Tài liệu Đề tài Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội: thực trạng và giải pháp phát triển: Më §ÇU
Giao nhận và vận tải hàng hóa là yêu cầu tất yếu của trao đổi, mua bán hàng hóa, nó là một khâu không thể thiếu được trong quá trình lưu thông, nhằm đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Trong kinh doanh ngoại thương, giao nhận và vận tải hàng hóa càng có vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng tới phạm vi mặt hàng, khối lượng và kim ngạch buôn bán của các quốc gia, cũng như của các doanh nghiệp. Trước kia, giao nhận có thể do người kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà vận tải tiến hành. Khi vận tải và buôn bán quốc tế phát triển, đòi hỏi sự phân công lao động và chuyên môn hóa trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, vận tải, giao nhận. Kết quả là giao nhận tách khỏi xuất nhập khẩu và vận tải, sinh ra các tổ chức giao nhận chuyên nghiệp, phục vụ vận tải và buôn bán quốc tế. Các tổ chức này hình thành dưới dạng các hãng, công ty.
Đối với nước ta hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, cùng với sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại quốc tế, vi...
98 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội: thực trạng và giải pháp phát triển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Më §ÇU
Giao nhận và vận tải hàng hóa là yêu cầu tất yếu của trao đổi, mua bán hàng hóa, nó là một khâu không thể thiếu được trong quá trình lưu thông, nhằm đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Trong kinh doanh ngoại thương, giao nhận và vận tải hàng hóa càng có vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng tới phạm vi mặt hàng, khối lượng và kim ngạch buôn bán của các quốc gia, cũng như của các doanh nghiệp. Trước kia, giao nhận có thể do người kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà vận tải tiến hành. Khi vận tải và buôn bán quốc tế phát triển, đòi hỏi sự phân công lao động và chuyên môn hóa trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, vận tải, giao nhận. Kết quả là giao nhận tách khỏi xuất nhập khẩu và vận tải, sinh ra các tổ chức giao nhận chuyên nghiệp, phục vụ vận tải và buôn bán quốc tế. Các tổ chức này hình thành dưới dạng các hãng, công ty.
Đối với nước ta hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, cùng với sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại quốc tế, việc phát triển các hoạt động giao nhận vận tải quốc tế có một ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần làm cho kinh tế đất nước phát triển nhanh mạnh hòa nhịp cùng xu thế phát triển của thời đại.
Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải, Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS đã có mặt trên thị trường này từ khi nó còn là một lĩnh vực khá mới mẻ đối với Việt Nam. Qua một thời kỳ dài trưởng thành và phát triển, SOTRANS đã khẳng định được vị thế của mình, nâng thương hiệu SOTRANS lên tầm quốc tế. Sau một thời gian thực tập tại SOTRANS Hà Nội, nhận thấy vai trò của hoạt động giao nhận hàng hóa là đặc biệt quan trọng trong hoạt động ngoại thương nên em quyết định chọn đề tài: "Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội: thực trạng và giải pháp phát triển". Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế của SOTRANS Hà Nội giai đoạn 2000 - 2004, với mục đích đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế nói riêng và phát triển hoạt động kinh doanh nói chung cho Chi nhánh.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên sự tổng hợp, phân tích và đánh giá các số liệu về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội
CH¦¥NG I
Lý LUËN chung VÒ kinh DOANH DÞCH Vô GIAO NHËN HµNG HãA QUèC TÕ
I. DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
1.1. Khái niệm về dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Đặc điểm của buôn bán quốc tế là người mua và người bán ở những nước khác nhau. Sau khi hợp đồng mua bán được ký kết, người bán thực hiện việc giao hàng, tức là hàng hóa được vận chuyển từ người bán sang người mua. Để cho quá trình vận chuyển đó được bắt đầu - tiếp tục - kết thúc, tức là hàng hóa đến tay người mua, cần phải thực hiện hàng loạt các công việc khác liên quan đến quá trình chuyên chở như bao bì, đóng gói, lưu kho, đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, vận tải hàng hóa đến cảng đích, dỡ hàng ra khỏi tàu và giao cho người nhận hàng… Những công việc đó được gọi là giao nhận vận tải hàng hóa.
Theo quy tắc mẫu của Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA) về dịch vụ giao nhận, dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Theo Luật Thương mại Việt Nam "Dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác (gọi chung là các khách hàng)".
