Tài liệu Đề tài Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn: LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người với những công cụ bằng đồng, đá cho đến những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày nay là cả một quá trình phấn đấu, tìm tòi phát triển không ngừng của mỗi con người trong xã hội. Các Mác đã nói “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.[1, tr.358] Quả thực như vậy, vì hoạt động con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, còn hoạt động con người gắn liền với xã hội, phục vụ cho xã hội. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng để sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên, con người phải lao động để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội và vì vậy con người chính là lực lượng sản xuất chủ yếu, không có con người thì không có xã hội loài người.
Thực tế, chúng ta đều có thể nhận thấy là khi lao động sản xuất con người luôn luôn phải đối mặt với tai nạn, rủi ro, bệnh tật,… đe doạ đến cuộc sống, tính mạng của con người. Để khắc phục được tình trạng đó...
61 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người với những công cụ bằng đồng, đá cho đến những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày nay là cả một quá trình phấn đấu, tìm tòi phát triển không ngừng của mỗi con người trong xã hội. Các Mác đã nói “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.[1, tr.358] Quả thực như vậy, vì hoạt động con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, còn hoạt động con người gắn liền với xã hội, phục vụ cho xã hội. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng để sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên, con người phải lao động để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội và vì vậy con người chính là lực lượng sản xuất chủ yếu, không có con người thì không có xã hội loài người.
Thực tế, chúng ta đều có thể nhận thấy là khi lao động sản xuất con người luôn luôn phải đối mặt với tai nạn, rủi ro, bệnh tật,… đe doạ đến cuộc sống, tính mạng của con người. Để khắc phục được tình trạng đó, có rất nhiều biện pháp đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro xảy ra, nhưng đó là chưa đủ bởi vị trí và tầm quan trọng của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung thì cần có những biện pháp khác nữa để khắc phục hậu quả đó. Vì vậy, bảo hiểm con người đã ra đời. Bảo hiểm con người giúp mỗi người khi tham gia ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, tạo ra chỗ dựa tinh thần để họ an tâm học tập, lao động sản xuất. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2000-2010, Đảng và nhà nước ta đã xác định “ tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường bảo hiểm trong nước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài”.[2] Bảo hiểm nói chung, bảo hiểm con người nói riêng đang được sự quan tâm của Đảng, nhà nước và của toàn xã hội.
Đối với nước ta hiện nay là một nước đang phát triển, vừa là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với việc các nước tăng cường hợp tác thì việc phát triển kinh tế để hội nhập là tất yếu và vì vậy, vấn đề bảo hiểm con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Chính vì những nguyên nhân trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn”, mục tiêu của đề tài nhằm khai thác được những vấn đề mọi người quan tâm, để thấy được vai trò, tầm quan trọng của bảo hiểm con người và đặc biệt là tăng thêm sự hiểu biết của bản thân trong lĩnh vực này.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm con người, trên cơ sở xem xét các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật dân sự, và các văn bản có liên quan. Trên cơ sở đó thấy được ưu điểm, nhược điểm của các quy định để đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành tốt đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp: phân tích, so sánh, tổng hợp,…
4. Tình hình thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
Về vấn đề bảo hiểm con người đã có nhiều công trình đề cập đến như giáo trình “Bảo hiểm” của trường Đại học Kinh Té Quốc Dân, cuốn “Bảo hiểm nhân thọ những vấn đề lý luận và thực tiễn” của thạc sỹ Trần Vũ Hải. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các bài viết về bảo hiểm con người trên các sách, báo, tạp chí… Tuy nhiên những công trình nghiên cứu đó chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận của bảo hiểm con người hoặc đi sâu nghiên cứu bảo hiểm nhân thọ (lĩnh vực chủ yếu của bảo hiểm con người). Qua đề tài này tác giả muốn trình bày và đi sâu nghiên cứu bảo hiểm con người trên cả hai phương điện đó là lý luận và thực tiễn.
5. Cơ cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khoá luận còn có phần nội dung được cơ cấu thành ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm con người
Chương II: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người.
Với ý nghĩa là một đề tài khoa học khoá luận đòi hỏi nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế. Là sinh viên lần đầu tiếp xúc với đề tài khoa học nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự thông cảm và những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
BẢO HIỂM CON NGƯỜI
1. Một vài nét khái quát cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm con người
1.1. Các nước trên thế giới
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, bảo hiểm con người ra đời do nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo vệ, được giúp đỡ, được chia sẻ hoạn nạn rủi ro khi tổn thất xảy ra. Trở lại với thời lịch sử xa xưa khi loài người sống bằng nghề săn bắt, hái lượm; ngay lúc đó, họ đã biết cách dự trữ những con vật săn bắt được. Đến một giai đoạn phát triển khá hơn, con người biết chăn nuôi trồng trọt, nhưng sản xuất nông nghiệp rất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và lúc đó nhà nông họ đã biết dự trữ lương thực khi mất mùa.
Quả thật, những hành động dự trữ những con vật rồi cả lương thực khi mất mùa nó không mang tính đảm bảo chắc chắn cho cuộc sống nhưng nó phần nào đã thể hiện được ý thức được bảo vệ của con người. Và đây cũng là hình thức sơ khai của bảo hiểm.
Thuật ngữ “Bảo hiểm con người” trong hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) con người được ghi nhận trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (KDBH) của Việt Nam (với hình thức bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu). Trên thế giới, mỗi nước có thể có các cách gọi khác nhau cho lĩnh vực này và các nước thường đề cập đến là bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, đối với việc nghiên cứu hình thành và phát triển của bảo hiểm con người trên thế giới, tác giả xin trình bày sự hình thành và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
Nếu như trong thời kỳ sơ khai, vấn đề con người quan tâm là nhu cầu ăn, ở, mặc thì ngày nay khi nhu cầu đó đã được đáp ứng đầy đủ thì những nhu cầu khác xa hơn, cao hơn trong đó có nhu cầu chăm lo cho tương lai cũng đòi hỏi phải đáp ứng. Bảo hiểm nhân thọ ra đời là đáp ứng nhu cầu đó. Chúng ta nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển vảo hiểm nhân thọ ở Anh, Mỹ là hai nước có ngành bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển nhất thế giới.
Ở Anh:
Sau cách mạng Ánh sáng 1688 Châu Âu chỉ có vương quốc Anh công nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy mà trong suốt ba thập kỷ sau cách mạng Ánh sáng ở Anh dịch vụ này phát triển mạnh mẽ. Công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên ở Anh (1762). Trong suốt quá trình công nghiệp hoá, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều bước phát triển. Năm 1879 chính phủ Anh thông qua “đạo luật bồi thường cho người lao động”. Đạo luật này buộc các công ty phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên. Trong thế kỷ 19 người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức khoẻ cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội kín này vẫn tiếp tục bảo hiểm cho hội viên, điều này cũng diễn ra tương tự ở hầu hết các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc nhiều HĐBH nhân thọ và sức khoẻ cho nhân viên. Các hợp đồng này không chỉ đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo cho nhân viên có cuộc sống ổn định khi họ bị bệnh, tai nạn hay về hưu. Chính các hình thức này là tiền thân của loại hình bảo hiểm con người ngày nay. Do có một chiều dài lịch sử phát triển nên ngày nay Anh vẫn là một trong những thị trường bảo hiểm nhân thọ lớn nhất thế giới với các công ty bảo hiểm nhân thọ xuyên quốc gia điển hình như Prudential…
Ở Mỹ:
Bảo hiểm ở Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo hiểm Anh. Vào năm 1735 công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Chaleston. Năm 1759 hội nghị giáo hội trưởng lão PhiladenPhia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kì. Ngày 22-5-1761, tập đoàn này đã kí kết được HĐBH nhân thọ đầu tiên với công chúng Mỹ. Mãi đến 80 năm sau dịch vụ bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thực sự phát triển. Chìa khoá dẫn đến thành công chính là nhờ các công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo.
Năm 1835 ở New York đã xảy ra một vụ hoả hoạn đầy tai tiếng. Vụ hoả hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước được. Hai năm sau Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp buộc các công ty phải tích luỹ nguồn dự trữ này.
Từ đó đến nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngành bảo hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một vài công ty ban đầu trở thành ngành công nghiệp có quy mô lớn. Mặc dù bảo hiểm Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi vương quốc Anh nhưng thị trường bảo hiểm nước này lại phát triển theo hướng có phần khác với Anh. Và ngày nay lĩnh vực bảo hiểm ở Mỹ phát triển nhất thế giới.
1.2. Ở Việt Nam
Luật KDBH 2000 ghi nhận thuật ngữ “bảo hiểm con người”, trước đó trong các nghị định, thông tư ghi nhận thuật ngữ bảo hiểm nhân thọ mà không hề nhắc đến khái niệm bảo hiểm con người. Vì vậy, chúng ta nghiên cứu sự phát triển của bảo hiểm con người từ loại hình chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ cho đến Luật KDBH 2000 (với khái niệm bảo hiểm con người) và sự phát triển của bảo hiểm con người từ năm 2000 đến nay.
Sự phát triển của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng gắn với lịch sử đất nước. Nếu lấy năm 1993 với Nghị định 100 CP (18-12-1993) về KDBH ra đời, thì trước năm 1993 bảo hiểm Việt Nam nói chung không phát triển. Nguyên nhân là do đất nước trải qua chiến tranh kéo dài và bị chia cắt thành hai miền khác nhau, mãi cho đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn giải phóng. Và từ năm 1975 đến năm 1993 là thời kì bảo hiểm độc quyền: chỉ có công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Đây cũng là thời kì thử nghiệm nên số nghiệp vụ chưa nhiều, phí bảo hiểm chưa phản ánh đầy đủ xác suất rủi ro.
Có thể nói Nghị định 100 CP ngày 18-12-1993 là mốc đánh dấu sự thay đổi và phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Nghị định quy định về địa vị pháp lí của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), cho phép sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vào hoạt động KDBH, trong đó chú trọng đến các nhà đầu tư nước ngoài để thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm trong nước. Trong Nghị định đã đề cập đến khái niệm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn con người theo khoản 1 và khoản 2 Điều 7 và đây cũng là những đối tượng của bảo hiểm con người sau này.
Sau khi Nghị định 100 CP ra đời, để cụ thể hoá sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm. Bộ tài chính đã ra thông tư hướng dẫn:
Thông tư 46 của Bộ tài chính ngày 30-5-1994 về hướng dẫn thi hành Nghị định 100 CP của chính phủ về hoạt động bảo hiểm.
Sau Nghị định 100 CP phải kể đến Bộ luật dân sự 1995 có những điều khoản cụ thể quy định về HĐBH (Nghị định 100 CP chưa đề cập đến). Các quy định này tương đối có hệ thống, có sự liên kết với các quy định về giao dịch dân sự. Mặc dù chưa mang tính cụ thể, chi tiết nhưng những quy định của Bộ luật dân sự là tiền đề quan trọng cho việc áp dụng, thực hiện các quy định của HĐBH con người sau này.
Nếu chỉ có các quy định của Bộ luật dân sự về HĐBH thì quá chung chung, không thể đáp ứng các nhu cầu của con người và các vụ tranh chấp sẽ xảy ra do những quy định không rõ ràng của pháp luật. Từ thực tế đó, để đáp ứng nhu cầu đảm bảo cho tương lai của con người, Luật KDBH 2000 ra đời với mục đích “để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm”.[7] Nội dung chủ yếu và quan trọng của luật là quy định về HĐBH (từ Điều 12 đến Điều 57), và cũng từ luật này đã ghi nhận HĐBH con người (từ Điều 32 đến Điều 39). Với chưa đầy 10 điều nhưng luật đã có qui định về đối tượng, số tiền, quyền và nghĩa vụ của các bên, các trường hợp không trả tiền bảo hiểm trong HĐBH con người. Những điều khoản này là căn cứ để ký kết và thực hiện HĐBH con người.
Khi có những cơ sở pháp lý để cho việc thực hiện HĐBH con người thì cũng cần phải có đường lối chiến lược đúng đắn, để đáp ứng được yêu cầu đó Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định Quyết định 175 / 2003 về phê duyệt “ Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế, thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế”.[9] Giải pháp được đề cập đến đó là: “Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn”. Bảo hiểm con người với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu đã, đang và sẽ được được chú trọng, quan tâm của Đảng và Nhà nước.
Sau khi luật KDBH ra đời chính phủ ban hành Nghị định 42/2001 NĐCP ngày 1/8/2001nhằm quy định chi tiết thi hành Luật KDBH để các quy định này đi vào cuộc sống.
Bộ luật dân sự 2005 ghi nhận quy định HĐBH, trong đó có hai hình thức bảo hiểm là bắt buộc và tự nguyện. Tính mạng và sức khoẻ con người là đối tượng của bảo hiểm tự nguyện. Bộ luật cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên và quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng của bên bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin không đúng về đối tượng bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm (Điều 577 Bộ luật dân sự)
Tóm lại từ năm 1993 đến nay pháp luật về hợp đồng nói chung và HĐBH con người nói riêng luôn có sự phát triển để phù hợp hơn với nhu cầu thực tế của con người, đó cũng là quy luật tất yếu của sự phát triển. Pháp luật hoàn thiện là cơ sở để hạn chế tranh chấp xảy ra và hợp đồng thực hiện trong thực tế được thuận lợi.
