Tài liệu Đề tài Hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở xí nghiệp dược phẩm trung ương I: Lời nói đầu
Bất kỳ một doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, đều nhằm mục tiêu chung là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có một lượng tài sản nhất định. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể được xác định trong một thời kỳ nhất định. Trong quá trình vận động, các nhân tố được kết hợp với nhau để tạo ra hàng loạt các dịch vụ có ích, phục vụ cho tiêu dùng hoặc để sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy, trong một thời kỳ nhất định các doanh nghiệp đã chuyển hoá các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra để trao đổi (bán). Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua một loại tài sản đặc biệt - đó là tiền. Do đó ứng với dòng vật chất đi vào là dòng tiền hay dòng tài chính đi ra, đồng thời làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán của doanh nghi...
81 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở xí nghiệp dược phẩm trung ương I, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Bất kỳ một doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, đều nhằm mục tiêu chung là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có một lượng tài sản nhất định. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể được xác định trong một thời kỳ nhất định. Trong quá trình vận động, các nhân tố được kết hợp với nhau để tạo ra hàng loạt các dịch vụ có ích, phục vụ cho tiêu dùng hoặc để sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy, trong một thời kỳ nhất định các doanh nghiệp đã chuyển hoá các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra để trao đổi (bán). Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua một loại tài sản đặc biệt - đó là tiền. Do đó ứng với dòng vật chất đi vào là dòng tiền hay dòng tài chính đi ra, đồng thời làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp các yếu tố đầu vào. Và ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra là dòng tiền hay dòng tài chính đi vào. Lúc này nghĩa vụ thanh toán cũng phát sinh giữa người mua với doanh nghiệp.
Như vậy bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia kinh doanh trên thị trường đều phát sinh các quan hệ thanh toán với người mua và người cung cấp. Không những thế mà để tồn tại và phát triển thì còn có quan hệ thanh toán với nhà nước, với ngân hàng… Có thể nói hoạt động thanh toán là một bộ phận không thể thiếu được trong kinh doanh, tác động tới mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Tuy nhiên việc tổ chức hoạt động thanh toán của các doanh nghiệp là không hề giống nhau. Việc tổ chức hoạt động thanh toán này thể hiện khả năng của doanh nghiệp về trình độ, về năng lực tài chính … và phải tổ chức như thế nào để đảm bảo khả năng thanh toán chung. Đó là một vấn đề khó và vẫn còn được các doanh nghiệp tiếp tục đổi mới, sửa đổi.
Từ nhận thức của bản thân và từ thực tiễn hoạt động của Xí nghiệp dược phẩm trung ương I, em đã chọn đề tài " Hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở XNDPTW I", tập trung vào các hoạt động thanh toán tại Xí nghiệp dược phẩm TWI
Bài luận văn của em gồm ba phần chính như sau:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận về hoạt động thanh toán trong kinh doanh tại doanh nghiệp.
- Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở XNDPTW I
- Chương III: Một số giải pháp cho hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở XNDPTW I
Hoạt động thanh toán trong kinh doanh tại doanh nghiệp là một vấn đề khó. Chính vì vậy, với kiến thức còn nhiều hạn chế của mình, em sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo nhiều thêm từ phía các thầy cô.
Chương I
Một số vấn đề lý luận về hoạt động thanh toán trong kinh doanh
tại doanh nghiệp
I. Hoạt động thanh toán trong kinh doanh :
1. Thanh toán là gì ?
Hiểu theo nghĩa chung nhất thì thanh toán là dùng tiền để giải quyết các mối quan hệ về kinh tế tài chính giữa các bên phải trả và nhận tiền .
2. Các hình thức thanh toán:
Trong kinh doanh có nhiều hình thức thanh toán khác nhau như là
2.1. Thanh toán nội bộ và thanh toán với bên ngoài :
Thanh toán nội bộ phát sinh trong đơn vị kinh doanh có sự phân cấp kinh doanh, quản lý và công tác kế toán .
Thanh toán với bên ngoài là việc thanh toán với các đối tượng thuộc bên ngoài doanh nghiệp như: Khách hàng mua, nhà cung cấp, nhà nước, ngân hàng.
2.2. Thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không bằng tiền mặt :
Thanh toán bằng tiền mặt :Khi tiến hành giao dịch kinh doanh hai bên (bên phải trả và bên nhận tiền ) thực hiện thanh toán cho nhau bằng tiền mặt.
Hình thức này trong giao dịch kinh doanh ngày càng ít được sử dụng vì nó tỏ ra là không tiện lợi .
Thanh toán không bằng tiền mặt :Là việc thanh toán cho nhau không sử dụng tiền mặt mà sử dụng các phương tiện khác như là séc ,hối phiếu ,thư tín dụng,…
2.3. Thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế :
Thanh toán trong nước là việc thực hiện thanh toán giữa những người cùng ở trong một nước với nhau .
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện thanh toán giữa những người không ở cùng trong một nước .
3. Phương thức thanh toán :
3.1. Khái niệm :
Là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán, vay mượn giữa hai hay nhiều bên .
3.2. Một số phương thức thanh toán hiện hành :
3.2.1. Thanh toán giao hàng trả tiền ngay :
Khi bên bán giao hàng hoá dịch vụ cho bên mua thì đồng thời bên mua cũng thanh toán trực tiếp cho bên bán.
3.2.2. Phương thức chuyển tiền :
Là phương thức thanh toán trong đó người mua (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người bán(người hưởng lợi) theo một địa điểm và thời gian nhất định .
3.2.3. Phương thức ghi sổ:
Là phương thức thanh toán mà trong đó người bán khi giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ thì ghi nợ cho người mua, theo dõi vào một cuốn sổ riêng và việc thanh toán các khoản nợ này sẽ được thực hiện một thời kỳ nhất định .
3.2.4. Phương thức thanh toán nhờ thu:
Là phương thức thanh toán mà trong đó người bán sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng thì tiến hành uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng.
Trong thanh toán quốc tế thì người bán uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng trên cơ sở hối phiếu do người xuất khẩu lập. ở đây có các hình thức nhờ thu là nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
3.2.6. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
Là một thoả thuận trong đó một ngân hàng (Ngân hàng phát hành thư tín dụng) đáp ứng những yêu cầu của khách hàng cam kết hay cho phép một ngân hàng khác (Ngân hàng phục vụ người bán) chi trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của nhà xuất khẩu theo đúng những điều kiện và chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín dụng.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ hiện nay là phương thức thanh toán khá phổ biến trong thương mại quốc tế.
ở Việt Nam hiện nay, thanh toán trong nước thường sử dụng thanh toán giao hàng trả tiền ngay và thanh toán qua ngân hàng gồm : Phương thức chuyển tiền và thanh toán bù trừ (thanh toán bù trừ là đơn vị thanh toán phục vụ khách hàng trả tiền và đơn vị thanh toán phục vụ khách hàng thụ hưởng thanh toán khác hệ thống, cùng địa phương hoặc khác địa phương mà có cách xử lý khác nhau).
4. Phương tiện thanh toán:
4.1. Khái niệm:
Phương tiện thanh toán là công cụ mà người ta thực hiện trả tiền cho nhau trong quan hệ buôn bán với nhau.
4.2. Một số phương tiện thanh toán:
Tiền mặt là phương tiện thanh toán nhưng trong thanh toán quốc tế nó chỉ là phương tiện thứ yếu. Ngoài tiền mặt còn có các phương tiện khác như hối phiếu, séc, thẻ tín dụng… .Mỗi công cụ thanh toán đều có công dụng riêng của nó, thích hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh toán của các chủ thể kinh tế.
4.2.1. Hối phiếu:
Là công cụ thường được sử dụng trong thương mại quốc tế. ở Việt Nam việc sử dụng hối phiếu chưa phổ biến.
Một hối phiếu đơn giản là một lệnh do nhà xuất khẩu (người bán) lập yêu cầu nhà nhập khẩu (người mua) thanh toán một lượng tiền cụ thể vào một thời điểm cụ thể.
Cá nhân hoặc doanh nghiệp khởi thảo ra hối phiếu được gọi là người lập hối phiếu hoặc người ký phát hối phiếu. Thường thì đó là nhà xuất khẩu-người bán và chuyển hàng hoá. Người mà hối phiếu yêu cầu thanh toán được gọi là người phải thanh toán.
Trong các giao dịch thương mại, người phải thanh toán hối phiếu hoặc chính là người mua hàng hoá, khi đó hối phiếu được gọi là hối phiếu thương mại, hoặc là ngân hàng của người mua, khi đó gọi là hối phiếu ngân hàng. Hối phiếu ngân hàng thường yêu cầu thanh toán dựa trên các điều kiện của thư tín dụng. Hối phiếu có thể được rút tiền như là một công cụ của người nắm giữ hoặc nó có thể uỷ thác cho một người mà khoản thanh toán sẽ chuyển cho người đó. Người này được biết đến như là người được thanh toán, có thể chính là người được thanh toán hoặc có thể là một bên khác chẳng hạn như ngân hàng của người được thanh toán.
Có một số loại hối phiếu như: Hối phiếu có hiệu lực ngay khi nhìn thấy và hối phiếu có hiệu lực theo thời gian, hối phiếu trơn và hối phiếu kèm chứng từ, hối phiếu đích danh và hối phiếu theo lệnh.
4.2.2. Séc:
Séc là một lệnh chi tiền của người phát hành séc được lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của ngân hàng, ra lệnh cho ngân hàng trích tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người được hưởng tờ séc đó.
Một số loại séc: Séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức, séc chuyển tiền, séc cá nhân.
4.2.3. Chuyển khoản và uỷ nhiệm chi:
Chuyển khoản và uỷ nhiệm chi là các công cụ thanh toán, có nghĩa là một cách thức cho phép người mắc nợ chuyển cho chủ nợ toàn bộ hay một phần tài sản tiền tệ dưới dạng tiền gửi.
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn thống nhất của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi của mình trả cho đơn vị được thụ hưởng. Uỷ nhiệm chi được sử dụng với điều kiện là người bán và người mua phải có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, bên bán và bên mua hoàn toàn tín nhiệm nhau về phương diện thanh toán. Hình thức này được sử dụng rất phổ biến.
4.2.4. Lệnh thanh toán:
Thông thường được gọi là "chuyển giao" trong trường hợp một người cư trú trả tiền cho người không cư trú và được gọi là "thu hồi" trong trường hợp ngược lại. Lệnh thanh toán là phương tiện thanh toán rất tốt trong lĩnh vực quốc tế.
Lệnh thanh toán quốc tế có những thuận lợi và bất lợi về mặt kỹ thuật chuyển khoản: đơn giản, dễ dàng, nhưng thiếu bảo đảm; vì thế lệnh thanh toán rất phù hợp với những thanh toán giữa các bạn hàng có tín nhiệm.
4.2.5. Thẻ thanh toán:
Là một phương tiện thanh toán hiện đại mà người chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ.
Các loại thẻ: Thẻ không phải ký quỹ, thẻ phải ký quỹ, thẻ tín dụng.
Hiện nay ở Việt Nam hình thức thẻ thanh toán chưa được sử dụng rộng rãi vì:
Thứ nhất, các ngân hàng chưa chú trọng đến hoạt động phát hành thẻ mà chủ yếu chỉ chú trọng đến hoạt động tổ chức chấp nhận thẻ.
Thứ hai, hệ thống cơ sở hạ tầng có liên quan phục vụ cho hoạt động phát hành thẻ chưa phát triển tương xứng: Trên toàn lãnh thổ Việt Nam hiện nay chỉ có 6.500 điểm bán hàng có chấp nhận thanh toán thẻ và có chưa đến 10 máy ATM để rút tiền mặt do các ngân hàng lắp đặt.
Thứ ba, rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ là tương đối cao, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng: Rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ thông thường là do hậu quả của việc sử dụng thẻ gian lận, giả mạo gây ra. Trong đó kinh nghiệm về quản lý và kiểm soát rủi ro đối với các trường hợp sử dụng thẻ giả mạo, gian lận của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng nói chung.
Thứ tư, thông tin về thẻ ngân hàng còn hạn chế.
Thứ năm, người dân vẫn còn tâm lý thích dùng tiền mặt.
4.2.6. Uỷ nhiệm thu:
Là lệnh đòi tiền được lập trên mẫu in sẵn thống nhất của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng hoá, dịch vụ đã cung cấp cho người mua.
II. Hoạt động thanh toán trong kinh doanh Tại
doanh nghiệp :
1. Vai trò của hoạt động thanh toán trong kinh doanh đối với doanh nghiệp:
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ nảy sinh các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tượng khác như với người cung cấp để mua nguyên vật liệu, với người mua để tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ hay với ngân hàng trong vay mượn… .Và do vậy luôn phát sinh hoạt động thanh toán.
1.1. Giúp doanh nghiệp có nguyên vật liệu đầu vào:
Để có thể có NVL đầu vào thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp tất yếu là phải đi mua. Muốn mua thì phải có tiền để thanh toán dù đó là thanh toán ngay hay chậm. Doanh nghiệp có khả năng thanh toán thì mới có thể mua được.
1.2. Tạo thu nhập cho doanh nghiệp:
Khi doanh nghiệp đã sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ thì phải đem bán cho người mua. Người mua thanh toán tiền hàng cho doanh nghiệp và do đó doanh nghiệp có doanh thu, có lợi nhuận và khi đó mới có khả năng thanh toán các khoản còn nợ và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
1.3. Thể hiện tình trạng tài chính của doanh nghiệp :
Thông qua hoạt động thanh toán của doanh nghiệp có thể thấy doanh nghiệp đó là đang hoạt động tốt hay không?. Nếu doanh nghiệp mà dây dưa nợ đọng nhiều, khả năng thanh toán kém, bấp bênh chứng tỏ là doanh nghiệp đó hoạt động không hiệu quả.
1.4. Hoạt động thanh toán của doanh nghiệp cũng là một trong những yếu tố để ngân hàng quyết định có cho doanh nghiệp vay hay không.
2. Các hoạt động thanh toán trong kinh doanh tại doanh nghiệp :
2.1. Thanh toán nội bộ:
Như ở phần trên đã nói, thanh toán nội bộ phát sinh trong đơn vị kinh doanh có sự phân cấp kinh doanh, quản lý và công tác kế toán. Một đơn vị pháp nhân kinh tế được cấu thành bởi nhiều đơn vị trực thuộc thành viên không có tư cách pháp nhân đầy đủ ở các mức độ phân cấp khác nhau sẽ tạo nên các mối quan hệ thanh toán nội bộ:
- Cấp trên cấp vốn hoạt động cho các đơn vị thành viên như vốn phát triển kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản… có thể cấp bằng tiền mặt hoặc chuyển bằng tài sản tạo nguồn vốn cho các đơn vị trực thuộc. Hoặc quyết định điều chuyển vốn giữa các đơn vị thành viên với nhau trong sản xuất kinh doanh.
- Các khoản thu hộ, chi hộ giữa cấp trên và cấp dưới trực thuộc: Cấp trên và cấp dưới hoặc giữa các đơn vị thành viên cùng trực thuộc có thể phát sinh các nghiệp vụ chi hộ, thu hộ. Chẳng hạn chi hộ nộp thuế, chi hộ trả người bán hay thu hộ khoản khách hàng trả, thu hộ các khoản chiết khấu giảm giá được hưởng…
- Các khoản thanh toán khác giữa cấp trên và cấp dưới. Chẳng hạn như trong kỳ cấp dưới có nghĩa vụ nộp cấp trên về các quỹ: Quỹ quản lý, quỹ khen thưởng, phúc lợi, lãi chưa phân phối.
