Tài liệu Đề tài Hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Hải Dương: Thực trạng và giải pháp: LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình CNH – HĐH đất nước ở nước ta, nguồn vốn FDI đã phát huy được vai trò rõ rệt của nó trong những năm qua. Việc thu hút nguồn vốn FDI để khai thác hiệu quả hơn tiềm năng vốn có của quốc gia là một yêu cầu bức thiết đặt ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Trong những năm gần đây, xúc tiến đầu tư được coi là công cụ hữu hiệu nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn FDI. Tuy nhiên, nhận thức về hoạt động xúc tiến đầu tư hiện nay vẫn còn có những hạn chế nhất định và hoạt động xúc tiến đầu tư ở nước ta nói chung, ở các địa phương nói riêng và cụ thể địa bàn nghiên cứu trong đề tài này là tỉnh Hải Dương vẫn còn đang trong giai đoạn sơ khai, chưa có được chiến lược XTĐT, đồng thời cũng chưa khai thác hết tính hiệu quả của các công cụ XTĐT trong quá trình vận động các nhà đầu tư tiềm năng. Như vậy, thực trạng của hoạt động xúc tiến đầu tư diễn ra tại tỉnh Hải Dương hiện nay như thế nào? Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân gây ra hạn chế là ...
107 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Hải Dương: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình CNH – HĐH đất nước ở nước ta, nguồn vốn FDI đã phát huy được vai trò rõ rệt của nó trong những năm qua. Việc thu hút nguồn vốn FDI để khai thác hiệu quả hơn tiềm năng vốn có của quốc gia là một yêu cầu bức thiết đặt ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Trong những năm gần đây, xúc tiến đầu tư được coi là công cụ hữu hiệu nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn FDI. Tuy nhiên, nhận thức về hoạt động xúc tiến đầu tư hiện nay vẫn còn có những hạn chế nhất định và hoạt động xúc tiến đầu tư ở nước ta nói chung, ở các địa phương nói riêng và cụ thể địa bàn nghiên cứu trong đề tài này là tỉnh Hải Dương vẫn còn đang trong giai đoạn sơ khai, chưa có được chiến lược XTĐT, đồng thời cũng chưa khai thác hết tính hiệu quả của các công cụ XTĐT trong quá trình vận động các nhà đầu tư tiềm năng. Như vậy, thực trạng của hoạt động xúc tiến đầu tư diễn ra tại tỉnh Hải Dương hiện nay như thế nào? Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân gây ra hạn chế là gì? để từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục. Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Hải Dương. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động XTĐT trong việc tăng cường thu hút FDI, do đó, em quyết định chọn đề tài: “Hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Hải Dương: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu khóa luận.
2. Mục đích chọn đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về hoạt động xúc tiến đầu tư và qua đó đưa ra một cái nhìn cụ thể về tình hình công tác xúc tiến đầu tư tại tỉnh Hải Dương, cụ thể như sau:
Lý luận chung về hoạt động xúc tiến đầu tư
Giới thiệu chung về Hải Dương và những tiềm năng của tỉnh để đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư tại tỉnh
Phân tích thực trạng công tác xúc tiến đầu tư tại tỉnh Hải Dương
Trên cơ sở thực trạng đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác xúc tiến đầu tư
3. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn trong các nội dung sau:
Những lý luận chung về hoạt động xúc tiến đầu tư
Thực trạng công tác xúc tiến đầu tư tại Hải Dương
Phương hướng phát triển và một số giải pháp hoàn thiện công tác xúc tiến đầu tư
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân tích số liệu, tổng hợp và so sánh. Từ đó, đưa ra ý kiến nhằm hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp của luận văn
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản có liên quan đến hoạt động xúc tiến đầu tư
Phản ánh thực trạng, phân tích những ưu điểm tìm ra những mặt hạn chế của công tác xúc tiến đầu tư trên đại bàn Hải Dương, phân tích các nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó
Trên cơ sở vận dụng lý luận và thực trạng phân tích luận văn đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, bố cục khóa luận được chia làm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động XTĐT thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng hoạt động XTĐT nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Hải Dương.
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động XTĐT nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Hải Dương.
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Những lý luận chung về hoạt động xúc tiến đầu tư
1.1. Khái niệm về Xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư là một công cụ nhằm để thu hút đầu tư. Hoạt động XTĐT có vai trò quảng bá hình ảnh của một đất nước, một địa phương về môi trường đầu tư sở tại nhằm thu hút dòng vốn đầu tư vào địa bàn. Dòng vốn đầu tư không thể tự nhiên mà có vì các quốc gia trên thế giới vẫn tiếp tục tự do hóa, các tập đoàn lớn, các công ty xuyên quốc gia vẫn đang được thu hút về những nơi có môi trường tốt và có những điều kiện thuận lợi. Hơn nữa, trong xu thế cạnh tranh để thu hút đầu tư giữa các địa phương khác nhau ngày một trở nên dữ dội hơn. Như vậy, sự cạnh tranh gay gắt giữa các địa bàn đã làm cho công tác XTĐT trở thành một hoạt động tất yếu và ngày càng được gia tăng không chỉ ở những nước, những địa phương phát triển mà còn ở những nước, những địa phương đang phát triển.
Công tác XTĐT là một hoạt động đa dạng và ngày càng trở nên đa dạng. Công tác XTĐT không chỉ đơn giản là việc mở rộng thị trường nội địa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Không có một khái niệm nhất quán về “Xúc tiến đầu tư”, ở đây ta có thể hiểu XTĐT như sau: “Xúc tiến đầu tư là một hoạt động kinh tế - xã hội nhằm mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc thu hút các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước đến đất nước mình, địa phương mình…để đầu tư. Hay nói cách khác, hoạt động xúc tiến đầu tư thực chất là hoạt động Marketing trong thu hút đầu tư mà kết quả của hoạt động này chính là nguồn vốn đầu tư thu hút được.” Thực chất của vấn đề là làm thế nào để tạo dựng được thương hiệu của một quốc gia, một địa phương để các nhà đầu tư gắn liền nó với những đặc điểm chất lượng mà họ yêu cầu.
Theo nghĩa hẹp, công tác XTĐT là những biện pháp thu hút đầu tư thông qua một biện pháp tiếp thị tổng hợp của các chiến lược về “sản phẩm”, “xúc tiến” và “giá”.
Sản phẩm: ở đây sản phẩm chính là địa điểm hay các dự án tiếp nhận đầu tư. Để phát triển các chiến lược tiếp thị phù hợp cần phải hiểu những thuận lợi và bất lợi thực sự của một quốc gia hay một địa phương trước các đối thủ cạnh tranh.
Giá cả: là giá mà nhà đầu tư phải trả để định vị hoạt động tại địa điểm đó. Giá này bao gồm tất cả các loại chi phí từ giá sử dụng cơ sở hạ tầng, các tiện ích đến các loại thuế, ưu đãi,…Việc xác định giá phải có cơ sở và phải đạt được các mục tiêu như là khi chào hàng phải tính đến giá trị đầu tư của khách hàng; để tạo sự cạnh tranh, khi báo giá phải liệt kê rõ các dịch vụ sau bán hàng kèm theo. Giá tiền khách hàng phải trả tương xứng với mức dịch vụ mà họ nhận được; giá được quyết định ở mức giữ uy tín cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp để tránh sự can thiệp của cơ quan liên quan.
Xúc tiến: là những hoạt động phổ biến thông tin về các nỗ lực tạo lập nên một hình ảnh về quốc gia, một địa phương hay một KCN nào đó và cung cấp thông tin về các dịch vụ đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng như tăng cường giới thiệu các dịch vụ, sản phẩm tới nhà đầu tư; tăng cường hoạt động xây dựng hình ảnh bằng các hoạt động cụ thể; tổ chức mạnh mẽ trong giai đoạn đầu hoạt động quan hệ công chúng bao gồm tổ chức hội nghị khách hàng, tổ chức họp báo, tiếp xúc với khách hàng thường xuyên…
1.2. Vai trò hoạt động xúc tiến đầu tư
Hoạt động XTĐT có vai trò đặc biệt quan trọng nhất là khi các chủ đầu tư còn đang trong giai đoạn tìm hiểu thăm dò, lựa chọn địa điểm đầu tư. Hoạt động XTĐT cho chủ đầu tư biết những thông tin liên quan đến ý định đầu tư của họ, giúp họ có được tầm nhìn bao quát về quốc gia để cân nhắc, lựa chọn. Như vậy, hoạt động XTĐT giúp cho chủ đầu tư rút ngắn được thời gian tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến quyết định đầu tư.
Sau bước tạo dựng hình ảnh bước tiếp theo là tập trung vận động các nhà đầu tư tiềm năng, có thể nói ở đây hoạt động XTĐT đã chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế chính sách hữu hiệu của hệ thống khuyến khích tác động đến nhà đầu tư tiềm năng ở nước ngoài, cung cấp cho họ lượng thông tin kịp thời, chính xác.
Bên cạnh đó, các dịch vụ đầu tư giúp chủ đầu tư có được thông tin về thị trường nội địa, được tư vấn về lực lượng công nhân cũng như thủ tục đăng ký, cấp phép, được tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện dự án…để chủ đầu tư có thể nhanh chóng đi vào hoạt động một cách thuận lợi, hiệu quả.
Với ý nghĩa đó, XTĐT đã trở thành nội dung chính của hoạt động thu hút FDI.
1.3. Mô hình và cơ cấu tổ chức của công tác xúc tiến đầu tư
1.3.1. Mô hình công tác xúc tiến đầu tư
- Mô hình công tác XTĐT được thể hiện trong hoạt động của 3 cấp: cấp quốc gia, cấp địa phương và doanh nghiêp.
Ở cấp quốc gia, mô hình hoạt động rộng khắp mang tính bao trùm trên tất cả các địa phương trên cả nước, các ngành nghề và mang tính chất dàn trải.
Ở cấp địa phương, mô hình hoạt động trong phạm vi địa phương và cụ thể hơn.
Ở cấp doanh nghiệp, mọi hoạt động đều mang tính cụ thể nên mô hình hoạt động mang tính chất tập trung hơn.
- Trong công tác xúc tiến đầu tư cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan XTĐT ở ba cấp quốc gia, địa phương và doanh nghiệp. Sự phối hợp thống nhất giữa các địa phương trong công tác XTĐT là hết sức quan trọng
1.3.2. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức trong cơ quan XTĐT cấp quốc gia, địa phương bao gồm:
Bộ phận XTĐT
Bộ phận pháp lý
Bộ phận cung cấp dịch vụ
Bộ phận hỗ trợ sau đầu tư
Cơ quan XTĐT
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức của CQ XTĐT
Bộ phận XTĐT: có nhiệm vụ lựa chọn nhà đầu tư, tiến hành quảng bá, quan hệ với công chúng, quảng cáo, phương tiện thông tin trong và ngoài nước. Tổ chức các đoàn ra nước ngoài, đoàn vào trong nước.
Bộ phận pháp lý: Tư vấn pháp lý và hỗ trợ xin các giấy phép hoặc phê duyệt.
Bộ phận cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư: Cung cấp các dịch vụ cho nhà đầu tư và chịu trách nhiệm về những dịch vụ này. Xử lý các trường hợp đầu tư mới do bộ phận XTĐT tạo ra hoặc bằng các cách khác.
Bộ phận hỗ trợ sau đầu tư: Chăm sóc nhà đầu tư sau khi có Giấy phép hoặc hỗ trợ trong trường hợp tái đầu tư. Chăm sóc các nhà đầu tư đang hoạt động để khuyến khích họ tái đầu tư. Bộ phận này cũng hỗ trợ các nhà đầu tư đang hoạt động khác phục bất kỳ khó khăn, trở ngại nào trong quá trình hoạt động của họ.
Đối với cơ cấu tổ chức của cơ quan XTĐT cấp doanh nghiệp thì hiện nay chưa rõ ràng, hầu hết các doanh nghiệp chỉ có Phòng Kinh doanh và Tiếp thị. Trong đó thì chức năng, nhiệm vụ XTĐT của họ rất mờ nhạt.
1.4. Nội dung hoạt động xúc tiến đầu tư
Để thực hiện tốt công tác XTĐT thì việc xác định các nội dung, các chương trình cho những hoạt động này là rất quan trọng. Nội dung của công tác XTĐT của cơ quan Trung ương, địa phương và các tổ chức tham gia XTĐT bao gồm 6 loại hình hoạt động: xây dựng chiến lược về XTĐT; xây dựng hình ảnh; xây dựng quan hệ; lựa chọn mục tiêu và tạo cơ hội đầu tư; cung cấp dịch vụ và hỗ trợ cho nhà đầu tư; đánh giá và giám sát các công tác XTĐT được thể hiện ở sơ đồ dưới đây:
NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG
XTĐT
Xây dựng chiến lược
Xây dựng hình ảnh
Xây dựng quan hệ
Lựa chọn mục tiêu và tạo cơ hội đầu tư
Cung cấp dịch vụ và hỗ trợ cho nhà đầu tư
Đánh giá và giám sát đầu tư
Sơ đồ 1.2: Nội dung hoạt động XTĐT
1.4.1. Xây dựng chiến lược về XTĐT
Một chiến lược XTĐT sẽ là một bản đồ chỉ dẫn cơ quan XTĐT đạt được các mục tiêu đã đề ra. Các mục tiêu thu hút đầu tư không thể dễ dàng đạt được. Vì vậy, phải có một kế hoạch tổng thể sắp xếp các hoạt động như chuẩn bị tài liệu giới thiệu, tổ chức các cuộc hội thảo đầu tư, tổ chức các cuộc thăm địa điểm đầu tư,…
Như vậy, chiến lược XTĐT là cách thức tổ chức một loạt các hoạt động XTĐT nhằm tăng cường đầu tư vào một quốc gia, một địa phương. Để thực sự đạt được hiệu quả, các chiến lược đầu tư đều phải rõ ràng, phù hợp với mục tiêu chung. Việc xác định mục tiêu cho chiến lược liên quan đến việc xác định lợi thế, bất lợi, những lĩnh vực phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của mình, trên cơ sở đó lựa chọn đối tác, lĩnh vực cũng như các công ty để tiến hành chương trình XTĐT. Việc này đòi hỏi sự nghiên cứu và hoạch định một cách chi tiết, cụ thể. Đây là một nội dung hết sức quan trọng, định hướng cho toàn bộ hoạt động XTĐT tiến hành sau đó. Tính đúng đắn và khả thi của chiến lược XTĐT có vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của toàn bộ chương trình XTĐT.
Có ba bước để xây dựng một chiến lược XTĐT
Bước 1: Đánh giá nhu cầu của cơ quan XTĐT và tiềm năng đầu tư
Xác định các mục tiêu của cơ quan XTĐT và mục tiêu phát triển của quốc gia, địa phương: Các mục tiêu XTĐT phản ánh mục tiêu phát triển của quốc gia, của địa phương và của doanh nghiệp để tối đa hoá lợi ích của những nỗ lực xúc tiến của CQXTĐT.
Khảo sát các xu hướng đầu tư nước ngoài và những ảnh hưởng bên ngoài: Các xu hướng đầu tư nước ngoài trên thế giới và khu vực sẽ cho thấy ai đang đầu tư, ở đâu và tại sao, đồng thời sẽ giúp cho CQXTĐT xác định các ngành, lĩnh vực tiềm năng để hướng tới.
Tiến hành phân tích SWOT: Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức sẽ cho CQXTĐT một bức tranh năng động về điểm mạnh, điểm yếu, hiện tại và tương lai của đất nước, của địa phương dưới góc độ là một địa điểm đầu tư.
Phân tích các đối thủ cạnh tranh: Sau khi hoàn thành quá trình phân tích SWOT, CQXTĐT có thể dùng các điểm tìm được từ quá trình phân tích SWOT để đặt tiêu chuẩn về khả năng cạnh tranh của đất nước, của địa phương hay của doanh nghiệp mình với tư cách là một địa điểm đầu tư với các đối thủ cạnh tranh.
Bước 2: Hướng tới các ngành và khu vực có nguồn đầu tư
Để hướng tới các ngành, các khu vực địa lý có nguồn đầu tư phù hợp với các đặc tính của đất nước, cần hoàn thiện các nhiệm vụ sau:
Lập một danh sách các ngành: Danh sách sơ bộ các ngành có khả năng để hướng tới có thể bao gồm các ngành đã hoạt động tại đất nước, tại địa phương, các ngành hoạt động tại các nước cạnh tranh.
Phân tích các ngành: Phân tích cơ cấu, các công ty quan trọng và xu hướng để đánh giá khả năng ĐTNN trong tương lai và để hiểu ngành này tìm kiếm gì từ một địa điểm ở nước ngoài.
Đánh giá khả năng phù hợp của ngành với đất nước, địa phương: So sánh các yêu cầu của mỗi ngành với đặc điểm của đất nước, địa phương được xác định trong quá trình phân tích SWOT để rút ngắn danh sách các ngành tiềm năng để lựa chọn một số ngành. Bên cạnh đó, kiểm tra sự nhất quán với mục tiêu chính sách.
Lập một danh sách ngắn các ngành: xếp hạng hoặc chấm điểm xét theo 3 góc độ sau: sự phù hợp của ngành với các đặc tính của đất nươc, địa phương; khả năng cạnh tranh của đất nước, địa phương khi đáp ứng nhu cầu của ngành; và sự phù hợp của ngành đối với các mục tiêu phát triển của đất nước, địa phương.
Bước 3: Xây dựng chiến lược XTĐT
Cách xây dựng một tài liệu chiến lược XTĐT gồm xác định: Các ngành hướng tới trong ngắn hạn và trung hạn; Các khu vực địa lý quan trọng cần tập trung của chiến lược; Các phương pháp XTĐT được sử dụng để tiếp cận các công ty và lý do chọn các phương pháp đó; Những thay đổi cần thiết trong cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ và trách nhiệm của nhân viên trong cơ quan; Những thay đổi cần thiết trong quan hệ đối tác và ngân sách, các nguồn tài trợ cho các giai đoạn.
1.4.2. Xây dựng hình ảnh
Các biện pháp tạo dựng hình ảnh hay uy tín được sử dụng cả trong thị trường trong nước và thị trường ngoài nước nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin và kế hoạch đầu tư của một quốc gia, các chính sách và chế độ đãi ngộ, các thủ tục hành chính và yêu cầu khi đầu tư cũng như những tiến bộ, thành tựu quốc gia, địa phương đó. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển đang từng bước hội nhập kinh tế quốc tế với những nỗ lực cải cách hoàn thiện môi trường kinh doanh quốc gia. Nhà đầu tư sẽ tích cực đầu tư khi có được những hình ảnh tích cực về một quốc gia, địa phương sở tại.
Có ba bước tạo dựng hình ảnh
Bước 1: Xác định nhận thức của chủ đầu tư và mục tiêu của việc xây dựng hình ảnh.
Để xác định yếu tố trọng tâm trong chiến dịch xây dựng hình ảnh, trước hết, cần xác định được các nhà đầu tư tiềm năng nghĩ gì về đất nước, về địa phương. Có thể đánh giá nhận thức của nhà đầu tư bằng nhiều cách như có thể sử dụng các báo cáo được công bố về quốc gia và môi trường đầu tư của đất nước, các tin tức trên báo chí. Thông thường thì chính các báo cáo và tin tức báo chí này tạo nên nhận thức chung của nhà đầu tư về đất nước, về địa phương.
Bước 2: Xây dựng các chủ đề Marketing.
Khi xây dựng chủ đề Marketing, cần áp dụng các nguyên tắc sau: Chủ đề phải phản ánh được những gì mà nhà đầu tư tìm kiếm; Chủ đề cần phản ánh được thế mạnh riêng của nước bạn; Thông điệp cần phải đúng đắn trung thực. Khi xây dựng thông điệp Marketing, nhấn mạnh vào chủ đề trọng tâm, đó là nêu bật những lợi thế của đất nước, địa phương trong một số ngành nghề, lĩnh vực.
Bước 3: Lựa chọn và xây dựng các công cụ xúc tiến và tham gia vào chương trình phối hợp Marketing.
Sau khi xác định được chủ đề marketing hiệu quả nhất, bạn cần lựa chọn những công cụ marketing phù hợp nhất để truyền thông điệp. Lựa chọn công cụ phù hợp có vai trò quan trọng trong việc tối đa hoá khả năng tác động của các hoạt động xúc tiến. Ở đây có sự phối hợp marketing và sự kết hợp này thay đổi theo thời gian. Các công cụ marketing khác nhau có hiệu quả khác nhau của quá trình xây dựng hình ảnh. Quy mô ngân sách dành cho XTĐT cũng quyết định các công cụ và sự phối hợp marketing mà bạn sử dụng. Các công cụ marketing bao gồm: công cụ truyền tin (các cuốn sách mỏng giới thiệu, các báo cáo nghiến cứu về từng ngành, bản tin tức, thư ngỏ, CD-ROM, Internet, video); Chiến dịch quảng cáo; Chiến dịch quan hệ công chúng; Triển lãm và hội chợ.
1.4.3. Xây dựng quan hệ
Mối quan hệ hợp tác kinh tế - đầu tư đều phát triển dựa trên mối quan hệ ngoại giao của cả hai nước. Chính vì thế, xây dựng các mối quan hệ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong một chương trình XTĐT. Hoạt động XTĐT được tiến hành giữa hai nước càng trở nên thuận lợi khi các mối quan hệ nỗ lực quan hệ ở cấp Nhà nước.
Ở hầu hết các quốc gia, các địa phương hiện nay đã thành lập CQXTĐT. Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi địa phương hoạt động của CQXTĐT có thể khác nhau. Xây dựng mối quan hệ giữa CQXTĐT giữa các nước, địa phương khác nhau sẽ có tác dụng lớn hỗ trợ và bổ sung cho nhau trên cơ sở mục tiêu hoạt động của mỗi tổ chức.
Có ba bước tiến hành xây dựng mối quan hệ
Bước 1: Một CQXTĐT tham gia vào các quan hệ đối tác
Đối với một CQXTĐT, một quan hệ đối tác có thể được xác định như là một thoả thuận phối hợp công việc với các cơ quan nhà nước hoặc tư nhân để phát triển hoặc chia sẻ các phần việc trong chương trình xúc tiến đầu tư. Điều quan trọng là nó nhằm để đạt được các mục tiêu đã đặt ra một cách hiệu quả hơn thông qua việc phối hợp công việc chung hơn là làm một mình. CQXTĐT chỉ nên duy trì những quan hệ đối tác sẽ đem lại lợi ích cho các hoạt động của CQXTĐT. Quan hệ đối tác của CQXTĐT bao gồm quan hệ đối tác cho việc phát triển sản phẩm, quan hệ đối tác trong hoạt động Marketing, quan hệ đối tác trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ khách hàng.
Bước 2: Quản lý các mối quan hệ đối tác
Xây dựng một đối tác thành công phụ thuộc nhiều vào việc chuẩn bị và nghiên cứu của CQXTĐT và các cuộc thảo luận chi tiết giữa các đối tác trước khi bắt đầu công việc. Hiểu được động cơ, đóng góp ý kiến, vai trò dẫn dắt của các thành viên tham gia và cam kết thời gian sẽ đặt nền tảng vững chắc cho quan hệ đối tác hiệu quả.
Bước 3: Đánh giá quan hệ đối tác
Các quan hệ đối tác nên được xem xét lại định kỳ ít nhất 6 tháng/ lần để đảm bảo tính hiệu quả. CQXTĐT cần thường xuyên giám sát và đánh giá tổng thể khi kết thúc quan hệ đối tác. Đây là những công việc quan trọng để tăng khả năng thành công trong tương lai.
1.4.4. Lựa chọn mục tiêu và cơ hội đầu tư
Mục đích của nội dung này là vận động các nhà đầu tư tiềm năng. Trong đó, CQXTĐT phân loại, lựa chọn nhà đầu tư tiềm năng và tiến hành các biện pháp, công cụ vận động đầu tư như thư từ, điện thoại, hội thảo đầu tư. Cơ quan đại diện tiến hành Marketing trực tiếp đến cá nhân và nhà đầu tư. Hội thảo đầu tư là biện pháp thường được lựa chọn và đem lại hiệu quả cao.
Có bốn bước để lựa chọn mục tiêu và cơ hội đầu tư
Bước 1: Thực hiện chuyển từ giai đoạn xây dựng hình ảnh sang vận động đầu tư
Các hoạt động và các kỹ năng dùng trong giai đoạn xây dựng hình ảnh và vận động đầu tư thường có sự chồng chéo. Tuy nhiên, vận động đầu tư có đặc thù riêng bởi tính tập trung cao vào từng công ty riêng lẻ bởi sự chuyển từ liên hệ chung thành liên hệ cá nhân và bởi sự mô tả rõ ràng hơn về những lợi ích cụ thể dành cho các CQXTĐT đang muốn vận động.
Bước 2: Xây dựng cơ sở dữ liệu theo định hướng XTĐT và được cập nhật
Cơ sở dữ liệu vận động đầu tư nên được xây dựng ngay trong nội bộ. Nó cho phép cơ quan XTĐT thu thập và xử lý các số liệu nhờ đó cơ quan XTĐT có thể đưa ra những thông tin XTĐT tập trung cao để hướng vào các công ty mà mình muốn vận động.
Bước 3: Lập kế hoạch và thực hiện chiến dịch vận động đầu tư
Vận động đầu tư có ba việc chính phải làm: xây dựng kế hoạch Marketing, chuẩn bị thư để marketing trực tiếp và thuyết trình tại công ty.
Xây dựng kế hoạch marketing: cơ quan XTĐT phải quyết định những vấn đề trọng tâm của cuộc vận động như địa bàn và lĩnh vực; xác định mục tiêu của cuộc vận động và đặt mục tiêu thật sát thực con số các công ty sẽ liên hệ.
Thư Marketing trực tiếp nên ngắn gọn và đầy đủ các phần sau: mở đầu, phần lôi cuốn, phần những lợi ích, phần mời chào và kêu gọi hành động.
Một bài thuyết trình tại công ty được chuẩn bị kỹ phải có tính tập trung cao, có sử dụng các thiết bị bổ trợ, đoán trước và trả lời được bất kỳ vấn đề gì mà nhà đầu tư có thể đưa ra.
Bước 4: Các hoạt động tiếp theo chuyến tham quan công ty
Các báo cáo về chuyến tham quan công ty được chuẩn bị ngay lập tức sau mỗi lần tới thăm công ty. Những thông tin trong báo cáo này đặt nền móng cho các hoạt động hỗ trợ nhà đầu tư triển khai dự án thành công, trong đó gồm có cả chuyến tham quan thực địa.
1.4.5. Cung cấp dịch vụ và hỗ trợ cho các nhà đầu tư
Đây là giai đoạn theo dõi và chăm sóc sau cấp phép đầu tư, thực chất là CQXTĐT sẽ hỗ trợ sau khi các nhà đầu tư nước ngoài quyết định triển khai dự án ở nước sở tại như nắm bắt, hỗ trợ, tư vấn, tháo gỡ những vướng mắc của nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình thực hiện dự án. Giai đoạn này nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để dự án đầu tư đi vào hoạt động một cách nhanh chóng, hiệu quả.
Sau khi cơ quan XTĐT có bài thuyết trình trước một nhà đầu tư tiềm năng, cơ quan XTĐT cần chuẩn bị một bản báo cáo về chuyến thăm doanh nghiệp để tạo cơ sở cho việc hỗ trợ các nhà đầu tư thành công.
Hỗ trợ nhà đầu tư bao gồm ba giai đoạn: chuẩn bị cho việc đi thực địa, chuẩn bị và thu xếp cho chuyến đi đó và các công việc sau chuyến thăm.
1.4.6. Đánh giá và giám sát công tác xúc tiến đầu tư
Giám sát là hoạt động kiểm tra một cách đều đặn các tiến độ trong hoạt động của CQXTĐT để đạt được mục tiêu đã đề ra. Đánh giá là quá trình kiểm tra xem các mục tiêu của CQXTĐT đã đạt được chưa và nếu chưa đạt được thì về mặt chi phí có tiết kiệm không. Thông qua những hoạt động này, một CQXTĐT có thể đánh giá được hoạt động của mình.
Đánh giá kết quả hoạt động tạo điều kiện cho cơ quan XTĐT so sánh các kết quả và tiến độ đã đạt được với các mục tiêu nội bộ và mục tiêu quốc gia. Điều này cũng có một số những lợi ích liên quan quan trọng: thu thập dữ liệu và các thông tin khác được sử dụng trong các chiến dịch xúc tiến; tạo điều kiện cho cơ quan XTĐT học hỏi từ những sai sót của mình và chứng minh khả năng hoạt động của CQXTĐT.
Để tạo điều kiện giám sát và đánh giá thường xuyên, tất cả các dự án và hoạt động của CQXTĐT đều phải xây dựng hệ thống mục tiêu trung gian và kế hoạch thời gian để hoàn thành mục tiêu đó. Các mục tiêu và lịch biểu thực hiện này là nền móng của việc thực hiện thành công công tác giám sát và đánh giá.
Giám sát và đánh giá không thể coi là những nhiệm vụ đứng riêng lẻ. Hơn thế, các hệ thống theo dõi hoặc đo lường tốt nhất là những hệ thống phải được triển khai thường nhật như một phần trong công việc thường xuyên của các cán bộ cơ quan XTĐT.
Để thực hiện hiệu quả hoạt động giám sát và đánh giá trong công tác XTĐT, cơ quan XTĐT có thể tiến hành theo 4 bước sau:
Bước 1: Giám sát tình hình môi trường đầu tư tại các địa điểm của cơ quan XTĐT
CQXTĐT có thể giám sát và đánh giá khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư bằng phân tích SWOT, điểm tin báo chí, trưng cầu ý kiến của các nhà đầu tư hiện tại.
Bước 2: Giám sát và đánh giá các hoạt động chính của cơ quan XTĐT
Cần thực hiện các đánh giá định tính và định lượng về hiệu quả chi phí của các hoạt động xây dựng hình ảnh, nhận thức; các hoạt động định mục tiêu đầu tư và vận động nhà đầu tư; các hoạt động phục vụ nhà đầu tư; hoạt động mở rộng và duy trì đầu tư; và các chi phí khác của CQXTĐT.
Bước 3: Giám sát và đo lường tình hình đầu tư thực tế
Đánh giá cuối cùng về kết quả hoạt động của CQXTĐT là số lượng đầu tư gia tăng và tái đầu tư mà CQXTĐT thu hút được hay thông tin về tình hình rút lui đầu tư. Thông tin này có thể thu thập bằng cách ghi lại các số liệu liên quan đến các khoản đầu tư của khách hàng CQXTĐT, hoặc các khoản đầu tư trong khu vực.
Bước 4: Xây dựng tiêu chuẩn so sánh kết quả đầu tư
Điều này sẽ giúp CQXTĐT so sánh hiệu quả hoạt động của mình hoặc ghi nhận tổng thể số vốn đầu tư mà địa điểm đó thu hút được so với những khu vực khác.
Một chương trình XTĐT phải kết hợp tất cả các nội dung nói trên sao cho phù hợp với yêu cầu mục tiêu phát triển kinh tế xã hội cũng như tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, từng quốc gia.
1.5. Các công cụ chính của hoạt động xúc tiến đầu tư
Cơ quan XTĐT thường xúc tiến đồng thời nhiều hoạt động Marketing hay sử dụng nhiều công cụ XTĐT cùng một lúc. Ba yếu tố mà hoạt động XTĐT hướng tới là: Thứ nhất, xây dựng hình ảnh, tức là, giới thiệu tới các nhà đầu tư trong và ngoài nước về những chính sách ưu đãi đầu tư, các quy trình, các thủ tục cấp giấy phép đầu tư cùng các tiến bộ và thành tựu đạt được. Thứ hai, triển khai kế hoạch (bao gồm cả xây dựng hình ảnh và vận động đầu tư xen lẫn nhau), tức là, sử dụng các chiến dịch gửi thư và gọi điện, hôi thảo, tham tán đầu tư và tiếp cận trực tiếp nhà đầu tư. Thứ ba, hoạt động và dịch vụ hỗ trợ đầu tư, tức là, bao gồm các dịch vụ hỗ trợ liên tục từ trước khi nhận giấy phép, cấp giấy phép và sau cấp phép. Các hoạt động này có thể là bước đầu xây dựng hình ảnh hoặc khởi đầu vận động đầu tư. Việc xây dựng hình ảnh và vận động đầu tư sử dụng rất nhiều công cụ như:
1.5.1. Quan hệ cộng đồng
Quan hệ cộng đồng của cơ quan XTĐT là việc cơ quan XTĐT chủ động quản lý các quan hệ giao tiếp cộng đồng để tạo dựng giữ gìn một hình ảnh tích cực và nâng cao uy tín của mình. Quan hệ cộng đồng có thể được thực hiện thông qua rất nhiều phương tiện như: báo, đài, internet…Sử dụng phương tiện này rất tiện lợi vì một bài báo có nội dung tích cực được in ở một vị trí xứng đáng trên một tờ báo nổi tiếng có sẽ rất hiệu quả. Tuy nhiên, một bài viết tiêu cực trên thông tin đại chúng sẽ đưa đến những nhận thức tiêu cực và có thể phản tác dụng. Không chắc chắn rằng một cuộc họp báo do CQXTĐT tổ chức sẽ được đăng thành một cột lớn trên tờ báo liên quan.
Bảng 1.1: Ưu nhược điểm của công cụ quan hệ cộng đồng
Mục tiêu
Ưu điểm
Nhược điểm
Xây dựng hình ảnh và nâng cao uy tín của cơ quan XTĐT.
Là công cụ hữu hiệu để giảm bớt nhận thức tiêu cực và xây dựng hình ảnh về địa điểm đầu tư hấp dẫn; Độ tin cậy cao; Chi phí vừa phải; Phụ thuộc vào phương tiện truyền thông sử dụng, công cụ này có thể tác động lên một phạm vi đối tượng rộng lớn.
Bài viết tiêu cực trên thông tin đại chúng sẽ đưa đến những nhận thức tiêu cực. Một lỗi trích dẫn sai có thể phản tác dụng. Không chắc chắn rằng các tờ báo mục tiêu sẽ đưa tin về sự kiện báo chí với thời lượng mà CQXTĐT mong muốn.
Phương hướng hoạt động: luôn luôn coi nhà báo/người tường thuật thời sự/phóng viên là khách hàng quý của CQXTĐT. Nếu CQXTĐT có nguồn tài chính cho hoạt động XTĐT hạn hẹp, hãy bỏ tập trung kêu gọi các nhà báo giỏi tại các phương tiện thông tin đại chúng mà CQXTĐT muốn đăng tin tới thăm đất nước CQXTĐT để đưa tin cải thiện hình ảnh đất nước.
1.5.2. Quảng cáo
Quảng cáo là hình thức mà CQXTĐT tuyên truyền, đưa ra thông tin, thông điệp mời gọi và phản ánh chiến lược mình muốn vận động. Quảng cáo có thể làm nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, giá thành rất đắt và phải quảng cáo nhiều lần mới đạt hiệu quả.
Bảng 1.2: Ưu nhược điểm của công cụ quảng cáo
Mục tiêu
Ưu điểm
Nhược điểm
Xây dựng hình ảnh.
Thể hiện được CQXTĐT thích cái gì, chỗ nào và lúc nào. Có thể làm nhiều người quan tâm.
Thường thiếu độ tin cậy, tốn nhiều thời gian, sẽ không có hiệu quả nếu số lần quảng cáo không vượt khỏi mức tối thiểu để tạo nên nhận thức hay được ghi nhớ, khó nhận ra giữa hàng đống quảng cáo khác nhau.
Phương hướng hành động: Tập trung đưa ra các quảng cáo ngắn gọn và cô đọng một thông điệp mời gọi và phản ánh được chiến lược mình muốn vận động.
1.5.3. Tham gia triển lãm
Tham gia triển lãm là hoạt động nhằm chủ động tìm kiếm nhà đầu tư bằng cách tiếp xúc với những doanh nghiêp khác tham gia triển lãm. Tuy nhiên, khó ước tính chi phí và tuỳ thuộc vào tính chất và quy mô của triển lãm. Các CQXTĐT mạnh thường giảm bớt việc tham dự các triển lãm vì hình ảnh đất nước họ đã được nhiều người biết đến là địa điểm thu hút đầu tư tốt, thay vào đó họ tăng cường hoạt động theo hướng nghiên cứu - thực hiện marketing trực tiếp.
Bảng 1.3: Ưu nhược điểm công cụ tham gia triển lãm
Mục tiêu
Ưu điểm
Nhược điểm
Hoạt động này dùng xây dựng hình ảnh, tức là chủ động tìm kiếm nhà đầu tư bằng cách tiếp xúc với những doanh nghiệp khác tham gia triển lãm.
Giúp giới thiệu thông tin đầy đủ về đất nước và CQXTĐT, dễ dàng phân tích đối thủ cạnh tranh; Có thể tạo nên diễn đàn cho các công ty trong nước tìm kiếm đối tác nước ngoài; Tạo nên các hướng kinh doanh, củng cố kiến thức về khách hàng và thị trường.
Khó tìm được những người ra quyết định và có ảnh hưởng tới việc ra quyết định tại gian triển lãm của công ty. Đòi hỏi thời gian tương đối nhiều để lên kế hoạch và tham gia triển lãm.
Phương hướng hành động: Làm tăng giá trị của triển lãm bằng cách viết thư cho người tham gia triển lãm. Sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu của CQXTĐT và gửi thư trước cho cả các công ty mình muốn vận động mà không có gian hàng tham dự triển lãm, nhưng nhân viên của công ty nhất định sẽ đến thăm triển lãm.
1.5.4. Tổ chức tham gia vận động đầu tư
Tham gia vận động đầu tư là hoạt động nhằm chủ động tìm kiếm nhà đầu tư bằng cách tiếp xúc trực tiếp với các công ty thông qua việc cử các phái đoàn đi ra nước ngoài đối với đoàn từ nước tiếp nhận đầu tư sang nước đi đầu tư, hoặc là hoạt động mà đoàn từ nước nhận đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư nhằm chủ động tìm kiếm địa điểm đầu tư.
Các đoàn vận động có thể thoả mãn nhu cầu của cả nhà đầu tư nước ngoài lẫn các doanh nghiệp địa phương. Đoàn từ nước đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư thường gồm các công ty có tiềm năng thực sự vì họ chỉ tham gia đoàn khi họ có quan tâm thực sự tới việc kinh doanh trong khu vực họ tới tham quan.
Bảng 1.4: Ưu nhược điểm của công cụ tham gia vận động đầu tư
Mục tiêu
Ưu điểm
Nhược điểm
Tuỳ thuộc vào cách thức tổ chức mỗi đoàn. Đoàn vận động chung chắc chắn đó là xây dựng hình ảnh. Ngược lại, đoàn về một lĩnh vực cụ thể là đoàn vận động đầu tư.
Đáp ứng được nhu cầu của cả nhà đầu tư nước ngoài lẫn các doanh nghiệp địa phương.
Một đoàn vận động chung chung, không có trọng tâm dễ làm phân tán các tác động XTĐT. Đoàn vận động từ nước nhận đầu tư mà không tập trung vào đầu tư, chỉ tập trung vào phát triển thương mại/xuất khẩu sẽ làm hỏng cơ hội vận động đầu tư.
Phương hướng hành động: Tận dụng tối đa các tác động của đoàn vận động đầu tư bằng cách xác định một mục tiêu về ngành nghề hoặc tốt hơn là tiểu ngành một cách rõ ràng.
1.5.5. Tổ chức hội thảo về cơ hội đầu tư
Tổ chức hội thảo về cơ hội đầu tư là hoạt động thảo luận về một vấn đề nào đó về cơ hội đầu tư.
Một cuộc hội thảo có thể là một công cụ xây dựng hình ảnh hay vận động đầu tư tuyệt vời nếu đảm bảo được chất lượng khán giả, đồng thời các diễn giả giải quyết được một cách hợp lý và hiệu quả các yêu cầu của người nghe. Hoạt động này cần phải xác định một hoặc một vài đối tác chiến lược mạnh và bắt tay vào xây dựng kế hoạch ít nhất 6 tháng trước khi tổ chức và quan tâm đến việc bảo đảm đưa thông tin lên phương tiện thông tin đại chúng. Hoạt động này sẽ tạo ra cơ hội tốt để thiết lập các mối quan hệ cá nhân với một công ty triển vọng để chuyển trọng tâm các hoạt động của CQXTĐT đối với công ty từ giai đoạn xây dựng hình ảnh sang giai đoạn vận động đầu tư. Tuy nhiên, chi phí một cuộc hội thảo với số lượng người tham gia lớn có thể khá tốn kém.
Bảng 1.5: Ưu nhược điểm của công cụ tổ chức hội thảo
Mục tiêu
Ưu điểm
Nhược điểm
Một cuộc hội thảo tập trung sâu vào một hoặc một số lĩnh vực được tổ chức tại thị trường trọng điểm sẽ tạo cơ hôi đầu tư.
Hội thảo có nội dung chung chung sẽ hữu ích cho việc xây dựng hình ảnh.
Tạo cơ hội tốt để thiết lập các quan hệ với một công ty triển vọng và chuyển từ giai đoạn xây dựng hình ảnh sang giai đoạn tạo ra cơ hội đầu tư.
Cần cố gắng đảm bảo chất lượng khách mời tham dự, điều này sẽ giúp CQXTĐT đạt kết quả tích cực trong công tác liên lạc sau này.
Phương hướng hành động: Xác định một hoặc một vài đối tác chiến lược mạnh và bắt tay vào xây dựng kế hoạch ít nhất 6 tháng trước khi tổ chức. Đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng. Có sự tham dự của Lãnh đạo cấp cao.
1.5.6. Sử dụng hệ thống Internet và thư điện tử
Internet là mạng toàn cầu, liên kết hàng triệu máy tính trên thế giới thông qua cơ sở hạ tầng viễn thông. Internet là một phương tiện cho phép tất cả mọi người trên thế giới có thể truy nhập.
Thông thường nội dung thư được viết trên giấy và chuyển đi bằng đường bưu điện. Tuy nhiên, thư điện tử được lưu dưới dạng các tệp văn bản trong máy vi tính và được chuyển đi qua đường Internet.
Như vậy, Internet là một cơ hội tuyệt vời đối với những CQXTĐT mới thành lập để vượt qua đối thủ cạnh tranh của mình. Website sẽ trở thành công cụ Marketing hiệu quả khi Website đó để truy cập, có nội dung thông tin chất lượng cao và có tác dụng thúc đẩy nhà đầu tư truy cập và tái truy cập. Tuy nhiên, chi phí để thuê chuyên gia về thiết kế Website có thể rất đắt.
Bảng 1.6: Ưu nhược điểm của công cụ hệ thống Internet và thư điện tử
Mục tiêu
Ưu điểm
Nhược điểm
Trải suốt từ giai đoạn xay dựng hình ảnh tới vận động đầu tư.
Internet ngày càng thành cách hiệu quả nhất để phổ biến thông tin. Một website được thiết kế sáng tạo và theo sát các yêu cầu của khách hàng có thể tạo ra hình ảnh khác biệt của CQXTĐT đối với đối thủ cạnh tranh khác. E-mail là công cụ mạnh và tiết kiệm để xây dựng và duy trì.
Việc tập trung gửi thư vận động nhà đầu tư chỉ có kết quả tốt khi có một cơ sở dữ liệu tốt. Thông tin trong cơ sở dữ liệu nhanh chóng bị lạc hậu.
Một chiến dịch Marketing trực tiếp phụ thuộc càng nhiều vào telemarketing thì kết quả càng kém.
Phương hướng hành động: Đầu tư vào một cơ sở dữ liệu Marketing chất lượng cao và được cập nhật. Đặt mục tiêu mỗi tháng một cán bộ ở bộ phận Marketing phải viết thư cho một số doanh nghiệp. Thư Marketing trực tiếp nên báo cho khách hành chờ đợi cuộc liên hệ điện thoại tiếp theo.
1.5.7. Sử dụng thư trực tiếp
Sử dụng thư trực tiếp trong hoạt động XTĐT là việc CQXTĐT viết thư trực tiếp đến từng công ty.
Yếu tố chủ yếu dẫn đến sự thành công là chất lượng của của cơ sở dữ liệu tốt, thống nhất chặt chẽ tới mục tiêu chiến lược của cơ quan XTĐT.
Bảng 1.7: Ưu nhược điểm của công cụ sử dụng thư trực tiếp
Mục tiêu
Ưu điểm
Nhược điểm
Vận động đầu tư
Rất tốt cho việc thiết lập và duy trì cuộc đối thoại giữa CQXTĐT và các nhà đầu tư tiềm năng. Có thể vận động một cách có lựa chọn các đối tượng cụ thể.
Tiếp cận mang tính cá nhân cao. Rất tiết kiệm.
Cho phép CQXTĐT từng bước đánh giá tính hiệu quả của chiến dịch vận động.
Việc tập trung gửi thư vận động chỉ có kết quả tốt khi có một cơ sở dữ liệu tốt. Thông tin cơ sở dữ liệu nhanh bị lạc hậu
Chiến dịch marketing trực tiếp phụ thuộc càng nhiều vào telemarketing.
Phương hướng hành động: Đầu tư vào một cơ sở dữ liệu marketing chất lượng cao và được cập nhật. Đặt mục tiêu mỗi tháng một cán bộ ở bộ phận marketing phải viết thư cho một số lượng doanh nghiệp.
Thư Marketing trực tiếp nên báo cho khách hàng chờ đợi cuộc liên hệ điện thoại tiếp theo.
1.6. Trình tự thực hiện các hoạt động XTĐT
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một điều quan trọng, xong việc thực hiện hoạt động này cũng cần phải theo một trình tự hợp lý và làm sao để phối hợp giữa các công cụ XTĐT để đem lại hiệu quả cao nhất. Thông thường hoạt động XTĐT được tuân theo trình tự sau:
1.6.1. Gửi thư trực tiếp
Nếu liên hệ đầu tiên của cơ quan XTĐT với nhà đầu tư là một lá thư thì lá thư ấy phải thuyết phục được người đọc quan tâm đến việc liên hệ ngay với CQXTĐT. Lá thư phải chứa đựng những thông tin đủ để thu hút sự quan tâm, nhưng đừng nhiều quá khiến nó quá dài, khó đọc. Trong thư CQXTĐT phải đưa ra yêu cầu của CQXTĐT để được thuyết trình thêm về những gì mà nước CQXTĐT dành cho nhà đầu tư.
1.6.2. Gọi điện
Lá thư đã giải thích rõ lý do CQXTĐT gọi điện tới. Khi gọi điện nên thuyết phục nhà đầu tư cho phép nhóm XTĐT của CQXTĐT tới thăm công ty và thuyết trình với các cán bộ có liên quan của công ty. Điều thiết yếu là CQXTĐT không nên giới thiệu quá nhiều qua điện thoại, vì tác động qua lại của CQXTĐT với nhà đầu tư rất hạn chế và CQXTĐT khó có thể đánh giá mức độ quan tâm của họ. Một lần nữa, cuộc điện thoại chỉ nên cung cấp những thông tin vừa đủ nhằm tạo ra sự quan tâm hơn từ phía nhà đầu tư và tạo cơ hội gặp gỡ trực tiếp công ty hoặc cá nhân nhà đầu tư.
1.6.3. Bài thuyết trình
Khi nhà đầu tư đồng ý nghe thuyết trình, CQXTĐT có thể đưa ra hai kết luận chung: (1) nhà đầu tư đang dự định đầu tư trực tiếp và (2) họ đã phần nào quan tâm đến địa bàn của CQXTĐT đang đề cập. Người thuyết trình đồng thời giữ hai vai trò: cung cấp, thu thập thông tin và đánh giá mức độ quan tâm của nhà đầu tư. Phải nhớ rằng, không mấy khi nhà đầu tư cam kết một dự án đầu tư mà không cần xem xét địa điểm đầu tư, do vậy, tham quan thực địa là bước quan trọng tiếp theo. Bài thuyết trình nên động viên việc tham quan này và giải thích về những gì CQXTĐT có thể hỗ trợ nhà đầu tư để lập kế hoạch và thực hiện chuyến tham quan như vậy.
1.6.4.Thăm thực địa
Khi nhà đầu tư hoặc một nhóm du khách tới thăm địa bàn CQXTĐT cần thu hút đầu tư thì đây thực sự là cơ hội marketing quan trọng cho CQXTĐT. Trong phần lớn các trường hợp, những thông tin thu được trong chuyến đi thăm thực địa và những yêu cầu cung cấp thông tin sau chuyến tham quan sẽ là cơ hội cuối cùng của CQXTĐT để gây ảnh hưởng tới quyết định đầu tư.
1.6.5. Những hoạt động sau chuyến thăm quan
Điều quan trọng là phải tiếp tục chuyến tham quan, cung cấp tiếp thông tin như đã hứa và kiểm tra xem nhà đầu tư còn cần gì nữa không. Đây cũng là giai đoạn bắt đầu các cuộc đàm phán chi tiết với nhà đầu tư nếu họ thực sự quan tâm tới nước bạn.
1.6.6. Quyết định đầu tư
Việc quyết định đầu tư là dấu hiệu kết thúc giai đoạn vận động đầu tư – công ty đã bị thuyết phục xây dựng nhà máy trong nước bạn. Dầu sao, công việc của CQXTĐT không phải đã hoàn toàn xong ở đây. Vẫn còn những công việc đáng kể cần phải làm để chắc chắn rằng việc đầu tư được triển khai có kết quả và hiệu quả. Rất nhiều dự án đầu tư đã bị huỷ ngay cả sau khi quyết định đầu tư, vì nhà đầu tư gặp phải khó khăn của khu vực đầu tư liên quan đến việc xây dựng công trình, thuê mướn công nhân, cung cấp điện nước,… Điều quan trọng là CQXTĐT phải luôn theo sát quá trình này để giúp đỡ khi cần thiết.
1.6.7. Hỗ trợ nhà đầu triển khai
Một lỗi bất cẩn phổ biến với các CQXTĐT thường gặp là dừng mọi việc ngay sau khi nhà đầu tư đã quyết định đầu tư. Theo số liệu thống kê của một số nước, có tới 60% dòng FDI vào một nước là do mở rộng và tái đầu tư. Do vậy cần phải giữ liên hệ thường xuyên với các nhà đầu tư để đảm bảo mọi nhu cầu của họ được giải quyết. Cho dù một công ty không định mở rộng đầu tư thì việc làm đó cũng là công cụ hữu hiệu nhất để thu hút đầu tư mới. Như đã đề cập ở trên, quy trình dự án không bao giờ thực sự kết thúc. Việc liên hệ với nhà đầu tư luôn luôn là cần thiết ngay cả sau khi họ đã quyết định đầu tư.
2. Cơ quan thực thi chính sách XTĐT các cấp ở Việt Nam
Mỗi một quốc gia có nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động XTĐT khác nhau, do vậy cơ cấu của cơ quan thực thi chính sách XTĐT của mỗi nước cũng khác nhau. Ở Việt Nam, cơ quan thực thi chính sách XTĐT được phân ra các cấp như sau:
2.1. Cục đầu tư nước ngoài
Cục Đầu tư nước ngoài trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan Nhà nước chuyên trách thực hiện nhiệm vụ XTĐT ở cấp quốc gia, thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện XTĐT, thiết lập các mối quan hệ đối tác, chủ trì chuẩn bị và tổ chức các cuộc tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài;
- Làm mối hỗ trợ các nhà đầu tư tìm kiếm cơ hội đầu tư và hình thành dự án đầu tư, vận động XTĐT theo các chương trình, dự án trọng điểm;
- Tham gia các chương trình hợp tác liên Chính phủ, các nhóm công tác với các nước, các tổ chức liên quan đến đàm phán, xử lý các vấn đề về đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Hướng dẫn và theo dõi hoạt động liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của cán bộ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cử làm việc tại các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài hoặc tại các cơ quan của các nước, các tổ chức quốc tế.
2.2. Trung tâm Xúc tiến đầu tư ba miền và Trung tâm Xúc tiến đầu tư cấp địa phương
Cục Đầu tư nước ngoài phân cấp cho Trung tâm Xúc tiến đầu tư ở ba miền và các Trung tâm Xúc tiến đầu tư cấp địa phương chủ động tiến hành các chương trình xúc tiến thu hút đầu tư.
Cục Đầu tư nước ngoài được thành lập có chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài, quản lý toàn bộ quá trình cấp phép đầu tư, đồng thời là đầu mối XTĐT cả nước. Tuy nhiên, trước tình hình mới, có nhiều thay đổi trong cơ chế hoạt động của bộ máy từ trung ương tới địa phương theo đáp ứng đòi hỏi nhanh nhạy trong nắm bắt cơ hội đầu tư. Theo đó, Cục Đầu tư nước ngoài không trực tiếp quản lý toàn bộ quá trình cấp phép đầu tư và XTĐT mà phân cấp cho các Trung tâm Xúc tiến đầu tư trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư ở ba miền Bắc – Trung – Nam và Sở Kế hoạch đầu tư các tỉnh, thành phố. Nhờ đó mà công tác quản lý cũng như XTĐT đạt hiệu quả cao hơn. Các thủ tục tinh gọn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiết kiệm chi phí và quan trọng hơn là nắm bắt kịp thời cơ hội đầu tư. Dịch vụ hỗ trợ sau cấp phép thông qua các cơ quan địa phương cũng được tiến hành kịp thời và sâu sát hơn, đặc biệt là việc giải quyết những vướng mắc trong quá trình triển khai dự án tại địa bàn đầu tư. Công tác XTĐT được thực hiện bởi các Trung tâm XTĐT của từng vùng và từng địa phương dựa trên những đặc điểm riêng biệt về môi trường, các lĩnh vực ưu đãi cũng như các doanh nghiệp hoạt động của vùng và địa phương mình trở nên sát với thực tiễn hơn, bám sát quy hoạch đầu tư của địa phương.
2.3. Các cơ quan thực thi chính sách XTĐT khác
Giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động XTĐT là các cơ quan Cục Đầu tư nước ngoài, các Trung tâm Xúc tiến đầu tư ba miền Bắc – Trung – Nam và các Trung tâm Xúc tiến đầu tư cấp địa phương. Tuy nhiên, hoạt động XTĐT của các cơ quan này có thể hợp với các ban ngành khác và sự hợp tác này là rất cần thiết như: Sự phối hợp giữa Cục Đầu tư nước ngoài, UBND, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Xúc tiến đầu tư các địa phương và Ban quản lý các KCN với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; cơ quan đại diện ngoại giao, kinh tế của Việt Nam; Các tổ chức xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước; Các Bộ ngành khác như Tổng Cục du lịch, Hiệp hội các ngành tiểu thủ công nghiệp; Hiệp hội doanh nghiệp; Các nhà đầu tư hài lòng với tình hình hiện tại; Các đại sứ, đại diện danh dự về đầu tư và các đối tác khác.
3. Sự cần thiết phải tiến hành hoạt động XTĐT thu hút FDI
3.1. Khái niệm FDI và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Khái niệm FDI
FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
- Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce): là doanh nghiệp thuộc sở hữu của chủ đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh nhưng vẫn là pháp nhân của nước chủ nhà và chịu sự kiểm soát của pháp luật nước chủ nhà.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh CBC (Contractual-Business-Cooperation): là hình thức liên kết kinh doanh giữa hai hay nhiều bên trên cơ sở quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh và không tạo lập một pháp nhân.
Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture Enterprise): là hình thức kinh doanh quốc tế do hai bên hoặc các bên nước ngoài cùng hợp tác với nước chủ nhà trên cơ sở góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty TNHH có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước nhận đầu tư.
3.2. Vai trò của FDI tới nước nhận đầu tư
Lợi ích của FDI được thể hiện ở các dạng khác nhau như những lợi ích trực tiếp lẫn những lợi ích gián tiếp. Một số lợi ích của FDI là:
Việc làm: Với mỗi quy mô đầu tư và bản thân quy trình sản xuất khác nhau thì số lượng việc làm được tạo ra là khác nhau. Lợi ích phổ biến nhất gắn với FDI là việc làm gia tăng và được đảm bảo. Cùng với việc làm mới là thu nhập mới và sức mua bổ sung đối với những người dân địa phương gia tăng.
Nguồn vốn bổ sung: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không những là nguồn vốn bổ sung quan trọng mà nó còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Nguồn thu: FDI mở rộng cơ sở nguồn thu thuế của địa phương và đóng góp vào ngân sách. Thậm trí các nhà đầu tư nước ngoài được miễn hoàn toàn thuế trong một giai đoạn ngắn thông qua các ưu đãi đầu tư, thì các chính phủ vẫn có thể có được nguồn thu gia tăng từ việc trả thuế thu nhập cá nhân bởi vì FDI tạo ra việc làm mới. Ngoài ra, đầu tư định hướng xuất khẩu tạo ra các khoản thu ngoại tệ.
Tác động thuận lợi lên đầu tư trong nước: các dòng FDI vào có xu hướng dẫn đến sự gia tăng đầu tư trong nước bởi vì các công ty dành được quyền tiếp cận đến các kênh phân phối do các TNC mở ra, trở thành các nhà cung cấp cho các TNC, hoặc thích ứng cạnh tranh với các TNC.
Chuyển giao công nghệ: FDI có thể cải thiện quyền tiếp cận của đất nước về công nghệ thông qua lixăng, liên doanh và thương mại địa phương. Những người làm việc cho các TNC có thể nắm bắt được bí quyết mà họ có được và thành lập các công ty trong nước đang hoạt động. Dù hình thức nào đi nữa, chuyển giao công nghệ có xu hướng dẫn đến sự tăng trưởng năng suất ngày càng cao.
Cải thiện kỹ năng lao động: Các công ty nước ngoài thường thực hiện đào tạo thông qua công việc nhiều hơn các công ty trong nước, và cụ thể là các TNC thường tham gia vào các hoạt động sử dụng tương đối nhiều công nhân lành nghề. Những kỹ năng này thường được chuyển giao sang các lĩnh vực và các hoạt động khác khi người lao động tìm kiếm việc làm mới hoặc thành lập doanh nghiệp của chính mình. Người lao động cũng thường được đặt vào những kỹ năng tổ chức và quản lý mới, điều đó có thể kích thích tăng năng suất, tinh thần làm việc và học hỏi.
Cải thiện xuất khẩu: Nhiều dự án FDI là các dự án định hướng xuất khẩu, và các TNC thường chiếm một tỷ phần đáng kể trong xuất khẩu của nước tiếp nhận đầu tư. Do quy mô và quyền tiếp cận của chúng đến các mạng lưới marketing và phân phối ở nước ngoài, các công ty nước ngoài nói chung là dễ dàng thâm nhập vào các thị trường xuất khẩu hơn. Nhiều nước đang phát triển đã biết cách sử dụng FDI như một phương tiện để tăng cường xuất khẩu của mình và cải thiện các khoản thu ngoại tệ. Ngoài ra, sự hiện diện của các công ty xuất khẩu có vốn đầu tư nước ngoài là một yếu tố ảnh hưởng ở nhiều nước trong việc khuyến khích các công ty trong nước thâm nhập vào các thị trường xuất khẩu.
Cải thiện tính cạnh tranh quốc tế của các công ty trong nước: Cơ hội tiêu thụ sản phẩm đầu vào hoặc vật tư cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài khuyến khích các công ty trong nước nâng cao chất lượng sản phẩm và độ tin cậy trong giao hàng. Các công ty nước ngoài thường đưa ra các sản phẩm mới cho nền kinh tế trong nước, và các công ty trong nước thường khuyến khích sao chép lại những sản phẩm này. Cuối cùng, thông qua sự tác động qua lại của chúng với công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các nhà cung cấp, người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh ở nước tiếp nhận đầu tư thường được kích thích để đạt được các mức độ cao hơn về đầu tư, năng suất và đổi mới sáng tạo. Kết quả là các công ty trong nước đạt được mục tiêu hiệu quả kinh tế lớn hơn và sản xuất chất lượng cao hơn.
Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông…đối với những nước đang phát triển. Thúc đẩy các hoạt động dịch vụ khách sạn, dịch vụ, tư vấn, công nghệ. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo nên nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm mới, giúp tăng năng lực cho ngành công nghiệp của nước nhận đầu tư. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm quốc nội tăng dần qua các năm.
3.3. Sự cần thiết phải tiến hành hoạt động XTĐT thu hút FDI
FDI có một vai trò rất lớn đối với nước nhận đầu tư, đặc biệt là những nước, địa phương đang phát triển đang thiếu vốn để phát triển. Tuy nhiên, dòng vốn đầu tư không tự nhiên đến với những nước, địa phương muốn thu hút nguồn vốn này. Xúc tiến đầu tư là một công cụ để thu hút đầu tư. Như vậy, mỗi nước, mỗi địa phương muốn thu hút dòng vốn đầu tư quan trọng này thì phải thực hiện công tác xúc tiến đầu tư. Hơn nữa, sự cạnh tranh gay gắt giữa các địa bàn nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm cho công tác XTĐT trở thành một hoạt động quan trọng và ngày càng được chú trọng hơn nữa.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO TỈNH HẢI DƯƠNG
1. Vài nét về tỉnh Hải Dương
1.1. Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lý: Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm Vùng đồng bằng Sông Hồng, thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, giữa Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có ranh giới tiếp giáp với các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên và thành phố cảng Hải Phòng.
Địa hình: nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Đông của tỉnh có một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng của thuỷ triều và bị úng ngập vào mùa mưa. Toàn tỉnh được chia làm 2 vùng chính: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía Bắc tỉnh, chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn, chủ yếu là đồi, núi thấp phù hợp với xây dựng các cơ sở công nghiệp, du lịch và trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và các loại cây công nghiệp. Vùng đồng bằng gồm các huyện, xã còn lại, có độ cao trung bình 3-4m, đất đai bằng phẳng màu mỡ phù hợp với việc trồng cây lương thực, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Với địa hình này, Hải Dương có khả năng phát triển mạnh mẽ và đa dạng các ngành sản xuất, nhất là sản phẩm nông, lâm nghiệp.
Khí hậu: Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.500 – 1.700 mm, phân bố không đều, tập trung vào tháng 6, 7, 8, dễ gây úng lụt, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và dân sinh. Nhiệt độ trung bình 23,3oC, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng; số giờ nắng trong năm 1.524 giờ; độ ẩm tương đối trung bình 85-87%. Nhìn chung, khí hậu thời tiết của tỉnh thuận lợi cho sự phát triển hệ sinh thái động thực vật cũng như các hoạt động sản xuất, dịch vụ và du lịch. Đặc biệt, điều kiện khí hậu vào mùa đông rất thuận lợi cho việc phát triển cây rau, màu, thực phẩm, nhất là khả năng trồng rau xuất khẩu.
Hải Dương có 12 đơn vị hành chính: thành phố Hải Dương là đô thị loại 3 và 11 huyện gồm Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn, Kim Thành, Thanh Hà, Ninh Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Cẩm Giàng, Bình Giang.
1.2. Vị trí địa lý kinh tế - chính trị của tỉnh Hải Dương
Thành phố Hải Dương là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá khoa học kỹ thuật của tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 5 cách Hải Phòng 45 km về phía Đông, cách Hà Nội 57 km về phía Tây và cách Thành phố Hạ Long 80 km. Phía Bắc tỉnh có hơn 20 km quốc lộ 18 chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra cảng Cái Lân tỉnh Quảng Ninh. Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, Kép - Bãi Cháy qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển.
Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng, Hải Dương có vai trò quan trọng làm cầu nối thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du lịch Hạ Long; cung cấp sản phẩm hàng hoá quan trọng và là địa bàn tham gia quá trình trung chuyển hàng hoá giữa hệ thống cảng biển và các thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước, do vậy, vừa có cơ hội đóng vai trò là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố lớn và trở thành một trong các đô thị lớn của vùng.
1.3. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên khoáng sản
Hải Dương có nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như đá vôi với trữ lượng khoảng 200 triệu tấn, đất sét để sản xuất vật liệu chịu lửa 8 triệu tấn; cao lanh là nguyên liệu chính để sản xuất gốm sứ 400.000 tấn; quặng bô xít để sản xuất đá mài và bột mài công nghiệp trữ lượng 200.000 tấn, tập trung chủ yếu ở hai huyện Chí Linh và Kinh Môn.
Tài nguyên khoáng sản của Hải Dương không đa dạng về chủng loại, nhưng có một số trữ lượng lớn, chất lượng tốt, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp; đặc biệt là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
+ Đá vôi xi măng ở huyện Kinh Môn, trữ lượng 200 triệu tấn, chất lượng tốt, CaCO3 đạt 90 - 97%. Đủ sản xuất 5 đến 6 triệu tấn xi măng/ năm.
+ Cao lanh ở huyện Kinh Môn, Chí Linh trữ lượng 40 vạn tấn, tỷ lệ Fe2O3: 0,8 - 1,7%; Al2O3: 17 - 19% cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất sành sứ.
+ Sét chịu lửa ở huyện Chí Linh, trữ lượng 8 triệu tấn, chất lượng tốt; tỷ lệ Al2O3 từ 23,5 - 28%, Fe2O3 từ 1,2 - 1,9% cung cấp nguyên liệu sản xuất gạch chịu lửa.
+ Bô xít ở huyện Kinh Môn, trữ lượng 200.000 tấn; hàm lượng Al2O3 từ 46,9 - 52,4%, Fe2O3 từ 21 - 26,6%; SiO2 từ 6,4 - 8,9%.
Tài nguyên đất
Hải Dương có tổng diện tích tự nhiên là 1.662 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 63,3%; đất lâm nghiệp chiếm 6,08%; đất canh tác 46,2%; đất ở 6,87%; đất chưa sử dụng 7,47%. Toàn tỉnh được chia làm hai vùng chính: vùng đối núi chiếm khoảng 11%, còn lại là đồng bằng.
Tài nguyên nước
Hệ thống sông ngòi khá dầy đặc, bao gồm hệ thống sông Thái Bình, Sông Luộc, các sông trục Bắc Hưng Hải và An Kim Hải, có khả năng bồi đắp phù sa cho đồng ruộng, cung cấp nguồn nước cho nhu cầu sản xuất của các ngành, đồng thời cũng là những tuyến giao thông thuỷ, tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá trong tỉnh, cũng như giữa tỉnh Hải Dương với các tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sông ngòi nhiều thường gây nên úng lụt, rất khó khăn trong việc phòng chống lụt bão và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, đời sống dân sinh.
Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch trên địa bàn tỉnh khá phong phú, nhất là trên hai huyện miền núi phía Đông Bắc tỉnh là Chí Linh và Kinh Môn. Chí Linh có nhiều cảnh quan đẹp, nhiều hồ nước tự nhiên, nhiều di tích, di chỉ văn hoá: Khu danh thắng Phượng Hoàng - Kỳ Lân, Khu du lịch danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc…Kinh Môn thuộc vùng núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú: Núi An Phụ, Hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi Dương Nham.
Các huyện thuộc vùng đồng bằng cũng có tiềm năng du lịch phong phú nhờ có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, làng quê trù phú, mang đậm nét đặc trưng của văn hoá Bắc Bộ: khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà, Làng Cò (Chi Lăng Nam) Thanh Miện, Văn miếu (Mao Điền), gốm Chu Đậu…
Trên địa bàn tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hoá cách mạng, các làng nghề, các lễ hội truyền thống, ẩm thực, các giá trị truyền thống và hiện tại khác làm phong phú thêm nguồn tài nguyên du lịch của Hải Dương, tạo tiền đề phát triển ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong tương lai.
1.4. Dân số và lao động
Tổng dân số hiện nay của tỉnh vào khoảng 1,7 triệu người, trong đó trên 60% là trong độ tuổi lao động. Dân số nông thôn chiếm tỷ trọng cao (84,5% tổng dân số), chủ yếu làm nông nghiệp, lao động trong độ tuổi từ 18-30 chiếm trên 40% tổng số lao động. Nguồn lao động dồi dào nhưng phần lớn là lao động phổ thông chiếm 60- 65%, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp chiếm 23%, năng suất lao động không cao: Năm 2004 bình quân giá trị GDP thực tế trên một lao động (LĐ) chung toàn nền kinh tế là 12934 ngàn đồng/LĐ (cả nước khoảng 14300 ngàn đồng/LĐ). Như vậy, năng suất lao động chung, theo sơ bộ tính toán, là tương đối thấp so với cả nước.
Thời gian sử dụng lao động trong nông nghiệp chiếm 78% (năm 2004). Cơ hội kiếm việc làm có thu nhập cao và điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc còn hạn chế. Chất lượng lao động nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu phát triển: tỷ lệ được đào tạo thấp, thể lực, trí lực, tính kỷ luật, tác phong công nghiệp còn hạn chế. Lao động có việc làm và đang làm việc ở các ngành trong nền kinh tế quốc dân tăng khá, song cơ cấu còn bất hợp lý.
1.5. Hệ thống cơ sở hạ tầng
Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.
Hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt; phân bố hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh.
Đường bộ: có 4 tuyến đường quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I, cho 4 làn xe đi lại thuận tiện
Quốc lộ 5 từ Hà Nội đi thành phố cảng Hải Phòng, chạy ngang qua tỉnh 44 km, đây là đường giao thông chiến lược; vận chuyển toàn bộ hàng hoá xuất nhập khẩu qua cảng Hải Phòng và nội địa.
Quốc lộ 18 từ Nội Bài qua Bắc Ninh đến tỉnh Quảng Ninh. Đoạn chạy qua huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương dài 20 km.
Quốc lộ 183, nối quốc lộ 5 với quốc lộ 18, quy mô cấp I đồng bằng
Quốc lộ 37 dài 12,4 km, đây là đường vành đai chiến lược quốc gia, phục vụ trực tiếp cho khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc.
Quốc lộ 38 dài 14 km là đường cấp III đồng bằng.
Đường tỉnh: có 13 tuyến dài 258 km là đường nhựa tiêu chuẩn cấp III đồng bằng
Đường huyện: có 352,4 km và 1448 km đường xã đảm bảo cho xe ôtô đến tất cả các vùng trong mọi mùa.
Đường sắt: Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5, đáp ứng vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh.
Tuyến Kép – Bãi Cháy chạy qua huyện Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm nông thổ sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân, cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh.
Đường thuỷ: với 400 km đường sông cho tầu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn/năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hóa bằng đường thuỷ một cách thuận lợi.
Hệ thống giao thông trên đảm bảo cho việc giao lưu kinh tế từ Hải Dương đi cả nước và nước ngoài rất thuận lợi.
Hệ thống điện:
Trên địa bàn tỉnh có Nhà máy nhiệt điện Phả Lại công suất 1040 Mw; hệ thống điện lưới khá hoàn chỉnh, đảm bảo cung cấp điện an toàn và chất lượng ổn định; trên địa bàn tỉnh có 5 trạm biến áp 110/35 kV tổng dung lượng 197 MWA và 11 trạm 35/10 kV, các trạm phân bố đều trên địa bàn tỉnh. Lưới điện 110, 35 kV đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, phục vụ tốt cho nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt.
Bưu điện:
Mạng lưới bưu chính viễn thông đã phủ sóng di động trên phạm vi toàn tỉnh, 100% thôn, xã đều có điện thoại liên lạc trực tiếp nhanh chóng với cả nước và thế giới.
Hệ thống tín dụng ngân hàng:
Bao gồm các Chi nhánh Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Chính sách xã hội, có quan hệ thanh toán trong nước và quốc tế nhanh chóng, thuận lợi. Ngân hàng cổ phần nông nghiệp và 79 Quỹ tín dụng nhân dân đáp ứng việc khai thác và cung ứng vốn cho hoạt động sản xuất của nhân dân trong tỉnh.
Hệ thống thương mại khách sạn:
Trên địa bàn tỉnh có 18 doanh nghiệp nhà nước, 12 Hợp tác xã Thương mại, 54 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 20.298 cửa hàng kinh doanh thương mại. Có 1 trung tâm thương mại tại thành phố Hải Dương, là đầu mối giao dịch và xúc tiến thương mại, thông tin, tiếp thị dự báo thị trường tư vấn môi giới đàm phán ký kết hợp đồng.
Hệ thống khách sạn, nhà hàng bao gồm quốc doanh, tư nhân và các tổ chức khác, có đầy đủ tiện nghi sang trọng, lịch sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong nước và quốc tế.
Cơ sở y tế:
Mạng lưới cơ sở vật chất kỹ thuật y tế từ tỉnh đến huyện được củng cố nâng cấp đáp ứng nhu cầu cơ bản trong khám và chữa bệnh cho nhân dân. Đến nay toàn tỉnh có 6 bệnh viện tuyến tỉnh, 1 khu điều dưỡng, 1 khu điều trị bệnh phong và 13 trung tâm y tế huyện, 6 phòng khám đa khoa khu vực, 236 trạm y tế xã phường. Bình quân 10000 dân có 4 bác sỹ, 21 giường bệnh. Ở tuyến tỉnh đã được đầu tư một số thiết bị hiện đại trong khám điều trị bệnh như: Máy siêu âm, nội soi, chụp cắt lớp…
Đây là những cơ sở hạ tầng hiện có và ngày một được nâng cấp hoàn chỉnh để thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến Hải Dương.
1.6. Tình hình kinh tế
Về tốc độ tăng trưởng: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt trên 10,8%/ năm giai đoạn 2001-2005, kế hoạch giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng bình quân GDP là 11,5%/năm trở lên.
Về cơ cấu kinh tế: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông – lâm - ngư nghiệp phù hợp với xu thế chung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch thể hiện ở Bảng 2.1 dưới đây:
Bảng 2.1: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Hải Dương
Đơn vị: %
Ngành
2003
2004
2006
Kế hoạch 2010
1. Nông – lâm – ngư nghiệp
30,0
28,5
26,9
19,0
2. Công nghiêp – xây dựng
41,5
42,3
43,7
48,0
3. Dịch vụ
28,5
29,2
29,4
33,0
Tổng
100,0
100,0
100,0
100,0
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải Dương
Hoạt động đầu tư:
Tỉnh Hải Dương chủ trương khuyến khích thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp (KCN), Cụm công nghiệp (CCN) tập trung của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh có 8 KCN với tổng diện tích trên 1.642 ha. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, tỉnh đã quy hoạch 33 CCN nằm ở vị trí thuận lợi về giao thông, điện, thông tin liên lạc…trên địa bàn các huyện trong tỉnh.
Trong vài năm trở lại đây, tình hình đầu tư của tỉnh Hải Dương đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Đến ngày 30/09/2008, trên địa bàn tỉnh Hải Dương có gần 2.800 doanh nghiệp trong nước đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký gần 18.000 tỷ đồng; có 187 dự án đầu tư nước ngoài đến từ 21 Quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng số vốn đầu tư đăng ký 2 tỷ 174 triệu USD, đứng trong tốp các địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tổng lượng vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI đến nay tại địa bàn ước tính đạt 1.003 triệu USD. Có 106 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút trên 59.000 lao động trực tiếp tại các doanh nghiệp cùng hàng ngàn lao động gián tiếp khác.
Hoạt động xuất nhập khẩu:
Hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh trong những năm qua có tiến bộ cả về mặt hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu và giá trị xuất khẩu.
Trong giai đoạn 2001-2006 xuất khẩu hàng hoá có tốc độ tăng khá, bình quân gần 20%/năm nhưng quy mô kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ, đạt giá trị 224,4 triệu USD (2006). Các mặt hàng xuất khẩu của tỉnh chủ yếu là hàng công nghiệp chế biến, trong đó các sản phẩm giầy dép, may mặc, bánh kẹo, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm có khối lượng lớn (hàng dệt may chiếm 29,5% kim ngạch, giầy dép chiếm 28,6%). Thị trường xuất khẩu từng bước phát triển ra nhiều châu lục như Châu Á khoảng 60-70%, Châu Âu 30% và đang từng bước vào các thị trường khác như Bắc Mỹ và một số khu vực khác.
Kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh, chủ yếu là vật tư, thiết bị, nguyên liệu cho sản xuất. Nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị cho dây chuyền sản xuất là do một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Với những thành tựu đạt được từ phát triển kinh tế đã đem lại nguồn thu cho tỉnh nhà, tổng thu ngân sách là 2.317 tỷ VNĐ (2008).
1.7. Giới thiệu về các khu công nghiệp
Thực hiện đường lối đổi mới được khởi xướng từ Đại Hội Đảng lần thứ VI (1986), Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực và đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” và Nghị Quyết Đảng bộ lần thứ XIII nhiệm kỳ 2001 – 2005, tỉnh Hải Dương đặc biệt quan tâm tới giải pháp thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Đặc biệt là các biện pháp thu hút đầu tư phát triển các KCN, CCN. Theo đó, việc hình thành và phát triển các KCN để tổ chức lại nền sản xuất, đời sống xã hội trên phạm vi cả nước phù hợp với quá trình này là biện pháp thực hiện chủ trương trên, đẩy nhanh CNH – HĐH. Vì vậy, việc hình thành các KCN trong không gian lãnh thổ kinh tế trên phạm vi cả nước nói chung và phạm vi địa phương, tỉnh Hải Dương nói riêng là một tất yếu.
KCN có thể được hiểu là một khu vực có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp công nghiệp (cả bên trong và bên ngoài hàng rào KCN, gồm cả cơ sở hạ tầng kinh tế và các cơ sở hạ tầng xã hội). KCN là khu vực có điều kiện để tập trung các cơ sở công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định. Nếu kết hợp với hệ thống quản lý thích hợp đảm bảo cung cấp dịch vụ cần thiết cho sự phát triển của các doanh nghiệp (cấp phép, xúc tiến đầu tư, hỗ trợ tư vấn, hỗ trợ đào tạo…) các KCN sẽ có điều kiện phát huy ưu thế của mình, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại mỗi địa phương cũng như cả nước.
Các KCN đã và đang tạo nhân tố chủ yếu trong việc tăng trưởng công nghiệp theo quy hoạch, tăng khả năng thu hút đầu tư, đẩy mạnh nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và hạn chế tình trạng ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Chính sự phát triển các KCN cũng đã thúc đẩy việc phát triển các khu đô thị mới, phát triển các cơ sở phụ trợ và dịch vụ, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội chung. Nhằm phát triển công nghiệp, tỉnh Hải Dương đã sớm có chủ trương quy hoạch phát triển các vùng công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu và quy hoạch phát triển đồng bộ các KCN quản lý theo Nghị định 36/CP của Chính phủ. Hải Dương đã xây dựng và phê duyệt Đề án “Xây dựng hạ tầng các KCN để thu hút đầu tư giai đoạn 2001-2005”. Đồng thời thành lập và giao cho Ban quản lý các KCN tỉnh làm đầu mối để triển khai thực hiện đề án. Ban đầu là xây dựng quy hoạch và khuyến khích ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN. Tiếp đó là khuyến khích, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất trong các KCN.
Hiện tại, tỉnh Hải Dương có 8 KCN, với diện tích khoảng 1.642 ha, trong đó diện tích đất quy hoạch xây dựng nhà máy công nghiệp gần 1.100 ha.
Tính cho tới thời điểm hiện nay, các KCN đã được xây dựng cơ sở hạ tầng theo đúng kế hoạch, tiến độ đã đề ra của tỉnh. Trong 8 KCN, có 7 KCN do nhà đầu tư trong nước xây dựng hạ tầng và 1 KCN do nhà đầu tư nước ngoài xây dựng (KCN Việt Hoà – Kenmark). Tổng số vốn đầu tư xây dựng hạ tầng đã thực hiện là 1.219 tỷ đồng, đạt 60% tổng vốn đầu tư dự kiến. Trong đó chủ yếu là nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư hạ tầng trong nước.
Dự kiến trong thời gian tới các KCN sẽ sớm được xây dựng đồng bộ hạ tầng theo đúng kế hoạch đã đề ra. Đã có 6 KCN cơ bản đầu tư xây dựng xong hạ tầng kỹ thuật như KCN Nam Sách, Đại An (giai đoạn I), Phúc Điền, Việt Hoà – Kenmark, Tàu Thuỷ - Lai Vu, Tân Trường. Các KCN khác đang được khẩn trương xây dựng hạ tầng để thu hút đầu tư. Vừa xây dựng hạ tầng kỹ thuật vừa thu hút đầu tư, đến nay trong các KCN của tỉnh đã thu hút được 111 dự án đầu tư trong nước và ngoài nước, với số vốn đầu tư đăng ký 1 tỷ 556 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện đến nay khoảng 500 triệu USD. Các dự án đầu tư vào KCN chủ yếu là có vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng công nghệ cao thuộc các tập đoàn đầu tư lớn của các quốc gia và vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Ca-na-da, Ma-lai-xi-a, Pháp…Đến nay đã có 62 dự án đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, với giá trị sản xuất, doanh thu và kim ngạch xuất khẩu hằng năm khoảng 211 triệu USD, tạo việc làm cho hơn 2 vạn lao động và đóng góp nguồn thu ngân sách địa phương hằng năm khoảng 3,5 triệu USD.
Ngoài ra, ngày 08/05/2008, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 692/TTg-KTN về việc bổ sung các KCN của tỉnh Hải Dương vào Quy hoạch phát triển các KCN Việt Nam. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đồng ý bổ sung KCN Cẩm Điền – Lương Điền và KCN Lai Cách vào Danh mục các KCN ưu tiên thành lập mới đến 2015 và định hướng đến năm 2020. KCN Cẩm Điền – Lương Điền có diện tích quy hoạch 200 ha và KCN Lai Cách có quy hoạch 135 ha đều thuộc huyện Cẩm Giàng.
Việc hình thành và phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh thực sự đã tạo động lực và môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Tình hình thu hút vốn FDI và sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nhằm thu hút vốn FDI vào Hải Dương
2.1. Tình hình thu hút vốn FDI
2.1.1. Tổng quan tình hình thu hút vốn FDI tại Hải Dương
Năm 2008 tỉnh Hải Dương thu hút được 481,6 triệu USD vốn FDI (tương đương với lượng vốn FDI thu hút được năm 2007) trong đó:
+ Cấp Giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) mới cho 46 dự án với tổng số vốn đăng ký 345,3 triệu USD.
+ 27 dự án điều chỉnh tăng vốn với số vốn tăng thêm là 136,3 triệu USD.
Tính đến hết năm 2008, trên địa bàn tỉnh Hải Dương có 200 dự án ĐTNN đến từ 23 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng số vốn đăng ký 2.306,4 triệu USD trong đó có 95 dự án trong KCN, số vốn 1.425,2 triệu USD; ngoài KCN 105 dự án, số vốn 881,2 triệu USD. Tổng lượng vốn đầu tư thực hiện của các Doanh nghiệp FDI ước đạt 1.170 triệu USD, chiếm 50,7% tổng số vốn đầu tư đăng ký, cao hơn tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trung bình của cả nước 27,7%; trong đó tại các KCN tỷ lệ vốn thực hiện đạt 42,3%, ngoài KCN tỷ lệ này đạt 62,7%. Có 116 dự án đã đi vào hoạt động.
Nhìn chung các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Dương có quy mô tương đối nhỏ, đạt 11,52 triệu USD/dự án, cao hơn một chút so với mức trung bình của cả nước 9,1 triệu USD/dự án. Việc các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào tỉnh Hải Dương với các dự án quy mô nhỏ khác với xu hướng đầu tư nước ngoài, các công ty đầu tư ra nước ngoài thường tập trung với quy mô tương đối lớn để phát huy thế mạnh về vốn và công nghệ sản xuất và tận dụng lợi thế sản xuất nhờ quy mô.
Theo số liệu thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương, tính đến hết tháng 3 năm 2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Dương là 201 dự án với tổng vốn đăng ký 2.314,72 triệu USD, vốn thực hiện 1.215,7 triệu USD, đứng thứ 7 trong top 10 tỉnh, thành phố thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Biểu 2.1 dưới đây cho thấy cái nhìn toàn diện hơn về dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Hải Dương.
Biểu 2.1: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương qua các năm
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương
Ngay từ khi Hoa Kỳ xóa bỏ cấm vận Việt Nam, đã có rất nhiều TNCs xúc tiến việc sản xuất kinh doanh ở Việt Nam nói chung cũng như tỉnh Hải Dương nói riêng. Luồng vốn đầu tư từ các TNCs đã tăng nhanh so với các nguồn vốn khác vào Hải Dương. Sự tăng trưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Hải Dương càng trở nên vững chắc khi các bước phát triển quan hệ giữa Việt Nam và các nước ngày càng được củng cố. Đến nay, Hải Dương đã thu hút được một số TNCs hàng đầu như Tập đoàn HITACHI (Nhật Bản), tập đoàn Ford, Sumidenso, Brother, UMC, IQLinks…Điều này cho thấy các chi nhánh TNCs quan tâm đến thị trường Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. Theo số liệu thống kê cho thấy qua các năm 1995, 1996 nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng tương đối cao, do vậy, lượng vốn FDI hút vào tỉnh Hải Dương cũng tăng đột biến 156 triệu USD (1995), 286 triệu USD (1996). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 thì lượng vốn FDI vào Hải Dương bắt đầu suy giảm cho đến năm 2000 thì bắt đầu hồi phục và có xu hướng tăng nhanh và đạt đỉnh điểm vốn đăng ký vào năm 2006 (654 triệu USD). Có được kết quả tăng nhanh vốn đăng ký là do những nỗ lực trong cải cách hành chính và sự ra đời của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (2005) đã làm cho môi trường đầu tư thông thoáng hơn. Mặt khác, với những nỗ lực của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải Dương trong nỗ lực chung của đất nước nhằm tăng cường thu hút lượng vốn FDI nhằm bổ sung cùng với nguồn vốn trong nước phát triển nền kinh tế trong nước.
2.1.2. Tình hình thu hút FDI theo đối tác đầu tư
Kể từ khi đổi mới thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tính cho tới thời điểm hiện nay (hết tháng 3/2009) ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm khả năng đầu tư vào địa bàn tỉnh Hải Dương và đi đến quyết định đầu tư tại địa bàn tỉnh. Với mỗi một quốc gia có một đặc điểm, xu hướng đầu tư ra nước ngoài khác nhau. Dựa trên đặc điểm, xu hướng đó tỉnh cần lựa chọn những quốc gia, những công ty có trình độ công nghệ phù hợp với tình hình phát triển cũng như tiềm năng hiện có của tỉnh để tiến hành xúc tiến thu hút đầu tư. Ví dụ như các dự án trong lĩnh vực công nghệ thông tin tập trung vào Công nghệ phần cứng - điện tử, chủ yếu đến từ các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ; đối với các dự án của Đài Loan thường về các ngành như may mặc, chế biến nông sản, rau quả xuất khẩu, thức ăn chăn nuôi, linh kiện điện tử. Đối với Nhật Bản, các dự án thường về sản xuất kinh doanh các loại linh kiện, bộ phận, chi tiết điện và điện tử dùng cho các thiết bị; các thiết bị, bộ phận, linh kiện điện tử công nghệ cao. Đối với Hàn Quốc, các dự án thường về may mặc, linh kiện điện tử…Hải Dương là một tỉnh nông nghiệp cho nên cần phải thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài thông thường ít khi lựa chọn ngành nông nghiệp để đầu tư vào đó vì đầu tư vào ngành này thường có nhiều rủi ro hơn đối với ngành công nghiệp và dịch vụ, cho nên hiện nay con số nhà đầu tư đầu tư vào ngành này vẫn còn rất hạn chế. Các nhà đầu tư đầu tư vào ngành nông nghiệp hiện nay có Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc.
Bảng 2.2: Một số nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất tại Hải Dương
(tính đến hết tháng 3/2009)
STT
Đối tác
Số dự án
Vốn đăng ký (triệu USD)
Quy mô vốn bình quân của 1 dự án (triệu USD)
Vốn thực hiện (triệu USD)
VTH/ VĐK (%)
1
Đài Loan
44
501,76
11,04
170,06
34,00
2
Nhật Bản
34
660,98
19,44
171,71
25,98
3
Hàn Quốc
26
110,69
4,26
34,50
31,17
4
Trung Quốc
17
64,10
3,77
30,61
47,75
5
Hồng Kông
12
75,25
6,72
25,67
34,11
6
Samoa
9
255,93
28,44
126,13
49,28
7
Anh
6
28,98
4,83
10,84
37,41
8
Hoa Kỳ
5
143,20
28,64
84,50
59,00
9
Singapore
4
18,50
4,63
6,38
34,49
10
Malaysia
4
19,70
4,92
5,97
30,30
11
Canada
4
26,10
6,53
8,89
34,08
Tổng FDI
201
2.314,72
11,52
1.215,70
52,52
Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư Hải Dương
Bảng 2.2 trên đây thống kê tình hình đầu tư của các công ty của các quốc gia trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Theo đó, Đài Loan là quốc gia có số dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh nhiều nhất 44 dự án, đứng thứ hai là Nhật Bản với 34 dự án, đứng thứ ba là Hàn Quốc với 26 dự án. Tuy nhiên, quy mô vốn bình quân của 1 dự án tương đối nhỏ 11,04 triệu USD (Đài Loan), 19,44 triệu USD (Nhật Bản) và 4,26 triệu USD (Hàn Quốc) và tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký còn tương đối thấp. Bên cạnh đó, một số đối tác đầu tư nước ngoài như Samoa, Hoa Kỳ tuy có số dự án thấp hơn nhiều nhưng quy mô vốn bình quân của một dự án cao 28,44 triệu USD (Samoa), 28, 64 triệu USD (Hoa Kỳ) và đạt tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký cao 49,28% (Samoa) và 59% (Hoa Kỳ).
2.1.3. Tình hình thu hút vốn FDI theo hình thức đầu tư
Trong quá trình hoạt động các nhà đầu tư nước ngoài được phép chuyển đổi hình thức đầu tư của mình trong quá trình triển khai dự án đầu tư trực tiếp để đạt hiệu quả tốt nhất đã góp phần tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Cho đến nay các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trên địa bàn tỉnh chủ yếu vẫn thông qua 4 hình thức truyền thống: 100% vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh, công ty cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Biểu 2.2: Cơ cấu các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức mà nhà đầu tư nước ngoài thường lựa chọn bước đầu để tiến hành xây dựng nhà máy và tiến hành kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Liên doanh trước đây cũng là hình thức thường được các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn. Tuy nhiên, kể từ khi Luật Đầu tư của Việt Nam ra đời cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư và đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp có hình thức sở hữu khác nhau, phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài ưa thích lựa chọn hình thức đầu tư 100% vốn. Với hình thức này, sở hữu 100% vốn, họ có thể toàn quyền quyết định đầu tư kinh doanh mà không phụ thuộc vào các bên đối tác. Có thể dễ dàng nhận thấy xu hướng này trong Biểu 2.2.
Nghiên cứu cơ cấu đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài vào địa bàn tỉnh trong thời gian qua có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thông qua nghiên cứu cơ cấu vốn đăng ký và vốn thực hiện theo ngành chúng ta có thể thấy được thực trạng khả năng thu hút FDI trong từng ngành, từng lĩnh vực của tỉnh.
2.1.4. Tình hình thu hút FDI phân theo ngành
Nếu như trước kia các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu đến lĩnh vực công nghiệp thì hiện nay họ lại quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực dịch vụ. Lĩnh vực dịch vụ là một lĩnh vực khá mới mẻ tại thị trường Việt Nam đối với tất cả các nhà đầu tư nước ngoài. Việc Việt Nam gia nhập WTO, các nhà đầu tư có cơ hội lớn thâm nhập vào thị trường dịch vụ và gần đây đã có sự thay đổi theo hướng tăng mạnh vốn đầu tư vào ngành dịch vụ (khách sạn, du lịch, tài chính, ngân hàng, giao thông vận tải, bưu điện,…). Dưới đây là Biểu 2.3 thể hiện cơ cấu đầu tư trực tiếp tại tỉnh Hải Dương theo ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ tính đến hết tháng 3/2009.
Biểu 2.3: Cơ cấu đầu tư trực tiếp tại Hải Dương theo ngành
(Tính đến hết tháng 3/ 2009)
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải Dương
Tuy nhiên theo Biểu 2.3, cơ cấu vốn thực hiện theo ngành vẫn duy trì tỷ trọng cao của ngành công nghiệp. Quan sát biểu trên, cũng có thể thấy một vài câu hỏi đặt ra, đó là sự chênh lệch quá lớn giữa cơ cấu vốn đăng ký giữa các ngành, trong đó các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp xây dựng luôn giữ chiếm một tỷ lệ rất cao so với ngành nông nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh đó, trong cơ cấu vốn thực hiện thì lại một lần nữa tỷ lệ vốn thực hiện của ngành công nghiệp và xây dựng rất cao còn các ngành nông nghiệp và dịch vụ cũng vẫn chiếm một tỷ lệ thấp. Sở dĩ tỷ lệ thực hiện của dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ thấp như vậy là do thứ nhất đây là một lĩnh vực thu hút đầu tư mới mẻ, thứ hai, số dự án dịch vụ được thu hút vào tỉnh Hải Dương còn quá ít. So với các lĩnh vực thu hút đầu tư truyền thống thì đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ có nhiều điểm mới mẻ hơn với các nhà đầu tư và bởi vậy quá trình thực hiện thủ tục để triển khai dự án sau cấp phép gặp nhiều bỡ ngỡ và vướng mắc hơn. Trong khi đầu tư vào lĩnh vực truyền thống đã có nhiều dự án đầu tư, các nhà đầu tư có nhiều thông tin, hiểu biết kinh nghiệm hơn trong việc triển khai dự án sau cấp phép thì đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ, các nhà đầu tư sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề mới mẻ.
Điều này cho thấy một thực trạng cần quan tâm trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới là mở cửa thông thoáng lĩnh vực dịch vụ và làm tốt công tác xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực này.
Hải Dương là một tỉnh nông nghiệp, tuy nhiên, con số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành này vẫn là một con số hạn chế. Số nhà đầu tư vào ngành nông nghiệp vẫn còn rất ít so với tiềm năng của tỉnh. Bên cạnh đó, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành này cũng không nhiều.
Bảng 2.3: Các dự án đầu tư vào ngành nông nghiệp
(tính đến hết tháng 3/2009)
STT
Tên dự án
Vốn đầu tư (triệu USD)
Nước đầu tư
Mặt hàng sản xuất
1
Công ty PTNN Việt Hưng
3,85
Đài Loan
Chế biến nông sản
2
Công ty TNHH Yamazaki
0,50
VN + Nhật Bản
Rau quả, trồng măng
3
Công ty TNHH thực phẩm tin tin
1,50
Trung Quốc
SXKD nước uống từ sản phẩm nông nghiệp, nước tinh khiết, nước có ga.
4
Công ty TNHH Nam Tiến
3,10
Trung Quốc
SX các sản phẩm từ rau quả tươi
5
Công ty TNHH gia công chế biến rau quả Vạn Phúc
0,43
Trung Quốc
Rau quả, nông lâm thủy sản và các loại thịt
6
Công ty Châu Á – Thái Bình Dương
3,95
Đài Loan
Chế biến nông sản
7
Công ty TNHH Vạn Đắc Phúc
3,00
Đài Loan
Chế biến nông sản
8
Công ty TNHH Cẩm Thái Hưng
12,00
Đài Loan
SX hàng nông sản, lâm sản
9
Công ty TNHH Vân Bỉnh
1,30
Đài Loan
Xúc xích, lạp sường
10
Công ty TNHH Hae Woo Vina Co.Ltd
2,00
Hàn Quốc
SXKD hàng nông sản
11
Công ty TNHH CBNS XK Thái Dương
1,00
VN + Đài Loan
Chế biến nông sản
Tổng vốn đầu tư (Triệu USD)
21,83
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương
Bảng 2.3 trên cho thấy hiện nay trên địa bàn Hải Dương mới thu hút được 11dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với tổng số vốn đầu tư thực hiện là 21, 828 triệu USD, so với tổng số vốn đầu tư thực hiện thì đây là một con số bé nhỏ. Mặt hàng sản xuất của các dự án này chủ yếu là sản xuất kinh doanh chế biến nông sản, lâm sản, rau quả. Điều này cho thấy cần tăng cường hơn nữa khuyến khích các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của tỉnh.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu, từ giữa năm 2008 số lượng các nhà đầu tư nước ngoài đến Hải Dương để khảo sát tìm hiểu cơ hội đầu tư giảm rõ rệt; các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư quy mô còn nhỏ, chưa có bước đột phá trong việc thu hút các dự án có quy mô vốn lớn và công nghệ cao.
2.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác XTĐT nhằm thu hút FDI vào Hải Dương
Trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới, cùng với việc học tập kinh nghiệm từ các nước đi trước, Việt Nam đang cố gắng nỗ lực trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động XTĐT. Công tác XTĐT trong thời gian qua đã có những đóng góp vào thành tựu chung của hoạt động đầu tư, góp phần tạo ra bước nhảy vọt trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy, hoạt động XTĐT đã được khẳng định và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách thu hút vốn. Tinh thần đó được khẳng định tại Nghị Quyết số 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ, Chỉ thị số 19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 2001-2005 và Chỉ thị số 13/2005/CT-TTg 15/2007/CT-TTg ngày 22/06/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp nhằm tạo ra chuyển biến mới trong công tác thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trên thực tế, việc thực hiện Nghị quyết và các Chỉ thị trên đã mang lại những kết quả thành công đáng khích lệ cho nhiều địa phương. Trong đó phải kể đến nhiều địa phương như TP. HCM, Bình Dương, Hà Nội, Đồng Nai,…Nhờ có việc thực hiện công tác XTĐT năng động sáng tạo mà ngày càng nhiều các nhà đầu tư trong và ngoài nước đem vốn đầu tư để thực hiện dự án tại những địa phương này, giúp cho nền kinh tế - xã hội tại các địa phương đó phát triển mạnh. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh công tác XTĐT ở tỉnh Hải Dương hiện đang được Đảng bộ và lãnh đạo các cấp xem đó là một nhu cầu cần thiết phải làm để thu hút đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả xứng đáng với lợi thế và tiềm năng của tỉnh.
2.2.1. Tạo hình ảnh tốt đẹp trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của tỉnh trong những năm qua, hình ảnh của Hải Dương trong mắt nhà đầu tư đã ngày càng đươc nâng cao hơn. Hình ảnh của một địa điểm đến của các nhà đầu tư lớn, các tập đoàn nổi tiếng trên thế giới như HATACHI, Sumidenso, Brother, UMC, IQLinks…Bên cạnh đó, Hải Dương cũng là một địa điểm tốt cho các nhà đầu tư thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Hiện nay, Hải Dương có 97/201 dự án ĐTNN đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh thu một số năm như sau: Năm 2000 đạt 52,9 triệu USD, chiếm 11,4%; Năm 2005 đạt 238 triệu USD, chiếm 30,2%; Năm 2007 đạt trên 680 triệu USD, chiếm 38,7% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh (toàn quốc tỷ trọng này đạt 35%). Các doanh nghiệp IQLinks, Makalot, Sumiden, Brother, UMC, Iriso,…hoạt động khá ổn định kể từ khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ có sự thành công của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cho nên ngày càng nhiều nhà đầu tư tìm đến địa bàn tỉnh để tìm hiểu cơ hội đầu tư.
Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt được những thành tựu trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đó là nhờ một phần sự giúp đỡ, hỗ trợ, hướng dẫn các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư của các cấp chính quyền của tỉnh, đặc biệt là Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương. Tỉnh cũng đã nhanh chóng thực hiện các chính sách đổi mới liên quan đến lĩnh vực đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào địa bàn tỉnh. Điều này góp phần tạo ra một môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh hấp dẫn giữ chân các doanh nghiệp và sẽ thu hút nhiều hơn nữa các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn tỉnh.
2.2.2. Thu hút vốn và phát huy lợi thế của tỉnh
Nguồn vốn FDI là một trong những nguồn vốn được thu hút nhằm bổ sung cho phát triển kinh tế trên địa bàn của tỉnh. Trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng vốn đầu tư xã hội của tỉnh. Bảng 2.4 dưới đây cho thấy rõ ràng hơn tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài chiếm trong tổng vốn đầu tư xã hội của tỉnh. Tỷ lệ vốn FDI thường chiếm một tỷ lệ cao (13,4% - 2008) ở đây cho thấy chính sách thu hút nguồn vốn này đã từng bước đạt được hiệu quả trên địa bàn tỉnh, các nhà đầu tư ngày càng quan tâm hơn đến việc thực hiện đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Bảng 2.4: Tỷ lệ vốn ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội tỉnh Hải Dương
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Năm
2005
2006
2007
2008
1. Vốn FDI
15,8
12,5
14,5
13,4
2. Vốn khác
84,2
87,5
85,5
86,6
Tổng vốn đầu tư xã hội
100,0
100,0
100,0
100,0
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương
2.2.3. Tạo việc làm, tăng thu ngân sách
Trong những năm qua, kinh tế Hải Dương phát triển nhanh chóng với sự đóng góp quan trọng của các dự án FDI. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt bình quân 10,8%/năm trong giai đoạn 2001-2005; trong năm 2006-2007 đạt trên 11%. GDP bình quân đầu người năm 2006 đạt 580 USD, dự kiến đạt 1.000 USD vào năm 2010 và 2.500 USD vào năm 2020. Bảng 2.5 dưới đây thể hiện đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các năm vào địa bàn tỉnh.
Bảng 2.5: Đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các năm
STT
Chỉ tiêu
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
1
Nộp NSNN
16,932 triệu USD
14,789 triệu USD
47,858 triệu USD
63,654 triệu USD
52,369 triệu USD
2
Tạo việc làm
14.090 lao động
22.928 lao động
31.704 lao động
43.826 lao động
32.278 lao động
3
Giá trị xuất khẩu
34,700 triệu USD
73,040 triệu USD
183,009 triệu USD
245,200
triệu USD
195,823 triệu USD
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương
Theo đó, giá trị nộp ngân sách mà các doanh nghiệp đóng góp có xu hướng tăng dần qua các năm. Tuy nhiên, năm 2005 giá trị nộp vào ngân sách so với năm trước thấp hơn là do các nhà đầu tư nước ngoài tăng số vốn đăng ký (160,647 triệu USD) nhưng số vốn thực hiện trong năm 2005 đạt giá trị thấp (7,055 triệu USD). Năm 2008, giá trị nộp vào ngân sách thấp hơn năm 2007 là do năm 2008 kinh tế của địa bàn suy giảm do chịu ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm hiệu quả kinh doanh, dẫn đến các khoản nộp vào ngân sách suy giảm.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại địa bàn tỉnh đã thu hút hàng ngàn lao động, giải quyết vấn đề việc làm cho nhân dân trên địa bàn tỉnh. Qua những năm gần đây, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên qua từng năm 14.090 lao động (2004), 22.928 lao động (2005), 31.704 lao động (2006), 43.826 lao động (2007), 32.278 lao động (2008).
Giá trị xuất khẩu qua các năm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tăng qua các năm gần đây thể hiện ở Bảng 2.3 trên. Tuy nhiên, riêng năm 2008 giá trị xuất khẩu có suy giảm (245,2 triệu USD) so với năm 2007 (195,293 triệu USD). Giá trị xuất khẩu năm 2008 thấp hơn là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, do đó, nhu cầu thị trường đối với mặt hàng xuất khẩu của địa bàn tỉnh cũng bị suy giảm.
Như vậy, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy, việc xúc tiến thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa bàn tỉnh là cần thiết.
3. Thực trạng công tác XTĐT nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh Hải Dương
3.1. Khái quát về Trung tâm XTĐT tỉnh Hải Dương
Trung tâm Xúc tiến đầu tư tỉnh Hải Dương là Trung tâm Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, Tư vấn và xúc tiến đầu tư. Trung tâm chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp, toàn diện của Sở Kế hoạch và Đầu tư, chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan có liên quan. Trung tâm có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản theo quy định của Nhà nước.
3.1.1. Chức năng, nhiệm vụ
Chức năng:
Trung tâm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, Tư vấn và xúc tiến đầu tư là đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo kinh phí hoạt động với chức năng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, tư vấn và xúc tiến đầu tư, tổ chức hoạt động dịch vụ về đầu tư thuộc mọi nguồn vốn và phát triển doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Nhiệm vụ: Nhiệm vụ chủ yếu của Trung tâm như sau:
Xây dựng, kế hoạch hoạt động của Trung tâm trình Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
Về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ:
+ Bồi dưỡng, đào tạo kiến thức quản lý doanh nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế hỗ trợ tư vấn cho chủ doanh nghiệp trong thành lập doanh nghiệp, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh và tổ chức, cơ cấu lại doanh nghiệp; xây dựng các mô hình phát triển lại các doanh nghiệp…
+ Tham gia xây dựng thể chế, chính sách và các chương trình trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; là đầu mối tiếp nhận, tổng hợp và phản ánh với cấp có thẩm quyền những kiến nghị của doanh nghiệp về cơ chế, chính sách của Nhà nước và của tỉnh;
+ Hướng dẫn, đào tạo doanh nhân trong thành lập doanh nghiệp theo mô hình các “Vườn ươm doanh nghiệp nhỏ và vừa”.
Về tư vấn đầu tư:
+ Tư vấn đầu tư xây dựng: tư vấn khảo sát; tư vấn thiết kế quy hoạch xây dựng; tư vấn thẩm định thiết kế cơ sở; tư vấn thiết kế xây dựng; tư vấn thiết kế bản vẽ thi công công trình dân dụng, công trình giao thông, công nghiệp, thuỷ lợi, công trình kỹ thuật, đường dây và trạm biến áp; tư vấn đấu thầu; thẩm tra thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán; tư vấn giám sát và quản lý dự án…
+ Tư vấn lập dự án đầu tư, tư vấn tiếp cận về các nguồn vốn phục vụ cho đầu tư…
Về xúc tiến đầu tư:
+ Thực hiện nhiệm vụ xúc tiến đầu tư do UBND giao;
+ Tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước để thu hút các dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh;
+ Tổ chức thu nhập, đánh giá để cung cấp thông tin về Kinh tế - xã hội, cơ hội đầu tư, thị trường, tiềm lực phát triển kinh tế của tỉnh phục vụ cho nhu cầu các doanh nghiệp và công tác thu hút đầu tư vào địa bàn tỉnh.
3.1.2. Cơ cấu tổ chức
Trung tâm Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, Tư vấn và xúc tiến đầu tư là một trong những phòng ban thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương. Cơ cấu tổ chức của Trung tâm được sắp xếp bao gồm: 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 8 cán bộ, nhân viên.
3.2. Trình tự xúc tiến đầu tư
Để có được hiệu quả cao trong hoạt động XTĐT thì cần phải thực hiện theo một trình tự hợp lý. Tuy nhiên, tùy vào từng dự án cụ thể thì cơ quan XTĐT thực hiện theo một trình tự linh hoạt. Nhìn chung, cơ quan XTĐT của tỉnh cũng đã thực hiện theo hoạt động XTĐT theo trình tự mẫu như sau:
Hỗ trợ nhà đầu tư triển khai
Quyết định đầu tư
Giử thư trực tiếp
Gọi điện
Bài thuyết trình
Thăm thực địa
Những hoạt động sau chuyến thăm
Sơ đồ 2.1: Trình tự xúc tiến đầu tư tại tỉnh Hải Dương
Ở đây ta có thể lấy ví dụ về trình tự XTĐT của cơ quan XTĐT Hải Dương đối với tập đoàn HITACHI Nhật Bản - một trong những tập đoàn đầu tư lớn của Nhật Bản và trên thế giới, chuyên sản xuất kinh doanh các sản phẩm điện tử, thiết bị điện và các sản phẩm khác đã có uy tín và thương hiệu trên thị trường quốc tế. Do nhu cầu cần mở rộng đầu tư, sau khi tìm hiểu thông tin về địa điểm đầu tư và được cung cấp các thông tin thông qua các công cụ XTĐT thì tập đoàn này đã chọn Việt Nam là địa điểm mở rộng đầu tư. Sau khi được cung cấp thông tin thông qua các bài thuyết trình do cơ quan XTĐT Hải Dương và sự chủ động tìm hiểu kỹ lưỡng địa điểm đầu tư cụ thể thì tập đoàn đã lựa chọn tỉnh Hải Dương để đầu tư. Tập đoàn này đã cử đại diện đi thăm thực địa, nghiên cứu kỹ lưỡng những thuận lợi, khó khăn và đã chọn địa điểm để triển khai dự án là trong KCN Tân Trường. Tập đoàn HITACHI đã quyết định đầu tư và bước tiếp theo cũng rất quan trọng đó là sự hỗ trợ nhà đầu tư triển khai dự án. Sự hỗ trợ trong việc hướng dẫn chuẩn bị thủ tục đầu tư để nhanh chóng nhận được Giấy chứng nhận đầu tư. Nhận được sự hướng dẫn, hỗ trợ về mặt thủ tục hành chính, ngày 21 tháng 3 năm 2008 Ban quản lý các KCN đã cấp Giấy chứng nhận cho Tập đoàn đầu tư vào KCN. Cho đến nay, trong quá trình thực hiện dự án thì tập đoàn này luôn nhận được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh và các cơ quan chức năng của tỉnh.
3.3. Nội dung xúc tiến đầu tư
3.3.1. Chiến lược, chương trình XTĐT của tỉnh Hải Dương
Hiện tỉnh vẫn chưa xây dựng chiến lược XTĐT. Tuy nhiên, dựa trên các văn bản Thủ tướng Chính phủ ban hành “Quy chế xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010” và Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia 2007, Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia 2008 Trung tâm XTĐT Hải Dương cũng xây dựng đã xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư cho riêng tỉnh mình. Tuy các chương trình XTĐT chưa được thể hiện thành các văn bản cụ thể nhưng trên thực tế các chương trình XTĐT của tỉnh đã thể hiện rõ về mục đích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua cách thức và phương pháp tiến hành XTĐT sử dụng các công cụ XTĐT như tham gia hội thảo, tham gia vào các đoàn đi vận động đầu tư.
3.3.2. Xây dựng hình ảnh
Trong thời gian qua, tỉnh đã có nhiều cố gắng góp phần tạo ra một môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Để tạo dựng hình ảnh của một địa phương hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thì hàng năm UBND tỉnh và các cơ quan chuyên môn của tỉnh (trong đó có CQXTĐT của tỉnh) tổ chức phối hợp thực hiện các hình thức quảng bá giới thiệu hình ảnh cùng tiềm năng và cơ hội đầu tư của tỉnh như cập nhật thông tin, in và phát hành tập san, tờ rơi, đĩa CD về phát triển kinh tế xã hội, thông tin giới thiệu môi trường đầu tư,…
Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương đã kết hợp tuyên truyền trên các trang thông tin điện tử của tỉnh, trong đó có trang tin liên quan đến XTĐT và hợp tác do Trung tâm quản lý, tại địa chỉ www.haiduong.gov.vn bằng cả hai thứ tiếng (tiếng Anh và tiếng Việt), được cập nhật tin tức thường xuyên và kết nối với nhiều Website lớn khác của Việt Nam. Ngoài ra, tỉnh còn tổ chức tuyên truyền trên các cơ quan thông tấn, báo trí lớn trong và ngoài nước theo định kỳ hoặc nhân các sự kiện quan trọng.
3.3.3. Xây dựng quan hệ đối tác và vận động đầu tư
Quan hệ đối tác
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương đã và đang nỗ lực hết mình hỗ trợ tối đa các nhà đầu tư trong việc tạo dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn mà cụ thể là đảm bảo các yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật, chính sách ưu đãi, thủ tục đơn giản nhanh chóng và thường xuyên tiếp xúc tháo gỡ những khó khăn cho các nhà đầu tư trong suốt quá trình triển khai dự án. Nhờ đó, tỉnh Hải Dương đã thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp và thu hút lượng vốn lớn các nhà đầu tư ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Vận động đầu tư
Một trong những hình ảnh thường gặp nhất của hoạt động XTĐT là 1 chuyên viên XTĐT tiếp xúc với nhà đầu tư tiềm năng để thảo luận, chỉ dẫn về các cơ hội đầu tư trên địa bàn tỉnh. Kết quả của vận động đầu tư là:
+ Tổ chức các đoàn tham gia các doanh nghiệp trong tỉnh hay dẫn các nhà đầu tư đi khảo sát thực tế tại một số địa điểm dựa trên việc nắm bắt nhu cầu của các nhà đầu tư. Và cả việc xây dựng mối quan hệ mật thiết và thống nhất giữa các địa phương với các cơ quan thông tin đại chúng cả trong và ngoài tỉnh để có tiếng nói chung về đầu tư. Trong thời gian qua, Hải Dương đã ban hành Danh mục dự án kêu gọi đầu tư giai đoạn 2008-2015, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư khi tìm hiểu môi trường đầu tư tại Hải Dương. Danh mục này được đưa ra ở Phụ lục 1.
+ Bên cạnh việc đón tiếp và làm việc với các đoàn nhà đầu tư từ các nước sang khảo sát, tìm hiểu cơ hội đầu tư cụ thể vào tỉnh thì các đoàn công tác của tỉnh cũng thực hiện các chuyến thăm một số nước kêu gọi các nhà đầu tư vào tỉnh. Trong năm 2008, hai đoàn công tác cấp cao của tỉnh Hải Dương do Lãnh đạo tỉnh dẫn đầu đã đi xúc tiến tại Hoa Kỳ và đã thu hút được dự án xây dựng cơ sở hạ tầng CCN Bắc Mỹ để thu hút vốn đầu tư của Bắc Mỹ của nhà đầu tư Hoa Kỳ, với diện tích 70ha.
3.3.4. Cung cấp dịch vụ và hỗ trợ cho các nhà đầu tư
Khi nhà đầu tư ra quyết định đầu tư thì đó không có nghĩa là mọi nhiệm vụ XTĐT đã chấm dứt. Thực ra, đó mới chỉ là sự bắt đầu công việc hỗ trợ các nhà đầu tư có bài bản và lâu dài. Việc hỗ trợ này cho phép trung tâm XTĐT tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư hiện có tại địa phương tăng quy mô theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu và các nhà đầu tư mới quyết định một cách nhanh chóng và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Hoạt động hỗ trợ, hướng dẫn đầu tư của Trung tâm XTĐT nhằm đạt mục tiêu sau:
Hỗ trợ dự án đầu tư từ đầu
Giữ chân các nhà đầu tư (khiến cho các nhà đầu tư hài lòng)
Mở rộng các dự án đầu tư hiện tại
Tạo cho các nhà đầu tư hài lòng, những người đã thực hiện thành công tại Hải Dương sẽ giúp Hải Dương quảng bá một cách trung thực và thực tế nhất cho các nhà đầu tư.
Để thực hiện một số mục tiêu trên thì có một số cơ chế chính sách hỗ trợ cụ thể được thực hiện tại Hải Dương là:
Công tác bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư: ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% chi phí bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng và tái định cư cho các hộ bị thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư (nhà đầu tư có thể ứng trước và được trừ dần vào tiền thuê đất)
Cơ chế khuyến khích các khu, cụm, điểm công nghiệp
Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào
Đơn giá thuê đất: Chủ đầu tư KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương được thuê đất thô theo mức giá thuê đất thô thấp nhất trong khung quy định của Chính phủ và Bộ Tài chính do UBND tỉnh Hải Dương ban hành.
Chi phí đào tạo nhân công: Tỉnh hỗ trợ tối thiểu 50% kinh phí đào tạo công nhân kỹ thuật, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề lao động là người của địa phương có hợp đồng dài hạn tại các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Hạ tầng kỹ thuật: Nhà đầu tư được cung cấp điện, nước (nơi có nhà máy nước) hoặc hỗ trợ xác định nguồn nước ngầm, xử lý nước thải, hỗ trợ cung cấp dịch vụ viễn thông đến hàng rào dự án đối với dự án trong cụm công nghiệp.
Cung cấp miễn phí thông tin: Nhà đầu tư được hướng dẫn và cung cấp miễn phí các thông tin cần thiết để khảo sát và lập dự án đầu tư, trừ các chi phí bắt buộc theo quy định.
Vận động khuyến khích đầu tư
Ngoài ra, Trung tâm XTĐT còn có các hướng dẫn đối với nhà đầu tư:
Khi đưa ra quyết định đầu tư tại địa bàn tỉnh thì nhà đầu tư rất cần sự hướng dẫn, giúp đỡ từ phía
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A9337.DOC