Tài liệu Đề tài Khái quát chung về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt: KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
1
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
ìm ra lửa là một trong những phát hiện lớn và có ý nghĩa trọng yếu nhất trong nền
văn minh nhân loại từ xưa đến nay. Ngọn lửa đã giúp con người nấu chín thức ăn,
sưởi ấm lòng người trong những ngày đông giá rét. Ngọn lửa cũng giúp loài người
thắp lên ánh sáng, giúp con người thoát khỏi thời kỳ tối tăm, mông muội, rời bỏ
phần "con" để bước sang một thời kỳ văn minh, tiên tiến, mang tính "người" hơn.
Tuy nhiên, ngọn lửa cũng đã gây ra không biết bao nhiêu tai hoạ nghiêm
trọng cho con người, chẳng thế mà người ta đã nói rằng "giặc phá không bằng
nhà cháy".
Trên thực tế, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hàng năm, những trận
hoả hoạn, những cơn bão, những trận động đất… và những rủi ro khác đã phá
huỷ hàng trăm ngôi nhà, cướp đi sinh mạng của hàng trăm, hàng nghìn người
dân, gây thiệt hại đến hàng trăm tỷ USD.
Ở Việt Nam cũng vậy, hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng thư...
102 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Khái quát chung về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
1
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
ìm ra lửa là một trong những phát hiện lớn và có ý nghĩa trọng yếu nhất trong nền
văn minh nhân loại từ xưa đến nay. Ngọn lửa đã giúp con người nấu chín thức ăn,
sưởi ấm lòng người trong những ngày đông giá rét. Ngọn lửa cũng giúp loài người
thắp lên ánh sáng, giúp con người thoát khỏi thời kỳ tối tăm, mông muội, rời bỏ
phần "con" để bước sang một thời kỳ văn minh, tiên tiến, mang tính "người" hơn.
Tuy nhiên, ngọn lửa cũng đã gây ra không biết bao nhiêu tai hoạ nghiêm
trọng cho con người, chẳng thế mà người ta đã nói rằng "giặc phá không bằng
nhà cháy".
Trên thực tế, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hàng năm, những trận
hoả hoạn, những cơn bão, những trận động đất… và những rủi ro khác đã phá
huỷ hàng trăm ngôi nhà, cướp đi sinh mạng của hàng trăm, hàng nghìn người
dân, gây thiệt hại đến hàng trăm tỷ USD.
Ở Việt Nam cũng vậy, hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng thường xuyên
xảy ra gây thiệt hại nặng nề cả về người và của, ví dụ như các vụ cháy lớn như:
cháy chợ Đồng Xuân, cháy Vũ trường Vĩnh Lợi (Thành phố Hồ Chí Minh), xí
nghiệp giày Hiệp Hưng, Xí nghiệp dược phẩm Đồng Tháp, Xí nghiệp may mặc
Sông Bé, nổ kho vũ khí Đồng Dũ…và gần đây nhất là vụ cháy toà nhà trung
tâm thương mại ITC ở Thành Phố Hồ Chí Minh.
Để khắc phục những hậu quả nặng nề do những vụ hoả hoạn gây ra, từ
lâu, người ta đã tìm kiếm và sử dụng rất nhiều biện pháp kinh tế. Trong đó, có
thể khẳng định rằng cho đến nay, biện pháp hữu hiệu nhất vẫn là bảo hiểm.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, cơ chế thị trường đã buộc
các doanh nghiệp trong nước phải tự chủ hoàn toàn về tài chính, phải tự gánh
chịu những rủi ro, tai hoạ không may xảy đến với mình chứ không còn được
Nhà nước bảo trợ, bù đắp như trước kia nữa. Đồng thời, từ khi Luật Đầu tư
nước ngoài được ban hành và thực thi, Việt Nam ngày càng thu hút được nhiều
nhà Đầu tư nước ngoài hơn. Trong tình hình đó, phát triển hoạt động bảo hiểm
T
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
2
LỜI NÓI ĐẦU
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một công tác không thể thiếu để đáp ứng nhu
cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp này yên tâm sản xuất, kinh doanh và phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, cùng với mong muốn được
tìm hiểu, nghiên cứu sâu thêm về hoạt động này, em đã chọn "Bảo hiểm hoả
hoạn và rủi ro đặc biệt tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài cho
Khoá Luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần Lời mở đầu và phần Kết luận, phần còn lại của Khoá luận
được chia làm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt.
Chương II: Hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt ở Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động
bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt tại Việt Nam.
Mục đích của khoá luận nhằm xem xét toàn bộ nội dung cũng như thực
tiễn việc tiến hành hoạt động khai thác bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt tại
Việt Nam. Khoá luận cũng sẽ đặt chúng trong mối quan hệ với quy tắc bảo
hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt hiện đang được áp dụng ở Việt Nam, từ đó
thấy được những mặt đã đạt được cũng như chưa đạt được trong hoạt động bảo
hiểm này, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh sự phát triển của
hoạt động bảo hiểm nói chung cũng như bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt nói riêng.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành của mình đến PGS.TS Nguyễn
Như Tiến, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt quá trình thực
hiện luận văn này. Em cũng cám ơn các thầy, cô trong bộ môn Vận tải và Bảo
hiểm đã truyền đạt cho em những kiến thức vô cùng quý báu về lĩnh vực bảo
hiểm để em có thể hoàn thành tốt Khoá luận tốt nghiệp của mình.
Do hạn chế về kinh nghiệm, tài liệu và thời gian nên Khoá luận không
tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, em kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét của
các thầy, các cô và các bạn để Khoá luận được hoàn thiện hơn.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
3
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM HOẢ
HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
I. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG VÀ QUY TẮC CỦA BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI
RO ĐẶC BIỆT
1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI
RO ĐẶC BIỆT
1.1. Khái niệm về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
Trên thế giới có thể có nhiều cách giải thích khác nhau về bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt. Tuy nhiên, nhìn chung ta có thể hiểu rằng:
Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là bảo hiểm những thiệt hại do
cháy và các rủi ro tương tự hay các rủi ro đặc biệt như: động đất, bão lụt, núi
lửa, sét đánh… gây ra cho đối tượng bảo hiểm.
Các nước khác nhau cũng có những cách giải thích khác nhau về điều kiện
công nhận có hoả hoạn. Ví dụ như Mỹ cho rằng phải có đủ 3 điều kiện sau thì
mới công nhận có xảy ra hoả hoạn:
- Phải có ánh sáng và nhiệt tạo ra ngọn lửa
- Phải là ngọn lửa độc ác
- Phải không nằm trong phạm vi loại trừ bảo hiểm trong đơn bảo hiểm
Pháp luật của Mỹ đã phân chia về lửa ra thành 2 loại là "lửa hiền lành"
(friendly fire) và "lửa độc ác" (hostile fire). Vì mục đích nhất định, ngọn lửa nào
được đốt cháy và sử dụng trong một phạm vi nhất định thì đó là "ngọn lửa hiền
lành", còn ngọn lửa nào vượt quá phạm vi nhất định và được đốt cháy ở nơi
không nên có lửa cháy thì đó là "ngọn lửa độc ác". Thí dụ bà A người Mỹ đã
mua bảo hiểm cháy cho một số đồ nữ trang của mình. Một hôm, bà A đã để một
chiếc nhẫn kim cương lên mặt khung thành lò sưởi liền tường. Khi tới nghe điện
thoại gần đó bỗng nhiên bà A thấy lớp giấy trang trí trên mặt khung lò sưởi này
đã bén lửa. Bà A vội vứt giấy này vào trong lò sưởi đang có lửa cháy, trong lúc
I
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
4
CHƯƠNG I
vội vàng bà vứt nhầm cả chiếc nhẫn kim cương vào trong lò sưởi. Kết quả là
chiếc nhẫn bị lửa thiêu huỷ. Bà A đòi doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường. Doanh
nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường vì cho rằng lửa cháy trong lò sưởi là "ngọn
lửa hiền lành" và bà A đã tự vứt nhẫn vào đó mới gây thiệt hại. Sau đó toà án Mỹ
đã kết luận: "lửa trong lò sưởi là "lửa hiền lành", nhưng lửa cháy trên khung
thành lò sưởi là "lửa độc ác". Vì phải dập tắt lửa cháy trên khung thành lò sưởi,
chẳng may đã gây tổn thất khác, cũng chẳng khác gì đã trực tiếp bị tổn thất bị lửa
thiêu huỷ. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại cho bà A.
Riêng ở Việt Nam, để hiểu rõ về những quy định đối với bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt thì ta phải xem xét đến Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn
và các rủi ro đặc biệt ban hành ngày 2/5/1991. Trước tiên, ta đi tìm hiểu về
những thuật ngữ có liên quan đến bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt:
Cháy: là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng.
Hoả hoạn: Là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài nguồn lửa chuyên
dùng và gây thiệt hại cho tài sản và người xung quanh.
Đơn vị rủi ro: Là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với
khoảng cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác, tuy
nhiên khoảng cách gần nhất không dưới 12m. Mục đích của quy định
này là để xác định vị trí, quy vùng trách nhiệm bồi thường. Chỉ có những
tài sản nằm trong khu vực đó mới được bồi thường khi có rủi ro xảy ra,
và đã được người sở hữu hay quản lý tài sản đó tham gia mua bảo hiểm.
Tài sản: bao gồm tất cả các loại tài sản trừ những loại tài sản bị thiệt hại
do những rủi ro loại trừ. Tài sản ở đây phải là tài sản thuộc quyền sử
dụng hay quyền quản lý của người được bảo hiểm ghi trên giấy bảo
hiểm. Đồng thời tài sản đó phải nằm trong phạm vi bảo hiểm.
Những rủi ro đặc biệt là các rủi ro nổ, động đất, núi lửa, giông bão, lũ
lụt… mà người được bảo hiểm chọn trong số những rủi ro liệt kê trong
bản phụ lục kèm theo quy tắc và phải được người bảo hiểm chấp nhận và
xác nhận trong đơn bảo hiểm.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
5
CHƯƠNG I
Tổn thất toàn bộ:
Tổn thất toàn bộ thực tế: Tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoàn toàn
hoặc hư hỏng nghiêm trọng đến mức không thể phục hồi lại trạng thái
ban đầu.
Tổn thất toàn bộ ước tính: Tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc hư
hỏng đến mức nếu sửa chữa, phục hồi thì chi phí sửa chữa, phục hồi
bằng hoặc lớn hơn số tiền bảo hiểm.
Mức miễn bồi thường: là số tiền tổn thất mà người được bảo hiểm tự
gánh chịu cho mỗi vụ hoặc mọi tổn thất. Nếu thiệt hại do tổn thất gây ra
nhỏ hơn mức miễn bồi thường này thì công ty bảo hiểm sẽ không phải
chịu trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm.
Mức miễn thường tối thiểu nói chung không dưới 1000 USD hoặc tương
đương bằng các loại tiền khác đối với mỗi vụ tổn thất. Trong giấy chứng
nhận bảo hiểm, mức miễn thường được ghi bằng số tiền tuyệt đối tính toán
trên cơ sở tỷ lệ miễn thường, mà tỷ lệ này được xác định trên cơ sở số tiền
bảo hiểm như sau:
Bảng tỷ lệ miễn thường trên số tiền bảo hiểm
SỐ TIỀN BẢO HIỂM TỶ LỆ MIỄN THƯỜNG
500.000 USD 2,00%
2.500.000 USD 1,00%
10.000.000 USD 0,75%
20.000.000 USD 0,50%
Trên 20.000.000 USD 0,30%
Nguồn: Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
6
CHƯƠNG I
1.2. Đặc điểm của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
- Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một loại hình bảo hiểm tài sản
áp dụng đối với các nhà máy, xí nghiệp, khách sạn, dịch vụ… thuộc mọi
thành phần kinh tế trong xã hội.
- Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một loại hình bảo hiểm bắt buộc
đối với các cơ quan, nhà máy…
- Giá trị được bảo hiểm hoả hoạn rất lớn, khi xảy ra rủi ro thì tổn thất không
chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là đối với toàn bộ tài sản.
- Trong hoạt động của nghiệp vụ có mang tính kỹ thuật rất phức tạp. Đặc
điểm này sẽ được thể hiện rõ hơn qua cách xác định, phân chia các đơn vị
rủi ro, cách tính phí, công tác giám định, đề phòng hạn chế tổn thất…
- Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt chính là sự bảo trợ cho những tổn
thất trực tiếp do hoả hoạn gây nên.
2. ĐỐI TƯỢNG BẢO HIỂM TRONG BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO
ĐẶC BIỆT
Đối tượng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói chung là các đối
tượng mà vì sự an toàn hay bảo toàn của đối tượng đó đã dẫn đến việc ký kết hợp
đồng bảo hiểm giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm - đối tượng bảo
hiểm là những mục tiêu mà các rủi ro có thể làm cho đối tượng đó bị tai nạn, tổn
thất.
Trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, đối tượng bảo hiểm là các
tài sản như:
- Bất động sản: Bất động sản ở đây là nhà cửa, công trình xây dựng, nhà
máy, xí nghiệp, kho tàng,… thuộc loại hình sản xuất kinh doanh hoặc các
công trình dân dụng.
Bảo hiểm hoả hoạn về bất động sản gồm: bảo hiểm nhà cửa và bảo hiểm
rừng
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
7
CHƯƠNG I
Các công trình ngầm dưới đất có thể bị loại trừ bảo hiểm. Do vậy, muốn
các công trình đó được bảo hiểm thì cần phải có một điều khoản đặc biệt và
mức phí bảo hiểm cũng sẽ cao hơn mức thông thường.
- Các động sản: Động sản cá nhân là những tài sản liên quan đến người được
bảo hiểm như đồ đạc, đồ mỹ nghệ, thú vật nuôi, các phương tiện giao
thông…
Bảo hiểm hoả hoạn về động sản gồm: bảo hiểm hoả hoạn về tài sản gia
đình, hàng hoá, vật tư…
Phương tiện giao thông đường bộ có động cơ, tín phiếu, cổ phiếu và tiền
mặt bị loại trừ khỏi động sản cá nhân
- Tài sản đa dạng cần thiết cho sự hoạt động của một doanh nghiệp công
nghiệp, nông nghiệp hoặc thương mại như đồ vật, phương tiện, máy móc,
thiết bị…
Việc đảm bảo có hiệu lực bên trong công trình được bảo hiểm cũng như
trong sân và khu nhà phụ.
- Hàng hoá, có thể là nguyên liệu, nhiên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm
Việc đảm bảo có hiệu lực bên trong công trình được bảo hiểm cũng như
trong sân và khu nhà phụ.
Với đối tượng bảo hiểm rộng như thế thì khi có tổn thất xảy ra, không phải
tất cả mọi tổn thất thiệt hại đều được bảo hiểm mà chỉ có những tổn thất, thiệt
hại xảy ra do những rủi ro được bảo hiểm mới được người bảo hiểm bồi
thường. Người bảo hiểm phải xác định rõ điều đó trong phạm vi bảo hiểm.
3. QUY TẮC BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là quy tắc được ban hành
theo Quyết định số 142 - TCQĐ do Bộ trưởng Bộ tài chính ban hành vào ngày
2/5/1991 theo đề nghị của Tổng giám đốc Công ty Bảo hiểm Việt Nam, căn cứ
vào Quyết định số 155 - HĐBT ngày 15/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về
việc quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bộ tài chính và
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
8
CHƯƠNG I
Quyết định số 179 - CP ngày 17/12/1964 của Hội đồng Chính phủ về việc
thành lập Công ty Bảo hiểm Việt Nam. Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi
ro đặc biệt được ban hành thay cho Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro
đặc biệt ban hành theo Quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/1/1989 của Bộ Tài
chính.
Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt bao gồm 11 chương và
phần phụ lục. Mười một chương lần lượt là các chương:
Chương I. Những Quy định chung
Chương II. Phạm vi bảo hiểm
Chương III. Những loại trừ chung áp dụng chung cho tất cả các rủi ro
Chương IV. Phí bảo hiểm
Chương V. Thời hạn bảo hiểm và hiệu lực bảo hiểm
Chương VI. Thủ tục bảo hiểm
Chương VII. Số tiền bảo hiểm
Chương VIII. Huỷ bỏ bảo hiểm
Chương IX. Trách nhiệm của người được bảo hiểm
Chương X. Giám định và bồi thường thiệt hại
Chương XI.Xử lý tranh chấp
Trong phần phụ lục có phần:
Các rủi ro có thể lựa chọn để bảo hiểm
Biểu phí bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
Quy tắc bảo hiểm trộm cướp
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ 3
Đơn bảo hiểm bồi thường cho người lao động, bảng tỷ lệ thương tật
và mức bồi thường
Đơn bảo hiểm rủi ro cho chủ thầu…
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
9
CHƯƠNG I
Tuy nhiên, để phục vụ nội dung nghiên cứu, khoá luận chỉ đề cập đến một số
điểm chính trong Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt như: Phạm vi
bảo hiểm, phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, giám định và bồi thường tổn thất.
3.1. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là việc xác định đâu là những rủi ro được bảo hiểm, đâu
là những rủi ro bị loại trừ. Phạm vi bảo hiểm có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng vì nhờ đó ta có thể tránh được các tranh chấp phát sinh không cần thiết
khi tổn thất xảy ra, giúp xác định phí bảo hiểm một cách hợp lý và xem xét giải
quyết bồi thường khi tổn thất xảy ra.
3.1.1. Các rủi ro được bảo hiểm
Theo Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, rủi ro được bảo
hiểm gồm có: (thường được liệt kê theo chữ cái)
A. Hoả hoạn (do nổ hay do nguyên nhân khác)
Cháy: Mọi thiệt hại gây ra do cháy đều được bồi thường, trừ những thiệt hại
do:
- Nổ do ảnh hưởng của cháy
- Động đất hoặc lửa ngầm dưới đất
- Bản thân tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng do tự lên men, toả nhiệt hay do
quá trình xử lý bằng nhiệt.
Lấy ví dụ: Vào một ngày rất nóng, trong một nhà kho chứa đầy các thùng
nho, một thùng nho đã bị lên men và toả nhiệt làm hỏng các thùng nho khác
bên cạnh. Điểm loại trừ trên rõ ràng được áp dụng cho thùng nho đầu tiên bởi
vì nó tự động lên men, tuy nhiên sẽ không được áp dụng cho các thùng nho bên
cạnh.
Sét: Là tác động trực tiếp của tia chớp vào tài sản được bảo hiểm. Chỉ có
thiệt hại trực tiếp do sét gây ra mới được bảo hiểm bồi thường.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
10
CHƯƠNG I
Ví dụ: sét đánh vào một trạm biến thế, làm cho dòng điện tăng, giảm đột
ngột dẫn đến hỏng các thiết bị điện. Trong trường hợp này, biến thế bị tổn thất
do tác động trực tiếp của sét gây ra nên được bồi thường. Còn các thiết bị điện
bị hỏng không phải do tác động trực tiếp của sét nên không được bồi thường.
Nổ: Là hiện tượng cháy cực nhanh tạo ra và giải phóng một áp lực lớn kèm
theo một tiếng động mạnh phát sinh từ sự giãn nở nhanh, mạnh của các chất
lỏng, chất rắn hay chất khí. Trong rủi ro này, chỉ bảo hiểm các trường hợp:
- Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt
- Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hay sưởi ấm trong nhà
- Những thiệt hại do phương tiện hoặc biện pháp cứu chữa gây ra
- Những thiệt hại về mặt tài sản do mất cắp trong khi hoả hoạn mà người
bảo hiểm không chứng minh được là mất cắp.
B. Nổ: Người bảo hiểm sẽ bồi thường mọi thiệt hại từ nổ trừ việc nổ nồi hơi
phục vụ sinh hoạt.
C. Máy bay hay phương tiện hàng không hoặc các thiết bị trên các phương tiện
đó rơi vào làm cho tài sản được bảo hiểm bị thiệt hại.
D. Bãi công, đình công, bế xưởng, bạo động, nổi loạn hoặc hành động của
những người tham gia các cuộc gây rối lao động hay những người có ác ý
không mang tính chất chính trị. (Dù có hoả hoạn hay không có hoả hoạn
cũng đều được bồi thường). Loại trừ tài sản bị:
- Mất mát hay hư hại do tịch thu, phá huỷ, hoặc trưng dụng theo lệnh của
Chính phủ hoặc nhà cầm quyền.
- Mất mát hay hư hại do ngừng công việc.
E. Động đất: mọi thiệt hại do động đất gây ra đều được bồi thường, cho dù
động đất có gây hoả hoạn hay không.
F. Lửa ngầm dưới đất: mọi thiệt hại do lửa ngầm dưới đất gây ra (dù có hoả
hoạn hay không) đều được bảo hiểm bồi thường.
G. Cháy mà nguyên nhân duy nhất là do tài sản tự lên men, toả nhiệt hay bốc cháy.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
11
CHƯƠNG I
H. Giông tố, bão lụt: mọi thiệt hại tài sản được bảo hiểm do giông tố, bão lụt
gây ra đều được bồi thường dù có hoả hoạn hay không, nhưng loại trừ:
- Tài sản bị phá huỷ hay hư hại do sương muối, sụt lở đất.
- Hàng rào, cổng ngõ và các động sản ngoài trời bị phá huỷ hay hư hại.
I. Vỡ hay tràn nước từ các bể chứa hay ống dẫn nhưng loại trừ việc tràn nước
ttừ những hệ thống ống dẫn tự động phục vụ cho công tác chữa cháy.
J. Xe cộ hay súc vật sống không thuộc quyền sở hữu hay quyền kiểm soát của
người được bảo hiểm hay của người làm thuê cho họ đâm vào tài sản được
bảo hiểm làm tài sản đó bị thiệt hại đều được bồi thường.
K. Nước rò rỉ từ các đường ống dẫn đặt sẵn phục vụ công tác cứu hoả.
Khi mua bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì rủi ro A là rủi ro bắt
buộc, còn các rủi ro từ B đến K là các rủi ro phụ kèm theo rủi ro A. Tuỳ từng đối
tượng bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm lựa chọn thêm một hoặc một số rủi
ro phụ nằm trong phạm vi từ B đến K để tham gia kèm với rủi ro hoả hoạn.
3.1.2. Những loại trừ chung áp dụng cho tất cả các rủi ro
Những điểm loại trừ nêu dưới đây được áp dụng chung cho mọi rủi ro
trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt:
a. Những tài sản bị thiệt hại do:
- Nổi loạn, bạo động dân sự, trừ khi những rủi ro này được xác nhận
trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm.
- Chiến tranh, xâm lược, hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự (dù
có tuyên chiến hay không tuyên chiến), nổi loạn, nội chiến, khởi nghĩa,
cách mạng, binh biến, bạo động, đảo chính,...
- Khủng bố (nghĩa là sử dụng bạo lực nhằm các mục đích chính trị, bao
gồm cả việc sử dụng bạo lực nhằm gây hoang mang trong xã hội hay
một bộ phận xã hội).
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
12
CHƯƠNG I
b. Bất kỳ tổn thất nào (dù là tổn thất tài sản trực tiếp hay chi phí có liên quan
hay tổn thất có tính chất hậu quả) trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra
có liên quan đến:
- Phóng xạ ion hoá hay nhiễm phóng xạ từ nhiên liệu hạt nhân hay từ
chất thải hạt nhân do đốt cháy nhiên liệu hạt nhân.
- Các thuộc tính phóng xạ, độc, nổ hoặc các thuộc tính nguy hiểm khác
của thiết bị nổ hạt nhân hay các bộ phận của thiết bị đó.
c. Những tổn thất do hành động cố ý hoặc đồng loã của Người được bảo hiểm gây ra.
d. Những tổn thất về:
- Hàng hoá nhận uỷ thác hay ký gửi trừ khi những hàng hoá đó được xác
nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm và Người được
bảo hiểm trả thêm phí bảo hiểm theo tỷ lệ phí quy định.
- Tiền bạc, kim loại quý, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài
liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử,
bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế, trừ khi những hạng
mục này được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm.
- Chất nổ.
- Người, động vật và thực vật sống.
- Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn
bảo hiểm hàng hải hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng
hải, trừ phần thiệt hại vượt quá số tiền bồi thường theo đơn bảo hiểm
hàng hải hoặc lẽ ra được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải và dù
có hay không có bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt.
- Tài sản bị cướp hay bị mất cắp trong khi xảy ra hoả hoạn cũng không
được bồi thường, trừ khi người bảo hiểm không chứng minh được là bị
cướp hoặc bị mất cắp.
e. Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào (ví dụ:
gián đoạn kinh doanh, mất thu nhập, ô nhiễm môi trường…) đều không được
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
13
CHƯƠNG I
bồi thường, trừ những thiệt hại về tiền thuê nhà nếu tiền thuê nhà được xác
nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm.
Ví dụ: Đối tượng được bảo hiểm bị cháy, trong quá trình cháy lan sang các
tài sản khác không phải của người được bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ không
bồi thường cho phần thiệt hại của tài sản này.
f. Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba.
g. Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn bồi thường.
3.2.Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
3.2.1. Giá trị bảo hiểm (insured value)
Cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm chính là giá trị bảo hiểm. Đó chính là giá
trị của tài sản cần bảo hiểm. Giá trị này có thể là giá trị thực tế hoặc là giá trị mua
mới.
Giá trị của tài sản được bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thường là
rất lớn, đó là giá trị của các tài sản như: nhà cửa, công trình, máy móc thiết bị,
hàng hoá, vật tư trong kho…
Cách xác định giá trị bảo hiểm như sau:
- Giá trị bảo hiểm của các ngôi nhà (nhà xưởng, nhà làm việc, nhà văn phòng,
nhà ở...) được xác định theo giá trị mới hoặc giá trị còn lại.
Giá trị mới là giá trị mới xây của ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế.
Giá trị còn lại là giá trị mới trừ đi hao mòn do sử dụng theo thời gian.
Trong bảo hiểm thường chỉ bảo hiểm theo giá trị còn lại.
- Giá trị bảo hiểm của máy móc, thiết bị và các loại tài sản cố định khác được
xác định trên cơ sở giá thay thế, tức giá mua cộng với chi phí vận chuyển,
lắp đặt (nếu có), hoặc giá trị còn lại (giá trị mua mới trừ đi khấu hao).
- Giá trị của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định trên cơ sở giá
thành sản xuất, bao gồm chi phí nguyên vật liệu, tiền công lao động, khấu
hao tài sản cố định và chi phí quản lý… Trường hợp giá thành sản xuất cao
hơn giá có thể bán được thì lấy giá bán.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
14
CHƯƠNG I
- Giá trị của hàng hoá mua về để trong kho, trong cửa hàng được xác định
theo giá mua (theo hoá đơn mua hàng) cộng với chi phí vận chuyển.
Xác định giá trị bảo hiểm hay giá trị tài sản phải dựa trên đặc trưng tài sản, đó
là:
Tài sản có giá trị lớn và luôn luôn có sự thay đổi về giá trị do bị ảnh hưởng
của nhiều yếu tố tự nhiên và xã hội, bất kỳ tài sản nào cũng có giá trị và có
thể xác định được.
Tài sản có liên quan đến con người và tự nhiên, chịu sự tác động của con
người và tự nhiên.
3.2.2. Số tiền bảo hiểm (insured sum)
Trong bảo hiểm người ta thường bồi thường bằng tiền mà không bồi
thường bằng hiện vật. Vì vậy, đối với mỗi đơn vị bảo hiểm đều có ghi số tiền
bảo hiểm làm cơ sở cho việc bồi thường của người bảo hiểm khi xảy ra tổn
thất. Hay nói cách khác, số tiền bảo hiểm là mức bồi thường tối đa trong trường
hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ.
Nói chung số tiền bảo hiểm do công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm
thoả thuận. Nó có thể bằng hoặc thấp hơn giá trị bảo hiểm nhưng số tiền bảo
hiểm phải căn cứ vào giá trị bảo hiểm.