2.2. Thanh toán với người cung cấp:
Khi phát sinh quan hệ mua vật tư hàng hoá giữa doanh nghiệp và nhà cung cấp, cả hai bên cần tiến hành việc thoả thuận thương lượng về những vấn đề quan tâm chung để đi tới một thoả thuận mà hai bên cùng có lợi. Những quan tâm đó thường bao gồm như:
+ Phương thức thanh toán.
+ Thời hạn thanh toán
+ Giá cả
+ Thời gian, địa điểm giao hàng
+ Số lượng, chất lượng, chủng loại vật tư hàng hoá.
Ngoài ra, nếu người cung cấp ở nước ngoài thì họ có thể yêu cầu là doanh nghiệp phải có ngân hàng đứng ra bảo lãnh, xác định rõ giá vận chuyển, ai là người chịu cước phí vận chuyển…
2.2.1. Thời hạn thanh toán:
Thông thường thời hạn thanh toán được ghi trong hợp đồng ký kết giữa doanh nghiệp và người cung cấp, bao gồm các hình thức sau:
- Thanh toán trả tiền trước: Theo hình thức này khách hàng ứng trước tiền mặt hay hiện vật cho người cung cấp. Trả trước còn có nghĩa là khách hàng đặt cọc cam kết thực hiện hợp đồng.
- Thanh toán trả tiền ngay: Đây là việc thanh toán mà đồng thời với việc khách hàng nhận được hàng thì người cung cấp cũng nhận được tiền về bán hàng (trường hợp này gọi là mua đứt bán đoạn).
-Thanh toán chậm trả: Là việc thanh toán được thực hiện sau khi giao hàng một khoảng thời gian nhất định.
Đối với hình thức đầu và cuối sẽ phát sinh công nợ và đây là đối tượng quan tâm chính trong thanh toán.
Việc xác định thời hạn thanh toán có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của doanh nghiệp mà họ có thể thoả thuận với người cung cấp về thời hạn thanh toán để phục vụ tốt cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Hình thức đầu và hai thường dùng khi doanh nghiệp là khách hàng mua hàng lần đầu, chưa quen biết. Người cung cấp chưa có nhiều thông tin về doanh nghiệp và chưa có sự tin tưởng vào doanh nghiệp .
Khi thanh toán chậm trả có nghĩa là doanh nghiệp đã nợ người cung cấp một khoản tín dụng hay khi đó doanh nghiệp được cấp một khoản tín dụng bởi nhà cung cấp.
2.2.2. Thanh toán chậm trả:
Khi mua hàng hoá vật tư để sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp hầu như đều cố gắng để được thanh toán chậm trả hay mua chịu chưa phải trả tiền ngay.
a. Quyết định mua chịu:
Khi quyết định có nên thực hiện việc mua chịu để phải trả tiền thêm hay không thì về lý thuyết người ta so sánh với một loại hình tín dụng khác:
Ta lấy ví dụ như sau:
Doanh nghiệp X mua nguyên vật liệu để sản xuất hàng hoá. Người cung cấp đưa ra mức giá như sau: Giá 1000đ/1đv cộng với điều khoản 2/10, toàn bộ 30. Tức là Doanh nghiệp X có thể lựa chọn giữa việc trả 1000x(1- 0.02)=980 trong 10 ngày hoặc trả toàn bộ 1000 trong 30 ngày.
Trước hết ta đi tính lãi suất mà doanh nghiệp phải trả cho việc mua chịu của họ. Theo như trên thì doanh nghiệp sẽ trả 980 trong 10 ngày hoặc là đợi thêm 20 ngày sau đó phải trả cả 1000. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp đi vay 980 trong 20 ngày và phải trả khoản lợi tức tiền vay là 20. Vậy lợi tức 20 trên khoản vay 980 trong 20 ngày là:
trong một năm có 365 ngày từ đó ta có thể thấy rằng lãi suất tính cho một năm là:
Như vậy lãi suất này là rất cao.
Còn nếu doanh nghiệp đi vay ngân hàng số tiền 980 trong thời hạn 20 ngày để trả tiền ngay cho người cung cấp, thì sau thời hạn 20 ngày doanh nghiệp chỉ phải trả số tiền nhỏ hơn 1000 bởi lẽ lãi suất ngân hàng thấp hơn nhiều so với lãi suất ta tính được ở trên. Như vậy việc mua chịu là khá đắt.
Nhưng trên thực tế các doanh nghiệp vẫn muốn được mua chịu hơn vì thường khoảng thời gian mua chịu là không dài, số tiền tăng lên không đáng kể và họ cho rằng như vậy vẫn là rẻ. Và việc mua chịu này cũng giúp họ không phải trả ngay một khoản tiền lớn, mà có thể họ chưa có đủ. Hơn nữa trong thực tế khi đã mua bán quen với nhau rồi thì thường người bán ít tính tăng tiền nếu mua chịu.
b. Việc doanh nghiệp có được mua chịu hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Uy tín của doanh nghiệp : Uy tín của doanh nghiệp không có hình thái vật chất cụ thể, nó được coi như một tài sản cố định vô hình. Một doanh nghiệp uy tín là doanh nghiệp luôn để lại ấn tượng tốt trong bạn kinh doanh. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có uy tín càng cao thì đồng nghĩa với nó là dễ dàng và thuận tiện trong việc mua bán vật tư, sản phẩm, hàng hoá và càng dễ dàng hơn trong việc giải quyết các mối quan hệ thanh toán. Tuy nhiên uy tín của doanh nghiệp không phải là bất biến, nó sẽ tăng lên nếu như doanh nghiệp phục vụ khách hàng tận tình chu đáo cũng như việc thanh toán đầy đủ đúng hạn cho chủ nợ của mình; ngược lại uy tín sẽ giảm sút hoặc mất hẳn nếu doanh nghiệp trì hoãn, nợ nần, dây dưa không đúng hạn.
Là khách hàng quen hay không: Nếu là mua lần đầu thì doanh nghiệp khó mà được mua chịu, nếu là khách hàng quen, lâu ngày thì việc mua chịu là dễ dàng hơn.
Kết quả kinh doanh gần đây của doanh nghiệp :Nếu tình hình kết quả kinh doanh tốt thì không sao còn nếu như không được tốt thì để mua chịu cũng không dễ.
Nếu doanh nghiệp mua hàng của nước ngoài (trong trường hợp doanh nghiệp là người nhập khẩu) thì chắc chắn là doanh nghiệp phải có ngân hàng nào đó đứng ra bảo lãnh thì mới đảm bảo cho bên xuất khẩu thấy an toàn và có thể ký hợp đồng giao hàng.
Tình hình thanh toán trong quá khứ của doanh nghiệp: Nếu mà không có sự dây dưa nợ đọng thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng trong việc mua chịu.
Nhiều khi để được mua chịu thì doanh nghiệp cần phải đáp ứng tốt các điều kiện trên chứ không phải chỉ riêng lẻ điều kiện nào. Có trường hợp nếu doanh nghiệp mua lần đầu mà muốn mua chịu hay người bán chưa tin tưởng nhiều ở doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần phải có tài sản thế chấp hay như trong thanh toán quốc tế là phải có ngân hàng đứng ra bảo lãnh.
c. Ưu điểm và nhược điểm của việc mua chịu:
* Ưu điểm:
Thông thường một doanh nghiệp thường mua chịu nguyên liệu hay vật liệu của doanh nghiệp khác và ghi nhận món nợ ở các tài khoản phải trả trên bảng tổng kết tài sản. Các khoản phải trả hay mua chịu như thường gọi là một loại tín dụng ngắn hạn quan trọng nhất vì nó thường chiếm tới 40% tài sản lưu động đối với các doanh nghiệp không có các hoạt động về nghiệp vụ tài chính và tín dụng. Tỷ lệ này càng lớn hơn đối với một doanh nghiệp có quy mô nhỏ vì doanh nghiệp nhỏ thường khó tìm nguồn tài trợ ở nơi khác nên dựa nhiều vào việc mua chịu
Mua chịu cũng là một nguồn tài trợ tín dụng đương nhiên phát sinh do các hoạt động kinh doanh. Ta có thể xét ví dụ sau:
Giả sử một doanh nghiệp mua trung bình 2tr đ/1 ngày với thời hạn mua chịu là 30 ngày. Như vậy trung bình doanh nghiệp sẽ nợ 30 lần 2tr đ tức là 60 tr đối với nhà cung cấp. Nếu doanh thu gia tăng gấp đôi, hàng mua cũng tăng như vậy và các khoản phải trả cũng tăng lên 120tr đ , doanh nghiệp sẽ thấy đương nhiên được tài trợ thêm 60tr đ.
Tương tự như trên nếu thời hạn mua chịu nới rộng từ 30 ngày lên 40 ngày, các khoản phải trả đương nhiên tăng từ 60tr đ lên 80tr đ. Như vậy nếu kéo dài thời hạn mua chịu hoặc gia tăng khối lượng mua hay bán hàng đều làm phát sinh thêm một nhu cầu tài chính phụ trội.
Cho phép việc mua bán được thực hiện ngay không chờ đến khi có tiền mới mua được, giải quyết tình trạng thiếu nguyên vật liệu ngay nhất là khi doanh nghiệp chưa có đủ tiền để thanh toán ngay.
Tạo điều kiện cho các nhà sản xuất phải thực hiện nguyên tắc đảm bảo chất lượng hàng hoá, đảm bảo thời gian giao hàng và nó cũng tạo điều kiện cho nhà sản xuất và nhà thương nghiệp gắn bó với nhau hơn, tin cậy nhau hơn.
* Tuy nhiên việc mua chịu cũng có những hạn chế nhất định:
Về thời hạn : Do đặc điểm chu kỳ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có thể không phù hợp nhau nên nếu thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp không phù hợp yêu cầu của người đi vay thì tín dụng khó có thể xảy ra.
Về qui mô: Việc cho mua chịu này chỉ có thể cho phép trong một giới hạn khối lượng hàng hoá nhất định. Song khi một doanh nghiệp mua chịu hàng hoá ở nhiều doanh nghiệp khác nhau sẽ phân tán rủi ro cho nhiều người cho vay.
Có thể xảy ra rủi ro như: Khi mua chịu hàng hoá thì người ta thường dùng thương phiếu làm vật bảo đảm do đó có thể dẫn tới một số rủi ro như
Phát hành thương phiếu khống: Không có gì mua bán vẫn phát hành thương phiếu.
Mua bán giả: Hai bên thực hiện một hành vi mua bán giả (có hàng hoá, nhưng không mua thực) để phát hành thương phiếu nhằm vay được tiền của ngân hàng.
Người phát hành mất khả năng chi trả …
ở nước ta hiện nay việc phát hành thương phiếu là còn nhiều hạn chế vì vậy những rủi ro trên cũng khó xảy ra.
d. Một số điểm cần cân nhắc khi sử dụng phương thức mua chịu:
1/Thời hạn mua chịu:
Có bốn yếu tố chính ảnh hưởng đến thời hạn mua chịu:
Tính chất kinh tế của sản phẩm : Một sản phẩm có thời gian luân chuyển cao được bán ra với thời hạn mua chịu ngắn, người mua sẽ bán lại sản phẩm một cách nhanh chóng, thu được tiền mặt giúp họ có tiền trả nợ cho người cung cấp.
Tình trạng tài chính của người bán: Nếu người bán không có lượng tài chính dồi dào sẽ đòi hỏi người mua phải trả tiền ngay hoặc chỉ chấp nhận thời hạn mua chịu rất ngắn.
Tình trạng của người mua: Thông thường các nhà bán lẻ có tài chính khá mạnh và muốn mua chịu của các nhà cung cấp với thời hạn lâu hơn. Vài loại hình bán lẻ trong các lĩnh vực được xem như nhiều rủi ro (như quần áo) thường được chấp thuận một thời hạn mua chịu rất lâu, nhưng họ được khuyến khích trả nhanh bằng các khoản giảm giá hàng lớn.
Giảm giá hàng: Giảm giá hàng được thực hiện, nếu người mua thanh toán trong một thời hạn nào đó. Phí tổn không nhận giảm giá thường cao hơn lãi suất mà người mua đi vay nợ. Do đó, doanh nghiệp phải rất cẩn thận trong việc sử dụng mua chịu như là nguồn tài trợ, vì phí tổn tài chính rất cao. Nếu doanh nghiệp vay tiền để nhận giảm giá mua hàng, thời gian mà các khoản phải trả còn ghi ở sổ sách sẽ giảm đi. Như thế thì thời hạn mua chịu bị ảnh hưởng bởi tầm quan trọng của việc giảm giá.
2/Sử dụng việc mua bán chịu:
Việc mua chịu là con dao hai lưỡi đối với doanh nghiệp. Nó là một nguồn tín dụng để tài trợ việc mua hàng và là một phương thức cung ứng nhu cầu vốn để tài trợ việc bán chịu cho khách hàng. Điều quan trọng là doanh nghiệp phải tận dụng việc mua chịu như là nguồn tài trợ tín dụng, nhưng đồng thời cũng phải giảm đến mức tối thiểu việc vốn của mình bị chiếm dụng trong các khoản phải thu.
3/Điểm lợi của việc mua chịu như là nguồn tài trợ:
Mua chịu rất tiện lợi và là việc thông thường của hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp thiếu điều kiện được vay của cơ quan tín dụng ngân hàng có thể vẫn mua chịu được. Nhờ mối quan hệ trong kinh doanh, người bán ở vị trí thuận lợi để xét đoán khả năng thanh toán của khách hàng để đo lường mức độ rủi ro trong việc bán chịu.
2.3. Thanh toán với người mua:
Đối với các doanh nghiệp khi đã hoạt động sản xuất kinh doanh và cung cấp hàng hoá, dịch vụ ra thị trường thì khách hàng của họ đều rất đa dạng, tuỳ loại hình sản xuất kinh doanh mà đó có thể là cá nhân người tiêu dùng, các doanh nghiệp khác, các tổ chức xã hội, họ có thể ở trong nước hay ở nước ngoài.
Khi mà bán hàng thì các doanh nghiệp và người mua cũng thường thoả thuận trước với nhau vể các điểm đã nêu ra ở phần trước đó là: Phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán, giá cả… .Nhưng nó cũng có sự khác biệt giữa những đối tượng khách hàng.
Đối với những khách hàng mua với số lượng ít hay là mua lẻ thì thường là họ phải thanh toán trực tiếp ngay khi giao hàng vì giá trị của số hàng đó không lớn. Và họ cũng thường sử dụng tiền mặt để thanh toán ngay.
Nhưng đối với những khách hàng mua với số lượng lớn hay là mua buôn thì lại có sự khác biệt. Để mua được hàng thì họ và doanh nghiệp phải cùng nhau lập và ký kết hợp đồng, thoả thuận trước với nhau về những điều kiện cần thiết để mua bán hàng hoá. Đối với họ các doanh nghiệp cũng đưa ra những điều kiện bán hàng ưu đãi như: Trả sớm có chiết khấu, trả muộn sẽ phải chịu giá cao hơn hay thậm chí có thể bị phạt. Việc thoả thuận những điều khoản trong hợp đồng như vậy sẽ bảo đảm cả hai bên cùng có lợi và thuận tiện cho cả hai bên. Sau đó hai bên tiến hành giao hàng và thanh toán theo hợp đồng.
Trên thực tế, doanh nghiệp bán sản phẩm của mình cho các doanh nghiệp khác thường không thu được tiền ngay. Các hoá đơn chưa trả tiền được gọi là tín dụng thương mại, các khoản tín dụng thương mại này tạo thành các khoản phải thu của doanh nghiệp.
Để quyết định đưa ra các thời hạn thanh toán hay cho khách hàng mua chịu thì doanh nghiệp cũng phải cân nhắc nhiều vấn đề.
2.3.1. Chính sách bán chịu của doanh nghiệp :
Chính sách bán chịu có vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng của doanh nghiệp. Chính sách được thể hiện như là mục tiêu tăng tiêu thụ trong khuôn khổ việc mở rộng tiêu thụ này làm nẩy sinh lợi nhuận bổ sung. Định chính sách bán chịu là việc làm tế nhị và phải quan tâm tới nhiều yếu tố.
a. Mục tiêu của chính sách bán chịu:
Chính sách bán chịu sẽ quyết định mức độ cao thấp của số dư các tài khoản khách hàng và các tài khoản có liên quan. Các tài khoản này tạo thành một khoản đầu tư mà độ lớn của nó tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời.
Mỗi thay đổi chính sách bán chịu là nhằm:
- Tăng thêm lượng hàng bán ra và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, có tính đến một số các rủi ro.
- Để sắp xếp thứ tự theo các điều kiện cạnh tranh.
Mục tiêu của chính sách bán chịu là nhằm xem xét:
* Chi phí do việc phát sinh nợ phải thu của khách hàng:
Chi phí này có thể chia làm bốn nhóm là:
- Chi phí tài trợ: Doanh nghiệp phải tăng tài trợ cho khoản phải thu này bằng vốn tự có và vốn đi vay.
- Chi phí quản lý
- Chi phí cho việc thu hồi tiền bán chịu
- Chi phí về các lỗi trong thanh toán.
Để có chính sách bán chịu mềm dẻo cần tính toán các chi phí tăng thêm do việc tăng số nợ phải thu của khách hàng.
* Lợi nhuận thu được của đầu tư tăng thêm trong tài khoản khách hàng:
Món lợi tăng thêm tuỳ thuộc vào việc mở rộng bán hàng và việc tăng các chi phí biến động.
b. Các bộ phận hợp thành chính sách bán chịu:
Các điều khoản bán hàng: Một trong những mẫu về điều khoản bán hàng phổ biến ghi là 2/10 và toàn bộ 60, điều này có nghĩa là người mua có thể lựa chọn trả 1000 đv x (1-0.02) = 980đv trong 10 ngày hoặc là trả toàn bộ 1000đv trong 60 ngày.
Thời kỳ bán chịu: Thời kỳ bán chịu là khoảng thời gian mà doanh nghiệp cho phép khách hàng được chịu tiền. Thời kỳ này khác nhau giữa ngành công nghiệp này so với ngành công nghiệp khác, thế nhưng nói chung nó nằm trong khoảng từ 30 đến 120 ngày. Nếu trong điều khoản bán hàng có đề nghị chiết khấu tiền mặt thì thời kỳ bán chịu sẽ gồm hai phần : Thời kỳ bán chịu thuần tuý và thời kỳ chiết khấu tiền mặt - thời kỳ bán chịu thuần tuý là thời kỳ khách hàng bắt buộc phải trả tiền, thời kỳ này bắt đầu kể từ khi viết hoá đơn bán hàng chứ không phải là khi người mua đã nhận được hàng ; thời kỳ chiết khấu tiền mặt là thời kỳ nếu khách hàng trả tiền thì sẽ được giảm trừ một tỷ lệ % nhất định.
Chiết khấu tiền mặt: Lý do cho việc dùng chiết khấu tiền mặt là nhằm đẩy nhanh tốc độ thu tiền và để định giá cao hơn đối với những khách hàng muốn kéo dài thời gian trả tiền.
Các công cụ tín dụng thương mại: Công cụ tín dụng thương mại là bằng chứng về việc nợ nần. Nói chung khi mua hàng hoá người ta thường sử dụng hoá đơn, hoá đơn sẽ được gửi cùng với hàng chuyên chở cho người mua. Khi người mua đã nhận đủ hàng và ký vào hoá đơn thì lúc này hoá đơn đã có giá trị pháp lý về việc người mua nợ tiền người bán. Các thủ tục sau đó giữa người
mua và người bán chỉ còn là việc chuyển tiền từ tài khoản của người mua sang tài khoản của người bán.
Tuy nhiên cũng còn nhiều công cụ tín dụng thương mại khác được sử dụng. Một trong các công cụ tín dụng thương mại được sử dụng rộng rãi là thương phiếu. Thương phiếu là sự cam kết tín dụng của người mua trước khi hàng hoá được chuyển đến. Trong thương phiếu người bán ghi rõ số tiền và hạn trả tiền mà người mua phải thực hiện.
Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng hợp đồng bán hàng có điều kiện như một công cụ tín dụng thương mại. Hợp đồng này đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì quyền sở hữu hợp pháp về hàng hoá của mình cho đến tận khi người mua trả hết tiền. Các hợp đồng bán hàng hoá có điều kiện thường được trả làm nhiều lần và mỗi lần đều có những chi phí lãi suất tương ứng trong khoản tiền chi trả.
2.3.2. Phân tích chính sách bán chịu:
Để xem việc bán chịu là có hợp lý và có lợi hay không thì doanh nghiệp nên thực hiện phân tích chính sách bán chịu.
a. Tác động của chính sách bán chịu:
Tác động của doanh thu: Nếu như doanh nghiệp bán chịu thì tất nhiên doanh nghiệp sẽ bị chậm trễ trong việc thu tiền trong khi đó người mua lại có lợi trong việc trả tiền chậm. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng có thể bán với giá cao hơn nếu doanh nghiệp bán chịu cho người mua và điều này có thể làm tăng lượng hàng hoá bán được, do đó tổng doanh thu có thể tăng lên.
Tác động của chi phí: Cho dù doanh nghiệp có thể bị chậm trễ trong việc thu tiền do việc doanh nghiệp bán chịu cho người mua thì ngay cả trường hợp doanh nghiệp bán và thu tiền ngay cũng có những chi phí nhất định (bởi vì doanh nghiệp phải chấp nhận giá thấp hơn).
Chi phí của nợ nần: Khi doanh nghiệp bán chịu cho người mua thì doanh nghiệp cần phải sắp xếp những hoạt động tài chính có liên quan đến các khoản phải thu. Nhờ vậy, chi phí vay mượn ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ là một trong những yếu tố quyết định xem doanh nghiệp có nên bán chịu cho người mua hay không?
Xác suất không trả tiền của người mua: Nếu doanh nghiệp bán chịu cho người mua thì cũng có một khả năng nhỏ là người mua sẽ không trả tiền.
Chiết khấu tiền mặt: Khi doanh nghiệp áp dụng chiết khấu tiền mặt như là một bộ phận trong các điều kiện bán chịu của doanh nghiệp thì một số khách hàng sẽ lựa chọn việc trả tiền sớm để giành được lợi thế của chiết khấu.
b. Khi nào nên bán chịu cho khách hàng:
Chúng ta hãy bắt đầu với một trường hợp đơn giản nhất. Có một khách hàng mới muốn mua một sản phẩm theo phương thức bán chịu với giá P'/sản phẩm. Nếu như doanh nghiệp từ chối việc bán chịu thì người khách hàng này sẽ không mua. Hơn nữa chúng ta giả định rằng nếu doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì một tháng sau người này có thể trả tiền và cũng có thể không trả tiền. Xác suất để người này không trả tiền là q. Trong trường hợp này xác suất q có thể được coi là tỷ lệ % của những khách hàng mới sẽ không trả tiền. Trong hoạt động kinh doanh, chúng ta giả định là khách hàng chỉ mua một lần. Cuối cùng, doanh lợi đòi hỏi về các khoản phải thu là R/tháng, chi phí của các khoản phải thu là v/sản phẩm .
Nếu như doanh nghiệp không bán chịu cho khách hàng thì tiền tăng thêm vào ngân quỹ là 0. Nếu doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì doanh nghiệp phải mất một khoản chi phí biến đổi là v trong tháng này và chờ để thu được (1- q)P' trong tháng sau. Giá trị hiện tại thuần của việc bán chịu này là nếu NPV > 0: Doanh nghiệp nên bán chịu cho khách hàng
NPV Ê 0 : Doanh nghiệp không nên bán chịu cho khách hàng.
Thí dụ trên đây đã giải quyết một vấn đề quan trọng, khi doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng mới thì doanh nghiệp chịu một khoản rủi ro bằng chi phí biến đổi v, và chờ đợi để thu được số tiền theo giá đầy đủ là P'.
ở đây có hai sự khác biệt quan trọng mà doanh nghiệp cần nhớ là :
Thứ nhất, nếu doanh nghiệp mở rộng việc bán chịu cho khách hàng cũ thì doanh nghiệp bị rủi ro với toàn bộ giá P (là mức giá nếu khách mua trả tiền ngay), bởi vì đó là cái mà doanh nghiệp thu được nếu không áp dụng việc bán chịu; nếu doanh nghiệp mở rộng việc bán chịu với những khách hàng mới thì nó chỉ bị rủi ro phần chi phí biến đổi.
Thứ hai là doanh nghiệp phải luôn ghi nhớ khả năng kinh doanh lặp lại. Chúng ta có thể giải quyết điều này bằng việc mở rộng thí dụ về việc mua một lần ở trên. Chúng ta giả định rằng: Người khách hàng trong lần mua đầu tiên đã thanh toán tiền đầy đủ khi đến hạn trả tiền và anh ta trở thành khách quen , như vậy anh ta sẽ không bao giờ quỵt tiền.
Nếu doanh nghiệp bán chịu cho một khách hàng mới nào đó, thì nghĩa là doanh nghiệp sẽ phải chi tiêu một khoản là v trong tháng này, và tháng sau doanh nghiệp sẽ chẳng nhận được gì nếu khách hàng không trả tiền hoặc là sẽ nhận được P' nếu khách hàng trả tiền. Nếu khách hàng trả tiền thì anh ta sẽ mua thêm một sản phẩm nữa và doanh nghiệp lại chi ra một khoản là v. Khoản thu ròng vào ngân quỹ trong tháng sẽ là (P'- v). Mỗi tháng sau doanh nghiệp đều nhận được một khoản thu nhập ròng là (P'- v) nếu khách hàng trả cho sản phẩm anh ta mua trong tháng trước và tiếp tục mua một sản phẩm cho tháng này.
Đến đây ta thấy rằng: Trong một tháng, khả năng để doanh nghiệp không nhận được gì sẽ có xác suất là q , tuy nhiên với xác suất là (1- q) thì doanh nghiệp có được một khách hàng mới. Giá trị của một khách hàng mới bằng
với giá trị hiện tại của (P'- v) hàng tháng được tính cho một thời kỳ lâu dài:
Do đó giá trị hiện tại thuần của việc mở rộng việc bán chịu là:
c. Tìm hiểu thông tin tín dụng về khách hàng:
Nếu như doanh nghiệp muốn biết tình hình tín dụng của khách hàng thì doanh nghiệp có thể tìm hiểu từ nhiều nguồn. Các thông tin cần thiết có thể như sau:
Báo cáo tài chính: Doanh nghiệp có thể để nghị khách hàng cung cấp thông tin tài chính như là bảng CĐKT, BCKQKD. Một số các tỷ lệ như tỷ lệ lợi nhuận vốn, tốc độ chu chuyển vốn lưu động,v.v… cần phải được xem xét để cân nhắc xem có nên bán hàng cho khách hàng theo phương thức bán chịu không?
Báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác: ở các nước phát triển có một số tổ chức bán thông tin về tình hình tín dụng và tình hình thanh toán của một số doanh nghiệp. Dựa vào đây, doanh nghiệp có thể biết được tình trạng tài chính của khách hàng.
Các ngân hàng: Do doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp khác nhau nên bản thân ngân hàng cũng nhận được những thông tin về tình trạng tín dụng của các doanh nghiệp.
Lịch sử thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác: Doanh nghiệp cũng cần phải biết được rằng trong quá khứ khách hàng có trả tiền đúng hạn hay không? Bao nhiêu lần khách hàng gây rắc rối trong việc trả tiền?…
2.3.3. Rủi ro trong thanh toán và giải pháp phòng rủi ro:
a. Rủi ro trong thanh toán:
Là bán hàng nhưng không thu được tiền, các khoản nợ trở nên khó đòi hoặc không thể đòi được.
Trong nền kinh tế hiện nay, không doanh nghiệp nào không muốn đi chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác trong khi không muốn vốn của mình bị doanh nghiệp khác chiếm dụng. Trên thực tế điều này rất khó, vấn đề là ở chỗ doanh nghiệp phải làm thế nào để hạn chế tối đa vốn bị chiếm dụng, rút ngắn được thời hạn thanh toán và quản lý số vốn này một cách chặt chẽ.
Doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh phải có quan hệ với rất nhiều loại khách hàng khác nhau, do vậy rủi ro trong thanh toán là điều không thể tránh khỏi. Thực tế doanh nghiệp thường gặp phải các trường hợp sau:
- Con nợ khó hoặc không còn khả năng trả nợ (con nợ lâm vào tình trạng tài chính khó khăn hoặc bị phá sản).
- Các khách hàng nợ chây lì không muốn thanh toán cho doanh nghiệp .
- Doanh nghiệp vì một lý do nào đó không xác định được con nợ.
Các khoản nợ của doanh nghiệp ở vào trường hợp trên gọi là nợ phải thu khó đòi.
Do vậy đối với các khoản nợ phát sinh doanh nghiệp nên hạn chế thời gian kéo nợ dài, tìm biện pháp để thu hồi nợ. Đối với những khách hàng khó đòi, ngoài việc gửi giấy đòi nợ doanh nghiệp có thể viết thư trên các tờ có in sẵn bảng phải trả thêm được tính theo số ngày chậm trả. Nếu sau nhiều lần gửi (thường là ba lần) mà con nợ vẫn không thanh toán thì doanh nghiệp có thể nhờ pháp luật can thiệp.
b. Các giải pháp phòng rủi ro:
Doanh nghiệp phải lập qui trình thu hồi nhanh đối với các khoản thanh toán chậm trả và các khoản nợ phải thu có hoài nghi. Doanh nghiệp phải xác định:
Việc chậm trả được chấp nhận trước khi sử dụng quy trình thu hồi. Thời hạn chậm trả này không quá ngắn sao cho không làm mất lòng những khách hàng nhỏ, không quá dài vì tình hình mắc nợ của khách hàng có thể sẽ xấu thêm và làm tăng chi phí tài chính cho doanh nghiệp .
Các qui trình thu hồi nợ theo cấp độ :gọi điện thoại, thư nhắc lại, thư khuyên nhủ hoặc thư chuyển cho cơ quan chuyên trách thu hồi giúp…
Phải xác định được cơ cấu giá, điều kiện thanh toán, mức chiết khấu, điều kiện tăng giảm giá. Việc thực hiện chiết khấu hay giảm giá trong bán hàng là biện pháp tăng doanh số, đồng thời cũng khuyến khích nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Nghiên cứu tiếp xúc đàm phán với khách hàng giúp cho doanh nghiệp biết rõ về khách hàng nhờ đó tránh được rủi ro đáng tiếc.
Việc mua bán phải được lập thành hợp đồng với các điều khoản rõ ràng, hợp pháp, cả hai bên cùng ký kết và cam kết thực hiện theo hợp đồng.
Như ở trên đã nói doanh nghiệp cũng phải tìm hiểu những thông tin tín dụng về khách hàng để từ đó đánh giá khả năng khách hàng sẽ không trả tiền, xác định được khả năng tài chính của họ để quyết định có nên bán chịu hay không nhằm tránh những rủi ro không đáng có.
