Đề tài Khái niệm và tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại

Tài liệu Đề tài Khái niệm và tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại: lời nói đầu ở Việt Nam, thực hiện chủ trương đổi mới đã, đang và sẽ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế năng động, nhiều loại hình doanh nghiệp sản xuất và thương mại khác nhau, thuộc hình thức sở hữu hoặc đan xen. Hình thức quan hệ kinh tế chủ yếu và ngày càng trở nên phổ biến giữa các doanh nghiệp cũng như trong một doanh nghiệp là quan hệ liên kết kinh tế sản xuất và thương mại. Đến lượt mình, nó làm xuất hiện những loại hình doanh nghiệp và quan hệ kinh tế phức tạp hơn, nhưng hiệu quả hơn, góp phần nhất định vào việc đưa đất nước từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng trì trệ, giữ vững sự ổn định và phát triển. Do sự hạn chế của hiểu biết và phù hợp với quy mô bài tiểu luận, bài viết với mục đích kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các quan hệ liên kết giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường. Bố cục của bài viết bao gồm: - Phần I - Khái niệm và tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. - Phần II - Thự...

doc20 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Khái niệm và tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu ở Việt Nam, thực hiện chủ trương đổi mới đã, đang và sẽ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế năng động, nhiều loại hình doanh nghiệp sản xuất và thương mại khác nhau, thuộc hình thức sở hữu hoặc đan xen. Hình thức quan hệ kinh tế chủ yếu và ngày càng trở nên phổ biến giữa các doanh nghiệp cũng như trong một doanh nghiệp là quan hệ liên kết kinh tế sản xuất và thương mại. Đến lượt mình, nó làm xuất hiện những loại hình doanh nghiệp và quan hệ kinh tế phức tạp hơn, nhưng hiệu quả hơn, góp phần nhất định vào việc đưa đất nước từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng trì trệ, giữ vững sự ổn định và phát triển. Do sự hạn chế của hiểu biết và phù hợp với quy mô bài tiểu luận, bài viết với mục đích kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các quan hệ liên kết giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường. Bố cục của bài viết bao gồm: - Phần I - Khái niệm và tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. - Phần II - Thực trạng liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. - Phần III - Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. Và danh mục tài liệu tham khảo. Phần I Khái niệm và tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. 1-/ Khái niệm: Liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại được hiểu một cách khái quát nhất là hoạt động phối hợp trong hoạt động kinh tế giữa các chủ thể sản xuất và thương mại với nhau để thực hiện những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho các bên tham gia. Như vậy liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại là những hình thức phối hợp hoạt động, do các doanh nghiệp sản xuất và thương mại tự nguyện tiến hành để cùng nhau bàn bạc, thoả thuận đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở các bên cùng có lợi nhiều hơn so với độc lập kinh doanh. Khi doanh nghiệp sản xuất tìm đến doanh nghiệp thương mại để tìm đầu vào hay chỗ đứng cho đầu ra của mình. Doanh nghiệp thương mại chủ động tìm đầu vào của mình hoặc nhằm tiêu thụ hàng hoá hoặc các bên có chung nguyện vọng đến với nhau để đạt kết quả cao trong sản xuất kinh doanh. Lúc đó mối quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại phát sinh. Nó đạt đến trình độ gắn bó chặt chẽ, ổn định, thường xuyên, lâu dài thông qua những thoả thuận hợp đồng từ trước giữa các bên tham gia liên kết. Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại khi tham gia liên kết đều phải xác định rõ ràng quyền lợi cũng như trách nhiệm thông qua những “giao kèo”, “thoả thuận”, “hợp đồng”, “hiệp định”, “điều lệ” nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế khác nhau với hiệu quả cao nhất. Tạo cho mình một thế và lực phát triển mạnh mẽ trên các thị trường. 2-/ Tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. a) Bản chất. Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp sản xuất và thương mại thực chất là quá trình xích lại gần nhau và ngày càng cố kết, đi đến thống nhất trên tinh thần tự nguyện của các bên tham gia liên kết. Quá trình này vận động phát triển qua những nấc thang quan hệ hợp tác, liên doanh đến liên hợp, liên minh, hợp nhất lại giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại. Như vậy liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại tức xác định quyền lợi, trách nhiệm nghĩa vụ của các bên đối với nhau, giữa các doanh nghiệp sản xuất với thương mại thông qua các hợp đồng liên kết được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. +Liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại với nhiều hình thức cụ thể luôn vận động và phát triển. Nó phản ánh các mối quan hệ về hợp tác, liên doanh, liên hợp. Khi quá trình liên kết các doanh nghiệp sản xuất và thương mại đạt tới việc sát nhập hình thành nên một tổ chức, doanh nghiệp mới lớn hơn, đó là biểu hiện của tập trung sản xuất. Sự phát triển của liên kết kinh tế làm mức độ tập trung hoá ngày càng cao làm cho khu vực sản xuất và thương mại ngày càng xích lại