Như vậy, giao nhận hàng hóa quốc tế là tập hợp những nghiệp vụ, thủ tục có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng (giữa hai quốc gia khác nhau).
1.2. Phạm vi của dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Trừ phi chính người gửi hàng hoặc người nhận hàng muốn trực tiếp tham gia vào bất cứ khâu thủ tục hoặc chứng từ nào, còn thông thường người giao nhận thay mặt chủ hàng lo liệu quá trình vận chuyển qua các giai đoạn khác nhau. Người giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba khác. Dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế bao gồm bốn loại thông dụng trên thế giới hiện nay là:
1.2.1. Loại dịch vụ thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu)
Theo những chỉ dẫn của người gửi hàng, người giao nhận sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người chuyên chở thích hợp.
Lưu cước với người chuyên chở đã chọn.
Nhận hàng và cung cấp những chứng từ thích hợp như: giấy chứng nhận hàng của người giao nhận, giấy chứng nhận chuyên chở của người giao nhận…
Nghiên cứu những điều khoản trong tín dụng thư và tất cả những luật lệ của Chính phủ áp dụng vào việc giao hàng ở nước xuất khẩu, nước nhập khẩu cũng như ở bất kỳ nước quá cảnh nào, và chuẩn bị tất cả những chứng từ cần thiết.
Đóng gói hàng hóa (trừ phi việc này do người gửi hàng làm trước khi giao hàng cho người giao nhận) có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản chất của hàng hóa và những luật lệ áp dụng nếu có ở nước xuất khẩu, nước quá cảnh và nước gửi hàng đến.
Lo liệu việc lưu kho hàng hóa nếu cần.
Cân, đo hàng hóa.
Mua bảo hiểm cho hàng hóa nếu người gửi hàng yêu cầu.
Vận tải hàng hóa đến cảng, thực hiện việc khai báo hải quan, các thủ tục chứng từ liên quan và giao hàng cho người chuyên chở.
Thực hiện việc giao dịch ngoại hối, nếu có.
Thanh toán phí và những chi phí khác bao gồm cả tiền cước.
Nhận vận đơn đã ký của người chuyên chở giao cho người gửi hàng.
Thu xếp việc chuyển tải trên đường nếu cần thiết.
Giám sát việc vận tải hàng hóa trên đường gửi tới người nhận hàng thông qua những mối liên hệ với người chuyên chở và đại lý của người giao nhận ở nước ngoài.
Ghi nhận những tổn thất của hàng hóa, nếu có.
Giúp đỡ người gửi hàng tiến hành khiếu nại với người chuyên chở về tổn thất hàng hóa, nếu có.
1.2.2. Loại dịch vụ thay mặt người nhận hàng (người nhập khẩu)
Theo những chỉ dẫn giao hàng của khách hàng, người giao nhận sẽ:
Thay mặt người nhận hàng giám sát việc vận tải hàng hóa khi người nhận hàng lo liệu vận tải hàng hóa.
Nhận và kiểm tra tất cả những chứng từ liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa…
Nhận hàng của người chuyên chở và nếu cần thì thanh toán cước.
Thu xếp việc khai báo hải quan và trả lệ phí, thuế và những phí khác cho Hải quan và những cơ quan khác.
Thu xếp việc lưu kho quá cảnh nếu cần.
Giao hàng đã làm thủ tục hải quan cho người nhận hàng.
Giúp đỡ người nhận hàng tiến hành khiếu nại đối với người chuyên chở về tổn thất hàng hóa nếu cần.
Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối nếu cần.
1.2.3. Dịch vụ giao nhận hàng hóa đặc biệt
Người giao nhận thường thực hiện việc giao nhận hàng bách hóa bao gồm nhiều loại thành phẩm, bán thành phẩm, hay hàng sơ chế và những hàng hóa khác giao lưu trong buôn bán quốc tế. Ngoài ra tùy theo yêu cầu của khách hàng, người giao nhận cũng có thể làm những dịch vụ khác có liên quan đến các loại dịch vụ hàng hóa đặc biệt như:
Vận chuyển hàng công trình
Việc này chủ yếu là vận chuyển máy móc nặng, thiết bị... để xây dựng những công trình lớn như sân bay, nhà máy hóa chất, nhà máy thủy điện, cơ sở lọc dầu... từ nơi sản xuất đến công trường xây dựng. Việc di chuyển những hàng hóa này cần phải có kế hoạch cẩn thận để đảm bảo giao hàng đúng thời hạn và có thể cần phải sử dụng cần cẩu loại nặng, xe vận tải ngoại cỡ, tàu chở hàng loại đặc biệt... Đây là một lĩnh vực chuyên môn hóa của người giao nhận.
Dịch vụ về vận chuyển quần áo treo trên mắc
Những quần áo may mặc được chuyên chở bằng những chiếc mắc áo treo trên giá trong những container đặc biệt, và ở nơi đến được chuyển trực tiếp từ container vào cửa hàng để bày bán. Cách này loại bỏ được việc phải chế biến lại quần áo nếu đóng nhồi trong container và đồng thời tránh được ẩm ướt, bụi bẩn…
Triển lãm ở nước ngoài
Người giao nhận thường được người tổ chức triển lãm giao cho việc chuyên chở hàng đến nơi triển lãm ở nước ngoài. Người giao nhận phải tuân thủ những chỉ dẫn đặc biệt của người tổ chức triển lãm về phương thức chuyên chở được sử dụng, về nơi cụ thể làm thủ tục hải quan ở nước đến khi giao hàng triển lãm, về những chứng từ cần lập…
1.2.4. Dịch vụ khác
Ngoài những dịch vụ nêu trên, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng, người giao nhận cũng có thể làm những dịch vụ khác phát sinh trong quá trình chuyên chở và cả những dịch vụ đặc biệt như gom hàng, có liên quan đến hàng công trình, các dự án chìa khóa trao tay…
Người giao nhận cũng có thể thông báo cho khách hàng của mình về nhu cầu tiêu dùng, những thị trường mới, tình hình cạnh tranh, chiến lược xuất khẩu, những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng mua bán ngoại thương và nói chung là tất cả những vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh của khách hàng.
2. Người giao nhận hàng hóa trong thương mại quốc tế
2.1. Khái niệm về người giao nhận hàng hóa quốc tế
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là "Người giao nhận - Freight Forwader". Người giao nhận có thể là:
Chủ hàng.
Chủ tàu.
Công ty xếp dỡ hay kho hàng.
Người giao nhận chuyên nghiệp.
Bất kỳ một người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa. Theo Luật Thương mại Việt Nam thì đó là thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất được quốc tế chấp nhận về thuật ngữ "Người giao nhận". Ở nhiều nước khác nhau người kinh doanh giao nhận được gọi tên khác nhau như: Đại lý hải quan, Môi giới hải quan, Đại lý thanh toán, Đại lý gửi hàng và giao nhận, Người chuyên chở chính... Nhưng tất cả đều mang một tên chung trong giao dịch quốc tế là "Người giao nhận hàng hóa quốc tế" (International Freight Forwarder) mà nhiệm vụ chủ yếu của người giao nhận là bán dịch vụ giao nhận.
Đặc biệt trong những năm gần đây, người giao nhận thường cung cấp dịch vụ VTĐPT, đóng vai trò là người kinh doanh VTĐPT (MTO) và phát hành cả vận đơn vận tải.
Doanh nghiệp giao nhận là doanh nghiệp kinh doanh các loại dịch vụ giao nhận hàng hóa trong xã hội. Sản phẩm của doanh nghiệp giao nhận chính là các dịch vụ trong giao nhận mà doanh nghiệp giao nhận đóng vai trò người giao nhận.
2.2. Vai trò của người giao nhận hàng hóa trong thương mại quốc tế
Trước đây, người giao nhận chỉ làm đại lý thực hiện một số công việc do các nhà xuất nhập khẩu ủy thác như xếp dỡ, lưu kho hàng hóa, làm thủ tục giấy tờ, lo liệu vận tải nội địa, thủ tục thanh toán tiền hàng... Song cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế và tiến bộ kỹ thuật trong ngành vận tải mà dịch vụ giao nhận cũng được mở rộng hơn. Ngày nay người giao nhận đóng vai trò rất quan trọng trong thương mại và vận tải quốc tế. Người giao nhận không chỉ làm đại lý, người nhận ủy thác mà còn cung cấp các dịch vụ trọn gói về toàn bộ quá trình vận tải, phân phối hàng hóa và đóng vai trò như một bên chính - Người chuyên chở. Vai trò này thể hiện qua các chức năng sau đây:
2.2.1. Môi giới hải quan/ Người giao nhận tại biên giới
Thuở ban đầu, người giao nhận chỉ hoạt động ở trong nước với nhiệm vụ là làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu. Sau đó, mở rộng hoạt động phục vụ cả hàng xuất khẩu và dành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu theo sự ủy thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tùy thuộc vào quy định của hợp đồng mua bán. Trên cơ sở được Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt người xuất khẩu, người nhập khẩu để khai báo, làm thủ tục hải quan hay môi giới hải quan.
