Tài liệu Đề tài Kết quả bước đầu của phẫu thuật cắt thể thủy tinh – dịch kính đục do chấn thương qua Pars Plana phối hợp đặt thể thủy tinh nhân tạo – Đỗ Như Hơn: 31
AKẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT CẮT THỂ THỦY
TINH –
DỊCH KÍNH ĐỤC DO CHẤN THƯƠNG QUA PARS PLANA
PHỐI HỢP ĐẶT THỂ THỦY TINH NHÂN TẠO
ĐỖ NHƯ HƠN, NGUYỄN THU YÊN, NGUYỄN QUỐC ANH
Bệnh viện Mắt Trung ương
NGÔ VĂN THẮNG
Bệnh viện đa khoa huyện Gia Lộc- Hải Dương
HOÀNG HẢI
Bệnh viện Mắt Thái Nguyên
TÓM TẮT
Đục thể thủy tinh (TTT) và dịch kính (DK) do chấn thương (CT) thường dẫn đến
hậu quả mất thị lực (TL) trầm trọng. Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu
thuật (PT) cắt TTT- DK đục do CT phối hợp đặt thể thuỷ tinh nhân tạo (IOL: Intraocular
lens) hậu phòng. Nhận xét về chỉ định và ứng dụng kỹ thuật mổ. Phương pháp nghiên
cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng tiến cứu gồm 30 bệnh nhân (BN) với 30 mắt bị CT
đụng giập, vết thương xuyên (VTX) được xác định dựa trên kết quả siêu âm và X-quang
tại khoa chấn thương Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 12/2005 đến tháng 8/2006. Kết
quả: Trong số 30 BN trong nhóm nghiên cứu (28 nam, 2 nữ), tuổi từ 3 - 45. VT...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kết quả bước đầu của phẫu thuật cắt thể thủy tinh – dịch kính đục do chấn thương qua Pars Plana phối hợp đặt thể thủy tinh nhân tạo – Đỗ Như Hơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31
AKẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT CẮT THỂ THỦY
TINH –
DỊCH KÍNH ĐỤC DO CHẤN THƯƠNG QUA PARS PLANA
PHỐI HỢP ĐẶT THỂ THỦY TINH NHÂN TẠO
ĐỖ NHƯ HƠN, NGUYỄN THU YÊN, NGUYỄN QUỐC ANH
Bệnh viện Mắt Trung ương
NGÔ VĂN THẮNG
Bệnh viện đa khoa huyện Gia Lộc- Hải Dương
HOÀNG HẢI
Bệnh viện Mắt Thái Nguyên
TÓM TẮT
Đục thể thủy tinh (TTT) và dịch kính (DK) do chấn thương (CT) thường dẫn đến
hậu quả mất thị lực (TL) trầm trọng. Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu
thuật (PT) cắt TTT- DK đục do CT phối hợp đặt thể thuỷ tinh nhân tạo (IOL: Intraocular
lens) hậu phòng. Nhận xét về chỉ định và ứng dụng kỹ thuật mổ. Phương pháp nghiên
cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng tiến cứu gồm 30 bệnh nhân (BN) với 30 mắt bị CT
đụng giập, vết thương xuyên (VTX) được xác định dựa trên kết quả siêu âm và X-quang
tại khoa chấn thương Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 12/2005 đến tháng 8/2006. Kết
quả: Trong số 30 BN trong nhóm nghiên cứu (28 nam, 2 nữ), tuổi từ 3 - 45. VTX gặp
nhiều hơn CT đụng giập. Tổn thương rách giác mạc thường gặp (73,3%). Kết quả TL sau
mổ 0,05 đạt 56,6%, IOL nằm đúng vị trí giải phẫu 56,6%. Kết luận: Đặt IOL ở cùng
thời điểm cắt TTT -DK qua pars plana cho phép phục hồi lại TL và chức năng thị giác
hai mắt.
Từ khoá: cắt thể thủy tinh, dịch kính đục, đặt thể thủy tinh nhân tạo
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đục TTT và DK là hai tổn thương
phối hợp thường gặp trong bệnh cảnh
lâm sàng phức tạp của CT nhãn cầu. Tổn
thương có thể làm giảm TL một cách
trầm trọng tức thì và nhiều nguy cơ gây
biến chứng nặng cho mắt do hậu quả của
CT còn tồn tại dai dẳng trong nhãn cầu.