gần nhau hơn, gắn bó và cố kết với nhau hơn. Ngày nay chúng ta không thể tìm thấy trên thế giới, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển một hãng nào đó chỉ đơn thuần sản xuất hoặc thương mại. Cơ cấu của doanh nghiệp sản xuất không chỉ bao gồm các xưởng sản xuất như trước đây mà còn bao gồm một số trung tâm, cửa hàng giới thiệu bán sản phẩm. Ngoài ra công ty còn tiến hành liên kết với các cửa hàng, cửa hiệu, doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ hình thành nên đại lý rộng khắp nước và thị trường quốc tế. Liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại đạt đến trình độ cao hơn chính là sự chuyển hoá của các tổ chức, tập đoàn kinh tế lớn theo hướng liên kết các doanh nghiệp sản xuất và thương mại, dịch vụ vào trong một tập đoàn và sự hình thành các tổ chức liên minh giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại như “Hội sản xuất và tiêu thụ chè Hà Tuyên” thành lập năm 4/1992... Do phân công lao động xã hội, điều đầu tiên dẫn đến liên kết giữa sản xuất và thương mại. Như đã phân tích ở trên, xuất phát từ yêu cầu công việc, mục đích của các bên trong sản xuất kinh doanh mà các bên liên kết với nhau. Vấn đề mấu chốt ở đây là lợi ích của các bên đạt được nhiều hơn khi tham gia liên kết, phối hợp hoạt động để phát triển. Không phải ngẫu nhiên hay do sự ép buộc, ý muốn chủ quan mà liên kết với nhau. Động cơ và mục đích của việc liên kết giữa sản xuất và thương mại là nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định, tăng cường sức cạnh tranh của mình trên thị trường ngày càng mở rộng, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro cũng như sự cạnh tranh của các đối thủ khác. Lợi ích kinh tế là sợi dây, chất keo gắn bó các doanh nghiệp sản xuất và thương mại với nhau. Cạnh tranh là nhân tố khách quan thúc đẩy các doanh nghiệp “tự nguyện, bắt buộc “liên kết lại với nhau để tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khắc nghiệt. Cạnh tranh trong nước, cạnh tranh khu vực và trên toàn cầu. Như vậy, liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại thực chất là sự phối hợp hoạt động của các tổ chức kinh tế để tìm đầu vào hay đầu ra cho sản phẩm của mình. Nó có thể diễn ra trong phạm vi không gian hẹp như liên kết kinh tế giữa các bên trong khu công nghiệp, một địa phương vùng kinh tế. Nhưng cũng có có thể diễn ra ở phạm vi không gian rộng trên toàn quốc, giữa các quốc gia khác nhau. Hoạt động liên kết giữa các bên có thể thực hiện trong thời gian ngắn là kết thúc, đây là hình thức liên kết theo từng vụ việc cụ thể, không có ràng buộc lâu dài về pháp lý. Tuy nhiên để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả bền vững, luôn phát triển đáp ứng được nhu cầu của thị trường, mở rộng thị trường, tăng thị phần thị trường, nâng sức cạnh tranh thì các doanh nghiệp sản xuất và thương mại phải liên kết, phối hợp với nhau thường xuyên, liên tục nhiều năm. Liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại là một quá trình vận động phát triển tự nhiên, tuỳ thuộc trình độ, phạm vi của phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh, tuỳ thuộc vào quá trình vận động phát triển của các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại, lợi ích các bên tham gia liên kết, và môi trường cạnh tranh. Nó còn tuỳ thuộc vào mối quan hệ nội tại giữa các doanh nghiệp, cũng như giữa các bộ phận, các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, phụ thuộc vào sự thử thách của quá trình quan hệ, vào trình độ quản lý. Không thể áp đặt về phương diện tổ chức từ bên ngoài hoặc từ bên trên bất kỳ một hình thức liên kết kinh tế theo ý muốn chủ quan. Nếu không dựa trên tinh thần tự nguyện và lợi ích của các bên thì đó không phải là hoạt động liên kết. Việt Nam trong những năm trước đây, các doanh nghiệp sản xuất và thương mại hoạt động đều theo chỉ tiêu pháp lệnh, các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, làm ăn thua lỗ đi đến phá sản và giải thể rất nhiều. Thực tiễn đã xác nhận tinh thần tự nguyện và lợi ích các bên liên kết là cơ sở để phối hợp hoạt động. b, Liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại là một tất yếu khách quan và có quá trình phát triển lâu dài. Liên kết kinh tế nói chung, liên kết giữa sản xuất và thương mại nói riêng là một hiện tượng khách quan, dù chúng ta biết hay không biết đến sự tồn tại của các liên hệ liên kết kinh tế thì các quan hệ đó vẫn ngày càng được mở rộng và phong phú hơn. Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất, các quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại ngày càng được tăng cường. Vào cuối thế kỷ 19, các hình thức liên kết kinh tế theo chiều ngang như Cacten, Xanh đi ca, Tờ rớt chiếm ưu thế. Các doanh nghiệp tham gia vào Cacten vẫn hoàn toàn độc lập trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, họ thoả thuận với nhau về giá cả, thị trường tiêu thụ và khối lượng sản xuất ra. Trong Xanh đi ca thì sản xuất là hoạt động độc lập của các doanh nghiệp, còn tiêu thụ do một ban quản trị của tổ chức đảm nhiệm. So với Cac ten, nó là hình thức liên kết cao hơn. Tờ rớt là hình thức liên kết cao nhất vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nó liên kết toàn bộ các hoạt động sản xuất, tiêu thụ và tài chính của các doanh nghiệp thành viên. Cuối những năm 20 thế