Tài liệu Đề tài Khái quát tỉnh Khánh Hoà: mỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây,cùng với sự phát triển của du lịch nước nhà, du lịch Khánh Hoà cũng đang từng bước chuyển mình và đã có những bước phát triển khá toàn diện, các chỉ tiêu cơ bản đạt mức bình quân khá cao và ổn định. Nha Trang – Khánh Hoà đang tiếp tục vươn mình để trở thành một trong những Trung tâm kinh tế, văn hoá, du lịch và thương mại của khu vực miền Trung cũng như cả nước, thu hút ngày càng nhiều khách trong và ngoài nước.
Thành phố Nha Trang với rất nhiều điểm du lịch, sau đây em xin trình bày một số điểm du lịch trong thành phố như tháp bà Ponagar, chùa Long Sơn, Hòn Chồng, viện Hải Dương Học.
Cùng với những gì đã cố gắng thực hiện, nhưng chắc rằng bài tiểu luận này sẽ không tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đánh giá, đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo đã chỉ bảo tận tình và giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này.
KHÁI QUÁT TỈNH KHÁNH HOÀ
Khánh Hoà là một trong 64 tỉnh thành của cả nước c...
53 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Khái quát tỉnh Khánh Hoà, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây,cùng với sự phát triển của du lịch nước nhà, du lịch Khánh Hoà cũng đang từng bước chuyển mình và đã có những bước phát triển khá toàn diện, các chỉ tiêu cơ bản đạt mức bình quân khá cao và ổn định. Nha Trang – Khánh Hoà đang tiếp tục vươn mình để trở thành một trong những Trung tâm kinh tế, văn hoá, du lịch và thương mại của khu vực miền Trung cũng như cả nước, thu hút ngày càng nhiều khách trong và ngoài nước.
Thành phố Nha Trang với rất nhiều điểm du lịch, sau đây em xin trình bày một số điểm du lịch trong thành phố như tháp bà Ponagar, chùa Long Sơn, Hòn Chồng, viện Hải Dương Học.
Cùng với những gì đã cố gắng thực hiện, nhưng chắc rằng bài tiểu luận này sẽ không tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đánh giá, đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo đã chỉ bảo tận tình và giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này.
KHÁI QUÁT TỈNH KHÁNH HOÀ
Khánh Hoà là một trong 64 tỉnh thành của cả nước có tiềm năng lớn để phát triển du lịch và là ngành kinh tế mang lại nguồn thu lớn cho tỉnh. Khánh Hoà rất được thiên nhiên ưu đãi và dường như được tao hoá đã đặt sẵn từ rất lâu. Tỉnh Khánh Hoà ở vị trí phía nam của Việt Nam nhưng thuộc miền trung của đất nước. Phía Bắc giáp 2 quận Thiếu Xương và phía Bắc thuộc tỉnh Phú Yên ở cây số 1360, 815 trên quốc lộ 1A, phía Tây giáp Đak Lăk ở cây số 98 trên quốc lộ 21, phía nam giáp tỉnh Ninh Thuận ở cây số 1512 quốc lộ 1A, phía đông giáp biển đông, với đường bờ biển dài 200 km (383km) có hơn 200 đảo lớn nhỏ. Khánh Hoà bao gồm một tỉnh lị là Nha Trang ở cây số 1453 cách trung Hoa 121 km, cách Quy Nhơn 238 km, cách Đà Nẵng 520 km, cách Huế 627 km, cách Buôn Mê Thuật 193 km, cách Phan Rang 106 km, cách Đà Lạt 237 km, cách Phan Thiết 251 km, cách TP. Hồ Chí Minh 448 km.
Khánh Hoà với diện tích 5997 km2 với thành phố Nha Trang có diện tích 256 km2, thĩ xã Cam Ranh 338 km và huyện Cam Lâm tách ra từ thị xã Cam Ranh vào năm 2007 với diện tích 948 km2, huyện Diên Khánh diện tích 1364 km2, Vĩnh Xương 296 km, Ninh Hoà 1049 km2, Khánh Dương 1.384 km2, Vạn Ninh 618 km.
Tỉnh Khách Hoà nằm dọc theo bờ biển giống như một hình tam giác cân, chiều dài 150 km2, chỗ rộng nhất 90 km2. ngày xưa 3 tỉnh :Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định có nhiều mối liên kết tinh thần, nhất là trong các phong trào ái quốc và được diễn tả:
“Anh về Bình Định Thăm Cha
Phú Yên Thăm mẹ, Khánh Hoà Thăm em”
Khánh Hoà là một tỉnh nằm sát dãy núi Trường Sơn, đa phần diện tích Khánh Hoà là đồi núi, phía đông là đồng bằng nhỏ hẹp ven biển chiếm diện tích 1/5 diện tích của tỉnh. Miền đồng bằng được chia ra từng ô, do sự ăn lan ra biển của các dãy núi đâm ra tới biển từ đó tạo ra nhiều đèo mà quốc lộ 1A ven biển phải vượt qua như: đèo Cổ Mã, đèo Cả, đèo Chín Cụm, đèo Bánh Ít , đèo Rọ Tượng, đèo Rù Rì, với hệ thống núi đèo đó nên có những câu thơ sau:
“Thương em tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, bát cửu đèo cũng qua”
Các đồng ruộng chủ yếu ở các lưu vực sông như ở Vạn Ninh thuộc lưu vực sông Bình Trung, vùng Ninh Hoà thuộc sông Dinh, vùng Diên Khánh và Vĩnh Xương thuộc lưu vực sông Cái và vùng Đồng Lác tức là khu vực các xã Cam Phúc thuộc thị xã Cam Ranh thuộc lưu vực sông Tà Dục, phía tây bắc của tỉnh là vùng cao nguyên Khánh Dương trước kia thuộc tỉnh Đăk LăK và được sát nhập vào Khánh Hoà ngày 11/5/0958 rộng 1.000 km2 thuận tiện cho chăn nuôi và trồng cây kỷ nghệ.
Về địa chất, do tỉnh nằm trong vùng núi trùng điệp xen vào giữa là những con sông chảy ngang địa thế đó cũng ảnh hưởng tới cấu tạo của địa chất đất. Núi ở Khánh Hoà hầu hết đều cao và nhọn. Những dãy ở phía bắc và tây bắc nằm trong hệ thống hòn Vọng Phu và đèo Cả, toàn là núi đá lớn thuộc loại đá hoa cương ( granit) chồng lên nhau được kết hợp bởi một lớp đất đỏ dẻo.
Do những ảnh hưởng của sự cấu tạo đó mà những dãy núi ở gaafnnhuw vùng Maraarrac, vùng Ninh Sim, Dục Mỹ, phía trên thì được phủ một lớp đất thịt dày khoảng 4-5 tấc ở dưới toàn là đá tảng hoặc đá cuội, trồng cây rất xấu và rễ không ăn sâu được. Còn nhưng dãy núi khác phần lớn là dãy đất đỏ, trồng hoa màu là thuốc lá và sắn.
Ở Cam Lâm một ít dãy núi có loại đá tai mèo cứng và sâu, có cát trắng với bãi cát Thuỷ Triều. Ở các miền châu thổ thì có các loại đất sau: đất phù xa do các con sông bồi đắp ở ven cửa tạo thành những cánh đồng phì nhiêu như vùng châu thổ Vạn Ninh, xưa kia bờ biển ăn sâu vào chân núi nhưng qua thời gian do các con sông bồi đắp dần hình thành đồng bằng ven biển.
Vùng châu thổ Ninh Hoà gồm các xã nằm hai bên hạ lưu sông Dinh như xã Ninh Thuận, Ninh Đông, Ninh Giang, Ninh Bình, Ninh Hiệp, Ninh Đa, Ninh Hà, Ninh Lộc. Vùng Diên Khánh và Vĩnh Xương cũng gồm các xã nằm 2 bên bờ sông Cái từ Thành đổ xuống mà xưa kia bờ biển ăn mãi vào tận núi chúa. Sở dĩ chúng ta đoán được là căn cứ vào hai dữ liệu : một là dãy cáp neo ghe bị vùi xuống đất ở Xuân Phong thuộc thị xã Vĩnh Phương được tìm thấy trong lúc đào giếng. Hai là tại thôn Đại Điền Nam có chỗ gọi là “ rốn biển” giữa làng xóm, vườn ruộng có một khoảng trống nằm sát đường đi mỗi chiều độ khoảng 3m nước sâu 1m. thế mà trước kia có một con trâu lội qua bị chìm mất tích. Cũng có lấy cành tre thật dài cắm xuống để đo độ sâu thì hết cây tre mà không tới đáy. Vì vậy người ta rào dây thép gai xung quanh để người và súc vật khỏi đi qua.
Loại đất phù sa này rất tốt phù hợp cho trồng lúa và hoa màu. Đất cát pha tại các vùng biển như ở các thôn Xuân Tự, Hiền Lương,Quang Hội, Phú Hội thuộc Vạn Ninh, Ninh Hoà, Vĩnh Xương, Thuỷ Triều Cam Ranh.
Đất đỏ pha cát từ Dục Mỹ đến Ninh Hoà,đất này xấu, cây cối cằn cỗi.
Đất đa tay là loại đất đen ở Cam Lâm thì khô cứng như đá.
Nhìn chung địa chất ở Khánh Hoà đa phần vẫn là đất sỏi. Vì vậy ngành nông nghiệp không đóng vai trò quan trọng mà chủ yếu phát triển về du lịch.
Về hệ thống núi thì toàn bộ các tỉnh miền trung đều có nuí đặc biệt là dãy Trường Sơn chiếm một phần lớn diện tích.
Khi tới địa đầu của tỉnh Khánh Hoà dãy núi này nằm theo thế hoành sơn tựa hồ như một cánh tay mỹ nhân dang ra tới biển để hàng ngày như vỗ về ôm ấp những làn sóng từ biển đổ vào có ngọn cao đến 2.000m cây cối um tùm quanh năm với một màu xanh biếc. Ở địa đầu là ngọn núi đèo Cả(407m) với trạm Phú Hoà xưa kia là nơi nghỉ chân của khách bộ hành với những quán nước, nhà gác. Bây giờ chỉ còn những tảng đá, những chòm cây xơ xác. Nơi đây cũng là danh giới của hai tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên ở cây số 1360.815 quốc lộ 1A đường đi lên dốc xuống đèo rất nguy hiểm. Qua khỏi đèo Cả đường đi ngoằn ngèo trên 10 km, một bên là núi dựng đứng, một bên là Vũng Rô. Khi đi trên xe mọi người đều chóng mặt với chiếc xe uốn lượn theo con đường bắc nam và đã có câu ; “ vô đèo cả lên dương xuống dốc
Trên rừng già dưới biển chù vá
Ngồi trên xe liếc mắt ngó chơi
Đường khuất khúc quanh co nhiều nỗi”.
Tiếp theo là Đại Lãnh (cao 626m) núi cao nhiều đá, cây cối um tùm, với ga Đai Lãnh, ở đây những chuyến tàu đầy thương nhớ vẫn qua lại ở đây còn có đèo Cổ Mã. Sở dĩ có tên như vậy vì hình dáng núi như cổ con ngựa và chỉ thấy như vậy khi chúng tôi đi ghe ngoài khơi còn đi xe thì trông như con rắn khổng lồ. Đi ngược chiều về phía tây nam với núi Tam Phong, núi Vọng Phu cao nhất rất nổi tiếng núi vọng phu người Pháp gọi núi mẫu tử. Cao 2051 m. Chóp núi Vọng phu là một khối núi đá hoa cương bên cạnh là một khối đá nhỏ. Hai khối đá này tương tự hình người, người ta cảm tưởng như một người mẹ đang bồng đứa con đứng chờ chồng. Và nơi đây cũng có truyền thuyết về hòn vọng phu và nó nói lên được tấm lòng thuỷ chung sắc son của người vợ trong câu truyện nói riêng và đó cũng là tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam.
Từ Ninh Hoà đi vào núi cũng thấp dần, phía đông là bờ biển từ đèo Rọ Tượng đến đèo Rù Rì trên quốc lộ 1A càng đi vào thì núi càng thấp dần và xa biển hơn. Về sông ngòi Tỉnh Khánh Hoà không có sông lớn mà chỉ có những sông nhỏ hay khe suối, từ núi chảy thẳng ra biển vì địa hình thấp dần từ tây sang đông, núi nằm phía tây chảy qua các đồng bằng ở phía đông rồi ra biển.
Toàn tỉnh chỉ có 2 con sông đáng kể là sông Cái và sông Rinh.
Sông Cái (sông Phú Lộc, sông Nha Trang) dài 60 km bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chảy ra biển ở cửa Cù Huân thuộc miền duyên hải Vĩnh Xương. Sông Cái được tạo ra từ nhiều sông con từ nguồn về hợp lại với nhau.
Về hữu ngạn có 4 sông chính. Sông máu phát nguồn từ dãy núi phía tây giáp Tuyên Đức, sở dĩ có tên này là vì nước sông lúc nào cũng đỏ như máu, độc vô cùng do nhựa cây ráy hai bên bờ tiết ra. Sông Cralê bắt nguồn từ núi tiên Grang giáp Ninh Thuận theo hướng tây nam và đông bắc nhập vào sông Cái ở vùng Grang Ché.
Sông Cầu bắt nguồn từ hòn Bra và hòn Bà thuộc tây bắc Cam Lâm chảy qua đá Dẹt theo hướng nam về Bắc rồi nhập vào sông Cái cách Grang Ché hơn 5 km.
Về tả ngạn có hai nhánh sông chính là sông Grang bắt nguồn từ phía tây bắc Diên Khánh theo hướng tây nam bắc rồi nhập vào sông Cái ở Đồng Trăng mực nước ở đây sâu và rộng như vực từ mẫu. Sông Cái chảy qua Vĩnh Xương đến Xuân Lạc và chia làm hai nhánh: chi nhánh chảy độ 6.7km qua các thôn Ngọc Hội, Cư Cấm vĩnh Hội, Vĩnh Điền, vạn thạch rồi chia làm hai nhánh nhỏ, một qua cầu Hà Ra tạo thành đầm sâu sát chợ Nha Trang, một chảy qua cầu Xóm Bóng ra cửa Cù Huân lớn gọi là cửa lớn, rồi ra biển, còn nhánh kia chảy về phía nam vòng theo chân núi Đồng Bò ra cửa Cù Huân nhỏ gọi là của Bé rồi đổ ra biển.
