *Kinh Upanisad: Đây là bộ kinh quan trọng nhất của Kinh Vê đa. Nó là những kinh sách bình chú tôn giáo-triết học, giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của tư tưởng thần thoại, tôn giáo Vê đa, được biên soạn qua nhiều thế kỷ. Upanisad là ngồi trang nghiêm cùng giảng giải lý thuyết cao siêu với thầy. Upanisad được viết dưới hình thức hội thoại, có hơn 200 bài kinh. Sự ra đời của Upanisad được coi là một bước nhảy vọt từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học. Xu hướng chính của Upanisad là biện hộ cho tư tưởng duy tâm, tôn giáo trong kinh Vê đa, về “tinh thần sáng tạo tối cao” chi phối thế giới. Upanisad đã coi bản nguyên tinh thần vũ trụ tối cao Bratman là thực thể duy nhất có trước, tồn tại vĩnh viễn bất diệt. Còn linh hồn con người (atman) là sự biểu hiện một bộ phận của Bratman, cơ thể là vỏ bọc của atman, là nơi cư trú của atman. ý chí ham muốn, hành vi của con người, nhằm thoả mãn những ham muốn trong trần gian, đã gây nên những hậu quả, gieo đau khổ cho kiếp này, cả kiếp sau gọi là nghiệp báo. Do vậy mà atman bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác này đến thể xác khác, bị che lấp, bị ràng buộcbởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh gọi là luân hồi. Muốn giải thoát cho atman thì con người phải dốc lòng, toàn tâm tu luyện, lúc đó con người mới nhận thức được bản thân mình, lúc đó atman mới đồng nhất được với Bratman. Bắt đầu siêu thoát. Chính nội dung triết học phong phú ấy mà Upanisad trở thành nguồn gốc, quan điểm, các hệ thống triết học ấn độ sau này. *Tư tưởng triết học trong bộ sử thi Ramayyana: Tư tưởng chủ yếu như dấu son trong Ramayyana đó là ý nghĩa triết lý đạo đức- nhân sinh trong quan niệm về con người, về xã hội và bổn phận tự nhiên của con người, về cái thiện và cái ác của người ấn độ cổ xưa. Con người không phải là cái gì tuyệt đối, đơn điệu, mà luôn luôn chứa đựng những mâu thuẫn, có phần cao thượng, có cái thiện nhưng cũng có phần thấp hèn, có cái ác luôn giằng co, đun đẩy nhau. Trong Ramayyana cũng ghi lại những quan điểm duy vật ngây thơ, cho rằng con người ta sinh ra từ đất và chết đi lại trở về với lòng đất vĩnh viễn, phê phán cái gọi là linh hồn bất tử và giáo lý Bàlamôn. Đồng thời đề cao cảnh giác: Chúng ta chỉ tin ở những điều mà cảm giác của chúng ta cho biết mà thôi. *Tư tưởng triết học trong bộ sử thi Mahacharata: Tư tưởng triết học trong bộ sử thi Mahacharata cho ta thấy rằng cái thiết yếu nhất trong mỗi con người không phải là cảm giác, tình cảm, ý muốn...mà chính là linh hồn bất diệt. Linh hồn bất diệt ở mỗi con người có thể xác, hình hài cụ thể chỉ là sự biểu hiện hay là sự hiện thân khác nhau của cùng một cái duy nhất, tuyệt đối, tối cao, bất diệt tự nhiên vốn có, là nguồn gốc của tất cả mọi cái đang tồn tại, đó là “ Tinh thần tuyệt đối tối cao”. b.Thời kỳ cổ điển: (hay thời kỳ Bàlamôn-Phật): Đây là thời kỳ kinh tế -xã hội nô lệ ấn độ phát triển cao, nhưng vẫn bị kìm hãm bởi nhà nước quân chủ chuyên chế của tổ chức công xã nông thôn, sự khắc nghiệt của chế độ đẳng cấp. Về tinh thần: thế giới quan duy tâm-tôn giáo trong kinh Vê đa, Upanisad, của Bàlamôn được suy tôn thành hệ tư tưởng chính thống trong đời sống tinh thần xã hội. Các tài liệu triết học đa dạng xuất hiện dựng lên chống hệ thống giáo lý Balamôn, đáng chú ý là các phái duy vật của thời kỳ này. Vào thời kỳ này xuất hiện rõ sự phân chia các trường phái triết học: Phái chính thống thừa nhận uy quyền của kinh Vê đa (gồm Sam khuya, Nayaya,Yoga, Minamsa, Vêđanta, Vaisesika) ; Phái không chính thống (gồm Lokayata, Phật giáo, Jai-Na). 1.4 Những trường phái triết học chính thống a. Phái Samkhyua: Đây là trường phái triết học duy vật, đối lập với đường lối Vêđanta. Về tư tưởng là vô thần, phủ nhận sự tồn tại của thần thánh, bác bỏ tinh thần Bratman, với tư cách là một thực thể siêu nhiên. Về quan điểm duy vật: Điểm xuất phát để giải thích toàn bộ sự tồn tại của thế giới là vật chất. Họ phân biệt hai loại vật chất:Tinh và Thô. Loại Tinh là cơ sở loại Thô, loại Tinh thì không thể nhận thức bằng trực quan. Khi lý giải về quan hệ khách quan của thế giới, phái Sam khuya đã đi tới quan niệm có tính biện chứng về quan hệ nhân quả. Họ cho rằng kết quả tồn tại trong nguyên nhân, trước khi nó xuất hiện trong thực tế và họ đã khảo cứu quá trình nhân biến thành quả. Tính khách quan của quan hệ nhân quảđã được khẳng định: “nhân nào –quả đấy”. b. Phái Nyaya-Vaisesika: Thời kỳ đầu đây là hai phái riêng, dần về sau hợp thành một. Đây là trường phái duy vật, có đóng góp về ba phương diện: -Thuyết nguyên tử. -Lý luận nhận thức. -Lôgic học. Theo trường phái này thì toàn bộ mọi sự vật đều thực hiện sự chia nhỏ mãi mãi, sẽ đến lúc không thể chia nhỏ -đó là nguyên tử. Họ cho rằng nguyên tử có vô số và tồn tại vĩnh viễn. Tư tưởng như vậy về vật chất là còn mang tính trực quan, nhưng thể hiện một ý tưởng tư duy trừu tượng triết học. Tư tưởng ấy về nguyên tử đã có trước cả tư tưởng về nguyên tử của Lô-xip và Demôcrit. Phái Nayaya-Vaisesika đã xây dượng Lô gic hình thức, đưa ra 5 bước suy luận theo thứ tự sau: - Luận đề - Đồi có lửa. - Nguyên nhân - Vì đồi bốc khói. - Ví dụ -Mọi cái bốc khói đều có lửa ví dụ bếp lò -Suy đoán -Đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy -Kết luận -Do đó đồi có lửa cháy Nhận thức luận cũng mang tính duy vật: Thừa nhận mọi vật xung quanh, con người là đối tượng của nhận thức, và họ nêu ra quan niệm tiêu chuẩn của nhận thức đúnh là nó thoả mãn được mục đích mà con người đề ra hay không. c. Phái Yoga: Về mặt tư tưởng triết học, phái này không có gì đóng góp lớn, phái này nặng về thực hành, điều này đáng nói về mặt triết học ở chỗ họ đã thấy được sự thống nhất giữa thể xác và linh hồn, do đó phương pháp rèn luyện mà những người này sử dụng là kết hợp rèn luyện thể xác với rèn luyện vềtinh thần qua 8 nguyên tắc cơ bản sau: -Hoà ái -Điều khiển cảm giác tư duy -Tiết dục -Tập trung -An vị -Thiềm -Thở -Tuệ: kết quả luyện tập sẽ đạt trí tuệ-sự bừng sáng về tư duy d.Phái Minamsa: Quan điểm vô thần. Những người theo phái này bác bỏ thần thánh mặc dù họ tuyên bố là người theo Vê đa. Họ cho rằng: Không có bằng chứng nào chứng tỏ có thần thánh. Thần thánh không thể quyết định con người, mà con người chịu hậu quả của chính hành vi của mình. Theo tinh thần ấy họ cho rằng những nghi lễ qui định trong Vê