Từ các quy định của luật thấy rằng HĐBH con người nói chung và HĐBH nhân thọ nói riêng không phải là một hợp đồng bồi thường. Mục đích của nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những sự kiện được nêu trong HĐBH. Xét về khía cạnh vật chất cuộc sống con người là vô giá và rõ ràng là không phải bất kỳ một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một người một “giá trị” tương đương với việc mất đi một sinh mạng.
2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
2.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người
* Khái niệm
Trước tiên để đi đến tìm hiểu khái niệm HĐBH con người chúng ta phải tìm hiểu thế nào là HĐBH. Theo Điều 567 Bộ luật dân sự 2005: “HĐBH là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Từ khái niệm trên cho thấy HĐBH là sự thoả thuận giữa hai bên chủ thể đó là bên mua bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm) và bên bảo hiểm (DNBH) với điều kiện là bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm để khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm.
Khác với Bộ luật dân sự 2005 Luật KDBH 2000 có mở rộng phạm vi chủ thể trong HĐBH con người. Theo Điều 12 Luật KDBH thì “HĐBH là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Rõ ràng Luật KDBH không chỉ quy định chung chung là DNBH phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm như Bộ luật dân sự mà chỉ rõ DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi nghiên cứu các quy định của HĐBH con người trong các phân tích tiếp theo.
Khác với Việt Nam, Thái Lan là một nước có nền kinh tế phát triển khá trong khu vực nên lĩnh vực bảo hiểm cũng được chú trọng từ sớm. Các quy định của pháp luật về bảo hiểm được quy định chủ yếu trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan. Ngay từ năm 1992 Thái Lan có đạo luật bảo hiểm nhân thọ nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty bảo hiểm nhân thọ. Do vậy nếu so sánh chúng ta sẽ thấy được điểm khác biệt trong các quy định về luật bảo hiểm giữa hai nước.
Điều 861 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan có khái niệm: “ HĐBH là hợp đồng trong đó một người đồng ý bồi thường hoặc trả một số tiền trong trường hợp mất hàng hoặc xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH và người kia đồng ý trả cho việc đó một số tiền gọi là phí bảo hiểm”. Theo khái niệm trên thì ở Thái Lan việc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH (Việt Nam là khi có sự kiện bảo hiểm do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật), nên phạm vi trả tiền bảo hiểm của Thái Lan mở rộng hơn.
Đó là HĐBH còn HĐBH con người cũng là HĐBH nhưng đối tượng của nó chỉ liên quan đến tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người; vì thế theo tác giả:
“HĐBH con người là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH để bảo hiểm cho tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn của người tham gia bảo hiểm hoặc người được chỉ định trong hợp đồng; theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm và DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
2.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức
Đối tượng của bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người. Đó là những thứ vô giá không thể tính toán được, không thể xác định được chính xác và trên thực tế không bù đắp nổi. Không ai có thể xác định được tính mạng con người trị giá là bao nhiêu. Vì thế trong HĐBH con người không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Nghĩa vụ của DNBH ở đây là trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng và không phải là trách nhiệm bồi thường tổn thất mà là giúp đỡ về mặt vật chất cho người được bảo hiểm. Và cũng chính từ đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên số tiền DNBH trả cho khách hàng chỉ có thể là một số tiền được ấn định sẵn ngay từ khi ký kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm sẽ thanh toán cho bên tham gia bảo hiểm và thường không bị giới hạn bởi nguyên tắc giá trị thiệt hại giống như HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự.
Chính từ đặc điểm này mà người tham gia HĐBH con người khi ký hợp đồng cần cân nhắc dựa trên mức thu nhập, khả năng tài chính để quyết định số tiền tham gia phù hợp.
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con nguời không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm trùng và nguyên tắc thế quyền
Điều 44 Luật KDBH có nêu “bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết HĐBH với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm”
Khoản 2 Điều 44 có quy định: tổng số tiền bồi thường của các DNBH không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Vì thế mà HĐBH con người không áp dụng nguyên tắc này. Và một thực tế là đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên nếu một người tham gia đồng thời nhiều HĐBH với nhiều DNBH khác nhau thì họ có quyền nhận đầy đủ các khoản tiền từ các DNBH đó theo thoả thuận trong hợp đồng, chứ không bị giới hạn về giá trị thiệt hại giống như bảo hiểm tài sản.
Trong HĐBH con người cũng không áp dụng nguyên tắc thế quyền. Điều đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả số tiền bảo hiểm, không được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bảo hiểm tương ứng. Hay nói cách khác, một người có thể đồng thời nhận nhận được khoản chi trả thanh toán của công ty bảo hiểm và khoản bồi thường của người thứ ba gây thiệt hại. Đặc điểm này mang lại lợi ích cho khách hàng khi tham gia HĐBH con người
2.2.3. Hợp đồng bảo hiểm con người đáp ứng rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm
Trước hết đặc điểm này thể hiện ngay trong các loại HĐBH, bởi mỗi đối tượng của bảo hiểm con người: tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn đều có thể làm nên một hợp đồng riêng và trong mỗi loại hợp đồng có nhiều sản phẩm khác nhau ví dụ trong HĐBH nhân thọ thì có bảo hiểm sinh kỳ, tử kỳ,..
Không giống như bảo hiểm tài sản chỉ góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, bảo hiểm con người đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm như HĐBH hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng. Bảo Việt - tập đoàn tài chính bảo hiểm nhân thọ lớn nhất Việt Nam đã ghi nhận mục đích của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí là “mang đến sức khoẻ và an nhàn cho tuổi già, đảm bảo khoản lương hưu ổn định cho tất cả mọi người, cả nguời đã có và chưa có bảo hiểm xã hội. Thể hiện lòng hiếu thảo đối với những người thân yêu hoặc quan tâm đến chính bản thân”.[23] Còn bảo hiểm tử kỳ sẽ giúp người tham gia bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền khi họ bị tử vong. HĐBH tai nạn con người giúp người tham gia khắc phục khó khăn khi gặp tai nạn. Chính vì đặc điểm này của HĐBH con người làm cho hợp đồng này chiếm khối lượng lớn trên thị trường bảo hiểm, thu hút nhiều người tham gia.
2.2.4. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm con người rất đa dạng, phức tạp
Thứ nhất: Trong HĐBH con người có các sản phẩm bảo hiểm khác nhau rồi mỗi một hợp đồng có sự khác nhau của thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm rồi độ tuổi của người tham gia
Thứ hai: Chủ thể trong HĐBH con người có thể có bốn bên tham gia: Người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đặc điểm này chỉ có duy nhất trong HĐBH con người và vì thế làm cho hợp đồng này phức tạp hơn.
2.2.5. Hợp đồng bảo hiểm con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện kinh tế xã hội nhất định
Thật vậy khi điều kiện kinh tế phát triển, áp lực cuộc sống giảm đi, họ không phải lo cho cuộc sống hàng ngày thì lúc đó họ mới có thể nghĩ đến bảo hiểm. Ở các nước kinh tế phát triển (bảo hiểm nhân thọ loại hình chủ yếu của bảo hiểm con người đã ra đời và phát triển rất lâu) còn những nước kém phát triển hoặc đang phát triển thì hình thức bảo hiểm này hoặc là chưa có hoặc là mới bước đầu triển khai. Ngoài ra bảo hiểm con người còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác như đường lối chính sách, trình độ học vấn của người dân…
2.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người
* Theo thời hạn bảo hiểm
HĐBH con người được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người ngắn hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn ngắn thường là một năm trở xuống. Người bảo hiểm cam kết thanh toán trợ cấp khi có các rủi ro bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm.
+ HĐBH con người dài hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn dài thường là trên một năm cho đến hết đời.
* Theo hình thức bảo hiểm
HĐBH con người cũng được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người bắt buộc: Là hợp đồng mà theo pháp luật bắt buộc các đối tượng phải tham gia ví dụ như bảo hiểm tai nạn hành khách.
+ HĐBH con người tự nguyện: Là hợp đồng mà theo đó người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm có thể đưa ra rất nhiều nhu cầu bảo hiểm, còn người bảo hiểm có thể chấp nhận hay không chấp nhận là tuỳ theo sự thoả thuận và cam kết. Tính tự nguyện khiến người bảo hiểm phải phục vụ tốt hơn, cung cấp các dịch vụ tốt hơn đến khách hàng.
* Theo rủi ro bảo hiểm
HĐBH con người có các loại sau:
+ HĐBH nhân thọ: Là hợp đồng bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro liên quan đến tuổi thọ của con người và được chia ra làm các loại sau:
. HĐBH tử kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn thoả thuận thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH sinh kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm sống đến hết thời hạn thoả thuận, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH hỗn hợp: Là loại HĐBH kết hợp cả hai loại nghiệp vụ bảo hiểm đó là: bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ.
+ HĐBH phi nhân thọ: Là loại hợp đồng chỉ liên quan đến các rủi ro như bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm này không liên quan đến tuổi thọ của con người.
2.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người
Để tồn tại và phát triển thì HĐBH con người phải đáp ứng được các mục đích của người tham gia trong hiện tại cũng như nhu cầu đảm bảo cho tương lai sau này. Thực tế khi ký kết HĐBH con người có vai trò không chỉ đối với người tham gia bảo hiểm, DNBH mà còn đối với cả sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.4.1. Đối với người tham gia bảo hiểm
HĐBH con người góp phần ổn định đời sống, là chỗ dựa tinh thần cho người tham gia cũng như người được hưởng bảo hiểm. Như trên chúng ta đã biết con người phải lao động để duy trì cuộc sống và chính trong quá trình lao động con người luôn phải đối mặt với rủi ro. Nếu không may xảy ra rủi ro thì gia đình không những mất thu nhập mà còn phải bỏ ra rất nhiều chi phí để trang trải khó khăn. Việc tham gia HĐBH con người sẽ phần nào giải quyết những khó khăn trước mắt đó.
Trên báo Tiền Phong với nhan đề “Bảo hiểm nhân thọ, sự an tâm là vô giá” khách hàng đã cho biết “nếu có điều kiện chúng ta nên tham gia bảo hiểm nhân thọ bởi lẽ nhu cầu bảo vệ tài chính cho gia đình là rất cần thiết. Tất nhiên chẳng ai mong đợi những điều không may xảy ra, nhưng bảo hiểm sẽ mang đến sự an tâm cho gia đình trước những bất chắc và giảm gánh lo về tài chính những lúc ngặt nghèo. Đối với tôi, sự an tâm là vô giá".[15] Sự an tâm giúp con người vượt qua khó khăn, tiếp tục cuộc sống đảm bảo tương lai sau này.
Tất nhiên trong hiện tại có rất nhiều hình thức khác nhau có thể đảm bảo cho cuộc sống hiện tại cũng như tương lai nhưng bảo hiểm con người luôn góp phần không nhỏ vào sự đảm bảo ấy (tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm chuyển những rủi ro của mình mình cho DNBH).
2.4.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Mỗi doanh nghiệp có những ngành nghề kinh doanh nhất định, có những ngành gây nguy hiểm cao cho cuộc sống con người, có những ngành gây nguy hiểm chỉ ở một chừng mực nào đó. Cho dù ở mức độ nào đi nữa thì rủi ro, tai nạn lao động luôn luôn là nguy cơ tiềm ẩn và nó ảnh hưởng không những đến sản xuất kinh doanh do thiếu lao động mà quan trọng hơn là ảnh hưởng đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy tham gia HĐBH con người góp phần ổn định tài chính và sản xuất cho doanh nghiệp.
Hơn thế nữa các chủ sử dụng lao động thường mua bảo hiểm sinh mạng cho người làm công, việc này không những đảm bảo cuộc sống ổn định cho người lao động mà còn tạo nên sự gắn bó giữa chủ sử dụng và người làm công ăn lương (đây là điều kiện thúc đẩy sản xuất).
Đó là đối với doanh nghiệp nói chung còn đối với DNBH nói riêng việc tham gia HĐBH con người của khách hàng sẽ góp phần tăng doanh thu, mở rộng quy mô hoạt động để cung cấp thêm nhiều sản phẩm cho con người. Đây là yếu tố quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh như ngày nay.
2.4.3. Đối với sự phát triển kinh tế
Thông qua HĐBH con người (có đối tượng tham gia đông đảo) các nhà bảo hiểm thu phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ này chủ yếu được sử dụng vào mục đích bồi thường, khi nhàn rỗi nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển kinh tế.
Một đặc điểm nữa của hợp đồng bảo hiểm con người thường là hợp đồng dài hạn nên số vốn của các công ty bảo hiểm thường rất lớn. “Tính đến năm 2002 toàn ngành bảo hiểm Việt Nam đã đầu tư 8000 tỷ đồng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân”.[12, tr.10] Bên cạnh đó nếu chúng ta nhìn nhận từ khía cạnh con người thì chúng ta không thể phủ nhận rằng con người là nhân tố phát triển kinh tế. Việc tham gia hợp đồng bảo hiểm con người giúp cho mỗi người an tâm sản xuất phục vụ cho sự phát triển kinh tế.
Cuối cùng HĐBH con người là công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tièn mặt nhàn rỗi ở các tầng lớp nhân dân để thực hiện tiết kiệm góp phần chống lạm phát.
2.4.4. Hợp đồng bảo hiểm con người tạo cơ hội việc làm cho người lao động
Các DNBH ra đời cung cấp các sản phẩm đến người dân đồng thời tuyển dụng người lao động vào làm việc. Thực tế hiện nay các DNBH trong nền kinh tế thị trường đang sử dụng số lượng lớn các đại lý tiếp thị bán sản phẩm. Theo số liệu thống kê thì ở Mỹ có gần 2 triệu người lao động làm việc trong ngành bảo hiểm. Hồng Kông 20.000 người làm việc ở các công ty bảo hiểm (dân số là 6 triệu người). Còn ở Việt Nam năm 2002 bảo hiểm thu hút 90.000 lao động làm việc trong đó bảo hiểm nhân thọ là 74.494 người
Khi người dân có công ăn việc làm sẽ hạn chế được các tệ nạn xã hội đồng thời giải quyết được các vấn đề mà cả xã hội quan tâm.
2.5. Các yếu tố của hợp đồng bảo hiểm con người
2.5.1. Chủ thể
Từ khái niệm hợp đồng dân sự nói chung và HĐBH nói riêng thì hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên chủ thể. Một hợp đồng nói chung thường có hai bên chủ thể nhưng do đặc điểm của đối tượng mà HĐBH con người bao gồm các chủ thể sau:
Doanh nghiệp bảo hiểm
Khoản 5 Điều 3 Luật KDBH có khái niệm: “ DNBH là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật này và các quy định của pháp luật có liên quan để KDBH và tái bảo hiểm”
Còn theo “Giáo trình đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ” của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam có định nghĩa: “Người bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và có trách nhiệm thực hiện đúng các cam kết, lời hứa với người tham gia bảo hiểm”
Cả hai khái niệm trên đều nhấn mạnh đến khía cạnh thành lập và hoạt động của DNBH. Khác với Việt Nam, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan Điều 862 có định nghĩa “người bảo hiểm nghĩa là bên mà đồng ý bảo hiểm hoặc trả một số tiền”. Định nghĩa này chú trọng đến hoạt động mà DNBH thực hiện. Nếu so sánh giữa hai nước thì quy định của Thái Lan đơn giản hơn và ít đề cập đến khía cạnh pháp lý cho việc thành lập của DNBH.
Bên mua bảo hiểm
Theo khoản 6 Điều 3 Luật KDBH thì “bên mua bảo hiểm là các tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người đượcbảo hiểm hoặc người thụ hưởng”.
Theo “Giáo trình đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ” của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam có định nghĩa: “doanh nghiệp người tham gia bảo hiểm là các tổ chức cá nhân chuyển giao rủi ro cho các doanh nghiệp bảo hiểm, đóng phí bảo hiểm”. Vì vậy bên mua bảo hiểm có thể là tổ chức, cá nhân yêu cầu bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm để đảm bảo cho cuộc sống hiện tại cũng như tương lai sau này (đó là sự đảm bảo cả về vật chất lẫn tinh thần).
Người được bảo hiểm
Theo khoản 7 Điều 3 Luật KDBH “người được bảo hiểm là các tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng”
Với khái niệm trên thì người được bảo hiểm trong HĐBH con người là chủ thể có tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng. Khái niệm này chưa thể hiện hết được các đối tượng của HĐBH con người vì ngoài tính mạng còn có sức khoẻ, tuổi thọ, tai nạn con người cũng là đối tượng của HĐBH con người.
Người được bảo hiểm có thể là những người đã trưởng thành có đủ năng lực chủ thể để tự ký hợp đồng cho mình và cũng có thể là những người chưa đủ tuổi thành niên phải do người khác (có thể là cha mẹ hoặc người giám hộ) đứng ra ký HĐBH.
Người thụ hưởng
Theo khoản 8 Điều 3: “Người thụ hưởng là các tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người”. Khái niệm này đã khẳng định rõ chủ thể là người thụ hưởng chỉ có trong HĐBH con người, còn HĐBH tài sản hay HĐBH trách nhiệm dân sự không có chủ thể này. Để có thể là người thụ hưởng thì điều kiện bắt buộc là phải được bên mua bảo hiểm chỉ định (thể hiện ý chí chủ quan của bên mua bảo hiểm).
2.5.2. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người
Theo khoản 1 Điều 31 Luật KDBH có nêu “đối tượng của HĐBH con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người”.
Tuổi thọ
Trong HĐBH con người có đối tượng là tuổi thọ tức là người bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện bảo hiểm xảy ra (nếu người được bảo hiểm sống hoặc chết tại một thời điểm nhất định) và nó liên quan đến tuổi thọ của con người.
Tai nạn
Đó là việc bảo hiểm cho các trường hợp tai nạn xảy ra gây thiêt hại về thân thể con người. Nhưng không phải mọi trường hợp tai nạn xảy ra gây thiệt hại về thân thể đều được coi là đối tượng của HĐBH con người mà điều kiện là những thiệt hại đó bắt nguồn duy nhất và trực tiếp từ một tai nạn do vật thể hữu hình tác động từ bên ngoài gây ra và là nguyên nhân trực tiếp, độc lập với các nguyên nhân khác dẫn đến tử vong hoặc thương tật.
Với đối tượng này hiện nay có các loại hình HĐBH con người phổ biến như là bảo hiểm tai nạn con người 24/24h và bảo hiểm tai nạn hành khách.
Sức khoẻ
HĐBH con người trong trường hợp này sẽ bảo hiểm khi người tham gia (hay người được bảo hiểm) phải nghỉ việc do ốm đau, tai nạn mất khả năng lao động (vì lý do ốm đau hoặc tai nạn hoàn toàn không thể theo đuổi nghề nghiệp ghi trong đơn bảo hiểm và không thể theo đuổi bất kỳ một nghề nào khác). Hiện nay các công ty bảo hiểm thường triển khai các sản phẩm bảo hiểm hỗ trợ “bảo hiểm chi phí phẫu thuật” bên cạnh sản phẩm chính ( ví dụ như Bảo Việt quy định khách hàng khi tham gia bảo hiểm An Khang Thịnh Vượng thì được mua thêm sản phẩm bảo hiểm hỗ trợ trên). Mục đích là nhằm bảo vệ sức khoẻ cho con người.
Tính mạng
Việc bảo hiểm liên quan đến sự sống của con người. Nếu không thuộc các trường hợp sau thì mọi trường hợp khi tử vong đều được nhận tiền bảo hiểm. Theo khoản 1 Điều 39 Luật KDBH: DNBH không phải trả tiền bảo hiểm trong các trường hợp sau đây:
Người được bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn hai năm, kể từ ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc từ ngày hợp đồng có hiệu lực;
Người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng;
Người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình.
Trong các hợp đồng có đối tượng là tuổi thọ, sức khoẻ.. con người đều đề cập đến trường hợp nếu xảy ra trường hợp tử vong thì giải quyết quyền lợi như thế nào. Có quy định như vậy là do tính mạng con người là vô giá không gì có thể bù đắp thay thế được.
2.5.3. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm con người
Bao gồm các điều khoản mà thông qua đó các bên chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Do HĐBH con người cũng là HĐBH nên theo Điều 13 Luật KDBH nội dung của nó bao gồm các điều khoản chủ yếu sau:
Tên, địa chỉ của DNBH, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng
Việc quy định này là rất cần thiết và đối với mỗi chủ thể nó có ý nghĩa khác nhau. Đối với doanh nghiệp (tên, địa chỉ) thể hiện tư cách pháp lý của doanh nghiệp đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ cho hoạt động KDBH. Đối với các chủ thể khác là điều kiện tiền đề để hợp đồng được thực hiện, đảm bảo quyền lợi của hai bên.
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người
Đây là yếu tố không thể thiếu của HĐBH nói chung và HĐBH con người nói riêng. Như trên chúng ta đã biết đối tượng của HĐBH con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người; người tham gia bảo hiểm có thể lựa chọn các đối tượng cho phù hợp với điều kiện và khả năng của mình để đạt được mục đích đảm bảo cho cuộc sống, là chỗ dựa tinh thần nếu không may rủi ro xảy ra.
Số tiền bảo hiểm
Theo khái niệm mà Prudential (tập đoàn bảo hiểm nhân thọ của Anh ) đưa ra thì: “số tiền bảo hiểm là mệnh giá HĐBH được bên mua bảo hiểm và DNBH thoả thuận trong hợp đồng và khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì DNBH phải trả tiền bảo hiểm”.[24]
Như trên chúng ta đã nghiên cứu đối tượng của HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên số tiền bảo hiểm trong hợp đồng này do các bên tự thoả thuận, không phụ thuộc vào đối tượng bảo hiểm. Hơn thế nữa tập điều khoản của HĐBH con người là các tập điều khoản mẫu do một bên (DNBH) đưa ra nên số tiền sẽ do bên tham gia bảo hiểm lựa chọn theo các mức có sẵn. Theo đó dù thiệt hại xảy ra trong thực tế có lớn hơn nhiều lần so với số tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm vẫn chỉ phải bảo hiểm tối đa bằng số tiền bảo hiểm được xác định theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm xác định nghĩa vụ mà DNBH phải trả tiền bảo hiểm đồng thời quy định quyền được hưởng quyền lợi bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Ví dụ việc quy định phạm vi rủi ro.
Điều kiện bảo hiểm: là điều kiện được xác định rõ trong HĐBH hoặc được pháp luật quy định trước, theo đó bên mua bảo hiểm chỉ được mua bảo hiểm cho các đối tượng bảo hiểm khi đã đáp ứng được các điều kiện đó. Trong HĐBH con người có quy định:
Người tham gia bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm theo đối tượng bảo hiểm. Khoản 2 Điều 31 Luật KDBH 2000 bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho những người sau đây:
Bản thân bên mua bảo hiểm;
Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm;
Anh, chị, em, ruột, người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng;
Người khác nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Điều khoản bảo hiểm: Là điều khoản quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên. Ngoài các điều khoản chính còn có các điều khoản bổ sung.
Theo Điều 17 và Điều 18 Luật KDBH quy định quyền và nghĩa vụ của DNBH, bên mua bảo hiểm.
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm
+ Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền:
a) Thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng
Mục đích chính của KDBH là thu phí bảo hiểm để đảm bảo cho hoạt đông sản xuất kinh doanh vì thế đây sẽ là quyền cơ bản của DNBH. Việc thu phí này là cơ sở trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
b) Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện HĐBH
Các thông tin của bên mua bảo hiểm là cơ sở để DNBH xem xét để đi đến ký kết hợp đồng. Do những sự kiện bảo hiểm xảy ra trong tương lai không ai có thể biết được nên các thông tin mà bên mua bảo hiểm đưa ra phải đầy đủ trung thực để đảm bảo quyền lợi hai bên. Nếu có hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết sẽ thuộc trường hợp làm cho hợp đồng vô hiệu mà chúng ta nghiên cứu ở phần sau.
c) Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm con người theo các trường hợp:
Khi bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật hoặc không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin (khoản 2 Điều 19).
Khi bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm vì có sự thay đổi những yếu làm cơ sở để tính phí, dẫn đến tăng các rủi ro (khoản 2 Điều 20).
Khi phí bảo hiểm được đóng nhiều lần mà bên mua bảo hiểm đã đóng một lần hoặc một số lần mà người mua không thể đóng được các khoản phí bảo hiểm tiếp theo sau thời hạn 60 ngày (khoản 2 Điều 35).
Luật liệt kê các trường hợp này để đảm bảo quyền lợi cho bên mua bảo hiểm trước các hành vi cung cấp thông tin sai sự thật nhằm trục lợi bảo hiểm hoặc khi có biến động làm tăng các rủi ro.
d) Từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận trong HĐBH
Khi ký kết HĐBH con người có điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm như: người được bảo hiểm chết do thi hành án tử hình hoặc trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì DNBH có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm.
đ) Yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Khi tham gia HĐBH con người nếu rủi ro, tổn thất xảy ra khách hàng sẽ được nhận tiền bảo hiểm, bên cạnh đó nghĩa vụ của người được bảo hiểm phải đề phòng hạn chế tổn thất (ví dụ: tham gia bảo hiểm tai nạn con người, người lao động phải áp dụng bảo hộ an toàn lao động).
e) Các quyền khác theo quy định của pháp luật
+ Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ:
a) Giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm
Sự khó hiểu trong các tập điều khoản của HĐBH con người đòi hỏi bên bảo hiểm phải giải thích về các điều khoản, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. Thực tế có rất nhiều tranh chấp xảy ra do khách hàng không hiểu được các điều khoản này nên việc làm tốt các nghĩa vụ trên của DNBH sẽ hạn chế tối thiểu các tranh chấp xảy ra.
b) Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết HĐBH
Quy định này là căn cứ xác định việc kí kết hợp đồng đã được thực hiện trên thực tế hay chưa và là cơ sở pháp lí để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình: Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiển theo thoả thuận, còn DNBH trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thời hạn và quy định trong hợp đồng.
c)Trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
Bên bảo hiểm phải trả tiền hoặc bồi thường trong thời hạn đã được xác định trong hợp đồng. Trong trường hợp chưa có thoả thuận về thời hạn trả tiền thì bên bảo hiểm trả tiền đó trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bên bảo hiểm đã nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Quy định trong vòng 15 ngày để đảm bảo mục đích khắc phục khó khăn và là chỗ dựa tinh thần cho người tham gia bảo hiểm.
d) Giải thích bằng văn bản lí do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường
Khi nhận được thông báo này của DNBH, người tham gia bảo hiểm sẽ không nhận được một lợi ích gì, mục đích tham gia của hợp đồng không còn. Thực tế diễn ra có nhiều trường hợp khách hàng bị từ chối trả tiền bảo hiểm trong khi nguyên nhân không phải do họ. Vậy trường hợp này giải quyết thế nào? Cho nên văn bản giải thích của DNBH là cơ sở để xem xét các nguyên nhân thực tế xảy ra có đúng không, tránh tình trạng bên bảo hiểm cố ý không trả tiền bảo hiểm.
e) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm
+ Bên mua bảo hiểm có quyền
a) Lựa chọn DNBH đang hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm
Đảm bảo cho người mua bảo hiểm được quyền lựa chọn các DNBH có mức phí thấp nhất đối với cùng một loại sản phẩm bảo hiểm, lựa chọn các DNBH có uy tín không cần phân biệt doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài miễn là hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Ví dụ ở VN hiện nay có các DNBH nhân thọ lớn như: Bảo Việt, Prudential, AIA …là các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài mà người dân có quyền lựa chọn sao cho có lợi nhất cho mình.
b)Yêu cầu DNBH giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm. Quyền này của bên mua bảo hiểm là nghĩa vụ của bên bảo hiểm. Tất cả đều nhằm mục đích là hợp đồng thực hiện được thuận lợi.
c) Đơn phương đình chỉ thực hiện HĐBH
“Khi DNBH cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết” (khoản 3 Điều 19).
“Khi DNBH không chấp nhận giảm phí bảo hiểm khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở tính phí bảo hiểm dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm” (khoản 1 Điều 20). Song song với quy định DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, luật cũng quy định bên mua bảo hiểm cũng có quyền này để đảm bảo nguyên tắc bình đẳng và quyền lợi giữa hai bên chủ thể.
d) Yêu cầu DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận trong HĐBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Đây là mục đích chính của bên mua bảo hiểm để khắc phục rủi ro xảy ra.
đ) Chuyển nhượng HĐBH theo thoả thuận trong HĐBH hoặc theo quy định của pháp luật. Bên mua bảo hiểm được chuyển nhượng HĐBH cho người khác trong trường hợp HĐBH đó có sự thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Tuy nhiên thực tế việc chuyển nhượng HĐBH chỉ có thể thực hiện khi việc chuyển nhượng phải được thông báo cho bên bảo hiểm và chỉ coi là HĐBH đã được chuyển nhượng khi bên bảo hiểm có văn bản chấp nhận hoặc xác nhận về việc chuyển nhượng hợp đồng.
e) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
+ Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ:
a) Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong HĐBH. Đây là điều kiện dể duy trì hợp đồng, luật cũng đã quy định nếu bên mua bảo hiểm không đóng phí đầy đủ theo thời hạn và phương thức thoả thuận thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng.
b) Kê khai đầy đủ trung thực mọi chi tiết có liên quan đến HĐBH theo yêu cầu của DNBH. Yêu cầu này thông thường đó là các chi tiết về đặc điểm, tính chất của đối tượng bảo hiểm. Nguyên tắc khi giao kết hợp đồng là trung thực tuyệt đối nên nếu có hành vi gian dối trong việc kê khai sẽ là yếu tố làm cho hợp đồng không được thực hiện.
c) Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm các trách nhiệm của DNBH trong quá trình thực hiện HĐBH theo yêu cầu của DNBH. Vì việc tăng rủi ro là cơ sở để DNBH tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng và việc thông báo này thể hiện tính trung thực của khách hàng.
d) Thông báo cho DNBH về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thoả thuận trong HĐBH. Bên mua bảo hiểm phải thông báo kịp thời cho bên bảo hiểm biết khi xảy ra sự kiện bảo hiểm và phải thông báo một cách trung thực. Nếu qua thời hạn đã được xác định trong hợp đồng kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm không thông báo về việc đó thì DNBH có quyền từ chối thực hiện hợp đồng.
đ) Áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Quy định này thể hiện trách nhiệm của bên mua bảo hiểm, tránh tình trạng bên mua bảo hiểm cố ý không thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất để được nhận tiền bảo hiểm trong khi có thể hạn chế được các tổn thất này. Mục đích của quy định này vừa đảm bảo quyền lợi cho DNBH vừa hạn chế các hành vi trục lợi bảo hiểm của khách hàng.
e) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
Trong HĐBH con người điều khoản này được coi là phần loại trừ trong đó liệt kê các trường hợp bên bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Phần loại trừ này thông thường được luật quy định trước với mục đích tránh trường hợp người tham gia bảo hiểm lợi dụng HĐBH con người để trục lợi cá nhân và qua đó bảo vệ cho các DNBH.
Khoản 1 Điều 16 Luật KDBH: “Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp DNBH không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Điều khoản này giúp cho DNBH không phải trả tiền do các sự kiện bảo hiểm xảy ra từ nguyên nhân chủ quan, từ lỗi cố ý của các bên liên quan và đòi hỏi bên tham gia bảo hiểm phải hiểu rõ để bảo vệ cho quyền lợi của chính mình.
Thời hạn bảo hiểm
Là khoảng thời gian DNBH thực hiện trách nhiệm bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm do các bên thoả thuận. HĐBH con người với HĐBH nhân thọ là chủ yếu có thời hạn tương đối dài (HĐBH nhân thọ có thời hạn bảo hiểm ít nhất là 5 năm).
Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm
Khoản 11 Điều 3 Luật KDBH: “phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho DNBH theo thời hạn và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp đồng”.
Việc xác định phí khá phức tạp bởi nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Quá trình định phí phải dựa trên nguyên tắc, cơ sở khoa học rồi cả các giả định đưa ra như giả định tỷ lệ tử vong, lãi suất, chi phí và tỷ lệ hợp đồng bị huỷ bỏ. Các doanh nghiệp khi định phí phải đảm bảo trang trải đựơc các chi phí mà vẫn phải đảm bảo yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Phương thức đóng phí bảo hiểm: Do khả năng tài chính của mỗi người là khác nhau, để thuận lợi cho khách hàng, để duy trì hiệu lực hợp đồng DNBH thường đưa ra các mốc thời gian khác nhau làm phương thức đóng phí bảo hiểm: Có thể nộp phí hàng tháng, 03 tháng, 06 tháng, hàng năm, và 1 lần. Theo đó khách hàng khi ký kết có thể lựa chọn sao cho phù hợp với nhu cầu của mình.
Thời hạn và phương thức trả tiền bảo hiểm
DNBH khi nhận phí bảo hiểm của khách hàng đồng nghĩa với việc trả tiền bảo hiểm cho khách hàng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm trong thời hạn bảo hiểm. Việc trả tiền trong HĐBH phải thực hiện trong một thời hạn nhất định để đảm bảo được yêu cầu khắc phục khó khăn khi gặp rủi ro.
Cách thức trả tiền bảo hiểm của DNBH tuỳ thuộc vào quy định trong hợp đồng, có thể trả 1 lần khi xảy ra sự kiện bảo hiểm hoặc sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm hoặc có thể trả khi hết thời hạn bảo hiểm.
Các quy định giải quyết tranh chấp
Để hiểu hết nội dung của HĐBH nói chung và HĐBH con người nói riêng đòi hỏi mỗi người phải có trình độ chuyên môn nhất định. Khi ký kết không phải mọi người đều hiểu hết được nội dung của hợp đồng này mặc dù có sự giúp đỡ của các tư vấn viên bảo hiểm. Vì vậy tranh chấp xảy ra là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm mà khách hàng không được nhận tiền từ các doanh nghiệp lúc đó có rất nhiều câu hỏi, thắc mắc đặt ra như “tôi nghĩ…”; “tôi không hiểu …” nhưng khó có thể giải quyết thoả đáng quyền lợi của hai bên trong những trường hợp đó. Dưới đây là một ví dụ:
Ông Ngô Viết Quế ký 03 HĐBH nhân thọ với công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA). Sau hai năm thực hiện, khách hàng đòi thanh lý hợp đồng yêu cầu trả lại tổng số tiền bảo hiểm đã đóng 16,5 triệu đồng. Nhưng AIA chỉ thanh toán 2,8 triệu đồng. Ông Quế kiện ra toà án.
Năm 2000 và 2001, ông Quế mua ba HĐBH nhân thọ loại hình An Sinh Thịnh Vượng và An Sinh Tích Luỹ 15 năm của AIA. Các hợp đồng có trị giá 20, 30 và 50 triệu đồng. Năm 2003 ông Quế xin ngưng hợp đồng sau khi đã đóng 16,5 triệu đồng. Căn cứ vào điều khoản đã ký AIA chỉ hoàn 1/6 yêu cầu trên.
Ông Quế lúc này mới đọc lại hợp đồng, phát hiện ra những điều khoản khó hiểu, không sử dụng ngôn ngữ pháp lý Việt Nam. Khách hàng của AIA kiện ra toà, yêu cầu xử hợp đồng vô hiệu và AIA phải hoàn trả toàn bộ số tiền ông đã đóng.
Ngày 7/5 toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ kiện trên. Qua thẩm vấn các bên hội đồng xét xử nhận định: Sau khi ông Quế kí hợp đồng với AIA, tổng giám đốc có gửi thư với nội dung thông báo đã nhận hợp đồng và xác nhận khách hàng đã đọc, hiểu các điều khoản ghi trong đó. Sau 21 ngày kể từ khi ký hợp đồng ông Quế vẫn có quyền từ chối mua bảo hiểm nhân thọ của AIA.
Toà án bác lập luận của nguyên đơn cho rằng vì cả tin lúc mua bảo hiểm không đọc bản hợp đồng nên mất cảnh giác bị lừa dối. Theo hội đồng xét xử, nội dung và hình thức của các hợp đồng phù hợp với Luật KDBH, Bộ luật dân sự và đều qua thẩm định của bộ tài chính. Các sản phẩm của công ty được nhà nước cho phép. Đặc biệt trong hợp đồng có ghi rõ nếu ngưng hợp đồng khi chưa đến hai năm thì sẽ không được hoàn tiền. Ông Quế chỉ có 1 trong 3 hợp đồng được thực hiện được 2 năm nên đựơc nhận tiền theo giá trị giải ước 2,8 triệu đồng là đúng. Từ những nhận định trên toà bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.[16]
Ngày tháng năm giao kết hợp đồng
Đây là yếu tố cần thiết để xác định hiệu lực của hợp đồng cũng như hợp đồng chấm dứt hiệu lực khi nào. Đồng thời nó cũng là căn cứ để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình tránh tranh chấp xảy ra.
Trên đây là những nội dung cơ bản của HĐBH con người. Tuy nhiên theo khoản 2 Điều 13 quy định ngoài nội dung quy định tại khoản 1 điều này HĐBH còn có thể có các nội dung khác do các bên thoả thuận. Điều đó có nghĩa sự thoả thuận nhất trí của hai bên cũng được ghi nhận làm thành các nội dung của hợp đồng và hợp đồng vẫn có hiệu lực theo quy định. Sự lừa dối ép buộc không dựa trên ý chí chủ quan của con người khi ký kết hợp đồng sẽ là điều kiện loại trừ làm mất hiệu lực của hợp đồng. Chúng ta sẽ xem xét điều kiện có hiệu lực của HĐBH con người.
2.6. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm con người
2.6.1. Do HĐBH con người cũng là hợp đồng dân sự nên nó phải thoả mãn các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
Điều kiện về năng lực hành vi của chủ thể tham gia
Chủ thể tham gia HĐBH con người phải có năng lực hành vi dân sự. Đối với bên nhận bảo hiểm phải là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật để KDBH. Bên tham gia bảo hiểm có thể là cá nhân (điều hiện là lớn hơn hoặc bằng 18 tuổi), hoặc có thể là tổ chức. Nếu cá nhân nhỏ hơn 18 tuổi và không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi thì hợp đồng bảo hiểm không có hiệu lực tại thời điểm giao kết.
Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng
Việc tham gia ký kết HĐBH con người thoả mãn mục đích của các bên tham gia là không đủ. Nó đòi hỏi không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Và mục đích của các bên thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng vì mục đích nào thì phải có nội dung phù hợp.
Điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể tham gia bảo hiểm
Tự nguyện là sự thống nhất ý chí bên trong của một chủ thể với hình thức biểu hiện ra bên ngoài. Điều kiện này là sự cụ thể hoá nguyên tắc tự do, tự ngưyện cam kết, thoả thuận của các chủ thể tham gia hợp đồng.
Điều kiện về hình thức
Điều 14 Luật KDBH: HĐBH con người phải được lập thành văn bản. Các bên khi kí kết HĐBH con người phải lập thành văn bản nếu không hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lí.
2.6.2. Ngoài ra để HĐBH con người có hiệu lực thì cần phải thoả mãn những điều kiện sau
Theo Điều 22 Luật KDBH quy định 4 trường hợp HĐBH vô hiệu. Vậy để có hiệu lực thì HĐBH con người có điều kiện là:
Bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm
Theo khái niệm Prudential đưa ra: “quyền lợi có thể dược bảo hiểm là mối quan hệ giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm trong đó sự rủi ro của người được bảo hiểm sẽ gây tổn thất về tài chính hoặc tinh thần cho bên mua bảo hiểm”.[24]
Còn theo khoản 9 Điều 3 Luật KDBH thì quyền lợi có thể được bảo hiểm trong HĐBH con người đó là quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Tức là trong HĐBH con người thì người tham gia bảo hiểm ngoài họ ra, họ phải là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với người được bảo hiểm. Vì vậy dù trong thời hạn HĐBH có hiệu lực mà người tham gia bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện nhất định thì HĐBH con người được coi là chấm dứt tại thời điểm xảy ra sự kiện đó. Những quyền lợi chưa phát sinh hoặc đã chấm dứt thì không phải là quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Ví dụ 1: Chồng mua bảo hiểm cho vợ trong thời hạn là 5 năm. Khi chưa hết thời hạn 5 năm xảy ra sự kiện li hôn (chấm dứt quan hệ hôn nhân) không còn quyền lợi có thể dược bảo hiểm.
Ví dụ 2: Khi chưa kết hôn thì một người chưa có thể nói là mua bảo hiểm cho một người khác sẽ là vợ mình trong tương lai (chưa có quan hệ hôn nhân) không có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Đối tượng được bảo hiểm phải tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng
Đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên hiệu lực của HĐBH nói chung và HĐBH con người nói riêng. Chúng ta không thể giao kết HĐBH con người mà không xác định được đối tượng được bảo hiểm hoặc xác định được đối tượng mà đối tượng đó không tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng. Yêu cầu được đặt ra là đối tượng được bảo hiểm phải tồn tại và được xác định rõ trong giấy yêu cầu bảo hiểm và tại thời điểm giao kết hợp đồng phải tồn tại trên thực tế đúng như hiện trạng quy định trong đơn bảo hiểm. Điều kiện này hạn chế nguy cơ trục lợi bảo hiểm, đảm bảo quyền lợi không những cho DNBH mà cả đối với bên tham gia bảo hiểm.
Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con người, chưa có sự kiện bảo hiểm xảy ra
Điểm C khoản 1 Điều 22: Bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra tại thời điểm giao kết hợp đồng thì HĐBH con người vô hiệu. Nếu khi giao kết hợp đồng mà biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra thì đó là hành vi lừa dối (không thoả mãn yếu tố khách quan). Vì HĐBH con người bảo hiểm cho các sự kiện bảo hiểm xảy ra trong tương lai không ai có thể biết trước. Có như vậy mới phù hợp với bản chất của bảo hiểm.
Chúng ta xem xét trong 2 trường hợp:
Trường hợp 1: Tại thời điểm giao kết HĐBH chưa xảy ra sự kiện bảo hiểm (thoả mãn trường hợp trên).
Trường hợp 2: Tại thời điểm giao kết HĐBH sự kiện bảo hiểm đang xảy ra nhưng bên mua bảo hiểm không biết được về điều này. Vậy trường hợp này sẽ giải quyết như thế nào?
Nếu bên mua bảo hiểm chứng minh được rằng: mình không biết sự kiện bảo hiểm đang xảy ra thì HĐBH con người vẫn còn hiệu lực (nằm ngoài ý chí chủ quan của bên mua bảo hiểm).
Ví dụ: Bên mua bảo hiểm giao kết HĐBH con người có đối tượng là sức khoẻ. Nếu bên mua bảo hiểm biết về tình trạng bệnh tật của mình thì hợp đồng vô hiệu. Nếu đó là bệnh bẩm sinh mà bên mua bảo hiểm không biết thì HĐBH vẫn có hiệu lực.
Bên mua bảo hiểm hoặc DNBH không được có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng
Một nguyên tắc khi giao kết HĐBH nói chung và HĐBH con người nói riêng là trung thực tuyệt đối tức là người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm phải cung cấp thông tin cho nhau một cách trung thực và chính xác. Đòi hỏi:
Người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin quan trọng trong đơn bảo hiểm, thông tin này làm cơ sở cho DNBH đánh giá rủi ro và quyết định chấp nhận hay không chấp nhận bảo hiểm.
DNBH hay đại lí bảo hiểm phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin và giải đáp thắc mắc của khách hàng, giải thích rõ các quy tắc, điều kiện, điều khoản bảo hiểm.
Tóm lại: HĐBH con người vô hiệu khi vi phạm 1 trong 4 điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nói chung hoặc vi phạm các diều kiện có tình đặc thù của HĐBH con người nói riêng. Xử lý HĐBH vô hiệu được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. HĐBH con người vô hiệu thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI
1. Vài nét đánh giá chung về thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam hiên nay
1.1. Thị trường bảo hiểm con người vẫn còn là mới mẻ đối với người dân Việt Nam
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau để tạo nên sự “mới mẻ” của lĩnh vực bảo hiểm con người đối với người dân Việt Nam, nhưng có một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
* Nguồn gốc ra đời và phát triển
Nếu như làm một phép so sánh thì chúng ta thấy trên thế giới: bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ (lĩnh vực chính của bảo hiểm con người) đã ra đời và tồn tại trong một thời gian dài còn ở Việt Nam mới được coi trọng và phát triển trong khoảng trên 10 năm gần đây (từ năm 1993 khi Nghị định 100CP của chính phủ ra đời). Vì vậy bảo hiểm con người còn “mới mẻ” đối với người dân Việt Nam là điều dễ hiểu.
Hơn nữa để con người có thể tiếp nhận lĩnh vực bảo hiểm đòi hỏi phải có một quá trình mọi người tìm hiểu, đánh giá rồi mới có thể đi đến quyết định tiếp nhận không. Hơn 10 năm thực sự được ghi nhận và phát triển của bảo hiểm và hơn 7 năm của bảo hiểm con người (từ Luật KDBH 2000) còn quá nhỏ so với thời gian hình thành và phát triển của đất nước.
* Đời sống khó khăn thu nhập bình quân trên đầu người thấp khiến họ phải lo cho cuộc sống nhiều hơn.
Ông Kenneth Juneau - tổng giám đốc công ty bảo hiểm AIA tại Việt Nam cho biết: “Đa số người dân Việt Nam hầu như chưa hiểu biết về lĩnh vực bảo hiểm”.[27]
Thật vậy, Việt Nam trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài, đến năm 1975 đất nước thống nhất. Người dân đi lên xây dựng kinh tế, từ một nền nông nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, đó là một trở ngại lớn cho sự phát triển của đất nước. Mỗi người phải lo cho cuộc sống hằng ngày, cuộc sống gia đình, vì thế chưa thể có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để tham gia bảo hiểm như người dân của các nước phát triển. Và thực tế là khi cuộc sống đầy đủ, khi đời sống tinh thần được nâng cao, họ mới có thể nghĩ đến được các dự định trong tương lai. Nếu hiện tại chưa đảm bảo thì làm sao có thể nghĩ đến tương lai sau này.
* Nguyên nhân khác là do phong tục tập quán và đời sống tâm lí của người dân Việt Nam
Người dân Việt Nam không muốn nghĩ đến rủi ro, khi tham gia bảo hiểm họ thường nghĩ đến yếu tố tiết kiệm hơn là yếu tố bảo hiểm. Không những thế tình cảm gắn bó giữa những người trong gia đình khiến họ không nghĩ đến mua bảo hiểm cho những rủi ro trong tương lai (khi mua bảo hiểm cũng đồng nghĩa với việc nghĩ dến việc ngày nào đó rủi ro sẽ xảy ra).
* Hệ thống pháp luật của Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm con người còn chưa đầy đủ.
Hiện nay chủ yếu chỉ có Luật KDBH 2000 và Bộ luật dân sự 2005 cùng với các thông tư hướng dẫn điều chỉnh lĩnh vực này nên chưa thể đáp ứng được nhu cầu thực tế. Không chỉ vậy, sự mâu thuẫn, không thống nhất giữa các hệ thống pháp luật gây khó khăn cho việc áp dụng. Những nguyên nhân này gây ra các tranh chấp giữa DNBH và người tham gia bảo hiểm, làm giảm lòng tin của người dân, tạo tâm lí lo sợ khi ký kết, làm cho lĩnh vực này còn “mới mẻ” đối với người dân Việt Nam.
1.2. Thực trạng thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam
Ngành bảo hiểm nói chung phát triển trong những năm gần đây và doanh thu của nó đóng góp vào GDP tăng dần lên. Năm 1993 doanh thu từ lĩnh vực bảo hiểm chiếm 0.4% GDP của Việt Nam và vào năm 2005 con số này tăng lên 1%. Bộ tài chính hi vọng doanh thu của ngành này sẽ chiếm 4.2% GDP của đất nước vào năm 2010. Đó là sự phát triển đối với bảo hiểm nói chung, còn riêng đối với lĩnh vực bảo hiểm con người theo số liệu thống kê thì Việt Nam có trên 6,5 triệu người mua bảo hiểm nhân thọ, 1,5 triệu người người tham gia bảo hiểm học sinh, 5 triệu người mua bảo hiểm con người, và có 8 công ty bảo hiểm nhân thọ và các công ty này cung cấp 100 sản phẩm.[25]
Nhìn vào số liệu trên so sánh với dân số Việt Nam và tốc độ tăng trưởng kinh tế thì số lượng người tham gia bảo hiểm con người là quá nhỏ (trong khi đó dân số là 82 triệu người, số dân dưới 30 tuổi chiếm khoảng 60%). Nhưng đây là hiện tại, còn tương lai ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng sẽ được cải thiện với số lượng hợp đồng bảo hiểm con người tăng lên vì hiểu biết của người dân đã cải thiện. Để có thể đạt được điều này cần có sự cố gắng của rất nhiều bên và đặc biệt là cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, chi tiết.
2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
Như trên chúng ta đã biết sự khó hiểu trong các điều khoản của HĐBH bởi lẽ các DNBH khi soạn thảo các nội dung của hợp đồng đưa ra rất nhiều các giả định “Nếu... thì...” vì thực chất là bảo hiểm cho sự kiện xảy ra trong tương lai (nếu có). Không ai có thể biết trước được sự kiện đó xảy ra hay không. Và nếu trước khi ký kết hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã biết về sự kiện đó thì HĐBH sẽ vô hiệu do bị lừa dối.
Thực tế là có rất nhiều trường hợp khách hàng khi ký kết hợp đồng chưa hiểu hoặc hiểu chưa hết được các quyền và nghĩa vụ của mình trong khi các đại lý với các tư vấn viên muốn ký kết được nhiều hợp đồng với khách hàng thường nêu lên các quyền hoặc các ưu đãi do ký kết hợp đồng mang lại mà quên đi việc giải thích cho khách hàng các điều khoản có thể ảnh hưởng đến chính quyền lợi của họ như: điều khoản miễn trách nhiệm, điều khoản giá trị hoàn lại khi hợp đồng đã có hiệu lực trên 2 năm...Các quy định của luật là điều kiện để HĐBH con người được thực hiện, tránh tranh chấp xảy ra, tạo nên một môi trường pháp lý lành mạnh. Nhưng thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo hiểm con người ở Việt Nam vẫn tạo ra nhiều tranh chấp. Có rất nhiều các nguyên nhân khác nhau và các nguyên nhân phổ biến là do DNBH từ chối trả tiền bảo hiểm thiếu căn cứ pháp luật, do bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng cố ý gây ra sự kiện bảo hiểm để được nhận tiền bảo hiểm, do sự thiếu hoàn chỉnh trong quy định của pháp luật. Theo từ điển thuật ngữ luật học: “Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là tranh chấp giữa các bên trong việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng”.[19] Vì thế tranh chấp HĐBH con người là sự xung đột bất đồng ý kiến giữa DNBH và bên tham gia bảo hiểm trong việc thực hiện các điều khoản của HĐBH con người.
Chúng ta sẽ xem xét các vụ tranh chấp cụ thể sau đây:
2.1. Tranh chấp phát sinh từ nghĩa vụ cung cấp thông tin của khách hàng
Sau khi tiếp nhận những lời mời chào khó nỗi từ chối từ nhân viên tiếp thị ngày 6/9/2000, bà Nguyễn Thị Oanh ngụ tại số 171/1B Cô Bắc, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định tham gia bảo hiểm hỗn hợp 10 năm với công ty Chinfon Manulife với mức phí 680.000 đồng/tháng. Trong HĐBH bà Oanh đã kê khai theo mẫu nội dung mà Chinfon Manulife soạn sẵn, trong đó có phần bà đề nghị công ty bảo hiểm kiểm tra y tế về tình trạng sức khoẻ nếu có yêu cầu và được Chinfon Manulife tiến hành vào ngày 11/9/2000 trước khi hợp đồng có hiệu lực.
Mọi việc diễn ra bình thường, đơn yêu cầu bảo hiểm của bà Oanh được Chinfon Manulife chấp thuận. Cho đến ngày 15/9/2000, thấy có triệu chứng ho khan, ói mửa, nhức mỏi hai vai, bà Oanh đến chẩn đoán tại Trung lâm lao phổi Phạm Ngọc Thạch và phát hiện bị ung thư phế quản phổi di căn hạch. Điều trị ở đấy một thời gian, bà Oanh được chuyển sang Trung tâm Ung bướu gần 6 tháng, sau đó xuất viện về nhà riêng rồi qua đời. Trong thời gian bà Oanh nằm viện, công ty Chinfon Manulife vẫn tiếp tục thu phí.
Sau đó ông Cao Hữu Trí, con trai bà Oanh gửi thông báo tới công ty xin thanh toán bảo hiểm tử vong nhưng thật bất ngờ đã bị công ty từ chối.
Bộ phận giải quyết khiếu nại của Chinfon Manulife cho biết, trước khi ký bảo hiểm, bà Oanh đã đi khám vài lần ở các phòng mạch tư, đồng thời ngày 11/9 khi đến khám tại công ty với câu hỏi trong vòng 5 tháng trở lại đây, bà có ốm, phẫu thuật, tham vấn y khoa hoặc điều trị tại bệnh viện? Bà Oanh cũng đã không thông báo về tình trạng bệnh lý của mình. Vì vậy, việc công ty Chinfon Manulife bác đề nghị thanh toán bảo hiểm tử vong đối với trường hợp bà Oanh là hoàn toàn phù hợp. Ông Trí nhận được thông báo sẽ bồi thường só tiền bảo hiểm bằng việc chi trả lại toàn bộ phí bảo hiểm đã đóng với số tiền 4.080.000 đồng là tổng số phí thu trong 6 tháng.
Ông David Matthews, Tổng giám đốc Chinfon Manulife đã nói: Chúng tôi khẳng định rằng bà Oanh đã không yêu cầu công ty bảo hiểm kiểm tra sức khoẻ cho bà. Vì yếu tố tuổi cao và phạm vi mệnh giá bảo hiểm, công ty Chinfon Manulife đã yêu cầu bà Oanh đến công ty kiểm tra sức khoẻ theo thủ tục thẩm định thông thường. Bà Oanh đã đến phòng khám y tế của chúng tôi vào ngày 11/9/200, tại thời điểm bà Oanh gặp bác sỹ của công ty, bác sỹ đã đặt ra cho bà Oanh mọi câu hỏi liên quan đến các bệnh tật ghi trong đơn mua bảo hiểm và tìm hiểu các kết quả khám sức khoẻ liên quan.
Bà Oanh đã khám bệnh ở một số phòng khám y khoa trước ngày bà nộp đơn mua bảo hiểm. Tuy nhiên, bà Oanh đã không khai báo điều này với các bác sỹ của chúng tôi kể cả lần bà đi khám bệnh vào ngày 9/9/2000 tức 2 ngày trước khi kiểm tra sức khoẻ tại công ty chúng tôi. Những lần đi khám này, nếu như chúng tôi được biết lẽ ra đã ảnh hưởng quan trọng đến quyết định chấp thuận bảo hiểm của chúng tôi đối với đơn mua bảo hiểm. Do đó, quyết định cuối cùng của chúng tôi căn cứ theo điều khoản HĐBH là buộc lòng phải từ chối yêu cầu thanh toán bảo hiểm cho bà Oanh đã không thực hiện nghĩa vụ khai đúng và đầy đủ mọi thông tin như yêu cầu, dẫn đến huỷ bỏ HĐBH và công ty hoàn lại phí đã đóng.[13]
Rõ ràng khi tranh chấp xảy ra, cả 2 bên đều đưa ra lý luận để bảo vệ cho quyền lợi của mình. Đối với công ty Chinfon Manulife chỉ căn cứ vào một nguyên nhân là khách hàng đã không trung thực khi trả lời các câu hỏi trong hợp đồng là thiếu thuyết phục. Có thể nói phần lỗi của khách hàng thiếu trách nhiệm trong khi trả lời câu hỏi mang tính trắc nghiệm nhưng cũng không thể vì thế mà buộc khách hàng của mình không được nhận tiền bảo hiểm. Còn việc bà Oanh đi khám bệnh ngày 9/9/2000 có thể là việc kiểm tra sức khoẻ bình thường và không thể vì thế mà Chinfon Manulife quy kết là không thông báo với công ty. Nếu trong ngày kiểm tra sức khoẻ này nếu bà Oanh biết về tình trạng bệnh tật của mình mà không thông báo với công ty thì công ty Chinfon Manulife phải chứng minh được điều đó và huỷ hợp đồng. Còn kiểm tra sức khoẻ mà bà Oanh không biết được tình trạng bệnh tật của mình thì vẫn thuộc trường hợp sự kiện bảo hiểm đã xảy ra nhưng bên mua bảo hiểm không biết về sự kiện bảo hiểm đó xảy ra thì hợp đồng bảo hiểm vẫn có hiệu lực.
Nhưng ở đây, công ty Chinfon Manulife đã căn cứ vào việc không khai báo của khách hàng để huỷ hợp đồng là không hợp lý. Hơn nữa chính bà Oanh đã yêu cầu công ty kiểm tra sức khoẻ (hoặc không yêu cầu như ông Tổng giám đốc đã nói) thì thủ tục thẩm định sức khoẻ cho khách hàng vẫn phải được tiến hành và bác sỹ của công ty phải biết được tình trạng sức khoẻ của khách hàng khi ký kết. Không thể nói như ông Tổng giám đốc của công ty “Nếu như chúng tôi được cho biết lẽ ra đã ảnh hưởng quan trọng đến quyết định chấp thuận bảo hiểm của chúng tôi đối với đơn mua bảo hiểm”. Vì đây là công việc mà DNBH phải làm trước khi ký hợp đồng để đảm bảo cho quyền lợi của chính mình (họ là đội ngũ bác sỹ với nhiệm vụ kiểm tra chứ không phải làm nhiệm vụ theo lời nói của khách hàng).
Khi tranh chấp xảy ra ảnh hưởng đến thời gian, vật chất và đặc biệt là ảnh hưởng đến uy tín của DNBH, làm giảm lòng tin ở khách hàng. Trong việc cạnh tranh của thị trường ngày nay đòi hỏi các DNBH phải nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng để tránh tranh chấp xảy ra, có như vậy mới đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi DNBH.
2.2. Tranh chấp do việc xác định sự kiện bảo hiểm
Đây là vụ tranh chấp kéo dài, với nhiều tình tiết phức tạp. Trong khi Prudential cho rằng đây là hành vi trục lợi bảo hiểm từ phía khách hàng, vậy mà cả phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm Prudential đều thua kiện. Vụ việc như sau:
Ông Vũ Quang Uông là bên mua bảo hiểm đồng thời là người được bảo hiểm của 04 HĐBH nhân thọ được Prudential phát hành vào các ngày 21-3-2001 và ngày 26-3-2001. Các hợp đồng này đều do anh Vũ Trung Thành - con trai ông Uông đồng thời là đại lí bảo hiểm của Prudential tư vấn. Ngoài ra ông Uông còn tham gia bảo hiểm tại công ty bảo hiểm nhân thọ Hà Nội và Bảo Minh CMG với số tiển bảo hiểm có tổng mệnh giá lên tới 3.6 tỉ
Theo trình bày của ông Vũ Quang Uông - giáo viên nghỉ hưu: tối ngày 23-3-2002, tại phố Giẽ xã Tân Trường, Cẩm Giàng, Hải Dương do tránh ôtô đi cùng chiều, đường mưa trơn, ông bị ngã, chân trái bị gãy. Ông được người đi đường mang đi cấp cứu tại bênh viện Cẩm Giàng. Sau đó gia đình ông đưa ông tới điều trị tại nhiều bệnh viện khác nhau ở Hải Dương và Hà Nội. Ngày 6-2-2002, tại bệnh viện Quân Y 107 ông bị cắt cụt 1/3 cẳng chân trái do nhiễm trùng hoại tử phần mềm. Sau khi bị tai nạn, ông yêu cầu công ty bảo hiểm trả tiền theo thoả thuận đã ký. Prudential không chấp nhận vì cho đây là “màn kịch” của ông Uông từ việc mua bảo hiểm tới việc cưa chân…Không thoả thuận được với nhau ông Uông khởi kiện ra toà án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Cuối tháng 6 vụ kiện được đưa ra xét xử sơ thẩm:
Tại phiên toà sơ thẩm, luật sư Prudential thắc mắc tại sao có một cái chân đau mà ông Uông phải qua nhiều bệnh viện, có bệnh viện xác nhận vết đau ở chân ông đã thuyên giảm, hẹn tái khám mà không tái khám…Ngay sau đó luật sư của ông Uông đã bênh vực: “Theo Điều 22 pháp lệnh bảo vệ sức khoẻ nhân dân, người bệnh có quyền tuỳ ý lựa chọn cơ sở chữa bệnh, cũng như thầy thuốc, lương y, bác sĩ mà không có gì hạn chế, cũng không cần đưa ra lí do nào”.
Để bảo vệ cho khẳng định của mình luật sư Prudential đã hỏi ông Uông về nguồn thu nhập mà có thể tham gia bảo hiểm với số tiền lớn như vậy.
Một điều vô lí là biết ông Uông có bệnh giun chỉ ở chân trái (theo thông tin mà ông Uông đã cung cấp) công ty Prudential vẫn chấp nhận cả 4 HĐBH nhân thọ cho ông và ông còn phải đóng thêm tiền cho sản phẩm bổ trợ chết và tàn tật kèm theo các hợp đồng này. Suốt từ tháng 3-2001 ông Uông và gia đình vẫn đều đặn đóng phí và thực hiện đầy đủ cam kết…thì lúc đó tại sao công ty Prudential không đề cập đến chuyện nghi ngờ nguồn tiền ở đâu ra mà vẫn nhận tiền đều đặn. Khi ông Uông gặp tai nạn rồi yêu cầu bảo hiểm công ty mới bắt đầu cố ý nghi vấn tại sao…?. Và luật sư của ông Uông đã nói “luật nào bắt người tham gia bảo hiểm phải chứng minh thu nhập”.
Không dừng lại ở đó Prudential cho rằng: Anh Vũ Trung Thành con trai của ông Uông (cũng là đại lí của Prudential) thông báo về tình trạng của bố mình cho công ty quá muộn (khoảng nửa năm sau ngày ông Uông bị ngã). Điều này không vi phạm hợp đồng cũng như bất cứ các quy định nào của Prudential, bởi theo điều khoản chung của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ: trong trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ và vĩnh viễn thì “thời hạn yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm là trong vòng 1 năm kể từ ngày có kết luận của cơ quan y tế về tình trạng thương tật của người được bảo hiểm”.
Đại diện viện kiểm sát và hội đồng xét xử toà án nhân dân tỉnh Hải Dương đã nhất trí cao trong kết luận công ty bảo hiểm Prudential phải bồi thường cho ông giáo cụt chân 750 triệu đồng và chịu toàn bộ án phí (theo đúng chương 7: giải quyết tranh chấp Phú Tích Luỹ An Khang của Prudential).
Cho rằng bản án không thoả đáng Prudential chống án. Ngày 16-12 phiên toà phúc thẩm được mở. Phần tranh lụân tại phiên toà diễn ra căng thẳng. Bà Nguyễn Thị Thuỳ Hương - đại diện bị đơn cho rằng có nhiều mâu thuẫn trong lời khai của các nhân chứng và kết luận của cơ quan công an giao thông tỉnh Hải Dương không được tôn trọng, thậm chí đây có thể là một vụ trục lợi bảo hiểm “toà phúc thẩm hãy tuyên huỷ án sơ thẩm để giao hồ sơ cho cơ quan công an xác định lại đây có phải là vụ tai nạn giao thông hay không”. Tuy nhiên chủ toạ phiên toà đã “dội gáo nước lạnh” vào đề nghị này: “Đó là cách hiểu của người làm kinh doanh, còn tai nạn ở đây là xảy ra trên đường, là tai nạn giao thông…chẳng có ai lại tự cắt bỏ một phần thân thể của mình để nhận bồi thường cả”.
Luật sư của Prudential nhấn mạnh những mâu thuẫn trong lời khai của nạn nhân là: ông Uông lúc thì khai buồn ngủ bị ngã xe, lúc thì khai xe đâm vào dải phân cách, lúc thì con ông Uông khai ông bị ô tô đè lên…Rồi việc chuyển viện liên tục và “tha thiết” đề nghị cưa chân của ông Uông khi vẫn còn khả năng cứu chữa.
Về phía nguyên đơn anh Vũ Trung Thành (con trai ông) nhắc lại yêu cầu đòi bồi thường 750 triệu đồng theo các hợp đồng hai bên kí trước đây và phần lãi phát sinh yêu cầu lên tới 190 triệu đồng.
Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm, đồng thời chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, buộc Prudential phải trả thêm 120 triệu đồng là khoản lãi phát sinh từ số tiền mà bị đơn phải bồi thường theo phán quyết của toà án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Quan điểm của Prudential Việt Nam về trường hợp ông vũ Quang Uông là sẽ đề nghị để vụ việc được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm. Prudential cho rằng cả hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đều chưa đánh giá một cách khách quan bản chất của sự việc, do đó đã đưa ra phán quyết không công bằng về mặt pháp lí. Prudential luôn tôn trọng phán quyết của toà án và pháp luật Việt Nam, nhưng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình và quan trọng hơn là đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật nhằm trục lợi bảo hiểm, góp phần bảo vệ sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Để đảm bảo sự công bằng cho mọi khách hàng tham gia bảo hiểm Prudential kiên quyết ngăn chặn mọi trường hợp trục lợi bảo hiểm. Rất tiếc là những hậu quả nghiêm trọng mà những hành vi trục lợi bảo hiểm có thể gây ra chưa được xã hội cũng như pháp luật đánh giá một cách đúng mức. Trước một sự việc có nhiều tình tiết đáng ngờ như trường hợp tai nạn giao thông của ông Vũ Quang Uông, toà án nhân dân ở cả hai cấp xét xử cần xem xét kỹ lưỡng hơn trước khi ra phán quyết bằng cách trưng cầu giám định của cơ quan điều tra.
Ngay sau khi kết thúc phiên toà ông Nguyễn Đức Chương - phó tổng giám đốc Prudential cho biết: “các bằng chứng của Prudential bị bác bỏ một cách vô lí, công ty sẽ có khiếu nại đề nghị giám đốc thẩm vụ này”. Ngoài ra Prudential sẽ cân nhắc khả năng kiến nghị xử lí hình sự hành vi mà công ty cho là: “lừa gạt để chiếm đoạt tiền bảo hiểm của ông Vũ Quang Uông”.[26]
Qua vụ án nêu trên chúng ta thấy được tính phức tạp của vụ việc bởi đã qua cấp xét xử phúc thẩm mà Prudential vẫn không đồng ý với phán quyết của toà và cho rằng có nhiều tình tiết cần xem xét. Về phía nguyên đơn ông Vũ Quang Uông - giáo viên nghỉ hưu thì thật khó có thể tham gia bảo hiểm với số tiền lớn như vậy và hơn nữa việc cắt bỏ chân trái của ông không phải là biện pháp cuối cùng. Về phía bị đơn Prudential không thể đưa ra những bằng chứng xác thực để chứng minh hành vi trục lợi của ông Vũ Quang Uông mà chỉ đưa ra những câu hỏi như “Tại sao ông lại chuyển qua nhiều viện…” hoặc “tại sao lại có số tiền lớn như vây…?”. Đó là những câu hỏi thiếu sức thuyết phục, Prudential không thể chứng minh trước toà rằng đây là vụ trục lợi bảo hiểm (mặc dù tình tiết và sự việc diễn ra có thể khiến mọi người hiểu như vậy). Vì thế qua hai cấp xét xử Prudential không phải là bên thắng kiện và yêu cầu đưa vụ án xét xử theo trình tự giám đốc thẩm.
Cũng từ vụ việc này thấy được các quy định chi tiết của luật đồng thời sự trung thực của khách hàng khi cung cấp thông tin là yếu tố hạn chế tranh chấp xảy ra. Từ đó tạo nên môi trường pháp lý lành mạnh, tạo lòng tin của người dân khi tham gia bảo hiểm. Đó cũng là mục tiêu mà mỗi người và cả xã hội quan tâm
2.3. Tranh chấp do nội dung của hợp đồng không rõ ràng
Anh Nguyễn Văn Hợp - chồng chị Hà mua bảo hiểm nhân thọ cho con là Nguyễn Hải Linh - sinh năm 1982 thời hạn là 15 năm, mỗi năm anh đóng 2.966.600 đồng. Sau khi anh mất, gia đình anh làm đơn xin được nhận lại số phí mà anh đã đóng trong một năm qua, nhưng bị phía công ty bảo hiểm từ chối với lí do chị Ngô Thu Hà có đủ điều kiện về thừa kế (quy định ở Điều 1.1.1) nên chị phải tiếp tục đóng phí thay cho chồng. Do chồng mới mất và anh là lao dộng chính trong gia đình nên chị không thể tiếp tục nghĩa vụ thừa kế của anh. Thế là công ty liền huỷ hợp đồng.
Nếu xem xét kỹ thì phía công ty bảo hiểm không sai. Hợp đồng có ghi “trong trường hợp chủ hợp đồng không phải là người được bảo hiểm, khi chủ hợp đồng chết trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực, người thừa kế hợp pháp của chủ hợp đồng có quyền thừa kế toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng này với điều kiện người thừa kế hợp pháp của chủ hợp đồng hội tụ các điều kiện quy định. Nếu các điều kiện trên đây không được đáp ứng, HĐBH sẽ mất hiệu lực và công ty bảo hiểm sẽ trả cho người thừa kế hợp pháp của chủ hợp đồng giá trị nào cao hơn của toàn bộ phí bảo hiểm đã thu, hoặc giá trị giải ước tại thời điểm chủ hợp đồng chết”.[14]
Khi đọc đến điều khoản này khách hàng sẽ an tâm ngay, nếu chủ hợp đồng chết…thì sẽ được nhận lại “toàn bộ chi phí bảo hiểm đã thu hoặc giá trị giải ước tại thời điểm chủ hợp đồng chết”. Tuy nhiên các vế khác của điều khoản này nằm ở đâu, với những điều kiện gì ví dụ như là điều kiện để được nhận giá trị giải ước là như thế nào? và những hợp đồng nào có giá trị giải ước để thông tin đến khách hàng trước khi ký kết
Đây là tình trạng chung của hợp đồng bảo hiểm, nổi lên nhiều điểm không rõ ràng của các từ ngữ sử dụng trong hợp đồng làm cho quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên ký kết có thể dễ dàng bị suy diễn theo chiều hướng có lợi cho phía nhà khai thác. Các điều khoản về quyền lợi của bên mua bảo hiểm thường được quy định rất rõ ràng nên có thể hấp dẫn người mua. Trái lại nghĩa vụ bên mua bảo hiểm thường được quy định bằng những khái niệm quá rộng. Mặt khác trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bên mua lại quá lớn một khi vi phạm vào những khái niệm quá rộng đó. Khi ký kết, người mua thường bị hấp dẫn bởi những quyền lợi rõ ràng mà không đủ kinh nghiệm để nhận thấy mình có trách nhiệm thực thi những nghĩa vụ phức tạp mà hậu quả của nó rất lớn. Khi tiếp thị mời mua bảo hiểm, nhân viên thường đem những điều khoản có lợi nói cho khách hàng nghe còn những điều bất lợi cho khách hàng thường được “vô tình” bỏ qua để khách hàng tự hiểu.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI
Những kiến nghị, giải pháp mà tác giả đưa ra dưới đây được dựa trên cơ sở nghiên cứu những sự thay đổi điều kiện kinh tế của đất nước đó là khi Việt Nam gia nhập WTO, cùng với việc chỉ ra các điểm bất hợp lý trong các quy định của luật kinh doanh bảo hiểm.
1. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hợp đồng bảo hiểm con người
Việt Nam cũng như tất cả các nước khác khi gia nhập WTO đã tạo ra những thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi mỗi nước phải biết tận dụng chúng để tạo ra những bước phát triển phù hợp với xu thế chung của thế giới. Bảo hiểm là một trong những ngành chịu tác động mạnh cả quy mô và chất lượng do việc gia nhập WTO mang lại và bảo hiểm sẽ là ngành hạn chế đầu tư nước ngoài. Vụ trưởng vụ pháp chế bộ kế hoạch đầu tư Phạm Mạnh Dũng “bảo hiểm cũng các ngành viễn thông, tài chính, hàng hải, …sẽ là những lĩnh vực hạn chế đầu tư nước ngơài” . Nguyên nhân là do bảo hiểm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống con người và sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và nước ngoài sẽ tạo ra nguy cơ gây mất ổn định thị trường tài chính. Chúng ta sẽ xem xét những tác động đối với ngành bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập WTO.
1.1. Thuận lợi
Khi mở cửa hội nhập các doanh nghiệp bảo hiểm của các nước đến đầu tư vào Việt Nam làm cho chất lượng dịch vụ của bảo hiểm con người được nâng cao. Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ là giảm chi phí, tăng chất lượng dịch vụ để cạnh tranh thu hút khách hàng. Có thể nói nó mang tính quyết định đến sự tồn vong của doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Sự cạnh tranh này tất yếu sẽ kéo theo việc khách hàng được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Hiện nay Việt Nam có các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn như Prudential của Anh, Chinfon Manulife của Đài Loan, Bảo Việt nhân thọ. Các công ty đều đưa ra các ưu đãi cho các sản phẩm của mình và được thể hiện qua các điều khoản của hợp đồng. Ví dụ trong sản phẩm bảo hiểm An Gia Thịnh Vượng của Bảo Việt khi tham gia khách hàng được vay theo hợp đồng, vay phí tự động của công ty hoặc dừng nộp phí và duy trì hợp đồng với số tiền bảo hiểm giảm nếu hợp đồng có hiệu lực từ 24 tháng trở lên.
Bên cạnh đó công nghệ quản lí mới được chuyển giao, trình độ đội ngũ cán bộ được cải thiện. Cùng với việc đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam các doanh nghiệp nước ngoài sẽ mang đến công nghệ quản lí mới để phuc vụ cho sự phát triển của chính họ. Đây là cơ hội để cho chúng ta học hỏi tiếp thu công nghệ trong lĩnh vực bảo hiểm. Khi công nghệ quản lí được nâng cao thì đòi hỏi phải có con người phù hợp có nghĩa là con người phải áp dụng được công nghệ đó vào cuộc sống. Vì thế, trình độ đội ngũ cán bộ được sẽ được cải thiện. Sẽ thật là không hợp lý khi công nghệ quản lí tiên tiến mà không có con người đủ trình độ để sử dụng.
Một thuận lợi nữa mà không thể không nhắc đến đó là người tham gia hợp đồng bảo hiểm con người được lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm có chất lượng, an toàn, phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Nếu còn tồn tại tình trạng độc quyền cũng đồng nghĩa với việc người dân chỉ có thể lựa chọn duy nhất một doanh nghiệp mà không có sự lựa chọn nào khác. Rõ ràng sự cạnh tranh không những chất lượng dịch vụ được nâng cao mà còn tạo ra nhiều cơ hội khi lựa chọn của người tham gia.
1.2. Bên cạnh những thuận lợi còn có những khó khăn do việc gia nhập WTO mang lại
Đó là khả năng gây mất ổn định chung của thị trường tài chính trong nước. Tạo nên sự bất ổn định này là do các doanh nghiệp bảo hiểm đều muốn khẳng định địa vị của mình trên thị trường và vì thế sự cạnh tranh là tất yếu. Không ai có thể biết trước đó là sự cạnh tranh lành mạnh hay không. Các quy định của pháp luật mục đích là để đảm bảo sự an toàn và hiệu quả trong hoạt động của các doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi của các bên chủ thể. Nhưng thực tế sự cạnh tranh này vẫn có thể gây ra sự mất an toàn cho thị trường tài chính. Các công ty trong nước sẽ bị chia sẻ thị phần và cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn (thị phần bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp trong nước giảm từ 70% năm 2000 xuống còn 38% năm 2005). Mức độ cạnh tranh cao có thể dẫn tới hiện tượng liên kết giữa các công ty bảo hiểm lớn, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh của thị trường. Và thực tế là khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia thị trường bảo hiểm sẽ tìm cách lôi kéo các nhân lực có kiến thức và có kinh nghiệm của các DNBH trong nước.
Hơn nữa trình độ quản lí của các DNBH trong nước chưa theo kịp với mức độ mở cửa của thị trường này. Đối với DNBH Việt Nam hiện nay để tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật của nước ngoài thì cần phải có một thời gian nữa. Thời gian tới sẽ là thời gian khẳng định sự tiếp nhận, thử nghiệm và phát triển công nghệ quản lí mới đối với các DNBH trong nước.
Như trên chúng ta đã biết sự đa dạng của các loại hình bảo hiểm một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho người dân lựa chọn loại hình bảo hiểm với dịch vụ tốt nhất nhưng mặt khác cũng tạo nên sự khó khăn khi lựa chọn loại hình nào phù hợp với mình. Muốn thu hút khách hàng, phương châm của các doanh nghiệp luôn thể hiện sự phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển. Vậy làm sao người dân có thể lựa chọn một cách dễ dàng để đạt được mục đích của minh? Trong khi đó trình độ hiểu biết về các điều khoản HĐBH nói chung và HĐBH con người nói riêng của người dân còn hạn chế. Thêm vào đó khi tìm hiểu hợp đồng các nhân viên tư vấn thường đưa ra những quyền lợi “hấp dẫn” đối với khách hàng nhằm thu hút khách hàng lựa chọn doanh nghiệp mình. Đó là những thực tế khó khăn mà người mua bảo hiểm gặp phải trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.
2. Những bất cập trong luật kinh doanh bảo hiểm về hợp đồng bảo hiểm con người
2.1. Về quyền lợi có thể được bảo hiểm
Theo khoản 9 Điều 3 Luật KDBH thì: “quyền lợi có thể được bảo hiểm đó là quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm” Quyền lợi này thể hiện mối quan hệ giữa bên mua bảo hiểm và đối tượng được bảo hiểm theo đó sự rủi ro của đối tượng được bảo hiểm gây thiệt hại về tài chính hoặc tổn thất tinh thần cho bên mua bảo hiểm. Mục đích của quy định này là nhằm loại bỏ khả năng bên mua bảo hiểm cố tình gây thiệt hại, tổn thất cho đối tượng bảo hiểm để thu lợi hay việc quy định này nhằm ngăn chặn hành vi trục lợi bảo hiểm từ phía bên mua bảo hiểm hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Thực tế bất cứ người nào cũng có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với chính bản thân mình. Nhưng các hợp đồng bảo hiểm con người không phải lúc nào người tham gia bảo hiểm cũng đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm, bởi lẽ người tham gia bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho đối tượng khác. Và vì vậy, nếu chỉ giới hạn quyền lợi có thể bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm con người là quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm thì đã “vô tình” hạn chế đối tượng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người mà trên thực tế lại diễn ra theo một hướng khác. Hiện nay quyền lợi có thể được bảo hiểm không chỉ xác định dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống mà nó còn dựa trên các mối quan hệ khác nữa mà chúng ta sẽ xem xét sau đây.
Theo khoản 2 Điều 31 Luật KDBH đã liệt kê các đối tượng mà bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho các đối tượng đó:
Bản thân bên mua bảo hiểm;
Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm;
Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng
Người khác nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Những đối tượng này có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống với nhau. Luật đã giới hạn bằng từ “chỉ” có nghĩa là ngoài những đối tượng này ra bên mua bảo hiểm không thể mua bảo hiểm cho ai khác. Nhưng khi chúng ta tìm hiểu khái niệm “nuôi dưỡng” và “cấp dưỡng” theo Luật Hôn nhân và gia đình thì hai khái niệm này được quy định ở những trường hợp trái ngược nhau thậm chí sự tồn tại của khái niệm này sẽ loại trừ khái niệm kia.
Theo khoản 11 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình thì “cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người khó khăn túng thiếu theo quy định của luật này”. Đó là cấp dưỡng, còn nuôi dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình sẽ được hiểu là giữa những người sống chung với nhau. Luật này đã liệt kê quan hệ nuôi dưỡng giữa những người trong gia đình với nhau: đó là quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con (Điều 34 và Điều 35); quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu (Điều 47); quan hệ nuôi dưỡng giữa anh chị em trong gia đình (Điều 48). Hơn nữa theo khoản 2 Điều 50 quy định: “trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại luật này”
Từ những khái niệm trên thì hoàn cảnh phát sinh quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng trái ngược nhau vì việc cấp dưỡng chỉ thực hiện đối với những người không sống chung với nhau, còn nuôi dưỡng khi họ sống chung với nhau. Hơn nữa khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà không thực hiện nghĩa vụ của mình thì buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Vậy Luật KDBH quy định mua bảo hiểm cho đối tượng là người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng như vậy là không hợp lý.
Không chỉ những thế Luật KDBH quy định quyền lợi có thể được bảo hiểm dựa trên quan hệ hôn nhân và huyết thống vậy mà khi xem xét việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình lại được thực hiện khi họ không còn tồn tại quan hệ hôn nhân. Theo điều 60 luật Hôn nhân và gia đình: “khi ly hôn, nếu bên khó khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Vì thế khi phát sinh quan hệ cấp dưỡng cũng đồng nghĩa với việc quan hệ hôn nhân đã chấm dứt và vì thế quyền lợi có thể được bảo hiểm không còn nên quy định của Luật KDBH trong trường hợp này cũng không hợp lý. Quy định này chỉ đúng khi đó là mối quan hệ cấp dưỡng giữa ông bà và cháu hoặc giữa anh, chị, em trong gia đình
Ngày nay khi hội nhập kinh tế quốc tế các doanh nghiệp thường sử dụng nhiều lao động để thực hiện mục đích phát triển doanh nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Để đảm bảo mục đích này và để đảm bảo cho cuộc sống của người lao động khi không may rủi ro xảy ra các chủ sử dụng lao động thường mua bảo hiểm cho người lao động (thường là bảo hiểm tai nạn lao động). Trường hợp này không thuộc trường hợp mà luật đã quy định về quyền lợi có thể được bảo hiểm nhưng thực tế diễn ra rất nhiều. Quyền lợi có thể được bảo hiểm ở đây sẽ là những tổn thất xảy ra đối với bên mua bảo hiểm chính là các chủ sử dụng lao động. Giữa họ không hề tồn tại quan hệ hôn nhân hay huyết thống. Vậy trong trường hợp này giải quyết như thế nào? Trong khi các chủ thể được phép thoả thuận những vấn đề mà pháp luật không cấm mà Luật KDBH không có quy định cấm mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động
2.2. Về hành vi thông báo sai tuổi của bên mua bảo hiểm đối với người được bảo hiểm
Theo khoản 2 Điều 34 Luật KDBH: “trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí bảo hiểm đã đóng cho bên mua bảo hiểm sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý liên quan. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực từ hai năm trở lên thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm”.
Các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm là các điều khoản mẫu nên các điều khoản này do một bên đưa ra (là doanh nghiệp bảo hiểm) theo đó bên mua bảo hiểm xem xét quyết định có tham gia hay không. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi của hai bên điểm b khoản 2 Điều 18 Luật KDBH quy định “bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”. Hơn thế nữa một nguyên tắc khi giao kết hợp đồng là “trung thực tuyệt đối” nên đòi hỏi thông tin từ bên mua bảo hiểm phải chính xác và bên bảo hiểm hoàn toàn tin tưởng vào thông tin đó.
Theo khoản 2 Điều 34 Luật KDBH nếu bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm mà tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí sau khi trừ các chi phí liên quan nếu hợp đồng có hiệu lực dưới hai năm. Nếu hợp đồng có hiệu lực trên hai năm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng.
Xem xét hành vi huỷ bỏ hợp đồng theo Điều 425 Bộ luật dân sự 2005 thì hậu quả là:
1. Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
2. Bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ bỏ hợp đồng, nếu không thông báo ngay mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
3. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực tại thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền.
4. Bên có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Bộ luật dân sự là luật gốc nên các quy định của luật chuyên ngành phải phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật này. Nếu quy định của luật chuyên ngành và bộ luật dân sự cùng điều chỉnh một vấn đề thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành. Khoản 1 Điều 2 Luật KDBH quy định: “tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tuân thủ quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Vậy trong trường hợp huỷ bỏ hợp đồng này sẽ áp dụng quy định của Luật KDBH. Trở lại với quy định của khoản 2 Điều 34 Luật KDBH với mục đích quy định là đảm bảo quyền lợi cho khách hàng (khi được nhận giá trị hoàn lại) nhưng thực tế quy định như vậy tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện hành vi thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm để giao kết hợp đồng vì hậu quả pháp lý của hành vi này là khách hàng vẫn được nhận một số tiền sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan hoặc nhận giá trị hoàn lại của hợp đồng.
2.3. Về hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng của bên mua bảo hiểm
Theo điểm a khoản 2 Điều 19 Luật KDBH “doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường”.
Hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật là hành vi của một bên nhằm làm cho người nghe tin vào thông tin đó và thực chất đó là hành vi lừa dối của một bên. Điều 132 Bộ luật dân sự 2005: “lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập nên giao dịch đó”. Cũng theo quy định của bộ luật dân sự thì hành vi lừa dối sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu nhưng luật kinh doanh bảo hiểm quy định hai hậu quả pháp lý khác nhau đó là doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm (điểm a khoản 2 Điều 19) và hợp đồng bảo hiểm vô hiệu (điểm d khoản1 Điều 22).
Trên thực tế việc áp dụng quy định này khó khăn cho việc giải quyết quyền lợi của hai bên. Dưới đây là một ví dụ:
Ngày 24/11/2002, trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm cung cấp thông tin về tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm, công ty đã giao kết hợp đồng bảo hiểm với bà C (người được bảo hiểm cũng đồng thời là người mua bảo hiểm). Ngày 16/12/2003, bà C đã bổ sung thông tin là bà đã và đang điều trị bệnh tim mạch từ năm 20 tuổi. Theo thông báo này, công ty tiến hành kiểm tra sức khoẻ cho bà và kết quả cho thấy bà bị bệnh tim - bệnh thuộc trường hợp không chấp nhận bảo hiểm. Trên thực tế tại thời điểm giao kết hợp đồng bà C đã cố ý không kê khai đúng tình trạng bệnh tật của mình qua việc trả lời không đối với tất cả các câu hỏi trong giấy yêu cầu bảo hiểm, trong khi sự thật khách quan là bà đã và đang phải điều trị bệnh tim bẩm sinh từ năm 20 tuổi (ghi nhận trong hồ sơ bệnh án). Rõ ràng , hành vi cung cấp thông tin sai sự thật về tình trạng bệnh tật của bà hoàn toàn thoả mãn dấu hiệu theo điểm a khoản 2 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm và công ty có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng, không hoàn lại số phí bảo hiểm đã nộp tính đến ngày đình chỉ cũng như không phải chịu trách nhiệm về những rủi ro phát sinh theo Điều 4 điểm 4.1.2 điều khoản hợp đồng bảo hiểm mà bà C đã ký với công ty. Tuy nhiên toà án nhân dân thị xã B đã nhận định bà C không vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin về tình trạng sức khoẻ của mình theo điểm a khoản 2 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm để đình chỉ thực hiện hợp đồng và tuyên: huỷ hợp đồng bảo hiểm, buộc công ty hoàn trả cho bà C toàn bộ số phí đã nộp.[17, tr.8]
Trong tình huống trên nếu bà C không biết về bệnh tim của mình thì hợp đồng vẫn có hiệu lực và thuộc trường hợp sự kiện bảo hiểm đã xảy ra nhưng bên mua bảo hiểm không biết về sự kiện đó. Nhưng ở đây bà C đã cố ý không kê khai đúng sự thật nên toà án phải áp dụng điểm a khoản 2 Điều 19 để đình chỉ thực hiện hợp đồng. Có như vậy mới đảm bảo được ý nghĩa đích thực của pháp luật và ngăn chặn hành vi trục lợi của khách hàng.
2.4. Về điều khoản hợp đồng bảo hiểm con người
Do tập điều khoản HĐBH con người có nhiều điểm tối nghĩa khiến cho khách hàng có thể hiểu sai: Trước hết đó là điều khoản buộc người mua bảo hiểm phải tự suy luận ra hai điều:
Thứ nhất, nếu bên mua bảo hiểm không tiếp tục đóng phí bảo hiểm thì công ty bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và bên mua bảo hiểm không có quyền đòi lại khoản phí bảo hiểm nếu thời gian đã đóng phí bảo hiểm dưới hai năm.
Thứ hai, nếu thời gian đóng phí bảo hiểm trên hai năm thì bên mua bảo hiểm có quyền đòi giá trị hoàn lại ( giá trị giải ước) của hợp đồng bảo hiểm.
Việc quy định như vậy khiến người mua rất dễ hiểu rằng mọi trường hợp nếu không tiếp tục đóng phí bảo hiểm thì đều được nhận giá trị hoàn lại. Không chỉ những thế Luật KDBH và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không đưa ra khái niệm thế nào là “giá trị hoàn lại” nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Việc hiểu như thế nào là giá trị hoàn lại dựa trên các khái niệm mà các doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra “giá trị hoàn lại là số tiền bên mua bảo hiểm được nhận lại khi bên mua bảo hiểm yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo điều khoản và điều kiện hợp đồng”. Khái niệm này còn quá chung chung vì chỉ dừng lại ở việc quy định bên mua bảo hiểm được nhận lại một số tiền khi yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo điều khoản và điều kiện hợp đồng mà không hề quy định giá trị số tiền hoàn lại là bao nhiêu hoặc ngoài diều kiện trên thì có cần điều kiện nào khác không hay mọi trường hợp yêu cầu huỷ hợp đồng và hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo điều khoản và điều kiện của hợp đồng? Theo sự giải thích mà Prudential đưa ra: “trong những năm đầu do các chi phí liên quan đến việc phát hành và phục vụ hợp đồng như chi phí thẩm định, chi phí xét nghiệm y khoa… lớn hơn nhiều so với chi phí duy trì hợp đồng về sau. Trong khi đó, phí bảo hiểm mà khách hàng đóng vào hàng năm là không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng. Có nghĩa là chi phí thực tế trong những năm đầu của HĐBH thường cao hơn nhiều so với chi phí thu được từ hợp đồng đó. Vì thế trong hai năm đầu các HĐBH chưa có giá trị hoàn lại và trong những năm tiếp theo giá trị hoàn lại thường nhỏ hơn so với số phí đóng vào”. Vậy trong hai năm đầu nếu bên mua bảo hiểm vì lý do nào đó không thể tiếp tục đóng phí bảo hiểm thì quyền lợi của họ sẽ không được bảo vệ vì họ có thể không nhận được giá trị hoàn lại hoặc nếu có nhận được thì đó là số tiền ít hơn. Đó là điểm bất lợi đối vớ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc