Tài liệu Đề tài Kết quả bước đầu phẫu thuật NUSS có nội soi hỗ trợ với đường vào từ ngực trái điều trị lõm ngực bẩm sinh tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức – Nguyễn Thế May: TCNCYH 117 (1) - 2019 119
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NUSS CÓ NỘI SOI HỖ TRỢ
VỚI ĐƯỜNG VÀO TỪ NGỰC TRÁI ĐIỀU TRỊ LÕM NGỰC
BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Nguyễn Thế May1, Đoàn Quốc Hưng2
1Bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp; 2Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ với đường vào từ ngực trái điều trị lõm ngực
bẩm sinh. Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 111 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh được phẫu thuật tại Khoa
Phẫu thuật Tim mạch và lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Kết quả cho thấy, tuổi trung bình là 15,65
± 3,25 (3 - 23 tuổi); tỉ lệ nam/ nữ: 6,4/1; lõm ngực trung bình 63,06%; lõm ngực nặng 36,04%; thời gian mổ
trung bình là 48 ± 18 phút; thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 4,93 ± 1,12 ngày; tỉ lệ biến chứng thấp,
không có biến chứng nặng. Phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ với đường vào từ ngực trái điều trị lõm ngực
bẩm sinh an toàn, hiệu quả, tỉ lệ thành công cao.
Từ khóa: Phẫu th...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 382 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kết quả bước đầu phẫu thuật NUSS có nội soi hỗ trợ với đường vào từ ngực trái điều trị lõm ngực bẩm sinh tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức – Nguyễn Thế May, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 117 (1) - 2019 119
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NUSS CÓ NỘI SOI HỖ TRỢ
VỚI ĐƯỜNG VÀO TỪ NGỰC TRÁI ĐIỀU TRỊ LÕM NGỰC
BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Nguyễn Thế May1, Đoàn Quốc Hưng2
1Bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp; 2Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ với đường vào từ ngực trái điều trị lõm ngực
bẩm sinh. Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 111 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh được phẫu thuật tại Khoa
Phẫu thuật Tim mạch và lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Kết quả cho thấy, tuổi trung bình là 15,65
± 3,25 (3 - 23 tuổi); tỉ lệ nam/ nữ: 6,4/1; lõm ngực trung bình 63,06%; lõm ngực nặng 36,04%; thời gian mổ
trung bình là 48 ± 18 phút; thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 4,93 ± 1,12 ngày; tỉ lệ biến chứng thấp,
không có biến chứng nặng. Phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ với đường vào từ ngực trái điều trị lõm ngực
bẩm sinh an toàn, hiệu quả, tỉ lệ thành công cao.
Từ khóa: Phẫu thuật Nuss; lõm ngực bẩm sinh; phẫu thuật nội soi lồng ngực
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lõm ngực bẩm sinh (Pectus Excavatum) là
một dị dạng bẩm sinh của thành ngực trước,
trong đó xương ức và một vài sụn sườn hai
bên xương ức phát triển bất thường làm cho
thành ngực trước lõm xuống. Đây là dị dạng
thành ngực phổ biến nhất, ước tính 1/1000
đến 1/400 trẻ sinh ra sống, chiếm khoảng 90%
trong số các dị dạng bẩm sinh của thành
ngực, tỉ lệ nam: nữ khoảng 4:1 [1].
Dị tật lõm ngực biểu hiện từ khi mới sinh.
Trẻ càng lớn, dị tật này biểu hiện càng rõ và
thường nặng nhất ở thời kỳ đầu của lứa tuổi
thanh niên. Rất hiếm khi dị tật lõm ngực tự
thoái triển. Lõm ngực nặng sẽ ảnh hưởng đến
chức năng hô hấp - tim mạch, đối với trẻ lớn
và người lớn thì lõm ngực ảnh hưởng nhiều
đến tâm lý, thẩm mỹ. Do đó, bệnh nhân cần
được can thiệp bằng phẫu thuật tạo hình lồng
ngực nhằm cải thiện về thể chất, tâm sinh lý,
thẩm mỹ [2].
Phẫu thuật Nuss được tác giả Donald
Nuss thực hiện lần đầu tiên vào năm 1986 để
sửa chữa lõm ngực bẩm sinh cho kết quả tốt,
thẩm mỹ, ít biến chứng, thời gian hồi phục
nhanh. Phẫu thuật Nuss kinh điển không sử
dụng nội soi, đường vào lồng ngực bắt đầu từ
thành ngực bên phải [3]. Hiện đã có nhiều cải
tiến đối với phẫu thuật này. Bệnh viện Hữu
nghị Việt Đức đã đi tiên phong ở Việt Nam
trong ứng dụng phẫu thuật Nuss có nội soi
lồng ngực hỗ trợ với nhiều cải tiến về kỹ thuật
nhằm đem lại kết quả điều trị tốt nhất cho
người bệnh. Nghiên cứu này được thực hiện
nhằm đánh giá kết quả sớm phẫu thuật Nuss
có nội soi hỗ trợ với đường vào từ ngực trái
điều trị lõm ngực bẩm sinh tại Bệnh viện Hữu
nghị Việt Đức.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm các bệnh nhân bị lõm ngực bẩm sinh
khám và điều trị tại Khoa Phẫu thuật Tim
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thế May, Bệnh viện Hữu nghị
Việt Tiệp
Email: nguyenthemay@gmail.com
Ngày nhận: 3/12/2018
Ngày được chấp thuận: 31/12/2018
120 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
mạch - Lồng ngực, Bệnh viện Việt Đức từ
tháng 2 tới tháng 8 năm 2018.
* Tiêu chuẩn lựa chọn
- Lõm ngực bẩm sinh có chỉ định phẫu
thuật (mức độ lõm trung bình, lõm nặng, chỉ
định về lý do thẩm mỹ), không phân biệt độ
tuổi, giới tính.
- Bệnh nhân được phẫu thuật theo phương
pháp Nuss có nội soi lồng ngực hỗ trợ với
đường vào từ ngực trái.
- Có hồ sơ bệnh án đảm bảo đầy đủ các
yêu cầu nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn loại trừ
- Phẫu thuật điều trị lõm ngực bẩm sinh
theo không theo phương pháp Nuss hoặc
theo phương pháp Nuss nhưng không có nội
soi hỗ trợ; phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ
nhưng đường vào từ ngực phải.
- Bệnh nhân hở xương ức, hội chứng Po-
land, ngực lồi, lõm ngực do chấn thương
- Hồ sơ bệnh án không đảm bảo các yêu
cầu nghiên cứu.
2. Phương pháp: tiến cứu mô tả.
2.1. Cỡ mẫu nghiên cứu
Sử dụng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện,
bệnh nhân được thu thập theo trình tự thời
gian trong năm 2018 (từ tháng 2 tới tháng 8).
2.2. Nội dung nghiên cứu
Sử dụng bệnh án nghiên cứu thống nhất
để thu thập số liệu: tuổi; giới; phân loại mức
độ lõm ngực; quy trình phẫu thuật; thời gian
phẫu thuật; thời gian nằm viện sau mổ biến
chứng; kết quả phẫu thuật
2.3. Phân độ lõm ngực
Đặt một thước thẳng ngang qua lồng ngực,
đo khoảng cách điểm lõm nhất đến thước (d).
Nếu d ≤ 1cm: lõm nhẹ; 1.5 ≤ d ≤ 2.5cm: lõm
trung bình; d ≥ 3cm là lõm nặng. Trường hợp
rất nặng có xương ức gần sát cột sống [4].
2.4. Chỉ định mổ: lõm ngực kèm theo triệu
chứng lâm sàng (khó thở, đau); lõm ảnh
hưởng tâm lý của trẻ (tự ti, rụt rè); lõm ngực
ảnh hưởng thẩm mỹ; chỉ số Haller > 3,25
2.5. Quy trình phẫu thuật tạo hình lồng
ngực theo phương pháp Nuss có nội soi
hỗ trợ với đường vào từ ngực trái tại Bệnh
viện Hữu nghị Việt Đức
* Bố trí kíp phẫu thuật
Bàn
dụng
cụ
Màn hình NS
Bác sĩ gây mê
PTV chính Cameramer Dụng cụ viên
Phụ PTV
TCNCYH 117 (1) - 2019 121
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Các thì phẫu thuật
- Tư thế bệnh nhân và gây mê: Bệnh nhân
nằm ngửa, dạng hai tay vuông góc với thân
người, gây mê nội khí quản 1 nòng; đệm gối
phía dưới lưng để nâng ngực lên.
- Rạch da: Rạch da ở trên hoặc dưới vị trí
dự định đặt thanh đỡ 1 khoang liên sườn,
đường rạch da dài khoảng 2cm mỗi bên thành
ngực dọc theo đường nách giữa.
- Tạo đường hầm dưới da: từ chỗ rạch da
đến bờ cao nhất của hố lõm. Dùng pince đầu
tù tách dần tổ chức dưới da với cơ ngực đảm
bảo khoang đủ rộng để che thanh đỡ đồng
thời không tách quá sâu vào lớp cơ gây chảy
máu.
- Đặt trocar đưa camera quan sát: Vị trí đặt
trocar ở khoang liên sườn VI - VII đường nách
trước bên trái. Bơm hơi CO2 áp lực thấp
(5mmHg) để làm xẹp phổi.
- Đo và uốn thanh đỡ: Dùng thanh thử uốn
khuôn theo lồng ngực bệnh nhân, thường đặt
ở vị trí xương ức lõm sâu nhất và đo khoảng
cách giữa hai đường nách giữa; nếu đặt 2
thanh thì thông thường 2 thanh đặt cách nhau
khoảng 3cm. Uốn thanh đỡ bắt đầu ở giữa
dần sang 2 bên theo thanh thử.
- Tạo đường hầm xuyên qua trung thất:
Dùng pince đầu tù hoặc kẹp hình tim hoặc
Clamp Crawford chọc vào khoang màng phổi
ngay vị trí bờ cao nhất của hố lõm ở thành
ngực trái, từ từ đi sát thành ngực trước hướng
vào trung thất trước nơi sâu nhất hố lõm, tách
dần màng tim ra khỏi mặt sau xương ức, tiếp
tục đi sang khoang màng phổi bên phải. Luồn
“thanh dẫn đường” theo đường hầm đã tạo ở
trên qua trung thất trước, sang khoang màng
phổi phải và đi xuyên qua thành ngực phải ra
ngoài. Quá trình tạo đường hầm xuyên qua
trung thất và luồn thanh dẫn đường có sự hỗ
trợ của nội soi.
- Luồn thanh đỡ: Dùng một sợi chỉ chắc
buộc vào thanh đỡ rồi buộc vào thanh dẫn
đường. Rút thanh dẫn đường rồi luồn thanh
đỡ qua trung thất theo hướng đi từ phải sang
trái dưới hướng dẫn của nội soi, mặt lõm của
thanh đỡ luôn hướng về phía sau.
- Nâng xương ức: Sau khi thanh đỡ được
luồn qua trung thất và mặt lõm hướng ra sau.
Dùng dụng cụ xoay thanh đỡ 1800 theo chiều
hướng lên trên, phối hợp nhịp nhàng hai bên,
đẩy ngực lõm ra trước đúng vị trí mong muốn.
- Cố định thanh: Dùng chỉ thép khâu vòng
qua xương sườn rồi buộc cố định vào thanh
đỡ qua lỗ ở đầu thanh đỡ dưới hướng dẫn
của nội soi, thường chỉ cần cố định bên trái
(bên có nội soi), bên phải khâu cố định thanh
vào cân cơ dưới da bằng chỉ Vicryl.
- Đuổi khí, đóng da: Bác sĩ gây mê bóp
bóng nội khí quản để phổi nở đồng thời rút
trocar ra ngoài và đuổi khí, khâu da, không đặt
dẫn lưu màng phổi.
3. Xử lý số liệu: Xử lý số liệu theo phương
pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm
SPSS 16.0.
4. Đạo đức nghiên cứu
- Bệnh nhân và người nhà đều được giải
thích rõ về phương pháp mổ (lợi ích và nguy
cơ), tự nguyện tham gia nghiên cứu. Thông tin
của bệnh nhân hoàn toàn được bảo mật và
chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu
nhằm nâng cao chất lượng điều trị.
III. KẾT QUẢ
Từ tháng 02 - 8/2018, có 111 bệnh nhân
lõm ngực bẩm sinh được phẫu thuật theo
phương pháp Nuss có nội soi lồng ngực hỗ
trợ với đường vào từ ngực trái với các đặc
điểm như sau:
122 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
1. Đặc điểm chung
Tuổi trung bình là 15,65 ± 3,25 (3 - 23 tuổi); bệnh nhân nam giới chiếm đa số 86,48%; tỉ lệ
nam/ nữ: 6,4/1.
2. Đặc điểm lâm sàng
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng (n = 111)
Đặc điểm n %
Triệu chứng lâm sàng
Đau tức ngực, khó thở khi gắng sức 39 35,13
Nhanh mệt khi vận động, tập luyện 36 32,43
Tâm lý mặc cảm 38 34,23
Chậm phát triển 20 18,02
Mức độ lõm ngực
Trung bình 70 63,06
Nặng 40 36,04
Rất nặng 1 0,9
Đa số bệnh nhân lõm ngực ở mức độ trung bình
3. Đặc điểm phẫu thuật
Bảng 2. Đặc điểm của phẫu thuật tạo hình lồng ngực (n = 111)
Thông số n %
Số lượng thanh đỡ
1 thanh 105 94,59
2 thanh 6 5,41
Dẫn lưu ngực trong mổ 0 0
Giảm đau ngoài màng cứng 111 100
Cố định thanh đỡ
Chỉ thép + Vicryl 111 100
Nẹp vít 0 0
Thời gian mổ trung bình: 48 ± 18 phút; không mất máu trong mổ.
4. Kết quả phẫu thuật
Bảng 3. Kết quả sớm của phẫu thuật
Thông số n %
Hình dạng lồng ngực
Hết lõm 72 64,86
Cải thiện 39 35,14
Vết mổ
Khô, đẹp 107 96,40
Tụ dịch 3 2,70
Hoại tử 0 0
Nhiễm trùng 1 0,90
TCNCYH 117 (1) - 2019 123
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Thời gian năm viện trung bình sau mổ: 4,93 ± 1,12 ngày.
5. Biến chứng
Bảng 4. Tai biến và biến chứng trong và sau mổ
Biến chứng n %
Trong mổ Chảy máu; tổn thương tim – phổi 0 0
Biến chứng sớm sau mổ
Nhiễm trùng vết mổ 1 0,90
Tràn khí màng phổi 3 2,70
Tràn máu màng phổi 0 0
Đau 2 1,80
Viêm phổi 1 0,90
Xẹp phổi 1 0,90
Lệch thanh đỡ 2 1,80
Không xảy ra tai biến trong mổ; tỉ lệ biến chứng sau mổ thấp, không có biến chứng nặng.
IV. BÀN LUẬN
Quan điểm về độ tuổi tốt nhất cho phẫu
thuật còn chưa thống nhất. Tác giả Donald
Nuss chỉ định phẫu thuật cho trẻ từ
6 - 18 tuổi [3]. Hyung Joo Park chỉ định phẫu
thuật cho tất cả những bệnh nhân từ 3 tuổi trở
lên, khuyến cáo nên chỉ định cho các em từ 3
- 5 tuổi vì ở lứa tuổi này thành ngực còn mềm,
dễ uốn nắn, ít biến chứng, các em chưa đến
trường, khi lớn lên các em không còn nhớ đến
cuộc phẫu thuật cũng như bản thân đã bị dị
tật [4; 5; 7]. Tuổi trung bình trong nghiên cứu
là 15,65 ± 3,25 tuổi, trong đó có một bệnh
nhân 3 tuổi được phẫu thuật cho kết quả tốt,
các bệnh nhân khác nằm trong độ tuổi từ 10 -
23 tuổi. Mặc dù độ tuổi này còn đáp ứng tốt
với phẫu thuật, tuy nhiên là khá cao. Do đó,
cần nâng cao vai trò tuyên truyền về bệnh cho
người dân để giúp nâng cao nhận thức về
bệnh, để trẻ sớm được điều trị và có kết quả tốt.
Tỷ lệ nam/nữ là 6,4/1, cao hơn so với công
bố trong Y văn (nam/nữ: 4/1) [3; 4], cao hơn
kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác
như Donald Nuss; Lâm Văn Nút; Kelly R.E;
Park H.J là 4/1 [3; 5 - 7]. Tuy nhiên, tỷ lệ nam/
nữ trong nghiên cứu của chúng tôi còn thấp
hơn trong nghiên cứu của Ngô Gia Khánh
(2011) là 8/1 [4].
Bệnh nhân đến khám và điều trị vì đau tức
ngực, khó thở và mệt nhanh khi gắng sức, tập
luyện. Bên cạnh đó có nhiều bệnh nhân đến
khám và điều trị vì tâm lý mặc cảm về hình thể
của mình (34,23%). Vị trí lõm, diện lõm và
mức độ lõm là yếu tố quyết định chỉ định mổ
cũng như hình dáng, số lượng thanh đỡ cần
đặt. Chúng tôi áp dụng cách phân loại này vì
nó đơn giản, hiệu quả, dễ áp dụng. Đa số
bệnh nhân lõm ngực ở mức độ trung bình
(63,06%) và nặng (36,04%), rất nặng chiếm
0,9%, đây là những bệnh nhân có chỉ định
124 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
phẫu thuật xét cả về tiêu chuẩn triệu chứng
lâm sàng và yêu cầu thẩm mỹ.
100% bệnh nhân được giảm đau ngoài
màng cứng (bắt đầu truyền giảm đau ngoài
màng cứng trong lúc phẫu thuật và liên tục
đến 3 - 4 ngày sau mổ). Cách giảm đau này
đã giúp cho bệnh nhân đỡ đau sau mổ, đồng
thời tránh hạn chế về hô hấp cũng như tâm lý
sợ hãi cho bệnh nhân.
Ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực là
một cải tiến trong phẫu thuật Nuss, đóng vai
trò quan trọng trong việc giúp quan sát quá
trình bóc tách, gỡ dính và tạo đường hầm
xuyên qua trung thất cũng như luồn và xoay
thanh đỡ, khâu buộc chỉ thép, đặc biệt ở
những trường hợp tái phát, lõm ngực quá sâu
và phức tạp [4].
Kinh nghiệm từ quá trình phẫu thuật,
chúng tôi nhận thấy đặt camera ở ngực trái và
chọn đường vào từ ngực trái giúp tiếp cận và
quan sát tim tốt hơn, tránh biến chứng gây tổn
thương tim trong quá trình thao tác phẫu
thuật. Giữa màng tim và xương ức tạo thành
góc nhọn giúp bóc tách từ lồng ngực trái qua
trung thất trước sang bên phải dễ dàng hơn,
tay trái phẫu thuật viên cầm camera, tay phải
cầm dụng cụ bóc tách thường là tay thuận
nên quá trình bóc tách sẽ thuận lợi hơn. Do
đó, việc áp dụng nội soi lồng ngực và chọn
đường vào từ ngực trái có nhiều lợi ích, giúp
cho quá trình phẫu thuật thuận lợi và an
toàn, ít biến chứng. Krystian Pawlak và cộng
sự (2018), nghiên cứu trên 1006 bệnh nhân
lõm ngực bẩm sinh được phẫu thuật theo
phương pháp Nuss có nội soi hỗ trợ với
đường vào từ ngực trái tại Poznan (Ba Lan)
cho kết quả tốt [9].
Chúng tôi dùng chỉ thép khâu vòng qua
xương sườn rồi buộc cố định vào thanh đỡ
qua lỗ ở đầu thanh đỡ bên trái (bên đặt tro-
car), bên phải khâu cố định thanh vào cân cơ
dưới da bằng chỉ Vicryl. Cách cố định này
hiệu quả, giúp tiết kiệm thời gian phẫu thuật,
giảm chi phí điều trị. Nhiều tác giả cố định
thanh đỡ bằng nẹp vis, cách này giúp cố định
thanh vững nhưng tốn kém, diện tiếp xúc da
lớn nên dễ gây hoại tử da hơn [4; 8].
Thời gian phẫu thuật trung bình là 48 ± 18
phút, ngắn nhất là 30 phút, dài nhất là 100
phút. Tỉ lệ hết lõm ngực sau phẫu thuật là
64,86%; lõm ngực được cải thiện là 35,14%.
Hầu hết bệnh nhân có vết mổ khô, đẹp
(96,4%); có 2 bệnh nhân (1,8%) bị lệch thanh
kim loại, tuy nhiên mức độ nhẹ nên không cần
điều chỉnh; có 3 (2,7%) bệnh nhân bị tràn khí
màng phổi sau mổ do chưa đuổi khí hết trong
mổ, trong đó có 1 bệnh nhân tràn khí mức độ
nhiều được dẫn lưu khoang màng phổi.
Không có trường hợp nào tràn máu màng
phổi. Có 1 bệnh nhân (0,9%) viêm phổi và 1
bệnh nhân bị xẹp phổi nhẹ, điều trị nội khoa
ổn định. Thời gian điều trị trung bình sau mổ
là 4,93 ± 1,12 ngày, có 1 bệnh nhân nhiễm
trùng vết mổ cần điều trị kháng sinh ổn định
và ra viện sau 11 ngày điều trị nội khoa. Tác
giả Ngô Gia Khánh và cộng sự (2011) nghiên
cứu trên 53 bệnh nhân tại Bệnh viện Việt Đức
từ năm 2010 đến 2011, thời gian phẫu thuật
trung bình là 69 ± 24 phút. Tỉ lệ hết lõm ngực
là 44%; lõm ngực được cải thiện là 56%;
nhiễm trùng vết mổ 5,6%; lệch thanh 3,7%;
tràn khí màng phổi 9,4%; thời gian điều trị
trung bình sau mổ là 5,23 ± 1,2 ngày [4]. Theo
nghiên cứu của Lâm Văn Nút (2014), thực
hiện phẫu thuật Nuss cho 229 bệnh nhân lõm
ngực bẩm sinh: thời gian phẫu thuật là 91 ±
31 phút; tràn khí màng phổi 3%; tràn máu
màng phổi 1,3%; lệch thanh kim loại phải mổ
lại là 0,9%; nhiễm trùng vết mổ 1,7%; thời
gian điều trị trung bình sau mổ là 8,4 ± 2,1
TCNCYH 117 (1) - 2019 125
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
ngày [5]. Như vậy, sau một thời gian triển khai
thường quy và có những cải tiến về kỹ thuật,
chúng tôi đã rút ngắn được thời gian phẫu
thuật so với các tác giả; thời gian điều trị trung
bình sau mổ cũng ngắn hơn; tỉ lệ hết lõm
ngực cũng cao hơn; các biến chứng cũng ít
hơn, đặc biệt không xảy ra biến chứng nặng
đã cho thấy ưu điểm của phương pháp.
V. KẾT LUẬN
Phẫu thuật 111 bệnh nhân lõm ngực bẩm
sinh theo phương pháp Nuss có nội soi hỗ trợ
với đường vào từ ngực trái cho kết quả bước
đầu tốt, thuận lợi, hiệu quả, an toàn, ít biến
chứng, tỉ lệ thành công và tính thẩm mỹ cao.
VI. KHUYẾN NGHỊ
Cần nâng cao vai trò tuyên truyền về bệnh
cho người dân để giúp nâng cao nhận thức
về bệnh, để trẻ sớm được điều trị và có kết
quả tốt.
Cần tiếp tục nghiên cứu về phương pháp
phẫu thuật với cỡ mẫu lớn hơn, đánh giá đầy
đủ các tiêu chí liên quan, thời gian theo dõi
trung và dài hạn để đưa ra những khuyến cáo
điều trị phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nuss D (2004). History of Pectus Exca-
vatum. Ann Surg, 240, 231 - 235.
2. Fokin A.A., Steuerwald N.M., Ahrens
W.A et al (2009). Anatomical, histologic, and
genetic characteristics of congenital chest wall
deformities. Semin Thorac Cardiovasc Surg,
21(1), 44 - 57.
3. D. Nuss (1998). A 10–years review of a
minimally invasive technique for the correction
of Pectus Excavatum. J. Pediatr Surg, 33, 545
- 552.
4. Ngô Gia Khánh(2011). Đánh giá kết
quả phẫu thuật Nuss kết hợp nội soi lồng
ngực điều trị bệnh ngực lõm bẩm sinh tại
bệnh viện Việt Đức. Luận văn bác sĩ nội trú,
Trường Đại học Y Hà Nội.
5. Lâm Văn Nút và cs (2014). Nghiên cứu
ứng dụng phẫu thuật Nuss trong điều trị lõm
ngực bẩm sinh. Luận án tiến sĩ y học, Trường
Đại học Y Dược Hồ Chí Minh.
6. Kelly R.E., Goretsky M.J., Obermeyer
R., Nuss D et al (2010). Twenty-one years of
experience with minimally invasive repair of
pectus excavatum by the Nuss procedure in
1215 patients. Ann Surg, 252(6), 1072 - 1081.
7. Park H.J, Jeong J.Y., Jo W.M., Shin
J.S et al (2010). Minimally invasive repair of
pectus excavatum: a novel morphology-
tailored, patient-specific approach. J Thorac
Cardiovasc Surg, 139(2), 379 - 386.
8. Vũ Hữu Vĩnh (2010). Phẫu thuật can
thiệp tối thiểu chỉnh sửa lõm ngực bẩm sinh
bằng thanh nâng ngực. Kỷ yếu Hội phẫu thuật
tim mạch và lồng ngực Việt Nam.
9. Krystian Pawlak, Wojciech Dysz-
kiewicz (2018). Video-assisted-thoracoscopic
surgery in left-to-right Nuss procedure for pec-
tus excavatum for prevention of serious com-
plications-technical aspects based on 1006
patients. Available at: https://doi.org/10.5114/
wiitm.2018.72683 [Accessed 20 August 2018]
126 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
THE EARLYRESULTS OF NUSS PROCEDURE WITH ASSISTED
THORACOSCOPIC IN LEFT-TO-RIGHT IN PECTUS EXCAVATUM
REPAIR IN VIET DUC FRIENDSHIP HOSPITAL
The purpose of this study wasto evaluate the early results of Nuss procedure with assisted
thoracoscopic in left-to-rightpectus excavatum repair. This is a descriptive, prospective study on
111 patients with pectus excavatum in cardiothoracic surgery department, Vietduc Friendship
Hospital from 2/2018 to 8/2018. The results showed that mean age was 15.65 ± 3.25 (3 - 23 years
old); male/female ratio: 6,4/1; average chest concavity was found in 63.06% and severe chest
concavity in 36.04%; the average operation time was 48 ± 18 minutes; the mean postoperative
hospital stay was 4.93 ± 1.12 days. There were low complication rates and no major complica-
tions. Conclusion: Nuss procedure with assisted thoracoscopic in left-to-right in pectus excavatum
repair is safe, effective, and highly successful.
Key word: Nuss procedure, pectus excavatum repair, thoracoscopic surgery
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_ket_qua_buoc_dau_phau_thuat_nuss_co_noi_soi_ho_tro_vo.pdf