Nhưng nhờ những tiến bộ của khoa học
kỹ thuật trong vài thập kỷ qua mà việc
cắt TTT- DK và đặt IOL lên phần còn lại
của bao trước và khe thể mi trong một
lần mổ đã mang lại những kết quả khả
quan trong việc xử lý những tổn thương
phối hợp phức tạp này. Nhưng cho đến
nay các nghiên cứu của các tác giả trên
thế giới cũng như ở Việt Nam về vấn đề
này vẫn còn ít những báo cáo và thường
chỉ có trong những chuyên đề riêng biệt.
Vì vậy, chúng tôi bước đầu tiến hành
nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật mổ cắt
TTT-DK đục do CT phối hợp đặt IOL
hậu phòng với mục tiêu: Đánh giá kết
quả bước đầu của phẫu thuật cắt TTT-
DK đục do CT phối hợp đặt IOL. Nhận
xét về chỉ định và ứng dụng kỹ thuật mổ.
32
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những BN được nằm điều trị tại
khoa Chấn thương - Bệnh viện Mắt Trung
ương từ tháng 12/2005 đến tháng 8/2006,
tuổi 45, bị đục vỡ TTT có đục DK do CT
đụng giập, VTX có hoặc không có dị vật
nội nhãn (DVNN) được chẩn đoán xác
định dựa vào các triệu chứng lâm sàng,
XQ, siêu âm hệ thống A-B. Loại trừ những
bệnh nhân CT nặng hoặc viêm nhiễm cấp
tính do CT chưa được xử trí cấp cứu ban
đầu, thị lực sáng tối (ST) (-).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương tiện nghiên cứu và
đánh giá kết quả: Máy sinh hiển vi
khám và phẫu thuật; máy siêu âm - XQ;
máy đếm tế bào nội mô không tiếp xúc;
máy cắt DK; dụng cụ vi phẫu; IOL cứng
đường kính phần quang học 6 mm,với A
(A: hằng số IOL) =118,4...
2.2.2. Phương pháp tiến hành:
Khám lâm sàng, hỏi bệnh sử; khám xét
phân loại CT; các xét nghiệm về chức
năng; tính công suất IOL theo công thức
SRK II (S: Sanders; R: Retzlaff; K: Kraff).
Kỹ thuật mổ: cắt TTT - DK đục do CT qua
pars plana, đặt IOL hậu phòng.
- Đánh giá kết quả giải phẫu: Biến
đổi mật độ tế bào nội mô giác mạc, tình
trạng DK trên lâm sàng và bằng siêu âm
hệ thống B: Tốt: DK trong; Trung bình:
DK đục khu trú; Xấu: DK đục nhiều, che
lấp võng mạc trung tâm hay toàn bộ
võng mạc; vị trí IOL. Đánh giá kết quả
vềTL, đánh giá về khúc xạ sau mổ, các
biến chứng sau mổ.
Xử lý số liệu theo chương trình
phần mềm EPI-INFO 6.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm bệnh nhân
Trong số 30 BN (30 mắt), tuổi từ 3
- 45 (trung bình 26 tuổi), trong đó 28
nam và 2 nữ.
Bảng 1. Đặc điểm tổn thương phối hợp
Tổn thương n =30
VTX c ó DVNN 15
Viêm DK 27
Xuất huyết DK 17
Tổ chức hoá DK 5
Rách giác mạc 22
Tổn thương mống mắt 18
Tổn thương phối hợp thường gặp nhất là rách giác mạc 22/30 mắt, với chiều dài vết
rách ≥ 5 mm: 19/22 mắt; > 5 mm: 3/22 mắt.
33
3.2. Kết quả về giải phẫu
Bảng 2. Biến đổi về mật độ tế bào nội mô giác mạc trước và sau mổ
Thời điểm
Mật độ tế bào
Trước mổ
(n = 25)
Ra viện
(n = 12)
3 tháng
(n = 24)
Mắt không bị CT 2634,123±716,642 2319,167±583,158 2698,375±766,665
Mắt chấn thương 2090,56±746,776 1588,750±786,92 1643,125 ± 556,443
p 0,011563 0,016949 0,00002
Số lượng tế bào nội mô mất đi ở mắt. CT so với mắt không bị CT trước phẫu thuật
trung bình 20,6%.
Bảng 3. Tình trạng dịch kính - võng mạc sau phẫu thuật
Lần khám cuối
Ra viện
Tốt Trung bình Xấu Tổng cộng
Tốt 15 1 1 17
Trung bình 5 4 0 9
Xấu 0 2 2 4
Tổng cộng 20 7 3 30
DK trong - võng mạc áp ở thời điểm ra viện 17/30 đã tăng lên 20/30 trường hợp ở
thời điểm thăm khám lần cuối.
Bảng 4. Tình trạng thể thủy tinh nhân tạo
Lần khám cuối
Ra viện
Cân Lệch ít Lệch nhiều Tổng cộng
Cân 15 8 1 24
Lệch ít 2 2 1 5
Lệch nhiều 0 0 1 1
Tổng cộng 17 10 3 30
Tình trạng nghiêng lệch IOL tăng lên theo thời gian ở thời điểm ra viện 6/30 trường
hợp tăng lên 13/30 trường hợp ở lần khám cuối.
3.3. Kết quả về chức năng
Bảng 5. Tình trạng thị lực trước và sau mổ
Thời gian
Thị lực
Trước mổ
(n = 30)
Ra viện
(n = 30)
3 tháng
(n = 30)
ST (-) 0 0 2
ST (+) - 0,02 22 14 6
0,02 - <0,05 2 0 4
0,05 - <0,2 3 9 3
0,2 - 0,5 2 5 9
34
> 0,5 0 1 5
Không xác định 1 1 1
Mức độ TL từ ST (+) - <0,02 trước
mổ chiếm đa số (22/30 mắt) giảm xuống ở
thời điểm khám lần cuối còn 6/30 trường
hợp và TL đạt ≥0,05 là 18/30 mắt.
3.4. Tình trạng khúc xạ cầu tương
đương sau mổ
16/30 mắt được đo lại khúc xạ cầu
tương đương (SE: spherical equivalent),
2 mắt ở thời điểm khám lại lần cuối thấy
hiệu lệch khúc xạ SE trung bình giữa 2
mắt là -1,813 (1,548 với test-t, p =
0,0028).
3.5. Biến chứng sau PT
Bảng 6. Biến chứng sớm sau phẫu thuật
Các biến chứng n = 30
Phù giác mạc 27
Xuất huyết nội nhãn 4
Viêm màng bồ đào 5
Viêm mủ nội nhãn 1
Bong võng mạc 5
Biến chứng sớm thường gặp nhất là
phù giác mạc 27/30 mắt.
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Với 30 BN (28 nam, 2 nữ), tuổi
trung bình 26, bị CT đụng giập, VTX có
hoặc không có DVNN đã được xử trí cấp
cứu ban đầu, có đục TTT và DK hầu hết
là có tổn thương phối hợp trên giác mạc
(73,3%), tổn thương mống mắt (60%) và
(50%) số BN có DVNN, kèm theo có
xuất huyết và viêm DK nặng, thường gặp
ở những người trong độ tuổi lao động, do
thiếu hiểu biết, chủ quan trong lúc làm
việc mà dẫn đến những hậu quả bị CT
nghiêm trọng này.
4.2. Kết quả về giải phẫu
- Biến đổi mật độ tế bào nội mô giác
mạc: bảng 2 cho thấy số lượng tế bào nội
mô trung bình bị mất đi giữa mắt CT và
mắt không CT trước PT là 544, như vậy,
trung bình tế bào bị mất là 20,6%, nhưng tỷ
lệ mất tế bào ở thời điểm trước PT và ra
viện ở mắt CT có sự khác biệt chưa có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhưng ở thời
điểm trước PT với thời điểm khám lại lần
cuối thì tỷ lệ mất tế bào nội mô trung
bình là 21,09%, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05).
- Tình trạng DK và võng mạc: Kết
quả khám lâm sàng và hình ảnh của siêu
âm B, cho thấy ngay sau mổ DK thường
bị mờ đục ở mức độ nhẹ (56,6%) do sự
hòa tan của cục máu đông cũng như
những sản phẩm thoái hóa của hồng cầu
và phản ứng viêm sau phẫu thuật. Nhưng
35
quá trình tiêu những thành tố này diễn ra
khá nhanh chóng trong khoảng thời gian 1
tháng sau mổ làm tình trạng DK được cải
thiện một cách đáng kể (tốt: 66,6%). Kết
quả của chúng tôi thấp hơn so với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Yên
(2004): 71,5%, có lẽ là do nghiên cứu của
tác giả chỉ đề cập đến vấn đề cắt DK trong
VTX [2].
- Vị trí IOL: Độ nghiêng lệch của
IOL phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố:
trong đó phản ứng viêm dính mống mắt
với IOL hoặc bao trước TTT là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghiêng
lệch IOL. Nhiều báo cáo trước đây cho
rằng việc đặt IOL mà hai càng nằm được
trong túi bao là lý tưởng về mặt giải
phẫu, đã hạn chế tối đa biến chứng lệch
IOL sau mổ. Nhưng theo chúng tôi, với
những mắt bị CT thì thương tổn do lực
cơ học làm rách hoặc liệt cơ vòng đồng
tử kết hợp phản ứng viêm dính bờ đồng
tử với bao trước TTT làm đồng tử biến
dạng, khó giãn thường phải tách dính
mống mắt trong PT và phản ứng viêm
tạo màng fibrin diễn ra khá nhanh trong
mổ, đặc biệt là trên người trẻ thì việc đặt
IOL hậu phòng mà hai càng nằm đúng
trong túi bao là khó có thể thực hiện
được [5]. Vì vậy, giải pháp khắc phục
của chúng tôi trong nghiên cứu này là lựa
chọn loại IOL cứng có đường kính quang
học 6 mm và đường kính toàn bộ IOL 13
mm là phù hợp với việc để lại viền bao
trước kích thước 5 mm cũng như đường
kính trung bình của rãnh thể mi (11 ±
0,37 mm) [4], đã giảm thiểu tối đa tình
trạng nghiêng lệch IOL. Tuy nhiên, trong
NC vẫn còn 13/30 trường hợp (43,3%)
lệch IOL. Kết quả này phù hợp với NC
của Nguyễn Kiên Trung (2003): 42,3%,
mặc dù tác giả đã đặt IOL hậu phòng
trong túi bao chiếm phần lớn trên những
mắt bị CT đục vỡ TTT đơn thuần [1].
4.3. Kết quả về thị lực
Thị lực sau mổ trong NC này tuy
không cao (chỉ có 56,6% TL >0,05)
nhưng chúng tôi nhận thấy rằng ngoài
những yếu tố khách quan như những tổn
thương phức tạp phối hợp ban đầu do CT,
biến chứng sau PT, thì việc tính công suất
IOL trước mổ đóng một vai trò rất quan
trọng ảnh hưởng đến kết quả về TL sau
mổ. Khi khảo sát lại tình trạng khúc xạ
của 16/30 BN ở cả hai mắt tại thời điểm
khám lại sau mổ lần cuối cho thấy hiệu số
khúc xạ SE trung bình lệch giữa hai mắt
là -1,813 ± 1,548D (với t-test p = 0,0028),
kết quả này phù hợp với kết quả NC của
Lamkin J.C (1992) [6], Koenig S.B
(1992) [5], Rubsamen P.E (1995) [7],
Điều này cho thấy việc tính công suất IOL
dựa trên công thức kinh điển SRK II được
cải biên năm 1998, vẫn đang được áp
dụng ở nước ta hiện nay, cần phải hiệu
chỉnh lại cho từng trường hợp riêng biệt.
4.4. Biến chứng sau mổ
Biến chứng có thể là hậu quả của
chính CT ban đầu hoặc là do PT này, vì
vậy khó có thể đánh giá một cách rõ ràng
nguyên nhân từ đâu. Biến chứng sớm
nhất thường gặp sau mổ là phù giác mạc
(90%); màng xuất huyết diện đồng tử
(20%), nhưng đây cũng chỉ là biến chứng
nhẹ. Một trường hợp viêm mủ nội nhãn
sau mổ ngày thứ tư là biến chứng nặng
nhưng nhờ xử trí kịp thời bằng các thuốc
kháng sinh, chống viêm toàn thân và tại
chỗ, phối hợp PT cắt DK mủ và bơm dầu
silicone nội nhãn ở thời điểm thích hợp mà
tình trạng nhiễm trùng đã được giải quyết
một cách triệt để, tránh được hiểm họa phải
36
bỏ nhãn cầu cho BN và TL sau mổ 2 tuần
cũng đạt >0,02.
4.5. Nhận xét về chỉ định và ứng
dụng kỹ thuật mổ
Cắt TTT và DK đục trên những mắt
CT cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề bàn
cãi: Về thời gian của PT cũng như việc có
nên đặt IOL một thì hay không vẫn phải
phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể đặc
biệt là những tổn thương phức tạp cũng
như biến chứng của tổn thương ban đầu.
Mắt CT ít nhiều có phản ứng viêm dính
mống mắt, đồng tử khó giãn, chất TTT
nằm sau mống mắt hoặc rơi vào buồng DK
không thể quan sát được dễ bị sót nếu lựa
chọn phương pháp rửa hút chất TTT hoặc
cắt TTT qua đường giác mạc sẽ không thể
lấy hết được tác nhân gây viêm còn tồn tại,
đó là một trong những nguyên nhân của
lệch IOL và viêm màng bồ đào sau mổ kéo
dài [1]. Đặc biệt khó có thể làm sạch được
buồng DK khi đã bị đục do xuất huyết
hoặc tăng sinh xơ và sự tồn tại của dị vật
bên trong hoặc cắm thành nhãn cầu. Đó là
lý do mà chúng tôi đưa ra trong chỉ định
của PT này. Viền bao trước TTT để lại
trong PT có tác dụng nâng đỡ IOL mà
không cần phải cố định càng IOL bằng chỉ,
bị đục hóa diễn ra khá nhanh chóng sau
PT. Nhưng phần bao trước quanh trục thị
giác đã được cắt đi một cách chủ động với
kích thước khoảng 5 mm đủ lớn để lại đã
phòng được sự tái bít của màng xơ dày
trên diện cắt quanh trục quang học, giữ cho
trục nhìn được trong và đây là một lợi thế
lớn của PT này, tránh được việc phải can
thiệp PT mở bao đục xơ thứ phát sau PT
đặt IOL.
V. KẾT LUẬN
- Tổn thương nặng phối hợp đục
TTT - DK phần lớn do VTX (93,3%)
trong đó 50% các trường hợp có DVNN.
- Thị lực sau mổ đạt >0,05 (56,6%),
DK trong, võng mạc áp (66,6%), IOL nằm
đúng vị trí (56,6%). Biến chứng sau mổ
thường gặp là phù giác mạc (90%), viêm
màng bồ đào (16,7%), tỷ lệ bị bong võng
mạc (16,7%) còn cao do tổn thương ban
đầu nặng kèm theo có DVNN.
- Chỉ định PT chỉ nên áp dụng cho
những trường hợp VTX có đục vỡ TTT
kèm rách bao sau và tổn thương nặng ở
bán phần sau có hoặc không có dị vật
trong buồng DK hoặc cắm thành nhãn
cầu.
Việc tính công suất IOL trước mổ
cần chính xác hơn nữa với từng trường
hợp đặt IOL hậu phòng, mới có thể góp
phần tăngTL cho người bệnh một cách
tối đa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NGUYỄN KIÊN TRUNG (2003), Góp phần nghiên cứu các biến chứng và cách
xử lý của phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng trên mắt chấn thương, Luận
văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú các bệnh viện, Trường Đại học Y Hà Nội.
2. NGUYỄN THỊ THU YÊN (2001), Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cắt dịch kính
trong điều trị vết thương xuyên nhãn cầu, Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà
Nội.
3. BENEZRA D. (1997), "Traumatic cataract in children: correction of aphakia by
contact lens of intraocular lens", Am. J. Ophthalmol., 123, pp. 773-82.
4. DAVIS R.M, ET AL (1991), "Ciliary sulcus anatomical dimensions", Cornea, 10, 3,
pp. 244-8.
37
5. KOENIG S.B (1992), "Pseudophakia for traumatic cataracts in children",
Ophthalmology, vol. 100, 8, pp. 1218-224.
6. LAMKIN J.C (1992), "Simultaneous corneal laceration repair, cataract removal,
and posterior chamber intraocular lens implantation", Am. J. Ophthalmol., vol.
113, pp. 626-31.
7. RUBSAMEN P.E (1994), "Primary intraocular lens implantation in the setting of
penetrating ocular trauma", Ophthalmology, vol. 102, 1, pp. 101-7.
SUMMARY
PRIMARY RESULTS OF TRANS PARS PLANA VITREO - LENSECTOMY IN
COMBINATION WITH INTRAOCULAR LENS INSERTION AMONG PATIENTS
WITH OCULAR INJURY
Cataract and vitreous opacification caused by ocular injury result in significant
visual loss. Objective: To evaluate the initial result of patients having ocular blunt or
penetrating trauma had been vitreo - lensectomized trans pars plana and inserted intra
ocular lens in posterior chamber. Remark on the indication and applying the technology
of operation. Methods: In this prospective randomized trials study, a total of patients (30
eyes) with blunt or penetrating ocular trauma were assessed by using X-ray, ultrasound
in Trauma Department of National Institute of Ophthalmology, from December 2005 to
August 2006. Results: Among 30 patients (28 male and 2 female) the age ranges from 3
to 45 years. Penetrating injuries are more common than contusion ones,the cornea is a
common site of injury (73.3%).The surgery can provide a visual acuity at over 0.05
(56.6%) with anatomical stable intraocular lens. Conclusion: Intraocular lens
implantation at the same time of trans pars plana vitreo-lensectomy can provide a
reasonable restoration of visual acuity and binocular function.
Keyword: vitreo-lensectomy, intraocular lens insertion
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_ket_qua_buoc_dau_cua_phau_thuat_cat_the_thuy_tinh_dic.pdf