đa chỉ có giá trị ở chỗ khi thực hiện những nghi lễ ấy, nó sẽ làm tăng thêm sức mạnh tinh thần của con người trước khi hành động chứ không phải nhờ thần thánh mà con người có thêm sức mạnh. Quan điểm duy vật, phái Minamsa thừa nhận sự vật tồn tại độc lập với con người, từ đó họ bác bỏ quan điểm trong triết học Phật giáo nói rằng: Mọi vật đều là ảnh ảo. Về mặt nhận thức: Phái này đã phân biệt hai loại cảm giác: ảo và thực, cũng như vai trò của chúng đối với nhận thức con người. e. Phái Vêđanta: Phái Vêđanta xuất phát từ tác phẩm cuối cùng của kinh Vê đa tác phẩm Upanisad. Phái này đã phát triển những yếu tố duy tâm, thần học trong Upanisad. Trong tác phẩm này có nói đến khái niệm Bratman. Bratman là gì? Nó quan hệ như thế nào với atman? Xoay quanh vấn đề đó đã có những câu trả lời khác nhau của chính những người theo phái Vêđanta. Quan niệm thứ nhất: Coi tinh thần Bratman là vĩnh hằng, tràn đầy vũ trụ, còn tinh thần atman thì là một bộ phận của Bratman. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đưa atman trở về với Bratman. Quan niệm thứ hai: Bratman, atman là đồng nhất và cả hai đều phải được coi trọng. Quan điểm này có khuynh hướng duy vật khi khẳng định atman phụ thuộc cơ thể, thần xác con người, thần xác khoẻ mạnh thì atman mới sáng suốt. Những tư tưởng của Vêđanta rất gần với quan điểm của Phật giáo. Những trường phái triết học không chính thống Phái Lokayata: Đây là phái triết học duy vật triệt để nhất trong các trường phái triết học ấn độ cổ đại. Về học thuyết tồn tại: Phái Lokayata cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ gồm 4 yếu tố: Đất, nước, lửa và không khí tạo nên. Đặc tính của các vật thể đều phụ thuộc ở chỗ là sự kết hợp của những nguyên tử, tỷ lệ kết hợp các nguyên tử. ý thức lý tính của các giác quan xuất hiện cũng do sự kết hợp của các nguyên tử. Khi các sinh vật chết đi sự kết hợp đó bị tan rã thành các nguyên tử của các biến thể tương ứng tồn tại trong giới vô sinh. Về nhận thức và lô gic học: Nhận thức còn mang tính chủ quan, coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức, các giác quan của con người có thể tri giác được các sự vật vì bản thân các giác quan cũng gồm những nguyên tố gần như sự vật. Họ coi suy luận, kết luận là phương pháp sai lầm của nhận thức giống như kinh Vê đa. Chỉ có cái gì cảm biết được mới tồn tại. Từ đó họ phủ nhận tính hiện thực của thượng đế, của linh hồn. b. Phật giáo (trình bày ở chương sau) c. Phái Jai-Na: Phái Jai-Na là một tôn giáo nhưng có những luận điểm triết học . Khi luận giải về bản thể, họ cho rằng thế giới xung quanh con người vừa tĩnh tại vừa động, vừa biến vừa bất biến, đó là một mâu thuẫn nhưng con người phải chấp nhận, không thể phủ nhận thực tế đó. Như vậy trong triết học phái Jai-Na có tính biện chứng. Là một tôn giáo, phái Jai-Na rất chú ý đến vấn đề nhân sinh quan, vấn đề giải thoát. Nếu như Phật giáo cho rằng: “Đời là bể” thì Phái Jai-Na phân biệt: Sống ác mới khổ, còn nếu sống theo điều thiện thì sẽ có hạnh phúc. Phái Jai-Na phê phán các phái khác, cho rằng các phái khác đều là cực đoan. Họ cho rằng không có cái gì tuyệt đối, họ theo thuyết tương đối luận, và theo nhị nguyên . II. Tư tưởng triết học của Phật giáo và những giá trị của nó 2.1 Người sáng lập ra Phật giáo Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI trước CN ở miền bắc ấn độ, phái Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa ấn độ và Nêpan bây giờ. Đạo Phật ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ ấn độ. Người sáng lập ra đạo Phật là Tất Đạt Đa, con đầu của vua nước Tịnh Phạn, một nước nhỏ nằm dưới chân núi Hymalaya. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc đời vương giả, đi tu luyện tìm con đường diệt trừ nỗi khổ của dân chúng. Sau 6 năm liền tu luyện, ông đã ngộ đạo, tìm ra chân lý “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”. Ông trở thành Phật Thích Ca Mầu Ni. Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau viết thành văn, thể hiện trong một khối lượng kinh điển rất lớn, goi là “Tam tạng” gồm ba bộ phận: -Tạng kinh ghi lời Phật dạy. -Tạng luật gồm các giới luật của đạo Phật. -Tạng luận gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả về sau. 2.2. Nội dung tư tưởng triết học và triết lý nhân sinh quan cùng con đường giải thoát “Bể khổ” của Phật giáo a. Triết lý về bản thể luận của thế giới: Trái với quan điểm của kinh Vê đa, Upanisad, đạo Bàlamôn và các phái triết học đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tôí cao, sáng tạo và chi phối vũ trụ. Đạo Phật cho rằng vũ trụ là vô thuỷ, vô chung, vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hoá vô thường, vô định không do một vị thần nào sáng tạo nên cả. Vì thế giới luôn là dòng biến ảo vô thường, nên không có cái gọi là bản ngã, không có thực thể, tất cả theo luật nhân quả cứ biến đổi không ngừng, không nghỉ, theo quá trình sinh, trụ, di, diệt hay thành, trụ, hoại, không và chỉ có sự biến hoá ấy là thường hữu.Tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ, theo triết học Phật giáo, từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn, đều không thoát ra khỏi sự chi phối của luật nhân duyên. Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh thành quả. Quả lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới...Cứ thế, nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh, hoá hoá mãi. Con người cũng do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành phần: thể xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp tan của ngũ uẩn. Cái tôi sinh cái lý, tức thể xác gọi là sắc gồm:địa thuỷ, hoả, phong, tức cái có thể cảm giác được. Cái tôi tâm lý, tinh thần, tức là tâm gọi là Danh, với bốn yếu tố chỉ có tên gọi mà không có hình chất là: Thụ, cảm thụ về khổ hay lạc đưa đến sự lãnh hội với thân hay tâm; Tưởng tức suy nghĩ, tư tưởng; Hành ý muốn thúc đẩy hành động, tạo tác; và Thức tức nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý, phân biệt ta là ta...Nhưng sắc không chỉ gồm cái nhìn thấy mà cả cái không nhìn thấy; nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của sắc, gọi là “vô biểu sắc”. Đạo Phật đã kế thừa lý thuyết về luân hồi và lý thuyết về nghiệp của đạo Bàlamôn, và cũng kế thừa luận thuyết về quan hệ nhân quả của trường phái duy vật Sankhuya. Tuy nhiên, khác với những trường phái trên; nếu đạo Bàlamôn nhằm duy trì trật tự đẳng cấp, áp bức bóc lột, thì đạo Phật lại đòi quyền bình đẳng của con người, đòi xóa bỏ đẳng cấp. Xây dựng một thế giới hồn linh, lấy Niết bàn làm mục đích vươn tới; Khái niệm nhân quả mà phái Samkhuya đề cập chủ yếu luận giải trong tự nhiên. Còn Đạo Phật vận dụng phạm trù này chủ yếu vào lĩnh vực xã hội, xây dựng quan niệm nhân sinh và tìm con đường giải thoát cho chúng sinh khỏi vòng “ luân hồi”. Số khiếp vượt ra khỏi “bể khổ”. Như vậy cốt lõi triết lý Đạo Phật được tập trung ở nội dung của các phạm trù sau: * Phạm trù duyên khởi: Phạm trù này bao hàm tư tưởng : Mọi sự vật hiện tượng trên thế giới không có thần linh hay thượng đế nào tạo ra. Mà sự vật hiện tượng nguyên nhân của bản thân nó, tuân theo qui luật nhân quả mãi mãi, thông qua điều kiện nhất định. Nếu không có nhân thì không có quả, và nhân sẽ không biến thành quả, nếu không có điều kiện nhất định ( duyên). * Phạm trù “Vô ngã” : Phạm trù này bao hàm tư tưởng: Bản chất không tồn tại độc lập tuyệt đối, không có bản chất ngoài sự vật hiện tượng. Khi sự vật hiện tượng tan rã, thì bản chất của nó không còn, không có linh hồn ngoài sự vật hiện tượng. ở đây thể hiện quan điểm duy vật và một số yếu tố sơ khai. *Phạm trù “Vô thường” : Phạm trù này bao hàm tư tưởng: Mọi sự vật đều biến đổi, không có gì trường tồn bất biến. *Phạm trù Duyên: Nhân quả tương hợp. Nói tóm lại các phạm trù: Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường, Duyên của Đạo Phật đã toát lên quan điểm duy vật và biện chứng. b. Triết lý về nhân sinh quan và con đường giải thoát: Điều mà Phật giáo quan tâm là triết lý về nhân sinh và con đường giải thoát chúng sinh khỏi luân hồi bể khổ của đời người. Nội dung triết học nhân sinh quan của Phật giáo tập trung ở bốn luận đề (tứ diệu đế) được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại: + Luận đề thứ nhất: Khổ đế. Phật giáo quan niệm : “Đời là bể khổ” Phật Thích Ca nói: “Ta chỉ dạy có một điều : khổ và diệt khổ”. Quan niệm đó đặc biệt rõ trong câu nói sau: “Bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển”. Từ quan niệm chung về cuộc đời Phật giáo đã chia thành 8 loại khổ sau: Sinh khổ- Lão khổ- Bệnh khổ- Tử khổ- Thụ diệt khổ- Oan khổ- Sở cầu bất đắc khổ và Ngũ thụ uẩn khổ + Luận đề thứ hai: Nhân đế. Phật giáo sau khi đưa ra quan niệm bi quan về cuộc đời đã truy tìm nguyên nhân dẫn tới sự khổ. Đó là 12 nguyên nhân (thập nhị nhân duyên) : 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh; 12. Lão,Tử. Trong 12 nhân duyên ấy thì Vô minh (tức ngu tối, không sáng suốt) và ái dục (lòng tham) là những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự khổ. Khi lý giải về nguyên nhân dẫn tới sự khổ, Phật giáo vận dụng phạm trù Nhân quả để phân tích: ái dục + Vô minh (là nhân) sinh ra khổ (là quả) thông qua hành động (gọi là nghiệp). Điểm hạn chế lịch sử trong quan niệm Phật giáo về nguyên nhân sự khổ là không thấy được nguồn gốc xã hội của nó: Mà mới dừng lại ở chủ nghĩa tự nhiên. + Luận đề thứ ba: Diệt đế. Cứu cánh của Phật giáo là Niết bàn. Khi đạt tới Niết bàn , khi đó hết sự khổ. Niết bàn chia làm hai mức độ: Toàn phần và từng phần. + Luận đề thứ tư: Đạo đế. Phật giáo chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường tu đạo, hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm tám nguyên tắc (bát chính đạo): Chính kiến ( hiểu biết đúng sự thật nhân sinh). Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn ). Chính ngữ (giữ lời nói phải). Chính nghiệp (Giữ đúng trung nghiệp). Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng). 6. Chính tinh tiến ( rèn luyện không mệt mỏi ). 7. Chính niệm (có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát). 8. Chính định (an định). Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào ba điều học tập, rèn luyện là: Giới- Định- Tuệ (tức giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thông trí tuệ. Bốn luận điểm nói trên của Phật giáo được coi là “4 chân lý vĩ đại” mà tất cả những người theo đạo Phật phải tuân theo. Đây chính là nội dung căn bản về nhân sinh quan , về con đường giải thoát khỏi sự khổ. c. Quan điểm về chính trị xã hội: Thể hiện tiếng nói đấu tranh phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nhiệt bất công, đấu tranh đòi bình đẳng, khuyên sống đạo đức. Mặc dù còn nhiều khuyến khuyết nhưng dù sao Phật giáo cũng là một học thuyết triết học về xã hội mang tính tích cực ở xã hội ấn độ cổ đại và nó ảnh hưởng quan trọng đến đời sống tư tưởng nhiều nước. 2. 3. Những giá trị của triết học Phật giáo a. Tích cực: Triết học Phật giáo đã chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng sơ khai, thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Phủ nhận sự sáng tạo thế giới bởi Bratman, cũng như phủ nhận cái tôi “Atman” và đưa ra quan niệm “vô ngã” và “vô thường” ; Song mặt khác, lại thừa nhận quan điểm luân hồi và nghiệp trong Upanisad. Nó đã đưa lại nhiều đóng góp quí báu vào kho tàng di sản triết học của nhân loại nói chung, của chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Triết học Phật giáo thể hiện tư tưởng vô thần, những lại duy tâm về mặt xã hội, biểu hiện ở quan niệm về cuộc đời bi quan, mới chỉ tìm ra được nguyên nhân ở góc độ sinh học, chứ chưa tìm ra được nguyên nhân về áp bức giai cấp. Con đường giải thoát là không tưởng, nhưng đã chỉ ra con đường, hướng đi đòi phải đấu tranh giải phóng con người khỏi khổ đau. Triết học Phật giáo đã đem lại niềm tin vào sự giải thoát con người tới cuộc sống bình đẳng bác ái. Mặc dù con đường giải thoát là không tưởng. Chúng ta phải biết kế thừa, tiếp thu có chọn lọc tính nhân văn, tính hướng thiện, tính khai sáng, tính cộng đồng cứu nhân độ thế, tính trung thực , tính kiên trì rèn luyện tu dưỡng nhưng trên lập trường thế giới quan của chủ nghĩa Macxít và đấu tranh giải phóng con người ngay trong xã hội hiện thực mà con người đang sống, đem lại xã hội phát triển tự do cho con người, và điều đó chỉ có được ở chủ nghĩa xã hội. b. Hạn chế: Triết học Phật giáo bàn về cuộc đời con người bi quan “Đời là bể khổ”. Tìm nguyên nhân nỗi khổ không đúng. Phải tìm nguyên nhân nỗi khổ ở khía cạnh kinh tế, giai cấp, chứ không phải nguyên nhân vô thần, ái dục, nghiệt báo... Triết học Phật giáo đã phần nào tìm được nguyên nhân nỗi khổ, nhưng con đường giải phóng con người không đúng- tu nghiệp Nhưng dù sao Phật giáo cũng là một học thuyết triết học về xã hội mang tính tích cực ở xã hội ấn độ cổ đại và nó đã có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống tư tưởng, và từ đó ảnh hưởng tới lĩnh vực chính trị của nhiều nước, trong đó có Việt nam ở nhiều triều đại phong kiến, đặc biệt thời kỳ Lý-Trần. Kết luận Lịch sử phát sinh và phát triển của các tư tưởng triết học ấn Độ chứng tỏ đó là một nền triết học có một truyền thống lâu đời. Hình thành từ cuối thiên niên kỷII đầu thiên niên kỷ I trước CN, từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo, người ấn Độ đã sáng tạo nên triết học, dựa trên tư duy trừu tượng, lý giải căn nguyên của vũ trụ, nhân sinh và cố gắng vạch ra bản chất đời sống tâm linh con người, với các tác phẩm triết học, các trường phái tư tưởng nổi tiếng như: Vê đa, Upanisad, Đạo Bàlamôn, Đạo Phật, Đạo Jaina, Yoga, Samkhuya, Nyaya, Vaisesika, Vedanta...Nền triết học ấy ngay từ đầu đã diễn ra cuộc đấu tranh không kém phần gay gắt giữa thế giới duy tâm, tôn giáo với tư tưởng duy vật, vô thần, giữa tinh thần lạc quan với thái độbi quan yếm thế, giữa những quan điểm mang tính đa nguyên với những quan điểm có tính nhất nguyên, giữa phương pháp tu luyện và địa bàn hoạt động. Các trường phái triết học, tôn giáo đó vừa “cạnh tranh” với nhau, lại vừa kế thừa tư tưởng của nhau, tạo nên những khái niệm, những phạm trù triết học, tôn giáo có tính truyền thống, cơ bản, nhưng cũng hết sức phong phú, chịu sự chi phối mạnh mẽ của kinh Vê đa và các tôn giáo lớn của ấn Độ cổ đại. Triết học ấn Độ cổ đại là một nền triết học có nội dung tư tưởng và hình thức đa dạng, phản ánh sâu sắc sinh hoạt của xã hội ấn Độ thời cổ, nó đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau của triết học, từ bản thể luận đến nhận thức luận, từ tâm lý, đạo đức đến quan điểm về chính trị, xã hội, pháp luật...Dù dưới những hình thức muôn màu, muôn vẻ, nhưng hầu hếtcác trường phái triết học đều tập trung vào lý giải về lẽ uyên nguyên của vũ trụ, vạn vật, chú ý đến bản chất đời sống tâm linh và sự tương ứng giữa nị tâm và ngoại giới, tìm ra căn nguyên nỗi khổ của cuộc đời, vạch ra cách thức, con đường để giải thoát con người khỏi những nỗi khổ ấy bằng nhận thức trực giác và thực nghiệm tâm linh. Vì thế, tư tưởng triết học ấn Độ gắn liền với tôn giáo. Nó là triết học của đời sống, là triết lý đạo đức nhân sinh rất thâm sâu. Tư tưởng triết học và nền văn hoá ấn Độ là một thế giới kỳ diệu, đầy sức quyến rũ, chưa hề tàn lụi trong lịch sử. Tư tưởng ấy , nó nẩy sinh từ đời sống và đi ngay vào đời sống, là hơi thở, thậm chí là cứu cánh của cuộc sống nhân dân ấn Độ. Vì vậy, chúng takhông hề ngạc nhiên khi những tư tưởng triết học, tôn giáo ấn Độ như kinh Vê đa, kinh Upanisad, đạo Phật...đã có từ hơn ba ngàn năm nay, vẫn còn truyền tụng sâu rộng trong đời sống nhân dân ấn Độ và nhân dân các dân tộc trên thế giới. Vì vậy việc nghiên cứu lịch sử triết học ấn Độ nói riêng, văn minh ấn Độ nói chung là hết sức cần thiết. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin Nxb Chính trị quốc gia 2. Triết học tập I Nxb Chính trị quốc gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTHAnDoTHPhatgiao.doc