Tài liệu Đề tài Kế hoạch lao động – việc làm và các pháp giải quyết việc làm trong thời kì kế hoạch 2001-2005 ở Việt Nam: Lời nói đầu
V.I.Lênin đã từng nói : “ Xét cho đến cùng thì năng xuất lao động là cái quan trọng nhất , chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”. Như vậy, chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của lực lượng lao động trong việc phát triển kinh tế. Nó là một trong những nhân tố quan trọng nhất cấu thành nên sản phẩm của xã hội. Và ngược lại, tất cả các của cải của xã hội sản xuất ra cũng chi phục vụ con người, cho con người mà thôi. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với nước ta, một nước đang kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, luôn lấy con người là trọng tâm của sự phát triển
Là một nước đang phát triển và nguồn nhân lực có đầy đủ các tính chất của một nước kém phát triển : tốc độ tăng dân số cao, nguồn lao động dồi dào, chất lượng lao động thấp.... nhưng trong những năm qua, chúng ta đã có những thay đổi đáng kể trong công tác đào tạo, sử dụng nguồn lao động, thúc đẩy sự chuyển biến nguồn lao động theo hướng tích cực nhất và cũng đã đạt được những thành quả nhưng cũng c...
29 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Kế hoạch lao động – việc làm và các pháp giải quyết việc làm trong thời kì kế hoạch 2001-2005 ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
V.I.Lênin đã từng nói : “ Xét cho đến cùng thì năng xuất lao động là cái quan trọng nhất , chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”. Như vậy, chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của lực lượng lao động trong việc phát triển kinh tế. Nó là một trong những nhân tố quan trọng nhất cấu thành nên sản phẩm của xã hội. Và ngược lại, tất cả các của cải của xã hội sản xuất ra cũng chi phục vụ con người, cho con người mà thôi. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với nước ta, một nước đang kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, luôn lấy con người là trọng tâm của sự phát triển
Là một nước đang phát triển và nguồn nhân lực có đầy đủ các tính chất của một nước kém phát triển : tốc độ tăng dân số cao, nguồn lao động dồi dào, chất lượng lao động thấp.... nhưng trong những năm qua, chúng ta đã có những thay đổi đáng kể trong công tác đào tạo, sử dụng nguồn lao động, thúc đẩy sự chuyển biến nguồn lao động theo hướng tích cực nhất và cũng đã đạt được những thành quả nhưng cũng còn những bất cập nhất định.
Bài viết của em được viết nhằm đánh giá lại việc thực hiện kế hoạch lao động - việc làm trong 3 năm 2001, 2002 và 2003; xem xét các kế hoạch 2004 , 2005; những thuận lợi và thách thức trong việc thực hiện kế hoạch 2 năm cuối trong khuôn khổ kế hoạch 5 năm từ 2001-2005, đồng thời em cũng mạn phép đưa ra ý kiến của mình về những chủ trương, biện pháp giải quyết những khó khăn còn vướng mắc phải trong quá trình thực hiện kế hoạch
Trong khuôn khổ thời gian và năng lực có hạn ,bài viết của em không thể không tránh được những thiếu xót. Em xin chân thành cám ơn những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn
Em xin chân thành cám ơn Ts. Nguyễn Thị Kim Dung, giảng viên khoa Kế hoạch và phát triển đã giúp đỡ em hoàn thành bài đề án này!
Kế hoạch lao động – việc làm và các pháp giải quyết việc làm trong thời kì kế hoạch 2001-2005 ở Việt Nam Chương i
những vấn đề cơ bản về kế hoạch hoá phát triển
lực lượng lao động
i . khái niệm và ý nghĩa của kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động
1 . Quan niệm cơ bản về lao động và việc làm
1.1.Quan niệm của thế giới
1.1.1.Cơ cấu lực lượng lao động
Để làm rõ khái niệm về lao động và việc làm, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra quan niệm về lực lượng lao động và mô tả nó bằng sơ đồ có tính chất chung nhất như sau :
cơ cấu về lực lượng lao động
Dân số trong tuổi lao động quy định
Không có việc làm
Có việc làm
Không muốn làm việc
Muốn làm việc
Không chủ động tìm việc
-Chủ động tìm việc
-Sẵn sàng làm việc
( Thất nghiệp)
Lực lượng lao động
Không thuộc lực lượng lao động
1.1.2.Nội dung các khái niệm trong sơ đồ về cơ cấu lực lượng lao động và mối quan hệ giữa chúng
A.Lực lượng lao động
Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định (theo quy định của từng quốc gia. Đối với Việt Nam, độ tuổi theo quy định là từ 18 – 60 đối với nam và từ 18 – 55 đối với nữ ); thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm, tức là những người đang trong tình trạng thất nghiệp
Về cơ bản khái niệm nêu trên được thống nhất ở nhiều nước và cũng là khái niệm mà ILO chính thức đưa ra. Điều khác nhau ở mỗi nước chủ yếu là độ tuổi quy định , ở đây có hai sự khác biệt, khác biệt đó là giới hạn tuổi tối thiểu và giới hạn tuổi tối đa. Cơ sở thực tế để xác định giới hạn tuổi tối thiểu và tuổi tối đa của lực lượng lao động là: các nước thường dựa vào tuổi học sinh rời khỏi trường phổ thông để xác định tuổi tối thiểu và tuổi cao nhất quy định cho người được nghỉ hưu để xác định giới hạn tuổi tối đa.
B.Người có việc làm
Người có việc làm là những người làm những công việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hay những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Khi tiến hành cuộc điều tra thống kê về lao động và việc làm , khái niệm trên được cụ thể hoá thêm bằng một số tiêu thức khác tuỳ thuộc vào mỗi nước đặt ra. Có thể phân làm hai nhóm các tiêu thức bổ sung:
-Nhóm thứ nhất là nhóm có việc làm và đang làm việc , đó là những người làm bất kể công việc gì được trả công hoặc vì lợi ích làm việc hoặc làm việc không có tiền công trong các trang trại hoặc kinh doanh của gia đình.
-Nhóm thứ hai là người có việc làm hiện tại nhưng không làm việc, hiện đang nghỉ việc vì đang là kỳ nghỉ (nghỉ hè , nghỉ đông, nghỉ phép ...), ốm, do thời tiết xấu hoặc do các lý do cá nhân khác.
C.Người thất nghiệp
Người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.
Một điểm cần đề cập đến là phân loại thất nghiệp:
*) Nếu phân theo tính chất của thất nghiệp, chúng ta có các dạng sau:
-Thất nghiệp tạm thời: phát sinh là do sự di chuyển không ngừng của con người giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
-Thất nghiệp có tính cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu đối với công nhân. Sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với một loại lao động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác lại giảm đi , trong đó mức cung không điều chỉnh kịp với sự thay đổi này
-Thất nghiệp chu kỳ xảy ra khi mức cầu chung về lao động thấp. Khi tổng mức chi và sản lượng giảm , chúng ta thấy thất nghiệp tăng hầu hết ở khắp nơi. Việc thất nghiệp tăng hầu hết ở các vùng là dấu hiệu cho thấy thất nghiệp tăng phần lớn là theo chu kỳ.
*) Nếu phân chia thất nghiệp theo khu vực chúng ta có các dạng thất nghiệp là:
Thất nghiệp hữu hình là hình thưcs thất nghiệp thường thấy ở khu vực thành thị. đặc điểm ccủa hình thức thất nghiệp nay là người lao động hoàn toàn không có một việc gì làm để tạo ra thu nhập, mặc dù anh ta luôn có cố gắng đi tìm việc làm
Thất nghiệp vô hình (trá hình) khái niệm này xuất phát từ quan điểm cùa nhà kinh tế học cổ điển Ricacdo về vấn đề lao động trong 2 khu vực nông thôn và thành thị. Theo ông, trong khu vực nông nghiệp luôn có tình trạng dư thừa lao động nhưng khác với khu vực thành thị, số lao động này vẫn làm việc, vẫn tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình nhưng khi rút họ ra khỏi khu vực lao động thì thu nhập của gia đình họ vẫn không thay đổi
Bán thất ngiệp là khái niệm chỉ những người vẫn có việc làm, vẫn tạo ra thu nhập và khi rút họ ra khỏi quá trình lao động thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả sản xuất. Nhưng những người này thường lao động với năng xuất không cao. Hiện tượng nay thường gặp trong các công sở ở Việt Nam
D.Những người không thuộc lực lượng lao động
Là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà họ là những người không làm việc và cũng không có ý địng đi tìm việc, bao gồm các đối tượng là học sinh, sinh viên, những người mất khả năng lao động, nội trợ và những người thuộc tình trạng khác.
II.Khái niệm, ý nghĩa của kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động
1.Khái niệm
Kế hoạch hoá lực lượng lao động là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nó xác định quy mô, cơ cấu, chất lượng của bộ phận dân số tham gia hoạt động kinh tế, xác định những chỉ tiêu xã hội của lực lượng lao động như tỷ lệ lao động có việc làm, tỷ lệ phần trăm thất nghiệp và mức thu nhập trung bình của lực lượng lao động, xác định những chính sách chủ yếu để sử dụng và điều phối lực lượng lao động một cách có hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu phúc lợi xã hội khác của một quôcs gia trong thời kỳ kế hoạch.
2.ý nghĩa
Xét theo toàn bộ hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch hoá lực lượng lao động là một bộ phận kế hoạch biện pháp vì nó phục vụ cho một số kế hoạch mục tiêu như kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch phát triển vùng ...
Tuy nhiên kế hoach hoá lực lượng lao động cũng là một bộ phận kế hoạch mục tiêu, trong nội dung này, kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động có bao hàm các chỉ tiêu mục tiêu mang tính hướng đạo của nền kinh tế.
Từ hai ý nghĩa trên có thể rút ra một điều như sau: Khi xây dựng kế hoạch hoá lực lượng lao động thì nó vừa phải mang tính bị động vì nó là kế hoạch biện pháp phụ thuộc vào kế hoạch khác, vừa mang tính chủ động vì nó là kế hoạch mục tiêu nên tự nó phải đặt ra các mục tiêu cho các kế hoạch biện pháp thực hiện.
Kế hoạch hoá lao động được đặc trưng bởi sự lồng ghép của các kế hoạch lao động với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trên tầm vĩ mô, và kế hoạch phát triển của doanh nghiệp ở tầm vi mô. Trong trường hợp này chiến lược lao động được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội và là điều kiện tiên quyết của các chiến lược phát triển.
chương ii
thực trạng về sử dụng lao động của nước ta
thời gian qua (tư 2001 – 2003)
i.khái quát về tình hình phát triển lực lượng
lao động thời gian từ 2001 - 2003
Phần 1 kế hoạch lao động và việc làm trong thời kì từ 2001 – 2005
Kế hoạch lao động và việc làm trong thời kì 01- 05 : văn kiện đại hội Đảng 9 có xác định những nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực nước ta thời kì 2001 –2005 như sau:
- Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nứơc ta trong thời kì từ 2001 – 2010 ( trích Văn kiện đại hội Đảng 9 )
1.Mục tiêu tổng quát
Kế hoạch 5 năm (2001-2005) thể hiện các quan điểm phát triển và mục tiêu chiến lược trong mười năm tới. Theo đó, mục tiêu của kế hoạch này là:
“Tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ. Giải quyết các vấn đề bức xúc về việc làm, cơ bản xoá đói và giảm mạnh số hộ nghèo, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, ổn định và cải thiện hơn đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo ,giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
2. Các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế, xã hội chủ yếu
2.1 Các mục tiêu kinh tế
-Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hành năm ít nhất là 7%. Tổng GDP năm 2005 gần gấp 2 lần so với năm 1995.
-Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng trên 4% /năm.
-Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 11,2%/năm.
-Giá trị dịch vụ tăng trên 7%/năm.
-Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 12-14.5%/năm.
-Lạm phát dự kiến 5-6% /năm.
Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến
-Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp là 20-21%.
-Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38-39%.
-Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41-42%.
Dự kiến cơ cấu lao động trong tổng số lao động có việc làm đến năm 2005
-Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp 56-57%.
-Lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng 20-21%.
-Lao đông trong lĩnh vực dịch vụ 23-24%.
2.2.Các mục tiêu xã hội
Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80%, tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đạt 40% vào năm 2005, thực hiên chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở
Giảm tỷ lệ sinh trung bình hàng năm 0,5-0,5%; tốc độ phát triển dân số vào năm 2005 khoảng 1,23%. Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho 7,5-8,0 triệu người lao động, bình quân 1,5-1,6 triệu lao động/năm; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005.
Cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ nghèo (theo tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam ) xuống còn 5% vào năm 2005. Đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh trong nước; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuông còn 20-25% vào năm 2005. Nâng tuổi thọ bình quân vào năm 2005 lên 70 tuổi, cung cấp nước sạch cho 80% dân số nông thôn.
3.Kế hoạch lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005
3.1.Số lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động
Vào năm 2000, số lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động là 43,8 triệu người, dự kiến và năm 2005 khoảng 50,8 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu người.
Số lao động cần có việc làm vào năm 2005 khoảng 47 triệu người, trong đó số lao động nông thôn khoảng 34,8 triệu người, chiếm 74%, lao động ở thàng thị khoảng 12,2 triệu người, chiếm 26%.
Ngoài số lao động đã có việc làm ổn định trong nền kinh tế, số lao động cần giải quyết thêm việc làm trong 5 năm trên 15 triệu người, bao gồm tăng tự nhiên 7 triệu người, công với số chưa có việc làm cũ chuyển qua khoảng 8 triệu người; trong đó ở nông thôn trên 12 triệu người (tính theo ngày công quy đổi), chiếm 79%, thành thị khoảng 3 triệu người, chiếm 21%
3.2.Dự kiến thu hút nguồn lao động mới tăng thêm vào các khu vực
Tại khu vực nông thôn, dự kiến có thể thu hút thêm trong 5 năm khoảng 6,3 triệu người, trong đó 3,7 triệu người cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp (tính theo ngày công quy đổi), 2,6 triệu người cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Tính đến năm 2005, tổng số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn là 28-29 triieụ người, trong đó 22-23 triệu người sản xuất nông nghiệp (tính theo ngày công quy đổi); 6-7 triệu người sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số lao đông chưa có việc làm (tính theo ngày công quy đổi) khoảng 5,8-6,8 triệu người, chiếm 12-15% số lao động trong độ tuổi và khoảng 17-20% số lao động cần có việc làm ở nông thôn.
Tại khu vực thành thị, dự kiến trong 5 năm có thể thu hút thêm khoảng 1,8 triệu người, trong đó 80 vạn người vào sản xuất công nghiệp và xây dựng, 1 triệu người vào các ngành dịch vụ.
Tính đến năm 2005, tổng số lao động có việc làm ở thành thị là 11,4-11,6 triệu người, trong đó 5,2-5,5 triệu người sản xuất công nghiệp và xây dựng, 6,1-6,2 triệu người vầo các ngành dịch vụ; số lao động chưa có việc làm khoảng 0,6-0,8 triệu người, chiếm 4,3-4,5% số lao động trong độ tuổi và khoảng 5-6% số lao động chưa có việc làm ở thành thị
3.3.Định hướng phát triển việc làm
Giải quyết việc làm và ổn dịnh việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là nhiệm vụ cơ bản, bức xúc mà các ngành, các cấp phải đặc biệt quan tâm. Phấn đấu giải quyết việc làm và ổn định việc làm cho 7,5-8 triệu người trong 5 năm, bình quân 1,4-1,5 triệu người/năm; phấn đấu đến năm 2005 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống khoảng 5-6% và nâng quỹ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%. Xuất khẩu lao động được xem là một khâu quan trọng trong giải quyết việc làm và tăng thu nhập.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng từ 16,7% (năm 2000) lên 20-21% (năm 2005), lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 22% (năm 2000) lên 23-24% (năm 2005).Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3% (năm 2000) xuống còn 56-57% (năm 2005).Tăng nhanh lao động kỹ thuật từ 18-20% năm 2000 lên 30% năm 2005.
“Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người HDI của nước ta, tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn 1,1%… Giải quyết việc làm cho cả ở thành thị và nông thôn ( thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80- 85%); nâng tỉ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%”
phần2 Tình hình thực hiện trong những năm từ 2001-2003
A).Thành tựu
1.Năm 2001
Tình hình dân số năm 2001
Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/7/2001 thì nước ta có khoảng18,7 triệu người, tăng 1 triệu so với năm 2000, trong đó, dân cư ở thành thị khoảng 19,2 triệu, chiếm 24,4%, nông thôn khoảng 59.5 triệu người, chiếm 75,6%. Nếu so sánh về độ tuổi lao động thì dân cư ở nông thôn có xu hướng trẻ hơn dân cư ở thành thị. Tỉ lệ nhân khẩu dưới tuổi lao động ở khu vực thành thị chỉ chiếm 24,4% trong tổng dânsố, trong khi đó, tỉ lệ này ở nông thôn là 32,06%.
Cũng tại thời điểm điều tra, cả nước hiện có 39,489 nghìn người trong độ tuổi lao động, và có khoảng 37,617 ngàn người đang hoạt động kinh tế. Nếu phân theo 2 khu vực thành thị và nông thôn thì khu vực thành thị có 9,182 nghìn người chiếm 23,3%, khu vực nông thôn có30.307 nghìn người, chiếm 76,7% tổng lao động toàn xã hội.
Cơ cấu lao động năm 2001:
+ Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp có khoảng 22.812 nghìn người lao động, chiếm khoảng 60,54% tổng số nguồn lao động.
+ Lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng khoảng 5,248 nghìn người, chiếm khoảng 14,41%. Lao động trong kĩnh vực dịch vụ chiếm 25,05%, tức là có khoảng 9.436,5nghìn người.
+ Tỉ lệ thất nghiệp trong khu vực thành thị năm 2001 là khoảng 6,28, tỉ lệ sử dụng thời gian lao động trong khu vực nông thôn khoảng 74,37%
2. Năm 2002
Tình hình dân số năm 2002
Tại thời điểm điều tra ngày 1/7/2003, dân số Việt Nan có khoảng 79,930 nghìn người, trong đó thành thị có 19,880 nghìn người, chiếm 24,78% tổng dân số. Khu vực nông thôn có khoảng 60,05 nghàn người, chiếm 75,13% dân số.
Số người trong độ tuổi lao động và đang lao động là khoảng 39.286 nghìn người, tăng 1,612 triệu người
Tình hình thực hiện chung trong năm đã tạo việc làm mới và tăng thêm việc làm cho 1,42 triệu lao động ( trong báo cáo Quốc Hội khoá 10 là 1,4 triệu lao động), đạt 101,4% kế hoạch và tăng 1,4% so với thực hiện năm 2001; trong đó thu hút vào các nganh nông , lâm ngư nghiệp khoảng 87 van người; công nghiệp và xây dựng cơ bản khoảng 30 vạn người, dịch vụ, thương mại 25 vạn người. Ngoài ra trong năm đã xuất khẩu được khoảng 46 nghìn lao động, vượt 15,3% kế hoạch. Riêng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã giải quyết được việc làm cho khoảng 32 vạn động, đạt 106,6% kế hoạch, chiếm khoảng 3,5% tổng số lao động đuợc tạo làm mới
Cơ câú lao động đã có bước chuyển biến tích cực, theo hướng giảm dần lao động ở khu vực nông nghiệp, tăng lao động hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể, có khoảng 60,95% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, giảm 1,8% so với năm 2001, khu vực công nghiệp có khoảng 15,08%, tăng 07%, khu vực dịch vụ khoảng 23,96%, tăng 1,16% so với năm 2001
Số lao động mới được giải quyết tập trung chủ yếu trong các hoạt động phát triển trang trại và kinh tế vườn, khoảng 10 vạn người, phát triển làng nghề và sản xuất hàng xuất khẩu, 27 vạn người, khai hoang và bố trí lại dân cư, 15 vạn người, các khu công nghiệp và chế xuất chỉ thu hút được 4,5 vạn người. Trong các hình thúc tổ chức sản xuất thì các doanh nghiệp tư nhân thu hút được nhiều lao động mới nhất, khoảng 18 vạn lao động
Tỉ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị khoảng 6,01%, giảm 0,27% so với năm 2001, tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn khoảng 75,3%, tăng 0,9% so với năm 2001
Về công tác hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
Kể từ năm 2000 cho đến hết năm 2002, cả nước đã tổ chức khoảng 20 hội chơ việc làm ở tại 14 tỉnh thành, thu hút khoảng 722 vạn đơn vị kinh tế tham gia, với khoảng 20 vạn người đăng kí tham gia, đã tuyển dụng khoảng 1677 người và dăng kí học nghề 2363 lượt người. Các hình thức dự án quốc tế như Dự án trung tâm dịch vụ việc làm, dự án cải thiện cơ hội việc làm cho người tàn tật, cho lao động trẻ và mở rộng cơ hội làm việc cho lao động nữ, chương trình quốc gia về phòng ngừa và xoá bỏ việc sử dụng lao động trẻ em…
Về công tác dạy nghề năm 2002, các hoạt động dạy nghề đã có những kết quả quan trọng, nối bật là đã tuyển mới khoảng 1.005.000 học sinh, đạt 100,5% kế hoạch đề ra, tăng khoảng 13,4% so với năm 2001.
3. Năm 2003
Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho 1,5 triệu người, Đào tạo nghề cho trên 1 triệu người
Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là 15,9% tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 59,8%; tỷ trọng lao động ngành dịch vụ tăng là 24,3%.
Giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn 5,81%, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 77%
Đào tạo nghề cho 1090 nghìn người.
B).Bất cập còn tồn tại
1)Tốc độ tăng dân số và tăng nguồn lao động nhanh
Hằng năm dân số nước ta tăng khoảng 1,2 triệu người . việc tăng dân số như vậy là tương đối nhanh nếu so với các nước khác.Hiện tượng này vừa có mặt tích cực vừa có những ảnh hưởng không hay đối với phát triển kinh tế.
Theo các chuyên gia dân số dự báo từ nay đến năm 2019 tình hình dân số và lực lượng lao động nước ta có sự chuyển biến như sau:
Nhóm tuổi
1994
1999
2004
2009
2014
2019
0 – 9
17381,4
16592,5
15780,5
15320,0
15424,8
15056,7
10 – 14
8542,5
8853,3
8270,1
8112,5
7506,4
7680,6
Dân số trong tuổi lao động
38462,0
44470,2
50656,3
55606,0
59253,1
61264,5
60-64
1814,4
1704,9
1678,3
1868,1
2756,8
3914,3
Trên 65
3559,4
4168,0
4537,2
4752,7
5060,6
6105,0
Dân số cả nước
70777,9
76787,1
82004,2
87218,1
92216,5
96706,2
Tỷ lệ % so vớidân số
54,34
57,91
61,77
63,76
64,25
63,75
Đơn vị : Nghìn người (Nguồn: Tổng cục thống kê)
Như vậy , nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001-2005 , hay cụ thể hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Bước sang năm 2005, theo dự báo của bảng trên sẽ có khoảng 8853,3 nghìn người bước vào độ tuổi lao động và đây là một thuận lợi lớn của nước ta về khả năng đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội.
Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ tuổi lao động liên tục tăng qua các năm . Cụ thể , năm 1994 chiếm 53,34% so với dân số, năm 1999 chiếm 57,91% và năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng dân số tuy đã hạ xuống nhưng vẫn ở mức cao, áp lực công việc nặng nề, nếu không có những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cao.
Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng dồi dào về lao động, có đủ khả năng giải quyết mọi công việc. Trên thực tế, năm 1998, cả nước có khoảng 45,2 triệu lao động, so với năm 1995 tăng 3,91 triệu người, trung bình tăng 1,3 triệu người hàng năm. Đây là kết quả của tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định của những năm trước. Trong đó số lao động có khả năng lao động cũng tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Năm 1996, lực lượng lao động nước ta là 35,9 triệu người. Tốc độ tăng bình quân 2,95%/năm.Với số lao động mới tăng thêm, 4 triệu người, số lao động thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết việc làm năm 1996 là 0,7 triệu người, năm 1997 là 1,05 triệu người; số lao động dôi ra do chuyển dịch cơ cấu kinh tế dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp phải tìm việc làm mới cho khoảng 3 triệu người; yêu cầu của việc nâng quỹ thời gian lao động trong nông thôn đã được sử dụng 72,11% năm 1996 lên 75% năm 2000. Trong 4 năm (1996-2000) đã có 8 triệu người cần được giải quyết việc làm. Cộng với đó, trong thời kì kế hoạch 2001 –2005, số lao động hằng năm tăng thêm khoảng 1,2 triệu người mối năm. Con số này cũng không phải là nhỏ. Nhưng trong những năm đầu tiên của kì kế hoạch này, tình trạng thất nghiệp có những chuyển biến khá tích cực. ở khu vực thành thị, năm 2000, tỉ lệ thất nghiệp là 6.44%, năm 2001 là 6,28% và năm 2002 là 6,01%. Thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng tăng lên dáng kể. Năm 2000, thời gian lao động là 73,86%, năm 2001 là 74,37%và 75,41% vào năm 2002. con số này vào năm 2003 là 77%.
2.Đặc tính nguồn lao động có nhiều điểm chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước không chỉ đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao về tay nghề và trí tuệ mà còn phải có cơ cấu hợp lý. Chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay nhìn chung thấp, điều đó không chỉ thể hiện ở tình trạng sức khoẻ và trình độ chuyên môn kỹ thuật yếu mà còn thể hiện ở những bất cập trong cơ cấu nguồn lao động.
Về sức khoẻ, mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân nhưng do xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn dân số nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và bộ phận dân số ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Về lề lối, tác phong làm việc, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên còn chậm chạp, thiếu động lực sáng tạo trong lao động.
Năng xuất lao động nghìn chung còn thấp, cho nên thu nhập của người lao động vẫn chưa cao, tính trong năm 2001 –2002, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 357nghìn đông/người/tháng, trong đó ở nông thôn chỉ có 276 nghìn đồng/người/tháng.Thành thị khoảng 626 nghìn đồng/người/tháng
3. Cơ cấu lao động của nước ta còn nhiều điều phải bàn
Thứ nhất, vẫn tồn tại một cách quá cao tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật. Thực hiện CNH, HĐH là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ cao, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao dộng xã hội cao. Thực chất đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Bước chuyển này sẽ vô cùng khó khăn nếu không đi trước một bước trong việc chuẩn bị lực lượng lao động (LLLĐ) có trình độ học vấn, tay nghề cao, có cơ cấu hợp lý và đồng bộ.
Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao (khoảng trên dưới 85%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển thể hiện ở tháp sau:
Tháp lao động của Việt Nam các nước công nghiệp
0,5%5
0,3%
Các nhà khoa học
5%
2,7%
Kỹ sư
24,5%
33,5%
Chuyên viên kỹ thuật
35%
5,5%
Lao động lành nghề
35%
88%
Lao động không lành nghề
Nhìn vào hai hình trên cho thấy trình độ nguồn lao động nước ta chủ yếu là LLLĐ không lành nghề. Trong khi LLLĐ lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng số LLLĐ xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. LLLĐ có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật (tính đến giữa năm1999 số này mới có khoảng 14%, ). Trong một số ngành kinh tế quan trọng cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng 1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7%(hiện nay LLLĐ của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng LLLĐ đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Cái thiếu của ta là lao dộng kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long cao nhất nước (khoảng 20,5% và 21,7% tổng LLLĐ xã hội). Trong khi đó vùng Tây Nguyên rộng lớn, LLLĐ chỉ có khoảng 4%, vùng duyên hải Miền Trung khoảng 10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh quốc phòng của quốc gia.
2.Nguyên nhân gây ra những bất cập.
Thứ nhất Tình hình tăng trưởng dân số nhanh dẫn tới tăng nhanh về LLLĐ. Đây vừa là một và thuận lợi cũng là một khó khăn. Thuận lợi nếu chúng ta biết cách đào tạo và sử dụng đúng nguồn lao động dồi dào này, nhưng khó khăn lớn nhất là nó tạo áp lực lớn về giải quyết việc làm. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này sẽ dẫn tới những tệ nạn xã hội gây những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Thứ hai, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề (ĐTN) dài hạn, mất cân đối với đào tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của chính ngành giáo dục và đào tạo. Cùng với tâm lí của người dân, họ chưa coi trọng việc học nghề, chỉ coi đó là bước đi cuối cùng của mình, khi không còn sự lựa chọn nào khác. Vì thế các cơ sở đào tạo nghề thường không hấp dẫn đối với học sinh khi lựa chọn công việccho bản thân
Thứ ba, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề thường nhỏ, trên 50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ là lý do chính làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị đào tạo cao. Trước sức ép của nhu cầu đào tạo thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải. Cùng với đó là việc đầu của xã hội cho đào tạo nghề còn khá khiêm tốn. Nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo chủ yếu được đưa vào các trường đại học và cao đẳng , phổ thông trung học..chứ ít được đưa vào các trường dạy nghề. Vì thế chất lượng của việc dạy và học chưa thực sự cao
Thứ tư, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây thiếu giáo viên cả về tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo viên không có thời gian để nghiên cứu, bổ sung kiến thức thường xuyên và tình trạng “chạy sô” khá phổ biến.Nhưng theo một đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo thì đội ngũ giáo viên đã có chất lượng tốt hơn trước đây. Chỉ số của sự đánh giá chất lượng cao hơn này gồm có: thâm niên giảng dạy trung bình cao hơn, và số có bằng đại học và sau đại học nhiều hơn trước đây. Song thực chất, chỉ số này chưa đủ để phản ánh toàn diện chất lượng giáo viên. Số năm thâm niên trung bình cao có thể cảnh báo một xu hướng già hoá, lớp trẻ ít quan tâm đến việc trở thành giáo viên ở các trường ĐTN. Đồng thời các chỉ số về chuyên môn cụ thể cho các môn học ngành nghề hiện nay đang thấp hơn nhiều so với các bộ môn cơ bản. Như vậy, điểm yếu vẫn đang tập trung ở các trường kỹ thuật ngành nghề.
Việc lao động phân bố không đồng đều ngoài các nguyên nhân khách quan cón phải kể đến một nghuyên nhân,đó là hệ thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động làm việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù khong có việc làm cũng cố ở lại thành thị chờ cơ hội. Thực tế này không chỉ làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị mà còn tạo xu thế kém phát triển lâu dài ở các vùng nông thôn rộng lớn tình trạng chậm phát triển ở khu vực này, càng làm tăng khoảng cách về phát triển cũng như thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Đồng thời còn làm xói mòn các kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực
Phần 3 kế hoạch lao động và việc làm năm 2004
I) phương hướng và nhiệm vụ, giải pháp về lao động việc làm thời kì 2004 - 2005
1. Dự báo khả năng phát triển của nguồn nhân lực trong thời gian tới
Tốc độ tăng của lực lượng lao động khoảng 2,9%. Theo đánh giá chung, số lao động có thể giải quyết trong thời gian tới khoảng 3,8 – 4,1 triệu người. Trong đó, giải quyết cho khoảng 2,4 – 2,6 triệu việc làm mới, giải quyết thất nghiệp khoảng 0,5 triệu lao động. Việc nâng tỉ lệ lao động trong nông nghiệp lên 80% vào năm 2005 đồng nghĩa với việc tạo ra khoảng 0,7 triệu lao động.
Vấn đề tiêu thị nông sản thô trong nước và thế giới có thể bị chậm lại. Do đó, nếu không có chiến lược nâng cao chất lượng nông sản, chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp thì khả năng thu hút lao động trong khu vực này trong thời gian tới có thể gặp khó khăn
Vấn đề thất nghiệp ở thành thị cũng là khó khăn trong thời gian tới, theo nhận địng trong thời gian tới, lao động trong khu vực này có thế tiếp tục gia tăng, và nếu không giải quyết tốt cho lượng lao động tăng thêm này thì khả năng tỉ lệ thất nghiệp trong khu vực thành thị cũng khoảng trên dưới 6%
II. Mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch năm 2004
Năm 2004 là năm thứ 4 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đây là năm có ý nghĩa rất quan trọng giữ vai trò quyết định trong việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch 5 năm.
Căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, trên cơ sở kết quả thực hiện 3 năm qua, năm 2004 phải đạt được những bước chuyển biến căn bản của nền kinh tế-xã hội nước ta, tập trung thực hiện các trọng tâm sau đây:
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học và công nghệ, coi đây là khâu then chốt để phát triển nhanh và vững chắc.
Số học sinh trung học cơ sở tăng 1,8%, học sinh trung học phổ thông tăng 5,7%. Tiếp tục thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Số học sinh tuyển mới học nghề tăng 6-7%, tuyển mới đại học tăng 5%.
Giảm tỷ lệ sinh bình quân trong năm 0,4‰; quy mô dân số 81,75 triệu người, tăng 1,28%.
Tạo việc làm cho khoảng 1,5 triệu lao động, trong đó xuất khẩu lao động 6 vạn người.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị khoảng 5,7%; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn 77,5%.
Chương III
những chính sách ,biện pháp cơ bản để thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá lao động và việc làm năm 2004 và trong kì kế hoạch 2001-2005
I)những chính sách chủ yếu
Để nâng cao chất lượng lao động và giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để cho người lao động có điều kiện hoàn thiện năng lực, tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua các chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu lao động, đồng thời làm cho cung và cầu lao động phù hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Có thể đưa ra một số chính sách chủ yếu có tính chất định hướng như sau nhằm thực hiện tốt hơn kế hoạch về lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005:
1.Chính sách khuyến khích và đãi ngộ người có trình độ
Mục tiêu của người lao động là có thu nhập tương ứng khả năng của mình, đảm bảo cuộc sống ổn định cho gia đình. Vì vậy, càng có những yếu tố vật chất và tinh thần để khuyến kích và đãi ngộ thì người lao động càng nâng cao trình độ của mình, đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội. Cần tập trung vốn cho giáo dục và đào tạo nhằm khuyến khích mọi người tự nâng cao và được nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của mình đồng thời phải có những hình thức đãi ngộ riêng cho những người có trình độ cao hơn người khác, xã hội đang khan hiếm từ đó có động lực hơn cho mọi lao động phấn đấu.
2.Nâng cao chất lượng nguồn lao động
Thứ nhất, khẩn trương điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực. Tập trung vào ba hướng sau:
-Với đào tạo đại học, cao đẳng: Tăng chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường sư phạm, kỹ thuật, nông nghiệp nhất là các trường nằm ngay ở đồng bằng sông Cửu Long và trung du miền núi phía Bắc. Để làm tốt điều này, cần rà soát lại chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để điều chỉnh kịp thời chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cho các trường, các ngành học. Các cơ sở đào tạo, một mặt, phải thực hiện đúng chỉ tiêu tuyển sinh, khắc phục tình trạng tuỳ tiện tăng chỉ tiêu, mặt khác phải tiến hành khâu tuyển sinh chặt chẽ, nghiêm túc, đảm bảo chất lượng đầu vào cho các trường và ngành học.
-Nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Trong mấy năm qua, quy mô đào tạo tuy đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Cần dấy lên phong trào học nghề trong toàn xã hội, phải quy hoạch lại hệ thống dạy nghề theo hướng đồng bộ cả về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng kinh tế và ở từng địa phương. Đổi mới phương pháp, nội dung và giáo viên dạy nghề cho phù hợp với thực tế.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực trong đó cần đặc biệt coi trọng các chính sách sau: tập trung đầu tư thoả đáng vào đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao; khuyến khích các doanh nghiệp, giáo viên và người học trong lĩnh vực đào tạo nghề; khuyến khích người học nghề phát triển tài năng và mở đường cho họ phát triển không hạn chế tài năng; khuyến khích vật chất và đãi ngộ tài năng thoả đáng (tiền lương, phụ cấp, bồi dưỡng vật chất) cho các nghệ nhân dạy nghề và truyền nghề ...
Thứ ba, phát triển và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm vào việc đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động, cũng như nhu cầu vay vốn dài hạn với lãi xuất ưu đãi cho kinh tế hộ nông thôn nhằm giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở khu vực này, giải toả sức ép di dân đến đô thị.
3.Bổ sung và hoàn thiện một số chính sách vĩ mô
3.1.Chính sách tạo vốn
Yếu tố cơ bản trước tiên của giải quyết việc làm là phải có vốn. Chính sách tạo vốn phải chú ý hai hướng:
Một là, tập trung nguồn lực vốn cho mở rộng việc làm thông qua các chương trình tổng thể, nhất là các chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình khai thác tiềm năng các vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ...
Hai là, huy động đến mức cao nhất nguồn vốn trong nhân dân bằng các chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển việc làm như chính sách cho thuê, mượn đất đề người có vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh...
Trong chính sách tạo vốn, quan trọng nhất là hoàn thiện chính sách về hệ thống tín dụng. Cần phải hình thành hệ thống tín dụng với cấu trúc như sau:
-Hệ thống tín dụng thương mại. Hệ thống này chủ yếu phục vụ các đối tượng là chủ thể sản xuất, kinh doanh đúng theo cơ chế thị trường. Người vay được áp dụng theo chính sách lãi suất đúng thị trường.
-Hệ thống tín dụng có tính chất tài trợ của Nhà nước cho các chương trình xã hội. Thực chất là Nhà nước trợ giúp tạo mở việc làm thông qua chính sách tín dụng với lãi suất nâng đỡ.
-Hệ thống tín dụng nhân dân. Là hình thức tín dụng trong cộng đồng, giúp nhau tạo vốn phát triển sản xuất, kinh doanh.
3.2.Chính sách đất đai
Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng khuyến khích nhân dân đầu tư khai phá và sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tạo ra nhiều việc làm có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác.
3.3.Chính sách thuế
Mặc dù nước ta đã có luật thuế, Chính phủ cũng luôn thay đỏi mức thuế cụ thể cho phù hợp với thực tế, song để khuyến khích các chủ kinh tế phát triển, giải quyết việc làm cho nhiều người trong cơ chế thị trường, Nhà nước cần bổ sung, hoàn chỉnh một số vấn đề trong chính sách thuế theo hướng:
Thứ nhất, cần áp dụng chính sách khuyến khích doanh nghiệp đưa công nghệ thích hợp vào sản xuất, trong đó vừa đảm bảo yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, vừa tạo thêm việc làm mới cho người lao động, đặc biệt là tạo ra các tầng khác nhau để sử dụng được nhiều lao động.
Thứ hai, thực hiện chính sách miễn, giảm thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình mới ra đăng kí kinh doanh lần đầu (2-3 năm đầu) thu hút được thêm lao động. Thực hiện chính sách này phải có sự phân biệt đối tượng để có sự ưu tiên đứng mức, trước hết là:
-Các doanh nghiệp, các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn (làng nghề).
-Các hộ gia đình, các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng sử dụng nguyên liệu trong nước hoặc các cơ sở sản xuất có vệ tinh ở nông thôn sử dụng lao động nhàn rỗi.
-Các cơ sở sản xuất của người tàn tật, thương binh, các đối tượng tệ nạn xã hội, người thôi việc trong khu vực Nhà nước, lao động hợp tác nước ngoài trở về, người mãn hạn tù...
Thứ ba, có các biện pháp khuyến khích thúc đẩy sự ra đời và trưởng thành của thị trường lao động, thông qua việc hố trợ và quản lí hoạt động của các công ty môi giới việc làm, các trung tâm hỗ trợ việc làm...
4.Hình thành hệ thống đồng bộ các chính sách chủ yếu khuyến khích các hình thức và lĩnh vực thu hút được nhiều lao động
4.1.Chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ gia đình để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Để giải quyết việc làm cho lao dộng nông thônthông qua hình thức kinh tế hộ gia đình, Nhà nước cần bổ sung một số chính sách cụ thể sau:
-Tăng tỷ lệ đầu tư vào khu vực nông thôn từ ngân sách thông qua các chương trình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện chuyển các hộ gia đình sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
-Lập quỹ tín dụng cho các hộ gia đình vay theo món nhỏ với lãi suất hợp lý và theo chu kỳ sản xuất. Tăng dần tỷ lệ cho vay trung hạn để mọi người có điều kiện tập trung đầu tư theo chiều sâu. Đặc biệt khuyến khích các hộ gia đìng vay vốn để phát triển tiểu thủ công nghiệpvà dịch vụ, tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu nông trại...
-Thiết lập hệ thống chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, và các hộ gia đình để sản xuất các mặt hàng nông sản gắn với xuất khẩu có giá trị kinh tế cao.
-Có chính sách trợ giá cho nông nghiệp hoặc nghiên cứu lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp cho các hộ gia đình, xác lập mối quan hệ giá cánh kéo hợp lý trong từng thời kỳ.
4.2.Đổi mới chính sách di dân xây dựng các vùng kinh tế, xã hội dân cư mới để gắn lao động với đất đai và tài nguyên đất nước
Những định hướng cơ bản đổi mới chính sách này cóthể khái quát như sau:
-Thay đổi chính sách đầu tư khai thác các vùng trên cơ sở đó thực hiện phân bố lại lao động, dân cư và giải quyết việc làm.
-Tiếp tục đổi mới các hình thức di dân xây dựng các vùng kinh tế mới theo chương trình, dự án quốc gia, vùng và địa phương. Nhà nước tập trung vào một số vùng trọng điểm theo dự án quốc gia, còn lại cần quy hoạch để dân tự đến khai thác, trong dó cần chú ý luồng di dân tự do từ các tỉnh phía Bắc vào Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.
-Sửa đổi, bổ sung một số chính sách cụ thể liên quan đến di dân xây dựng các vùng kinh tế mới như: thực hiện việc đánh thuế đất đai để sử dụng tiết kiệm đất, trao quyền sử dụng đất lâu dài cho dân, tạo vốn cho các hộ gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới...
4.3.Chính sách khuyến khích phát triển khu vực kinh tế quy mô nhỏ và linh hoạt trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ ở thành thị để giải quyết việc làm
Đây là loại chính sách tác động vào phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực phi kết cấu ở thành thị phù hợp với cơ chế thị trường. Để khuyến khích khu vực này phát triển, chính sách của Nhà nước cần tập trung vào các hướng sau:
-Cụ thể hoá hơn nữa Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước cho sát với thực tế để tạo hành lang pháp luật cho dân tự do kinh doanh. Trong đó, đặc biệt là cần đơn giản hoá thủ tục và giảm lệ phí thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh.
-Sớm ban hành một số chính sách khuyến khích và trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình có cơ sở sản xuất, kinh doanh như miễn, giảm thuế cho họ trong 2-3 năm đầu, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi...
-Quy hoạch, tổ chức lại phố phường, vỉa hè, chợ ở các thành phố để tạo điều kiện cho các khu vực phi kết cấu phát triển song không ảnh hưởng đến vệ sinh đô thị và mỹ quan thành phố.
-Phát triển sự nghiệp đào tạo các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chủ hộ kinh doanh về kiến thức quản lý doanh nghiệp theo cơ chế thị trường như marketing, hạch toán doanh nghiệp.
4.4.Chính sách khôi phục và phát triển nghề truyền thống để tạo việc làm cho người lao động
Nghề truyền thống có khả năng thu hút được nhiều lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người, kể cả nông thôn và thành thị. Để khôi phục và phát triển nghề truyền thống, Nhà nước cần phải có một chính sách khuyến khích và trợ giúp, cụ thể là:
-Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình làm nghề truyền thống như cho vay vốn với lãi suất thấp từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, giảm đến mức tối đa các lệ phí, cho mượn hoặc thuê mặt bằng để sản xuất...
-Tổ chức lại các cơ sở làm nghề truyền thống trên cơ sở lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời phát triển mạnh mẽ hình thức hợp tác kiên gia đình, các làng nghề, doanh nghiệp vừa và nhỏ...
4.5.Chính sách khuyến khích tự do di chuyển lao động và hành nghề theo pháp luật
Dưới góc độ việc làm, tự do di chuyển và hành nghề là hiện tượng tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sụ phát triển của thị trường lao động ở nước ta nhằm điều chỉnh quan hệ cung-cầu lao động, giảm thất nghiệp kết cấu. Bởi vậy, việc ứng xử của Nhà nước không phải là cấm nó phát triển, mà trái lại phải có cơ chế và chính sách để quản lý và kiểm soát nó, khuyến khích nó phát triển đúng hướng. Các chính sách quan trọng nhất là:
-Ban hành đồng bộ các thể chế, biện pháp quản lý và kiểm soát về mặt Nhà nước đối với thị trường lao động, đảm bảo người lao động được di chuyển và hành nghề một cách tự do theo pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước. Trước hết đó là các chính sách về tiền lương tối thiểu, an toàn vệ sinh lao động, hợp đồng lao động...
-Tổ chức hệ thống văn phòng dịch vụ giới thiệu việc làm và cung ứng lao động, thông tin về thị trường lao động ở các địa phương và các vùng.
-Trong các thành phố, ở các địa phương cần có chương trình phối hợp để quản lý được tốt đối tượng hành nghề tự do phù hợp với chính sách quản lý hộ khẩu, chính sách nhà ở... theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được tự do hành nghề theo pháp luật.
4.6.Chính sách đối với hình thức thanh niên xung phong làm kinh tế và giải quyết việc làm cho thanh niên
Thanh niên xung phong là một trong những hình thức quan trọng thu hút lực lượng trẻ tuổi của thanh niên ta. Trong điều kiện hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ chức này theo hướng vừa gắn với nghĩa vụ của thanh niên trong giai đoạn cách mạng mới, tham gia gải quyết những nhiệm vụ khó khăn trong phát triển kinh tế xã hội, giải quyết việc làm cho thanh niên, vừa phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả trong hoạt động của lực lượng thanh niên xung phong. Về mặt chính sách, Nhà nước cần tập trung vào một số định hướng sau:
-Nhà nước cần định hướng hoạt động chủ yếu của lực lượng thanh niên xung phong là lực lượng xung kích trong việc thực hiện những công trình trọng điểm của quốc gia. Nhà nước ưu tiên dành cho những chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội theo kế hoạch ngắn hạn và dài hạn cho lực lượng thanh niên xung phong đảm nhận dưới hình thức nhận thầu hoặc giao cho thanh niên xung phong đứng ra lập luận chứng kinh tế xã hội các dự án lớn có sự đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước.
-Khuyến khích tổ chức thanh niên xung phong phát triển sản xuất và dịch vụ hoạt độngtheo cơ chế thị trường và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật.
-Nhà nước có chính sách tiền công hợp lý, chính sách bảo hiểm xã hội để bảo vệ quyền lợi chính đáng của thanh niên và có những chính sách ưu đãi thích hợp như đào tạo, dạy nghề... sau khi hết hạn phục vụ trong thanh niên xung phong để thanh niên yên tâm cống hiến.
-Phát triển các trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm, trung tâm dịch vụ cung ứng lao động cho thanh niên xung phong, có sự đầu tư trợ giúp ban đầu của Nhà nước.
4.7.Chính sách khuyến khích lực lượng vũ trang tham gia phát triển kinh tế và tạo việc làm
Lực lượng vũ trang có một đội ngũ khoa học, kỹ thuật, lao động và cơ sở vật chất kỹ thuật đáng kể. Vì vậy, lao động sản xuất và tham gia hoạt động kinh tế là một trong những nhiệm vụ chiến lược của lực luượng vũ trang, thể hiện quan điểm nhất quán kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Định hướng cơ bản của chính sách này như sau:
-Hoạt động kinh tế của lực lượng vũ trang chủ yếu là kết hợp và tận dụng năng lực sản xuất hiện có để sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá tiêu dùng, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho công nhân viên quốc phòng, an ninh.
-Cần hình thành các đơn vị vũ trang làm kinh tế kết hợp với an ninh, quốc phòng để thực hiện xây dựng hạ tầng cơ sở, là những công trình có tính chất tạo mở và phát triển việc làm để thu hút lao động xã hội ở các ddịa bàn chiến lược kinh tế-quốc phòng, nhưng cũng phải trên cơ sở chương trình, dự án đầu tư của Nhà nước.
-Nhà nước cần có cơ chế và chính sách riêng đối với mô hình lực lượng vũ trang làm kinh tế kết hợp với an ninh, quốc phòng như các chính sách tín dụng cho vay với với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm...
-Phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm trong hệ thống quốc phòng để dạy nghề và tạo việc làm cho bộ đội trước khi xuất ngũ. Các trung tâm này nằm trong hệ thống Trung tâm xúc tiến việc làm quốc gia và được đầu tư trợ giúp một phần ban đầu từ ngân sách Nhà nước.
Iv.những biện pháp cơ bản để thực hiện công tác kế hoạch lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005
1.Tiếp tục thực hiện tốt công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình
Trong giai đoạn tới sẽ giảm mức sinh bình quân hàng năm 0,04-0,05%, tốc độ tăng dân số vào năm 2005 là 1,23%, quy mô dân số khoảng 83 triệu người, trong đó ở nông thônkhoảng 60 triệu người, thành thị khoảng 23 triệu người, từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư nhằm hạn chế việc mở rộng chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư và các nhóm xã hội khác nhau, đưa các yếu tố tích cực của dân số vào các kế hoạch phát triển.
2. Đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài thực hiện mục tiêu đưa số lao động ra nước ngoài hằng năm khoảng trên dưới 0,7 triệu người. Muốn vậy, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
-Nâng cao chất lượng, ý thức kỉ luật của người lao động xuất khẩu
-Tích cực khai thác thị trường mới, giữ vững các thị trường mà ta đã khai thác được như Hàn Quốc, Malaixia .....
-Khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ giới thiệu và môi giới việc làm, khuyến khích thành lập các trung tâm thông tin về việc làm đồng thời xây dựng cơ chế giám sát để ngăn ngừa các hành vi lừa đảo. Tăng cường công tác dạy nghề, tạo việc làm tại chỗ đi đôi với xuất khẩu lao động, ưu tiên vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa
- Nhà nước sớm ban hành quy chế hoặc pháp lệnh đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, khẩn trương tổ chức hệ thống dạy nghề cho người lao động để chuẩn bị lực lượng lao động có trình độ tay nghề và ngoại ngữ đpá ứng yêu cầu của nước sử dung lao động, dần dần hình thành đội quân chuyên nghiệp đi lao động ở nước ngoài, từng bước hoà nhập vào thị trường lao động quốc tế.
3.Biện pháp tăng cầu lao động trong thời gian tới.
Thứ nhất, đối với nước nghèo và nhiều lao động như Việt Nam thì tăng cầu lao động là một mục tiêu quan trọng nhưng phải đảm bảo hai nguyên tắc: chi phí thấp và tạo được càng nhiều việc làm càng tốt thông qua biện pháp kinh tế là chính. Các kiến nghị là:
-Cần nhanh chóng cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân trong mọi lĩnh vực.
-Cần có chính sách rõ ràng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo được nhiều việc làm. Khuyến khích liên kết giữa doanh nghiệp lớn-vừa-nhỏ, qua đó có thể tuyển dụng lao động có trình độ khác nhau từ giản đơn đến kỹ thuật cao, vừa thực hiện chuyển giao kỹ thuật giữa doanh nghiệp lớn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực hiện đào tạo theo phương thức vừa học vừa làm.
Thứ hai, khuyến khích các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình để giải quyết việc làm tại chỗ. Các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin, giới thiệu sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ và tạo cầu nối giữa nông dân và cơ quan hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả các chương trình giải quyết việc làm bằng cách xây dựng hệ thống hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, điều chỉnh chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Cần nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm, bao gồm trách nhiệm về đóng góp tài chính, hướng dẫn thực hiện, hướng dẫn kỹ thuật, giám sát và đánh giá, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chương trình khi không đạt được mục tiêu.
Không nên thực hiện chương trình giải quyết việc làm một cách dàn trải, nên ưu tiên cho các vùng căng thẳng về giải quyết lao động và cần sự giúp đỡ của nhà nươc trung ương. Tuy nhiên, chương trình cũng chỉ nên triển khai tại một số nơi đã có đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ địa phương am hiểu thực tế và có khả năng giám sát đánh giá hiệu quả của các biện pháp giải quyết việc làm, ở nơi người lao động có đủ khả năng vay vốn để tự tạo công ăn việc làm.
Thứ tư, do thị trường lao động mới được hình thành, nên việc tiếp tục hoàn thiện khung khổ luật pháp cho nó vận hành trong nền kinh tế thị trường là rất cần thiết. Cụ thể là cần hoàn thiện khung khổ luật pháp về lao động, như quy định về tiền công, tiền lương, các chế độ đối với người lao động khi chuyển việc, thôi việc, mất việc .....
4.Giải quyết việc làm cho các khu vực.
4.1.Khu vực thành thị.
Thành thị mặc dù có tỷ trọng về dân số và lao động không lớn hơn so với khu vực nông thôn, nhưng lại là địa bàn tập trung mật độ dân cư, lao động cao, cũng là nơi chịu tác động mạnh của cơ chế thị trường, dễ nảy sinh những điểm nóng về các vấn đề kinh tế xã hội, nhất là vấn đề việc làm.
Phương hướng rất quan trọng để giải quyết việc làm cho lao động ở thành thị là phải gắn với chương trình phát triển doanh nghiệp có quy mô lớn, nhất là ở địa bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển mạnh các tập đoàn sản xuất mạnh của nhà nước ở các vùng hoặc trên phạm vi cả nước, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn ....
Phát triển hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu cũng là hướng rất lớn để giải quyết việc làm cho lao động thành thị. Phải coi trọng gia công xuất khẩu là một quốc sách và lợi dụng tối đa ưu thế của nước ta có nhiều lao động với giá rẻ, dễ tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới lại có nguồn nguyên liệu trong nước tại chỗ dồi dào
Phát triển các cơ sở dịch vụ công cộng và sự nghiệp nhà ở trong các thành phố, thị xã sẽ tạo ra rất nhiều việc làm cho thanh niên thành thị, đặc biệt là ở một số thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung.
Khai thác tiềm năng kinh tế vùng ven thành phố, thị xã, trong mối quan hệ và liên kết kinh tế giữa nội-ngoại thành là hướng quan trọng để tạo việc làm cho lao động thành thị.
4.2.Khu vực nông thôn.
ở nông thôn vấn đề cơ bản nhất cần phải giải quyết là nạn thiếu việc làm còn rất phổ biến và nghiêm trọng, việc làm kém hiệu quả và thu nhập thấp dấn đến đời sống thấp, một bộ phận lớn dân cư còn ở trong tình trạng nghèo khổ.
Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, phải làm thay đổi và chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm dần về số hộ thuần nông để giải phóng đất đai, khắc phục tình trạng bình quân đầu người diện tích đất nông nghiệp quá thấp như hiện nay. Đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện người nào giỏi việc gì thì làm việc ấy, trên cơ sở giao đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, đồng thời bằng cơ chế, chính sách và luật pháp tập trung dần ruộng đất có điều kiện cho các hộ gia đình có khả năng sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hàng hoá.
Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn nhưng cần ít vốn và hướng vào xuất khẩu như xí nghiệp nhỏ ở nông thôn và công nghiệp gia đình, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao...
4.phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế cao
Hai năm cuối 2004 –2005 của kì kế hoạch, chúng ta phấn đấu mức tăng trưởng kinh tế GDP vào khoảng trên dưới 8% nhằm giải quyết nhiều hơn nữa nguồn lao động của quốc gia
Chương iV Kết luận
Ba năm qua, tạo việc làm mới cho khoảng 4,3 triệu lao động ( kế hoạch 5 năm là 7,5 triệu lao động); trong đó, khoảng 2,6 triệu người làm việc trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp; 90 vạn người làm việc trong ngành công nghiệp, xây dựng và 76 vạn người làm thương mại, dịch vụ. Đã đưa 13,7 vạn người đi làm việc ở nước ngoài.
Cơ cấu lao động tiếp tục có sự dịch chuyển theo hướng tích cực. Nhìn chung trong 3 năm qua xu hướng chung của lao động nước ta là tăng dần tỉ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp. Trong vòng 3 năm, sự dịch chuyển này diễn ra khá liên tục nhưng nếu so sánh với mục tiêu đặt ra thì chúng ta còn phải cố gắng nhiều hơn nữa trong những năm tiếp theo.
Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 14,4% trong tổng số lao động năm 2001 lên 15,9% năm 2003; tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp từ 62,8% giảm xuống còn 59,8%; tỷ trọng lao động ngành dịch vụ tăng từ 22,8% lên 24,3%. Xu hướng này là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển chung
Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thời gian nhàn rỗi ở nông thôn có xu hướng giảm dần, đó cũng là một tín hiệu khá đáng mừng
Việc xuất khẩu lao động sang các nước khác trong khu vực nhìn chung có tăng lên hằng năm nhưng chất lượng lao động chưa được cải thiện đáng kể.
Qua những phân tích ở trên có thể thấy lao động và việc làm đang là một vấn đề xã hội hết sức rộng lớn, muốn giải quyết thì nó đòi hỏi phải có sự quan tâm của toàn xã hội bên cạnh sự quyết tâm cao nhất của Nhà nước. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội để chúng ta có thể thể hiện được sự khéo léo trong việc quản lý xã hội, tạo đà cho sự phát triển mới trong tương lai.
Trong giai đoạn 2001-2005, giải quyết được vấn đề lao động và việc làm sẽ là một thành công lớn để tạo cơ sở cho việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1) Văn kiện trình đại hội IX của Đảng
2) Tạp chí “thị trường lao động” số 1,2,3 năm 2000
3) Tạp chí “nghiên cứu lý luận” 6/2000
4) Tạp chí “lao động và xã hội” 5,6/1998, 11/1999, 9/2000, 206+207+208/2003
5) Tạp chí “nghiên cứu kinh tế” 12/1999, 1/2000
6) Tạp chí Kinh tế và Dự báo 7/2003
7) Tạp chí Lao động và Xã hội số 1+3+7 /2003
8) giáo trình kinh tế phát triển – khoa KH & PT- trường ĐH KTQD
9) Giáo trình Kế hoạch hoá– khoa KH & PT- trường ĐH KTQD
Mục lục
Chương I Những vấn đề cơ bản về kế hoạch phát triển lực
lượng lao động 1
I Các khái niệm có liên quan đến lao động việc làm 1
II Khái niệm và ý nghĩa của kế hoạch hoá phát triển lực lượng
lao động 3
Chương II thực trạng sử dụng lao động của nước ta trong thời
gian qua từ 2001 –2003) 5
I .Khái quát về tình hình phát triển của lực lượng lao động thời
gian từ 2001 – 2003 5
Phần 1 Kế hoạch lao động và việc làm trong thời kì 2001 – 2005 5
Phân 2 Tình hình thực hiện trong những năm từ 2001 – 2003 8
Phần 3 Kế hoạch lao động, việc làm năm 2004 14
Chương III Những chính sách và biện pháp cơ bản để thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá lao động và việc làm năm 2004 và trong kì kế hoạch 2001 – 2005 16
I) Những chính sách chủ yếu 16
II) Những biện pháp chủ yếu 22
Chương IV Kết luận 26
Danh mục tài liệu tham khảo 27
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 75359.DOC