Vì sông chảy qua nhiều núi nên lòng sông hẹp và có nhiều ghềnh thác trong đó có 7 thác chính. Trước hết là thác hòm, có cái tên này vì ở đây có 2 tảng đá lớn hình chữ nhật phẳng lì như tấm ván dựng hai bên trông như cái hòm. Cách 2 km là sông máu phía dưới, tiếp theo là thác hộp vì hình giống cái hộp, tiếp đến là thác Trâu vì giữa dòng sông nhấp nhô một tảng đá đe, lại có hai hòn đá nhỏ nhô lên nư xừng trâu nên đặt tên đó.
Bờ biển Khánh Hoà được xem là bờ biển đẹp nhất trong các tỉnh miền trung với chiều dài hơn 200 km từ vũng Rô đến hải cảng Cam Ranh.
Trước tiên rời khỏi ranh giới Phú Yên thì xuất hiện trước mắt là bức tranh sơn thuỷ tuyệt mỹ đó là Vũng Rô nằm sát chân đèo Cả bờ biển lởm chởm đá, nước sâu thăm thẳm.
Tiếp theo là biển Đại Lãnh ở cực bắc của tỉnh Khánh Hoà cách TP. Nha Trang 84 km, phía nam là đèo Cổ Mã, xa xa ngoài khơi là hòn Nưa. Với chiều dài của bãi Đại Lãnh gần 1 km cong theo hình bán nguyệt, cát trắng phau. Ngày nay bãi biển Đại Lãnh đã trở thành một thắng cảnh du lịch, hàng năm đón tiếp khách du lịch bốn phương đến. Qua khỏi Đại Lãnh sẽ đến bờ biển Cổ Mã lởm chởm đá và nước sâu, sát bờ là hòn đảo đá mang tên Gầm Rống vỗ quanh năm. Từ đó đi khoảng 20 km thì sẽ thấy hòn ngang theo chân núi chưa đầy 20 km ta sẽ đến đầm bà gia và khi đi vào sẽ qua mũi Gành đều là núi có đỉnh cao tới 317m. men theo lạch cửa Bè ta sẽ đi vào vịnh Vân Phong qua đảo hòn Ông tới vũng Nai, theo chân núi sang mũi nai phía ngoài có đảo hòn Đỏ đến vũng Ke ngoài có đảo hòn Săng nhìn qua là cửa Lớn và trước mắt là vịnh Vân Phong vịnh này nhiều đảo như hòn Mao, hòn Một, hòn Bịp, hòn Vung, hòn Gà, hòn Đụng, mài, Me. Đứng ngoài vịnh Vân Phong nhìn vào bờ là Tu Bông, Qủang Hội, Vạn Gĩa, với bờ biển bằng phẳng và những vườn dừa mát rượi. Rời khỏi Vạn Gĩa sẽ đến vũng Xuân Tư bờ biển thấp. Tiếp theo là hòn Khói là nơi phần đát liền đón ánh nắng mặt trời sớm nhất nước. Ngoài xa là hòn Ninh đảo, hòn Khói cách Ninh Hoà 16 km với diện tích 15 km2 ở đây dân sống đông đúc nhà san sát và ở đây có kho muối rất lớn. Rời hòn khói qua bãi cát dài sẽ vào thôn Mỹ Lương gặp mũi gành rồi đến suối nước ngọt và miếu cỏ may, kế tiếp là hòn Bạc đứng ở đây sẽ thấy rõ thành phố Nha Trang và ở đây ta có thể ghé nhìn vịnh Nha Phu hai bên là chân núi sát bờ biển trong vịnh có nhiều hòn cù lao: hòn Thị, Trong Rêu, Nứa, Cóc, Sầm và Cù Lao.
Rời vịnh Nha Phu ta sẽ tới vịnh Lương Sơn theo chân núi hòn khô và tiếp đến là bờ biển Đồng Đế và khi đi vào sẽ gặp thắng cảnh du lịch nổi tiếng ở Nha Trang. Đầu tiên là Hòn Chồng đây là một quần thể gồm 2 khóm đá chồng lên nhau cách nhau vài ba chục mét gắn liền với những truyền thuyết đầy đau thương được nhiều người biết đến khi ghé thăm nơi đây. Khi qua khỏi hòn Đỏ đến Xóm Bóng rồi qua cầu Trần Phú nơi mà nhánh của sông Cái đổ ra biển thì đi vào địa phận thành phố Nha Trang với đường bờ biển dài 7 km hiện ra trước mắt với cảnh trí bên bờ biển đầy sức lôi cuốn, vui nhộn lúc về chiều và thơ mộng khi hoàng hôn buông xuống và màn đêm bao phủ với những ngọn đèn nhấp nhô trên các đảo ở ngoài khơi với một bãi cát dài nằm cạnh thành phố thuận lợi cho việc phát triển du lịch với các môn thể thao dưới nước,rang ghế ngồi tắm nắng… bờ biển theo hình cung nhưng đẹp và vui nhộn nhất là từ trước toà hành chánh đến trước phi cảng, bãi biển luôn được giữ sạch sẽ. Đi hết con đường Trần Phú chúng ta sẽ tới Cầu Đá đây là cảng chung chuyển khách du lịch trong và ngoài nước đi bằng đường thuỷ cũng như các tàu chở dầu , hàng hoá cung cấp và xuất khẩu cho đất nước.
Về mặt lịch sử xưa kia Khánh Hoà thuộc nước “yêu ngoại quốc” của nhật Nam. Khi phần đất khánh Hoà thuộc về nước chiêm Thành được gọi là xứ Kauthara.
Đến thế kỷ 17 sau khi vào đất thuận Hoá chúa Nguyễn tìm cách bành chướng lãnh thổ và thế lực mở rộng bờ cõi về phía nam. Năm tân hợi Nguyễn Hoàng đánh chiếm đến cào đèo Cả lập ra Phú Yên. Năm 1653 vua chiêm Thành sang quấy đất Phú Yên chúa Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc đem quân sang đánh. Vua chiêm Thành thua phải dâng thư xin hàng và lui về Nam. Sau đó chúa Nguyễn chia ra từ sông Phan Lang trở vào cho vua chiêm, còn từ Phan Lang trở ra cho đến núi Vọng Phu chia làm phủ Thái Khang và Diên Ninh và 5 huyện là :Qủang Phước, Tân Định thuộc pgur Thái Khang, Phước Điền, Vĩnh Xương, Hoà Châu thuộc phủ Diên Ninh, Cử hùng Lộc làm thái Thú và Khánh Hoà Khai sinh từ đó.
Năm 1690 phủ Thái Khang đổi thành phủ Bình Khang. Năm 1742 đời chúa Nguyễn Phúc Khoát đổi tên phủ Diên Ninh là Diên Khánh.
Năm 1744 cả nước chia làm 12 dinh trong đó có dinh Bình Khang gồm hai phủ Diên Khánh và Bình Khang là tỉnh Khánh Hoà bây giờ.
Năm 1771 anh em Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa ở Quy Nhơn đánh chiếm Qủang Nam một mặt thì đánh vào nam. Chẳng bao lâu từ Qủang nghĩa vào tới Bình Thuận rồi miền Gia Định đều thuộc về nhà Tây Sơn và Khánh hoà một lần nữa đổi chủ. Ít lâu sau quan Lưu Trấn đất Lonh Hồ là Tống Phúc hợp đem quân từ miền nam và chiếm lại ba phủ là Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang xong Nguyễn Nhạc lập mưu đem quân từ Quy Nhơn và chiếm lại. Sau đó chúa Nguyễn sai ông Lê Văn Quân đem quân từ trong nam ra đánh chiếm lại thành Bình Thuận và thành Diên Khánh.
Nhiều phen quân Tây Sơn do tướng Trần Quang Diệu vào đánh, quân Nguyễn phải cố thủ Thành Diên Khánh. Năm 1796 nội bộ Tây Sơn lục đục Trần Quang Diệu rút quân về khi đó Khánh Hoà mới hết đầu rơi máu chảy, sau khi thống nhất giang sơn , Nguyễn vương lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long. Năm 1803 đổi dinh Bình Khang làm dinh Bình Hoà phủ Bình Khang thành phủ Bình Hoà. Năm 1808 đổi dinh Bình Hoà làm trấn Bình Hoà tức là Khánh Hoà bây giờ. Năm 1831 là năm Minh Mạng thứ 12 phủ Bình Hoà đổi là phủ Ninh Hoà, năm sau lại chia lại thành địa hạt Khánh Hoà.
Năm 1885 quân Pháp nổ súng đánh chiếm Khánh Hoà, hưởng ứng hịch cần vương, văn thân sĩ phu và dân chúng Khánh Hoà đã nổi dậy kháng Pháp. Vì lực lượng sút kém cuộc chiến chỉ kéo dài vài ngày rồi bị tan rã,các bậc văn thân lấy cái chết để đền nợ nước. Từ đó Khánh Hoà cùng với các tỉnh khác chịu ách thống trị của thực dân Pháp.
Năm 1888 Khánh Hoà được mở rộng thêm nhờ việc sát nhập huyện An Phước, phủ Ninh Thuận, 7 xã của huyện Tuy Phong và hai tổng huyện Hoà Đa thuộc Bình Thuận vào huyện Vĩnh Xương. Năm 1901 đặt phủ Ninh Thuận làm đại Ninh Thuận từ đó Khánh Hoà có hai phủ và bốn huyện là phủ Diên Khánh gồm có hai huyện Vĩnh Xương, Phú Điền và phủ Ninh Hoà gồm hai huyện Tân Định, quảng Phước. Thời Duy Tân cắt phần đất Vĩnh Xương lập thành huyện Cam Lâm.
Năm 1930-1931 quốc lộ 21 hoàn thành nối Khánh hoà với Buôn Mê Thuột. Năm 1946 chính phủ Pháp cắt một phần đất phủ Diên Khánh đạt cơ quan đại diện tại suối Dầu nhằm bảo vệ quyền lợi cho bọn thực dân tại các vườn cao su.
Tháng 1 năm 1949 toà công sứ Pháp bãi bỏ và thay vào đó một cơ quan đại diện có chính phủ quốc gia Việt Nam đứng đầu là tỉnh trưởng, phó và phụ tá trụ sở đáng tại Nha Trang, còn thành làm trụ sở cho quận Diên Khánh.
Tháng 12 năm 1954 hai Nha Bang suối dầu và Cam Lâm gọi là nha đại diện hành chính. Tháng 7 năm 1958 bãi bỏ nha đại diện suối Dầu, sát nhập vào địa hạt Cam Lâm làm thành quận Cam Lâm.
Tháng 5 năm 1959 hai tổng Krông Jing và Krông King gồm 5 xã và 30 thôn thuộc tỉnh Đăk Lăk nhập vào quận Ninh Hoà làm diện tích Khánh Hoà tăng lên 1.000 km2.
Tháng 4 năm 1960 Xã cam ly thôn madu và sông can G cam lực,thôn trại láng G xã cam hưng và Hoà Diên thuộc xã Cam lộc quận Cam Lâm, cắt khỏi Khánh Hoà nhập vào Ninh Thuận, diện tích Khánh Hoà giảm mất 290 km2 với 6.790 người.
Tháng 10 năm 1965 thị xã Cam Ranh thành lập cắt một số xã của quận Cam Lâm khỏi địa hạt tỉnh Khánh Hoà là xã Cam Ranh, Cam Bình, suối Hải, suối linh,Cam Linh, Cam Phúc, Cam Lộc, mũi hòn Rồng ấp Văn Thuỷ hạ xã Cam Phú.
Trãi qua bao nhiêu thời đại với bao sự đổi thay ngày nay tỉnh Khánh Hoà gồm 6 quận là Cam Lâm, Diên Khánh, Vĩnh Xương, Ninh Hoà, Khánh Dương, Vạn Ninh. Tỉnh lỵ là Nha Trang chia làm hai xã Nha Trang Đông và Nha Trang Tây, một thị xã là thị xã Cam Ranh.
Về tôn giáo và văn hoá :Tỉnh Khánh Hoà có 32 dân tộc anh em cùng cộng cư. Mỗi dân tộc đều có một nét văn hoá riêng và tín ngưỡng riêng nhưng đều có chung mục đích và được hoà quyện và giao thoa với nhau mà cốt lõi là văn hoá của người Việt.
Về tôn giáo thì ở Khánh Hoà dung nạp rất nhiều tôn giáo khác nhau như: Phật Giáo, Đạo Cao Đài, đạo Thiên Chúa,đạo Tinh Lành…Với Phật Giáo trung tâm là ở chùa Long Sơn , đây là một trong 20 ngôi chùa lớn nhất thành phố Nha Trang và cũng là một điểm du lịch nổi tiếng. Còn đạo Thiên Chúa trung tâm đóng ở nhà thờ chánh toà hay còn gọi là nhà Thờ Đá và cũng là một điểm du lịch nổi tiếng. Đây là hai tôn giáo chiếm phần lớn người dân theo và có một bề dày lịch sử lâu đời còn các đạo khác thì phân bố rải rác khắp tỉnh.
Về tiềm năng kinh tế: Khánh Hoà là một tỉnh có tiềm năng về du lịch và là nghành kinh tế mũi nhọn hay còn gọi là nghành kinh tế không khói mang lại nguộn thu lớn mỗi năm cho tỉnh. Bên cạnh đó còn có các nghành kinh tế: Nông Nghiệp, Lâm nghiệp, ngư nghiệp…Phần lớn các cư dân sống ở thị xã Cam Ranh, Cam Đức , Diên khánh, Ninh Hoà,Vạn Ninh…thì làm nông nghiệp trồng lúa nước và làm nương rẫy, ngư nghiệp thì tập trung ở ven biển .
Riêng nghành Du Lịch phần lớn tập trung ở thành phố Nha Trang. Nhìn chung Khánh Hoà có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế – Xã Hội .
Nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa tuy nhiien nông nghiệp không phải là thế mạnh nên sản lượng không đáng kể. Về Công Nghiệp thì có nghành chế biến thuỷ hải sản , đóng tàu …nhưng tỉnh còn có nhiều tiềm năng như với những bãi cát trắng dùng để chế tạo thuỷ tinh, pha lê…các loại khoáng sản: titan,kim loại..
Với một vùng biển rát được thiên nhiên ưu đãi ,có nhiều tôm cá nên nghề đánh bắt cá cũng rất phát triển.
Về Du Lịch nói chung thành phố Nha Trang là trung tam hằng năm đón rất nhiều lượt khách trong và ngoài nước đến.
Nha Trang là thành phố đẹp thứ 2 của vùng nam trung bộ, với diện tích là 251km vuông dân số là 400000 người (2006) gồm 27 đơn vị hành chánh .
Thời xưa ở thế kỷ VII đến thế kỷ XV Nha Trang là kinh đô của vương quốc ChămPa lúc này vùng đất này còn rất hoang xơ và nhiều thú dữ.
5/1937 Nha Trang được nâng lên thành thị xã.
2/4/1945 Nha Trang được giải phóng.
30/03/1977 Nha Trang được nâng lên thành thành phố trực thuộc tỉnh và tỉnh lị của Phú Khánh.
1/07/1989 Khánh Hoà thành lập với thành phố Nha Trang là tỉnh lị.
22/4/1999 Chính Phủ ban hành quyết định 106/1999 công nhận Nha Trang là thành phố loại hai. Ngày nay Nha Trang là một trung tâm du lịch nổi tiếng của Việt Nam và quốc tế với nhiều khẩu hiêu: Nha Trang Vẻ Đẹp Tiềm Aån, Nha Trang Điểm Đến An Toàn Và Thân Thiện …
Với hoạt động du lịch mang lại nguồn thu chính cho thành phố. Nơi đây có nhiều loại hình du lịch hấp dẫn cho mọi lứa tuổi như: Tham quan di tích lịch sử, khám phá biển,nghỉ ngơi chữa bệnh..Về du lich biển thì vịnh Nha Trang có 19 đảo với khoảng 15000 người sinh sống, đảo lớn nhất là Hòn Tre có diện tích 15 km2 trông như một con cá sấu giữa hồ nước xanh thẳm nằm ngoài khơi che chở cho vịnh Nha Trang luôn kín gió và lặng sóng. Trên đảo có khu resort 5 sao với đủ các loại hình du lịch mang tính chất quốc tế với hệ thống cáp treo dài 3800 m phục vụ khách du lịch qua lại. Ngoài ra còn có các đảo như Hòn Tằm, hòn Mun, hòn Miễu, đảo yến… phục vụ việc nghỉ ngơi, lặn biển…Với thành phố Nha Trang có đường bờ biển dài 10 km, rất tốt cho du lịch tắm biển và các hoạt động thể thao biển như bóng truyền bãi biển… với nhiệt độ trung bình là 26,5 ˜C lượng mưa hàng năm 1200 mm vừa chịu sự chi phối của khí hậu nhiẹt đới ẩm gió mùa vừa mang tính chất của khí hậu đại dương nên tương đối ôn hoà. Cùng với hai dòng hải lưu nóng và lạnh nên thích hợp cho du lịch biển. Thành phố Nha Trang có vị trí thuận lợi về giao thông, có quốc lộ 1A nối liền các tỉnh bắc nam, có quốc lộ 26 lên Tây Nguyên, quốc lộ 27, quốc lộ 11 lên Đà Lạt… có cảng Cầu Đá giao thông thuận tiện trong và ngoài nước về đường thuỷ, có đường sắt bắc nam ngang qua. Riêng ở Nha Trang có tuyến tàu lửa 5 sao từ Nha Trang đi thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Trong thành phố có 6 tuyến xe buyt phục vụ nhu cầu đi lại trong thành phố. Với tìm năng du lịch ngày càng phát triển du khách đến đây ngày càng nhiều nên việc các hoạt động du lịch không ngừng phát triển và tăng cao. Thành phố Nha Trang có hơn 80 khách sạn với đầy đủ trang thiết bị tiện nghi phục vụ từng loại khách thành phần nước khác nhau. Khách sạn 5 sao như : Sunrise, khu resort Vinpeal. Khách sạn 4 sao như Anamadara, Khách sạn Yasaka Sài Gòn Nha Trang.với các nhà hàng phục vụ các món ăn Á, Âu phù hợp cho khẩu vị của từng khách khác nhau. Có các khu Spa, các quán bar, có bãi đậu xe thoáng mát. Ngoài tìm năng du lịch biển mà thiên nhiên đã ban tặng thì Nha Trang Khánh Hoà còn có tài nguyên du lịch nhân văn mang đậm tính chất lịch sử như Tháp Bà Ponagar, chùa Long Sơn, dinh Bảo Đại, thành cổ Diên Khánh, nhà tù chính trị Khánh Hoà. Hay các tham quan viện hải dương học, hòn chồng, suối nước nóng Tháp Bà. Bên cạnh các sản vật biển có thể tìm thấy ở Nha Trang đó là Yến sào, nem Ninh Hoà, ngoài ra còn có các món ăn dân giả như bánh canh, bún cá, bánh ướt rất ngon mang đậm mùi vị đặc trưng rất được nhiều người yêu thích.
Khánh Hoà có ngành kinh tế mũi nhọn là du lịch, có đủ mọi mặt về tìm năng du lịch. Tháng 7 năm 2003 Nha Trang được thế giới công nhận là một trong 29 vịnh đẹp nhất thế giới được tổ chức tại Canađa. Bên cạnh đó Khánh Hoà có vị trí thuận lợi về giao thông. Nằm ngay trung tâm của đất nước có đủ loại hình giao thông rất thuận tiện cho việc đưa đón khách du lịch trong và ngoài nước. Bờ biển Nha Trang có nhiều bãi tắm đẹp từ đầm Nha Phu đến Lương Sơn, bãi tiên, Cầu Đá, sông Lô và hàng loạt bãi tắm tạo nên các cụm công trình, các loại hình dịch vụ với đủ các điều kiện và trang thiết bị cơ sở hạ tầng phục vụ đủ các đối tượng khách khác nhau.
Trục du lịch Trần Phú – Cầu Đá- Bãi Tiên là trung tâm du lịch của vùng này. Nơi đây sẽ xây dựng những con đường du lịch và các khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế từ 3 đến 5 sao, các nhà hàng, khu vui chơi không ngừng được nâng cấp cải tiến. Đặc biệt là khu resort Vinpeal đạt chuẩn 5 sao và có dự án xây dựng thêm một khu du lịch 6 sao trên đảo này. Với cảnh quan kỳ thú từ biển đảo đến các di tích lichj sử văn hoá tạo nên sự phong phú đa rạng trong du lịch. Với vịnh Vân Phong được xem là một trong những điểm du lịch đẹp, nhiều tiềm năng có điều kiện và dự án đầu tư để phát triển khu kinh tế đa ngành này thành khu du lịch sinh thái tầm cỡ. Với cảnh quan được thiên nhiên ưu đãi cho phép Khánh Hoà phát triển nhiều loại hình du lịch, điều dưỡng chữa bệnh, nghỉ ngơi, săn bắn,leo núi, bơi lặn, tắm biển… và chiếm một vai trò không nhỏ trong sự phát triển du lịch của tỉnh mà hàng năm thu hút rất nhiều khách du lịch đó là các đền miếu, tháp chàm, chùa Long Sơn, lầu Bảo Đại, Hòn Chồng, viện Hải Dương học, viện Paster, thành cổ Diên Khánh… mang tính lịch sử hào hùng của dân tộc nói chung và của tỉnh Khánh Hoà nói riêng. Nha Trang kết hợp với Đà Lạt, Vũng Tàu, TP.HCM tạo thành một tứ giác du lịch có nhiều tiềm năng và triển vọng của Việt Nam trong thời gian tới.
Sét về tiềm năng đưa đón và lưu trú trong ngành du lịch của tỉnh thì trong 9 tháng qua toàn tỉnh đã đón gần 663.000 lượt khách du lịch trong và ngoài nước với số ngày nghỉ lên đến 1.344.400 ngày khách. Nhờ vậy doanh thu trong du lịch 9 tháng qua đạt gần 476 tỷ đồng. Nhưng được biết những nguyên nhân khiến khách du lịch dến Khánh Hoà có hướng giảm là trong ngành du lịch ở Nha Trang chưa có thêm sảm phẩm mới, độc đáo.
Trong dịp lễ gần như không không có hoạt động gì ngoài triển lãm nét đẹp xứ Trầm Hương trên bờ biển và chương trình ca múa nhạc ở khu vực trung tâm văn hoá 40 Trần Phú, hay quá tập trung vào Festival mà không chú ý đến các ngày thườn, hay sự tăng giá bất chợt của khách sạn trong các dịp lễ.
Doanh thu du lịch năm 2007 ước 1.025 tỷ đạt 10724% so với kế hoạch tăng 23%, tổng số khách ước 1.36 triệu lượt đạt 113.4% so với kế hoạch tăng 25.5%. số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh du lịch so với năm 2006 tăng 12.5% tăng thêm 38 cơ sở lưu trú kinh doanh lưu trú du lịch. Đưa tổng số cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh lên 387 cơ sở. Cùng với việc công bố áp dụng việc bình ổn giá dịch vụ lưu trú, tỉnh Khánh Hoà cũng thành lập đoàn kiểm tra đột xuất việc thực hiện của các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú trước và sau các dịp lễ hay Festival. Qua kiểm tra cho thấy tất cả các khách sạn đều thực hiện nghiêm túc các quy dịnh về giá sau khi công bố lệnh. Tất cả các khách sạn đều có giá niêm yết, có đủ hoá đơn chứng từ kinh doanh, sơ đồ phòng và các nhà hàng cũng vậy và thực hiện về an toàn vệ sinh thực phẩm trong ăn uống nên thời gian qua lượng khách đến Khánh Hoà đã tăng lên.
Chính Viễn Thông: Khánh Hòa sử dụng hệ thống tổng đài điện tử kỹ thuật hiện đại, các huyện đều có tổng đài số, mạng điện thoại phủ kín 100% các xã. Điện thoại di động được sử dụng rãi ở thành phố Nha Trang và các huyện thị trong toàn tỉnh
. Cấp điện:
Khánh Hòa sử dụng nguồn Bưu điện của mạng quốc gia 220 KV, có nguồn điện diezen dự trữ, đáp ứng đủ mọi nhu cầu về điện cho các nhà đầu tư. Toàn tỉnh đã phủ điện 100% đến các xã.
Hệ thống cấp nước: TP Nha Trang có Nhà máy nước công suất 70.000m3/ngày – đêm, các thị xã, thị trấn đều có nhà máy nước đảm bảo cấp nước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Ngân hàng, bảo hiểm: ngân hàng thương mại, hệ thống thu đổi ngoại tệ, hệ thống rút tiền tự động ngày càng hoàn thiện, đáp ứng kịp thời các nhu cầu của các nhà đầu tư.
Nhờ có điều kiện thuận lợi và cơ sở vật chất hạ tầng khá là phát triển nên tiềm năng du lịch của Khánh Hoà thật phát triển.
TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ NHA TRANG
Nha Trang là một thành phố ven biển và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và du lịch của tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Trước khi trở thành phần đất của Việt Nam, Nha Trang thuộc về Chiêm Thành. Các di tích của người Chăm vẫn còn tại nhiều nơi ở Nha Trang. Nha Trang được Thủ tướng chính phủ Việt Nam công nhận là đô thị loại 1 vào ngày 22 tháng 4 năm 2009. Đây là một trong 4 đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh cùng với Huế, Đà Lạt và Vinh
Các bãi biển đẹp của thành phố này đã biến nó thành một danh lam thắng cảnh. Nơi đây cũng được biết đến như một địa điểm lý tưởng để tổ chức các sự kiện lớn như Festival Biển (Nha Trang), hay các cuộc thi sắc đẹp lớn như Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Thế giới người Việt 2007 và 2009, Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Thế giới 2010...
Địa lý và Khí hậu
Thành phố Nha Trang hiện nay có diện tích tự nhiên là 251 km², dân số 350.375 người (2005). Phía Bắc giáp huyện Ninh Hòa, phía Nam giáp huyện Cam Lâm, phía Tây giáp huyện Diên Khánh, phía Đông giáp Biển Đông.
Đồng bằng Diên Khánh - Nha Trang
Nha Trang nằm ở phía Đông Đồng bằng Diên Khánh - Nha Trang. Một đồng bằng được bồi lấp bởi sông Cái Nha Trang có diện tích gần 300 km², địa hình đòng bằng bị phân hóa mạnh:
phần phía Tây dọc sông Chò từ Khánh Bình đến Diên Đồng bị bóc mòn, độ cao tuyệt đối khoảng 10-20 m
phần phía Đông là địa hình tích tụ độ cao tuyệt đối dưới 10m, bề mặt địa hình bị phân cắt mạnh bởi các dòng chảy.
Sông Cái Nha Trang
Sông Cái Nha Trang (còn có tên gọi là sông Phú Lộc, sông Cù) có chiều dài 79 km, phát nguyên từ Hòn Gia Lê, cao 1.812 m, chảy qua các huyện Khánh Vĩnh, Diên Khánh và thành phố Nha Trang rồi đổ ra biển ở Cửa Lớn (Đại Cù Huân). Sông Cái Nha Trang có 7 phụ lưu, bắt nguồn ở độ cao từ 900 đến 2.000 m nhưng lại rất ngắn, thường dưới 20 km nên độ dốc rất lớn tạo nhiều ghềnh thác ở thượng lưu. Sông chảy đến thôn Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang thì chia làm 2 nhánh:
Một nhánh chảy theo hướng Đông-Nam, men theo chân núi Đồng Bò, chảy xuống Trường Đông, Vĩnh Trường và chảy ra cửa biển Tiểu Cù Huân, gọi là Cửa Bé. Nhánh này hiện nay đã bị lấp, chỉ đến mùa nước lũ, dòng chính mới hiện rõ.
Nhánh thứ hai chảy xiên theo hướng Đông - Bắc (đây là nhánh chính của sông Cái) từ Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc chảy đến Ngọc Hội, sông chia làm 2 chi:
Chi thứ nhất chảy vào Phương Sài, gọi là Ngư Trường (người xưa mượn bến Trường Cá tại Phường Củi mà đặt), rồi chảy xuống Hà Ra (nơi đây xưa kia, nước xoáy tạo thành một đầm rộng gọi là đầm Xương Huân nay đã bị lắp để xây chợ Đầm) rồi chảy tiếp ra cửa Đại Cù Huân, tức Cửa Lớn Nha Trang.
Chi thứ hai rộng và sâu hơn, chảy xuống Xóm Bóng - Cù Lao, rồi cũng chảy ra cửa Nha Trang như chi kia.
Hai chi trước khi chảy ra cửa biển, gặp nhau và cùng ôm lấy cồn đất phù sa, tên gọi là Cồn Dê (Cồn Ngọc Thảo).
Phần thượng lưu của sông Cái Nha Trang có rất nhiều thác. Từ cửa sông Chò trở lên thì có thác Đồng Trăng, thác Ông Hào, thác Đá Lửa, thác Nhét, thác Mòng, thác Võng. Qua khỏi thác Võng thì có thác Dằng Xay, thác Tham Dự, thác Ngựa, thác Hông Tượng, thác Trâu Đụng, thác Giang Ché, thác Trâu Á, thác Nai, thác Rùa, thác Hòm... Phần trên nguồn còn có rất nhiều thác nhưng ít người lên đến nên không có tên gọi.
Khí hậu
Khí hậu Nha Trang tương đối ôn hòa hơn. Thường có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa nắng. Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 dương lịch, tập trung vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên 50% lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng năm có tới 2.600 giờ nắng.Nhiệt độ trung bình hàng năm của Nha Trang cao khoảng 26,7°C riêng trên đỉnh núi Hòn Bà (cách Nha Trang 30 km đường chim bay) có khí hậu như Đà Lạt và Sa Pa. Độ ẩm tương đối khoảng 80,5%.
Nhiệt độ trung bình/tháng
Một
Hai
Ba
Tư
Năm
Sáu
Bảy
Tám
Chín
Mười
Mười một
Mười hai
Cao nhất (°C)
27
28
29
31
32
32
32
32
32
30
28
27
Thấp nhất (°C)
22
22
23
25
26
26
26
26
25
24
24
22
Lượng mưa (cm)
2.4
0.56
2.07
1.98
5.08
3.48
2.62
3.23
13.38
25.43
25.12
12.21
Hành chính
Nha Trang gồm 27 đơn vị hành chính, trong đó có:
19 phường nội thành là: Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, Vĩnh Thọ, Xương Huân, Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Phương Sài, Phương Sơn, Ngọc Hiệp, Phước Hòa, Phước Tân, Phước Tiến, Phước Hải, Lộc Thọ, Tân Lập, Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường, Phước Long (thành lập tháng 11 năm 1998), Vĩnh Hòa (thành lập tháng 4 năm 2002)
8 xã ngoại thành là: Vĩnh Phương, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thái, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Lương và Phước Đồng.
Từ năm 1998 đến nay, do tốc độ phát triển đô thị gia tăng, nhiều khu quy hoạch mới đã được hình thành như: khu dân cư Hòn Rớ, khu dân cư Bắc Việt, Thánh Gia, Đường Đệ, khu Nam Hòn Khô... Ngày 22 tháng 4 năm 2009, thành phố Nha Trang được công nhận là Đô thị loại 1 thuộc tỉnh Khánh Hòa[3]
Tên gọi
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là "sông Lau", tiếng người Chăm, tức là gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, con sông này đổ ra biển đúng chỗ có nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653.
Về địa danh "Nha Trang", trong Toàn tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, tập bản đồ Việt Nam do nho sinh họ Đỗ Bá soạn vào khoảng nửa sau thế kỷ 17 đã thấy có tên "Nha Trang Môn" (cửa Nha Trang)[4]. Trong một bản đồ khác có niên đại cuối thế kỷ 17 mang tên Giáp Ngọ Niên Bình Nam Đồ của Đoan Quận công Bùi Thế Đạt cũng thấy ghi tên "Nha Trang Hải môn" (cửa biển Nha Trang)[4]. Trong thư tịch cổ Việt Nam, đây có lẽ là những tài liệu sớm nhất đề cập đến địa danh này.
Trong Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn đã có nhiều tên gọi Nha Trang như "đầm Nha Trang, dinh Nha Trang, nguồn Nha Trang, đèo Nha Trang".
Lịch sử
Vịnh Nha Trang còn hoang sơ vào đầu thế kỷ 20
Vịnh Nha Trang ngày nay
Từ 1653 đến giữa thế kỷ XIX, Nha Trang vẫn là một vùng đất còn hoang vu và nhiều thú dữ thuộc Hà Bạc, huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh. Chỉ qua hai thập niên đầu thế kỷ XX, bộ mặt Nha Trang đã thay đổi nhanh chóng. Với Nghị định ngày 30 tháng 8 năm 1924 của Toàn quyền Đông Dương, Nha Trang trở thành một thị trấn (centre urbain)[5]. Thị trấn Nha Trang hình thành từ các làng cổ: Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh, Phương Sài, Phước Hải.
Thời Pháp thuộc, Nha Trang được coi là tỉnh lỵ (chef lieu) của tỉnh Khánh Hòa. Các cơ quan chuyên môn của chính quyền thuộc địa như Tòa Công sứ, Giám binh, Nha Thương chánh, Bưu điện… đều đặt tại Nha Trang. Tuy nhiên, các cơ quan Nam triều như dinh quan Tuần vũ, Án sát (coi về hành chánh, tư pháp), Lãnh binh (coi việc trật tự trị an) vẫn đóng ở Thành Diên Khánh (cách Nha Trang 10km về phía Tây Nam).
Đến Nghị định ngày 7 tháng 5 năm 1937 của Toàn quyền Đông Dương, Nha Trang được nâng lên thị xã (commune)[6]. Lúc mới thành lập, thị xã Nha Trang có 5 phường: Xương Huân là phường đệ nhất, Phương Câu là phường đệ nhị, Vạn Thạnh là phường đệ tam, Phương Sài là phường đệ tứ, Phước Hải là phường đệ ngũ.
Ngày 27 tháng 1 năm 1958, chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành Nghị định 18-BNV bãi bỏ quy chế thị xã, chia Nha Trang thành 2 xã là Nha Trang Đông và Nha Trang Tây thuộc quận Vĩnh Xương.
Trung tâm Chính trị - Văn hóa tỉnh Khánh Hòa
Ngày 22 tháng 10 năm 1970, sắc lệnh số 132-SL/NV của chính quyền Việt Nam Cộng hoa lấy 2 xã Nha Trang Đông, Nha Trang Tây và các xã Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, Vĩnh Trường, Vĩnh Nguyên, các ấp Phước Hải (xã Vĩnh Thái), Vĩnh Điềm Hạ (xã Vĩnh Hiệp), Ngọc Thảo, Ngọc Hội, Lư Cấm (xã Vĩnh Ngọc) thuộc quận Vĩnh Xương cùng các hải đảo Hòn Lớn, Hòn Một, Hòn Mun, Hòn Miễu, Hòn Tằm tái lập thị xã Nha Trang, tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hòa. Thị xã Nha Trang chia làm 2 quận: quận 1 và quận 2. Quận 1 gồm các xã Nha Trang Đông, Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, các ấp Ngọc Thảo, Ngọc Hội và Lư Cấm thuộc xã Vĩnh Ngọc, ấp Vĩnh Điềm Hạ thuộc xã Vĩnh Hiệp; Quận 2 gồm các xã Nha Trang Tây, Vĩnh Trường, Vĩnh Nguyên (kể cả các đảo Hòn Tre, Hòn Một, Hòn Mun, Hòn Tằm), ấp Phước Hải của xã Vĩnh Thái.
Tiếp đó, nghị định số 357-ĐUHC/NC/NĐ ngày 5 tháng 6 năm 1971 chia thị xã Nha Trang thành 11 khu phố: quận 1 có các khu phố Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, Ngọc Hiệp, Vạn Thạnh, Duy Tân; Quận 2 có các khu phố Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường, Phương Sài, Tân Phước, Tân Lập, Phước Hải. Đến Nghị định số 553-BNV/HCĐP/NV ngày 22 tháng 8 năm 1972 đổi các khu phố thành phường. Nghị định số 444-BNV/HCĐP/26.X ngày 3 tháng 9 năm 1974 sáp nhập các đảo Hòn Một, Hòn Cậu, Hòn Đụn, Hòn Chóp Vung, Hòn Đỏ vào phường Vĩnh Hải (quận 1) và Hòn Ngọc vào phường Vĩnh Nguyên (quận 2) thị xã Nha Trang.
Ngày 2 tháng 4 năm 1975, Quân giải phóng tiếp quản Nha Trang[7]. Ngày 6 tháng 4 năm 1975, Ủy ban Quân quản Khánh Hòa chia Nha Trang thành 3 đơn vị hành chính: quận 1, quận 2 và quận Vĩnh Xương.
Tháng 9 năm 1975, hợp nhất hai quận: quận 1 và quận 2 thành thị xã Nha Trang.
Ngày 30 tháng 3 năm 1977, theo quyết định số 391-CP/QĐ của Hội đồng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thị xã Nha Trang được nâng lên cấp thành phố trực thuộc tỉnh và là tỉnh lỵ tỉnh Phú Khánh (bao gồm hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa hiện nay). Phần đất 7 xã của huyện Vĩnh Xương cũ trước đây là Vĩnh Thái, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lương, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Phương được cắt ra khỏi huyện Khánh Xương sáp nhập vào Nha Trang.
Quyết định số 54-BT ngày 27 tháng 3 năm 1978 thành lập xã Phước Đồng thuộc Nha Trang.
Ngày 1 tháng 7 năm 1989, tái lập tỉnh Khánh Hòa từ tỉnh Phú Khánh cũ, Nha Trang là tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hòa.
Ngày 22 tháng 4 năm 1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 106/1999 công nhận Nha Trang là đô thị loại 2.
Ngày 22 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định công nhận TP. Nha Trang là đô thị loại I[8]
Kinh tế
Kinh tế Nha Trang chủ yếu là du lịch và dịch vụ. Nha Trang còn nổi tiếng với yến sào, thuốc lá và đặc biệt là kỳ nam và trầm hương.
Khoa học và Giáo dục
Nha Trang là nơi đóng quân của nhiều trường đại học quân sự (không quân, hải quân) và các viện nghiên.cứu mang tầm quốc gia . Ngoài ra trên địa bàn thành phố còn có nhiều đại học và cao đẳng phục vụ cho việc đào tạo nhân lực cho địa phương
Danh sách các trường Đại học, Cao Đẳng và Cơ sở nghiên cứu khoa học tại Khánh Hòa
Đại Học
Cao Đẳng
Viện Nghiên Cứu
Trường Đại học Nha Trang
Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang
Viện Pasteur Nha Trang
Trường Đại học Thái Bình Dương
Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật và du lịch
Viện Hải dương học Nha Trang
Trường Đại học Tôn Đức Thắng (cơ sở Nha Trang)
Trường Cao đẳng Y tế
Viện Vắc-xin và Sinh phẩm số 2 (Nha Trang)
Trường Sĩ quan không quân
Trường Cao đẳng Mẫu giáo Trung ương 2
Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ (Nha Trang)
Học viện Hải quân
Trường Cao đẳng nghề Nha Trang
Trường Sĩ quan Thông tin
Giao thông
Đường hàng không: Trước đây có thể bay đến Nha Trang và hạ cánh ngay trong thành phố tại sân bay Nha Trang, nguyên là một sân bay quân sự nằm trên đường Trần Phú. Hiện nay, sân bay Nha Trang đã đóng cửa và khách du lịch có thể tới thành phố biển này bằng sân bay quốc tế Cam Ranh, cách đó khoảng 40 km.
Giao thông nội thành:
Hiện nay, Nha Trang đang có 6 tuyến xe buýt phục vụ công cộng [9].
Tuyến
Lộ trình
Độ dài(km)
Số trạmvà điểm dừng
Ghi
chú
Tuyến 1
Thành (Thị trấn Diên Khánh) - Lê Hồng Phong - Vĩnh Trường
18
2 trạm 33 điểm dừng
Tuyến 2
Thành (Thị trấn Diên Khánh)- Trần Phú - Bình Tân
18
2 trạm và 28 điểm dừng
Tuyến 3
Chợ Đầm - Sông Lô
14.5
2 trạm và 20 điểm dừng
Tuyến 4
Dương Hiến Quyền - Nguyễn Thiện Thuật - Cầu Đá
13
2 trạm và 24 điểm dừng
Tuyến 5
Cầu Trần Phú - Tô Hiến Thành - Hòn Rớ 1
13
2 trạm và 21 điểm dừng
Tuyến 6
Bến xe phía Nam - chợ Lương Sơn
15
2 trạm và 21 điểm dừng
Đường thủy: Nha Trang có cảng Nha Trang, chủ yếu là vận chuyển hành khách qua lại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Đường sắt: Ga Nha Trang là một trong những ga lớn trên tuyến đường sắt Bắc Nam của Việt Nam. Tất cả các tuyến tàu lửa đều dừng ở đây. Ngoài các tàu Thống Nhất, còn có các chuyến tàu SNT1-2, SNT3-4, SQN1-2 và gần đây có thêm chuyến tàu 5 sao đầu tiên chạy tuyến Sài Gòn-Nha Trang.
Ga Nha Trang
Đặc sản
Ngoài các sản vật biển, Nha Trang có nước yến/yến sào (hay tổ chim yến được chúng làm từ nước dãi của mình) và nem nướng Ninh Hòa. Ngoài ra, nói đến các món dân dã Nha Trang còn nổi tiếng qua món bún cá hay bánh căn. Với món bánh canh Nha Trang thì không giống với bất kỳ ở một địa phương nào khác, nước lèo được làm từ chất ngọt của cá cộng với bột bánh canh tạo nên một hương vị khó quên. Ngoài ra tại Nha Trang còn có bong bóng cá , vi cá , nước mắm , khô cá thu được xếp vào loại ngon . Hải sản Nha Trang đa dạng và phong phú với rất nhiều loại và vô số những món ăn khác nhau , nổi tiếng có món nhum - còn gọi là cầu gai hay nhím biển ăn sống với cải bẹ xanh .
Phố Tây ở Nha Trang
Nằm bên cạnh bờ biển Nha Trang có một khu phố nhỏ ven theo các con đường Hùng Vương, Trần Phú, Biệt Thự, Trần Quang Khải, Nguyễn Thiện Thuật... Nó không quá ồn ào, nhộn nhịp nhưng tập trung đông khách du lịch nước ngoài và người nước ngoài sinh sống tại Nha Trang.
Phố Tây ở Nha Trang tuy không sầm uất và ồn ào như Phố Tây Phạm Ngũ Lão ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại mang những nét đặc trưng riêng. Con đường hẹp của khu Quân Trấn đã được mở rộng, với những dãy hàng, quán mang tên Tây, Việt lẫn lộn. Mỗi quán ăn đều mang một cái tên, một quốc tịch khác nhau, với nhiều màu sắc văn hóa, từ Á đến Âu đã tạo nên một khu phố Tây rất Nha Trang.
Để có thể sống dễ dàng hơn giữa một cộng đồng người Việt, người nước ngoài ở khu phố Tây này hầu hết trang bị cho mình một vốn tiếng Việt, thậm chí có người nói rất sõi. Họ còn có một cái tên Việt Nam do những người bạn, những người hàng xóm Việt đặt cho, và họ rất thích cái tên Việt ấy.
Hiện nay cùng sự phát triển mạnh mẻ của nền du lịch tại Nha Trang, khu phố Tây đang trở thành quê hương thứ 2 của những người nước ngoài chọn Nha Trang làm nơi sinh sống và làm việc
THÁP BÀ PONAGAR
Po Nagar hay Tháp Bà là ngôi đền nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại Nha Trang, cách trung tâm thành phố khoảng 2 km về phía bắc, nay thuộc phường Vĩnh Phước. Tên gọi "Tháp Po Nagar" được dùng để chỉ chung cả công trình kiến trúc này, nhưng thực ra nó là tên của ngọn tháp lớn nhất cao khoảng 23 mét. Ngôi đền này được xây dựng trong thời kỳ đạo Hindu (Ấn Độ giáo) đang cường thịnh khi Chăm pa trong giai đoạn có tên gọi là Hoàn Vương Quốc, vì thế tượng nữ thần có hình dạng của Umar, vợ của Shiva.
Truyền thuyết
Nữ vương Po Nagar - còn gọi là Yan Pu Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen (nguời Việt Nam gọi là Thiên Y Thánh Mẫu Ana) - là vị nữ thần được tạo nên bởi áng mây trời và bọt biển, người tạo dựng ra trái đất, sản sinh gỗ quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97 chồng, trong đó chỉ một mình Po Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng hơn cả. Bà có 38 người con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó có ba người được người Chăm chọn làm thần bảo vệ đất đai và còn thờ phụng cho tới ngày nay: Po Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Hòa); Po Rarai Anaih, nữ thần Panduranga (Ninh Thuận) và Po Bia Tikuk, nữ thần Manthit (Phan Thiết).
Tương truyền, tượng bà Thiên Y Thánh Mẫu Ana theo tín ngưỡng phồn thực của người Chăm, không có quần áo. Po Nagar hiện nay được người Việt Nam sử dụng, nhưng đã cho nữ thần ăn mặc theo kiểu Phật. Ngôi đền này cũng nổi tiếng đối với các du khách.
Để tìm hiểu thêm về ảnh hưởng tôn giáo của vị nữ thần này, có thể xem thêm "The Vietnamization of Po Nagar" của Nguyễn Thế An, trong loạt bài giảng về quá khứ Việt Nam, được chỉnh sửa bởi K.W. Taylor và John K. Whitmore, chương trình Đông Nam Á, Đại học Cornell, Ithaca, NY 1995.
Cụm tháp tại Po Nagar
Lịch sử
Ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (công chúa Tchou Koti hay Thiên Y Thánh Mẫu) (cai trị Lâm Ấp từ năm 646 đến năm 653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya Tră (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng). Năm 774, quân Nam Đảo (Java, Indonesia) vào cướp phá. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, sau đó được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay, nhưng cũng đã bị hủy hoại một phần đáng kể. Sau này quốc vương Harivarman I và con trai ông là Vikrantavarman III sau này có thể đã lần lượt xây dựng thêm 5 tháp nữa.
Những cấu trúc xây dựng còn sót lại có niên đại sớm nhất, theo Trần Kỳ Phương là mandapa?? - nó đã được xây dựng vào thời gian nào đó trước khi có câu khắc trên bia vào năm 817, có nói tới nó. Trần Kỳ Phương cho rằng tháp nhỏ ở phía tây bắc có niên đại khoảng thế kỷ 10, và ngôi tháp chính có niên đại khoảng thế kỷ 11.
Những bia ký còn sót lại ở Po Nagar cho người ta thấy được dấu vết của một quốc gia hùng mạnh đã từng tồn tại trong quá khứ.
Kiến trúc
Tổng thể kiến trúc của Po Nagar gồm 3 tầng, đi từ dưới lên trên.
Tầng thấp: Ngang mặt đất bằng là ngôi tháp cổng mà nay không còn nữa. Từ đấy có những bậc thang bằng đá dẫn lên tầng giữa.
Tầng giữa: Nơi đây hiện chỉ còn hai dãy cột chính bằng gạch hình bát giác, mỗi bên 5 cột có đường kính hơn 1 mét và cao hơn 3 mét. Ở hai bên các dãy cột lớn có 12 cột nhỏ và thấp hơn, tất cả lại nằm trên một nền bằng gạch cao hơn 1 mét. Dựa vào cấu trúc này người ta cho rằng đây vốn là một tòa nhà rộng lớn có mái ngói, là nơi để khách hành hương nghỉ giải lao và sắm sửa lễ vật trước khi lên dâng cúng ở các điện bên trên. Từ tầng giữa này, lại có một dãy bậc thang bằng gạch dốc hơn dẫn lên tầng trên cùng.
Tầng trên cùng: Là nơi các tháp được xây dựng, ngay trước mặt ngôi tháp chính. Những bậc thang này từ lâu đã không hề được sử dụng. Bậc thang bằng đá ong thấy hiện nay ở phía nam tháp Bà rộng lớn hơn được xây vào thập niên 1960 do nhu cầu du lịch gia tăng.
Ở tầng trên, có hai dãy tháp được bao quanh bởi bốn bức tường đá mà nay chỉ còn lưu lại tường phía tây và nam mà thôi. Dãy tháp phía trước có 3 ngôi, và dãy phía sau vốn có dấu vết của 3 ngôi tháp khác, thế nhưng nay chỉ còn 1, chúng chạy song song với nhau. Cả 4 tháp còn lại được xây dựng theo kiểu tháp của người Chăm, gạch xây rất khít mạch, không nhìn thấy chất kết dính. Lòng tháp rỗng tới đỉnh, cửa tháp quay về hướng đông. Mặt ngoài thân tháp có nhiều gờ, trụ, đấu. Trên đỉnh các trụ, thường đặt gạch trang trí hoa văn hình vòm tháp, trông như chiếc tháp nhỏ đặt lên một tháp lớn. Trên thân tháp còn có nhiều tượng và phù điêu bằng đất nung, trong đó có hình Po Nagar, thần Tenexa, các tiên nữ, các loài thú: nai, ngỗng vàng, sư tử...
Hình nữ thần Durga đang múa giữa hai nhạc công ở tháp chính
Thần Po Nagar hay theo cách gọi của người Việt
là Thánh Mẫu Thiên Y A Na
Tháp thờ chính ở dãy trước khá lớn và cao khoảng 23 mét, là tháp Po Nagar, mà ta hay gọi là tháp Bà. Nguyên thủy chính là tháp thờ thần Parvati, vợ của Shiva. Tháp chính thờ thần Po Nagar (Umar), vợ của thần Siva. Tháp Bà xây 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa, tượng thần và hình thú bằng đá, ở 4 góc có 4 tháp nhỏ. Bên trong là tượng nữ thần (cao 2,6 m) tạc bằng đá hoa cương màu đen (trước đó là gỗ trầm hương, và xa hơn nữa là bằng vàng) ngồi trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn hình lá bồ đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chămpa, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Người Pháp đã lấy mất đầu tượng, nay chỉ còn đầu tượng bằng xi măng vẽ mặt. Rải rác quanh di tích còn có một số tượng người, tượng thú... Trên đỉnh tháp có tượng thần Shiva cỡi ngưu thần Nandin, và các tượng linh vật như chim thiên nga, dê, voi v.v. Mặt ngoài tường tháp lại được trang trí bởi những hình điêu khắc vào đá như những vũ công, người chèo thuyền, xay gạo hay đi săn với cung tên. Cửa chính ở phía đông dẫn vào một tiền sảnh, ở hai bên cửa có hai trụ đá được khắc truyền ký, đỡ một phiến đá hình thuẫn có khắc hình nữ thần Durga đang múa giữa hai nhạc công. Bên trong tháp tối và lạnh. Cuối tháp có một bệ thờ bằng đá bên dưới tượng Bà Po Nagar với mười cánh tay. Hai bàn tay dưới đặt trên hai đầu gối, các bàn tay khác thì cầm những vât dụng như đoản kiếm, mũi tên, chùy và cây lao ở bên phải và chuông, đĩa, cung và tù và ở bên trái.
Các tháp khác thờ: thần Siva (một trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo), thần Sanhaka, thần Ganeca (theo truyền thuyết là con trai thần Siva). Bên cạnh tháp chính về phía nam khoảng 20 mét là một ngôi tháp khác nhỏ và ít trang trí điêu khắc hơn, cao chừng 12 mét, có thể là tháp thờ thần Shiva. Cách tháp này cũng về hướng nam là một tháp còn nhỏ hơn. Bên trong tháp không có bệ thờ mà chỉ có một linga (thạch trụ), và đây là tháp thờ thần Ganesa, thân người đầu voi, con của Shiva. Nhiều tác giả cho rằng linga là linh tượng có hình thù dương vật tượng trưng cho Shiva, dựa theo sự diễn dịch của phương Tây hơi thiên về tình dục. Thực ra, linga tiêu biểu là một trụ đá thấp có ba phần khác nhau tượng trưng cho ba linh thể: phần dưới là hình vuông tượng trưng cho Brahma, phần giữa hình bát giác tượng trưng cho Vishnu, và phần trên cùng hình tròn tượng trưng cho Rudra (hay còn gọi là Shiva). Vì thế gọi là "linh thạch trụ" thì thích hợp hơn.
Ở dãy tháp phía sau có một ngôi tháp, tương đối ít hư hại nhất ở mạn bắc, với mái dài hình yên ngựa. Kiểu mái này chỉ thấy bắt đầu ở những tháp vùng Đồ Bàn - Vijaya (Bình Định ngày nay) sau khi kinh đô được dời xuống từ Mỹ Sơn, Trà Kiệu ở thế kỷ 11. Ở tường có những hình điêu khắc như thần điểu Garuda, sư tử, các tiên nữ Apsara, rắn thần Naga. Chính dưới nền của tháp này trong khi tu sửa đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp đã khám phá và lấy mất một kho tàng được cất dấu gồm những vật cúng dường bằng vàng và bạc.
Ngày nay 2 tháp khác ở phía tây nam là tây đã bị phá hủy. Sự phân bố này làm cho người ta có sự so sánh thú vị với các tháp gạch ở Lolei, gần Angkor Wat tại Campuchia, đã được xây dựng vào thế kỷ 8.
Nhóm tháp Chàm được xây dựng và tu bổ qua nhiều thời kỳ từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 12. Tháp Bà có thể do quốc vương Hoàn Vương Quốc là Harivarman I xây dựng vào khoảng những năm 813-817. Trải qua mưa nắng của thời gian, tháp bị hư hại. Thời Pháp thuộc, trường Viễn Đông Bác Cổ đã tổ chức tu sửa: dùng gạch xây lại nhiều phần và đắp một số tượng lên thân tháp. Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều hiện vật bị mất cắp.
Các bia ký
Tháp Bà còn lưu lại nhiều bia ký cổ nhất của người Chăm. Bergaigne, một nhà khảo cổ học người Pháp đã liệt kê các bia ký theo thời gian như sau:
Nhóm A: Trên bia đá hình lục giác, do vua Satyavarman dựng năm 781 ghi chuyện tháp bị giặc biển đốt phá năm 774, việc xây dựng tượng thần Sri Satya Mukhalinga vào năm 784.
Nhóm B: Do vua Vikrantavarman III ghi lại công lao xây dựng của các tiên vương.
Nhóm C và nhóm D: Do vua Vikrantavarman II ghi các lễ vật dâng cúng chư thần.
Nhóm E: Ghi việc vua Indravarman II dựng pho tượng Bhagavati (tức Po Nagar) bằng vàng vào năm 918; pho tượng này về sau bị người Khmer xâm lăng cướp đi, và đã được thay thế bằng tượng bằng đá vào năm 965.
Bia đá ở hai bên cửa của tháp chính ghi việc cúng ruộng và dân công nô lệ cho nữ thần. Bia ở phía nam của tháp chính ghi việc vua Jaya Harivarman I ca tụng thần Yang Po Nagar vào năm 1178. Bia ở phía bắc tháp chính ghi việc dựng đền thờ thần Bhagavati Matrilingesvara vào năm 1256. Ngoài ra còn bia đá dựng năm 1050 của vua Paramesvaravarman I ghi việc tái lập tượng Bà, việc dâng cúng ruộng đất và nô lệ đủ sắc tộc: người Campa (Chăm), Kvir (Khmer), Lov (Tàu), Pukan (Mã), Syam (Xiêm) vv... Bia của vua Rudravarman III (Chế Củ) dựng năm 1064 ghi việc xây cổng tháp rất tốn kém, và liệt kê những cống phẩm quí giá. Bia năm 1143 ghi lời xưng tụng Bà. Bia năm 1165 của vua Indravarman IV ghi việc dâng cúng một kim mão cho nữ thần Bhagavati Kautharesvati (Dựa vào lời ghi này có thể tạm dịch là "Đức thánh mẫu vùng Kauthara" và so sánh với các bia khác, có thể đoán là người Chăm chỉ thờ thần Parvati như Thánh Mẫu của từng địa phương; ví dụ ở Phú Yên và Ninh Thuận cũng có tháp thờ Thánh Mẫu của vùng đó, chứ chưa hẳn là ở mức độ toàn xứ Chiêm Thành). Các bia sau cùng ở thế kỷ thứ 13 hay 14 tiếp tục ghi những vật dâng cúng Bhagavati.
Lễ hội
Lễ hội Tháp Bà diễn ra từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội này đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng là một trong 16 lễ hội quốc gia vào năm 2001. Những năm gần đây, Lễ hội Tháp Bà được tỉnh Khánh Hòa giao cho Sở Văn hóa Thông tin tổ chức.
CHÙA LONG SƠN
Chùa Long Sơn hay còn gọi là Chùa Phật trắng trước có tên là Đăng Long Tự, tọa lạc ở số 22 đường 23 tháng 10, phường Phương Sơn dưới chân núi Trại Thủy ở Nha Trang. Ngôi chùa này được xây dựng cách đây hơn một trăm năm, trải qua nhiều lần trùng tu, và đến nay là ngôi chùa nổi tiếng nhất Khánh Hòa.
Trên đồi Trại Thủy còn có 2 ngôi chùa khác, chùa Hải Đức ở phía trên và chùa Bửu Phong ở phía nam.
Lịch sử
Chùa Long Sơn do nhà sư Ngộ Chí (sinh năm 1856, pháp danh Phổ Trí, tên tục là Nguyễn Tám Văn Nghi, theo dòng Thiền Lâm tế đời thứ 39) lập năm 1886 với tên gọi là Đằng Long tự. Ban đầu chùa chỉ là một căn nhà tranh nằm tại đỉnh đồi Trại Thủy (nơi đặt tượng Phật trắng hiện nay). Năm 1900, chùa bị sập sau một cơn bão, nên nhà sư quyết định dời xuống chân núi và đổi tên chùa thành Long Sơn tự.
Năm 1936, theo di nguyện của sư Ngộ Chí, chùa được tiến cúng cho Hội An Nam Phật học để làm trụ sở chấn hưng Phật giáo Khánh Hòa, đến nay vẫn là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Khánh Hòa. Năm 1938 (năm Bảo Đại thứ 14), chùa được phong "Sắc tứ Long Sơn tự".
Năm 1941 chùa được trùng tu với công lao chính của Hội trưởng Tôn Thất Quyền và Phật tử Võ Đình Thụy. Năm 1968, chùa bị sạt mái ngói do chiến tranh. Năm 1971, Thượng tọa Thích Thiện Bình đứng ra trùng tu chùa và cho đến năm 1975, việc trùng tu mới thực hiện được 60% theo bản thiết kế của kiến trúc sư Võ Đình Diệp.
Các đặc điểm của chùa
Kim Thân Phật Tổ.
Khuôn viên chùa có chiều rộng 44,5 m, chiều dài hơn 72 m. Bên cạnh chùa là giảng đường của Trường Trung cấp Phật học Khánh Hòa và trụ sở của Giáo hội Phật giáo Khánh Hòa. Chính điện rộng 1.670 m², có một tượng Phật Tổ bằng đồng đang ngồi thuyết pháp, cao 1,6 m, nặng 700 kg.
Từ chùa, muốn lên đến đỉnh đồi Trại Thủy phải đi lên 193 bậc tam cấp. Tại bậc thứ 44 là tượng Phật Tổ nhập Niết Bàn dài 17 m, cao 5 m, đằng sau tượng là bức phù điêu mô tả cảnh 49 đệ tử túc trực niệm phật. Tượng được xây dựng năm 2003. Lên khỏi tượng Phật nằm 5 mét là tháp chuông với quả đại hồng chung cao 2,2 m, nặng 1.500 kg do phật tử tại Huế tặng năm 2002.
Trên đỉnh đồi là bức tượng Kim Thân Phật tổ (còn gọi là tượng Phật trắng) ngồi thuyết pháp, tượng cao 21 m, đài sen làm đế cao 7 m, rất dễ nhìn thấy tại một khu vực rộng xung quanh Chùa. Tượng được xây từ năm 1963 do sự đóng góp của tăng ni phật tử của vùng lân cận. Xung quanh đài sen là chân dung bảy vị hòa thượng, đại đức đã tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của Ngô Đình Diệm trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1963[1]. Dưới chân đài sen là bức tường chia thành những ngăn nhỏ để chứa hài cốt do các gia đình Phật tử gửi.
Trụ trì
Từ khi tạo dựng đến nay, chùa trải qua các đời trụ trì[1]:
Hòa thượng Thích Ngộ Chí: 1886 đến 1935
Thượng tọa Thích Chánh Hóa: 1936 đến 1957
Thượng tọa Thích Chí Tín: 1957 về sau
Kỷ lục
Chùa có bức tượng Kim Thân Phật Tổ được xếp vào sách kỷ lục Guiness Việt Nam : “Ngôi chùa có bức tượng Phật ngoài trời lớn nhất Việt Nam” ( theo sách kỷ lục Việt Nam )
Ảnh
Tượng Phật nằm
Tháp chuông
Chân dung một vị hòa thượng dưới chân Phật Tổ
Khuôn viên Chùa Long Sơn
HÒN CHỒNG
Hòn Chồng là một thắng cảnh tự nhiên ở thành phố Nha Trang, thuộc khóm Hòn Chồng, phường Vĩnh Phước. Khu vực này là một bãi đá được xếp chồng lên nhau một cách tự nhiên, ngoài ra còn có Hòn vợ ở gần đó và Hội quán vịnh Nha Trang có dạng nhà rường Huế được xây ở phía trên.
Miêu tả
Hòn đá lớn nhất với vết lõm hình bàn tay.
Hòn Chồng gồm 2 cụm đá lớn nằm bên bờ biển dưới chân đồi La-san, có thể được tạo nên do sự xâm thực của thủy triều lên ngọn đồi này. Cụm đá lớn ở ngoài biển gọi là Hòn Chồng, gồm một khối đá lớn vuông vức nằm trên một tảng đá bằng phẳng và rộng hơn, phía mặt đá quay ra biển có một vết lõm hình bàn tay rất lớn. Tục truyền rằng, thuở xưa ông khổng lồ ngồi câu cá nơi đây, có một con cá cũng khổng lồ cắn câu lôi đi, ông phải kéo lại, tay cầm cần câu, tay tì vào tảng đá lấy đà khiến bàn tay ấn vào đá và để lại dấu như đã thấy. Theo một truyền thuyết khác, xưa có một người khổng lồ đến xứ này ngoạn cảnh, gặp bầy tiên nữ đang tắm, ông dừng lại say sưa ngắm và vô tình trượt chân ngã, ông vội bám tay vào núi khiến sườn núi sụp đổ, đá văng xuống để lại vết tay ông hằn trên đá. Dấu chân trượt ngã đủ năm ngón cũng để lại dấu tích ở khu vực Suối Tiên.
Đi giữa bãi đá còn nhiều tảng đá chồng chất kỳ lạ như cảnh hai hòn đá dựng đứng, giữa có chẹt một hòn đá lớn như cái cổng qua một cụm đá khác. Cụm đá thứ hai có hình dáng một người phụ nữ ngồi trông ra biển - được đặt một cái tên có ý nghĩa gần gũi với Hòn Chồng - đó là Hòn Vợ, cụm đá này ít được du khách để ý hơn.
Đứng trên Hòn Chồng nhìn ra xa là Hòn Yến, quay về bên phải là Cảng Cầu Đá, Hòn Tre và bờ biển Nha Trang dài tới 6km. Khuất bên mũi đồi Lasan, nhô ra biển là cửa sông Nha Trang, bến cá Cù Lao. Nhìn từ phía Hòn Chồng phía bên kia là núi Cô Tiên. Từ vị trí bên Hòn Chồng sẽ nhìn rất rõ Hòn Đỏ (nơi đặt ngôi chùa) ở phía xa.
Ngoài ra, ở mặt đường trên đường đi xuống Hòn Chồng còn có Hội quán Vịnh Nha Trang, nơi trưng bày nhiều tranh ảnh về Hòn Chồng và các thắng cảnh ở Nha Trang. Hội quán được thiết kế theo phong cách nhà rường Huế.
Nhà thờ Núi (tên chính thức là: Nhà thờ Chánh tòa Kitô Vua) là một nhà thờ Công giáo ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Nhà thờ này còn có nhiều tên gọi bình dân như: Nhà thờ Nha Trang (vì trước đây nó thuộc họ đạo Nha Trang); Nhà thờ Ðá (vì nó được xây bằng đá); Nhà thờ Ngã Sáu (vì nó tọa lạc gần một xòng xoay giao thông); nhưng phổ biến hơn cả là tên gọi Nhà thờ Núi (vì nó được xây trên một núi nhỏ).
Ngày 5 tháng 7, 1957 Giáo phận Nha Trang chính thức được thành lập từ việc chia tách Giáo phận Qui Nhơn nhưng mới chỉ là giáo phận tông tòa. Ngày 24 tháng 11, 1960, Giáo Phận Nha Trang mới được nâng lên hàng giáo phận chính tòa, lúc này, Nhà thờ Nha Trang được chính thức được chọn làm nhà thờ chính tòa của giáo phận, họ đạo Nha Trang trở thành giáo xứ Chính Tòa. Nhà thờ này được xây dựng theo phong cách kiến trúc nhà thờ phương Tây. Nhìn tổng thể, công trình có bố cục chắc khỏe với những khối lập thể nhỏ dần từ thấp vươn cao, nổi bật giữa trời xanh. Ðiểm cao nhất là nơi đặt thánh giá trên đỉnh tháp chuông, cao 38 mét, tính từ mặt đường.
Lịch sử
Mộ của Linh mục Louis Vallet ở chân núi
Cuối thế kỷ 19 (khoảng năm 1885), giáo dân Công giáo tại Nha Trang chỉ khoảng vài trăm người. Năm 1886, người Pháp đặt cơ quan của chính quyền đô hộ tại Nha Trang và để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo cho số giáo dân này và cho cả viên chức người Pháp, họ xây tạm thời một nhà nguyện nhỏ bên bờ biển Nha Trang mà ngày nay là khu vực Tòa giám mục Nha Trang. Louis Vallet (1869-1945) - một linh mục người Pháp đang coi giáo dân vùng Nha Trang - đã có ý định thành lập một giáo xứ tại Nha Trang cùng với việc xây dựng một ngôi nhà thờ cho giáo xứ mới này.
Ngày 3 tháng 9, 1928, nhà thờ được khởi công xây dựng trên một mõm núi nhỏ, có tên là núi Bông, độ cao khoảng 12 mét. Khoảng 500 trái mìn đã được sử dụng để tạo mặt bằng trên đỉnh núi.
Lễ Phục Sinh 1929, khai trương con đường cho xe chạy lên núi. Ðến tháng 6 cùng năm, lối đi lên núi dành cho người đi bộ (gồm 53 bậc cấp) nằm ở hướng Bắc được hoàn thành. Sau đó là các công trình phụ như nhà bếp, nhà ở cho người giúp việc, nhà kho, các bậc thang từ đường chính lên... lần lượt được đưa vào sử dụng. Ðến tháng 3, 1930, hoàn thành xây nhà xứ (tức là nhà dành cho các sinh hoạt ngoài phụng vụ của giáo xứ). Ngày 12 tháng 2, 1933, Vua Bảo Ðại có viếng thăm công trình này.
Ngày 14 tháng 5, 1933, trong lễ thánh Jeanne d'Arc, nhà thờ được cung hiến và khánh thành. Cha Louis Vallet chọn Chúa Kitô Vua làm Bổn Mạng Nhà thờ
Ngày 29 tháng 7 năm 1934, Ðức Khâm Mạng Toà Thánh Dreyer làm phép quả chuông đặt tên hiệu là Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, do bà tín đồ ở Sài Gòn dâng tặng. Tháp chuông được khánh thành vào ngày 3 tháng 12 năm 1935.
Ngày 24 tháng 10, 1945, linh Mục Louis Vallet qua đời. Thi hài ông được an táng dưới chân núi, bên phải con đường lên nhà thờ.
Khoảng năm 1969, đồng hồ trên tháp bị hư và đã không được sửa cho tới tận năm 1978 và tiếp tục hoạt động từ đó đến nay.
Ngày 10 tháng 06, 1987, vách đá dọc theo con đường chính lên nhà thờ được làm thành nơi đặt tro cốt những người chết được bốc dỡ từ nghĩa trang của giáo xứ theo quyết định của Nhà nước.
Ngoài ra, Nhà thờ cũng thực hiện một số chỉnh trang nhỏ như:
17 tháng 02, 1990, gia cố chân núi dưới hang đá Ðức Mẹ.
14 tháng 3, 1991, sửa và mở rộng đường chính thêm 1,5 mét.
28 tháng 10, 1991, đặt tượng Mười hai thánh tông đồ, mỗi tượng cao 1 mét và tượng Chúa Kitô Vua cao 1,2 mét dọc theo đường lên nhà thờ.
19 tháng 12, 1992, đặt 12 tượng các thánh bao quanh sân nhà thờ: Gioan Tẩy giả, Phaolô, Gioakim, Anna, Máccô, Luca, Banaba, Tổng lãnh thiên thần Micae - Raphaen - Gabrien, Mátta, Maria Mađalêna và tượng Ðức Mẹ cứu vớt các linh hồn.
19 tháng 1, 1993, đặt 8 tượng thánh: Stêphanô, Gioan Maria, Vianê, Monica, Cecilia, Anê, Phanxicô Assisi, Anphongsô, Gioan Lasan.
9 tháng 9, 1993, đặt 4 tượng: Chúa Kitô Phục Sinh, thiên thần hộ thủ, thánh Máctin Porét và thánh Ðaminh.
17 tháng 3, 1994, sửa nền hang đá Ðức Mẹ, đặt lại tượng thánh Bécnađét.
Nhiều ý kiến cho rằng, tuyến đường sắt chạy sát cạnh nhà thờ đã gây chấn động, làm ảnh hưởng rất lớn đến sự vững chắc của nhà thờ.
VIỆN HẢI DƯƠNG HỌC
Giới thiệu Viện
Ngày 14 tháng 9 năm 1922, Sở Nghề Cá Đông Dương - tiền thân của Viện Hải Dương Học ngày nay đã được thành lập. Trải qua hơn 80 năm hoạt động và phát triển, Viện Hải Dương Học đã đóng góp được một khối lượng lớn các công trình nghiên cứu cho công cuộc chinh phục khai thác và bảo vệ biển Đông, bao gồm 1100 ấn phẩm đã được công bố, trong đó nghiên cứu về tính đa dạng sinh học chiếm 62,6%, về vật lý hải dương chiếm 11,6%, về sinh thái môi trường chiếm 7,6%, về địa chất địa mạo biển chiếm 5,4%, về hóa học biển và về hóa sinh chiếm 4,4%. Qua đó, có thể thấy được Viện Hải Dương Học đã góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu khoa học của đất nước.
Tuy vậy, với nhiệm vụ nghiên cứu biển trong tương lai, Viện Hải Dương Học luôn luôn tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học và cán bộ quản lý khoa học cả về hai mặt lượng lẫn chất với những trang thiết bị hiện đại nhất, để đáp ứng được nhiệm vụ hiện đại hóa đất nước.
Chức năng, nhiệm vụ
Nghiên cứu những vấn đề khoa học công nghệ thuộc các lĩnh vực sau :
Điều tra, nghiên cứu cơ bản các điều kiện tự nhiên, nguồn lợi sinh vật và không sinh vật (khoáng sản, dầu khí, giao thông, hàng hải…), nghiên cứuu các quá trình xảy ra trong thủy quyển, khí quyển và thạch quyển trong toàn vùng biển Việt Nam và Biển Đông, bao gồm các thủy vực ven biển (cửa sông, đầm phá, vũng vịnh) và các đảo.
Điều tra, nghiên cứu hiện trạng và diễn biến nhiễm bẩn môi trường biển, nghiên cứu đề xuất các giải pháp xử lý nhiễm bẩn nhằm đảm bảo cân bằng sinh thái và phát triển nguồn lợi một cách ổn định.
Nghiên cứu các hiện tượng đặc biệt trên biển phục vụ công tác phòng chống thiên tai như hiện tượng nước dâng trong bão, sóng thần, xói lở - bồi tụ.
Nghiên cứu kỹ thuật và công nghệ biển nhằm phục vụ thiết kế và xây dựng các công trình biển, phát triển nuôi trồng hải sản, chiết xuất các chất hoạt tính từ sinh vật biển và các sản phẩm từ nước biển thiết kế và chế tạo các dụng cụ và máy móc hải dương học chuyên dùng.
Phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và các cơ quan sản xuất trong nước tổ chức triển khai, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống, thực hiện chuyển giao công nghệ tiên tiến thuộc các lĩnh vực nói trên từ nước ngoài vào Việt Nam.
Tham gia đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học - công nghệ và hải dương học.
Tổ chức hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hải dương học.
Xây dựng cơ sở vật chất cho việc nghiên cứu khoa học - công nghệ, triển khai ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến thuộc các lĩnh vực nghiên cứu của Viện.
Quản lý đội ngũ cán bộ, cơ sở hạ tầng và các tài sản khác của Viện
Lịch sử phát triển
Viện hải Dương Học được thành lập từ ngày 14 tháng 09 năm 1922. Cho tới nay, qua gần một thế kỷ hoạt động và phát triển, Viện Hải Dương Học đã đóng góp được một khối lượng lớn các công trình nghiên cứu cho công cuộc chinh phục, khai thác và bảo vệ biển. Cùng với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, các giai đoạn hoạt động và phát triển Viện có thể được chia như sau:
Giai đoạn từ năm 1922 - 1930
Sở Hải Dương Học Nghề Cá Đông Dương: (Service Océanographique des Pêches de l'Indochine) là cơ quan tiền thân của Viện Hải Dương Học Đông Dương được thành lập theo quyết định của Ngài Baudoin, Toàn quyền Đông Dương ký ngày 14/09/1922.
Phương hướng nghiên cứu: Nghiên cứu khảo sát các điều kiện tự nhiên và nguồn lợi cá để phục vụ cho nghề cá Đông Dương.
Giám đốc : Tiến sĩ Armand Krempf, nhà nghiên cứu sinh học.
Cán bộ nghiên cứu khoa học chính :
Tiến sĩ Paul Chabanaud, nhà nghiên cứu ngư học.
Tiến sĩ Constantin Nikolaevitch Dawydoff (người Nga) nhà nghiên cứu động vật không xương sống ở biển.
Tiến sĩ Pierre Chevey nhà nghiên cứu ngư học.
Tiến sĩ Henri Marcelet, nhà nghiên cứu hóa sinh học.
Ô. Nguyễn Công Tiêu, nhà nghiên cứu động vật giun nhiều tơ.
Phương tiện nghiên cứu:
Tàu khảo sát biển : Tàu “De Lanessan”, trọng tải 750 tấn, công suất 350CV, đánh mẽ lưới thí nghiệm đầu tiên vào ngày 08/04/1925 ở 20o vĩ độ Bắc và 106o50 kinh độ Đông. Tàu rời Đông Dương 1942.
Xưởng thí nghiệm chế biến bột cá, dầu cá.
Một thư viện. Một phòng lưu trữ vật mẫu cá.
Phương thức hoạt động khoa học
Ngoài việc tiến hành hoạt động khoa học tại Đông Dương, các nhà khoa học còn gửi vật mẫu sang các nước Châu Âu để phân loại.
Giai đoạn từ năm 1930 - 1952
Viện Hải Dương Học Đông Dương (L'Institut Océanographique de l'Indochine) được thành lập theo sắc lệnh của ngài Gaston Doumergue, Tổng thống nước Cộng hòa Pháp ký vào ngày 01/12/1929
Phương hướng nghiên cứu: Khảo sát điều kiện tự nhiên và nguồn lợi sinh vật, kết hợp với việc đánh cá thí nghiệm ở biển Đông, bao gồm 2 quần đảo Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratly) và biển Hồ ở Campuchia để xác định chiến lược cho nghề khai thác cá ở Đông Dương. Đồng thời triển khai nghiên cứu các công nghệ chế biến và nuôi trồng hải sản.
Giám đốc:
Tiến sĩ Armand Krempf (thời gian từ 1930-1933).
Tiến sĩ Pierre Chevey (thời gian từ 1933-1942).
Tiến sĩ Jean Durand nhà nghiên cứu ngư học.
Ông Ménes Quan Năm, thuyền trưởng tàu De Lanessan (thời gian 1942-1944).
Tiến sĩ Drach (thời gian từ 1946-1949).
Tiến sĩ Raoul Sérène, xử lý thường vụ Giám đốc (thời gian từ 1946-1949). Giám đốc (1949-1954).
Cán bộ nghiên cứu khoa học chính :
Tiến sĩ Constantin Nikolaevitch Dawydoff, nhà nghiên cứu động vật thủy sinh.
Tiến sĩ Théodore Monod, nhà nghiên cứu động vật thủy sinh.
Tiến sĩ Jacques Pellegrin, nhà nghiên cứu ngư học.
Tiến sĩ Jean Delacour, nhà nghiên cứu chim biển.
Tiến sĩ Gibert Deroux, nhà nghiên cứu động vật thủy sinh.
Bà Deroux, nhà nghiên cứu hóa học biển.
Ô. Nguyễn Cháu , chuyên viên nghiên cứu nghề cá.
Ô. Nguyễn Trong Thu , chuyên viên nghề cá.
Ô. Lê Quang Huấn , chuyên viên nghiên cứu cá.
Ô. Nguyễn Văn Khai , chuyên viên nghiên cứu hóa biển.
Ô. Phạm Nhâm , chuyên viên nghiên cứu hóa học.
Ô. Nguyễn Văn Giác, chuyên viên nghiên cứu giáp xác, trưởng phòng bảo tàng.
Ô. Ngô Thiều , chuyên viên nghiên cứu san hô.
Ô. Bùi Hữu Củi , chuyên viên nghiên cứu cá.
Ô. Nguyễn Lương Khương, chuyên viên nghiên cứu nghề cá.
Ô. Trần Văn Trí, chuyên viên nghiên cứu nghề cá.
Ô. Huỳnh Đương, chuyên viên nghiên cứu san hô.
Ô. Nguyễn Văn Bé , chuyên viên nghiên cứu phiêu sinh vật.
Ô. Lê Công Mẫn, chuyên viên nghiên cứu ngư học.
Ô. Nguyễn Văn Lượm , chuyên viên nghiên cứu động vật giáp xác.
Ô. Trần Đình Nam , chuyên viên nghiên cứu động vật thân mềm.
Ô. Phạm Văn Khoa, chuyên viên nghiên cứu hóa học biển.
Ô. Cao Văn Quang, chuyên viên nghiên cứu hóa học biển.
Ô. Lương Công Kỉnh , chuyên viên nghiên cứu thực vật biển.
Ô. Ngô Văn Sách, chuyên viên nghiên cứu động vật thủy sinh.
Phương tiện nghiên cứu
Tàu khảo sát “De Lanessan” hoạt động cho đến năm 1942. Sau đó là tàu Mao Tiên công suất 22CV.
Xưởng thí nghiệm chế biến sản phẩm thủy sản (bột cá, dầu cá, nước mắm).
Các phòng thí nghiệm, thư viện, hồ cá
Giai đoạn từ năm 1952 - 1975
Từ năm 1952, Viện Hải Dương Học Đông Dương được đổi tên là Viện Hải Dương Học Nha Trang (L'Institut Océanographique de Nha Trang), về sau đổi thành Hải học Viện Nha Trang khi có quyết định của Chính phủ Pháp bàn giao cho Chính quyền miền Nam đương thời (1954). Tiến sĩ Raoul Sérène giữ nhiệm vụ vai trò cố vấn kỹ thuật cho đến tháng 03/1961. Thời gian này, đất nước chưa thống nhất, việc nghiên cứu biển mang tính chất khu vực. Viện Hải Dương Học Nha Trang hoạt động khó khăn trong điều kiện có chiến tranh nên phương hướng nhiệm vụ của Viện chú trọng vào việc đào tạo cán bộ nghiên cứu biển có trình độ trên đại học và đại học cộng đồng và tổ chức những chuyến khảo sát biển ven bờ, cù lao gần và tập trung vào cộng tác xác định mẫu vật sắp xếp lại theo bộ môn, viết báo cáo về các khảo sát có tính ứng dụng.
Tham gia khảo cứu vùng biển vịnh Thái Lan và miền Nam Việt Nam với Viện Scripps (Institution of Oceanography California) Hoa Kỳ trên tàu Stranger trong chương trình NAGA (1959-1960) và tham gia chương trình CSK (Cooper ative Study of Kuro shivo) (1965-1977) nghiên cứu ảnh hưởng của dòng Kuroshio.
Các Giám đốc:
Bác sĩ Ngô Bá Thành (1956-1957) chuyên gia thú y.
Ô. Nguyễn Đình Hưng (1957-1958) giảng nghiệm trưởng.
Tiến sĩ Phạm Hoàng Hộ (1959-1960) giáo sư thực vật học.
Tiến sĩ Nguyễn Chung Tú (1960-1962) giáo sư vật lý học.
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Cẩn (1962-1963) giáo sư địa chất.
Tiến sĩ Nguyễn Hải (1963-1966) giáo sư địa vật lý.
Tiến sĩ Trần Ngọc Lợi (1967-1975) giáo sư sinh thái học, kiêm nhiệm Viện trưởng Đại học cộng đồng Duyên Hải.
Ô. Lê Đình Châu, Phó Giám đốc Hành chính Tài chính.
Cán bộ nghiên cứu khoa học chính :
Tiến sĩ cấp 3 Phan Phùng, nhà nghiên cứu thủy triều, Trưởng phòng.
Tiến sĩ cấp 3 Nguyễn Ngọc Thạch, nhà nghiên cứu địa chất biển, Trưởng phòng.
Cử nhân Phan Đình Tần, chuyên viên vật lý, Trưởng phòng.
Cử nhân Phạm Văn Thơm, chuyên viên địa hóa.
Cử nhân Tôn Thất Thống, chuyên viên động vật, Trưởng phòng.
Cử nhân Nguyễn Thượng Đào, chuyên viên phiêu sinh vật, Trưởng phòng nghiên cứu phiêu sinh.
Cử nhân Đoãn Văn Thông, chuyên viên thực vật biển, Trưởng phòng.
Cử nhân Lê Thị Ngọc Anh, chuyên viên phiêu sinh vật.
Cử nhân Lê Trọng Minh, chuyên viên thủy sinh vật học.
Cử nhân Đào Tấn Hổ, chuyên viên thủy sinh vật học.
Cử nhân Bùi Văn Dương, chuyên viên động vật học.
Cử nhân Lâm Văn Đạt, chuyên viên nghiên cứ động vật.
Cử nhân Nguyễn Hữu Đại, chuyên viên thực vật biển.
Cử nhân Trần Đình Sơn, chuyên viên hóa học biển.
Cử nhân Lý Quốc Hồng, chuyên viên động vật.
Cử nhân Phạm Cao Thăng, chuyên viên vật lý.
Cử nhân Đặng Mâu Phong, chuyên viên địa chấn.
Cử nhân Nguyễn Văn Xuân, chuyên viên động vật.
Cử nhân Trương Tiến Huy, chuyên viên hóa học.
Đặng Mậu Phong, chuyên viên địa chấn.
Ô. Trần Đình Nam , chuyên viên nghiên cứu động vật thân mềm.
Ô. Nguyễn Văn Lượm , chuyên viên nghiên cứu động vật giáp xác.
Ô. Trần Văn Nam, chuyên viên đồ họa.
Ô. Phan Hay, chuyên viên họa đồ.
Ô. Trần Đệ, chuyên viên nghề cá và tài chính.
Ô. Nguyễn Đình Ba, nghiệm chế viên vật lý.
Bà Đỗ Thị Như Nhung, nghiệm chế viên ngư học.
Bà Đỗ Thị Tuyết Nga, nghiệm chế viên bảo tàng.
Ô. Phạm Trọng Tự, nghiệm chế viên hồ cá.
Bà nguyễn Thị Hồng, nghiệm chế viên rong biển.
Đào tạo : 4 tiến sĩ quốc gia, 3 tiến sĩ cấp 3 và 4 cán bộ gởi đi tu nghiệp ở nước ngoài.
Phương tiện nghiên cứu
Tàu khảo sát biển Mao Tiên 1, 22CV. Tàu Mao Tiên 2 (176 CV, trọng tải 30 tấn, hàng hành 30 ngày đêm có 10 – 15 vị trí cho cán bộ khoa học làm việc)
Các phòng thí nghiệm vật lý hóa học, địa chất, phiêu sinh vật, phòng động vật, phòng thực vật.
1 thư viện có độ 5000 đầu sách và tạp chí, có nhiều sách khoa học cổ rất hiếm và trên 45.000 đề mục.
1 phòng vật mẫu sinh vật chứa 50.000 mẫu ở biển Việt Nam và Đông Nam Á.
Giai đoạn từ năm 1959 - 1975
Trong khi đất nước chưa thống nhất, để khảo sát khu vực biển vịnh Bắc Bộ Chính phủ Việt Nam DCCH quyết định thành lập các tổ chức nghiên cứu biển :
1959 thành lập Đoàn Khảo sát Biển vịnh Bắc Bộ (điều kiện tự nhiên và nguồn lợi cá tầng đáy và gần đáy).
1961 thành lập Trạm Nghiên cứu Biển Hải Phòng trên cơ sở của Đoàn Khảo sát Biển.
1967 thành lập Viện Nghiên Cứu Biển Hải Phòng trên cơ sở Trạm Nghiên cứu Biển Hải Phòng.
1967 thành lập Viện Nghiên Cứu Biển Hải Phòng trên cơ sở Trạm Nghiên cứu Biển Hải Phòng.
Phương hướng của Viện Nghiên Cứu Biển :
- Nghiên cứu khảo sát điều kiện tự nhiên, nguồn lợi cá và các sinh vật khác nhằm phục vụ phát triển kinh tế và quốc phòng.
Hợp tác điều tra khảo sát : với Trung Quốc vịnh Bắc Bộ (1959-1965).
Viện trưởng :
Ông Nguyễn Khương, nguyên đại úy Hải quân, trưởng phòng khảo sát đo đạc hàng hải thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Đội ngũ cán bộ nghiên cứu chính :
Ông Ngô Quang Tấn đoàn trưởng Đoàn điều tra khảo sát Vịnh Bắc Bộ
Phó Tiến sĩ Lê Trọng Phấn, nghiên cứu sinh học cá.
Phó Tiến sĩ Lưu Tỳ, nghiên cứu địa chất địa mạo biển – Trưởng phòng.
Phó Tiến sĩ Lê Phước Trình, nghiên cứu vật lý động lực biển.
Phó Tiến sĩ Đinh Đình Tiền, nghiên cứu giáp xác biển.
Phó Tiến sĩ Trương Ngọc An, nghiên cứu thực vật phiêu sinh.
Phó Tiến sĩ Trương Đình Hiển, nghiên cứu vật lý biển.
Phó Tiến sĩ Nguyễn Văn Chung, nghiên cứu giáp xác biển.
Cử nhân Nguyễn Khắc Hường, nghiên cứu động vật có xương sống biển. - Trưởng phòng
Cử nhân Trịnh Đức Tâm, nghiên cứu vật lý biển - Trưởng phòng
Cử nhân Lương Văn Minh – nghiên cứu hóa học biển - Trưởng phòng
Cử nhân Nguyễn Phi Đính, nghiên cứu sinh học cá.
Cử nhân Nguyễn Hữu Phụng, nghiên cứu trứng cá cá con.
Cử nhân Bùi Xuân Điến, nghiên cứu hóa học biển.
Cử nhân Trịnh Phùng, nghiên cứu địa chất địa mạo biển.
Cử nhân Nguyễn Nhật Thi, nghiên cứu phân loại cá biển.
Cử nhân Nguyễn Khắc Nhân, nghiên cứu vật lý khí tượng biển.
Kỹ sư Hoàng Xuân Nhuận, nghiên cứu vật lý biển.
Cử nhân Bùi Hồng Long, nghiên cứu động lực biển.
Lã Xuân Bài, nghiên cứu vật lý biển.
Kỹ sư Nguyễn Bá Xuân, nghiên cứu vật lý biển.
Kỹ sư Nguyễn Kim Vinh, nghiên cứu vật lý biển.
Cử nhân Nguyễn Văn Khôi, nghiên cứu động vật phiêu sinh.
Cử nhân Đàm Quang Hải, nghiên cứu thủy sinh vật.
Cử nhân Phạm Cao Niệm, nghiên cứu vật lý biển.
Cử nhân Phí Kim Trung, nghiên cứu địa chất biển.
Cử nhân Nguyễn Chu Hồi, nghiên cứu địa chất biển.
Cử nhân Nguyễn Văn Tố, nhà nghiên cứu vật lý biển.
Cử nhân Nguyễn Tác An, nghiên cứu hóa học biển.
Cử nhân Phạm Đình Trọng, nghiên cứu động vật thủy sinh.
Cử nhân Nguyễn Xuân Dục, nghiên cứu động vật thân mềm.
Cử nhân Hoàng Trọng Cư, nghiên cứu động vật thủy sinh.
Cử nhân Trịnh Thế Hiếu, nghiên cứu địa chất biển.
Cử nhân Nguyễn Văn Lục, nghiên cứu vật lý biển.
Cử nhân Nguyễn Đình Châu, nghiên cứu sinh học cá.
Kỹ sư Dương Thị Thơm, nghiên cứu sinh học cá.
Kỹ sư Nguyễn Mạnh Long, nghiên cứu trứng cá cá bột.
Kỹ sư Đào Tất Kim, nghiên cứu trứng cá cá bột.
Cử nhân Đào Mạnh Muộn, nghiên cứu vật lý biển.
Cử nhân Trần Nho Xy, nghiên cứu ngư học.
Cử nhân Đặng Công Minh, nghiên cứu vật lý biển.
Cử nhân Nguyễn Hữu Sữu, nghiên cứu địa chất biển.
Cử nhân Ngô Kinh, nghiên cứu địa chất biển.
Cử nhân Thẩm Tích Giới, nghiên cứu vật lý biển.
Kỹ sư Nguyễn Hòa, nghiên cứu địa chất biển.
Kỹ thuật viên địa chất Trần Bá Thụ.
Phương tiện nghiên cứu :
Tàu khảo sát biển : NCB-01, NCB-02.
Các phòng thí nghiệm : vật lý, hóa học, địa chất, sinh vật đáy, sinh vật nổi, trứng cá cá bột, ngư học và một phòng bảo tàng vật mẫu sinh vật và địa chất biển.
Một thư viện có độ 3000 đầu sách và tạp chí khoa học các loại.
Giai đoạn từ năm 1975 - đến nay
Sau khi Việt Nam thống nhất, Viện Hải Dương Học Nha Trang, Viện Nghiên Cứu Biển Hải Phòng được sát nhập thành một Viện thống nhất lấy tên là Viện Nghiên Cứu Biển Nha Trang, trực thuộc Viên Khoa học Việt Nam, nay là Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia.
Đến năm 1993, Viện Hải Dương Học (L'Institut Océanographique) bao gồm tất cả các cơ quan nghiên cứu biển trên toàn quốc, Viện được tổ chức thành một Viện chính ở Nha Trang và hai phân viện ở Hải Phòng và Hà Nội.
Phương hướng của Viện Nghiên Cứu Biển :
Lâu dài :
Nghiên cứu các dữ liệu để mô hình hóa việc sử dụng tài nguyên biển một cách hợp lý và bảo vệ môi trường biển trong sạch.
Trước mắt :
Tiếp tục nghiên cứu điều tra cơ bản các điều kiện tự nhiên vật lý, hóa học, địa chất, sinh học, môi trường của các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật. Chú trọng đến các hiện tượng xói lở và bồi tụ, sinh thái vùng biển ven bờ, các hải đảo và rạn san hô.
Nghiên cứu công nghệ : chiết xuất các hoạt tính sinh học trong sinh vật biển, chống nhiễm bẩn, môi trường và nuôi trồng thủy sản.
Thành lập ngân hàng dữ liệu biển Việt Nam và vùng phụ cận.
Viện trưởng :
Ô. Nguyễn Khương (thời gian từ 1975-1976).
Tiến sĩ KH Lê Trọng Phấn (thời gian từ 1977-1988) Phó giáo sư sinh học biển.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Phụng (thời gian từ 1988-1992) Phó giáo sư sinh học biển.
Tiến sĩ Võ Văn Lành (thời gian từ 1992-1997) Phó giáo sư vật lý biển.
Tiến sĩ KH Nguyễn Tác An (thời gian từ 1997 đến 2006) Phó giáo sư sinh thái môi trường biển.
Tiến sĩ Bùi Hồng Long (thời gian từ 2006 đến nay) chuyên gia động lực biển.
Đội ngũ cán bộ khoa học :
Tiến sĩ Nguyễn Kim Hùng, chuyên gia hóa sinh học.- Phó viện trưởng.
Tiến sĩ KH Lê Phước Trình, chuyên gia dòng chảy - Phân viện trưởng và giám đốc trung tâm dữ liệu biển.
Tiến sĩ Lã Văn Bài, chuyên gia vật lý thủy văn biển, Trạm trưởng trạm Quan trắc và kiểm soát môi trường biển, Nha Trang.
Tiến sĩ Nguyễn Bá Xuân, chuyên gia vật lý thủy văn biển.
Tiến sĩ Trịnh Phùng, chuyên gia địa mạo biển –Trưởng phòng.
Tiến sĩ Trịnh Thế Hiếu, chuyên gia địa chất biển Trưởng phòng.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Chung, chuyên gia giáp xác biển- Trưởng phòng.
Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hường, chuyên gia phân loại động vật có xương sống biển Trưởng phòng.
Tiến sĩ Nguyễn Phi Đính, chuyên gia sinh học cá - Trưởng phòng.
Tiến sĩ Lâm Ngọc Trâm, chuyên gia hóa các hợp chất thiên nhiên - Trưởng phòng.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Khôi, chuyên gia động vật phiêu sinh biển - Trưởng phòng.
Tiến sĩ Võ Sĩ Tuấn, chuyên gia san hô biển - Trưởng phòng.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại, chuyên gia thực vật biển - Trưởng phòng.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Lục, chuyên gia số lượng biến động cá.
Tiến sĩ Trương Sĩ Kỳ, chuyên gia nuôi cá ngựa biển - Trưởng phòng.
Tiến sĩ Võ Đề, chuyên gia hóa ăn mòn kim loại - Trưởng phòng.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dinh, chuyên gia rong biển - Trưởng phòng
Cử nhân Huỳnh Quang Năng, chuyên gia rong biển – Trưởng phòng
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Lâm, chuyên viên tảo phiêu sinh.
Thạc sĩ Nguyễn Thanh Vân, chuyên viên thông tin tư liệu – Trưởng phòng.
Cử nhân Nguyễn Cho, chuyên viên động vật phiêu sinh.
Kỹ sư Nguyễn Kim Vinh, chuyên viên động lực biển.
Cử nhân Cao Phương Dung, chuyên viên hóa sinh học, Phó trưởng phòng.
Cử nhân Phạm Văn Thơm, chuyên viên địa hóa và thủy hóa, Trưởng phòng.
Cử nhân Hồ Bá Đỉnh, chuyên viên sinh học cá –Trưởng phòng
Cử nhân Đào Tấn Hổ, chuyên viên động vật da gai - Trưởng phòng.
Cử nhân Nguyễn Hữu Sửu, chuyên viên địa chất.
Cử nhân Nguyễn Kim Đức, chuyên viên hóa sinh học - Phó phòng
Cử nhân Bùi Thế Phiệt, chuyên viên ngư học - Trưởng phòng.
Cử nhân Võ Duy Sơn, chuyên viên vật lý phóng xạ.
Cử nhân Đỗ Minh Thu, thư ký xuất bản Tuyển tập nghiên cứu Biển, Phó trưởng phòng.
Cử nhân Phan Quảng, chuyên viên máy tính và dữ liệu biển, Phó trưởng phòng.
Cử nhân Tống Phước Hoàng Sơn, chuyên viên GIS.
Cử nhân Lê Lan Hương, chuyên viên vi sinh vật biển, Phó trưởng phòng.
1 đội lặn sâu khảo sát đáy biển gồm 15 người.
Đào tạo cán bộ khoa học trên đại học :
Trong nước: 8 tiến sĩ, 3 thạc sĩ.
Gởi đào tạo ở nước ngoài: 3 tiến sĩ KH, 7 tiến sĩ, 6 thạc sĩ.
Phương tiện nghiên cứu khoa học :
Tàu khảo sát biển: NCB-03, NCB-04 (chuyển từ Mao tiên 2), NCB-05 (80 tấn, 250CV, trọng tải 30 tấn, tốc độ 8 hải lý / giờ, hàng hành 15 ngày đêm, 10 cán bộ khoa học).
Các phòng thí nghiệm: vật lý, hóa học, địa chất, sinh vật và phòng thí nghiệm môi trường, có nhiều máy phân tích hiện đại như máy sắc kí khí, máy quang phổ hấp thụ nguyên tử, máy phổ kế gamma, máy huỳnh quang v.v...
Một hệ thống Trạm quan trắc điều kiện tự nhiên từ Nha Trang đến Kiên Giang.
Một thư viện có hơn 7000 đầu sách và 60.000 tạp chí khoa học được gởi từ 140 tổ chức quốc tế của hơn 30 nước trên thế giới, có nhiều tư liệu khoa học biển từ thế kỷ 18 – 19.
Một ngân hàng dữ liệu biển Việt Nam và khu vực.
Một bảo tàng Hải Dương học lưu trữ mẫu vật và hồ cá có 10.000 vật mẫu sinh vật.
Một hệ thống thực nghiệm nuôi sinh vật biển.
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ
Ngày 08/01/2010, lớp 09CUK1 chúng em chuyên ngành hướng dẫn viên du lịch đã tổ chức chuyến đi city tour Nha Trang, đây cũng chính là chuyến đi đầu tiên của lớp chúng em. Sáng sớm cô giáo chúng em tập trung tập trung tại cổng trường. Những chiếc xe máy của lớp di chuyển về viện Hải Dương Học. Mọi người náo nức bởi vì được đến thăm quan thực tế để nói về chuyên ngành của mình.
Tới viện Hải Dương Học chúng em cảm thấy thú vị về thế giới sinh vật biển, vô cùng phong phú với biết bao loài cá như cá Mao Tiên, cá Chình, cá Mập…
Đến Nhà Thờ Núi, cảm nhận sự trang nghiêm trong nhà thờ, các bạn trong lớp cũng đã thuyết minh làm cho buổi tham quan thêm phần thú vị.
Đến chùa Long Sơn, được nhìn thấy tượng Phật trắng uy nghi.
Đến với Ponagar – tháp Thiên Y Thánh Mẫu, bước tới chân tháp, em thấy được kiến trúc Chăm hiện ra huyền bí, nền văn hóa Chăm vô cùng bí ẩn, tín ngưỡng dân gian Chăm bình dị và gần gũi với đời sống nông nghiệp của họ.
Kết thúc chuyến tham quan em cảm thấy vô cùng thích thú vì đã học được rất nhiều điều bổ ích và em hi vọng sẽ được đi nhiều chuyến hơn nữa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KHANH HOA - NHA TRANG.doc