kỷ 20, ở Mỹ và một số nước Tư bản khác thì liên kết kinh tế theo chiều dọc chiếm ưu thế. Những liên minh kinh tế giữa sản xuất và tiêu thụ của một loạt ngành khác nhau, kế tiếp nhau vào một tổ chức kinh tế lớn, vào một công ty cổ phần. Nó thống nhất từ khâu khai thác, chế biến sản xuất thành phẩm và tổ chức tiêu thụ được tập trung vào một công ty cổ phần. Vào giữa thế kỷ 20, xu hướng liên kết kinh tế phát triển mạnh mẽ. Hàng ngàn công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia như SONY, HONDA, TOYOTA... đang nắm quyền kiểm soát đại bộ phận sản xuất công nghiệp và thương mại thế giới. Quá trình sản xuất, xã hội là một quá trình thống nhất nhưng do sự phân công lao động xã hội mà quá trình đó bị chia cắt thành những bộ phận tách rời, vì thế để đảm bảo tính thống nhất cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh cần có sự kết hợp trở lại các bộ phận đó. Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại cần đến nhau. Ban đầu do muốn chủ động các nguồn hàng phục vụ cho việc kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thương mại thường tiến hành các hoạt động liên kết lâu dài với các doanh nghiệp sản xuất. Các doanh nghiệp thương mại giữ vai trò chủ động trong quá trình tiến tới liên kết. Các doanh nghiệp thương mại có thể đầu tư ứng trước vốn (trong đó bao gồm cả vật tư, thiết bị, phụ tùng...) cho các doanh nghiệp sản xuất. Sau đó tiến hành mua lại sản phẩm theo giá thoả thuận để tiêu thụ trên thị trường. Đồng thời mỗi doanh nghiệp sản xuất và thương mại đều là tế bào của nền kinh tế, hoạt động và phát triển dưới sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó có quy luật tích tụ và tập trung hoá. Các doanh nghiệp sản xuất liên kết với các doanh nghiệp thương mại để tích tụ và tập trung hoá. Các doanh nghiệp sản xuất liên kết với các doanh nghiệp thương mại để tích luỹ vốn, tăng khả năng sản xuất mua nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ đàu ra. Nâng cao trình độ xã hội hoá của nền sản xuất là xu thế khách quan hợp quy luật. Quy luật phổ biến từng diễn ra trong lịch sử là: Thông thường buổi ban đầu khi bước vào kinh doanh với một số vốn ít ỏi, họ thường nhảy vào lưu thông mà chủ yếu là buôn bán nhỏ. Vì lĩnh vực này chỉ cần ít vốn, vòng quay đồng vốn nhanh, nếu giỏi có thể tăng nhanh vòng quay và hiệu quả đồng vốn cho nên đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước trước hết nhảy vào đó. Sau một thời gian kinh doanh bán lẻ, quy mô nhỏ phát đạt, tích luỹ được nhiều vốn, anh ta bắt đầu tiến sang lĩnh vực với quy mô lớn hơn hoặc vừa sản xuất và kinh doanh thương mại. Như vậy các doanh nghiệp thương mại phình ra, mở rộng quy mô, phạm vi kinh doanh bằng việc thành lập, thu hút sát nhập một số doanh nghiệp sản xuất. Các doanh nghiệp thương mại từ chỗ vươn lên nắm lấy khâu sản xuất bằng các hình thức hợp tác đầu tư ứng trước vốn, bao tiêu sản phẩm, tiến lên liên doanh và liên hợp, hợp nhất các doanh nghiệp, các khâu sản xuất vào trong nó. Cũng do tác động của quy luật tích tụ, tập trung hoá sự chuyển hoá các tổ chức, tập đoàn kinh tế lớn theo hướng liên kết các doanh nghiệp sản xuất với thương mại, dịch vụ vào trong một tập đoàn theo hướng đa dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh và các hình thức sở hữu tập đoàn, cùng nhau góp vốn. Những hoạt động chung của tập đoàn chủ yếu thông qua lĩnh vực tài chính, đầu tư, nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, vật tư, nguyên liệu và đặc biệt là tiến hành tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Do tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật tối đa hoá lợi nhuận. Cạnh tranh để giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quy luật vốn có của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Liên kết để cạnh trnah trong nước cũng như quốc tế. Sự hợp tác, liên kết giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ trong nước thông qua các hiệp hội và các hình thức khác sẽ tạo thành một khối thống nhất khi tiến hành đàm phán với đối tác, bạn hàng nước ngoài. Do đó, không bị khách hàng nước ngoài ép giá, dìm giá xuất khẩu và nâng giá nhập khẩu. Mặt khác việc liên kết sẽ đảm bảo có được nguồn hàng ổn định, chắc chắn, tránh được sự biến động của thị trường. Đồng thời hạn chế tình trạng thiếu, thừa vật tư, ứ đọng vốn. Ngày nay trong cơ chế thị trường, không một doanh nghiệp sản xuất hay thương mại nào có thể độc lập kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay độc lập đồng nghĩa với không có khả năng cạnh tranh và phá sản là điều tất yếu. Nhận thức rõ ràng vấn đề này càng thúc đẩy sự xích lại gần nhau hơn giữa sản xuất và thương mại và kết quả là sự hình thành các tổ chức liên minh kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại nhằm xúc tiến phát triển và điều hoà các mối quan hệ liên kết, tạo ra sự gắn bó mật thiết giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ, nhằm hạn chế những cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp sản xuất và thương mại. Bản thân các doanh nghiệp đều mong muốn đạt được lợi ích tối đa trong phạm vi khả năng vốn có, mà mong muốn đó có thể đạt được bằng liên kết kinh tế bởi vì thông qua liên kết cho phép doanh nghiệp bù đắp những mặt còn yếu kém của mình nhờ kết hợp mặt mạnh của các doanh nghiệp khác. Ngoài ra, trong những thập kỷ gần đây, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ có bước phát triển mới sâu rộng chưa từng có, trực tiếp tác động vào mọi ngành kinh tế quốc dân. Yêu cầu về vốn lớn đã kéo các doanh nghiệp sản xuất và thương mại lại với nhau để đủ năng lực sản xuất ra sản phẩm mới, tiêu thụ nhanh. Thực tế nhiều ngành nghề sản xuất không đủ vốn vì yêu cầu quá lớn và việc liên kết lại với nhau là điều dễ hiểu. Nói tóm lại, sự kết hợp nói trên của các doanh nghiệp sản xuất với thương mại có thể thực hiện bằng nhiều cách nhưng thông qua liên kết kinh tế mang tính chặt chẽ cao hơn. Chính vì những lý do nêu trên mà liên kết kinh tế giữa sản xuất với thương mại đã có quá trình phát triển lâu dài và phạm vi ứng dụng ngày càng mở rộng. Phần II Thực trạng liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. 1-/ Vài nét về quá trình phát triển các quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại ở nước ta. Giai đoạn trước năm 1980, quan hệ giữa công nghiệp (kể cả thủ công nghiệp) và thương nghiệp thời kỳ này có đặc điểm nổi bật là hình thức gia công thương nghiệp mang tính phổ biến. Các xí nghiệp công nghiệp chủ yếu sản xuất hàng gia công trên cơ sở định mức tiêu hao nguyên vật liệu, tiền công do các cửa hàng, công ty thương nghiệp định ra và giao cho theo từng tháng, từng quý và theo lô sản phẩm. Thực chất của mối quan hệ này là sự phụ thuộc một chiều của các doanh nghiệp sản xuất vào các doanh nghiệp thương mại. Hình thức này đã tồn tại lâu dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Nó được thể hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh và tiến hành tiêu thụ mà thực chất là giao nộp sản phẩm cho các công ty thương mại định trước của kế hoạch Nhà nước. Trong mối quan hệ đó lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất bị xâm phạm đáng kể. Quan hệ liên kết kinh tế mang tính chất gò bó, cường ép từ trên xuống. Cơ chế quản lý kiểu đó là dẫn đến thủ tiêu tính chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đến với nhau không phải dựa trên tinh thần tự nguyện, lợi ích của hai bên mà hoàn toàn phụ thuộc vào kế hoạch Nhà nước. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì sản xuất cái gì, bao nhiêu, như thế nào không dựa vào yêu cầu của thị trường mà do kế hoạch từ trên giao xuống. Doanh nghiệp chỉ quan tâm đến việc sản xuất còn tiêu thụ do các doanh nghiệp, công ty thương mại đảm nhận. Và kết quả là đã triệt tiêu hoàn toàn sự cạnh tranh lành mạnh, là điều kiện sống còn của bất kỳ nền kinh tế nào, thủ tiêu cạnh tranh tức đồng nghĩa với thủ tiêu sự phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại hoàn toàn bị động, lợi ích không được đảm bảo. Từ đó các doanh nghiệp sản xuất không quan tâm tới việc cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Sản xuất đình đốn, làm ăn thua lỗ, kinh tế suy sụp không có tích luỹ, sản xuất không đủ tiêu dùng. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng. Giai đoạn từ cuối những năm 1980 trở đi, nhìn chung cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta từ hoạt động vận vành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cùng với việc xác lập, mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, kiện toàn tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, kinh doanh theo cơ chế thị trường “lời ăn lỗ chịu” đã làm cho hoạt động liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại ngày càng được mở rộng. Sự mau bán, trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại trở nên thường xuyên, liên tục, có hợp đồng kế hoạch định trước va ổn định bạn hàng trong một thời gian tương đối dài. Rõ ràng vào thời điểm này quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất với thương mại đã có chuyển biến về chất, nâng tầm quan hệ lên một trình độ cao hơn, thường xuyên, ổn định và cố kết hơn, có sự hợp tác lâu dài và bền vững hơn. Cùng với việc đổi mới và giải thể các liên hiệp trước đây làm nhiệm vụ quản lý ngành không hiệu quả, các hiệp hội những nhà sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm, ngành hàng cũng đang được thành lập. Hiệp hội là một hình thức liên kết kinh tế, là một tổ chức liên minh kinh tế giữa những nhà sản xuất và tiêu thụ nhằm giúp nhau giải quyết những khó khăn về vốn, vật tư, thiết bị côngnghệ, kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm. Đặc biện, nó là một tổ chức liên minh kinh tế nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhà sản xuất và kinh doanh trong nước, chống lại sự cạnh tranh và tiến hành cạnh tranh tập thể với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường trong và ngoài nước. 2-/ Thực trạng liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại hiện nay. Thành tựu của những năm đổi mới đánh giá chính xác nhất bước đi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Ngược lại trong thời kỳ bao cấp, giờ đây các doanh nghiệp sản xuất cũng như thương mại được trao quyền độc lập, tự chủ trong việc liên doanh, liên kết theo tinh thần tự nguyện của các bên. Các doanh nghiệp đi từ làm ăn thua lỗ, kinh doanh hiệu quả thấp đến ổn định và có lãi. Việc hạch toán kinh tế độc lập đã tạo cho doanh nghiệp quyền chủ động, sáng tạo, bắt kịp với sự biến động của thị trường, tạo thế cân bằng cho các doanh nghiệp sản xuất với các doanh nghiệp thương mại. Không như trước đây các doanh nghiệp sản xuất luôn phải chịu thiệt khi liên kết với các doanh nghiệp thương mại. Việc có quyền lựa chọn đối tác liên kết theo sự thoả thuận của các bên, không có sự can thiệp của Nhà nước đã thúc đẩy mạnh mẽ sự liên kết giữa sản xuất với thương mại. Việc có quyền lựa chọn đối tác liên kết giữa sản xuất với thương mại. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất với các doanh nghiệp thương mại hoàn toàn độc lập thông qua nhiều hình thức, tên gọi phong phú như hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu, đầu tư ứng trước vốn, nhận bao tiêu sản phẩm lâu dài, gia công và cả liên doanh... Sự liên kết này góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng sản xuất kinh doanh của từng đơn vị nói riêng, của cả ngành nói chung. Đầu những năm 1990, khi còn đan xen, giằng co những mảng sáng tối của hai cơ chế cũ và mới thì cũng có lúc ngành than đang đứng trên bờ vực thẳm. Quy mô khai thác manh mún, phân tán, năng suất chất lượng thấp, lại tranh giành tiêu thụ, kinh doanh vờ tổ chức ở thị trường nội địa và thị trường nước ngoài nên luôn bị ép cấp, ép giá. Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp dẫn đến ngành than không nuôi sống được chính mình. Hàng chục ngàn thợ mỏ thiếu việc làm, nhiều ngàn tỷ đồng vật tư thiết bị máy móc bị đắp đốc. Chỉ một chút xíu nữa ngành công nghiệp lâu đời này sẽ rơi vào lãng quên thảm hại. Từ một thực tế không lấy gì sáng sủa, ngành than đã bứt lên bằng cách nào?. Trước tiên Tổng Công ty sắp xếp lại tổ chức. Hậu quả của thời tập trung quan liêu bao cấp đã để lại một cơ cấu tổ chức hoàn toàn bất hợp lý. Mỗi mở than là một “vương quốc” riêng, bộ máy điều hành cồng kềnh, vừa chặt lại vừa lỏng. Tổng công ty đã tổ chức lại trong 50 đơn vị thành viên trong đó 30 đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh, đối mặt với thị trường. Nhằm kiểm soát thị trường, đưa hòn than về đúng giá trị đích thực của nó, hạn chế trình trạng ba bốn mỏ cùng tìm đến một khách hàng, hạ giá để tranh bán, gây rối loạn thị trường, đồng thời tạo nên lá chắn hữu hiệu ngăn chặn kinh doanh than có nguồn gốc trái phép, việc thống nhất kinh doanh than của Tổng công ty là một quyết sách đúng đắn. Không chỉ nắm đầu mối tiêu thụ, Tổng công ty còn thống nhất giá bán chưa thị trường, từ đó quy định giá đối với từng mỏ trên cơ sở sản lượng, chất lượng thực tế và quy mô vay vốn đầu tư. Cải tiến phương thức tiêu thụ, Tổng công ty tổ chức tiêu thụ bằng cách đưa than đến tận nơi tiêu dùng, trong đó có các trọng điểm tiêu thụ như ngành điện, phân bón, xi măng, giấy... Và kết quả là năm 1997, Tổng công ty khai thác được 10,5 triệu tấn, xuất khẩu 3,7 triệu tấn, đạt doanh thu 4000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 1996. Từ ví dụ trên ta thấy vai trò đầu mối liên kết của các công ty xuất nhập khẩu trong từng ngành, cũng như thấy rõ vai trò to lớn của việc liên kết sản xuất và tiêu thụ, gắn bó các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu, nâng cao sự phát triển và hiệu quả kinh tế của từng ngành, đồng thời hạn chế sự cạnh tranh trong nội bộ không cần thiết ở thị trường nước ngoài. Như vậy trong cơ chế thị trường, liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại đã phát huy được sở trường của nó, có tác dụng thiết thực đối với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đối với sự ổn định và phát triển của các ngành, lĩnh vực của cả nền kinh tế quốc dân. Chỉ trong cơ chế thị trường liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại mới được hiểu theo đúng nghĩa của liên kết. Sự gắn bó giữa sản xuất và lưu thông ngày càng chặt chẽ. Liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại xoá đi hiện tượng tranh mua, tranh bán làm giá tăng không đáng có trên thị trường, cơn sốt về giá cả và dìm giá trên thị trường ngoài nước. Sản xuất ngày càng đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Trong cơ chế bao cấp việc tìm đầu vào như nguyên vật liệu và giải quyết đầu ra là một vấn đề nan giải. Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại trì trệ vì không giải quyết tốt hai khâu này. Cơ chế thị trường thì vấn đề này không được đặt ra vì bất cứ hình thức liên kết nào cũng đều có chung kết quả là có sự ổn định “đầu vào” và khai thông được đầu ra một cách nhanh chóng. Từ đó góp phần làm cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ổn định, phát triển và hiệu quả ngày càng tăng. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ khác nhau cùng ngành hoặc khác ngành đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế, trong đó giữ vững được vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Từ mô hình của tổng công ty than ta thấy rằng sự liên kết giữa sản xuất và thương mại nằm trong một tổ chức là hình thức đảm bảo giải quyết thoả đáng, không mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các thành viên. Tuy đạt được nhiều thành tựu trong những năm đầu đổi mới nhưng trên thực tế còn có nhiều vấn đề tồn đọng cần giải quyết. Vẫn còn không ít doanh nghiệp Nhà nước chưa chuyển biến kịp tình hình, không nhận thức được xu thế khách quan, chưa tạo ra được thế mạnh để liên kết với nhau, cho nên sản xuất bị đình đón, cầm chừng, sản phẩm khó tiêu thụ. Hàng loạt công ty, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ đi đến giải thể và phá sản. Đổi mới cơ chế phải đổi mới về tư duy. Đây là một vấn đề nan giải nhất. Chúng ta đã có 15 năm cơ chế thị trường nhưng dường như nó còn quá ít ỏi đối với nhiều nhà quản lý chưa thể quen và bắt kịp lối tư duy và cách làm ăn trong thị trường với đúng nghĩa của nó. Phải nói rằng chính lối tư duy kiểu cũ thời bao cấp hoàn toàn không thể phù hợp và vận dụng trong cơ chế mới. Sự liên kết giữa các khâu, các lĩnh vực sản xuất thương mại trong một tổ chức đang vấp phải những khó khăn về hình thức tổ chức chưa rõ ràng, bộ máy điều hành và phương tiện để điều hành còn quá thấp và lạc hậu. Nó đã hạn chế rất nhiều đến việc hình thành và tác dụng của các tổ chức liên kết kinh tế trong điều kiện của cơ chế thị trường. Sự liên kết giữa sản xuất và thương mại nằm trong một tổ chức thì vấn đề lợi ích giữa các thành viên được xác định rõ ràng và hợp lý. Nhưng đối với hình thức liên kết của các doanh nghiệp độc lập nổi lên vấn đề hết sức quan trọng là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế khá lớn, trong đó các doanh nghiệp thương mại được hưởng phần lợi nhiều hơn so với các doanh nghiệp sản xuất, do chủ động tạo ra mối liên kết, nắm thị trường... Hơn thế nữa, ở hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ thì tính chất bình đẳng giữa các thành viên là không có, các doanh nghiệp nhỏ bị phụ thuộc và vì vậy cũng bị xâm phạm về mặt lợi ích. Lý do cơ bản bản nhất là các doanh nghiệp nhỏ cảm thấy không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp lớn, muốn tồn tại thì phải liên kết. Trong quá trình ký kết hợp đồng liên kết việc chịu thiệt là điều hiển nhiên. Từ thực trạng trên, việc đề ra những giải pháp để thúc đẩy mạnh mẽ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại là rất cần thiết, là yêu cầu trước mắt và lâu dài. Phần III Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. 1 -/ Xây dựng cơ chế giải quyết thoả đáng lợi ích kinh tế. Như đã phân tích ở trên, các doanh nghiệp sản xuất cũng như thương mại khi tiến hành liên kết đều phải xem xét cái lợi mà họ nhận được so với hoạt động độc lập và lợi ích của các bên liên kết với nhau. Cùng góp vốn, góp sức trên tinh thần tự nguyện thì kết quả thu được phải tương xứng với cái bỏ ra. Ngược lại họ không thể tiến hành liên kết khi lợi ích của mình bị xâm phạm vì vậy xây dựng cơ chế giải quyết thoả đáng lợi ích giữa các bên tham gia liên kết. Để có một phương án giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải đi vào nhiều chi tiết cụ thể, từ việc tính toán các loại định mức kinh tế kỹ thuật cho đến việc tính toán sự đóng góp cụ thể của các bên tham gia, từ đó mới có cơ sở để phân chia lợi nhuận, quyền hạn và nghĩa vụ của các bên một cách chính xác nhất. Ai cũng hài lòng với cái mình thu được so với cái bỏ ra. Đây là một vấn đề quan trọng nhất thúc đẩy liên kết giữa sản xuất và thương mại hơn bao giờ hết. Như vậy các bên tham gia liên kết phải thật sự bình đẳng, có tư cách pháp nhân như nhau. Các đơn vị tham gia liên kết phải trên tinh thần hợp tác thật sự, tôn trọng lợi ích của nhau, không bên nào có ý định xâm phạm lợi ích của bên kia. Những mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại không phát triển tiến tới hợp tác, liên kết làm ăn với nhau lâu dài được, chính là do các doanh nghiệp thương mại, nhất là những doanh nghiệp được Nhà nước cho phép độc quyền xuất - nhập khẩu, thường hay ép cấp, ép giá người sản xuất. Tuy nhiên, hiểu giải quyết một cách hài hoà phải trên cơ sở tuân theo nguyên tắc “phần thu được phải tương xứng với cái bỏ ra, những doanh nghiệp năng động hơn sẽ thu được phần lợi nhiều hơn”. Nghĩa là trong đó chứa đựng yếu tố cạnh tranh. Chính vì vậy việc giải quyết hài hoà lợi ích phải có sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành viên liên kết. Chính điều này góp phần thúc đẩy sự liên kết sản xuất với thương mại hơn nữa. 2 -/ Mở rộng các doanh nghiệp tư nhân. Có thể nói rằng thương nghiệp tư nhân chiếm một vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì khi mà giao lưu kinh tế không bị ràng buộc và hạn chế thì nó có thể đi đến tận hang cùng ngõ hẻm để mở rộng phạm vi ảnh hưởng, thị trường bán và mua của nó, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển khắp mọi nơi. Thêm vào đó chúng ta thấy rằng, phần lớn các cửa hàng đại lý, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp sản xuất ở khắp mọi miền đất nước không ai khác chính là thương nghiệp tư nhân. Các hãng lớn như SONY, DAEWOO, TOYOTA, HONDA... đều có các cửa hàng đại lý do tư nhân đảm nhận. Cho nên phát triển mạnh kinh tế tư nhân, đặc biệt là thương nghiệp tư nhân là một biện pháp thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ liên kết sản xuất với thương mại, gắn bó hơn nữa lĩnh vực sản xuất với lĩnh vực thương mại, phát triển mạnh kinh tế hàng hoá ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, làm cho nền kinh tế quốc dân năng động hơn. Để có kết quả như vậy Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, ưu đãi về thuế cũng như vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt đối với các doanh nghiệp thương mại. 3 -/ Tăng cường quyền tự chủ cho các doanh nghiệp. Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp được hình thành dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện này được thực hiện thuận lợi, có hiệu quả chỉ khi các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước được hoàn toàn tự chủ trong hoạt động kinh tế, được hoàn toàn tự quyết định cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình. Chỉ khi đó họ mới có thể tự do tìm bạn hàng, đối tác hợp tác, liên doanh làm ăn lâu dài với nhau. Cho nên việc duy trì đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và thương mại là cần thiết. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp cũng là một điều kiện không thể thiếu để thúc đẩy liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. Một khi mà các doanh nghiệp được toàn quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Từ phương hướng chiến lược mặt hàng, công nghệ đến thị trường, bạn hàng, đối tác liên doanh liên kết, kể các tính toán đối thủ và phương thức, chiến lược cạnh tranh ... đến con đường phát triển và tồn tại của doanh nghiệp thì vai trò của đội ngũ quản lý, đặc biệt là giám đốc đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường và lẽ dĩ nhiên có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển các mối quan hệ liên kết kinh tế. Chính giám đốc chứ không ai khác đặt bút ký hợp đồng liên kết. Hoặc có thể rút khỏi liên kết. Việt Nam chúng ta hiện nay thừa nhận rằng quản lý chính là khâu yếu kém nhất. Nó dẫn doanh nghiệp tới thành công hay thất bại là tuỳ thuộc vào trình độ của đội ngũ quản lý. Đứng trước thực tế như vậy thì vấn đề đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ quản lý và lựa chọn kỹ càng đội ngũ quản lý phải hết sức được quan tâm. 4 -/ Phát triển khoa học công nghệ, đẩy mạnh liên kết khoa với sản xuất và thương mại. Ngày nay khi khoa học - kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và ngày càng tiến bộ không ngừng thì một trong những điều kiện quan trọng của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại chính là sự liên kết giữa khoa học và công nghệ với sản xuất và thương mại. Mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn bao giờ hết, những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao mới đủ sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng luôn biến đổi và nâng cao không ngừng. Để đáp ứng được yêu cầu đó, không chỉ có khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật mới cần liên kết với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mà ngày nay khoa học xã hội, khoa học quản lý, khoa học kinh tế, khoa học pháp lý cũng cần phải liên kết chặt chẽ với sản xuất và kinh doanh. Tất cả các doanh nghiệp sản xuất và thương mại đều cần sự hợp tác chặt chẽ của các nhà khoa học tự nhiên, kỹ thuật và xã hội để tăng cường hàm lượng chất xám trong sản phẩm để có khả năng cạnh tranh. Hơn nữa, ngày nay khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng, biến đổi từng ngày, từng giờ. Hàng loạt phát minh ra đời được đưa ra áp dụng phục vụ sản xuất và đời sống con người. Vì vậy, việc thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ (thông qua các chính sách như đầu tư, đào tạo và sử dụng cán bộ, khuyến khích vật chất các công trình khoa học có giá trị thực tiễn, tập trung phát triển nghiên cứu ứng dụng... ) bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội. Đồng thời tạo mọi điều kiện đẩy mạnh liên kết chúng với các doanh nghiệp sản xuất, thương mại - dịch vụ. 5 -/ Định hướng phát triển kinh tế chiến lược các địa phương, vùng và ngành. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải căn cứ vào chiến lược phát triển của Nhà nước về từng ngành, từng vùng, địa phương cụ thể. Từ đó doanh nghiệp mới xây dựng chiến lược phát triển riêng của mình phù hợp với chiến lược của Nhà nước. Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại khi tiến hành liên kết với nhau đều có mục đích làm ăn lâu dài, cố gắng duy trì mối quan hệ trong các điều kiện có thể. Không dễ gì có thể tìm được một đối tác có thể thoả mãn được các yêu cầu của mình và mình có thể đáp ứng được nguyện vọng của họ vào liên kết mang lại. Thông thường sau nhiều lần quan hệ trao đổi với nhiều doanh nghiệp khác nhau. Họ nhận thấy rằng những cái được khi quan hệ với doanh nghiệp này. Sau nhiều lần thử thách, họ đã tìm thấy những bạn hàng mang lại lợi ích kinh tế thường xuyên cho nhau, nếu tiến hành quan hệ làm ăn lâu dài. Qua phân tích trên ta thấy rằng việc tiến hành liên kết sản xuất và TM phụ thuộc vào chiến lược sản xuất kinh doanh của các bên. Mà nó phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược phát triển ngành, vàng của Nhà nước. Vì vậy hoạch định chính sách phát triển kinh tế các ngành, các vùng, các địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi và định hướng cho sự liên kết giữa sản xuất với TM. 6./ Mở rộng và xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Hiệu quả và tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phụ thuộc đáng kể vào công tác tổ chức truyền htông. Thông tin và quảng cáo giúp các doanh nghiệp tìm kiếm, hiểu biết chính xác, kịp thời về bạn hàng và đối tác liên kết. Mặt khác hệ thống thông tin hiện đại cho phép các doanh nghiệp phối hợp nhịp nhàng hoạt động sản xuất kinh doanh, làm cho quá trình liên kết kinh tế ngày càng bền chặt và hoạt động có hiệu quả. Hiện nay về đương không chúng ta đã có nhiều tuyến bay tới nhiều nước trên thế giới. Về đường bộ đã xây dựng xong tuyến đường sắt nối liền Hà Nội với Bắc Kinh, đang xây dựng dở dang con đường Bắc á từ Sài Gòn thẳng đến PhnomPênh và các nước khác. Dự án về xây dựng đường Trường Sơn. Nhờ có điều kiện giao thông vận tải tốt và hệ thống thông tin hiện đại liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại không chỉ bó hẹp trong một vùng, một địa phương có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý. Việt Nam trong quá trình đổi mới tuy có nhiều thành tựu về kinh tế nhưng hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, đặc biệt là ở những vùng, địa phương nông thôn, miền núi có nhiều tiềm năng phát triển lại quá kém. Điều kiện đi lại và thông tin khó khăn cho nên thị trường ở nông thôn miền núi về cơ bản vẫn bị bỏ ngỏ, kém phát triển. Các ngành thương mại, dịch vụ chưa thâm nhập vào khu vực này được là bao. Như vậy, một hệ thống giao thông và thông tin hiện đại là điều kiện để gắn chặt hơn nữa sản xuất và thương mại trong và ngoài nước. 7./ Hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường thì môi trường kinh doanh là yếu tố đầu tiên được xem xét của các nhà đầu tư. Đặc biệt là với đầu tư nước ngoài. Khi môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ thu hút các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh. Và ngược lại khi môi trường kinh doanh không thuận lợi là rào cản đầu tiên đối với cá nhân đã đầu tư rồi thì tìm cách rút vốn, còn những người chưa đầu tư chắc chắn sẽ quay gót và tìm nơi khác. Môi trường đầu tư quan trọng vì nó có thể gợi lên một cách chắc chắn sinh lời của đồng vốn hoặc mang đầy tính rủi ro. Môi trường kinh doanh bao gồm hệ thống chính trị, pháp luật và hệ thống tài chính tín dụng, cơ sở vật chất hạ tầng,... Một hệ thống chính trị ổn định, một hệ thống pháp luật nghiêm minh, chính xác, đầy đủ và thông thoáng, một hệ thống tài chính tín dụng có khả năng đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước sẽ là mảnh đất màu mỡ đầy triển vọng của các nhà đầu tư nhìn vào. Các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn với một nền chính trị lâu dài. Họ không phải lo chính trị mất ổn định chẳng hạn như do biến động chính trị mà phải tạm ngừng sản xuất - kinh doanh. Đồng thời hệ thống pháp luật nghiêm minh là người bảo hộ tốt nhất cho lợi ích hợp pháp của họ. Sẽ hạn chế đi rất nhiều việc gian lận thương mại, lừa đảo, chiếm dụng vốn,... Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa hệ thống pháp luật sẽ bảo vệ họ như chính họ đang sản xuất kinh doanh tại đất nước của mình. Về chính trị, Việt Nam có một nền chính trị ổn định, lâu dài. Điều đó thực tế đã chứng minh. Tuy nhiên nhìn lại hệ thống pháp luật của ta thiếu nhất quán giữa các luật. Các văn bản luật ra đời chồng chéo nhau. Nhiều văn bản chưa kịp có hiệu lực thì đã có văn bản khác thay thế. Chính tình trạng này tạo nên tâm lý bất ổn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài. Thêm với việc quy định không chặt chẽ đã dẫn tới lợi dụng để lừa đảo, trốn thuế,... Về hệ thống tài chính, tín dụng thì việc thành lập thị trường chứng khoán là điều cần thiết. Nó ra đời mới đáp ứng được các nhu cầu của các doanh nghiệp. Hệ thống thanh toán quốc tế, nhanh chóng, thuận tiện, an toàn là điều phải có trong cơ chế thị trường. Thu hút đầu tư nước ngoài đồng thời với việc đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại trong và ngoài nước vì khi các doanh nghiệp sản xuất ở nước ngoài và Việt Nam phải liên kết với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam do lợi thế về am hiểu phong tục tập quán, thị hiếu, thói quen tiêu dùng. Đây là vấn đề hết sức dễ hiểu. Vì vậy để góp phần đẩy mạnh liên kết giữa sản xuất và thương mại thì vấn đề ổn định chính trị, xây dựng pháp luật nghiêm minh, chặt chẽ, hệ thống tài chính tín dụng phát triển cao,... là việc cần làm ngay. Kết luận Như vậy ta thấy rằng, vấn đề liên kết giữa sản xuất và thương mại ngày càng cần thiết và trở thành xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Khi nền kinh tế chuyển sang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, khi mà các doanh nghiệp được hoàn toàn tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, khi mà các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng được hoàn toàn độc lập tự chủ để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thì sự quan hệ gắn kết giữa các doanh nghiệp với nhau trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu thực sự của các doanh nghiệp. Không bị bất kỳ yếu tố bên ngoài nào chi phối nó đã thực sự làm cho sản xuất gắn bó chặt chẽ với tiêu thụ. Sản xuất những mục đích của người tiêu dùng. Được điều chỉnh bởi thị trường. Kết quả đạt được là làm cho sản xuất ngày càng phát triển và có hiệu quả. Vì vậy những giải pháp để thúc đẩy mạnh mẽ liên kết giữa sản xuất và thương mại là hết sức cần thiết. Cần có nhiều sự nghiên cứu, quan tâm để giải quyết. Danh mục tài liệu tham khảo. 1./ Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp. (Nhà xuất bản Giáo dục -1999). 2./ Liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. 3./ Tạp chí Thương Mại số 3, 4, 5, 6, 9, 10/1996. 2, 7, 12/1997 12/1999 4./ Tạp chí Công nghiệp 12/ 97. 12/ 1998. 12/1999. 5./ Tạp chí thông tin lý luận 12/ 1998. 12/ 1999

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74193.DOC