Người được bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm tài sản của mình với số
tiền lớn hơn giá trị bảo hiểm nhưng không vượt quá 10% giá trị bảo hiểm. Còn
nếu các bên thoả thuận ghi rõ trong giấy chứng nhận bảo hiểm số tiền bảo hiểm
bằng bao nhiêu phần trăm giá trị bảo hiểm của tài sản thì khi bồi thường tổn
thất bộ phận, áp dụng nguyên tắc bồi thường theo tỷ lệ.
Trong mọi trường hợp, số tiền mà công tybảo hiểm bồi thường cho người
được bảo hiểm cũng không vượt quá giá trị bảo hiểm. Nếu bồi thường làm
nhiều lần (nhiều vụ tổn thất khác nhau) thì tổng số tiền bồi thường trong tất cả
các vụ bồi thường tổn thất cũng không vượt quá số tiền bảo hiểm. Mỗi lần bồi
thường, số tiền bồi thường lại giảm đi một phần ngang bằng với số tiền bồi
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
15
CHƯƠNG I
thường đã trả. Muốn khôi phục lại số tiền bảo hiểm lên bằng với số tiền bảo
hiểm ban đầu thì người được bảo hiểm phải nộp phí bổ xung tương ứng với số
tiền bảo hiểm tăng lên và tỷ lệ với khoảng thời gian còn lại của bảo hiểm. Nếu
người tham gia bảo hiểm không khôi phục lại số tiền bảo hiểm thì trong lần tổn
thất sau, số tiền bồi thường tối đa của người bảo hiểm sẽ không vượt quá số
tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã trừ đi tất cả các khoản tiền bồi thường đã trả
cho đến thời điểm đó.
Trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì lưu ý rằng, khi chấp
nhận bảo hiểm thì không chấp nhận theo kiểu chọn điểm. Nghĩa là không chấp
nhận bảo hiểm những bộ phận tài sản, những công đoạn sản xuất có nhiều rủi
ro nhất vì điều đó rất nguy hiểm đối với người bảo hiểm. Thường là bảo hiểm
toàn bộ giá trị tài sản song cũng có thể nhận bảo hiểm 50% giá trị tài sản.
Đối với những tài sản thường xuyên tăng giảm số lượng như: hàng hoá
trong kho, trong cửa hàng, và do đó giá trị được bảo hiểm thường xuyên thay đổi
thì số tiền bảo hiểm được xác định theo 2 cách: giá trị trung bình hoặc giá trị tối
đa.
- Nếu muốn đơn giản, cuối năm không phải điều chỉnh lại số tiền bảo hiểm và
phí bảo hiểm, cũng như để tiện csho công tác tái bảo hiểm thì người ta bảo
hiểm theo giá trị trung bình, tức là người tham gia bảo hiểm ước tính thông
báo cho người bảo hiểm giá trị của số hàng hoá trung bình trong kho, trong
cửa hàng,… trong thời hạn bảo hiểm. Giá trị trung bình này được coi là số
tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị trung bình, khi tổn
thất xảy ra thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm, người bảo hiểm sẽ bồi
thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị trung bình đã khai
báo.
- Nếu khách hàng muốn bảo hiểm theo giá trị tối đa thì họ sẽ phải ước tính và
thông báo cho công ty bảo hiểm giá trị số hàng hoá tối đa có thể đạt được
vào một thời điểm nào đó trong thời hạn bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
16
CHƯƠNG I
theo giá trị tối đa này và chỉ đưa trước 75%. Khi tổn thất xảy ra thuộc trách
nhiệm của người bảo hiểm, người bảo hiểm sẽ bồi thường thực tế nhưng
không vượt quá giá trị tối đa khai báo. Để tránh tình trạng khách hàng có thể
cố tình hạ thấp số tiền bảo hiểm vào cuối năm và do đó giảm bớt số phí bảo
hiểm phải trả, hàng tháng hoặc hàng quý (tuỳ theo thoả thuận), khách hàng
phải báo cáo chính xác giá trị tối đa hàng hoá trong tháng trước và quý
trước.
Cuối thời hạn bảo hiểm, trên cơ sở giá trị thông báo, công ty bảo hiểm sẽ
tính lại giá trị số hàng hoá tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại
phí dựa vào giá trị tối đa bình quân này. Người bảo hiểm sẽ thu thêm hoặc trả
lại cho người được bảo hiểm phần chênh lệch giữa số phí đã nộp đầu năm và số
phí tính lại cuối năm. Tuy vậy, số phí chính thức phải nộp không được thấp hơn
2/3 số phí đã nộp đầu năm.
Một điểm cần chú ý trong trường hợp này là nếu trong thời hạn bảo hiểm
đã có tổn thất được người bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá
giá trị tối đa bình quân thì số tiền bồi thường được coi như số tiền bảo hiểm và
phí bảo hiểm được tính trên cơ sở số tiền bồi thường.
Việc xác định chính xác số tiền bảo hiểm sẽ có tác dụng trực tiếp đến việc
xác định phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của từng
bên trong hợp đồng bảo hiểm.
3.3. Phí bảo hiểm (Premium)
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà người được bảo hiểm phải nộp cho
người bảo hiểm để được bồi thường trong trường hợp có tổn thất do rủi ro được
bảo hiểm gây ra.
Có thể nói phí bảo hiểm là nội dung quan trọng nhất đối với mỗi loại hình
bảo hiểm. Đây là điều kiện tiên quyết làm phát sinh mối quan hệ kinh tế giữa
người được bảo hiểm và người bảo hiểm, thông qua đó mang lại quyền lợi cho
người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra tổn thất.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
17
CHƯƠNG I
Đối với bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, phí bảo hiểm được quy
định riêng cho từng rủi ro và nếu người được bảo hiểm muốn bảo hiểm thêm
rủi ro phụ thì nộp thêm phí theo tỷ lệ quy định.
3.3.1. Thời hạn nộp phí
Thời hạn nộp phí là do người được bảo hiểm thoả thuận với cơ quan bảo
hiểm nhưng thường là nộp ngay một lần sau khi ký hợp đồng và khi đó hợp
đồng mới có hiệu lực. Tuy nhiên, nếu phí bảo hiểm quá lớn, để giảm bớt khó
khăn cho người được bảo hiểm, hai bên có thể thoả thuận nộp phí thành nhiều
lần nhưng không được quá 4 kỳ và phí được trả cho kỳ nào phải có hiệu lực cho
kỳ ấy.
Trong những trường hợp huỷ bỏ hợp đồng thì tuỳ vào từng trường hợp cụ
thể mà công ty bảo hiểm sẽ tính toán hoàn lại hay không hoàn lại phí cho người
được bảo hiểm dựa trên khoảng thời gian còn lại của hợp đồng.
3.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
- Vật liệu xây dựng
- Ảnh hưởng của các tầng nhà
- Hệ thống phòng cháy chữa cháy
- Cách phân chia đơn vị rủi ro hoặc tường chống cháy
- Loại hàng hoá, bao bì đóng gói
- Tính chất các kho hàng
- Vị trí các kho hàng
- ….
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
18
CHƯƠNG I
3.3.3. Phương pháp tính phí bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt
Phí bảo hiểm = số tiền bảo hiểm x tỷ lệ phí bảo hiểm
Phương pháp tính phí bảo hiểm chính là phương pháp xác định tỷ lệ phí
bảo hiểm. Phí bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt được tính theo tỷ lệ
phần nghìn (‰) trên số tiền bảo hiểm.
Tỷ lệ phí bảo hiểm được quy định cho từng đối tượng bảo hiểm theo
ngành nghề sản xuất kinh doanh. Có các loại tỷ lệ phí bảo hiểm như sau:
- Tỷ lệ phí bảo hiểm áp dụng cho tất cả các ngành (ví dụ tất cả các ngôi nhà
hành chính).
- Tỷ lệ phí bảo hiểm áp dụng cho cửa hàng và kho hàng.
- Tỷ lệ phí bảo hiểm đối với các kho đặc biệt.
- Tỷ lệ phí bảo hiểm cho các ngành sản xuất và dịch vụ.
- Tỷ lệ phí bảo hiểm cho các rủi ro phụ:
Nổ 0,15‰
Máy bay rơi vào 0,10‰
Nổi loạn 0,20‰
Động đất 0,20‰
Cháy do tự lên men 0,15‰
Giông bão lũ lụt Được quy định riêng
Vỡ tràn nước 0,10‰
Va đụng xe cộ 0,05‰
- Tỷ lệ phí bảo hiểm ngắn hạn
Dưới 1 tháng 15% phí bảo hiểm năm
1 - 2 tháng 40% phí bảo hiểm năm
3 - 6 tháng 60% phí bảo hiểm năm
6 - 9 tháng 80% phí bảo hiểm năm
9 - 12 tháng 100% phí bảo hiểm năm
3.4.Giám định và bồi thường tổn thất
3.4.1. Giám định
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
19
CHƯƠNG I
- Công ty bảo hiểm, sau khi nhận được thông báo có tổn thất, phải nhanh
chóng đến hiện trường nơi xảy ra sự việc để xem xét rồi cùng với người
được bảo hiểm tiến hành giám định và lập biên bản giám định thiệt hại.
- Nếu 2 bên không thoả thuận được về tính chất, mức độ và phạm vi thiệt hại
thì có thể mời một người thứ 3 là giám định viên chuyên ngành làm giám
định. Kết luận của giám định viên này sẽ có tính chất chung thẩm và 2 bên
phải tuân theo. Bên nào bị kết luận là sai sẽ phải chịu chi phí giám định.
- Người bảo hiểm hay đại diện của người bảo hiểm có thể kiến nghị hoặc tự
xử lý tài sản tổn thất nhằm hạn chế tổn thất. Nếu người được bảo hiểm che
giấu hoặc cản trở người bảo hiểm thực hiện các công việc nói trên thì mọi
quyền lợi liên quan đến bảo hiểm này sẽ bị mất hiệu lực.
3.4.2. Bồi thường tổn thất
3.4.2.1.Hồ sơ đòi bồi thường
Muốn được bồi thường thì khi có tổn thất phát sinh, người được bảo hiểm
phải lập hồ sơ đòi bồi thường. Hồ sơ này bao gồm những chứng từ sau:
- Giấy thông báo tổn thất.
- Biên bản giám định thiệt hại của người bảo hiểm
- Biên bản giám định tổn thất của cảnh sát PCCC
- Bảng kê khai thiệt hại và các giấy tờ chứng minh thiệt hại.
3.4.2.2. Cách tính bồi thường
Giá trị thiệt hại của tài sản được bảo hiểm sẽ được xác định theo giá trị
của tài sản đó tại thời điểm xảy ra tổn thất.
- Nếu vào thời điểm xảy ra tổn thất, số tiền bảo hiểm lớn hơn hoặc bằng giá
trị thực tế của tài sản được bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ bồi thường giá
trị tổn thất thực tế.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
20
CHƯƠNG I
- Nếu vào thời điểm xảy ra tổn thất, số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị thực tế
của tài sản được bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ bồi thường theo tỷ lệ như
sau:
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại x
Số tiền bảo hiểm
Giá trị tài sản được bảo hiểm lúc xảy ra tổn thất
- Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hay hư
hỏng, nhưng tài sản đó đã được bảo hiểm bởi một bảo hiểm khác thì trách
nhiệm của người bảo hiểm chỉ giới hạn theo tỷ lệ ở phần tổn thất phân bổ
cho người bảo hiểm này.
3.4.2.3. Thời hạn thanh toán tiền bồi thường
- Khi yêu cầu đòi bồi thường của người được bảo hiểm được chấp nhận thì
người bảo hiểm sẽ phải thanh toán tiền đòi bồi thường trong vòng 30 ngày
kể từ ngày nhận được hồ sơ đòi bồi thường đầy đủ và hợp lệ.
- Nếu yêu cầu đòi bồi thường bị từ chối thì trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi
giấy báo từ chối mà người được bảo hiểm không có ý kiến gì thì coi như
người được bảo hiểm chấp nhận sự từ chối bồi thường đó.
- Thời hạn để người được bảo hiểm đòi bồi thường thiệt hại là 1 năm kể từ
ngày xảy ra tổn thất, trừ trường hợp đặc biệt có thoả thuận trước với người
bảo hiểm. Quá thời hạn trên, người bảo hiểm sẽ không có trách nhiệm phải
giải quyết bồi thường.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
21
CHƯƠNG I
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
Tháp nhu cầu của Maslow
Nhìn vào tháp nhu cầu của Maslow, ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng: trong
mỗi con người, nhu cầu về an toàn là một nhu cầu thiết yếu, chỉ đứng sau những
nhu cầu sinh lý rất căn bản như ăn uống, ở, mặc…An toàn là một trong những
nhu cầu tối quan trọng, không thể thiếu. Chỉ khi con người cảm thấy họ được an
toàn thì mới có thể yên tâm để sống và làm việc, vươn tới việc thoả mãn những
nhu cầu cao hơn như nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự
khẳng định.
Trong xã hội, mỗi doanh nghiệp cũng có thể được coi là một thực thể. Cũng
tương tự như mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều có những cung bậc nhu cầu
khác nhau như nhu cầu được tồn tại, được an toàn, được tự khẳng định để vươn
lên… Trong những thang bậc nhu cầu ấy, rõ ràng là nhu cầu an toàn là một trong
những nhu cầu mang tính thiết yếu, quan trọng nhất. Đặc biệt là trong thời đại
ngày nay, khi mà hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu
tập trung, tập kết vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị… cho sản xuất, thương mại
càng lớn, quy trình công nghệ ngày càng tiên tiến nhưng cũng đa dạng và phức tạp
Nhu cầu tự
khẳng định
Nhu cầu được tôn
trọng
Nhu cầu xã hội
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu sinh lý
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
22
CHƯƠNG I
hơn trước nhiều lần. Thêm vào đó, điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu ngày càng
khắc nghiệt, trái đất đang ngày càng nóng lên khiến cho các vụ hoả hoạn, cháy và
những rủi ro khác ngày càng xảy ra nhiều hơn, thường xuyên hơn và với quy mô
lớn hơn, gây không ít thiệt hại cho các doanh nghiệp, những thiệt hại này nhiều khi
nghiêm trọng đến mức đẩy doanh nghiệp vào chỗ khó khăn và có khi đi đến phá
sản.
Trên thực tế, trong những năm gần đây, mỗi năm ở Mỹ lửa đã thiêu huỷ
trực tiếp hơn 6 tỷ USD, thiệt hại gián tiếp hơn 9 tỷ USD nữa. Theo ước lượng,
hàng năm các vụ cháy đã làm chết 5000 người và làm bị thương hơn 300.000
người dân Mỹ.
Ở Việt Nam, trong 30 năm (từ 4/10/1961 đến 4/10/1991) cũng đã xảy ra
56.034 vụ cháy (không kể cháy do chiến tranh) làm 2.574 người chết, 4.497
người bị thương, thiệt hại ước tính 948 tỷ đồng.
Riêng ở Hà Nội từ 1961 đến 1991 cũng đã xảy ra 3.193 vụ cháy làm 20
người chết, 352 người bị thương, thiệt hại tài sản khoảng 46 tỷ đồng.
Những vụ hoả hoạn như vậy không chỉ gây thiệt hại về người và của cho
mỗi cá nhân, doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ nền kinh
tế nói chung.
Bên cạnh những thiệt hại nặng nề do các vụ hoả hoạn gây ra, con người
còn luôn phải gánh chịu sự tàn phá của thiên tai. Chỉ riêng một trận bão ở Mỹ
năm 1992 cũng đã làm thiệt hại 15.5 tỷ USD hay trận động đất ngày17/5/1995
ở Nhật Bản đã làm hơn 5000 người chết, 300.000 người mất nhà ở phải sống
trong cảnh "màn trời chiếu đất"…
Để khắc phục, hạn chế những tổn thất, thiệt hại nặng nề do những rủi ro
khó lường trước và có tính chất nguy hiểm cao như vậy, con người đã biết sử
dụng rất nhiều biện pháp kinh tế, trong đó phải kể đến biện pháp bảo hiểm, một
biện pháp cho đến nay vẫn tỏ ra hữu hiệu nhất trong việc giúp đỡ những người
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
23
CHƯƠNG I
không may phải gánh chịu rủi ro có thể nhanh chóng ổn định sản xuất kinh
doanh.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang chuyển mình theo cơ chế thị trường như
hiện nay thì bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt lại càng có vai trò quan
trọng, đặc biệt là khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành và đưa vào thực
thi, các công ty nước ngoài vào Việt Nam đã không ngừng tăng lên cả về số
lượng doanh nghiệp cũng như về quy mô vốn. Trong bối cảnh đó, để bảo toàn
và phát triển vốn, bảo đảm cho sản xuất luôn được ổn định và phát triển cho dù
có không may gặp phải những rủi ro, tổn thất bất ngờ thì việc tham gia bảo
hiểm là cách bảo vệ tốt nhất cho tất cả các doanh nghiệp, tập thể và cá nhân.
Thêm vào đó, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, cũng như mọi loại
hình bảo hiểm khác, còn có vai trò tập trung vốn, đem lại một nguồn vốn không
nhỏ cho Ngân sách Nhà nước, góp một phần quan trọng vào việc khắc phục
tình trạng thiếu vốn hiện nay.
Hơn nữa, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt còn có vai trò đắc lực
trong công tác đề phòng hạn chế tổn thất, nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro
có thể xảy ra gây thiệt hại cho người và tài sản, giúp tạo nên thế ổn định cho toàn
xã hội.
Trên thực tế, theo những tính toán ban đầu của một bản báo cáo do tạp chí
Sigma của Thuỵ Sỹ đưa ra thì riêng trong năm 2002, trên toàn thế giới đã có
đến 19.000 người bị chết do thiên tai và những rủi ro do con người gây ra.
Tổng thiệt hại tài chính từ những sự kiện lớn nhất lên đến 40 tỷ USD, trong đó
có 12 tỷ USD tổn thất được bảo hiểm bồi thường. Sau những thiệt hại khổng lồ
do nguyên nhân bất thường gây ra (vụ khủng bố 11/9 ở nước Mỹ) vào năm
2001, thì vào năm 2002, tổng tổn thất về mặt tài chính do hoả hoạn và những
rủi ro đặc biệt gây ra đã cao hơn mức thiệt hại bình quân kể từ năm 1970. Tuy
nhiên, những cơn lũ lụt ở Châu Âu vào năm 2002 đã cho thấy vẫn còn rất nhiều
nguy cơ xảy ra những vụ tổn thất lớn. Vào năm 2002, khoảng hơn 300 vụ tổn
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
24
CHƯƠNG I
thất đáng chú ý đã gây thiệt hại khoảng 40 tỷ USD về kinh tế, nhỏ hơn rất
nhiều so với mức thiệt hại bình quân hàng năm vào khoảng 68 tỷ USD kể từ
năm 1990. Trong số 19.000 người bị thiệt mạng trong những vụ thiên tai và tai
hoạ do con người gây ra thì có khoảng 2.000 người chết trong vụ động đất ở
Afganistan vào tháng 3 và khoảng trên 1.400 người bị thiệt mạng trong vụ nổ
kho vũ khí Nigeria vào tháng 1. Dưới đây là biểu đồ thể hiện những tổn thất do
những hiểm hoạ tự nhiên và con người gây ra đã được bảo hiểm bồi thường:
Biểu đồ thiệt hại do hiểm hoạ thiên nhiên và nhân tạo
Nguồn: Tạp chí Sigma - Thuỵ Sỹ
Những thiệt hại do thiên tai gây ra trị giá 10 tỷ USD:
Các công ty bảo hiểm đã phải bồi thường những khoản tổn thất do thiên
tai gây ra, ước tính vào khoảng 10 tỷ USD, tức là cao hơn rất nhiều so với
khoản tiền bồi thường cho những tổn thất trong các vụ rủi ro do con người gây
ra. Đây là điều thường thấy kể từ năm 1990, chỉ có năm 2001 là năm ngoại lệ
do xảy ra vụ khủng bố 11/9. Trong năm 2002 đã xảy ra hàng loạt vụ thiên tai,
ví dụ như 2 vụ lũ lụt ở Châu Âu vào tháng 7 và tháng 8 đã khiến các công ty
bảo hiểm phải bồi thường một khoản tiền trị giá 3,2 tỷ USD. Vào tháng 9, trận
Tổ
n
th
ất
đ
ư
ợc
b
ồi
th
ư
ờn
g
(tỷ
U
SD
)
Tổn thất tự nhiên Tổn thất do con người
TỔN THẤT ĐƯỢC BỒI THƯỜNG
Nă
m
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
25
CHƯƠNG I
mưa quá lớn ở Pháp đã khiến các công ty bảo hiểm phải bồi thường thêm 440
triệu USD. Ở Mỹ, hàng loạt các vụ lốc xoáy đã xảy ra vào tháng 4 và các công
ty bảo hiểm đã phải chi trả số tiền bồi thường lên tới 1,5 tỷ USD, đồng thời cơn
bão Lili ở vùng Caribê và Hoa Kỳ đã gây thiệt hại khoảng 650 tỷ USD.
Những tai hoạ do con người gây ra đã gây tổn thất khoảng 2 tỷ USD:
Vào năm 2002, bảo hiểm đã bồi thường khoảng 2 tỷ USD cho những tai hoạ
do con người gây ra, chủ yếu là những vụ hoả hoạn, những vụ tai nạn máy bay
hay tai nạn đối với tàu vũ trụ. Đây là con số tương đối nhỏ so với khoản tiền bồi
thường mà bảo hiểm phải chi trả cho những vụ việc tương tự trong những năm
khác.
Theo số liệu thống kê của tạp chí Sigma thì khoản tiền 12 tỷ USD mà bảo
hiểm đã chi trả cho những vụ tổn thất vào năm 2002 trên toàn thế giới cũng chỉ
tương đương với khoản bồi thường thiệt hại bình quân mà ngành bảo hiểm đã
chi trả kể từ năm 1970, nếu loại bỏ yếu tố lạm phát. Tuy nhiên, mức độ tổn thất
của những vụ việc xảy ra vào năm 2002 lại nhỏ hơn rất nhiều so với mức độ
tổn thất của những vụ việc xảy ra vào những năm trước đó, đặc biệt là trong
giai đoạn từ năm 1990 trở lại đây, khi mức độ tổn thất bình quân hàng năm ước
tính vào khoảng 21,5 tỷ USD. Tuy nhiên, trên thực tế, ngày càng có nhiều nguy
cơ xảy ra những vụ tổn thất có quy mô rất lớn, ví dụ tổng mức thiệt hại do lũ
lụt gây ra vào năm 2002 lên tới 3,9 tỷ USD, cao hơn so với mức thiệt hại trung
bình hàng năm kể từ năm 1990 (1,1 tỷ USD) và cao hơn 8 lần so với mức thiệt
hại trung bình kể từ năm 1970 (0,5 tỷ USD).
Ở Việt Nam, tình hình thiệt hại do hoả hoạn gây ra trong những năm qua
cũng đang gia tăng một cách đáng kể.
Chính vì thế, ngành bảo hiểm đã phải luôn luôn đặt mình trong trạng thái
sẵn sàng đưa ra những giải pháp đề phòng hạn chế tổn thất để giảm thiểu hoá
mức độ thiệt hại trong mỗi vụ tổn thất.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
26
CHƯƠNG I
III. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
TRÊN THẾ GIỚI
Trong dân gian Việt Nam từ lâu vẫn lưu truyền câu: "giặc phá không bằng
nhà cháy" để nhắc nhở người dân về tác hại khủng khiếp của hoả hoạn. Chỉ cần
một ngọn lửa nhỏ cũng có thể thiêu huỷ cả một gia sản được gây dựng trong
hàng thập kỷ. Chính vì thế, khi con người bắt đầu biết đến những ích lợi của
ngọn lửa cũng chính là khi con người phải tìm cách khắc phục những hậu quả
ghê gớm do hoả hoạn gây ra.
Tuy nhiên, trước đây nhiều thế kỷ, khi hầu hết các quốc gia trên thế giới vẫn
còn duy trì một nền kinh tế tự nhiên nghèo nàn, lạc hậu, khi những nhu cầu bức
bách về ăn, ở, chữa bệnh… vẫn đang từng ngày hối thúc người dân, thì bảo hiểm,
vốn được xem là nhu cầu loại 2 (tức là sau nhu cầu sinh lý), chắc chắn không thể
được quan tâm từ chính phủ cho đến thường dân. Nếu phải bỏ tiền ra mua bảo hiểm
thì dân chúng cũng chỉ có thể mua các loại bảo hiểm thân thể chứ chưa thể mua các
loại bảo hiểm tài sản như bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt (do khả năng tài
chính của họ quá thấp và tập quán bảo hiểm cũng chưa thể hình thành).
Ngành công nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro
đặc biệt không thể hình thành trong một nền kinh tế tự nhiên mà chỉ có thể hình
thành, phát triển và để bảo vệ cho một nền kinh tế thị trường. Vì thế, nền công
nghiệp này ra đời khá muộn. Những ý tưởng về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro
đặc biệt chỉ nảy sinh sau "cuộc cách mạng thương mại" Thế giới vào cuối thế kỷ
15 và đầu thế kỷ 16, khi những đoàn thương thuyền tư bản mở rộng phạm vi hoạt
động trên toàn thế giới đến những vùng giàu có xa xôi mới khai phá ở Châu Á và
Châu Mỹ.
Cụ thể hơn, ta biết rằng vào thời Trung Đại hay Phục Hưng, ở Châu Âu
vẫn chưa có hệ thống phòng cháy nào hữu hiệu hơn hệ thống phòng cháy đã
được sử dụng từ thời các Hoàng đế La Mã trị vì: nhà nào cũng dự trữ những xô
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
27
CHƯƠNG I
nước đầy, khu phố có đội tuần tra để kịp thời phát hiện ra cháy, người thiệt hại
trong các vụ hoả hoạn có thể được hội phường giúp đỡ với điều kiện phải là hội
viên. Tuy nhiên, khoản trợ giúp này chưa thể coi là khoản bồi thường thực sự.
Phường hội đầu tiên kiểu này do các nhà lái buôn thành phố Rowen (Pháp)
thành lập năm 1374 trong nhà thờ Saint Patrice. Dù vậy, cuộc đấu tranh chống
lại những hiểm hoạ do lửa mang lại vẫn còn gặp nhiều trở ngại bởi vì bấy giờ
dân chúng vẫn còn tư tưởng cho rằng: hoả hoạn cũng như nạn đói, chiến tranh
và các dịch bệnh khác là những rủi ro không thể tránh khỏi, con người không
thể khắc phục được - Đó là sự trừng phạt của chúa trời giáng xuống.
Cho đến ngày 2/3/1666, Luân Đôn đã phải gánh chịu một trận hoả hoạn
khủng khiếp chưa từng thấy - Đám cháy do nổ khinh khí cầu Edinburg, đã kéo
dài 7 ngày 8 đêm, thiêu huỷ hoàn toàn 13.200 ngôi nhà, 87 nhà thờ…và gây ra
những tổn thất không thể cứu trợ được. Những người dân sống ở đây phần lớn
không còn nhà để ở nữa, đã xảy ra cảnh khó khăn xã hội nghiêm trọng. Lúc
này, người dân Anh Quốc mới thấu hiểu được sự nguy hiểm của hoả hoạn và
nhận thức được tầm quan trọng của việc thành lập hệ thống phòng cháy chữa
cháy (PCCC) và việc bồi thường thiệt hại một cách hữu hiệu cho những người
phải gánh chịu tổn thất do hoả hoạn gây ra. Mức độ nghiêm trọng của thảm hoạ
này đã khiến cho các nhà kinh doanh ở Anh phải nghĩ đến việc cộng đồng chia
sẻ rủi ro hoả hoạn. Họ hiểu ra rằng: nhất thiết phải có bảo hiểm hoả hoạn. Và từ
đó lần lượt các công ty bảo hiểm hoả hoạn ở Anh đã xuất hiện. Đó là vào năm
1667, Bác sỹ khoa răng hàm mặt Nicholas Barbon đã lập ra doanh nghiệp bảo
hiểm hoả hoạn mang tên: "The Fire office" - Văn phòng bảo hiểm cháy đầu
tiên. Từ năm 1983, tại nước Anh tiếp tục lập ra các tổ chức hữu ái, nhằm bảo
trợ cho các hội viên khi bị hoả hoạn. Ví dụ, vào năm 1684, một văn phòng cạnh
tranh khác đã được thành lập mang tên "Friendly Society Fire office". Một số
công ty bảo hiểm cháy khác cũng lần lượt ra đời sau đó: " Hand - in - hand" vào
năm 1696, "Sun Fire office" vào năm 1710, Union năm 1714, Westminster
năm 1717… Việc thành lập những tổ chức như vậy đã đặt nền móng cho bảo
hiểm hoả hoạn ở nước Anh. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
28
CHƯƠNG I
Anh, nhu cầu về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của dân chúng Anh
cũng hình thành và tăng cao dần cùng với khả năng tài chính của họ. Tập quán
bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng hình thành và được giữ vững
theo sự phát triển đó. Vì vậy, tới thế kỷ 18, quy chế bảo hiểm hoả hoạn ở nước
Anh đã được hoàn chỉnh dần từng bước và trở thành Quy tắc bảo hiểm hoả
hoạn hiện đại. Năm 1710, Charlas Povey đã lập ra doanh nghiệp bảo hiểm
London, bắt đầu nhận bảo hiểm động sản ngoài phần bất động sản. Nhưng công
ty này lúc đó bảo hiểm động sản và bất động sản chỉ thu phí bảo hiểm theo
cùng một tỷ lệ phí bảo hiểm, chưa có cơ sở tính toán một cách hợp lý. Vào năm
1714, doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn liên hợp đã được thành lập, bắt đầu áp
dụng những phương pháp thu phí phân biệt theo mức độ rủi ro khác nhau,
chẳng những thu phí bảo hiểm nhà gạch và nhà gỗ theo những tỷ lệ phí bảo
hiểm khác nhau, mà còn có những cách giải quyết khác nhau tuỳ theo vị trí xây
dựng, tính chất sử dụng và từng loại đối tượng tham gia bảo hiểm khác nhau.
Sau khi xây dựng tỷ lệ phí bảo hiểm phân biệt tuỳ theo mức độ rủi ro, việc kinh
doanh bảo hiểm có xu hướng hợp lý hoá.
Sau các công ty bảo hiểm ở Anh, bảo hiểm cháy được mở rộng sang Châu
Âu và Bắc Mỹ.
Ở Pháp, công ty bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên do anh em Perien thành lập
năm 1686 - 100 năm sau (1786), một công ty khác có tên "La Royale Incendic"
cũng được thành lập…
Năm 1677, ở Hambourg (Đức), Quỹ hoả hoạn đầu tiên của thành phố ra đời…
Công ty bảo hiểm đầu tiên thành công ở Mỹ là một công ty bảo hiểm
tương hỗ, do Benjiamis Franklia và một số thành viên khác sáng lập năm 1752,
mang tên là "The Philadelphia Contritionship" chuyên bảo hiểm cháy cho nhà
cửa. Công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ là "The insurance company of
North America" được thành lập năm 1792.
Ngày nay, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đã được
tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển, tạo ra sự
cạnh tranh gay gắt giữa các nước, các công ty bảo hiểm với nhau trong việc tìm
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
29
CHƯƠNG I
kiếm dịch vụ trên thị trường bảo hiểm. Sự phát triển kinh tế cùng với sự tác
động mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện đại đã làm tăng giá trị của công
trình xây dựng, đồng thời cũng làm xuất hiện nhiều loại bảo hiểm mới về con
người và tài sản. Do đó, phí bảo hiểm cũng đã giảm đi đáng kể.
Năm 1986, ở Cộng hoà Liên bang Đức, phí bảo hiểm tăng 2% so với năm
1985, tỷ lệ phí giảm từ 1,01% năm 1985 xuống 0,96% năm 1986. Bảo hiểm
hoả hoạn ở Nhật đứng thứ 3 trong bảo hiểm tài sản, chiếm 17,7% trong tổng số
phí bảo hiểm.
Như vậy, có thể nói rằng tập quán bảo hiểm của dân chúng thể hiện trình
độ văn minh của tiến hoá xã hội. Và có người cho rằng nền văn minh Âu - Mỹ
có thể phát triển mạnh và lâu dài do nền kinh tế thị trường và ngành bảo hiểm ở
đây đã sớm hình thành và phát triển mạnh mẽ hơn nơi khác, cho dù nơi đây
cũng là cội nguồn của các cuộc chiến tranh tàn khốc…
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
Ở VIỆT NAM
Ở nước ta, chưa có một tài liệu nào ghi rõ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro
đặc biệt có từ bao giờ. Thời Pháp thuộc có một số chi nhánh bảo hiểm của Pháp
ở Hà Nội, Sài Gòn tiến hành nghiệp vụ này. Đến trước ngày miền Nam giải
phóng, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đã phát triển hơn. Có hàng
chục công ty tiến hành bảo hiểm hoả hoạn, phí bảo hiểm chiếm trên dưới 5%
tổng số phí hàng năm theo số liệu thống kê như sau (tính bằng VNĐ).
NĂM PHÍ BHHH TỔNG SỐ PHÍ HÀNG NĂM TỶ LỆ %
1968 112.500.000 2.250.000.000 5
1969 143.100.000 2.700.000.000 5,3
1970 147.100.000 2.900.000.000 5,1
1971 198.000.000 3.600.000.000 5,5
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
30
CHƯƠNG I
Trong những năm gần đây, số phí bảo hiểm hoả hoạn cũng không ngừng
tăng, thể hiện trong bảng sau:
NĂM PHÍ BHHH TỔNG SỐ PHÍ HÀNG NĂM TỶ LỆ %
2000 57.194.000.000 263.141.000.000 22%
2001 59.696.000.000 417.893.000.000 14%
2002 65.408.000.000 530.884.000.000 12%
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2002 của Vinare
Cho dù tỷ trọng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ngày càng giảm
trong tổng số phí bảo hiểm hàng năm, nhưng điều đó là do số phí bảo hiểm
hàng năm của các nghiệp vụ khác tăng lên rất cao, cao hơn nhiều so với mức
tăng phí bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt.
Như chúng ta đã biết, con số thiệt hại do cháy ở nước ta không phải là
nhỏ. Tỷ lệ bồi thường của toàn bộ thị trường bảo hiểm nước ta trong năm 2003
vẫn ở mức 28%, tức là vẫn ở mức bình quân so với mọi năm. Tuy nhiên, những
tổn thất do hoả hoạn gây ra trong những năm gần đây đã gia tăng một cách
đáng lo ngại. Điều đặc biệt nguy hiểm là các vụ cháy lớn, nghiêm trọng lại
không ngừng gia tăng. Ví dụ như vụ cháy rừng U Minh đã kéo dài trong suốt
mấy tháng cũng như hàng chục vụ cháy lớn ở các khu chợ, hàng trăm vụ cháy ở
các nhà dân và cháy công sở, văn phòng…Một số vụ điển hình là:
- Vụ cháy kho giấy Công ty Phú Tài xảy ra vào ngày 10/6/2000 gây thiệt hại
khoảng 12,5 tỷ VNĐ.
- Vụ cháy Công ty may Hải Sơn xảy ra vào ngày 23/3/2000 gây thiệt hại
khoảng trên 6 tỷ VNĐ.
- Vụ cháy Công ty TNHH Thịnh Khang (Công ty sản xuất hộp nhựa) xảy ra
vào ngày 7/5/2000, thiệt hại khoảng trên 6 tỷ VNĐ.
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
31
CHƯƠNG I
- Vụ cháy Nhà máy nhựa đồ chơi tại Bình Dương hồi tháng 5/2002 với số tiền
bồi thường ước khoảng 7 tỷ đồng.
- Vụ cháy tại Công ty "Toàn Lực - Viễn Đông" tại Thành phố Hồ Chí Minh với
thiệt hại ước tính khoảng 28 tỷ đồng. (Đây là vụ cháy lớn nhất vào năm 2002).
- Vụ cháy tại công ty chế biến thực phẩm Hoàng Long với thiệt hại ước tính
khoảng 560.000 USD.
Đặc biệt gần đây nhất là vụ cháy toà nhà trung tâm thương mại ITC ở
Thành phố Hồ Chí Minh gây thiệt hại vật chất khoảng 12,5 tỷ đồng.
Để tránh những thiệt hại đáng tiếc xảy ra và cũng là để đáp ứng nhu cầu
của các đơn vị sản xuất kinh doanh, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo
Việt) đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn theo Quyết định số 06/TC -
QĐ ngày 17/1/1989 của Bộ Tài Chính.
Năm 1990 đã có 16 công ty bảo hiểm, các địa phương tiến hành nghiệp vụ
này với giá trị tham gia bảo hiểm hơn 6000 tỷ đồng. Đến năm 1994, bảo hiểm
hoả hoạn đã được tiến hành ở hầu hết 53 tỉnh, thành với tổng số tài sản ở Việt
Nam được bảo hiểm hoả hoạn lên tới 27.000 tỷ đồng. Năm 1995 là một năm
đánh dấu việc Bảo Việt không còn giữ vị trí độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nữa. Trái lại, Bảo Việt phải san sẻ thị phần của
mình trong khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt với
các công ty bảo hiểm khác như: Bảo Minh, PJICO, Bảo Long, PVIC,…
Hiện nay, ở Việt Nam đã có 18 công ty bảo hiểm, trong đó có 13 công ty
bảo hiểm phi nhân thọ và 5 công ty bảo hiểm nhân thọ.
Có thể nói mặc dù số lượng các công ty khai thác bảo hiểm hoả hoạn và
các rủi ro đặc biệt ngày một đông nhưng không phải là thiếu những mảnh đất
mầu mỡ cho các công ty phát triển nghiệp vụ này. Bởi vì, thị trường bảo hiểm
Việt Nam quả thật có rất nhiều tiềm năng cho nghiệp vụ này phát triển. Tuy
vậy, trong lĩnh vực này, các nhà bảo hiểm Việt Nam mới chỉ khai thác chủ yếu
các doanh nghiệp lớn hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn vẫn
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
32
CHƯƠNG I
bỏ ngỏ một thị trường đầy tiềm năng là rất nhiều trường học, bệnh viện, khu
triển lãm, chợ và hàng triệu tư nhân với giá trị hàng chục tỷ USD chưa được
khai thác hoặc chưa có điều kiện để tham gia bảo hiểm. Cụ thể, hiện nay, theo
ước tính, số lượng tài sản được bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt chiếm
khoảng 30% tổng số lượng tài sản cần bảo hiểm. Đó thực sự mới chỉ là một
phần tài sản rất nhỏ bé của đất nước ta.
Hiện nay, nước ta đang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại
hoá, mở cửa đất nước, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài… Đối với các nhà
sản xuất kinh doanh nước ngoài thì việc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt là không thể thiếu được.
Như vậy, tiềm năng khai thác bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
trên thị trường Việt Nam vẫn còn rất to lớn. Trong tương lai, nghiệp vụ này sẽ
vẫn tiếp tục là một trong những lĩnh vực dịch vụ mà các nhà bảo hiểm trong
nước và nước ngoài phải đặc biệt quan tâm.
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
33
CHƯƠNG II
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM HOẢ
HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM.
I. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ TỚI KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ
CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM
Thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là nơi diễn ra các hoạt
động trao đổi và mua - bán các sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt, đáp ứng nhu cầu đảm bảo sự an toàn trong cuộc sống của mọi tầng lớp dân
cư. Với tư duy kinh doanh, thị trường của một công ty bảo hiểm chính là những
khách hàng thực tế và khách hàng tiềm năng của công ty đó. Thị trường bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có những đặc điểm hoạt động và chịu sự
tác động của các quy luật thị trường giống như thị trường các sản phẩm khác.
Tuy nhiên, do đặc tính của sản phẩm và môi trường kinh doanh hiện đại, thị
trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam có những đặc
điểm riêng biệt. Những đặc điểm đó mang lại cả những thuận lợi và khó khăn
cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt
Nam.
1. THUẬN LỢI
1.1. Về chủ thể tham gia thị trường
Chủ thể tham gia vào thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
gồm có: các công ty bảo hiểm, các công ty môi giới và văn phòng đại diện
nước ngoài, các khách hàng tham gia mua bảo hiểm.
1.1.1. Các công ty bảo hiểm
Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, ngày càng có nhiều doanh nghiệp trở
thành người bán đối với sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt.
Trước 1995, Việt Nam chỉ có một doanh nghiệp duy nhất là Bảo Việt cung cấp
sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Nhưng giai đoạn sau 1995
đến nay đã có thêm rất nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực bảo hiểm
này. Gần đây nhất, trong năm 2003 thị trường đã kết nạp thêm hai thành viên
II
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
34
CHƯƠNG II
mới, một là SamsungVina (một công ty liên doanh bảo hiểm trách nhiệm hữu
hạn giữa công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam với Công ty bảo hiểm
Samsung của Hàn Quốc, với tỷ lệ góp vốn 50/50, thời gian hoạt động 30 năm
và số vốn đầu tư 5 triệu USD), hai là công ty liên doanh giữa Ngân hàng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với Công ty Bảo hiểm Châu Á, gọi là
Incombank - Asia, nâng tổng số thành viên trên thị trường lên 13 công ty (Bảo
Việt, Bảo Minh, PVIC, PJICO, PTI, Alianz, UIC, VIA, Bảo Long, BIDV-QBE,
Group Pama, SamsungVina và Incombank - Asia). Chính vì thế, tình hình cạnh
tranh trong lĩnh vực bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đã diễn ra phức
tạp hơn.
Thị phần đối với sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt,
trước kia hoàn toàn do Bảo Việt nắm giữ, nay đã được san sẻ cho nhiều công ty
khác. Điều đó được thể hiện trong biểu đồ sau:
ThÞ phÇn cña c¸c c«ng ty b¶o hiÓm trong dÞch
vô BHHH&RR§B
36%
20%
16%
4.50%
9.00%
6.00%
9.00%
B¶o V iÖt B¶o Minh
A llianz UIC
V IA PJICO
C¸c c«ng ty kh¸c
Nguồn: Thông tin thị trường Bảo hiểm - Tái bảo hiểm - Vinare - 2003
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
35
CHƯƠNG II
Nhờ có cạnh tranh mà các công ty bảo hiểm đã chú ý nhiều hơn đến những
chiến lược nhằm thu hút khách hàng về phía mình. Hoạt động cạnh tranh diễn ra
sôi nổi hơn chắc chắn sẽ đem đến những sản phẩm ưu việt hơn, thoả mãn tốt hơn
nhu cầu của khách hàng về các sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt.
1.1.2. Các nhà môi giới và các văn phòng đại diện bảo hiểm nước ngoài
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP, số công ty bảo hiểm và
môi giới bảo hiểm nước ngoài mở văn phòng đại diện tại Việt Nam đã tăng lên
nhanh chóng. Đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có 2 công ty môi giới
là VIET QUOC và INCHINBROK (đây là công ty 100% vốn nước ngoài) và
khoảng 40 văn phòng đại diện công ty bảo hiểm nước ngoài. Các công ty môi
giới và văn phòng đại diện đến từ nhiều nước khác nhau như: Mỹ, Pháp, Nhật,
Đức… và đều đến Việt Nam vì mục đích tìm kiếm các cơ hội để khai thác các
dịch vụ bảo hiểm trên thị trường Việt Nam.
Sự có mặt của các nhà môi giới bảo hiểm và văn phòng đại diện bảo hiểm
nước ngoài tại Việt Nam đã mang lại nhiều lợi thế cho thị trường bảo hiểm nói
chung và thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của Việt Nam nói
riêng. Chúng mang lại sự phong phú cho hoạt động của thị trường bảo hiểm Việt
Nam. Các nhà môi giới bảo hiểm và văn phòng đại diện nước ngoài này đã hợp
tác với các công ty bảo hiểm của Việt Nam và cũng giúp đỡ các công ty bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Việt Nam thông qua việc giới thiệu được sản phẩm
bảo hiểm này cho nhiều khách hàng, giới thiệu một số điều khoản mới cho các
công ty bảo hiểm Việt Nam cũng như giúp đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên bảo
hiểm.
1.1.3. Khách hàng
Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có một lợi thế hơn so với các loại
bảo hiểm khác vì trong Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành vào năm 2001 thì
bảo hiểm cháy được coi là một loại bảo hiểm bắt buộc. Và theo các nhà bảo
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
36
CHƯƠNG II
hiểm thì quy định bắt buộc này được coi là điều kiện thuận lợi cho phép các
công ty bảo hiểm có thể tiếp cận được các khách hàng tiềm năng.
Trên thực tế, hầu hết các khách hàng chủ yếu của bảo hiểm hoả hoạn và
các rủi ro đặc biệt là các doanh nghiệp lớn và đa phần là các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Nhà nước lớn. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, các công ty tham gia khai thác bảo hiểm hoả hoạn và các
rủi ro đặc biệt cũng đã chú ý hơn đến những đối tượng khách hàng khác. Theo
số liệu thống kê của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), đối với
nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt, trong năm 2001, doanh thu toàn
tổng công ty tăng so với năm 2000 là 5%, đã chú trọng vào thị trường các xí
nghiệp nhỏ, các tổ hợp sản xuất và các doanh nghiệp tư nhân. Sang năm 2002,
doanh thu của nghiệp vụ này đã đạt 110 tỷ đồng, chiếm 15% trong tổng doanh
thu của Bảo Việt.
Như vậy cũng là một dấu hiệu đáng mừng cho thấy các doanh nghiệp bảo
hiểm đã quan tâm hơn đến những đối tượng khách hàng khác ngoài những
khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp Nhà nước lớn và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.2. Về thị trường
Thứ nhất là, cùng với chính sách hội nhập kinh tế trong những năm gần
đây, nền kinh tế Việt Nam đã bước vào giai đoạn phát triển với tốc độ khá cao,
lạm phát được đẩy lùi, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, đó là
những tiền đề kinh tế rất quan trọng để thúc đẩy nhu cầu bảo hiểm. Nói cách
khác, Việt Nam đang phát triển với mức tăng trưởng khá (trung bình từ 7,5 -
8%/năm) với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, đầu tư nước ngoài
gia tăng mạnh mẽ. Đã có hàng trăm công trình, dự án do nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam dưới nhiều hình thức liên doanh liên kết, đầu tư hoặc góp vốn. Một số
chỉ tiêu cụ thể là: vốn giải ngân cho đầu tư phát triển tăng 12,4%, xuất khẩu tăng
10%, nhập khẩu tăng 20%, các dự án đầu tư nước ngoài tăng 34%, có thêm một
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
37
CHƯƠNG II
vài dự án mới trong khai thác và sản xuất dầu… Ngoài ra, nhiều tập đoàn kinh
tế, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm cũng đã có văn phòng tại Việt Nam, góp
phần đáng kể trong việc phát triển kinh tế đất nước. Sản xuất kinh doanh cũng
ngày một phát triển với khối lượng hàng hoá vật tư ngày càng lớn. Có rất nhiều
trụ sở thương mại, biệt thự, khách sạn bốn, năm sao theo tiêu chuẩn quốc tế, các
chợ lớn, siêu thị… đã và đang được xây dựng. Đứng trước những yêu cầu của cơ
chế thị trường, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thực sự là một nhu cầu
cần thiết đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh và các nhà đầu tư này khi họ
muốn bảo toàn vốn kinh doanh của mình. Đây là một môi trường thuận lợi cho
ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng
để không ngừng phát triển.
Thứ hai là, Nhà nước đã thấy rõ hơn vai trò của bảo hiểm hoả hoạn và các
rủi ro đặc biệt trong nền kinh tế và đã quan tâm hơn đến việc phát triển thị
trường bảo hiểm, trong đó có bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, thể hiện
rõ nhất qua việc ban hành Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định có liên
quan tạo điêù kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và
các rủi ro đặc biệt cũng như xây dựng chiến lược, chính sách phát triển thị
trường. Đồng thời, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt, các Ngành, các cấp như Bộ kế hoạch và đầu tư, sở
kinh tế đối ngoại, UBND thành phố, Bộ tài chính cũng đã rất quan tâm đến
công tác bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt và đã có sự chỉ đạo kịp thời,
có văn bản hướng dẫn về công tác này.
Ví dụ như: Thông tư số 82/TC_CN ngày 31/12/91 của Bộ tài chính hướng
dẫn việc thực hiện chỉ thị 332/HĐBT về bảo toàn vốn kinh doanh đối với các
doanh nghiệp Nhà nước ghi rõ: "… Các doanh nghiệp cần mua bảo hiểm tài
sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó ở các công ty bảo hiểm ở Việt
Nam. Khoản chi phí về bảo hiểm được hạch toán vào giá thành hoặc chi phí
giao thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi giảm vốn trong
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
38
CHƯƠNG II
trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong
nước đã triển khai những loại hình tương tự".
Một điều đáng chú ý nữa là: trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
sửa đổi lần thứ 3 được Quốc hội thông qua ngày 12/11/1996, điều 8 Chương IV
quy định: "Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên nước ngoài tham gia
hợp đồng hợp tác kinh doanh bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự tại công
ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại công ty bảo hiểm khác được phép hoạt động tại
Việt Nam". Như vậy, có thể nói các công ty bảo hiểm Việt Nam đã được Nhà
nước tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi để khai thác thị trường bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt ở trong nước. Bởi vì theo như Luật này thì các
doanh nghiệp muốn mua bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì bắt buộc
phải mua tại Bảo Việt hoặc các công ty bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam vì lúc
đó chưa có một công ty bảo hiểm nước ngoài nào được trực tiếp khai thác lĩnh
vực bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam.
Thuận lợi thứ 3 là sự ra đời và hoạt động của nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thuộc nhiều thành phần kinh tế sẽ tạo ra sự
cạnh tranh tích cực, thúc đẩy thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt phát triển. Đồng thời, thông qua hoạt động tích cực của các doanh nghiệp
và sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin đại chúng, nhận thức của dân chúng
về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ngày càng tăng lên.
Thứ tư, sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông
tin đã, đang và sẽ tạo ra rất nhiều công cụ và giải pháp hữu ích, cho phép các
doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có thể nắm bắt và ứng
dụng trong hoạt động kinh doanh của mình nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả quản lý, hạ thấp chi phí, mở rộng và đa dạng hoá các kênh phân phối.
Tuy vậy, bên cạnh những điều kiện thuận lợi mà thị trường mang lại cho
hoạt động khai thác bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì vẫn còn tồn tại
một số khó khăn, bất cập đối với hoạt động này.
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
39
CHƯƠNG II
2. KHÓ KHĂN
2.1. Về chủ thể tham gia thị trường
2.1.1. Các công ty bảo hiểm
Về phía các doanh nghiệp tham gia nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi
ro đặc biệt, do đây là một nghiệp vụ mới được tiến hành ở nước ta vài năm nên
cán bộ làm nghiệp vụ bảo hiểm này còn chưa nhiều, số đã có thì chưa có nhiều
kinh nghiệm và chuyên môn chuyên sâu nên còn chưa nhanh nhạy trong việc nắm
bắt được sự biến động của thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
trong nền kinh tế mới. Hơn nữa, cán bộ làm nhiệm vụ khai thác thị trường còn
chưa biết tự chủ động đi tìm thị trường, nhất là chủ động tiến công vào một thị
trường mới mẻ, còn rất rộng lớn và nhiều tiềm năng là thị trường bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt đối với các xí nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân và các
hộ gia đình.
Một khó khăn nữa đối với các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt Việt Nam xuất phát từ tình hình cạnh tranh khốc liệt của các công ty trong
lĩnh vực này. Tuy các công ty đã ký kết Thoả thuận chung về bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt nhưng các công ty vẫn ra sức cạnh tranh với nhau
để giành giật khách hàng, tạo chỗ đứng cho riêng mình trên thị trường bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Việt Nam. Và vì thế, nhiều công ty không ngại
phải sử dụng nhiều kỹ thuật cạnh tranh mà nhiều khi là không lành mạnh để
giành khách về phía mình. Ví dụ, một công ty bảo hiểm đã ngang nhiên bước
qua Thoả thuận chung về mức phí tối thiểu để "giật phăng" dịch vụ bảo hiểm
từ một công ty khác, thậm chí thấp hơn 30% so với giá phí tối thiểu như trường
hợp bảo hiểm cháy cho Harbour View với tỷ lệ phí chỉ là 0,085%.
Cạnh tranh là tốt, nhưng phải là cạnh tranh lành mạnh mới mang lại những
lợi ích tích cực về lâu về dài. Chính vì thế, những hình thức cạnh tranh "thô sơ"
mà các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Việt Nam đang sử
dụng như: giảm phí đột ngột, mở rộng quá mức phạm vi bảo hiểm, nâng cao
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
40
CHƯƠNG II
quá mức tỷ lệ hoa hồng và môi giới phí… sẽ rất dễ bị các công ty nước ngoài
lợi dụng để đánh bật lại chính bản thân họ.
2.1.2. Các nhà môi giới và các văn phòng đại diện bảo hiểm nước ngoài
Hoạt động của các nhà môi giới và các văn phòng đại diện bảo hiểm nước
ngoài ở Việt Nam tuy có mang lại những lợi ích thiết thực cho thị trường bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt vốn rất mới mẻ này, nhưng trái lại, hoạt
động của họ cũng ở một khía cạnh nào đó tạo ra sự lệch lạc cho sự phát triển
của thị trường bảo hiểm Việt Nam, một thị trường vốn đang còn trong giai đoạn
đầu của quá trình phát triển. Trên thực tế, một số nhà môi giới và cả một số văn
phòng đại diện đã giới thiệu, tư vấn cho các công ty bảo hiểm gốc những hợp
đồng với điều khoản quá rộng, điều kiện quá tốt và mức phí thấp (còn được gọi
là hợp đồng toàn cầu) gây khó khăn cho các nhà tái bảo hiểm của Việt Nam.
Kết quả là các công ty bảo hiểm gốc của Việt Nam bắt buộc phải tái bảo hiểm
tại các công ty tái bảo hiểm đã được các nhà môi giới hay các văn phòng đại
diện này chỉ định trước. Điều đó đã khiến cho số phí tái bảo hiểm chảy ra nước
ngoài cao.
2.1.3. Người mua
Chúng ta đều biết rằng Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, chậm phát
triển, trình độ dân trí chưa cao và mới bắt đầu bước những bước đầu tiên vào
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa sau bao nhiêu năm
thực hiện chế độ bao cấp về mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội. Chính vì
vậy, lãnh đạo một số doanh nghiệp, đơn vị, xí nghiệp vẫn còn mang nặng tư
tưởng bao cấp, chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn, mà một trong
những cách hữu hiệu nhất là mua bảo hiểm, mà cụ thể là bảo hiểm hoả hoạn và
các rủi ro đặc biệt. Mặt khác, khi ta chuyển sang chế độ tự chủ trong kinh
doanh, nhiều đơn vị kinh doanh đã chưa thích ứng kịp nên làm ăn vẫn chưa
hiệu quả, còn bị thua lỗ. Do đó, trên thực tế, họ chưa có đủ điều kiện để tham
gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Còn đối với đa phần các doanh
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
41
CHƯƠNG II
nghiệp tư nhân hiện nay, họ cũng đã nhận thức được những khó khăn, phức tạp
trong công việc bảo toàn vốn kinh doanh của mình nhưng họ lại không có
những hiểu biết nhất định về nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các
rủi ro đặc biệt cũng như không mấy tin tưởng vào cung cách làm ăn của các
công ty bảo hiểm Việt Nam. Điều đó giải thích tại sao mới chỉ có các xí nghiệp
liên doanh, các văn phòng nước ngoài tham gia mua bảo hiểm hoả hoạn và các
rủi ro đặc biệt là chủ yếu, song cũng chỉ chiếm khoảng 20% số xí nghiệp liên
doanh, văn phòng đại diện nước ngoài, còn các doanh nghiệp trong nước, đặc
biệt là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ vẫn rất thờ ơ với việc này, ngay
cả những ngành sản xuất, kinh doanh ổn định, có giá trị tài sản lớn. Và còn
nhiều khách sạn, nhà hàng, khu vực triển lãm, chợ…cũng chưa tham gia bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Còn với cá nhân thì số đã mua bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Chính vì thế
mà thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Việt Nam vẫn còn rất
nhiều tiềm năng cần các doanh nghiệp bảo hiểm khai thác trong thời gian sớm
nhất.
Ngoài ra, có nhiều khách hàng có hiểu biết và có tham gia mua bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nhưng họ hiểu được một thực tế là hiện nay, trên
thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt trong khu vực và cả trên thế
giới, khả năng cung cấp, năng lực bảo hiểm lớn hơn nhu cầu bảo hiểm. Chính vì
thế, các khách hàng luôn luôn được coi là "thượng đế". Và do vậy, nhiều khi họ
có những yêu sách quá cao khiến cho các công ty bảo hiểm khó có thể đáp ứng
được, và nếu không đáp ứng được yêu cầu, khách hàng sẵn sàng đi mua bảo
hiểm tại các công ty khác. Giữ được chân khách hàng trong điều kiện cạnh tranh
khốc liệt như vậy quả là một thách thức không nhỏ đối với các công ty bảo hiểm
trong nước.
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
42
CHƯƠNG II
2.2. Về thị trường
Mặc dù đã đạt được những thành công rất lớn nhưng thị trường bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Việt Nam vẫn còn nhiều điểm hạn chế, khó
khăn cần khắc phục.
Thứ nhất, thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của Việt
Nam đã được mở rộng hơn trước rất nhiều trong những năm gần đây. Tuy
nhiên, trên thực tế, thị trường này không thực sự lớn mạnh nhanh chóng bằng
thị trường đối với các sản phẩm khác, đặc biệt là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
Vụ hoả hoạn lớn tại toà nhà ITC ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt vẫn tiếp tục bị xem nhẹ. Trong khi Luật kinh
doanh bảo hiểm quy định bảo hiểm cháy là bảo hiểm bắt buộc thì quy định này
đến nay vẫn chưa được thực thi nghiêm túc. Theo các nhà bảo hiểm, quy định
bắt buộc này được coi là điều kiện thuận lợi cho phép các công ty bảo hiểm có
thể tiếp cận được các khách hàng tiềm năng. Thế nhưng, để điều kiện này có
hiệu lực thì đòi hỏi phải có các quy định cụ thể hơn.
Thứ hai, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam vẫn chưa thực sự đồng bộ. Một số quy định
cần thiết còn thiếu, một số quy định chưa rõ ràng, chưa thực sự phù hợp với tập
quán bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, chưa tạo ra môi trường pháp lý
thông thoáng cho hoạt động của các doanh nghiệp; hiệu lực thực thi các quy định
cũng như việc kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng trên thực tế còn chưa
cao.
Thứ ba, thị trường đầu tư của Việt Nam mới trong giai đoạn hình thành,
còn thiếu các công cụ đầu tư, nhất là các công cụ đầu tư dài hạn, do vậy hạn
chế rất lớn tới hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt.
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
43
CHƯƠNG II
Thứ tư, hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh như tung tin thất thiệt, trục
lợi bảo hiểm, kinh doanh theo kiểu "chộp giật" đã xuất hiện, gây tác động xấu
đến thị trường, làm tổn hại đến hình ảnh, uy tín của ngành.
Thứ năm, thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt mới chủ
yếu đạt được sự tăng trưởng cao chứ chưa đạt được yếu tố bền vững và hiệu
quả cao. Đến nay, các doanh nghiệp vẫn đặt trọng tâm mục tiêu vào tăng
trưởng, mở rộng thị trường chứ không phải là hiệu quả và phát triển bền vững.
Thứ sáu, tập quán tham gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt mới
bắt đầu hình thành, phần đông các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như hầu hết
dân chúng còn chưa hiểu biết rõ về tầm quan trọng và tác dụng của bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, còn e ngại tham gia các hợp đồng dài hạn.
Cuối cùng, trình độ cán bộ, đại lý làm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro
đặc biệt còn nhiều bất cập. Ngành bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của
Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều chuyên gia giỏi.
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
44
CHƯƠNG II
II. QUY TRÌNH KHAI THÁC NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO
ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM
Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, quy trình thực hiện
nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt bao gồm các khâu cơ bản
sau đây:
- Khâu khai thác bảo hiểm
- Khâu giám định tổn thất
- Khâu bồi thường tổn thất và chi trả tiền bảo hiểm
- Khâu hạn chế tổn thất
Các khâu này có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ, đó là những mối quan
hệ qua lại, có tác động mang tính nhân - quả với nhau. Khâu này là tiền đề của
khâu kia, khâu kia lại là kết quả của khâu này. Nói tóm lại, tất cả các yếu tố đều
rất quan trọng và hợp lại thành một chu trình hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt.
1. HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BẢO HIỂM
Đây là bước đầu tiên và không thể thiếu được trong bất cứ một nghiệp vụ
bảo hiểm nào, và tất nhiên là cũng không thể thiếu được trong nghiệp vụ bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Hoạt động khai thác đóng một vai trò
quyết định trong sự phát triển của công ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm
nếu họ không hiểu biết được về những lợi ích mà bảo hiểm sẽ mang lại cho họ
khi họ tham gia vào hoạt động này. Chính vì thế, việc cung cấp thông tin nhanh
chóng, cập nhật thông tin cho khách hàng về những điều kiện ưu đãi, lợi ích
của khách hàng khi tham gia bảo hiểm là điều kiện tối cần thiết để dẫn dắt
khách hàng đến quyết định mua hay không mua bảo hiểm. Đặc biệt, đối với
nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt vốn là một nghiệp vụ còn
tương đối non trẻ (mới được tiến hành từ năm 1989) và việc mua bảo hiểm
chưa trở thành tập quán đối với các thành phần kinh tế thì khâu khai thác bảo
hiểm, đặc biệt trong đó, công việc tuyên truyền, quảng cáo là rất quan trọng.
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
45
CHƯƠNG II
1.1. Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp và quảng
cáo là những hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp. Xây dựng
hình ảnh doanh nghiệp nhằm tạo lập và củng cố sự thiện cảm, lòng tin, uy tín,
sự gắn bó của khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng đối với
doanh nghiệp, phân biệt doanh nghiệp với các doanh nghiệp cạnh tranh. Thực
tế cho thấy, với cùng một sản phẩm với chất lượng, công dụng ngang nhau
nhưng sản phẩm của doanh nghiệp lớn, có uy tín được người tiêu dùng lựa
chọn nhiều hơn mặc dù giá cả của nó có thể cao hơn, thậm chí cao hơn rất
nhiều so với các sản phẩm của doanh nghiệp nhỏ, uy tín thấp hơn. Điều này
được lý giải bởi doanh nghiệp lớn đã xây dựng được hình ảnh tốt, bền vững về
doanh nghiệp và sản phẩm của mình. Quảng cáo nhằm làm cho công chúng biết
về doanh nghiệp, thông tin cho công chúng về sản phẩm, so sánh và phân biệt
sản phẩm của doanh nghiệp với các sản phẩm cạnh tranh, xây dựng hình ảnh
của sản phẩm cũng như hỗ trợ bán hàng. Do vậy, quảng cáo có vai trò rất quan
trọng trong xúc tiến thương mại. Điều dễ thấy là, một sản phẩm dù được thiết
kế hoàn hảo đến mấy nhưng khách hàng không biết đến sự tồn tại của nó thì
mãi mãi sẽ chỉ là sản phẩm tồn kho, không thể trở thành thương phẩm - sản
phẩm được mua bán.
Đối với mỗi lĩnh vực kinh doanh, mục đích, cách thức xây dựng hình ảnh
doanh nghiệp và quảng cáo cũng có những đặc điểm riêng ngoài những nguyên
lý, đặc điểm chung: trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, mỗi doanh nghiệp lại
có thể có những cách làm riêng. Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng
có những đặc điểm rất riêng và khá độc đáo, ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu,
cách thức xây dựng hình ảnh doanh nghiệp cũng như trong quảng cáo mà
doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cần xem xét khi tiến
hành các hoạt động trên, đó là:
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
46
CHƯƠNG II
Thứ nhất, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một loại hình dịch
vụ tài chính, một sản phẩm vô hình, người mua bảo hiểm đóng tiền (thường là
đóng định kỳ) cho doanh nghiệp bảo hiểm nhưng chỉ nhận lại một lời cam kết
sẽ được trả tiền khi những sự kiện bảo hiểm được xác định trước (cháy, nổ,
sét…) phát sinh mà không biết chắc sự kiện đó có xảy ra hay không cũng như
không xác định trước được thời điểm phát sinh sự kiện đó. Do vậy, khác với
các hàng hoá thông thường, người mua bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt không thể dùng thử để biết chất lượng sản phẩm mà chỉ có thể dùng thật
mới biết. Hơn thế nữa, sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt còn
là một sản phẩm khá phức tạp và có tính trừu tượng cao, nên nhiều khi người
mua bảo hiểm không thể hình dung hết về sản phẩm.
Thứ hai, nhu cầu về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là nhu cầu
thụ động. Trừ trường hợp các doanh nghiệp lớn, theo quy định của Nhà nước,
bắt buộc phải mua bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt khi hoạt động, sẽ tự
tìm đến các doanh nghiệp bảo hiểm để trực tiếp mua. Còn đối với các công ty
nhỏ và đặc biệt là các hộ gia đình thì thường chỉ mua bảo hiểm hoả hoạn và các
rủi ro đặc biệt sau khi được người bán bảo hiểm tìm đến tận nơi thuyết phục,
vận động (đặc biệt đối với các hộ gia đình thì người bán bảo hiểm phải thuyết
phục rất nhiều lần thì mới thành công).
Thứ ba, đối với bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì số tiền bồi
thường trong mỗi vụ tổn thất thường là rất cao và ảnh hưởng rất lớn, thậm chí
mang tính quyết định đối với công việc kinh doanh cũng như cuộc sống sau này
của các doanh nghiệp, hộ gia đình… Do vậy, khi tham gia bảo hiểm hoả hoạn
và các rủi ro đặc biệt, khách hàng luôn đặt ra những câu hỏi liên quan đến
tương lai như: liệu khi xảy ra tổn thất thì doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và
các rủi ro đặc biệt có đủ năng lực về tài chính để thực hiện thanh toán tiền bảo
hiểm đã cam kết hay không? Các thủ tục đòi bồi thường có quá rắc rối hay
không? Có mất nhiều thời gian hay không? Khách hàng liệu có thể nhanh
chóng trở lại với công việc kinh doanh cũng như cuộc sống bình thường như
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
47
CHƯƠNG II
trước khi tổn thất xảy ra hay không? Chính vì vậy, việc tạo lòng tin nơi khách
hàng đóng vai trò tối quan trọng trong kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi
ro đặc biệt. Kinh nghiệm triển khai bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại
Việt Nam cho thấy, uy tín doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng
nhất quyết định việc tham gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của
khách hàng.
1.2. Đánh giá rủi ro
Hoạt động đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng đã gửi giấy
yêu cầu bảo hiểm với mục đích đánh giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với
các đối tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương
ứng với các rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đánh giá đúng rủi ro, ngoài việc dựa vào những thông tin
trong giấy yêu cầu bảo hiểm thì thông thường các công ty bảo hiểm còn yêu
cầu khách hàng phải điền vào phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi) sau đó
gửi cho Công ty bảo hiểm. Qua phần trả lời của khách hàng trong phiếu điều tra
cũng như phần kê khai của khách hàng trong đơn yêu cầu bảo hiểm, các công
ty bảo hiểm sẽ xác định được các đặc điểm của đối tượng bảo hiểm cần thiết
trong việc tính phí bảo hiểm, ví dụ như: đối với bảo hiểm cháy thì phải xác
định được bậc chịu lửa của công trình, loại PCCC được trang vị, đội cứu hoả,
bảo vệ… , hạng sản xuất (đơn vị sản xuất), loại kinh doanh dịch vụ (với đơn vị
kinh doanh dịch vụ), mức độ nguy hiểm của các tài sản trong kho, cửa
hàng….Để được như vậy thì khách hàng phải tuân theo nguyên tắc trung thực
tuyệt đối và phải có quyền lợi bảo hiểm, tức là phải kê khai đầy đủ và đúng sự
thật giá trị tài sản cần bảo hiểm theo từng đơn vị rủi ro vào bản kê danh mục tài
sản (theo mẫu in sẵn) cũng như phải trả lời cẩn thận và chi tiết những câu hỏi
trong phiếu điều tra.
Tuy nhiên, trên thực tế, vì nhiều yếu tố, cả chủ quan lẫn khách quan, mà
khách hàng có thể trả lời sai những câu hỏi trong phiếu điều tra khiến cho kết
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
48
CHƯƠNG II
quả thu được có nhiều sai sót và dẫn đến việc các công ty bảo hiểm có thể tính
sai mức phí bảo hiểm. Chính vì vậy, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi
đánh giá rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo
hiểm thường phải trực tiếp đến làm việc với khách hàng, hướng dẫn khách
hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra một cách cẩn thận, kỹ lưỡng, cộng
tác với cảnh sát PCCC trong việc đánh giá về thực tế công tác phòng cháy chữa
cháy, phương tiện chuyên môn (khách hàng cần những phương tiện PCCC nào?
bố trí ở đâu? với số lượng là bao nhiêu?). Người bảo hiểm cũng có thể yêu cầu
người được bảo hiểm cung cấp sơ đồ, vị trí tài sản được bảo hiểm, sơ đồ hệ
thống PCCC… hoặc cử giám định viên hoặc cộng tác viên để xem xét đối
tượng bảo hiểm và góp ý kiến về hệ thống PCCC hoặc yêu cầu người được bảo
hiểm bổ sung phương tiện PCCC. Cuối cùng, trên cơ sở những tài liệu đã thu
thập được, cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ phân tích, tổng hợp để đánh giá mức
độ rủi ro một cách chính xác, từ đó tính được mức phí bảo hiểm mà khách hàng
cần phải nộp, và cuối cùng sẽ thoả thuận với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ được áp
dụng.
Như vậy, công việc đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi đây
là khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như đưa ra mức phí thích
hợp. Đây cũng là một trong những khâu có ý nghĩa quyết định để xác định xem
một khách hàng có phải là đang sử dụng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt để trục lợi hay không.
1.3. Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Công ty bảo hiểm sau khi nhận đơn và lập bản đánh giá rủi ro, xem xét
mọi khía cạnh kinh tế và pháp lý sẽ quyết định nhận hay từ chối bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm chỉ được lập khi đơn xin bảo hiểm được chấp nhận và
2 bên đã gặp nhau để thoả thuận cặn kẽ về chi tiết của hợp đồng.
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, Giấy chứng
nhận bảo hiểm có thể được dùng thay thế cho hợp đồng bảo hiểm.
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
49
CHƯƠNG II
Nội dung của giấy chứng nhận bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
thường bao gồm những nội dung như sau:
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ của người được bảo hiểm
- Tên đối tượng bảo hiểm, địa chỉ
- Rủi ro được bảo hiểm
- Số tiền bảo hiểm
- Phí bảo hiểm
- Thời hạn bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm là tuỳ theo yêu cầu của người được bảo hiểm, có thể là
một năm hoặc ngắn hơn. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo
hiểm có thể đóng tiếp phí bảo hiểm và yêu cầu tái tục bảo hiểm.
Thông thường, tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại, không
thể hiện được chi tiết trong giấy yêu cầu bảo hiểm. Vì vậy, kèm theo giấy
chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi là một bộ
phận của giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng
mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của từng loại đó.
1.4. Thay đổi giá trị tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoặc giảm bớt
tài sản được bảo hiểm sau khi đã được công ty bảo hiểm cấp giấy chứng nhận
bảo hiểm. Nếu công ty bảo hiểm không chấp nhận những thay đổi đó bằng văn
bản thì hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có thể bị huỷ bỏ.
Trong trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận những thay đổi này bằng văn
bản thì công ty cần xem xét kỹ về yêu cầu thay đổi như: giá trị bảo hiểm, các
yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, mức
phí bảo hiểm cho phù hợp.
Ngoài ra, các cán bộ khai thác cũng có thể định kỳ xuống thăm các đối tượng
bảo hiểm, kiểm tra công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng cường hiệu quả của
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
50
CHƯƠNG II
công tác này, đồng thời phối hợp với bộ phận tài vụ để theo dõi việc đóng phí của
khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp kết thúc.
1.5. Thanh toán hoa hồng
Hoa hồng là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với phí bảo
hiểm. Đây có thể được coi là một công cụ khuyến khích về tài chính (financial
incentive) đối với khách hàng hoặc các trung gian bảo hiểm. Công ty trả khoản
tiền này cho người trực tiếp tham gia bảo hiểm hoặc trả cho người môi giới, đại
lý nhằm động viên khuyến khích họ nhiệt tình công tác, thu hút thêm nhiều
khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng có thể coi là một hình thức tạo dựng
mối quan hệ lâu dài với khách hàng.
Như vậy, ta có thể khẳng định rằng hoạt động khai thác bảo hiểm có một
vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề
cho việc thực hiện các khâu khác tốt hơn và giúp các công ty bảo hiểm mở rộng
hoạt động kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường.
2. GIÁM ĐỊNH TỔN THẤT
Giám định tổn thất là nhiệm vụ, là một khâu quan trọng trong chu trình
hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Sau khi nhận được thông báo của người được bảo hiểm về tai nạn rủi ro
xảy ra, giấy yêu cầu giám định và các giấy tờ khác có liên quan, doanh nghiệp
bảo hiểm phải cử giám định viên đến hiện trường cùng các thành viên liên quan
để xác định tính chất, nguyên nhân, mức độ thiệt hại… Điều quan trọng của
công việc giám định là xác định được nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi bảo
hiểm không; tổn thất thực tế là bao nhiêu… để làm căn cứ bồi thường.
Giám định tổn thất được thực hiện bởi các chuyên viên giám định. Tuỳ
theo từng nước, từng loại hình doanh nghiệp bảo hiểm và từng nghiệp vụ bảo
hiểm khác nhau mà chuyên viên giám định bảo hiểm cũng khác nhau. Ở những
nước phát triển, chuyên viên giám định do doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp chỉ
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
51
CHƯƠNG II
định và lựa chọn. Nhưng phần lớn ở các nước, chuyên viên giám định chính là
nhân viên của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Chuyên viên giám định bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt phải công
minh, cẩn thận và hiểu biết một cách thấu đáo về nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn
và các rủi ro đặc biệt. Chuyên viên này phải thi hành công vụ một cách cần
mẫn, chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ thị, ý kiến của doanh nghiệp bảo
hiểm. Chuyên viên được phép mời các cộng sự làm việc nhưng phải được sự
đồng ý của doanh nghiệp bảo hiểm, nếu là chuyên viên giám định của doanh
nghiệp bảo hiểm. Nếu chuyên viên giám định là do doanh nghiệp bảo hiểm chỉ
định, lựa chọn thì sẽ được uỷ nhiệm một số quyền hạn nhất định, song không
được nhượng lại sự uỷ quyền này cho người khác. Lợi ích của các chuyên viên
bảo hiểm phải độc lập với lợi ích của người tham gia bảo hiểm.
2.1. Quy trình giám định tổn thất
Trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, có thể khái quát
quy trình giám định tổn thất theo các bước sau đây:
- Chuẩn bị giám định: Trước khi tiến hành giám định, phải chuẩn bị đầy đủ các
loại giấy tờ cần thiết liên quan đến đối tượng bảo hiểm như: Đơn bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt hoặc giấy yêu cầu bảo hiểm hoả hoạn và các
rủi ro đặc biệt, bản kê chi tiết các loại tài sản được bảo hiểm, các chứng từ,
hoá đơn sửa chữa, thay thế… Ngoài ra, nếu cần thiết còn phải chuẩn bị hiện
trường giám định, thống nhất thời gian và địa điểm giám định, tổ chức mời
các bên có liên quan đến để tiến hành giám định (như công an, đại diện có
thẩm quyền của chính quyền địa phương nơi xảy ra vụ việc, các nhà chuyên
môn…)
- Tiến hành giám định: Công việc giám định phải được tiến hành một cách
khẩn trương, ý kiến của chuyên gia giám định đưa ra phải chính xác, hợp lý
và nhất quán. Trong trường hợp tổn thất xảy ra có quy mô lớn và mang tính
chất nghiêm trọng đòi hỏi phải giám định trong một khoảng thời gian dài thì
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
52
CHƯƠNG II
chuyên viên giám định phải bám sát hiện trường để theo dõi, thu thập thông
tin và đưa ra các phương án giải quyết cho phù hợp. Trong quá trình giám
định, phải tập trung vào các công việc:
Kiểm tra lại đối tượng cần giám định
Xác định tính chất của tổn thất để từ đó tiến hành phân loại tổn thất
Xác định mức độ tổn thất
Xác định nguyên nhân gây ra tổn thất
Xác định những tổn thất của người thứ 3 (nếu có)…
Những ý kiến nêu ra trong quá trình giám định phải dựa trên những cơ sở
khoa học và căn cứ vào tình hình trong thực tiễn. Không được tuỳ tiện, chủ
quan hay hấp tấp, vội vàng đưa ra kết luận vì điều đó sẽ dễ dẫn đến sai sót.
- Lập biên bản giám định: Đây là tài liệu chủ yếu để người bảo hiểm căn cứ vào
mà tiến hành xét duyệt bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm và khiếu nại
người thứ 3. Vì vậy, nội dung của văn bản này phải đảm bảo tính trung thực,
chính xác, rõ ràng, cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với thực trạng và không
được mâu thuẫn khi đối chiếu với các giấy tờ có liên quan. Đối với những vụ
tổn thất lớn, phức tạp và nghiêm trọng thì phải lấy ý kiến tập thể của những
người có liên quan và lãnh đạo doanh nghiệp bảo hiểm trước khi hoàn tất biên
bản giám định. Thông thường biên bản giám định được lập ở hiện trường và
sau khi đã thống nhất phải lấy chữ ký của các bên có liên quan. Biên bản giám
định chỉ cấp cho người có yêu cầu giám định. Không được tiết lộ nội dung
giám định cho những người khác khi chưa có sự đồng ý của doanh nghiệp bảo
hiểm.
2.2. Yêu cầu khi giám định tổn thất
- Ghi nhận thiệt hại phải đảm bảo tính chính xác, kịp thời, khách quan và
trung thực. Ghi nhận thiệt hại tức là ghi lại thực trạng và xác định lại tính
chất của những thiệt hại, mức độ tổn thất có trầm trọng hay không và
nguyên nhân gây ra thiệt hại là gì.
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
53
CHƯƠNG II
- Đề xuất các biện pháp bảo quản và phòng ngừa thiệt hại phải kịp thời và
đúng quyền hạn. Khi rủi ro tổn thất xảy ra, chuyên viên giám định có nghĩa
vụ và quyền can thiệp để giảm thiểu mức độ trầm trọng của tổn thất. Chuyên
viên giám định tổn thất có thể can thiệp bằng cách đưa ra những biện pháp
bảo quản và phòng ngừa thiệt hại như: các biện pháp cứu hộ và an toàn đối
với tài sản được bảo hiểm và tài sản, tính mạng của người thứ 3, thu gom,
đóng gói gia công lại bao bì chứa hàng, bảo vệ tài sản để tránh bị mất cắp…
Tuy nhiên, chuyên viên giám định không được làm gì vượt quá thẩm quyền
của mình hay làm thay người bảo hiểm. Nếu phát hiện tổn thất có tính hệ
thống, chuyên viên giám định phải tìm hiểu nguyên nhân, phương hướng giải
quyết và thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm đã uỷ nhiệm lựa chọn mình
làm người giám định.
- Những thông tin mà chuyên viên giám định cung cấp cho doanh nghiệp bảo
hiểm là tự nguyện, nhưng nội dung của nó là tất cả những chi tiết về những
sự kiện đã xảy ra và các vấn đề liên quan như: Thực trạng hiện trường nơi
xảy ra tổn thất, tình trạng mất cắp, các quyết định của cơ quan công an và
chính quyền địa phương… Những thông tin này sẽ không có giá trị nếu
được cung cấp quá muộn, bởi vì nó không được đưa ra thảo luận và làm
bằng chứng khi lập biên bản giám định tổn thất.
3. BỒI THƯỜNG VÀ CHI TRẢ TIỀN BẢO HIỂM
Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm là vấn đề trọng tâm của hoạt động
kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Bởi vì khi mua bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, có nghĩa là khách hàng đã đã tiền cho sản phẩm
bảo hiểm này và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo
hiểm một cách nhanh chóng và đầy đủ nếu không may họ bị tổn thất. Chính
vào thời điểm tổn thất xảy ra, khách hàng thường phải chịu những "cú sốc" lớn
về cả tinh thần và tài chính. Vào lúc này thì năng lực, sự trung thực, tính hiệu
quả, sự tế nhị và tính nhân đạo của doanh nghiệp bảo hiểm được thừa nhận qua
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
54
CHƯƠNG II
cách xử sự của mình với nạn nhân của sự kiện được bảo hiểm. Nếu giải quyết
tốt thì đó là cách quảng cáo, tuyên truyền có hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của
doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng như có ảnh hưởng
tích cực tới khâu khai thác bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Giải quyết
tốt bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng.
Nhận thức được vai trò của việc bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm nên nhiều
công ty bảo hiểm trên thế giới đã nêu thành những triết lý kinh doanh. Ví dụ,
Công ty bảo hiểm tài sản Club Corporation với triết lý :"hãy đối xử với khách
hàng theo cách mà bạn muốn được đối xử trong trường hợp bạn gặp tổn thất".
Các công ty bảo hiểm quốc tế đã tổng kết, khái quát hoá vai trò của bồi
thường và chi trả tiền bảo hiểm như sau: "Nếu giải quyết bồi thường hoặc chi
trả nhanh chóng và chính xác, khách hàng cũng sẽ nhanh chóng khắc phục
được những tổn thất về mặt tài chính để từ đó ổn định cuộc sống, ổn định sản
xuất kinh doanh và nâng cao niềm tin đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Từ đó,
giúp doanh nghiệp bảo hiểm giữ được khách hàng truyền thống và mở ra triển
vọng khai thác được những khách hàng tiềm năng trong tương lai" (Jêrôme
Yeafman - Trường quốc gia bảo hiểm Paris).
Nhìn chung, giải quyết bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm trong bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt được tiến hành theo trình tự như sau:
3.1. Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem xét
hồ sơ có đầy đủ, hợp lệ hay không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo
hiểm nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và hẹn
ngày trả lời khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét, đối chiếu với Quy
tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt và các văn bằng hướng dẫn của
doanh nghiệp bảo hiểm để xác định trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể, khiếu nại có
nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm hay không? Có điểm loại trừ nào tác
động và ảnh hưởng đến khiếu nại đó không? Có điều kiện bảo hiểm nào bị vi
PHƯƠNG THỊ THU THUỶ - LỚP A9 - K38C
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
55
CHƯƠNG II
phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại
không?
3.2. Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại thực tế xảy
ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm gánh vác một phần rủi ro xảy đến với
người được bảo hiểm, đảm bảo tính ổn định trong sản xuất kinh doanh cho họ.
Vì thế, xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo việc bồi thường đã thực sự
đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm. Việc xác định chính xác giá trị thiệt
hại được tiến hành trên nguyên tắc: phải x
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 104_3233.pdf