Doanh nghiệp nên áp dụng các dịch vụ sau bán hàng: Bảo hành, sửa chữa… nhằm củng cố lòng tin của khách hàng kích thích nhu cầu thanh toán ngay của khách hàng bởi vì lúc đó khách hàng đã yên tâm vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp .
2.4. Thanh toán với nhà nước:
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đều phải có nghĩa vụ thanh toán với nhà nước về các khoản nộp tài chính bắt buộc. Dù là doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà nước đều phải nộp đầy đủ, không trốn tránh được.
Thông thường các doanh nghiệp thực hiện thanh toán với nhà nước về những khoản như sau:
Các loại thuế trực thu và gián thu
Các khoản phí và lệ phí.
Mỗi doanh nghiệp thông thường phải chịu các khoản thuế như sau:
a. Thuế GTGT:
Theo luật thuế GTGT ở Việt Nam, thì thuế này được tính theo hai cách là hoặc tính theo phương pháp khấu trừ hoặc tính theo phương pháp trực tiếp.
* Theo phương pháp khấu trừ: Số thuế phải nộp bằng thuế GTGT đầu ra trừ thuế GTGT đầu vào.
Thuế GTGT phải nộp trong kỳ =Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
trong đó Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế * thuế suất
Thuế GTGT đầu vào = Tổng thuế GTGT đã thanh toán được ghi
trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc
chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá NK.
* Theo phương pháp trực tiếp:
Thuế GTGT phải nộp trong kỳ = Giá trị gia tăng của *Thuế suất
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
Giá trị gia tăng của = Giá thanh toán của - Giá thanh toán của
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế hàng hoá dịch vụ hàng hoá dịch vụ
bán ra mua vào
b. Thuế TTĐB:
Bản chất và cách tính giống thuế GTGT, nhưng khác vớithuế GTGT ở điểm sau:
Thuế TTĐB chỉ thu trên những mặt hàng có tích luỹ lớn và xét thấy cần phải hạn chế kinh doanh hoặc nhập khẩu.
Thuế TTĐB chỉ thu một lần ở khâu sản xuất trong nước hoặc NK
Một sản phẩm khi đã chịu Thuế TTĐB thì không phải chịu thuế GTGT và ngược lại.
c. Thuế TNDN:
Theo luật thuế TNDN thì thuế TNDN được xác định như sau:
Mức thuế phải nộp = Thu nhập chịu thuế * thuế suất
trong kỳ trong kỳ tính thuế thuế TNDN
Thu nhập chịu thuế = Doanh thu để tính - Chi phí hợp lý + Thu nhập chịu
trong kỳ tính thuế thu nhập chịu thuế trong kỳ thuế khác trong
trong kỳ tính thuế tính thuế kỳ tính thuế
Thuế suất thuế TNDN bao gồm các mức khác nhau phù hợp với từng đối tượng kinh doanh và được qui định cụ thể trong luật thuế TNDN.
d. Thuế khác: Thuế NK, thuế XK, thuế môn bài, thuế đất, thu sử dụng vốn…
Tuỳ loại hình doanh nghiệp và ngành nghề sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp sẽ phải chịu các loại thuế thích hợp.
2.5. Thanh toán với ngân hàng và các tổ chức tín dụng:
Đó là quan hệ tín dụng phát sinh giữa doanh nghiệp với ngân hàng về trả nợ và vay nợ.
Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng có đủ vốn và khi đó sẽ phát sinh nhu cầu vay vốn. Doanh nghiệp đi vay với nhiều mục đích như:
- Vay để thanh toán tiền mua hàng đang tạm thời bị thiếu hụt.
- Vay để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh có số vốn đầu tư lớn mà một mình doanh nghiệp thực hiện thì không đủ vốn hoặc sẽ có nhiều rủi ro lớn.
- Vay để đầu tư XDCB …
Trong các khoản vay của doanh nghiệp thì vay để thanh toán thường chiếm một tỷ trọng lớn, đó thường là các khoản vay ngắn hạn.
Tuỳ theo mục đích của doanh nghiệp mà doanh nghiệp sẽ xin vay với những hình thức khác nhau cho phù hợp, chẳng hạn:
- Vay ngắn hạn: nhằm bổ sung sự thiếu hụt vốn tạm thời.
- Vay dài hạn …
Sau đó ngân hàng sẽ xem xét nếu doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện sau thì sẽ cho vay:
- Doanh nghiệp có năng lực pháp luật dân sự
- Doanh nghiệp phải có khả năng tài chính
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Có dự án đầu tư khả thi hiệu quả
- Doanh nghiệp phải bảo đảm tiền vay theo qui định.
Đến hạn doanh nghiệp sẽ phải thực hiện thanh toán đầy đủ cho ngân hàng theo đúng qui định về trả lãi và gốc mà ngân hàng đưa ra khi doanh nghiệp xin vay. Nếu tại thời điểm trả doanh nghiệp không có đủ tiền thì doanh nghiệp có thể xin ngân hàng gia hạn thêm. Việc thanh toán với ngân hàng có thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt hoặc thanh toán bằng tiền gửi ngân hàng của doanh nghiệp.
Nói chung các doanh nghiệp đều thực hiện thanh toán đầy đủ với ngân hàng chỉ trừ khi doanh nghiệp làm ăn không có lãi, dự án không đạt hiệu quả mong muốn. Khi đó thì doanh nghiệp phải mang tài sản khác ra để thanh toán cho ngân hàng.
3. Các nguồn tài trợ ngắn hạn chính cho hoạt động thanh toán trong kinh doanh của doanh nghiệp:
3.1. Tín dụng ngân hàng:
Nguồn tài trợ quan trọng của các doanh nghiệp là các khoản vay tại các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp, với thời hạn có thể từ vài ngày tới cả năm với lượng vốn theo nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp.
Sự tài trợ của ngân hàng cho doanh nghiệp được thực hiện theo nhiều phương thức, chẳng hạn như:
Một là: Cho vay theo từng món. Theo phương thức này, khi phát sinh nhu cầu bổ sung vốn với một lượng nhất định và thời hạn xác định, doanh nghiệp sẽ làm đơn vay. Nếu ngân hàng chấp thuận, doanh nghiệp sẽ ký khế ước nhận nợ và sử dụng tiền vay. Việc trả nợ được thực hiện theo các kỳ hạn nợ đã thoả thuận hoặc trả một lần vào ngày đáo hạn.
Hai là: Cho vay luân chuyển. Phương thức này được áp dụng khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn bổ sung thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh và đáp ứng những điều kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra. Theo phương thức này, doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng cho một thời hạn nhất định ( ví dụ là một năm). Hạn mức tín dụng được xác định dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của doanh nghiệp và mức cho vay tối đa mà ngân hàng có thể chấp nhận. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã thoả thuận, doanh nghiệp có thể nhận tiền vay nhiều lần, nhưng tổng các món nợ sẽ không vượt quá hạn mức đã định.
3.2. Vay của CBCNV:
Khoản tài trợ này nhiều khi khá quan trọng trong những trường hợp cần vốn cấp thiết. Phương pháp này dễ huy động và có thể giải quyết tốt các nhu cầu vốn tạm thời hơn nữa lãi suất thường rẻ hơn vay ngân hàng.
3.3. Cho vay có bảo đảm:
Một công ty có thể tăng nguồn vốn ngắn hạn bằng các khoản nợ của mình. Các tổ chức mua nợ thường là một ngân hàng, một công ty tài chính hay một công ty mua nợ. Sau khi việc mua bán hoàn tất thì bên mua nợ căn cứ vào hoá đơn chứng từ để thu hồi nợ và quan hệ kinh tế lúc bấy giờ là của người nợ và chủ nợ mới là bên mua nợ. Thực tiễn phổ biến trong nền kinh tế thị trường là các khoản nợ khó đòi đều được bán cho các công ty mua nợ. Những công ty đó được pháp luật thừa nhận và những khoản nợ cao hay thấp tuỳ vào tính chất và mức độ khó đòi. Ngoài việc bán nợ thì doanh nghiệp còn có thể làm các cách khác tương tự như thế chấp hàng hoá, chiết khấu thương phiếu…
3.4. Vốn của doanh nghiệp :
Doanh nghiệp cũng có thể thanh toán bằng chính vốn lưu động của bản thân doanh nghiệp hay là doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Phương thức này thể hiện năng lực tài chính của doanh nghiệp .
4. Đánh giá hoạt động thanh toán của doanh nghiệp :
4.1. Vì sao phải đánh giá?
Thực hiện đánh giá tình hình thanh toán của doanh nghiệp để biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp như thế nào, tốt hay không tốt để từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp.
Nếu khả năng thanh toán của doanh nghiệp là nhanh, ít công nợ thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động về vốn đảm bảo cho sản xuất kinh doanh được thuận lợi.
Đánh giá để biết thực trạng tài chính của doanh nghiệp tốt hay không tốt. Doanh nghiệp có bị chiếm dụng vốn nhiều không, có đi chiếm dụng vốn nhiều không?…
4.2. Phương pháp đánh giá:
Người ta thường hay sử dụng phương pháp tỷ lệ và phương pháp so sánh. Chúng ta có một số chỉ tiêu như sau:
a. Hệ số thanh toán hiện hành:
TSLĐ
Khả năng thanh toán =
hiện hành Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường hoặc khả quan.
b. Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
Vốn bằng tiền + Phải thu
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh có thể nhanh chóng chuyển thành tiền mặt gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, phải thu. Tồn kho là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn so với các khoản trên. Do vậy tỉ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản tồn kho và được xác định bằng lấy tổng tài sản lưu động trừ đi dự trữ và chia cho nợ ngắn hạn.
Nếu hệ số này ³ 0,5 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán, tình hình tài chính khả quan. Ngược lại tình hình tài chính gặp khó khăn, doanh nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nhanh, có thể phải bán gấp sản phẩm hàng hoá để trang trải nợ nần.
Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao lại phản ánh tình hình không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm hiệu quả sử dụng vốn giảm.
c. Hệ số thanh toán tức thời:
Vốn bằng tiền
Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán ngay các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp. Việc duy trì vốn bằng tiền của doanh nghiệp có hợp lý không?
d. Chu kì kinh doanh và chu kì tiền mặt:
Các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tài trợ thông qua thu và chi của ngân quỹ. Thu và chi của ngân quỹ là hai hoạt động diễn ra không đồng thời là vì việc trả tiền để mua nguyên vật liệu không xảy ra cùng lúc với việc thu tiền do bán hàng hoá.
Để có thể kế hoạch hoá tài chính ngắn hạn, điều chỉnh khoảng thời gian giữa trả tiền NVL và thu tiền do bán hàng thì doanh nghiệp cần phải biết xác định chu kỳ kinh doanh và chu kỳ tiền mặt. Để từ đó có kế hoạch đảm bảo được khả năng thanh toán ngắn hạn.
Ta có thể lấy một ví dụ hết sức đơn giản để minh hoạ về việc xác định các chu kỳ này như sau:
Ví dụ: Một ngày nào đó là ngày thứ 0, ta mua một lượng nguyên vật liệu(NVL) trị giá là 1000đ. Sau khi nhận đủ NVL thì 30 ngày sau ta mới phải trả tiền theo hoá đơn. 30 ngày tiếp theo có một khách hàng nào đó mua hàng hoá của doanh nghiệp với một lượng trị giá là 1400đ và theo hợp đồng anh ta sẽ trả tiền cho doanh nghiệp sau 45 ngày kể từ khi doanh nghiệp giao hàng cho người mua. Ta có thể cân đối các sự kiện trên ở bảng sau đây:
Ngày
Các hoạt động
Tác động vào ngân quỹ
doanh nghiệp
0
Tiếp nhận NVL
0
30
Trả tiền NVL
-1000
60
Bán hàng hoá
0
105
Thu tiền do bán hàng
1400
Dựa vào bảng trên ta thấy, kể từ khi tiếp nhận NVL nhập kho cho đến khi thu được tiền bán hàng mất một khoảng thời gian là 105 ngày, khoảng thời gian này gọi là chu kỳ kinh koanh và nó có hai bộ phận hợp thành: Bộ phận thứ nhất là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp nhập kho NVL cho đến khi doanh nghiệp giao hàng cho người mua, khoảng thời gian này gọi là chu kỳ dự trữ (theo bảng trên là 60 ngày). Bộ phận thứ hai là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp giao hàng cho người mua cho đến khi thu được tiền về, khoảng thời gian này gọi là chu kỳ chờ thu tiền.
Chu kỳ kinh doanh = chu kỳ dự trữ + chu kỳ chờ thu tiền
Chu kỳ dự trữ hay còn gọi là thời gian vận động của NVL là độ dài thời gian vận động của NVL thành sản phẩm cuối cùng và thời gian để bán được những sản phẩm đó, nó được tính như sau:
Hàng tồn kho
Chu kỳ dự trữ =
Mức bán mỗi ngày
Chu kỳ chờ thu tiền hay là thời gian thu hồi những khoản phải thu là độ dài thời gian trung bình để chuyển những khoản phải thu của doanh nghiệp thành tiền mặt, được tính như sau:
Khoản phải thu
Chu kỳ chờ thu tiền =
Mức bán mỗi ngày
Hàng tồn kho gồm NVL, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho.
Chu kỳ kinh doanh diễn tả tất cả các bước mà quá trình sản xuất kinh doanh phải trải qua như: NVL - sản phẩm dở dang - bán thành phẩm - thành phẩm - giao sản phẩm cho người mua- chờ thu tiền về.
Khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp trả tiền NVL cho đến khi doanh nghiệp nhận được tiền bán hàng gọi là chu kỳ tiền mặt.
Chu kỳ tiền mặt = chu kỳ kinh doanh - chu kỳ trả tiền
Chu kỳ trả tiền là độ dài thời gian trung bình từ khi mua NVL và lao động đến khi thanh toán những khoản đó, được tính như sau:
Mức trả tiền bình quân
Chu kỳ trả tiền =
Mức bán mỗi ngày
Giao hàng cho người mua Thu tiền bán hàng
Bắt đầu dự trữ
Chu kỳ dự trữ Chu kỳ chờ thu tiền
Chu kỳ trả tiền Chu kỳtiền mặt Thời gian
Trả tiền cho dự trữ
Chu kỳ kinh doanh
Sơ đồ trên gợi ý rằng trong quản lý nguồn tài trợ ngắn hạn chúng ta cần quan tâm đến khoảng cách giữa thu và chi của ngân quĩ, khoảng cách này có liên quan đến độ dài của chu kỳ kinh doanh và chu kỳ trả tiền. Nếu như ta muốn khoảng cách này ngắn lại thì ta cần tìm cách thay đổi độ dài chu kỳ dự trữ, chu kỳ chờ thu tiền và chu kỳ trả tiền. Cụ thể là giảm thời gian vận động NVL thông qua sản xuất và bán hàng nhanh hơn, giảm tồn kho; giảm thời gian thu hồi những khoản phải thu bằng việc tăng tốc độ thu tiền của khách hàng; kéo dài thời gian trì hoãn những khoản phải trả bằng cách đi mua chịu.
chương II
Thực trạng hoạt động thanh toán trongkinh doanh ở XNDPTW I
I. Vài nét khái quát về XNDPTW I:
1. Giới thiệu chung về xí nghiệp dược phẩm trung ương I :
- Tên doanh nghiệp : Xí Nghiệp Dược Phẩm Trung Ương I
- Tên giao dịch quốc tế : Pharbaco
- Trụ sở chính : 160 Tôn Đức Thắng- Đống Đa - Hà Nội
- Lĩnh vực kinh doanh : Sản xuất và bào chế thuốc tân dược.
Xí nghiệp dược phẩm trung ương I là một doanh nghiệp nhà nước , trực thuộc Liên hiệp các xí nghiệp dược Việt Nam nay là Tổng công ty dược Việt Nam trực thuộc thuộc Bộ y tế . Lịch sử phát triển của Xí nghiệp gắn liền với sự phát triển của ngành y tế Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay. Tiền thân của Xí nghiệp là một phòng bào chế nhỏ được thành lập vào năm 1945 với vài chục nhân viên của ngành y tế Việt Nam. Trải qua quá trình phát triển , từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội tiếp quản thêm cơ sở bào chế thuốc của Pháp và trở thành Xí nghiệp dược phẩm, nay là Xí nghiệp dược phẩm trung ương I.
Xí nghiệp là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập, Xí nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh số 108249 (ngày 20-3-1993) và giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp số 1.19.1.015/GP (ngày 27-9-1994). Xí nghiệp được xác định là doanh nghiệp nhà nước hạng I theo quyết định 83/BYT vào
ngày 17-1-1995.
Lúc đầu thành lập, sản xuất của xí nghiệp chủ yếu dựa vào kỹ thuật lạc hậu thiết bị loại nhỏ thủ công. Nhưng đến nay, để kịp phát triển với tốc độ của thế giới cũng như đáp ứng nhu cầu dân sinh, xí nghiệp đã có công nghệ hoàn thiện và không ngừng đầu tư thay đổi trang thiết bị nhằm hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, tăng khối lượng cũng như chất lượng thuốc sản xuất ra.
2. Đặc điểm bộ máy tổ chức quản lý ở xí nghiệp :
Trải qua quá trình hoạt động trên 50 năm, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh của xí nghiệp đã có những thay đổi về số lượng công nhân viên, cơ cấu quản lý cũng như phạm vi quản lý. Cho đến nay, Xí nghiệp dược phẩm trung ương I đã có bộ máy gọn nhẹ, phù hợp với yêu cầu quản lý mang lại hiệu quả cao .
Xí nghiệp có cơ cấu quản lý theo kiểu một cấp được chia thành các phòng ban chức năng. Trong đó các phòng ban đều chịu sự điều hành quản lý của giám đốc và hai phó giám đốc trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng và có trách nhiệm với nhau trong công tác.
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp
Giám đốc
Phó giám đốc KD
Phó giám đốc SX
Các PX sản xuất
Phòng
kỹ thuật
Phòng
thị trường sx
Phòng
kiểm
nghiệm
Phòng
thị trường
KD
Phòng
hành chính
PXSX thuốc tiêm
Phòng kế toán-tài vụ
PXSX thuốc viên
Phòng tổ chức
Tổ bảo vệ
PXSX thuốc tiêm K.sinh
PXSX bao bì
PXSX cơ khí
3. Đặc điểm qui trình công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm của XNDPTW I:
Với nhiệm vụ sản xuất và bào chế thuốc tân dược phục vụ cho nhu cầu phòng chữa bệnh của nhân dân nên quá trình sản xuất sản phẩm của Xí nghiệp luôn phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui trình về chất lượng và kỹ thuật sản xuất sản phẩm. Quá trình sản xuất luôn được thực hiện trong một môi trường vệ sinh tối đa với các loại máy móc thiết bị tương đối hiện đại , chuẩn xác.
Từ kỹ thuật sản xuất ban đầu chủ yếu dựa trên các thiết bị loại nhỏ, thủ công đến nay Xí nghiệp đã có dây chuyền công nghệ bào chế tương đối hiện đại, bao gồm : Một dây chuyền sản xuất thuốc viên, một dây chuyền sản xuất thuốc tiêm và một dây chuyền sản xuất thuốc tiêm kháng sinh. Sang những năm 90 Xí nghiệp đã phát triển thêm một bước trong việc đổi mới quy trình công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm như các loại máy ép vi tính , máy đóng
cap sun, máy đóng ống tự động …
Sơ đồ quy trình sản xuất sản phẩm của Xí nghiệp
• Phân xưởng thuốc viên:
Dập viên
Nguyên
liệu
Pha chế
Trình bàySP
Đóng chai
Hấp tiệt
trùng
Sấy
rửa
Bao bì
Kiểm tra
Nhập
khoTP
Tiêu thụ
• Phân xưởng thuốc tiêm và thuốc kháng sinh tiêm :
Hấp sấy
Tẩy rửa
Chai
lọ
Soi ống
Đóng
ống
Hàn ống
Pha
chế
Nguyên
liệu
In
ống
Trình
bày
Kiểm
tra
Nhập
kho
Tiêu
thụ
4. Đặc điểm sản phẩm, thị trường của Xí nghiệp :
a. Sản phẩm :
Xí nghiệp dược phẩm trung ương I là một đơn vị sản xuất thuốc tân dược lớn trong nước, có gần 80 sản phẩm các loại được cấp giấy phép sản xuất và lưu hành trong toàn quốc. Có thể chia nhóm theo tác dụng như sau:
- Thuốc kháng sinh các loại
- Vitamin và thuốc bổ các loại
- Thuốc tim mạch thần kinh
- Thuốc sốt rét
- Thuốc ho hen suyễn và lao.
b. Thị trường:
Trước đây, Công ty dược phẩm trung ương I là khách hàng duy nhất của Xí nghiệp. Công ty có nhiệm vụ cung cấp nguyên phụ liệu cho Xí nghiệp và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm của Xí nghiệp. Các công ty hoặc tuyến tỉnh mua lại sản phẩm của Xí nghiệp tại công ty dược phẩm trung ương I để phân phối trong địa phương của mình. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhu cầu thuốc tiêm giảm, nhu cầu thuốc uống tăng lên, để đáp ứng nhu cầu đó, Xí nghiệp đã chuyển hướng kinh doanh, đầu tư thêm máy móc. Và hiện nay, về tiêu thụ sản phẩm thì công ty dược phẩm Trung ương I không còn là khách hàng duy nhất của Xí nghiệp nữa; khách hàng của Xí nghiệp rất đa dạng, số lượng lớn. Chính vì vậy mà Xí nghiệp mới có đủ sức cạnh tranh để không ngừng phát triển hơn nữa.
5. Tình hình sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp dược phẩm trung ương I:
Hiện tại Xí nghiệp đã sản xuất ra hơn 15% sản lượng thuốc của toàn liên hiệp.
Qua bảng thống kê về tình hình sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp trong những năm gần đây ta thấy Xí nghiệp dược phẩm trung ương I đã có những bước phát triển nhanh.
Bảng 1: Tình hình sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp tronG những năm gần đây
Chỉ tiêu
1999
(tr.đ)
2000
(tr.đ)
2001
(tr.đ)
Giá trị tổng
sản lượng
94.294
92.240
95.637
Tổng doanh thu
108.159
102.533
113.928
Tổng lợi nhuận
1.205
1.016
1.512
Thuế nộp NSNN
1.436
1.327
1.638
Tổng số vốn
SXKD
18.270
17.720
18.164
Thu nhập bình
quân đầu người
1,145
1,114
1,35
Trong đó thu nhập bình quân là bình quân lương của CBCNV trong Xí nghiệp.
II. ThựC trạng hoạt độnG thanh toán trong kinh
doanh ở xndptw i:
1. Tình hình hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở XNDPTW I qua các năm:
1.1. Về kim ngạch thanh toán:
Ta hãy xem bảng sau.
Qua bảng này ta có thể thấy tổng kim ngạch thanh toán của XNDPTW I qua ba năm gần đây- năm 1999, năm 2000, năm 2001.
Kim ngạch thanh toán này tổng hợp tất cả các khoản thanh toán với người cung cấp, thanh toán với người mua, thanh toán với ngân sách nhà nước, thanh toán với ngân hàng.
ở đây chia thanh toán của Xí nghiệp theo hai tiêu thức là thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế, thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không bằng tiền mặt.
Bảng 2: Kim ngạch thanh toán của XNDPTW I qua một số năm
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
So sánh các năm
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
2000/
1999
%
2001/
2000
%
A. Phạm vi thanh
toán
1. Thanh toán
trong nước
209.380
85,07
154.061
78,98
220.743
74,16
73,58
143,28
2. Thanh toán
quốc tế
36.750
14,93
41.013
21,02
76.915
25,84
111,60
187,54
Tổng
246.130
100
195.074
100
297.658
100
79,26
152,59
B. Phương tiện
thanh toán
1. Thanh toán
bằng tiền mặt
142.605
57,94
99.635
51,08
190.894
64,13
69,87
191,59
2. Thanh toán
không bằng tiền
mặt
103.525
42,06
95.439
48,92
106.764
35,87
92,19
111,87
Tổng
246.130
100
195.074
100
297.658
100
79,26
152,59
( Nguồn sổ cái năm 1999, 2000, 2001).
Trên cơ sở bảng này ta có một số biểu đồ như sau:
- Năm 1999
- Năm 2000:
- Năm 2001:
Và đồng thời tốc độ tăng giảm qua các năm của kim ngạch thanh toán được thể hiện qua biểu đồ sau:
Như vậy qua bảng và các biểu đồ trên ta có thể thấy rõ ở cả ba năm thì tỷ lệ thanh toán trong nước của Xí nghiệp luôn cao hơn so với thanh toán quốc tế. Sở dĩ như vậy là vì Xí nghiệp chỉ có giao dịch mua NVL đầu vào với người bán ở nước ngoài mà không thực hiện xuất khẩu trực tiếp sản phẩm làm ra. Kim ngạch thanh toán năm 2000 là bị giảm so với năm 1999, vì trong năm này tỷ giá ngoại tệ luôn thay đổi, thuốc nhập khẩu tràn ngập thị trường làm sản phẩm của Xí nghiệp khó tiêu thụ hơn, mặt khác giá nguyên liệu đầu vào lại tăng do đó cũng gây khó khăn cho Xí nghiệp trong định mức giá bán cho phù hợp. Và ta thấy thanh toán quốc tế năm 2000 tăng là vì giá NVL đầu vào tăng, tỷ giá thay đổi. Tuy nhiên sang năm 2001, Xí nghiệp hoạt động lại có hiệu quả hơn, sản phẩm tiêu thụ nhiều làm kim ngạch thanh toán tăng hơn so với hai năm trước. Bởi vì trong năm này Xí nghiệp tung ra thêm một số loại sản phẩm mới có giá trị cao, lợi nhuận lớn như: ATESUNAT, CPHOTACIM, AMPICILIN tiêm.
Qua bảng trên ta cũng dễ nhận thấy hoạt động thanh toán bằng tiền mặt của Xí nghiệp là lớn hơn so với thanh toán không bằng tiền mặt. Hiện nay nói chung mọi người vẫn còn ưa chuộng dùng tiền mặt hơn.
1.2. Tình hình công nợ và thanh toán trong kinh doanh:
Bảng 3: BCĐKT rút gọn của XNDPTW I
(đơn vị tính: đồng)
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
So sánh các năm
Số tiền (VNĐ)
%
Số tiền (VNĐ)
%
Số tiền (VNĐ)
%
2000/1999
2001/2000
A.Nguồn vốn
%
%
I. Nợ ngắn hạn
32.300.777.135
57,91
34.140.639.815
61,22
44.549.830.245
70,67
105,696
130,489
1. Vay ngắn hạn
25.208.312.225
45,2
30.447.852.427
54,6
40.653.296.245
64,49
120,785
133,518
2.Phải trả người bán
5.311.024.761
9,52
2.147.776.287
3,85
3.090.504.000
4,9
40,44
143,893
3.Ng.mua trả trước
893.368.776
1,6
369.921.973
0,66
606.030.000
0,96
41,408
163,826
4. Thuế
465.007.099
0,83
5.Phải trả CNV
64.144.837
0,12
600.000.000
1,08
200.000.000
0,32
935,38
33,333
6.Phải trả nội bộ
110.082.829
0,2
7.Phải trả,phải nộp
khác
823.926.536
1,48
II.Nợ dài hạn
5.202.800.000
1,48
3.908.000.000
7,01
328.003.840
0,52
75,113
8,393
III. Vốn chủ sở hữu
18.269.731.947
32,76
17.720.037.884
31,77
18.163.850.707
28,81
96,99
102,504
Tổng(I+II+III)
55.773.309.082
100
55.768.677.699
100
63.041.684.792
100
99,992
113,041
B.Tài sản
I. TSLĐ
38.588.112.182
69,19
40.681.951.967
72,95
48.485.414.783
76,91
105,426
119,182
1. Tiền mặt
1.179.999.595
2,12
2.359.235.352
4,21
3.088.706.000
4,9
199,088
131,477
2.Phải thu kh.hàng
8.351.606.891
14,97
12.874.413.399
23,09
16.671.856.320
26,45
154,155
129,496
3.Trả trước ng.bán
630.032.848
1,13
1.255.555.845
2,25
2.057.673.000
3,26
199,284
163,885
4.Tồn kho
24.292.251.045
43,56
17.954.877.723
32,2
17.076.324.000
27,09
73,912
95,107
5. Phải thu nội bộ
1.163.807.306
2,09
84.732.468
0,15
7,281
6.TSLĐ khác
2.970.464.497
5,33
6.163.137.181
11,05
9.590.855.463
15,21
207,481
155,616
II.TSCĐ-nguyên giá
30.880.468.853
55,37
31.546.291.028
56,57
32.065.635.601
50,86
102,156
101,646
Khấu hao TSCĐ
13.695.321.953
24,56
16.469.493.296
29,52
17.505.365.592
27,77
120,256
106,289
TSCĐ giá còn lại
17.185.146.900
30,81
15.076.725.732
27,05
14.556.270.009
23,09
87,73
96,548
Tổng(I+II)
55.773.309.082
100
55.768.677.699
100
63.041.684.792
100
99,992
113,041
Để xem xét thực trạng tình hình công nợ và thanh toán trong kinh doanh của Xí nghiệp, ta sẽ lấy số liệu của BCĐKT qua các năm ở trên để phân tích.
Qua đó ta cũng tính được số liệu trong bảng sau:
Bảng 4: Các hệ số thanh toán của Xí nghiệp qua ba năm
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
1. Hệ số thanh toán
hiện hành
1,195
1,192
1,088
2. Hệ số thanh toán
nhanh
0,331
0,449
0,444
3. Hệ số thanh toán
tức thời
0,047
0,077
0,076
4. Hệ số thu hồi nợ
10,784
7,118
6,837
Trước hết ta hãy xem xét khả năng thanh toán hiện hành. Đó là thương số giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn, chỉ tiêu này của Xí nghiệp năm 1999 là 1,195 (38.588.112.182/32.300.777.135), năm 2000 là 1,192 và năm 2001 là 1,088. Như vậy nhìn chung là khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trong vòng một năm của Xí nghiệp qua các năm là có giảm đi đôi chút. Và để ý một chút vào cơ cấu của tử số tức là của TSLĐ, ta thấy chiếm phần lớn trong đó lại là hàng tồn kho (chiếm trên 50% tổng TSLĐ trong năm 1999 và gần 50% trong hai năm 2000 và 2001). Điều này có thể không tốt cho Xí nghiệp vì vốn nằm trong khâu dự trữ quá nhiều sẽ làm ứ đọng vốn. Bên cạnh đó, với tình hình cạnh tranh gay gắt của thị trường dược phẩm hiện nay, số thành phẩm tồn kho chưa chắc đã tiêu thụ được nhanh chóng để chuyển thành dòng tiền vào và như vậy có thể gây khó khăn cho khả năng thanh toán của Xí nghiệp .
Về hệ số thanh toán nhanh, hệ số này của Xí nghiệp năm 1999 là 0, 331; năm 2000 là 0,4449 và năm 2001 là 0,444. Như vậy khả năng thanh toán nhanh của Xí nghiệp năm 2000 và năm 2001 là tăng hơn so với năm 1999. Ta thấy rằng các hệ số này đều nhỏ hơn 0,5 như vậy là khả năng thanh toán nhanh của Xí nghiệp còn chưa tốt lắm. Sở dĩ như vậy là vì vốn bằng tiền của Xí nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ thấp, đầu tư ngắn hạn hầu như không có. Đi sâu xem xét, ta thấy các khoản phải thu phản ánh doanh thu chưa thành tiền của doanh nghiệp, do vậy nếu đảm bảo chắc chắn tất cả các khoản bị chiếm dụng đều được thanh toán đúng hạn thì Xí nghiệp sẽ không có vấn đề gì phải lo lắng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, XNDPTW I cũng như các doanh nghiệp nhà nước khác, tình hình nợ đọng chiếm dụng dây dưa giữa các doanh nghiệp với nhau diễn ra rất phổ biến. Do vậy vốn lưu động của Xí nghiệp cũng bị ứ đọng nhiều trong khâu này và có khả năng ảnh hưởng không tốt đến tình hình thanh toán .
Về hệ số thanh toán tức thời, hệ số này của Xí nghiệp năm 1999 là 0,047; năm 2000 là 0,077 và năm 2001 là 0,076. Con số này thực tế quá thấp cho thấy Xí nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn trong khâu thanh toán nợ đến hạn hay quá hạn. Vốn bằng tiền của Xí nghiệp quá ít, mặc dù là có tăng qua các năm nhưng mức tăng này vẫn nhỏ, trong khi đó, do bị khách hàng chiếm dụng quá nhiều nên Xí nghiệp phải đi vay nhiều để có vốn sản xuất và như vậy tốc độ tăng của nợ ngắn hạn đến hạn trả là cao. Khả năng thanh toán tức thời của Xí nghiệp như vậy là cần phải lưu ý trong thời gian tới.
Bây giờ chúng ta xem xét đến hệ số thu hồi nợ của Xí nghiệp , hệ số này của Xí nghiệp năm 1999 là 10,784; năm 2000 là 7,118 và năm 2001 là 6,837. Hệ số thu hồi nợ thì phản ánh khoản phải thu của doanh nghiệp quay được mấy vòng trong kỳ. Ta có thể thấy là hệ số này là giảm dần như vậy là Xí nghiệp thu hồi các khoản nợ chậm, vòng quay vốn bị chậm lại, tốc độ luân chuyển vốn giảm, làm gia tăng nhu cầu tiền. Vì vậy, chính sách bán chịu của Xí nghiệp cần phải được tính toán dựa trên cơ sở nguồn lực tài chính của Xí nghiệp, nếu không, nó có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu vốn, giảm khả năng thanh toán và hiệu quả kinh doanh.
2. Một số hoạt động thanh toán trong kinh doanh của XNDPTW I:
Sơ đồ sau thể hiện các quan hệ thanh toán của Xí nghiệp dược phẩm TWI
Ngân hàng
Vay Cho
+gửi vay
tiền
Người cung cấp
Người mua
XNDPTWI
NVL Sản phẩm
Tiền Tiền
Thuế
Nhà nước
Như vậy hoạt động thanh toán trong kinh doanh của Xí nghiệp dược phẩm TWI chủ yếu gồm có quan hệ với ngân hàng (vay vốn và lập TK tiền gửi), với người mua (bán sản phẩm của Xí nghiệp), với người cung cấp (mua NVL, nhiên liệu đầu vào…) và với nhà nước (Xí nghiệp có nghĩa vụ nộp các khoản thuế) .
2.1. Thanh toán với người cung cấp:
XNDPTW I cũng như các doanh nghiệp khác có quan hệ với nhiều người cung cấp khác nhau. Họ có thể là người cung cấp NVL cho sản xuất chính, sản xuất phụ hay là cung cấp trang thiết bị cho công tác quản lý… .Và những người cung cấp này cũng rất đa dạng có cả ở trong và ngoài nước.
Bây giờ chúng ta sẽ đi sâu xem xét quan hệ thanh toán giữa XNDPTW I với những người cung cấp của Xí nghiệp .
Tuỳ từng người cung cấp mà Xí nghiệp có những phương thức mua bán khác nhau và do đó quan hệ thanh toán cũng khác nhau.
2.1.1. Đối với người cung cấp trong nước:
Xí nghiệp thường mua nhiều loại hàng hoá từ những người cung cấp trong nước như: NVL, bao bì, trang thiết bị,… . Đối với những hàng hoá có giá trị lớn (như NVL để sản xuất ra thuốc) thì phần lớn là Xí nghiệp đều chọn cách thức mua chịu.
Vì những người cung cấp cho Xí nghiệp hầu như đều là bạn hàng quen thuộc, có mối quan hệ làm ăn lâu ngày nên việc Xí nghiệp được mua chịu là dễ dàng. Và hầu như chỉ dựa vào uy tín của mình là Xí nghiệp được mua chịu.
Khi mà thực hiện mua chịu thì Xí nghiệp thường không có so sánh với hình thức tín dụng nào khác mà chỉ đánh giá đó là một khoản có giá trị lớn mà Xí nghiệp chưa có đủ tiền ngay để thanh toán, hơn nữa thanh toán chậm sẽ giúp Xí nghiệp có thời gian sản xuất, bán hàng thu tiền về để thanh toán hoặc không thì chỉ phải vay ngân hàng trong một thời gian ngắn để trả khoản tiền nợ.
Mặt khác giá cả của việc mua chịu là không đến mức quá đắt, cũng chỉ tương đương giá thị trường, còn nếu thanh toán sớm thì lại được chiết khấu.
Khi mua bán hàng hoá thì Xí nghiệp và người cung cấp cũng phải lập hợp đồng và cùng nhau ký kết trong đó có thoả thuận về thời gian thanh toán, phương thức và phương tiện thanh toán …
Chúng ta có thể xem tình hình sử dụng các phương tiện thanh toán với người cung cấp của Xí nghiệp trong ba năm qua bảng sau
Bảng 5: Phương tiện thanh toán với người cung cấp.
(đơn vị tính: triệu đồng)
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
So sánh các năm
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
2000/
1999
2001/
2000
Tiền mặt
8.015
9,898
7.929
10,204
8.476
10,225
1,069
0,989
Chuyển tiền
8.782
10,845
8.228
10,589
9.742
11,753
1,184
0,937
UNC
46.057
56,879
42.558
54,77
45.674
55,1
1,073
0,924
Thanh toán
bù trừ
17.940
22,378
18.988
24,437
19.002
22,922
1,067
1,058
Tổng
80.974
100
77.703
100
82.894
100
1,067
0,962
Qua bảng trên ta thấy rằng việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán với người cung cấp của Xí nghiệp chiếm tỷ lệ thấp nhất. Sở dĩ như vậy là vì Xí nghiệp mua NVL với giá trị lớn thanh toán bằng tiền mặt thì thường phải có một lượng tiền lớn mà việc cất giữ lượng tiền lớn như vậy thì thật không tiện lợi.
Ngoài tiền mặt thì Xí nghiệp chủ yếu sử dụng hình thức chuyển tiền, UNC, thanh toán bù trừ. Hình thức chuyển tiền là Xí nghiệp dùng tiền trong tài khoản của mình tại ngân hàng (chủ yếu là NHCT Đống Đa) nhờ ngân hàng chuyển tiền trả cho người cung cấp, hình thức này cũng được Xí nghiệp ít sử dụng vì ở các năm số tiền trên tài khoản tiền gửi ngân hàng là không có nhiều (năm 1999 là 495.227.693, năm 2000 là 969.306.700). Còn hình thức UNC là Xí nghiệp vay ngắn hạn của ngân hàng sau đó dùng tiền này để trả cho người cung cấp theo hình thức UNC, hình thức này được Xí nghiệp sử dụng nhiều nhất vì số tiền mua hàng giá trị lớn nên Xí nghiệp vay ngân hàng để có thể hỗ trợ thêm việc thanh toán của Xí nghiệp. Về hình thức thanh toán bù trừ được Xí nghiệp sử dụng phần lớn đối với những công ty trung gian như Công ty DPTW I, Công ty dược liệu TW I… họ vừa bán NVL cho Xí nghiệp lại vừa mua sản phẩm của Xí nghiệp sản xuất ra để cung cấp cho nơi khác, chính vì vậy khi bán sản phẩm của mình cho họ trong kỳ Xí nghiệp thực hiện thanh toán bù trừ với số tiền mua NVL của Xí nghiệp, số tiền thừa, thiếu còn lại thì hai bên mới thực hiện thanh toán cho nhau hoặc lại để bù trừ cho lần mua bán tiếp theo.
Khi sử dụng hình thức mua chịu, đôi khi Xí nghiệp vẫn bị chậm trễ trong thanh toán và bị phạt. Tuy nhiên việc này rất hiếm khi xảy ra vì Xí nghiệp có mối quan hệ làm ăn lâu dài với người cung cấp, tạo lập được quan hệ tốt. Hơn nưa Xí nghiệp luôn cố gắng thanh toán đúng hạn.
Việc lựa chọn thời gian trả tiền chậm của Xí nghiệp là thường căn cứ vào:
- Sản xuất loại thuốc với NVL mua đó trong bao lâu có thể tiêu thụ được.
- Bao lâu thì người mua trả tiền.
- Vốn tiền mặt có đủ tiền không
- Ngân hàng có cho vay để thanh toán trong trường hợp không đủ tiền, và mức phí là ra sao…
2.1.2. Đối với người cung cấp ở ngoài nước:
Người cung cấp ở ngoài nước của Xí nghiệp chủ yếu là cung cấp NVL để sản xuất thuốc bởi vì những NVL đó ở trong nước vẫn chưa sản xuất được. Vì vậy việc nhập NVL từ nước ngoài là nhiều.
Trong quan hệ mua bán với người cung cấp ở nước ngoài thì việc thoả thuận và ký kết hợp đồng được làm hết sức cẩn thận và chặt chẽ. Trong hợp đồng thường có ghi rõ phương thức và thời gian thanh toán ,rồi giá cả….
Về giá cả thì cứ theo mức giá thị trường và hai bên thoả thuận với nhau mức giá phù hợp.
Trong thanh toán với người cung cấp ở nước ngoài thì chắc chắn là Xí nghiệp phải sử dụng dịch vụ ngân hàng và hơn nữa còn cần có sự bảo lãnh của ngân hàng.
Trong trường hợp mà không tin tưởng nhau thì cần phải có bảo lãnh của ngân hàng và thực hiện mở L/C, Xí nghiệp thường thanh toán bằng hình thức L/C at sight và không huỷ ngang, đôi khi có sử dụng L/C chuyển nhượng (cho người thứ ba). Để có thể mở L/C thì cần phải có hợp đồng mua bán , phải có TKTG ở ngân hàng đó và khi mở L/C thì thường là vay ngắn hạn ngân hàng để thanh toán. Khi Xí nghiệp mở L/C tại NHCT Đống Đa thì mức ký quỹ thường là từ 5% đến 10% tuỳ mức độ uy tín với ngân hàng, còn tại Ngân hàng Indovina thì mức ký quỹ thường là 5%.
Còn trong trường hợp có sự tin tưởng nhau thì thường thực hiện thanh toán bằng hình thức TT (là hình thức chuyển tiền, hàng giao trước tiền chuyển sau) và hình thức D/P (nhờ thu qua ngân hàng, chủ yếu là sử dụng hối phiếu).
Nhưng nhìn chung thì khi mua bán với người cung cấp ở nước ngoài thời gian trả tiền chậm là rất ngắn hoặc không có.
* Ta sẽ xem xét việc thực hiện tình hình thanh toán chung với người cung cấp của XNDPTW I như thế nào qua xem xét số liệu lấy từ TK 331 (phải trả người bán) trong năm 1999,2000 và 2001.
Bên có phản ánh tổng tiền phải trả, bên nợ phản ánh số tiền đã trả và số dư cuối tháng (dư có) phản ánh số còn phải trả. Như vậy ta có thể thấy là Xí nghiệp đều cố gắng trả số tiền mua hàng và có sử dụng hình thức thanh toán chậm trả (cả ba năm đều vẫn còn số tiền phải trả), đôi khi Xí nghiệp vẫn còn nợ đọng trong việc thanh toán và có bị phạt nhưng những trường hợp như vậy cũng ít khi xảy ra, nếu có thì chỉ với giá trị không lớn lắm. Nhưng nhìn chung hoạt động thanh toán với người cung cấp của Xí nghiệp có thể nói là tốt và Xí nghiệp cũng tận dụng được nguồn mua chịu người cung cấp như một nguồn tài trợ ngắn hạn.
Bảng 6: Tình hình thanh toán với người cung cấp năm 1999, năm 2000 và năm 2001.
(đơn vị tính: triệu đồng)
TK 331
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
So sánh các năm
2000/1999
%
2001/2000
%
Nợ
83.110
85.674
86.700
103,085
101,197
Có
82.654
82.511
87.643
99,827
106,22
Số dư
cuối năm
(Số dư đầu năm:5.767)
5.311
2.148
3.091
40,444
143,901
2.2. Thanh toán với người mua:
2.2.1.Đối tượng khách hàng của Xí nghiệp:
Đối tượng khách hàng của Xí nghiệp rất đa dạng nhưng có thể phân chia gồm hai nhóm khách hàng.
* Đối tượng mà Xí nghiệp bán gián tiếp (bán buôn) gồm chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước thuộc khối trung ương như là:
- Công ty DPTW I
- Công ty dược liệu TW I
- Các công ty cấp II (tại các tỉnh), cấp III (tại các huyện)
- Bộ quốc phòng (quân y)
- Công ty TNHH
- Xuất khẩu nước ngoài: Uỷ thác qua một số công ty trung gian, đại lý.
Xí nghiệp bán gián tiếp có nghĩa là những doanh nghiệp này mua sản phẩm của Xí nghiệp sau đó lại đem đi phân phối, bán lại cho các doanh nghiệp khác hay thực hiện bán lẻ cho người tiêu dùng. Họ thường mua với khối lượng lớn và là khách hàng quen nên thường là thực hiện thanh toán chậm trả hay là mua chịu.
Về việc xuất khẩu thì trên thực tế là Xí nghiệp chưa có đủ điều kiện để xuất hàng trực tiếp ra nước ngoài. Và việc xuất khẩu này là thực hiện qua một số công ty trung gian chuyên làm xuất khẩu. Sau khi họ mua hàng của Xí nghiệp thì họ sẽ xuất khẩu ra nước ngoài, Xí nghiệp chỉ chịu trách nhiệm giao hàng cho họ còn khi hàng lên tàu rồi là trách nhiệm thuộc về họ và họ phải thực hiện thanh toán bằng VNĐ cho Xí nghiệp .
Loại đối tượng này chiếm 46% số khách hàng của Xí nghiệp .
* Đối tượng mà Xí nghiệp bán trực tiếp:
- Các quầy hàng
- Các đại lý
- Các chi nhánh
- CBCNV
Xí nghiệp có mở nhiều quầy hàng trong thành phố và rất nhiều chi nhánh trên khắp cả nước. Và với đối tượng này phần lớn là thu tiền ngay.
Và như vậy khách hàng của Xí nghiệp là đều ở trong nước nên Xí nghiệp có điều kiện để hiểu rõ về họ hơn và chắc chắn về khả năng thanh toán của họ hơn.
Bảng 7: Thực hiện tiêu thụ sản phẩm năm 2001
(đơn vị tính: đồng)
Đối tượng
phân phối
Các công ty DP
cấp II
Công ty DP
cấp I
Bán trực tiếp
Tổng
34.708.754.004
26.674.238.782
48.442.974.399
109.825.967.185
% Giá trị
31,69%
24,3%
44,01%
100%
Như vậy qua bảng trên có thể thấy các Công ty DP cấp I và cấp II là chiếm đa số trong khách hàng của Xí nghiệp. Có nghĩa là Xí nghiệp bán gián tiếp là khá nhiều. Mà những đối tượng gián tiếp này lại hầu hết là các doanh nghiệp thuộc
khối trung ương hay là doanh nghiệp nhà nước nên rủi ro trong thanh toán bị hạn chế.
2.2.2. Chính sách bán hàng của Xí nghiệp:
Chính sách bán hàng của Xí nghiệp có sự khác biệt giữa hai nhóm đối tượng khách hàng.
a. Đối với đối tượng bán gián tiếp (bán buôn):
Khi thực hiện bán sản phẩm cho đối tượng này, Xí nghiệp đều phải lập và thoả thuận, ký kết hợp đồng với họ vì họ thường mua với số lượng lớn nên phải ký kết hợp đồng để thoả thuận được các nội dung mà cả hai cùng quan tâm như thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán, giá cả… và hơn nữa nếu có xảy ra rủi ro trong thanh toán thì sẽ có hợp đồng làm căn cứ pháp lý để giải quyết. Và việc bán chịu phần lớn nảy sinh từ các đối tượng này.
Về mức giá bán:
Giá Xí nghiệp bán cho họ là theo giá thị trường hay có thấp hơn đôi chút và mức giá cuối cùng là sự thoả thuận giữa hai bên.
Về thời hạn thanh toán:
Khách hàng có thể lựa chọn thanh toán ngay hoặc thanh toán chậm trả. Thời gian thanh toán chậm trả Xí nghiệp thường quy định là 30 ngày đối với mọi khách hàng. Xí nghiệp không có qui định thời gian dài hơn vì đối tượng mà Xí nghiệp bán gián tiếp này là đóng vai trò trung gian phân phối, sau khi mua của Xí nghiệp họ lại bán cho đối tượng khác, như vậy họ không có sản xuất hay tái chế lại nên có thể nói chu kỳ kinh doanh của họ là không dài. Do đó Xí nghiệp chỉ đưa ra khoảng thời gian là 30 ngày.
Về chiết giá:
Khi bán hàng Xí nghiệp thường đưa ra mức giá là: Bình thường vẫn theo giá thị trường như đã nói ở trên, nhưng nếu khách hàng thanh toán ngay hoặc trong khoảng thời gian 10 ngày kể từ ngày ký hợp đồng thì sẽ được hưởng chiết giá từ 3,5% đến 4%. Mức chiết khấu này dao động theo khối lượng hàng hoá mà họ mua, nếu họ mua nhiều và trả tiền sớm theo qui định thì sẽ được hưởng mức chiết giá cao hơn và ngược lại.
Sở dĩ Xí nghiệp đưa ra mức chiết giá cao như vậy với họ là vì họ mua buôn sản phẩm của Xí nghiệp, là cơ quan lưu thông phân phối cho Xí nghiệp. Lượng sản phẩm làm ra của Xí nghiệp được tiêu thụ với khối lượng lớn là thông qua họ.
Về phương thức thanh toán:
Do thường mua với khối lượng lớn nên phần lớn là họ mua với phương thức thanh toán chậm trả. Việc thanh toán bằng tiền mặt chiếm tỷ lệ nhỏ mà chủ yếu là thanh toán bằng chuyển khoản và séc, bởi vì như đã nói ở trên họ mua hàng hoá với khối lượng lớn nên ít sử dụng tiền mặt để thanh toán.
Về điều kiện mua chịu:
Có thể nói Xí nghiệp bán chịu cho khách hàng tới 90%.
Đối với các DNNN như Công ty DPTW I, Công ty dược liệu TW I …Xí nghiệp vốn có mối quan hệ làm ăn lâu dài, hơn nữa họ đều là những DNNN có uy tín trên thị trường và từ trước đến nay họ đều thực hiện tốt việc thanh toán với Xí nghiệp bởi vậy hiên nay Xí nghiệp bán chịu cho họ là chỉ dựa vào uy tín của họ, không đòi hỏi phải đáp ứng điều kiện gì thêm.
Đối với khách hàng là các công ty TNHH thì Xí nghiệp mặc dù có quan hệ lâu nhưng điều kiên để được mua chịu với họ là khắt khe hơn. Đó là nếu họ muốn mua chịu thì cần phải giao cho Xí nghiệp nắm giữ giấy tờ về nhà đất hoặc tài sản có giá trị tương đương. Sở dĩ Xí nghiệp làm như vậy là vì Xí nghiệp chỉ giao dịch với hai công ty TNHH trong số đối tượng bán gián tiếp (công ty TNHH Việt Anh và Công ty TNHH Những Vì Sao) cho nên nếu họ không chấp thuận được điều kiện đó thì Xí nghiệp cũng không cần thiết vì họ chỉ là con số khách hàng nhọ, khối lượng sản phẩm mà họ mua thì không thể lớn bằng với các doanh nghiệp kia.
b. Đối với đối tượng Xí nghiệp bán trực tiếp:
Đối với các quầy hàng, các chi nhánh… là do Xí nghiệp mở hay nói cách khác những người bán hàng ở đây là CNV của Xí nghiệp thì:
Hàng tháng Xí nghiệp đặt ra định mức là họ phải nộp về Xí nghiệp một khoản tiền nhất định, tương đương với lượng hàng Xí nghiệp cấp cho họ bán. Hầu như họ đều bán cho cá nhân người tiêu dùng với khối lượng nhỏ, chỉ có các chi nhánh là đôi khi bán với khối lượng lớn cho các Công ty DP cấp III (ở các huyện). Việc bán hàng ở đây là tuỳ thuộc do họ quyết định, lẽ tất nhiên là vẫn phải bán theo giá thị trường .Và thực chất ở đây là Xí nghiệp thu tiền bán hàng ngay.
Tuỳ theo định mức mà Xí nghiệp đặt ra cho họ thì sẽ có mức chiết giá hợp lý nếu họ nộp tiền sớm cho Xí nghiệp. Mức chiết giá mà Xí nghiệp đặt ra cho họ thường thấp hơn loại đối tượng trên, chỉ từ 2% đến 3%. Sở dĩ như vậy là vì Xí nghiệp còn phải trả lương cho họ nên chỉ cho họ mức chiết giá thấp hơn.
Thời gian tối đa mà Xí nghiệp cho phép họ thanh toán chậm cũng là 30 ngày. Quá thời hạn này mà họ chưa nộp đủ định mức thì số còn thiếu họ phải tự bù ra để nộp hoặc là Xí nghiệp sẽ trích tiền lương của họ. Chính vì vậy họ phải rất tích cực trong bán hàng và ít có trường hợp phải bù tiền ra. Tuy nhiên nếu họ bán hàng được nhiều hơn định mức thì số dư ra là họ được hưởng toàn bộ, đó cũng là một cách khuyến khích họ bán hàng tích cực hơn.
Tất nhiên với những qui định Xí nghiệp đưa ra như vậy sẽ hạn chế được rủi ro trong thanh toán. Và với trường hợp này thì họ thường là thanh toán bằng tiền mặt.
Ta sẽ xem xét tình hình thanh toán với người mua của Xí nghiệp qua số liệu năm 1999, 2000 và 2001 trên tài khoản 131 ( Phải thu khách hàng).
Bên nợ phản ánh số tiền phải thu ở khách hàng, bên có phản ánh số tiền đã thu ở khách hàng và dư nợ cuối tháng phản ánh số tiền mà còn phải thu ở khách hàng. Như vậy qua ba năm 1999, 2000 và 2001- TK 131 của Xí nghiệp đều dư nợ hết, chứng tỏ là khách hàng có thanh toán chậm trả nhiều. Qua số dư nợ cuối năm ta có thể thấy là Xí nghiệp bị chiếm dụng vốn là khá nhiều, tình trạng dây dưa trong thanh toán vẫn còn tồn tại. Mặc dù là thời hạn Xí nghiệp cho mua chịu tối đa là 30 ngày, người mua - nhất là đối tượng bán gián tiếp - thường kéo dài thời gian này; tuy nhiên họ luôn thực hiện thanh toán đủ vào ít ngày sau, chưa khi nào không trả tiền.
Việc nợ đọng này có thể ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của Xí nghiệp.
Bảng 8: Tình hình thanh toán với người mua của Xí nghiệp năm 1999 năm 2000 và năm 2001.
(đơn vị tính: triệu đồng)
TK 131
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
So sánh các năm
2000/1999
%
2001/2000
%
Nợ
93.581
98.729
102.653
105,501
103,975
Có
97.615
94.207
98.855
96,509
104,934
Số dư
cuối năm
(Số dư đầu
năm:12.386)
8.352
12.874
16.672
154,143
129,501
2.2.3. Rủi ro trong thanh toán và giải pháp phòng rủi ro:
a. Rủi ro trong thanh toán:
Rủi ro trong thanh toán là trường hợp khách hàng không trả tiền hoặc xảy ra tình trạng nợ khó đòi.
Đối với XNDPTW I, mặc dù tỷ lệ Xí nghiệp bán chịu cho khách hàng là cao nhưng trong những năm gần đây Xí nghiệp hầu như không có rủi ro về thanh toán đáng kể. Rủi ro ít vì hầu như Xí nghiệp chỉ thực hiện bán chịu rộng rãi với điều kiện tương đối lỏng cho đối tượng khách hàng gián tiếp, mà họ phần lớn là các doanh nghiệp thuộc khối trung ương, có uy tín cao nên việc thanh toán là đầy đủ.
Nếu có rủi ro thì giá trị của lượng hàng đó là nhỏ. Chẳng hạn: Có trường hợp, người đại diện mua hàng của Công ty dược Bắc Ninh tới mua hàng của Xí nghiệp như mọi lần và thực hiện thanh toán chậm trả với khối lượng hàng mua ít. Đến thời hạn Xí nghiệp gửi hoá đơn đòi nợ công ty này thì họ bảo rằng người đó đã nghỉ việc ở công ty. Thật ra đó là trường hợp cá nhân lừa đảo, anh ta cùng một lúc thực hiện vụ việc với nhiều doanh nghiệp khác nhau nên giá trị hàng đối với mỗi doanh nghiệp là không lớn.
Tuy là rủi ro ít xảy ra nhưng Xí nghiệp cũng rất cẩn thận khi bán hàng.
b. Giải pháp phòng rủi ro và xử lý nợ quá hạn:
Khi mua bán hàng hoá với khối lượng lớn, Xí nghiệp đều có hợp đồng đi kèm. Trong hợp đồng ghi rõ nếu có tranh chấp xảy ra thì sẽ giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền. Hợp đồng là một căn cứ pháp lý quan trọng, góp phần đảm bảo khách hàng không trốn tránh thanh toán.
Xí nghiệp cố gắng tạo mối quan hệ tốt với khách hàng. Nếu họ muốn mua chịu thì sẽ cho họ chịu và đòi hỏi phải đáp ứng điều kiện kèm theo.
Xí nghiệp luôn tìm hiểu và nắm rõ thông tin về khách hàng của mình. Thông tin này được Xí nghiệp tìm hiểu qua nhiều nguồn như:
- Từ các doanh nghiệp khác
- Từ những người dân trong vùng đó ( nếu là ở các tỉnh, huyện)
- Từ ngân hàng …
Sau khi bán hàng được một tuần, mặc dù chưa đến thời hạn thanh toán thì Xí nghiệp cũng luôn nhắc nhở họ bằng cách gọi điện nhắc họ thời hạn thanh toán. Nếu như họ chưa thanh toán nợ cũ mà lại muốn mua hàng mới thì Xí nghiệp buộc họ phải thanh toán ít nhất một phần nợ cũ mới cho mua tiếp.
Khách hàng của Xí nghiệp thì có nhiều cho nên nếu có rủi ro xảy ra thì một khách hàng sẽ không đáng kể so với doanh thu Xí nghiệp thu về. Hơn nữa thường thì Xí nghiệp chỉ cho phép các quầy hàng nợ từ 1 đến 2 chục triệu đồng.
Xí nghiệp cũng có tổ chức đội quản lý nợ, thực ra họ cũng chính là những người bán hàng của Xí nghiệp. Khi đến thời hạn mà khách hàng chưa thanh toán thì họ sẽ liên tục đến gặp khách hàng để nhắc nhở phải thanh toán. Nhưng nếu có quá thời hạn qui định mà chưa thanh toán thì nhất là đối với các khách hàng quen thuộc Xí nghiệp không phạt gì khi họ thực hiện thanh toán sau đó. Xí nghiệp cũng có sự dễ dàng hơn đối với đối tượng mà Xí nghiệp bán gián tiếp, nếu họ có thanh toán chậm một chút cũng không sao bởi vì là Xí nghiệp còn mua NVL của họ.
Nói chung khi bán hàng Xí nghiệp phải luôn cố gắng để có thể thu tiền về. Nếu là khách hàng mua lần đầu, thuộc đối tượng Xí nghiệp bán gián tiếp thì Xí nghiệp chỉ chấp nhận phương thức thanh toán ngay. Đến các lần sau thì Xí nghiệp có thể cho họ mua chịu nếu lần đầu thực hiện tốt việc thanh toán.
Nếu xảy ra nợ quá hạn thì sẽ thực hiện phạt tính theo lãi suất ngân hàng. Nhưng thực tế hầu như Xí nghiệp chưa áp dụng hình thức này, vì muốn giữ khách hàng nên nếu có quá thời hạn vài ngày mà thanh toán đủ thì cũng không phạt. Nhưng có thể là lần sau sẽ ít tin tưởng ở khách hàng đó nữa.
2.3. Thanh toán với nhà nước:
Cũng như các doanh nghiệp khác khi đã thực hiện sản xuất kinh doanh là sẽ phát sinh các nghĩa vụ thanh toán với nhà nước. Trong kỳ kinh doanh, XNDPTW I cũng phải có nộp các khoản bắt buộc đối với nhà nước như:
Thuế GTGT, thuế môn bài, thuế nhập khẩu, thuế TNDN, thu sử dụng vốn, thuế đất.
Việc tính và nộp các loại thuế này là theo đúng qui định của các văn bản pháp luật mà nhà nước đã ban hành.
Thuế GTGT ở Xí nghiệp áp dụng là tính theo phương pháp khấu trừ. Chính vì vậy việc tính thuế GTGT phải nộp là rõ ràng.
XNDPTW I hoạt động kinh doanh luôn có lãi nên việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước là rất đầy đủ, không có sự chậm trễ trong việc thanh toán.
Ta có thể thấy được tình hình thực hiện thanh toán với ngân sách nhà nước qua bảng sau.
Qua bảng này có thể thấy tình hình thực hiện thanh toán với nhà nước của Xí nghiệp là tốt, cụ thể là với các khoản thanh toán phát sinh trong kỳ đều được Xí nghiệp thực hiện nộp đầy đủ, không có tình trạng dây dưa nợ đọng. Điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp có hiệu quả, đảm bảo đầy đủ về nghĩa vụ thanh toán với nhà nước. Các số liệu có dấu (-) ở đằng trước biểu thị số tiền Xí nghiệp nộp thừa.
Việc thanh toán này được Xí nghiệp thực hiện trực tiếp bằng tiền mặt hay bằng tiền gửi ngân hàng.
Bảng 9: Tình hình thực hiện nghĩa vụ thanh toán với nhà nước của Xí nghiệp
vào thời điểm cuối năm 1999 ,năm 2000 và năm 2001.
(đơn vị tính: triệu đồng)
Các khoản
phải nộp
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số phải
nộp kỳ
này
Số đã
nộp kỳ
này
Số còn
phải nộp
Số phải nộp kỳ
này
Số đã nộp kỳ này
Số còn phải nộp
Số phải
nộp kỳ
này
Số đã
nộp kỳ
này
Số còn
phải nộp
1.Thuế GTGT
(thực nộp
+ bù trừ)
1.196
971,987
224,013
5.131
4.774
357
5.649
6.079
-430
2.Thuế TNDN
18,762
100
-81,237
571,628
400
171,628
480
460
20
3.Thu trên vốn
90
50
40
541,763
230
311,763
317
315
2
4.Thuế nhà đất
200
200
0
200
200
0
200
200
0
5. Thuế
nhập khẩu
39,701
39,701
0
230,298
213,956
16,342
445,684
459,842
14,158
2.4. Thanh toán với ngân hàng và các tổ chức tín dụng:
Khi đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp không thể không vay ngân hàng dù là ít hay nhiều.
XNDPTW I chủ yếu có mối quan hệ với hai ngân hàng là NHCT Đống Đa và ngân hàng Indovina.
* Với NHCT Đống Đa thì Xí nghiệp mở tài khoản tiền gửi bằng VNĐ và thực hiện các khoản vay bằng VNĐ.
Hơn nữa, XNDPTW I giao dịch với NHCT Đống Đa nhằm sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng cho các đối tượng trong nước.
Về việc sử dụng dịch vụ thanh toán qua NHCT Đống Đa, Xí nghiệp phải trả phí theo qui định riêng của ngân hàng. Phí này được trả bằng tiền mặt hoặc bằng tiền trên tài khoản tiền gửi của Xí nghiệp tại ngân hàng nhưng thường là trả bằng tiền trên tài khoản tiền gửi.
Xí nghiệp thường vay ngân hàng với mục đích như:
- Vay ngắn hạn để thanh toán cho người cung cấp.
- Vay để đầu tư xây dựng cơ bản …
trong đó vay để thanh toán chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Xí nghiệp có giao dịch với NHCT Đống Đa từ lâu, quan hệ thanh toán tốt nên việc Xí nghiệp được cho vay là hoàn toàn dựa vào uy tín của Xí nghiệp, có trường hợp vay nhiều để thanh toán thì chỉ cần có hợp đồng mua bán là đủ, nhưng khi mà thực hiện mở L/C thanh toán với nước ngoài thì vẫn phải ký quỹ một khoản tiền từ 5% đến 10% giá trị của hợp đồng.
Để có thể tạo mối quan hệ tốt và tạo niềm tin ở ngân hàng, Xí nghiệp luôn cố gắng thực hiện thanh toán các khoản nợ đúng hạn.
* Với ngân hàng Indovina:
Xí nghiệp có mở tài khoản tiền gửi bằng USD và sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng để thanh toán với người cung cấp ở nước ngoài, hoặc vay bằng USD cũng để nhằm mục đích thanh toán.
Việc sử dụng các dịch vụ của ngân hàng thì trả phí cũng theo qui định riêng của ngân hàng.
Xí nghiệp thường thực hiện mở L/C tại ngân hàng này để thanh toán cho người cung cấp ở nước ngoài. Khi mở L/C thì đòi hỏi phải có tài khoản ký quỹ, tiền trên tài khoản này có thể được lấy từ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
Indovina hoặc là vay trực tiếp của ngân hàng, mức ký quỹ là 5% giá trị hợp đồng.
Việc Xí nghiệp được vay cũng phần lớn là dựa vào uy tín của Xí nghiệp với ngân hàng từ trước đến nay.
Ta hãy xem tình hình vay và trả nợ vay ngắn hạn bằng VNĐ và bằng USD của XNDPTW I qua số liệu được lấy từ tài khoản 311.1 và 311.2 trong ba năm 1999, 2000 và 2001.
TK 311.1 thể hiện vay ngắn hạn bằng VNĐ
TK 311.2 thể hiện vay ngắn hạn bằng USD (qui ra đồng VN theo tỷ giá tại thời điểm đó)
Bên nợ phản ánh số tiền vay đã trả, bên có phản ánh số tiền vay, dư có phản ánh số tiền còn vay.
Qua bảng này ta có thể thấy Xí nghiệp vay ngắn hạn với số lượng khá lớn , nhất là bằng VNĐ. Nhưng Xí nghiệp đều thực hiện thanh toán với ngân hàng. ở đây khoản thanh toán đôi khi được Xí nghiệp trả bằng khoản phải thu khách hàng nhưng chủ yếu vẫn là bằng tiền gửi ngân hàng.
Bảng 10: Tình hình vay và trả nợ vay ngắn hạn của
XNDPTW I trong năm 1999, năm 2000 và năm 2001.
(đơn vị tính: triệu đồng)
Tk 311.1
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Nợ
40.613
39.753
35.987
Có
38.104
43.261
45.632
Số dư
cuối năm
(Số dư đầu
năm:19.137)
16.628
20.136
25.781
TK311.2
Nợ
35.682
34.132
33.353
Có
34.205
35.863
37.914
Số dư
cuối năm
(Số dư đầu
năm :10.057)
8.580
10.311
14.872
3. Các nguồn tài trợ ngắn hạn chính cho hoạt động thanh toán trong kinh doanh của XNDPTW I :
3.1. Vay ngân hàng:
Như ở mục trên đã nói vay ngân hàng là một nguồn mà Xí nghiệp có thể sử dụng cho các hoạt động thanh toán của Xí nghiệp.
3.2. Vốn của Xí nghiệp:
Xí nghiệp cũng tài trợ cho hoạt động thanh toán của mình bằng chính vốn lưu động của Xí nghiệp hay là bằng doanh thu bán hàng. Đây cũng là một nguồn quan trọng thể hiện khả năng tài chính của Xí nghiệp tốt hay không.
3.3. Vay của CBCNV:
Kể từ năm 1996, Xí nghiệp đã thực hiện các đợt vay CBCNV để tài trợ cho nhu cầu vốn ngắn hạn của minh. Các điểm cụ thể trong quá trình huy động vốn này như sau:
- Xí nghiệp tổ chức vay CBCNV mỗi tháng một lần. Những người muốn cho Xí nghiệp vay sẽ đăng ký tại phòng tài vụ của Xí nghiệp.
- Số tiền mỗi người cho vay không hạn chế. Cho đến nay, mức thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 20 triệu đồng.
- Thời hạn cho vay ít nhất là ba tháng và có thể kéo dài tuỳ người cho vay. Với những người cho vay số tiền lớn, nếu muốn rút gốc phải báo trước cho Xí nghiệp ít nhất là một tháng.
- Lãi suất trả cho người vay luôn bám sát lãi suất cho vay của ngân hàng và thấp hơn một chút.
- Cứ sau ba tháng, Xí nghiệp sẽ tổng kết lại quá trình thực hiện, trả lãi, trả gốc cho những người có nhu cầu.
Đến nay, nguồn huy động này đã phục vụ khá hiệu quả cho nhu cầu vốn ngắn hạn của Xí nghiệp.
3.4. Tín dụng thương mại hay mua chịu của nhà cung cấp:
Hình thức này chiếm vị trí quan trọng trong nguồn tài trợ ngắn hạn.
Bất cứ khách hàng nào có nguyên liệu rẻ, quan hệ tốt thì Xí nghiệp đều có thể thoả thuận mua của họ. Khi thực hiện mua chịu thì Xí nghiệp coi như là được tài trợ một nguồn vốn ngắn hạn từ phía người bán.
Qua khảo sát tại Xí nghiệp, để tài trợ cho những kế hoạch kinh doanh ngắn hạn Xí nghiệp thường đi vay vốn ngân hàng và trả bằng chính nguồn thu được từ bán hàng. Tuy nhiên, cũng có lúc Xí nghiệp bị khách hàng nợ đọng, gây ra những khoản phải thu và chưa thu được tiền ngay. Lúc đó, Xí nghiệp sử dụng những khoản tiền nợ từ việc mua hàng mà chưa phải trả ngay để trả nợ ngân hàng hoặc là phải sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp để tài trợ. Trên lý thuyết thì hình thức tài trợ bằng việc trì hoãn các khoản phải trả sẽ rất đắt vì lãi suất nợ quá hạn thường cao và kèm theo những điều khoản khắt khe. Tuy nhiên trong thực tế với tình hình hiện nay, việc áp đặt lãi suất nợ quá hạn giữa các bên mua bán không hề xảy ra thì nguồn tài trợ này nhiều khi lại rất hữu ích cho Xí nghiệp.
Chương III
Một số giải pháp cho hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở XNDPTW I
I. Đánh giá khái quát về hoạt động thanh toán trong
kinh doanh ở XNDPTW I:
1. Đánh giá chung:
Trong chương II chúng ta đã tiến hành xem xét khá sâu một số hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở XNDPTW I gồm: Thanh toán với người cung cấp, thanh toán với người mua, thanh toán với nhà nước và thanh toán với ngân hàng. Qua quá trình đó, ta có thể rút ra một số nét lớn về hoạt động thanh toán trong kinh doanh của Xí nghiệp như sau:
- Trong hoạt động thanh toán Xí nghiệp vẫn còn sử dụng khá nhiều phương tiện thanh toán là tiền mặt. Việc sử dụng này có thể nói là tốn kém, không an toàn và khi mang đi thanh toán thì thường là với số lượng lớn nên cũng khá bất tiện. Nhưng mặt khác ở nước ta các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt vẫn chưa được sử dụng phổ biến nên Xí nghiệp vẫn phải sử dụng nhiều tiền mặt trong thanh toán là điều khó tránh khỏi.
- Khả năng chuyển thành tiền của các khoản phải thu của Xí nghiệp nói chung là không cao. Xí nghiệp có vướng mắc trong chính sách bán chịu đối với người mua: Xí nghiệp cho khách hàng nợ nhiều (tới 90%) - Xí nghiệp thực hiện bán chịu nhiều. Trong suốt ba năm 1999, 2000, 2001 các khoản phải thu của Xí nghiệp luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tài sản lưu động và không có chiều hướng giảm. Mức tiêu thụ sản phẩm của Xí nghiệp luôn ở mức cao nhưng tương ứng với nó là các khách hàng luôn trì hoãn việc trả tiền làm cho thực thu vào Xí nghiệp thấp. Điều này có thể gây ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của Xí nghiệp.
- Chính sách bán chịu của Xí nghiệp với khách hàng còn dễ dàng không có nhiều ràng buộc gì mấy. Tuy nhiên, điều này cũng có thể thu hút được thêm nhiều khách hàng mới và làm tăng doanh thu. Mặc dù vậy hầu như khách hàng mà Xí nghiệp bán gián tiếp chỉ bó hẹp trong một số công ty thuộc khối trung ương còn các công ty tư nhân, công ty TNHH chỉ chiếm không đáng kể. Mà trên thực tế nhiều khi các công ty tư nhân lại có hoạt động rất tốt có thể giúp Xí nghiệp tiêu thụ được sản phẩm vì họ cũng khá là năng động.
- Về tín dụng đối với nhà cung cấp: Xí nghiệp cũng đã phần nào tận dụng được nguồn này như một nguồn tài trợ ngắn hạn, giúp cho Xí nghiệp không bị thiếu vốn tạm thời trong kinh doanh khi chưa đến hạn trả tiền.
- Mức vay ngắn hạn của Xí nghiệp như vậy là khá cao. Tuy nhiên khi Xí nghiệp thực hiện chính sách bán chịu như vậy thì khách hàng sẽ có cơ hội để chiếm dụng vốn của Xí nghiệp nhiều hơn dẫn đến tình trạng thiếu vốn tạm thời trong kinh doanh và khi đó Xí nghiệp phải đi vay ngắn hạn. Nhưng việc vay như vậy đã đặt Xí nghiệp vào một tình trạng căng thẳng về khả năng thanh toán.
- Các giải pháp phòng rủi ro trong thanh toán của Xí nghiệp đặt ra là khá tốt, nó bổ sung cho các điều khoản dễ dàng của chính sách bán chịu, giúp Xí nghiệp giảm bớt rủi ro.
- Về vấn đề các nguồn tài trợ ngắn hạn, Xí nghiệp đã khá thành công trong việc đa dạng hoá các nguồn tài trợ ngắn hạn, cụ thể là vay của cán bộ công nhân viên.
Như vậy nhìn chung là hoạt động thanh toán của Xí nghiệp là tương đối tốt nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số mặt chưa được hợp lý cần phải có giải pháp để sửa đổi cho phù hợp hơn. Sở dĩ là như vậy vì có những nguyên nhân như sau
2. Nguyên nhân:
2.1. Nguyên nhân chủ quan:
Xí nghiệp đã nhận thức được rằng trong nền kinh tế thị trường để tiêu thụ được nhiều hàng hoá thì phải thoả mãn được nhu cầu của người mua, một trong những nhu cầu đó là được mua chịu. Do vậy Xí nghiệp đã thực hiện một chính sách bán chịu rất rộng. Tuy nhiên việc mở rộng quá như vậy chưa thật hợp lý, chưa kết hợp đề ra những điều kiện bán hàng phù hợp nhất với đối tượng người mua mà cần có sự xem xét cho phù hợp với tình hình hoạt động của Xí nghiệp.
Xí nghiệp chưa quan tâm đúng mức tới việc đánh giá tình hình thanh toán thường xuyên để có thể đưa ra các biện pháp cải thiện tình hình thanh toán cho tốt hơn.
2.2. Nguyên nhân khách quan:
a. Tìm kiếm thông tin:
Khi tiến hàng giao dịch với khách hàng thì một trong những điều kiện cần thiết là Xí nghiệp cần nắm được những thông tin về khách hàng đó, nhất là trong trường hợp bán chịu thì cần phải biết được thông tin về tình hình tài chính của họ. Nhưng việc tìm kiếm những thông tin đó là không phải dễ dàng. Bởi vì là:
Tình hình tài chính của một doanh nghiệp thể hiện khá đầy đủ trong các báo cáo tài chính, tuy nhiên vấn đề công khai các báo cáo tài chính này đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam gần như chưa được thực hiện.
Ngay cả khi Xí nghiệp đã thu thập được thông tin thì những thông tin đó không bảo đảm có chính xác hay không.
b. Nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao:
Mặc dù trong những năm qua nền kinh tế của nước ta đã có những bước tiến nhanh song vẫn chưa đạt đến một nền kinh tế phát triển cao. Điều này gây ra những khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động thanh toán.
Thứ nhất, thị trường tài chính của ta chưa phát triển, đặc biệt là thị trường tiền tệ. Bởi thế việc thực hiện mua bán các công cụ nợ là còn rất hạn chế.
Thứ hai, những dịch vụ tài chính có thể tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán là hạn chế. Chẳng hạn ở nước ta, chưa có các công ty chuyên về cung cấp các thông tin về doanh nghiệp …
Việc tổ chức tốt hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở XNDPTW I sẽ giúp cho Xí nghiệp kinh doanh được thuận lợi hơn. Tuy nhiên do có những hạn chế nhất định nên việc này ở Xí nghiệp vẫn chưa đạt được hiệu quả tốt nhất. Do đó cần có những giải pháp để làm cho hoạt động thanh toán trong kinh doanh tốt hơn.
II. Một số giải pháp cho hoạt động thanh toán trong kinh doanh ở XNDPTW I:
Để cho hoạt động thanh toán trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24706.DOC