Tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU
Đường lối Đổi mới của Đảng tại Đại hội IV (12- 1986) đã mở ra một thời kỳ mới cho nền kinh tế Việt Nam - Thời kỳ hội nhập và phát triển. Sau 20 năm Đổi mới, hoà mình vào dòng chảy hội nhập, Việt Nam đã và đang dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của 63 tổ chức quốc tế (ASEM- 03/1996; APEC-11/1998; WTO- 01/2007...) và có mối quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Những kết quả đáng khích lệ này đã củng cố hơn nữa hệ thống chính trị, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, đồng thời tạo thế và lực trong hoạt động thương mại Việt Nam, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu.
Với nguồn tài nguyên phong phú “rừng vàng biển bạc” và điều kiện tự nhiên thuận lợi , Việt Nam mang trong mình lợi thế về các mặt hàng nông sản (gạo, chè, cà phê...). Việc tận dụng lợi thế này để tiến hành hoạt động xuất khẩu đã mang lại một nguồn thu lớn cho kinh tế cả nước, trong đó cà phê là một trong số các nguồn hàng xuất khẩu ...
45 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đường lối Đổi mới của Đảng tại Đại hội IV (12- 1986) đã mở ra một thời kỳ mới cho nền kinh tế Việt Nam - Thời kỳ hội nhập và phát triển. Sau 20 năm Đổi mới, hoà mình vào dòng chảy hội nhập, Việt Nam đã và đang dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của 63 tổ chức quốc tế (ASEM- 03/1996; APEC-11/1998; WTO- 01/2007...) và có mối quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Những kết quả đáng khích lệ này đã củng cố hơn nữa hệ thống chính trị, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, đồng thời tạo thế và lực trong hoạt động thương mại Việt Nam, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu.
Với nguồn tài nguyên phong phú “rừng vàng biển bạc” và điều kiện tự nhiên thuận lợi , Việt Nam mang trong mình lợi thế về các mặt hàng nông sản (gạo, chè, cà phê...). Việc tận dụng lợi thế này để tiến hành hoạt động xuất khẩu đã mang lại một nguồn thu lớn cho kinh tế cả nước, trong đó cà phê là một trong số các nguồn hàng xuất khẩu chủ lực.Vậy tác động của nó đến nền kinh tế như thế nào? Ngoài ra, Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê (sau Brazil) và đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu cà phê Robusta, song, giá cà phê vẫn cao, tiêu chuẩn chất lượng cà phê vẫn thấp hơn so với tiêu chuẩn trên thế giới... Điều đó đòi hỏi chúng ta cần tìm ra những biện pháp để mở ra hướng đi mới cho hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Từ những ý tưởng trên , dựa trên nguồn kiến thức đã tích luỹ, học hỏi và đặc biệt là nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Phan Thị Nhiệm đã giúp tôi hoàn thành đề án với tiêu đề:
“Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam”
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Lan Chi
NỘI DUNG
Chương I : Những vấn đề chung về xuất khẩu hàng hoá
I- Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá
1, Khái quát chung về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam.
* Xuất khẩu là một hoạt động nhằm bán hàng hoá và dịch vụ trong nước ra thị trường nước ngoài.Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản giúp gắn kết thị trường đơn lẻ của các nước lại với nhau, tăng cường thông thương buôn bán, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Hàng hoá - dịch vụ được đem đi xuất khẩu phải là những hàng hoá có lợi thế so sánh cao hơn các hàng hoá - dịch vụ khác về chất lượng , số lượng, khả năng cạnh tranh, giá cả... nó cũng phản ánh thế mạnh, nguồn lực tiềm năng của quốc gia xuất khẩu: ví dụ: Brazil đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê; Trung Quốc đứng đầu về xuất khẩu dệt may; OPEC đứng đầu về xuất khẩu dầu thô, Việt Nam đứng đầu về xuất khẩu gạo...
* Trong xu thế hội nhập hiện nay, hoạt động xuất khẩu càng có ý nghĩa quan trọng hơn nữa đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.Với Việt Nam , kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên với “tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm thời kỳ 1986-2005 là 21,2% cao gấp gần 2 lần tăng trưởng GDP” (Nguồn:Xuất khẩu hàng hoá Việt Nam 20 năm Đổi mới ).Với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu nhằm tạo động lực cho tăng trưởng , xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong GDP và xuất khẩu bình quân đầu người cũng không ngừng tăng lên qua các thời kỳ theo bảng số liệu sau:
Bảng 1: Xuất khẩu và GDP giai đoạn 1986-2005
86-90
91-95
96-00
01-05
Xuất khẩu BQ (triệu USD)
1406
3431
10365
22166
Tỷ trọng xuất khẩu so với GDP (%)
20.5
22.2
37.4
54.0
Xuất khẩu BQ/ người (USD)
18.1
43.6
129.9
274.0
Nguồn : Tổng cục thống kê
Theo bảng số liệu trên cho thấy trong hai thời kỳ sau (1996-2000)và (2001-2005) xuất khẩu bình quân tăng rất nhanh , giai đoạn 01-05 gấp 16 lần giai đoạn 86-90. Tỷ trọng xuất khẩu trong GDP ngày càng cao , giai đoạn 01-05 đã trên mức 50% đẩy cán cân thương mại của Việt Nam thoát khỏi thâm hụt, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
* Xuất khẩu của Việt Nam không chỉ tăng về số lượng mà còn không ngừng được cải thiện về chất lượng xuất khẩu.Tỷ lệ hàng hoá chế biến , tinh chế ngày càng cao trong tổng lượng hàng hoá xuất khẩu được thể hiện qua biểu đồ sau:
Hình 1: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến
Nguồn: Tổng cục thống kê
Theo nhận định của Tổng cục thống kê, sự gia tăng tỷ trọng xuất khẩu trong 2 giai đoạn đầu phản ánh sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu, song, 2 giai đoạn này, chúng ta đẩy mạnh công nghiệp chế biến phát triển nên các mặt hàng xuất khẩu phần lớn ở dạng thô. Nhưng trong hai giai đoạn sau, do tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, và tăng cường đầu tư vào ngành chế biến đã đẩy tỷ trọng hàng xuất khẩu đã tăng lên, cụ thể đến năm 2001- 2005 đã chiếm tỷ trọng cao hơn hàng xuất khẩu dạng thô.
Bên cạnh đó, cơ cấu hàng xuất khẩu phân theo ngành kinh tế cũng có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thể hiện định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH- HĐH) nền kinh tế.Cụ thể, cơ cấu hàng xuất khẩu theo ngành kinh tế qua các giai đoạn như sau:
Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo phân ngành kinh tế
(1986-2005)
Đơn vị: %
1986-1990
1991-1995
1996-2000
2001-2005
Hàng CN nặng & khoáng sản
16.0
30.4
31.4
33.1
Hàng CN nhẹ & TTCN
29.8
21.4
34.8
40.4
Hàng Nông sản & NS chế biến
35.7
31.5
22.7
15.3
Hàng Lâm sản
6.0
4.0
1.8
1.1
Hàng thuỷ sản
12.2
12.8
9.2
10.1
Nguồn : Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm Đổi mới
- Tổng cục thống kê
Nhận thấy, tỷ trọng hàng nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản có xu hướng giảm dần; tỷ trọng hàng công nghiệp có xu hướng tăng lên qua các giai đoạn. Trong giai đoạn đầu Đổi mới (1986-1990), do tác động của cơ cấu ngành kinh tế, tận dụng lợi thế về nông nghiệp song nền kinh tế mới được phục hồi nên sản xuất chưa chú trọng vào chất lượng sản phẩm, chủ yếu tập trung sản xuất hàng nông nghiệp xuất khẩu với số lượng nhiều nhờ kinh nghiệm kĩ thuật thủ công nên hàng nông nghiệp xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao 52,9% . Đến các thời kỳ sau , do chú trọng vào chất lượng , tập trung đầu tư vào kĩ thuật công nghệ, đặc biệt là công nghiệp chế biến đã thúc đẩy tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu, lên đến mức 73,5% gấp 1,6 lần giai đoạn 1986-1990.Điều quan trọng là tốc độ tăng bình quân hàng năm trong giai đoạn 1986-2005: đứng đầu là nhóm hàng công nghiệp khai thác (29,4%), tiếp theo là nhóm hàng công nghiệp chế biến (22,2%); hàng thủy sản (19,1%); hàng nông lâm sản (15,1%) và hàng lâm sản (11,9%). Đây là hướng đi đúng đắn trong công cuộc Đổi mới đất nước đặc biệt là Đổi mới nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010 thì hoạt động xuất khẩu sẽ mang lại 258,7 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân là 16% . Qua đó cho thấy tiềm năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam là rất lớn và hoạt động đó sẽ đóng góp ngày càng nhiều vào nguồn thu của Nhà nước. Qua đó cho thấy tiềm năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam là rất lớn và hoạt động đó sẽ đóng góp ngày càng nhiều vào nguồn thu của Nhà nước. Điều này cũng khẳng định rõ tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
2-Vai trò của xuất khẩu.
Những phân tích trên đã cho thấy xuất khẩu giữ một vai trò hết sức quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu làm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu. Khuyến khích xuất khẩu còn nhằm giải quyết việc làm, tăng thêm nguồn thu nhập cho người dân. Vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình CNH - HĐH đất nước. Cụ thể , vai trò của xuất khẩu được thể hiện dưới những khía cạnh sau:
- Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.Để phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn nhập khẩu máy móc, trang thiết bị kĩ thuật, công nghệ tiên tiến , hiện đại. Một trong các nguồn thu có được là nhờ xuất khẩu và cũng là nguồn quan trọng nhất. Xuất khẩu quyết định tốc độ và quy mô nhập khẩu. Đối với nước ta, trong thời kỳ 1986-1990 nguồn thu xuất khẩu đã đảm bảo trên 55% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, thời kỳ 1991-1995 là 75,3%; thời kỳ 1996-2000 là 84,5% và thời kỳ 2001-2005 là 85,17%
- Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế , thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất khẩu Việt Nam không phải là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do vượt quá nhu cầu tiêu thụ nội địa mà thực chất nhằm đặt ra mục tiêu sản xuất cao hơn đối với hàng hóa Việt Nam do coi thị trường thế giới là mục tiêu quan trọng để tổ chức sản xuất. Từ đó, chúng ta tổ chức lại hệ thống sản xuất, đẩu tư vào đầu vào sản xuất để nâng cao chất lượng đầu ra cả về số lượng, chất lượng và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chính quan điểm nhất quán đó đã tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tác động này được thể hiện ở chỗ:
+, Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi. Xuất khẩu phát triển làm tăng nhu cầu sản xuất , kinh doanh của những ngành có liên quan.
+, Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp cho sản xuất ổn định và phát triển vì có nhiều thị trường. Nhờ đó các doanh nghiệp trong nước cũng phân tán được rủi ro do cạnh tranh.
+, Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước.Việc mở rộng xuất khẩu làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu buộc họ phải tăng cường sản xuất sản phẩm theo chiều sâu, thích nghi với sự thay đổi của nhu cầu thị trường bên ngoài. Do vậy, chất lượng đầu vào sản xuất cũng phải cao lên.
+, Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn, mang khoa học kĩ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại từ bên ngoài vào trong nước nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới.
+, Thông qua xuất khẩu, hàng hóa sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị trường bên ngoài. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể đổi mới, hoàn thiện việc quản trị sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, nền kinh tế trở nên vững vàng, ổn định và có sức cạnh tranh cao hơn.
- Thứ ba, xuất khẩu còn tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội:
+, Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi gia tăng sản xuất hàng xuất khẩu; hoạt động này đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc, giảm bớt tình trạng thất nghiệp trong nước và tăng thu nhập cho người dân với mức thu nhập không thấp.
+, Xuất khẩu gia tăng làm tăng GDP, tăng thu nhập quốc dân làm tăng tiêu dùng nội địa. Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa càng tăng lên với chất lượng ngày càng cao. Việc xuất khẩu hàng hóa cũng tạo thêm nguồn vốn hỗ trợ việc nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân.
+, Xuất khẩu là cầu nối cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của quốc gia. Tăng cường xuất khẩu giúp chúng ta thiết lập thêm nhiều hơn quan hệ thông thương buôn bán giữa các quốc gia, từ đó làm gia tăng nguồn đầu tư, chủ động hơn trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo nên thế ngày càng ổn định về kinh tế.
3- Nhiệm vụ - phương hướng phát triển xuất khẩu.
*Nhiệm vụ
Với mục tiêu xuất khẩu nhằm bảo đảm cho nhập khẩu đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế , xuất khẩu cần phải chú trọng vào những nhiệm vụ sau:
- Xuất khẩu phải chú trọng vào việc khai thác một cách hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai , vốn, tài nguyên, lao động ...) phục vụ cho việc tổ chức sản xuất.
- Chúng ta cần phải nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
- Chúng ta cần phải tạo ra những mặt hàng , nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những nhu cầu thị trường thế giới và của khách hàng về số lượng cũng như chất lượng nhằm tạo lập niềm tin với khách hàng và mở rộng thị trường xuất khẩu.
* Phương hướng phát triển
Phương hướng phát triển nguồn hàng xuất khẩu phải được xem xét dựa trên xu thế phát triển thị trường , thực trạng và tiềm năng của nguồn lực...Cụ thể:
- Về cơ cấu hàng xuất khẩu: Chúng ta không chỉ chú trọng vào số lượng mặt hàng xuất khẩu mà còn cần chú trọng nhiều hơn nữa tới chất lượng hàng xuất khẩu. Cần chủ động gia tăng xuất khẩu những sản phẩm đã qua chế biến với lợi thế cạnh tranh cao, chú trọng tới nhóm hàng có hàm lượng khoa học công nghệ cao , giảm tỷ trọng hàng thô, đa dạng mẫu mã, tăng cường các hoạt động dịch vụ xuất khẩu.
Bảng 4: Dự kiến cơ cấu hàng xuất khẩu đến năm 2010
Nhóm hàng
Kim ngạch 2010
Tỷ trọng (%)
(triệu USD)
2000
2010
Nguyên vật liệu
1,750
20.1
3.5
Nông,thủy, hải sản
8,600
23.3
17.0
Chế biến, chế tạo
21,000
31.4
41.0
Sản phẩm CN cao
7,000
5.4
14.0
Hàng hóa khác
12,500
19.8
24.5
∑ kim ngạch XK HH
50,850
100.0
100.0
Xuất khẩu lao động
4,500
25.0
52.3
Du lịch
1,600
25.0
18.6
Một số ngành khác
2,500
50.0
29.1
∑ kim ngạch XK DV
8,600
100.0
100.0
Nguồn:Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam
- Hình thành các vùng sản xuất hàng xuất khẩu: Theo các nhà phân tích, ở Việt Nam sẽ hình thành các vùng sản xuất chính như sau:
+, Vùng Trung du miền núi phía Bắc: tập trung sản xuất các mặt hàng như chè, lâm sản, khoáng sản, thịt...
+, Vùng đồng bằng sông Hồng : thịt, cây công nghiệp ngắn ngày, rau quả...
+, Vùng khu IV cũ : thịt, cây công nghiệp ngắn - dài ngày, khoáng sản
+, Tây Nguyên: cà phê, cao su, dâu tằm, lâm sản...
+, Duyên hải miền Trung: thịt, lâm sản, thủy sản...
+, Đông Nam Bộ: cao su, cà phê, tiêu, điều, chăn nuôi thịt
+, Đồng bằng Nam Bộ: lúa gạo, thịt , thủy sản, cây ăn quả
+, Vùng biển và thềm lục địa: khai thác thủy sản và dầu, khí
+, Các thành phố: tập trung cho công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp nhẹ, công nghiệp cơ khí.
- Hình thành các ngành sản xuất then chốt:
+, Ngành sản xuất nông - ngư nghiệp.Chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản xuất : kinh tế vườn, thực phẩm chế biến, hải sản, lương thực, hạt có dầu, dầu ăn.
+, Ngành lâm nghiệp và đồn điền: gỗ và sản phẩm từ gỗ; cao su và sản phẩm cao su.
+, Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: may mặc và tơ tằm, những sản phẩm điện tử, đồ điện, cơ khí, công nghệ phần mềm....
+, Ngành dịch vụ xuất khẩu: ngành du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, các dịch vụ tài chính - ngân hàng...
II- Một số lý thuyết bàn về lợi ích của ngoại thương đối với phát triển kinh tế
1- Lý thuyết “Lợi thế tuyệt đối” của Adam Smith.
Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế học cổ điển người Anh. Ông là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương. Theo A.Smith “sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số hàng hóa và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”.Ông cho rằng các quốc gia khác nhau có thể sản xuất những loại hàng hóa khác nhau có hiệu quả hơn những thứ khác. Nếu thương mại không bị hạn chế thì lợi ích của thương mại quốc tế do thực hiện nguyên tắc phân công. Mọi người đều có lợi khi tập trung làm công việc sở trường của mình và dùng một phần số tiền kiếm từ việc bán sản phẩm ấy hay chính sản phẩm ấy để mua các hàng hóa khác mà mình có nhu cầu sử dụng. Điều đó có nghĩa to lớn khi ta áp dụng quan điểm đó với một quốc gia nghĩa là, sẽ tốt hơn khi mua hàng hóa của một quốc gia khác mà cung cấp hàng hóa đó với giá rẻ hơn là khi ta tự sản xuất.Điều này tạo ra nguồn thu nhập cho nước bán sản phẩm với giá rẻ đồng thời và nước mua sản phẩm đó sẽ có được sản phẩm rẻ hơn so với chi phí tự bỏ ra, tức là đã bù đắp được sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước. Do vậy, có thể thấy rằng lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương là lợi thế có được từ việc so sánh chi phí để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm giữa các quốc gia; và một nước sản xuất với chi phí cao hơn sẽ nhập sản phẩm đó từ một nước khác có chi phí sản xuất thấp hơn.
Theo A.Smith: “Các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hóa này sang quốc gia khác để đổi lấy sản phẩm mà nước ngoài sản xuất có hiệu quả hơn”. Như vậy, nhờ chuyên môn hóa sản xuất các quốc gia sẽ đạt được hiệu quả hơn do:
- Người lao động sẽ lành nghề hơn do lặp đi lặp lại cùng một thao tác nhiều lần
- Người lao động sẽ không phải mất nhiều thời gian chuyển từ việc sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác.
- Người lao động sau quá trình lao động dài với một công đoạn sản xuất giống nhau sẽ nảy sinh ra những sáng kiến, đề xuất nhằm cải tiến quy trình sản xuất mang lại hiệu quả sản xuất cao hơn.
Tuy nhiên, hạn chế của lý thuyết này chính là ở chỗ nó không cho phép giải thích hiện tượng khi một quốc gia có lợi thế hơn hẳn các quốc gia khác hoặc những quốc gia khác không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế là ở đâu? và thương mại quốc tế sẽ xảy ra như thế nào với các quốc gia này.
2- Lý thuyết “ Lợi thế so sánh” của David Ricacdo
David Ricacdo (1772 - 1823) là nhà duy vật , nhà kinh tế học người Anh. Ông đã đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh của hoạt động ngoại thương. Lý thuyết này được đánh giá cao hơn một bước trong việc khám phá ra cơ chế hình thành lợi ích ngoại thương. Theo ông, lợi ích thương mại vẫn diễn ra ở những nước có lợi thế tuyệt đối về tất cả các sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản lượng kém hiệu quả để sản xuất những sản phẩm có hiệu quả hơn. Nói cách khác , những lợi ích có được do chuyên môn hóa và ngoại thương mang lại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt đối. D.Ricacdo đã nghiên cứu lợi thế này dưới góc độ chi phí so sánh để sản xuất ra một sản phẩm.Chính vì vậy, ông khẳng định trong tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học” rằng bất cứ quốc gia nào cũng có thể thu được lợi khi tham gia vào quan hệ thương mại với nước ngoài. Trong “Học thuyết về lợi thế so sánh” của mình, ông đã đưa ra cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế:
- Mọi quốc gia đều có thể và rất có lợi khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế vì nó sẽ mở rộng khả năng tiêu dùng của quốc gia.
- Những nước có lợi thế hơn các nước khác hoặc kém về lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có thể và có lợi khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế vì các nước này có lợi thế so sánh nhất định.
- Thương mại quốc tế không yêu cầu sự khác nhau về lợi thế tuyệt đối, nó vẫn xảy ra khi có lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh tồn tại bất cứ khi nào mà tương quan về lao động cho mỗi sản phẩm khác nhau giữa hai hàng hóa.
Như vậy, tư tưởng chủ đạo của học thuyết này là mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh và nhập khẩu các mặt hàng mà họ bất lợi nhất. Dù đã có những tiến bộ vượt hơn quan điểm của A.Smith là xem xét hoạt động ngoại thương của quốc gia dưới góc độ lợi ích so sánh, song vẫn còn tồn tại những hạn chế cơ bản sau:
- Do không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước nên khi áp dụng học thuyết không thể xác định giá tương đối mà các nước dùng để trao đổi sản phẩm.
- Không đề cập đến các chi phí vận chuyển, bảo hiểm hàng hóa, hàng rào bảo hộ mậu dịch mà các nước thực hiện.
- Không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của một nước đối với một loại sản phẩm nên không giải thích được nguyên nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế.
3- Lý thuyết “ Tỷ lệ các yếu tố” của Hecksher - Ohlin
Để khắc phục những hạn chế của Ricacdo, hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Eli Hecksher (1919) và Peter Ohlin (1933) đã đưa ra cách giải thích mới về nguồn gốc của lợi thế so sánh. Theo hai ông, lợi thế so sánh của một quốc gia xuất phát từ sự khác biệt về mức độ có sẵn của các yếu tố sản xuất. Các yếu tố đó là đất đai, lao động và tư bản. Sự khác biệt về mức độ có sẵn của các yếu tố đó sẽ dẫn tới sự khác biệt về giá cả của chúng. Các yếu tố càng dồi dào thì giá của nó càng rẻ. Do vậy, giá cả của những hàng hóa sử dụng nhiều yếu tố sản xuất cũng rẻ hơn. Đồng ý kiến với Ricacdo khi cho rằng thương mại là có lợi , hai ông còn giải thích động thái thương mại xuất phát từ sự khác nhau về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Lý thuyết này cũng chỉ ra rằng sự khác nhau ở các nước về mối tương quan giữa lao động với đất đai hay vốn có thể giải thích sự khác biệt về chi phí các nhân tố. Nếu lao động dư thừa so với đất đai và vốn thì chi phí lao động sẽ thấp hơn chi phí đất đai và tiền vốn, ngược lại, nếu lao động khan hiếm hơn thì chi phí lao động sẽ cao hơn. Nhờ đó, các quốc gia có thể sử dụng các yếu tố dư thừa một cách hiệu quả tạo ra sản phẩm có giá rẻ hơn và đem xuất khẩu.Tuy nhiên, giá sản phẩm khác nhau không chỉ phụ thuộc vào sự khác biệt về giá cả các yếu tố đầu vào mà còn phải kể đến kỹ thuật sản xuất và sự phối hợp các yếu tố sản xuất.
III- Chiến lược xuất khẩu hàng hóa
Do cà phê là một loại mặt hàng xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô đặt trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam nên chiến lược được lựa chọn là chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô
Sản phẩm xuất khẩu thô là những sản phẩm nông nghiệp và những sản phẩm khai khoáng.Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô chủ yếu dựa vào việc sử dụng các nguồn lực sẵn có và các lợi thế của đất nước để tạo ra sản phẩm xuất khẩu thô với giá rẻ tiêu thụ ở thị trường bên ngoài. Chiến lược này áp dụng chủ yếu với các quốc gia đang phát triển có những hạn chế về trình độ sản xuất và khả năng tích lũy vốn.
1- Tác động tích cực của chiến lược đối với phát triển kinh tế
- Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô tạo điều kiện phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Chiến lược làm tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tăng tích lũy trong nước; đồng thời chiến lược còn giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng đội ngũ công nhân lành nghề từ đó làm tăng quy mô nền kinh tế.
- Chiến lược cũng tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Bên cạnh việc phát triển nông nghiệp còn cần chú trọng phát triển những ngành công nghiệp: công nghiệp khai khoáng, công nghiêp chăn nuôi ... và đặc biệt là công nghiệp chế biến phát triển làm tăng lượng sản phẩm thô xuất khẩu. Cùng với đó, các dịch vụ cũng được đẩy mạnh kích thích chuyển dịch cơ cấu.
- Chiến lược cũng góp phần tạo nguồn vốn ban đầu cho quá trình CNH. Xuất khẩu sản phẩm thô đem lại nguồn thu ngoại tế cho quốc gia, đây cũng là nguồn chủ yếu để tiến hành nhập khẩu hàng hóa - dịch vụ cần thiết phục vụ cho tiến trình CNH - HĐH đất nước.
2- Những hạn chế của nền kinh tế khi áp dụng chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô.
- Những trở ngại do cung - cầu sản phẩm thô không ổn định
+, Cung sản phẩm thô không ổn định do các sản phẩm thô chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như khí hậu, thời tiết, mùa vụ, thiên tai, hạn hán....
+, Theo phân tích trong “Giáo trình kinh tế phát triển - NXB Lao động thương binh xã hội” có hai nguyên nhân chính làm cho cầu sản phẩm thô biến động: Thứ nhất là quy luật tiêu dùng của Engel, quy luật xác định xu hướng tiêu dùng lương thực, thực phẩm cơ bản tăng chậm hơn mức tăng thu nhập. Quy luật này làm cho sản phẩm thô có xu hướng giảm. Thứ hai là do tác động của sự phát triển khoa học công nghệ (KHCN). KHCN phát triển làm giảm bớt hao phí đầu vào sản xuất đồng thời cũng tạo ra những nguyên vật liệu nhân tạo như cao su, nhựa, nilon .... Chính điều này cũng làm giảm nhu cầu sản phẩm thô.
- Trở ngại do giá sản phẩm thô có xu hướng giảm so với hàng công nghệ
Do tác động của tiến bộ KHCN, các sản phẩm thô có xu hướng ngày càng giảm giá so với những sản phẩm có chứa yếu tố công nghệ. Theo nghiên cứu của hai nhà kinh tế học Grilli và Yang về sự biến động giá cả của hai loại hàng hóa này trong giai đoạn 1900-1986 cho thấy giá của sản phẩm thô giảm bình quân 0,65%/năm so với sản phẩm công nghệ.
- Trở ngại do thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô biến động
Do cung - cầu sản phẩm thô luôn biến động nên sản lượng và giá cả sản phẩm thô cũng biến động theo. Do vậy, thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô cũng biến động. Do cung sản phẩm thô có độ co giãn cao nên tác động mạnh tới mức giá.Khi cung tăng làm cho sản lượng tăng, giá giảm nhưng mức giảm của giá lớn hơn mức tăng sản lượng nên thu nhập từ xuất khẩu giảm. Và ngược lại, với cung giảm, giá tăng lớn hơn sản lượng giảm nên thu nhập tăng nhưng không nhiều. Còn cầu sản phẩm thô luôn có xu hướng giảm nên giá và sản lượng đều giảm do vậy thu nhâp cũng giảm mạnh.
IV-Bài học kinh nghiệm đối với xuất khẩu cà phê Việt Nam
* Kinh nghiệm tổ chức sản xuất và xuất khẩu cà phê của Brazil
Brazil là một quốc gia có lịch sử trồng trọt, chế biến và tiêu thụ cà phê từ thế kỷ 17, phát triển mạnh từ thập kỷ 20 cho đến nay, Trước đây, cà phê chiếm tới 80% tổng thu nhập từ xuất khẩu, nhưng hiện nay chỉ còn là 20% do giá trị xuất khẩu của các ngành hàng khác tăng mạnh. Mặc dù vị trí của ngành cà phê giảm tương đối trong cơ cấu xuất khẩu, nhưng Brazil vẫn là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, với sản lượng tương đối ổn định. Thành tựu này đạt được một phần là nhờ nước này có hệ thống giám sát nguồn cung cà phê hiệu quả, để đưa ra thông tin và dự báo thị trường cà phê chính xác.
Dù điều kiện đất đai của Brazil không hẳn đã tốt hơn Việt Nam nhưng nhờ có giống tốt và đồng bộ, quy trình và kỹ thuật sản xuất và chế biến tiên tiến nên chất lượng cà phê của Brazil luôn cao và tạo uy tín với thế giới.
Ngành cà phê của Brazil có 4 nhóm tổ chức chính: Tổ chức của các nhà sản xuất (bao gồm các nhà sản xuất nhỏ lẻ và các hợp tác xã), Tổ chức của các nhà rang xay; Tổ chức của các nhà sản xuất cà phê hoà tan và tổ chức của các nhà xuất khẩu. Các tổ chức này cùng tham gia vào một quá trình làm việc khoa học bao gồm: (1) Thảo luận, hoạch định và thực hiện chính sách;(2) Xác định, điều chỉnh, giám sát và đánh giá nghiên cứu kỹ thuật cà phê;(3) Thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, tăng cường chất lượng cà phê.
Brazil xây dựng và phát triển hệ thống hợp tác xã ngành hàng cà phê hoạt động rất hiệu quả và nhịp nhàng. Sản xuất cà phê của các Hợp tác xã chiếm tới 35% tổng sản lượng cà phê của cả nước. Ngoài ra, Brazil còn có các tổ chức hỗ trợ khác như Nhóm các tổ chức nghiên cứu cà phê nhằm chịu trách nhiệm nghiên cứu và chuyển giao các vấn đề kỹ thuật cho cà phê .
Nhờ vậy, Brazil không chỉ đứng đầu về lượng cà phê xuất khẩu mà còn đứng thứ hai thế giới về lượng cà phê tiêu thụ , trong đó tiêu thụ nội địa chiếm gần 50% sản lượng sản xuất và không ngừng tăng lên qua các năm nhờ triển khai hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại toàn diện trong nước.
Qua những phân tích trên, ngành cà phê của Việt Nam cần chú trọng vào một số vấn đề sau:
- Tăng cường việc kiểm tra, giám sát chất lượng cà phê từ khâu trồng trọt đến chế biến, xuất khẩu bằng việc hướng dẫn và theo dõi thường xuyên.
- Đổi mới công nghệ, kỹ thuật chế biến, cải tiến máy móc thiết bị
- Chú trọng vào lĩnh vực lưu thông của cà phê xuất khẩu
- Đẩy mạnh sản lượng cà phê tiêu thụ trong nước
Chương II: Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam
I- Thực trạng sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê
1, Thực trạng sản xuất cà phê
Cây cà phê được đưa vào nước ta từ cuối thế kỷ XIX (1870) và đến thế kỷ XX mới được phát triển ở một số đồn điền của người Pháp. Lúc đó người ta trồng 3 loại cà phê: cà phê Arabica với chủng chủ yếu là Typica, cà phê Canephora với chủng Robusta, và cà phê Liberica với chủng Excelsa. Năm 1930 diện tích cà phê ở Việt nam có 5.900 ha, trong đó có 4.700 ha cà phê Arabica, 900 ha cà phê Excelsa và 300 ha cà phê Robusta. Quá trình trồng và phát triển cây cà phê được phân ra thành các thời kỳ như sau:
* Thời kỳ trước năm 1975: Đây là thời kỳ cây cà phê chủ yếu do các đồn điền của Pháp để lại và được trồng trong các nông trường quốc doanh ở miền Bắc. Thời kỳ này, diện tích trồng cà phê được mở rộng từ 5.900 ha (1930) đến 13.000 ha (1964 - 1966).Song, do cây cà phê chưa được chú trọng, do thiếu kiến thức khoa học, chưa có kinh nghiệm sản xuất, nhất là yếu kém trong tổ chức quản lý nên gây ra tình trạng sâu bệnh ở cà phê Arabica và sự không phù hợp về yếu tố tự nhiên với giống cà phê Robusta nên một phần lớn diện tích cà phê đã bị thanh lý. Chính vậy, sản lượng và năng suất cà phê không ổn định. Theo thống kê, cho đến năm 1975, cả nước có trên 13.000ha diện tích trồng cà phê với sản lượng 6.000 tấn cà phê nhân và năng suất bình quân chỉ đạt 4,61 tạ /ha.
* Thời kỳ 1975 - 1984: Cây cà phê được tập trung phát triển ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là Tây Nguyên với giống cà phê vối là chủ yếu .Đồng thời, các vườn cà phê cũ ở miền Bắc cũng được củng cố. Lúc này, ở Tây Nguyên, một mặt ta tổ chức trưng thu, trưng mua đồn điền cũ, một mặt mở rộng diện tích trồng mới trên cơ sở thành lập các nông trường quốc doanh. Trong thời kỳ này, cả nước đã trồng thêm được 12.000 ha, nhưng năng suất cà phê vẫn chưa cao, trung bình vẫn chỉ đạt mức 4-5 tạ/ha.
* Thời kỳ 1985 - 1994: Đây là thời kỳ cây cà phê phát triển mạnh gắn liền với sự ra đời của Công ty cà phê - ca cao Việt Nam ( nay là Tổng công ty cà phê Việt Nam). Do cơ chế mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã tiến hành hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa cũ như: Liên Xô cũ , Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Bungari, Tiệp Khắc nhằm tăng cường nguồn vốn đầu tư vào ngành cà phê. Nhờ vậy, diện tích, sản lượng và năng suất cà phê đã có bước tăng trưởng đáng kể.Cà phê Việt Nam bắt đầu góp mặt vào thị trường cà phê thế giới. Trong 10 năm qua, diện tích tăng gần 100.000 ha, năng suất tăng từ 4-5 tạ/ha lên 18 tạ/ha năm 1994. Sản lượng cà phê năm 1994 đạt 180.000 tấn, trong đó xuất khẩu được 165.000 tấn thu được 227 triệu USD.
* Thời kỳ 1995 đến nay: Đây là thời kỳ cây cà phê phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, tăng nhanh về diện tích, nâng cao năng suất và sản lượng cà phê, đặc biệt khối lượng cà phê xuất khẩu gia tăng mạnh mẽ. Sự tăng trưởng không ngừng sản lượng xuất khẩu đã đưa xuất khẩu cà phê Việt Nam lên vị trí thứ 2 thế giới. Số liệu cụ thể như sau:
Bảng 5: Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê nước ta
Năm
Diện tích (ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lượng (tấn)
1994
123,900
18.0
180,000
1995
186,400
21.8
218,000
1996
254,200
20.3
316,900
1997
340,300
24.1
420,500
1998
370,600
20.7
427,400
1999
477,700
22,8
553,200
2000
561,900
16.8
802,500
2001
565,300
20.0
840,600
2002
522,200
14.5
699,500
2003
513,700
15.8
793,700
2004
503,200
16.6
834,600
2005
497,400
15.1
752,100
2006
488,600
17.5
853,500
Nguồn:Tổng cục Thống kê
Từ bảng số liệu và thực tiễn phát triển của sản xuất cà phê nước ta trong hơn chục năm qua có thể thấy rằng:
- Về diện tích: Diện tích cà phê tăng nhanh, hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, có giá trị kinh tế cao và trở thành nước xuất khẩu cà phê vối hàng đầu thế giới
+ Diện tích cà phê tăng nhanh từ 123.900 ha (1994) lên tới mức cao nhất là 565.300 ha (2001) rồi giảm xuống mức 488.600 ha (2006). Như vậy, diện tích cà phê năm 2001 gấp 4,56 lần năm 1994, và năm 2006 gấp 3,94 lần năm 1994.Tốc độ tăng diện tích bình quân năm là 17,12%/năm. Sở dĩ, diện tích tăng nhanh như vậy là do một số nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết là những năm giữa của thời kỳ 1985-1994 là thời kỳ bội thu của cây cà phê. Hiệu quả sản xuất cà phê rất cao tới 38-40 chỉ vàng/tấn cà phê nhân (1986) tuy sau đó có giảm xuống nhưng vẫn tác động lớn đến việc mở rộng diện tích trồng cà phê. Thứ hai, do các chủ trương chính sách về cà phê đã tác động đến phong trào cà phê trong dân. Người dân tự bỏ vốn ra để phát triển cà phê. Thứ ba, do cây cà phê vối hoàn toàn phù hợp với điều kiện sinh thái của Tây Nguyên, đảm bảo năng suất cao, ổn định và không bị sâu bệnh.Tây Nguyên là vùng đất có đủ điều kiện để mở rộng diện tích do có diện tích lớn và dân cư thưa thớt. Cà phê phát triển cũng thu hút được người dân từ các nơi khác đến. Do vậy, diện tích cà phê không ngừng tăng lên đẩy sản lượng và năng suất không ngừng tăng.
+ Cây cà phê được phá triển ở 6 vùng (trừ Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long) và trên 28 tỉnh trong cả nước trong đó các vùng cà phê chính: Tây Nguyên chiếm 86,31%, Đông Nam Bộ (10,28%)...
+ Vùng sản xuất cà phê vối tập trung có điều kiện sinh thái phù hợp cho năng suất cao. Năm 2003, với diện tích trồng cà phê lớn, Tây Nguyên có sản lượng cà phê chiếm tới 45,43% về diện tích và 53,62% sản lượng cà phê cả nước.
- Về năng suất: Đây là thời kỳ có năng suất cao nhất đạt từ 15 đến 20 tạ/ha, cao nhất là năm 1999, đạt 22,8 tạ/ha. So với các nước có ngành cà phê phát triển mạnh như Brazil, Colombia, Indonesia ... Những thành tựu trên có được là do:
+ Việc lựa chọn phát triển giống cà phê vối ở các vùng phía Nam là hoàn toàn đúng đắn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên có khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ thích hợp, diện tích đất chưa sử dụng còn lớn.
+ Việc chọn và tạo giống cà phê tốt cho sản xuất đại trà như các dòng cà phê vối chọn lọc: 4/55; 1/20; 13/8 ... cho năng suất cao, cỡ hạt to. Ngoài ra chúng ta cũng chọn lọc ra được giống cà phê chè có năng suất cao và chống được bệnh gỉ sét như: cà phê Catimor, TN1, TN2...
+ Áp dụng phương pháp đốn tạo hình đơn thân trên cà phê vối, hãm ngọn nhiều lần, duy trì chiều cao vừa phải, sử dụng lượng phân bón thích hợp. Kết hợp dự trữ nước cho mùa khô, giảm lượng cây tán rộng nhằm tăng hấp thụ ánh sáng cho cây, góp phần nâng cao năng suất cà phê.
+ Áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong phòng trừ sâu bệnh cho cây, thâm canh, xen canh...
- Về sản lượng: Sản lượng cà phê không ngừng tăng cao trong những năm 2000, 2001 (sản lượng năm 2001 gấp 4,76 lần so với năm 1994) chủ yếu do diện tích trồng cà phê tăng lên trong giai đoạn này. Phần lớn cà phê Việt Nam được sử dụng vào mục đích xuất khẩu.
Như vậy, cây cà phê trở thành cây công nghiệp dài ngày chủ lực có giá trị kinh tế cao. Nó đã khẳng định được chỗ đứng và lợi thế so sánh so với các loại cây trồng khác. Sở dĩ vậy là do ngành đã thu hút được nhiều nguồn lực tham gia phát triển cây cà phê : từ Chính phủ, từ vốn đầu tư hợp tác của 5 nước XHCN cũ, từ địa phương, từ dân...
2- Thực trạng chế biến cà phê.
Do cà phê là được thu hoạch ở dạng quả tươi, nên sau khi thu hoạch cần tiến hành quy trình chế biến tạo ra cà phê nhân khô là sản phẩm chủ lực trong giao dịch.
* Tổ chức chế biến
Hiện nay, nước ta vẫn sử dụng hai phương pháp chế biến cà phê là chế biến ướt và chế biến khô. Chế biến nước là phương pháp chế biến dùng đến nước qua 3 cấp: Cấp quy mô hộ gia đình, cấp quy mô xã, cấp xưởng chế biến tập trung công suất lớn do các công ty nhà nước quản lý. Chế biến khô là phương pháp đơn giản hơn, cà phê đem phơi khô sau đó, xát vỏ và đánh bóng.
Trên thực tế, do tích lũy vốn trong dân đặc biệt là nông dân rất thấp nên ít hộ có đủ điều kiện để đầu tư tự chế biến. Theo khảo sát tháng 6/2003 ở Đắc Lắc, khoảng 26,7% hộ trung bình và 35,3% hộ giàu tự chế biến, hầu hết đều đi thuê. Ở những vùng cà phê phát triển nhất thì 74,1% hộ trung bình và 84% hộ giàu tự chế biến.
* Trang thiết bị chế biến
Sau năm 1975, trang thiết bị chế biến cà phê còn cũ kĩ, lạc hậu, chắp vá. Ở miền Bắc chỉ có một số xưởng chế biến của nông trường Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị được lắp đặt từ những năm 1960-1962 của Đức. Ở miền Nam cũng có một số đồn điền cà phê cũ với công suất nhỏ. Khi quy mô sản xuất cà phê được mở rộng, sản lượng tăng lên thúc đẩy quá trình đổi mới quy trình chế biến. Ta tiến hành đầu tư vào cơ sở , trang thiết bị, máy móc, dây chuyến phục vụ cho hoạt động chế biến sông vẫn mang tính sao chép.
Trong những năm gần đây, nhiều công ty, nông trường đã tiến hành xây dựng các cơ sở chế biến tiên tiến với công nghệ kỹ thuật hiện đại nhập từ bên ngoài (Đức , Brazil..). Tuy giá thành của chúng đắt nhưng lại mang lại hiệu quả sản xuất cao, nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam. Bên cạnh đó, việc xây dựng các cơ sở tái chế được quan tâm, chú ý bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực, cho năng suất cao, chất lượng cao hơn. Vấn đề chú trọng vào vấn đề giảm số lượng nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, đặc biệt trong điều kiện cung vượt quá cầu. Do vậy cần hết sức chú trọng vào khâu chế biến, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng của cà phê và loại bỏ cà phê có chất lượng thấp.
3- Thực trạng xuất khẩu cà phê
Cà phê là mặt hàng có giá trị giao dịch quốc tế lớn thứ hai sau dầu mỏ. Ở nước ta, cà phê là loại nông sản xuất khẩu có giá trị lớn thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm khoảng gần 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Niên vụ 2005-2006, cà phê Việt Nam đã được xuất khẩu sang 71 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có 10 nước đứng đầu cụ thể theo bảng sau:
Bảng 6: 10 nước nhập khẩu cà phê VN hàng đầu niên vụ 2005-2006
STT
Nước nhập khẩu
Khối lượng
Trị giá
Giá bình quân
Thị phần
(kg)
(USD)
(USD/kg)
(%)
1
Đức
114,382,986
123,556,217.57
1.08
14.57
2
TBN
88,526,631
95,978,804.50
1.08
11.28
3
Hoa Kỳ
87,931,685
86,829,730.95
0.99
11.2
4
Italia
56,123,382
62,641,146.08
1.12
7.15
5
Ba lan
40,495,644
45,027,200.04
1.11
5.16
6
Hàn Quốc
38,491,394
41,282,412.76
1.07
4.9
7
Nhật
31,133,034
36,638,648.12
1.18
3.97
8
Anh
25,865,756
26,627,078.49
1.03
3.29
9
Bỉ
21,667,934
24,141,153.20
1.11
2.76
10
Pháp
18,720,491
20,249,119.82
1.08
2.38
Nguồn: Báo cáo “ Ngành cà phê Việt Nam- hiện trạng& triển vọng” (
Tình hình xuất khẩu cà phê nước ta trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Năm
Khối lượng xuất khẩu (tấn)
Kim ngạch xuất khẩu (1000 USD)
Giá xuất khẩu TB (USD/tấn)
1994
165,000
227,000
1376
1995
212,000
560,000
2642
1996
233,000
423,000
1815
1997
346,000
414,000
1197
1998
385,000
602,000
1564
1999
404,000
555,000
1374
2000
654,000
538,000
823
2001
875,000
382,000
437
2002
714,000
263,000
368
2003
691,000
428,000
619
2004
974,500
641,000
632
Nguồn: VIFACO, Bộ Công Thương
Hình 2: Biến động kim ngạch và giá xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004
Nguồn:VIFACO, Bộ Công Thương
Xuất khẩu cà phê nước ta tăng nhanh từ 165.000 tấn năm 1994 đến 875.000 tấn năm 2001 và sau đó giảm xuống đến năm 2003 chỉ còn 691.000 tấn; đến năm 2004 lại tăng lên đến 974.500 tấn.Như vậy, khối lượng cà phê xuất khẩu so với năm 1994, gấp 5,3 lần, năm 2004 so với năm 1994 gấp 5,91 lần. Tốc độ tăng sản lượng cà phê xuất khẩu bình quân giai đoạn 1994 -2004 là 19,43%/năm. Cho đến năm 2006, khối lượng cà phê xuất khẩu là 981.000 tấn, tăng 9,9% về lượng và trị giá là 1,22 tỷ USD, tăng 65% so với cùng kỳ năm 2005, tăng 0,7% so với năm 2004.
Bảng 8: Sản lượng cà phê xuất khẩu trong thời kỳ 1986-2005
1986-1990
1991-1995
1996-2000
2001-2005
Sản lượng(nghìn tấn)
230
757
2273
4270
Giá trị (triệu USD)
343
1207
2598
2594
Nguồn:Tổng cục thống kê
Qua số liệu cho thấy sản lượng cà phê xuất khẩu ngày một tăng lên qua các giai đoạn .Sản lượng giai đoạn 2001-2005 gấp 18,57 lần sản lựong giai đoạn 1986-2000. Về giá trị xuất khẩu, giá trị này không ngừng tăng lên qua các thời kỳ và có xu hướng ổn định ở hai thời kỳ cuối.Như vậy, trong tương lai, xuất khẩu cà phê sẽ còn tăng lên do được đầu tư nhiều hơn vào quy trình sản xuất - chế biến cà phê
Kim ngạch xuất khẩu cà phê cũng tăng mạnh, nhưng không theo tốc độ tăng của sản lượng vì sự biến động của giá xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu cao nhất là 602 triệu USD năm 2004, gấp 2,65 lần năm 1994. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004 là 10,94%/năm. Đến năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,1 tỷ USD, gấp 1,7 lần so với năm 2004. Điều đó cho thấy giá trị cà phê xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng mạnh, đồng thời, giá cà phê cũng nhích lên chút ít so với năm trước. Chính do sự biến động giảm mạnh giá xuất khẩu trong giai đoạn 1994-2004 là nguyên nhân khiến cho tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng của lượng cà phê xuất khẩu, bằng 56% tốc độ tăng sản lượng xuất khẩu. Cụ thể, giá cà phê giảm mạnh từ 1377 USD/tấn năm 1994 xuống còn 619 USD/tấn năm 2003 và 623 USD/tấn năm 2004; tức là tốc độ giảm giá bình quân giai đoạn 1994-2004 là 7,49%/năm. Đến năm 2006, giá cà phê xuất khẩu là 1183,7 USD/tấn, gấp 1,9 lần năm 2004. Điều đó cho phép chúng ta kỳ vọng vào giá cà phê của Việt Nam trong tương lai đặc biệt là trong điều kiên hội nhập kinh tế Việt Nam - thế giới hiện nay. Song, thực tế giá xuất khẩu cà phê Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động của giá cà phê thế giới theo xu hướng ngày càng thu hẹp khoảng cách với giá thế giới. Đến niên vụ 2006/2007 bắt đầu từ tháng 10/2006 đến tháng 9/2007, sản lượng cà phê xuất khẩu đã tăng vượt bậc với 1,28 triệu tấn với trị giá xuất khẩu gần 1,9 tỷ USD đã đưa cà phê là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên, sự tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu không phải do chất lượng cà phê xuất khẩu tăng lên mà chủ yếu là do sự tăng lên của giá cà phê thế giới.
Bên cạnh đó, giá cà phê xuất khẩu còn chịu tác động bởi:
+ Cơ cấu sản phẩm cà phê xuất khẩu của ta chủ yếu là cà phê Robusta. Đây là loại cà phê có giá trị thấp hơn cà phê Abirica rất nhiều nên làm cho giá thành xuất khẩu giảm
+ Chất lượng cà phê nhân của nước ta chưa đồng đều , không cao do khâu chăm sóc chưa thực sự hiệu quả. Nhiều người dân trồng cà phê không đủ vốn đầu tư chăm sóc, nên chất lượng quả không cao, khi thu hoạch lại hái lẫn nhiều quả xanh, sau khi thu hoạch, chủ yếu chế biến theo phương thức thủ công nên độ khô của cà phê chưa được đồng đều và chưa đạt tiêu chuẩn. Và cũng do hạn chế về trình độ và vốn nên vấn đề bảo quản, đóng gói, vận chuyển còn chưa được chú trọng nhiều dẫn đến chất lượng cà phê Việt Nam khi đến thị trường nhập khẩu sẽ giảm rất nhiều về chất lượng, do đó giá thành bị giảm nhiều.
+ Công tác xúc tiến thương mại , quảng bá thương hiệu, khai thác bạn hàng ... còn hạn chế. Tuy hai năm gần đây, chúng ta đã có những chuyển biến trong giao dịch thương mại nhất là thương mại điện tử theo các hợp đồng kỳ hạn. Nhờ vậy, cà phê Việt Nam càng có nhiều cơ hội vươn xa hơn nữa .
Theo các nhà phân tích, giá xuất khẩu cà phê ở Việt Nam luôn thấp hơn giá thế giới và bám sát với biến động giá thế giới .Điều đó cho thấy rằng ngành cà phê Việt Nam luôn gắn chặt với thương mại cà phê quốc tế .
Bảng 9: Giá xuất khẩu cà phê của một số nước trên thê giới năm 2001
Quốc gia
Cent/lb
Loại cà phê
Hệ số giá so với VN
Inđonêxia
41,94
Vối
1,01
Việt Nam
41,39
Vối
1,00
Ấn Độ
53,01
Vối
1,28
Thái Lan
38,2
Vối
0,92
Uganda
60,38
Vối
1,46
Braxin
96,71
Chè
2,34
Mêxico
91,97
Chè
2,22
Ethiôpia
83,62
Chè
2,02
Columbia
96,73
Chè
2,34
Nguồn: Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO)
Quy trình chọn giống- trồng trọt - chăm sóc - thu hoạch - chế biến - xuất khẩu là một quy trình dài đòi hỏi tính hiệu quả, nhất quán với nhau. Song thực tế Việt Nam, quy trình này còn rất nhiều bất cập nên giá cà phê xuất khẩu thường thấp và chất lượng cà phê xuất khẩu cũng chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Một nguyên nhân nữa làm cho chất lượng cà phê Việt Nam thấp hơn thế giới là do tiêu chuẩn cà phê Việt Nam còn thấp hơn tiêu chuẩn của thế giới
Bảng 10: Tiêu chuẩn chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
STT
Tiêu chuẩn
Nội dung
1-
TCVN 6929:2001
(ISO 9116-1992)
Cà phê nhân - Hướng dẫn phương pháp mô tả các
quy định
2-
TCVN 6928:2001
(ISO 6673-1983)
Cà phê nhân - Xác định sự hao hụt khối lượng ở
105oC
3-
TCVN 4807:2001
(ISO 4150-1991)
Cà phê nhân- Phương pháp xác định cỡ hạt bằng
sàng tay (Soát xét lần 2- Thay thế TCVN 4807-89)
4-
TCVN 4334-2001
(ISO 3509-1989)
Cà phê & các sản phẩm của cà phê - Thuật ngữ và
định nghĩa (Soát xét lần 1- Thay thế TCVN 4334-86)
5-
TCVN 4193:2001
Cà phê nhân - Yêu cầu kỹ thuật
(Soát xét lần 3 - Thay thế TCVN 4193:1993)
Nguồn: VIFACO
Người dân trồng cà phê thường có thói quen thu hái tổng hợp hạt xanh lẫn hạt chín, phơi và cất giữ thủ công khiến chất lượng giảm. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng tiêu chuẩn cho cà phê xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Là thành viên của Tổ chức Cà phê thế giới (ICO) gồm 25 nước, chiếm 73,1% lượng cà phê xuất khẩu toàn cầu phải tuân thủ những tiêu chuẩn về cà phê XK, nhưng Việt Nam hiện lại nằm trong số 26,9% lượng cà phê không tuân thủ tiêu chuẩn nào của Tổ chức Cà phê thế giới. Điều này khiến cho “Việt Nam trở thành nước chuyên xuất khẩu “xô” cà phê” ( Theo Bộ Tài Chính). Bởi hàng xấu, hàng tốt trộn lẫn rồi bán với giá thấp. Do vậy, cà phê Việt Nam bị thải loại ở các cảng châu Âu là trên 1 triệu bao, chiếm 73,32% lượng cà phê bị thải loại của thế giới. Niên vụ 2006/2007 vừa qua tuy kim ngạch đạt tới con số kỷ lục 1,9 tỷ USD, song, chúng ta không thể không nhắc đến hàng trăm triệu USD mất đi do hàng kém chất lượng. Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam phân tích, nguyên nhân chủ yếu là cũng do việc thu hoạch cà phê không đúng tiêu chuẩn. Do chúng ta thu hoạch theo kiểu hái sạch , hái hết quả trên cây, nên rất nhiều quả cà phê xanh chưa đủ độ chín đã được thu hoạch, làm giảm chất lượng chung của cà phê. Khi cà phê được giá, các nơi trồng cà phê vội vàng bán tống, bán tháo mà không cần quan tâm đến chất lượng hàng bán ra. Không chỉ hạn chế chất lượng do thu hoạch không chọn lọc, việc chế biến cà phê cũng gặp rất nhiều khó khăn. Do diện tích phơi không đủ nên cà phê sau khi thu hoạch thường chất đống, mặt khác cà phê được phơi tiếp xúc với mặt đất nên độ khô của hạt cà phê không đều. Với cà phê thu hoạch sớm, sau khi phơi khô sẽ bị teo nhỏ, nhăn nheo. Hơn nữa, cà phê Việt Nam thường chế biến theo phương pháp gia công nên màu sắc hạt cà phê không bóng, không đều , dễ bị vỡ vụn. Chính vì vậy, chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam rất thấp , mỗi năm việc thu hoạch cà phê non đã làm giảm tới gần 30% sản lượng cà phê xuất khẩu, tức đã giảm mất hàng trăm triệu USD từ giá trị cà phê xuất khẩu thu về.
Tuy nhiên, cà phê Việt Nam vẫn giữ vững được mức sản lượng xuất khẩu cao thứ hai trên thê giới. Điều đó cho thấy tiềm năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam so với các nước khác trên thế giới là cao. Những thuận lợi tạo nên khả năng cạnh tranh cho hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam là:
+ Với nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là người lao động ở nông thôn, nên giá lao động của Việt Nam rẻ hơn nhiều so với các nước khác trên thế giới. Điều này đã góp phần làm giảm chi phí sản xuất cà phê, giảm giá thành sản phẩm đồng thời đem lại năng suất lao động cao.
+ Năng suất cà phê cao nhờ được thiên nhiên ban tặng một vùng đất đai rộng lớn, khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho cây cà phê phát triển. Kết hợp với việc sử dụng nhiều phân bón và nước tưới đã càng thúc đẩy năng suất sản lượng tăng lên với năng suất bình quân là 1,3 tấn/ha, thậm chí, nhiều hộ còn đạt 4-5 tấn/ha. Trong khi ở một số nước ở Châu Phi và Indonesia chỉ đạt 0,3- 0,35 tấn/ha; Brazil và Ấn Độ đạt 0,8 tấn/ha.
+ Chi phí vận chuyển cà phê tới các cảng xuất khẩu ở nước ta là thấp. Do lợi thế về địa lý, chiều rộng hẹp, lại tiếp giáp với biển Đông nên khoảng cách vận chuyển từ nơi sản xuất cà phê tới các cảng đều ngắn, giảm thiểu chi phí đầu vào sản phẩm, giảm bớt được những rủi ro về chất lượng trong quá trình vận chuyển.
+ Hệ thống chính sách của Chính Phủ Việt Nam đối với ngành cà phê thông thoáng tạo môi trường bình đẳng cho các đơn vị tham gia sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê. Theo một số nghiên cứu khác, so với các nước trồng cà phê khác, nông dân trồng cà phê ở Việt Nam là những người được nhận tỷ lệ mức giá cao nhất so với mức giá xuất khẩu. Mức giá bán cà phê tại hộ năm 2002 bằng 94% so với mức giá xuất khẩu ở Việt Nam
Về chủng loại cà phê xuất khẩu; chủ yếu chúng ta vẫn xuất khẩu cà phê nhân khô, cà phê nguyên liệu. Những loại cà phê đã qua chế biến như cà phê rang xay, cà phê hòa tan chưa được chú trọng tới trong hoạt động xuất khẩu. Do vậy, cà phê Việt Nam xuất khẩu nhiều nhưng vẫn chưa được ưa chuộng. Năm 2003, xuất khẩu cà phê rang xay và cà phê hòa tan của nước ta chỉ chiếm 0,43% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê. Bên cạnh đó, cà phê Việt Nam sản xuất chủ yếu để xuất khẩu. Trên thị trường cà phê nước ta có rất nhiều loại cà phê: cà phê vỏ tươi, cà phê khô, cà phê nhân xô, cà phê nhân xuất khẩu, cà phê rang xay, cà phê hòa tan. Vậy nên, hầu hết chúng ta chỉ tập trung vào sản xuất những loại cà phê có giá trị xuất khẩu cao, vì thế, thị trường cà phê trong nước chưa được chú trọng đến nhiều, còn rất nhỏ lẻ. Do đó, sự phát triển của ngành cà phê phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu cà phê có thuận lợi hay không.
II- Thực trạng tiêu thụ cà phê Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, phần lớn cà phê của Việt Nam được sản xuất với mục đích xuất khẩu nên thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam phần lớn là ở bên ngoài. Do quá chú trọng vào việc xuất khẩu cà phê nên cầu của ngành hàng này dường như chỉ dựa vào thị trường tiêu thụ nước ngoài mà quên đi mất tầm quan trọng của thị trường tiêu thụ trong nước. Bình quân năm 2002, mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 1,25kg cà phê; giá trị tiêu thụ cà phê trung bình là 9130 đ/người/năm.Theo Vicofa, lượng cà phê tiêu thụ nội địa năm 2003 chiếm khoảng 4,4% tổng sản lượng. Theo điều tra của WB lại cho biết, tiêu thụ cà phê trong nước chiếm khoảng 10% tổng sản lượng. Còn theo VLSS 2004, lượng tiêu thụ trong gia đình các loại cà phê đã chế biến chiếm khoảng 2% tổng sản lượng xuất khẩu. Sở dĩ, có các kết quả nghiên cứu khác biệt như vậy là do chưa có nguồn số liệu thống kê thống nhất về sản lượng cà phê tiêu thụ trong nước. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đễn những khó khăn trong phân tích thị trường tiêu thụ ngành hàng này.Cho đến năm 2006, nước ta đã xuất khẩu gần 900.000 tấn cà phê nhân, đạt kim ngạch xuất khẩu là 1,5 tỷ USD, song thị trường tiêu thụ cà phê trong nước vẫn chưa có chút tiến triển đáng kể nào thể hiện rõ được tầm quan trọng của thị trường này, chỉ chiếm 5% tổng sản lượng. Dù không thống nhất về số liệu thống kê song chúng ta vẫn có thể khẳng định thị trường tiêu thụ cà phê nội địa của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với thế giới. Bình quân mỗi năm, các nước thuộc tổ chức cà phê thê giới (ICO) tiêu thụ nội địa được khoảng 25,16% sản lượng. Vậy nguyên nhân mất cân bằng giữa các thị trường tiêu thụ là do đâu? Thiết nghĩ, đó là do chúng ta chưa có sự quan tâm đúng mực, chưa có sự đấu tư thích đáng vào thị trường trong nước để mở rộng quy mô tiêu thụ cà phê. Thứ hai, đó là do tâm lý người dân Việt Nam , chủ yếu là ở nông thôn, ít có cơ hội để tiếp cận sự phổ biến của cà phê trong văn hóa Phương Đông, họ chưa quen với việc coi uống cà phê là một thức uống hàng ngày. Mặt khác, nhiều người không đủ điều kiện để thưởng thức cà phê hàng ngày, và thậm chí nhiều người không dùng cà phê vì họ thấy uống cà phê không tốt cho sức khỏe... Thứ ba là do chúng ta chưa có một chiến lược maketing sản phẩm đến người tiêu dùng trong nước một cách đồng bộ, hiệu quả, đầy đủ. Do vậy, ngoài vấn đề tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê, chúng ta cần chú trọng nhiều hơn nữa tới việc tăng cầu tiêu thụ cà phê trong nước. Đó mới là nguồn tiêu thụ bền vững của mỗi quốc gia, nhất là thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam luôn có “nhạy cảm” với các cuộc khủng hoảng.
Như đã phân tích, tiêu thụ cà phê trong nước giữa thành thị và nông thôn có sự khác biệt lớn. Lượng tiêu thụ bình quân đầu người của thành thị năm 2002 là 2,4kg cao gấp 2,72 lần tiêu thụ của nông thôn là 0,89 kg. Trong khi đó, giá trị tiêu thụ bình quân đầu người của thành thị đạt 20.280 đồng, cao gấp 3,5 lần mức của nông thôn
Hình 3: Lượng (kg/người) và giá trị (nghìn đồng/người) tiêu thụ cà phê bình quân đầu người nông thôn và thành thị năm 2002
Nguồn: Theo Điều tra mưc sống dân cư năm 2002
Sở dĩ, có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn là do giá cà phê ở thành thị cao hơn ở nông thôn không chỉ do mức sống thành thị cao hơn mà còn do chất lượng cà phê thành thị tốt hơn. Hơn nữa, thu nhập ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn nên tiêu dùng cũng cao hơn.
Không chỉ có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn trong tiêu dùng cà phê mà giữa các nhóm người có thu nhập khác nhau thì tiêu dùng cà phê cũng khác nhau.Tiêu thụ cà phê bình quân đầu người tăng dần từ nhóm có thu nhập thấp nhất đến nhóm có thu nhập cao nhất. Trong đó, lượng tiêu thụ cà phê của nhóm 5 cao hơn nhóm 1 đến gần 18 lần, tuy nhiên, giá trị tiêu thụ chỉ chênh lệch khoảng gần 9 lần. Như vậy, tiêu thụ cà phê có xu hướng thay đổi theo thu nhập thể hiện ở hình dưới đây:
Hình 4: Tiêu thụ cà phê đầu người theo nhóm thu nhập năm 2002
Nguồn: Theo Điều tra mức sống dân cư 2002
Tiêu thụ cà phê trong nước còn không đồng đều giữa các vũng lãnh thổ. Cụ thể:
Hình 5: Tiêu thụ cà phê đầu người theo vùng của Việt Nam năm 2002
Nguồn: Theo Điều tra mức sống dân cư 2002
Theo biểu đồ cho thấy, hầu hết các vùng trong cả nước đều tiêu thụ cà phê nhưng sản lượng và giá trị tiêu thụ rất khác biệt. Duyên hải Nam Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là 3 vùng có lượng tiêu thụ lớn nhất cả nước. Vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Đồng Bằng sông Hồng tiêu thụ rất ít cà phê, thậm chí khu vực Tây Bắc hầu như không tiêu thụ với mức tiêu thụ bình quân đầu người chỉ có 0,03 kg/năm. Lượng tiêu thụ cà phê ở khu vực Tây Nguyên nhiều thứ 4 trên cả nước nhưng vẫn ở mức thấp so với 3 khu vực đứng đầu.
Giá trị tiêu thụ của các khu vực diễn biến không hoàn toàn giống như lượng tiêu thụ. Đặc biệt là ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, mặc dù lượng tiêu thụ đầu người rất cao (1,5kg/người/năm) nhưng giá trị tiêu thụ chỉ đạt 6.230 đ/người/năm. Trong khi ở Tây Nguyên, các con số này lần lượt là 0,28 kg và 4.150đ. Một trong những nguyên nhân giải thích hiện tượng này là ở Tây Nguyên chủ yếu tiêu thụ các loại cà phê bột, có chất lượng cao, với lượng cà phê bột tiêu thụ ở khu vực này cao thứ 3 cả nước (0,12 kg/người/năm) so với mức 0,08kg của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.
Như vậy, cho thấy sản lượng và giá trị tiêu thụ cà phê trong nước còn quá ít và không đồng đều, trong khi theo WB phân tích với thực trạng sản xuất cà phê của Việt Nam với sản lượng khoảng từ 700 - 800 nghìn tấn thì lượng cà phê tiêu thụ trong nước có thể chiếm 10% tổng sản lượng. Vậy mà cho đến nay, khi trong khi sản lượng cà phê sản xuất ra đã trên 1 tỷ tấn nhưng tỷ trọng tiêu thụ nội địa mới chỉ đạt tới khoảng 5% tổng sản lượng. Điều đó đặt ra cho chúng ta vấn đề làm thế nào để đẩy mạnh tiêu thụ cà phê trong thị trường nội địa...
Chương III: Tác động của hoạt động xuất khẩu cà phê tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam
I- Tác động kinh tế của hoạt động xuất khẩu cà phê
Như đã phân tích, cây cà phê là một giống cây phù hợp với điều kiện tự nhiên của Việt Nam, cho năng suất cao và có giá trị kinh tế lớn. Nó đem lại nguồn thu lớn cho quốc gia từ hoạt động xuất khẩu. Hầu hết sản lượng cà phê thu hoạch đều được sử dụng vào mục đích xuất khẩu (chiếm khoảng 95% tổng sản lượng). Chính vì thế, cà phê Việt Nam đứng thứ hai thế giới về sản lượng xuất khẩu cũng là mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 cả nước sau gạo.
Hình 6: Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu
Nguồn: Tổng cục thống kê
Với lượng xuất khẩu lớn như vậy, cà phê đã đem lại một nguồn thu lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Lượng cà phê xuất khẩu càng nhiều thì nguồn thu từ xuất khẩu càng lớn, xuất khẩu tăng đẩy cán cân thương mại lên làm tăng tổng thu nhập quốc dân và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tác động đó được thể hiện rõ bảng sau:
Bảng 11: Xuất khẩu cà phê với tổng kim ngạch xuất khẩu và GDP
Các giai đoạn
Giá trị XKCPBQ
( triệu USD)
Tỷ trọng trong tổng
kim ngạch XK (%)
Tỷ trọng trong GDP
(%)
1986-1990
343
24.4
5.0
1991-1995
1,207
35.2
8.9
1996-2000
2,598
25.1
9.4
2001-2005
2,594
11.7
6.3
Nguồn: XNK hàng hóa Việt Nam 20 năm Đổi mới- Tổng cục thống kê
Ta thấy rằng trong tổng số khoảng 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cà phê chiếm tỷ trọng tương đối cao, trung bình chiếm 24,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tức là gần ¼ giá trị xuất khẩu của cả nước và trung bình chiếm 7,4% trong GDP. Điều đó phản ánh phần nào tác động của xuất khẩu cà phê với tăng trưởng kinh tế.
Tác động của xuất khẩu cà phê đối với kinh tế cả nước được xem xét dưới nhiều góc độ sau:
- Dưới góc độ thương mại quốc tế, xuất khẩu cà phê tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho nền kinh tế, làm tăng cường nguồn vốn phục vụ nhu cẩu nhập khẩu những hàng hóa cần thiết: công nghệ máy móc, linh kiện điện tử..; giảm bớt gánh nặng cho các khoản vay nợ của quốc gia. Đồng thời với lợi thế đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê, thứ nhất thế giới về xuất khẩu cà phê vối, hoạt động xuất khẩu cà phê tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quy mô thị trường tiêu thụ, tăng cường mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay, nước ta đã xuất khẩu hàng hóa tới hơn 160 quốc gia trên thế giới (trong đó 71 quốc gia nhập khẩu cà phê Việt Nam) cho thấy triển vọng lớn về ngoại thương Việt Nam.
- Dưới góc độ ngành kinh tế, xuất khẩu cà phê đã hỗ trợ rất lớn trong vấn đề phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam theo hướng CNH- HĐH. Nó làm không chỉ làm tăng sản lượng nông nghiệp của cả nước mà còn giúp cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp được nâng cấp, hiện đại hóa công cụ kỹ thuật, phương pháp sản xuất được cải tiến rất nhiều do phải đáp ứng nhu cầu về sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu của các đối tác. Không những thế, đẩy mạnh xuất khẩu cà phê còn thúc đẩy các ngành khác phát triển theo như: công nghiệp hóa chất, công nghiệp cơ khí, dịch vụ đóng gói, công nghiệp chế biến... Điều này hỗ trợ rất nhiều cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đất nước theo đúng xu hướng chung của thế giới : Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp. Theo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010, trong giai đoạn 2001-2005, cơ cấu ngành kinh tế được phân bổ theo tỷ trọng các ngành như sau: ngành nông-lâm-thủy sản chiếm 20,89%; ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 40,04%; ngành dịch vụ chiếm 38,07%.
- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh cà phê, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với sự nghiệp phát triển. Là cơ hội vì cầu sản phẩm cao, họ có dịp để quảng bá sản phẩm ra thị trường bên ngoài, tạo thương hiệu mạnh trên thị trường cà phê và đem về nguồn lợi nhuận lớn cho các doanh nghiệp. Là thách thức vì để sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư kĩ thuât cho tất cả các công đoạn sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm cà phê giữa các doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi có rất nhiều các doanh nghiệp tham gia kinh doanh mặt hàng cà phê này.
- Dưới góc độ người nông dân, thúc đẩy xuất khẩu cà phê có tác động làm tăng thu nhập cho người nông dân, cải thiện đời sống sinh hoạt cho họ, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, tăng tỷ lệ hộ khá và giàu.
Bảng 12: Tỷ trọng thu nhập từ cà phê trong tổng thu nhập của các huyện ở Đăk Lăk theo loại hộ năm 2001
Loại hộ
Cư Mgar
Buôn Đôn
Lăk
D.thu
(tr.đ)
Tỷ trọng (%)
D.thu
(tr.đ)
Tỷ trọng (%)
D.thu
(tr.đ)
Tỷ trọng (%)
Khá
19,456
83,1
15,663
40,5
1,434
9,2
Trung bình
11,7
64,5
7,223
35,9
1,634
31,2
Nghèo
7,764
45,2
4,314
28,9
0,694
18,1
Đói
2,324
71,4
2,677
29,0
0,534
13,4
Nguồn:Điều tra định lượng diện hẹp ở Đăk Lăk -2002
Số liệu thống kê cho thấy nguồn thu từ cà phê chiếm tỷ trọng lớn đối với các hộ trồng cà phê, đặc biệt các hộ ở huyện Cư Mgar - Đăk Lăk. Ở huyện Cư Mgar, doanh thu bình quân mỗi hộ là 10,311 triệu đồng/năm, chiếm 66% tổng thu nhập. Ở huyện Buôn Đôn, doanh thu bình quân là 7,47triệu đồng/năm/hộ, chiếm 33,6% tổng thu nhập; còn ở huyện Lăk, doanh thu bình quân là 1,074 triệu đồng/năm/hộ, chiếm 18% tổng thu nhập. Điều đó cho thấy doanh thu của các hộ ở huyện Cư Mgar phụ thuộc nhiều nhất vào hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê; doanh thu từ cà phê của mỗi hộ ở huyện này gấp 1,38 lần ở huyện Buôn Đôn, gấp 9,6 lần ở huyện Lăk.
Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động xuất khẩu cà phê có ý nghĩa rất lớn tới mọi mặt của nền kinh tế. Nó tạo ra một tác động tổng hợp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định, bền vững và tạo ra tiền đề vững chắc cho Việt Nam chủ động tham gia vào hội nhập quốc tế.
II- Tác động chính trị - xã hội của hoạt động xuất khẩu cà phê
* Tác động đến thể chế chính trị
Xuất khẩu cà phê không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, nó còn có tác động rất lớn tới các lĩnh vực chính trị xã hội. Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa - dịch vụ nói chung cũng như xuất khẩu cà phê nói riêng đều có tác động tăng cường mối giao hảo - hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị hợp tác quốc tế nhằm thực hiện cam kết “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới”. Hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam được coi là một thế mạnh của nước ta trên trường quốc tế. Điều đó không chỉ mang lại nguồn thu lớn về mặt kinh tế mà còn có tác động lớn về mặt chính trị. Nó như một minh chứng cho tiềm lực kinh tế mạnh mẽ, vững vàng của Việt Nam trước bạn bè thế giới; chính sự vững mạnh về kinh tế là cơ sở cho sự ổn định về chính trị. Chúng ta càng khẳng định rõ hơn với thế giới rằng Việt Nam nhỏ bé nhưng không “nhỏ bé” chút nào. Bằng chứng là đến nay, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của 63 tổ chức quốc tế và hơn 650 tổ chức phi chính phủ; gần đây nhất; vào tháng 1/2007,Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Sự kiện này là một dấu mốc quan trọng đối với sự nghiệp kinh tế - chính trị của Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực ngoại thương Việt Nam. Và với xuất khẩu cà phê, sự kiện này đã tác động mãnh mẽ. Cụ thể, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu cà phê đã vượt lên con số kỷ lục từ trước đến nay với trị giá trên 1,5 tỷ USD vượt kim ngạch xuất khẩu gạo vươn lên dẫn đầu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy, không chỉ hoạt động xuất khẩu phát triển làm cho vị thế chính trị của Việt Nam được củng cố và nâng cao, mà khi vị thế chính trị vững chắc sẽ tạo đà thúc đẩy kinh tế nói chung cũng như hoạt động xuất khẩu cà phê nói riêng phát triển mạnh hơn nữa. Điều đó khẳng định rằng, kinh tế - chính trị là hai lĩnh vực song song tồn tại và hỗ trợ cho nhau tạo nên một Việt Nam vững về chính trị, mạnh về kinh tế.
* Tác động đến điều kiện xã hội
Bên cạnh lợi ích đem lại cho lĩnh vực chính trị, xuất khẩu cà phê còn là một hoạt động mang đầy tính xã hội. Tác động quan trọng nhất, to lớn nhất về mặt xã hội từ hoạt động chính là vấn đề giảm nghèo . Do mặt hàng xuất khẩu là nông sản nên nó có lợi thế rất lớn vì có thể thu hút được nhiều lao động tham gia ở nhiều trình độ khác nhau do tính phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và kinh nghiệm sản xuất vốn có của người lao động đặc biệt là lao động nông thôn, lao động miền núi. Tăng cường xuất khẩu làm cho thu nhập của người dân được cải thiện rõ rệt, nhiều hộ dân đã thoát khỏi ngưỡng nghèo . Khi thu nhập ổn định thì đời sống sinh hoạt của người dân cũng ổn định, điều này tác động làm giảm hiện tượng du canh du cư, di dân.
Ngoài ra, xuất khẩu cà phê tăng lên thúc đẩy tăng sản lượng. Cho đến nay, tăng sản lượng không chưa đủ mà còn phải tăng chất lượng cà phê, chú trọng nhiều hơn nữa vào công đoạn chế biến và bảo quản, nhằm tăng tỷ trọng xuất khẩu cà phê đã chế biến, nghiên cứu tăng diện tích trồng giống cà phê chè nhăm tăng trị giá xuất khấu. Để làm được điều này đòi hỏi người nông dân phải có nhiều kinh nghiệm và có trình độ am hiểu về cà phê cao. Muốn vậy, trước hết họ phải chuyên tâm với nghề và có niềm tin vào sự phát triển của mặt hàng này. Từ đó , họ sẽ ý thức hơn nữa trong việc trồng và chăm sóc cây cà phê, giảm thiểu việc chặt phá cây trồng bừa bãi , chuyển đổi giống cây trồng không hiệu quả và tốn kém đồng thời tăng độ phủ xanh đồi trọc , giúp bảo vệ môi trường.
Chính từ sự kỳ vọng của người nông dân vào hoạt động xuất khẩu cà phê và được hưởng một mức thu nhập không thấp, họ sẽ yêu nghề hơn, chuyên tâm với nghề hơn. Hiện tượng chuyển đổi nghề nghiệp giảm bớt làm giảm bớt lượng lao động thất nghiệp tạm thời. Đồng thời, xuất khẩu tăng, thị trường tiêu thụ cà phê mở rộng đòi hỏi vốn nhân lực cho hoạt động tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống, những người có khả năng lao động sẽ được tham gia vào sản xuất, giảm bớt số người ăn theo và các tệ nạn trong xã hội cũng giảm thiểu đáng kể. Đây là điều kiện thuận lợi đưa xã hội Việt Nam tiến đến một xã hội giàu mạnh hơn, văn minh hơn, trong sạch hơn.
Chương IV: Dự báo - định hướng - giải pháp thúc đẩy thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam
I- Dự báo về thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam
Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VIFACO), trong niên vụ 2006/2007 lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam là 1,28 triệu tấn; thu được 1,899 tỷ USD. Nhưng sang niên vụ 2007/2008 bắt đầu từ tháng 10/2007, theo dự báo sản lượng xuất khẩu sẽ giảm từ 10-15% , thời gian thu hoạch sẽ chậm hơn nửa tháng do tác động của yếu tố thời tiết. Trong tháng đầu tiên của niên vụ mới, cả nước đã xuất khẩu được 972.165 tấn cà phê thu kim ngạch 1,467 tỷ USD. Đăk Lăk là nơi cho sản lượng xuất khẩu nhiều nhất với 14.000 tấn đóng góp thêm vào kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh 510 triệu USD; dự kiến cả niên vụ có 400.000 tấn đạt tiêu chuẩn chất lượng mới.
Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, trong niên vụ sắp tới, Việt Nam - nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu sẽ sản xuất được khoảng 17,4 triệu bao cà phê loại 60 kg, dao động từ 15,5 triệu bao đến 18,5 triệu bao. Tính đến đầu tháng 11/2007, sản lượng cà phê xuất khẩu đã ở ngưỡng 1 triệu tấn với kim ngạch xuất khẩu là 1,55 tỷ USD. So với cùng kỳ năm 2006, sản lượng đã tăng 43%; kim ngạch xuất khẩu tăng 84%. Giá cà phê xuất khẩu đã có nhích lên từ đầu năm đến nay do giá cà phê thế giới tăng, song vẫn thấp so với các nước sản xuất cà phê khác khoảng 50 - 70 USD/tấn. Sở dĩ , giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam thấp là do chất lượng cà phê Việt Nam chưa cao, chưa đạt được tiêu chuẩn thế giới. Thị trường nhập khẩu cà phê Việt Nam nhìn chung vẫn ổn định , thị trường tiêu thụ lớn nhất vẫn là Đức. Trước tình hình như vậy, theo các nhà dự báo, kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2007 là 1,8 tỷ USD.
II- Định hướng nâng cao giá trị cà phê xuất khẩu
Từ những dự báo về tình hình sản xuất- xuất khẩu cà phê Việt Nam, để nâng cao giá trị xuất khẩu của cà phê, chúng ta cần phải xây dựng các chính sách, giải pháp hướng vào các vấn đề như sau:
* Hướng vào việc xây dựng chiến lược phát triển cà phê bền vững.
Để xây dựng phát triển một ngành cà phê bền vững, trước hết chúng ta cần xem xét từ vấn đề giống và diện tích gieo trồng một cách hợp lý. Theo VIFACO, ngành Cà phê Việt Nam chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hai hướng: Thứ nhất, giảm diện tích đất trồng cà phê Robusta, phá bỏ những nơi cho năng suất thấp, đầu tư cải tạo đất để trồng những mặt hàng nông sản khác là những cây lâu năm, có giá trị kinh tế cao như: cao su, điều, hồ tiêu...Thứ hai, mở rộng diện tích trồng cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện đất đai, khí hậu thích hợp do cà phê Arabica là chủng loại cà phê chè có thể trồng và phát triển ở Việt Nam và nó có giá trị xuất khẩu cao hơn cà phê Robusta. Cụ thể, ổn định diện tích trồng cà phê ở mức từ 450.000 ha đến 500.000 ha.Trong đó: Diện tích trồng cà phê Robusta chỉ còn 350.000 ha đến 400.000 ha, tức đã giảm đi từ 100.000 - 150.000 ha. Diện tích cà phê Arabica là 100.000 ha ,tăng 60.000 ha. Bên cạnh đó, chúng ta cần đẩy mạnh thâm canh cà phê trên những diện tích có hiệu quả trong quy hoạch, hướng tới sản xuất cà phê sạch, cà phê hữu cơ. Đồng thời, chúng ta cần tiến hành chọn lọc, cải tiến giống cây trồng, hướng dẫn cho người nông dân cách chăm sóc cây, thay thế phân hóa học bằng phân hữu cơ, giảm thiểu đâu tư nhằm giảm giá thành sản phẩm mà vẫn cho năng suất cao, lợi nhuận lớn.
Ngoài ra chúng ta cần chú trọng tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê cũng như đẩy mạnh việc tiêu thụ cà phê ở thị trường nội địa. Hiện nay, sản lượng và giá trị tiêu dùng cà phê ở thị trường trong nước đang có xu hướng tăng lên do đời sống người dân được cải thiện đáng kể.
* Hướng vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê xuất khẩu, tăng tỷ trọng xuất các mặt hàng cà phê có giá trị kinh tế cao.
Cà phê có chất lượng cao, cà phê đã qua chế biến thường có giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều so với cà phê nhân xô, nhưng sản lượng cà phê đã chế biến đem xuất khẩu ở nước ta vẫn còn hạn chế. Năm 2002, chúng ta chỉ xuất khẩu được 235 tấn, năm 2003 ( 594 tấn ). Vì vậy, chúng ta một mặt cần phải thức hiện việc thu hoạch cà phê theo đúng tiêu chuẩn về độ chín , độ bóng... của quả,tránh thu hoạch quá nhiều trong khi quả thu hoạch không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Mặt khác, chúng ta cần áp dụng những công nghệ tiên tiến sau thu hoạch, đổi mới thiết bị, máy móc, hướng dẫn cụ thể cho từng người nông dân cách chế biến, bảo quản đúng tiêu chuẩn. Cải tiến phương pháp chế biến, không theo phương pháp thủ công mà chế biến theo một dây chuyển công nghệ đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Song, do nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, trình độ kỹ thuật của người sản xuất còn hạn chế, nên việc sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn mới là hết sức khó khăn, mà sản xuất theo tiêu chuẩn cũ thì quá thấp so với tiêu chuẩn thế giới hiện nay. Chính vì thế, cà phê Việt Nam chủ yếu sản xuất cà phê nhân hữu cơ, cà phê sạch , có chất lượng cao.
*Hướng vào việc thúc đẩy xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm... để nâng cao giá trị xuất khẩu của cà phê
Để nâng cao giá trị xuất khẩu của cà phê, chúng ta cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại trên phương diện từng doanh nghiệp cũng như Nhà nước. Mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê bằng cách đổi mới, nâng cao hiệu quả của hoạt động tiếp thị, tìm kiếm thị trường, từng bước tiến tới bán cà phê trực tiếp cho các nhà rang xay quốc tế, không qua trung gian, rút ngắn được thời gian chi phí vận chuyển, giao dịch , chất lượng hàng xuất khẩu tăng lên, giá thành giảm xuống, thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, xây dựng mạng lưới chợ và sàn giao dịch cà phê, tạo điều kiện cho người mua nắm bắt được những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác về thị trường cà phê Việt Nam.
III- Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam
1, Giải pháp về tổ chức chỉ đạo, quản lý Nhà nước, đầu tư, tài chính, tín dụng
- Do điều kiện tự nhiên, địa lý, khí hậu của nước ta cho phép trồng được cả hai loại cà phê chè và cà phê vối trên các vùng riêng biệt: trồng cà phê vối ở vùng khí hậu nóng ẩm phía Nam và trồng cà phê chè ở vùng khí hậu ôn hòa ở miền núi phía Bắc, rải rác ở một số vùng có độ cao từ 800 - 900m so với mặt nước biển. Vì vậy, cần tập trung xây dựng và củng cố vùng cà phê vối ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Đồng thời, hỗ trợ và phát triển vùng cà phê chè ở Sơn La, Điện Biên, Lâm Đồng , Gia Lai, Đăk Nông, Trị Thiên, Nghệ An...
- Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong quản lý ngành cà phê. Hoàn thiện chiến lược phát triển ngành, quy hoạch ngành trong thời kỳ chiến lược, gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Từ đó đề ra các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn đối với ngành cà phê.
- Chính phủ, các Bộ, ban , ngành phải chỉ đạo chặt chẽ, hỗ trợ, tăng cường công tác quản lý, giám sát kiểm tra chất lượng thực hiện các chiến lược, quy hoạch.
- Có chính sách, giải pháp gắn kết sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến cà phê, hỗ trợ quy hoạch lại hệ thống các cơ sở chế biến cà phê xuất khẩu, nhằm kiểm soát được sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu
- Tạo ra cơ chế chính sách thông thoáng để thu hút vốn đầu tư cho ngành cà phê.
2, Giải pháp về đất trồng
Quán triệt phương châm “quy hoạch mềm” trên diện tích đất trồng cà phê, tức là bố trí giống cây cà phê vào từng loại đất thích hợp, có thể điều chính theo biến động cà phê hoặc do chất lượng đất thay đổi.
Hoàn thiện, đổi mới chính sách đất đai; bổ sung quy định về điều kiện chuyển đổi với đất trồng cà phê nói riêng và đất nông nghiệp nói chung. Điều này, giúp người dân yên tâm hơn trong việc đầu tư sản xuất cà phê trong dài hạn.
3, Giải pháp về thị trường
* Về thị trường trong nước
- Xây dựng và phát triển các mô hình tổ chức thị trường cà phê trong nước. Tạo lập các mối liên kết giữa các doanh nghiệp thương mại , các nhà sản xuất và người tiêu dùng
- Xây dựng khung pháp lý và cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu cà phê.
- Xây dựng hệ thống thông tin thị trường cà phê ổn định, đồng bộ, có tính liên kết cao. Thiết lập và kết nối các kênh thông tin về thị trường cà phê quốc tế với thị trường cà phê nội địa.
- Triển khai mạnh công tác xúc tiến thương mại trên thị trường nội địa. Tăng cường hoạt động tiếp thị, tìm kiếm khách hàng, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng về sản phẩm cà phê. Đồng thời, tiến hành quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm, thiết lập mạng lưới phân phối và tiêu thụ.
- Thực hiện các chính sách về giá cà phê một cách linh hoạt dựa trên nguyên tắc thị trường, thống nhất đảm bảo tính cạnh tranh ngành và cạnh tranh của quốc gia .
- Thực hiện chính sách kích cầu đối với việc tiêu dùng cà phê nội địa nhằm đẩy mạnh cầu thị trường nội địa.
* Về thị trường ngoài nước
- Cần có những chính sách đẩy mạnh xúc tiến thương mại với mặt hàng cà phê kể cả trực tiếp (biện pháp kích thích vào nhu cầu) hoặc gián tiếp ( biện pháp nhấn mạnh đến việc cung cấp sản phẩm)
- Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp
- Xúc tiến nhanh các hoạt động xây dựng , đăng ký thương hiệu cà phê.
4, Giải pháp về nguồn nhân lực
- Khuyến khích tập trung nguồn nhân lực có trình độ thích hợp để xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh cà phê, các vùng sản xuất cà phê tập trung quy mô lớn.
- Khuyến khích các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực, tay nghề, tri thức, kinh nghiệm sản xuất, chế biến quản lý mặt hàng cà phê.
- Cần có cơ chế nâng cao năng lực tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới cho người lao động
- Tạo cơ chế thông thoáng thu hút những cán bộ, người lao động có trình độ, tay nghề cao tham gia quá trình sản xuất cà phê xuất khẩu nhằm tăng năng suất, cải tiến chất lượng hàng xuất khẩu, thu được lợi nhuận cao.
5, Giải pháp về phát triển các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh cà phê xuất khẩu
- Đổi mới hoạt động, nâng cao vai trò, chức năng của Hiệp hội cà phê Việt Nam
- Hoàn thiện và bổ sung các chính sách đối với kinh tế trang trại:
+ Hướng dẫn cụ thể các chế độ khuyến khích phát triển sản xuất cà phê
+ Cụ thể hóa chính sách ưu đãi vốn đầu tư cho kinh tế trang trại
+ Khuyến khích các trang trại cà phê đăng ký theo Luật Doanh nghiệp
6, Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ
*Về giống:
- Cần chọn lọc và phát triển những giống cà phê mới có chất lượng cao. Đối với cà phê vối, chọn bộ giống do Viện KHKT nông lâm nghiệp Tây Nguyên cấp phép với 5 tinh dòng: 13/8; 14/8; 2/3; 17/12; 11/3A4. Mới đây, bổ sung thêm 6 dòng vô tính nữa là V4/55; NG13/8; NG14/8; N17/12; A1/20; TH 2/3. Đối với cà phê chè, bên cạnh việc sử dụng giống Catimor thuần chủng còn sử dụng thêm các giống mới như TN1; TN2; TN3; TN4; TN5; TN6. Những giống này cho năng suất cao , kích thước hạt lớn, khắc phục được bệnh gỉ sắt, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
* Về canh tác
Tăng cường đầu tư vào kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê nhất là công tác thâm canh, nâng cao năng suất. Đồng thời tăng cường khuyến cáo và có các giải pháp kinh tế hợp lý để hạn chế tình trạng thu hái cà phê không đúng quý trình kỹ thuật. Đẩy mạnh sản xuẩt cà phê xuất khẩu có chất lượng cao theo hướng sản xuất cà phê hữu cơ. Ngoài ra, đẩy mạnh thâm canh cà phê trên những diện tích có hiệu quả . Chúng ta cũng cần trồng xen cây cà phê với các loại cây trồng khác như cây ăn quả, những cây tán rộng để giảm độ bay hơi nước của cây cà phê.
Khái quát lại, phát triển cây cà phê theo công thức “ Ba giảm, ba tăng,một chống” :
- Giảm: Phân hóa học, thuốc trừ sâu và nước tưới
- Tăng: Cây che mát. phân hữu cơ, tỉa cành tạo hình
- Chống : hái quả xanh, hoặc để nẫu, khô rụng
* Về chế biến
- Cần ứng dụng những công nghệ tiên tiến , thiết bị hiện đại, cải tiến hệ thống quản lý chất lượng làm tăng uy tín của cà phê Việt Nam trên thị trường xuất khẩu; phấn đấu cà phê loại I đạt 35%; loại II đạt 45%
- Tập trung hỗ trợ công nghệ chế biến ướt kết hợp đầu tư xây dựng sân phơi xi măng, máy sấy cà phê
- Đa dạng hóa các sản phẩm chế biến như cà phê rang xay, cà phê hòa tan, cà phê dạng lỏng , cà phê khử cafein, cà phê hữu cơ... Phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ cà phê chế biến sâu đạt 10-15%.
Tóm lại, sản lượng, chất lượng và giá thành sản phẩm cà phê xuất khẩu phụ thuộc vào việc thực hiện các giải pháp có đồng bộ và hiệu quả hay không? Song, tương lai, cà phê xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn tiến xa hơn nữa trên thị trường cà phê thê giới.
KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
I- Kết luận
Từ những nghiên cứu và phân tích trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau đối với hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam:
- Hoạt động xuất khẩu cà phê là một hoạt động thương mại đưa nông sản Việt Nam ra tiêu thụ ở thị trường thế giới nhằm thu được nguồn lợi nhuận cao hơn so với việc tiêu thụ mặt hàng này ở thị trường nội địa.
- Hoạt động xuất khẩu cà phê của có hiệu quả - đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu cà phê và đứng đầu về xuất khẩu cà phê Robusta thể hiện tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam là lớn. Thành tựu kinh tế này làm tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, từ đó mở ra các mối quan hệ hợp tác lâu dài về chính trị - xã hội, nâng tầm Việt Nam lên cao hơn, tạo cơ sở cho Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu
- Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang ở “ thời kỳ hoàng kim” nhưng đằng sau nó còn rất nhiều bất cập bởi lẽ thị trường cà phê Việt Nam chịu tác động mạnh của giá cà phê thế giới. Tuy sản lượng có tăng nhưng chất lượng cà phê xuất khẩu vẫn còn thấp do quá trinh thu hoạch- chế biến còn chưa đạt tiêu chuẩn kỹ thuật
- Song, trong điều kiện chính trị - kinh tế Việt Nam hiện nay cho phép chúng ta lạc quan và tin vào sự tăng lên mạnh mẽ của hoạt động thương mại Việt Nam trong đó có xuất khẩu cà phê, tạo thặng dư lớn cho cán cân thương mại , thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế biến Việt Nam trở thành một cường quốc kinh tế trong tương lai gần nhất.
II- Kiến nghị
Để thúc đẩy xuất khẩu cà phê trong thời gian tới , tôi xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
* Đối với Nhà nước:
- Chú trọng tới các chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành cà phê, gắn sản phẩm sản xuất với nhu cầu của thị trường thế giới
- Ban hành chính sách hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô, tạo điều kiện, hỗ trợ vốn, khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm cà phê đã qua chế biến
- Hoàn thiện và bổ sung các chính sách nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu, tăng cường sản xuất cà phê sạch.
- Hoàn thiện chính sách tài chính khuyến khích sản xuất- xuất khẩu cà phê
- Thực hiện hệ thống chính sách khuyến khích thương mại : đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, thúc đẩy xúc tiến thương mại...
- Hạn chế chính sách đầu tư của Nhà nước vào thị trường cà phê xuất khẩu
- Nghiên cứu chiến lược xuất khẩu cà phê một cách toàn diện nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
* Đối với Bộ, ngành:
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ , ngành trong việc chỉ đạo sản xuất, xuất khẩu cà phê.
- Chính sách và giải pháp đưa ra phải phù hợp với điều kiện ngành cà phê hiện nay, đảm bảo cho ngành có thể phát triển tốt nhất
* Đối với Hiệp hội cà phê:
- Cần phát huy hơn nữa chức năng, vai trò của Hiệp hội trong các lĩnh vực:
+ Phối hợp có hiệu quả các hoạt động sản xuất cà phê trên thị trường trong và ngoài nước
+ Thống nhất nhận thức và hành động , tránh gây tổn hại đến lợi ích toàn ngành
+ Chống hành vi độc quyền, tranh chấp thị trường của các doanh nghiệp kinh doanh cà phê xuất khẩu.
- Củng cố, hoàn thiện để Hiệp hội thực sự trở thành cầu nối giữa các doanh nghiệp, hội viên và Nhà nước, tạo ra một hệ thống quản lý thống nhất từ trên xuống tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu cà phê
- Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cà phê xuất khẩu, tổ chức thăm dò, khảo sát, tìm kiếm thị trường nhập khẩu cà phê của Việt Nam , nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu cho cà phê Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh Tế Phát Triển - Nhà xuất bản Lao Động - Xã Hội
Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Giáo trình Kinh Tế Ngoại Thương - Nhà xuất bản Hà Nội
Sở Giáo Dục và Đào Tạo Hà Nội
Kinh Tế Đối Ngoại Việt Nam - Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP.Hồ Chí Minh (2006)
Tổng Cục Thống kê
Giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam (Thực trạng và giải pháp nâng cao) - Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân (2006)
Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm Đổi mới (1986-2005) Nhà xuất bản Thống Kê (2006)
Kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 - Bộ Kế Hoạch Đầu Tư
Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VIFACO)
Báo cáo nghiên cứu ngành Cà phê -2004 - Ngân hàng thế giới (WB)
Kết quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam năm 1999 và dự báo những năm tiếp theo - Ngân hàng thế giới (WB)
Các trang web tham khảo
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9,
10,
11,
12,
13,
14,
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
Bảng 1: Xuất khẩu và GDP giai đoạn 1986-2005 2
Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo phân ngành kinh tế 4
Bảng 4: Dự kiến cơ cấu hàng xuất khẩu đến năm 2010 7
Bảng 5: Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê nước ta 15
Bảng 6: 10 nước nhập khẩu cà phê VN hàng đầu niên vụ 2005-2006 18
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam 19
Bảng 8: Sản lượng cà phê xuất khẩu trong thời kỳ 1986-2005 20
Bảng 9: Giá xuất khẩu cà phê của một số nước trên thê giới năm 2001 21
Bảng 10: Tiêu chuẩn chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam 22
Bảng 11: Xuất khẩu cà phê với tổng kim ngạch xuất khẩu và GDP 29
Bảng 12: Tỷ trọng thu nhập từ cà phê trong tổng thu nhập của các huyện ở Đăk Lăk theo loại hộ năm 2001 30
Hình 1: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến 3
Hình 2: Biến động kim ngạch và giá xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004 19
Hình 3: Lượng (kg/người) và giá trị (nghìn đồng/người) tiêu thụ cà phê bình quân đầu người nông thôn và thành thị năm 2002 25
Hình 4: Tiêu thụ cà phê đầu người theo nhóm thu nhập năm 2002 26
Hình 5: Tiêu thụ cà phê đầu người theo vùng của Việt Nam năm 2002 26
Hình 6: Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu 28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA117.docx