2.2.2. Làm đại lý
Trước đây, người giao nhận không đảm nhận trách nhiệm của người chuyên chở, mà chỉ hoạt động như một cầu nối giữa người gửi hàng và người chuyên chở như một đại lý của người chuyên chở hoặc của người gửi hàng. Người giao nhận nhận ủy thác từ chủ hàng hoặc từ người chuyên chở để thực hiện các công việc khác nhau như nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu kho… trên cơ sở hợp đồng ủy thác.
Người giao nhận khi là đại lý:
Nhận ủy thác từ người chủ hàng để lo những công việc giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu, làm việc để bảo vệ lợi ích của chủ hàng, làm trung gian giữa người gửi hàng với người vận tải, người vận tải với người nhận hàng, người bán với người mua.
Hưởng hoa hồng và không chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hóa, chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình chứ không chịu trách nhiệm về hành vi của người làm thuê cho mình hoặc cho chủ hàng.
2.2.3. Lo liệu chuyển tải và tiếp gửi hàng hóa
Khi hàng hóa phải chuyển tải hoặc quá cảnh qua nước thứ ba, người giao nhận sẽ lo liệu thủ tục quá cảnh hoặc tổ chức chuyển tải hàng hóa từ phương tiện vận tải này sang phương tiện vận tải khác, hoặc giao hàng đến tay người nhận.
2.2.4. Lưu kho hàng hóa
Trong trường hợp phải lưu kho hàng hóa trước khi xuất khẩu hoặc sau khi nhập khẩu, người giao nhận sẽ lo liệu việc đó bằng phương tiện của mình hoặc thuê người khác và phân phối hàng hóa nếu có yêu cầu.
2.2.5. Người gom hàng
Dịch vụ này đã xuất hiện rất sớm ở châu Âu chủ yếu phục vụ cho vận tải đường sắt. Đặc biệt trong vận tải hàng hóa bằng container, dịch vụ gom hàng là không thể thiếu nhằm biến hàng lẻ (LCL) thành hàng nguyên container (FCL) để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải. Khi là người gom hàng, người giao nhận có thể đóng vai trò là người chuyên chở hoặc chỉ là đại lý.
2.2.6. Người chuyên chở
Trong nhiều trường hợp, người giao nhận đóng vai trò là người chuyên chở, tức là người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải với chủ hàng và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng. Người giao nhận đóng vai trò là người thầu chuyên chở (Contracting Carrier) nếu anh ta ký hợp đồng mà không trực tiếp chuyên chở. Nếu người giao nhận trực tiếp chuyên chở thì anh ta là người chuyên chở thực tế (Performing Carrier). Dù là người chuyên chở gì thì vẫn chịu trách nhiệm về hàng hóa. Trong trường hợp này, người giao nhận phải chịu trách nhiệm về hàng hóa trong suốt hành trình không những về hành vi lỗi lầm của mình mà cả những người anh ta sử dụng và có thể phát hành vận đơn.
2.2.7. Người kinh doanh vận tải đa phương thức ( MTO/CTO)
Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hay còn gọi là "Vận tải từ cửa đến cửa" thì người giao nhận đã đóng vai trò là người kinh doanh VTĐPT. MTO thực chất là người chuyên chở, thường là chuyên chở theo hợp đồng và phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa.
Với nhiều chức năng như vậy, người giao nhận thường được coi là "Kiến trúc sư của vận tải" vì người giao nhận có khả năng tổ chức quá trình vận tải một cách tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất.
3. Các tổ chức giao nhận quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam
3.1. Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận - FIATA
Ngay từ năm 1552, hãng giao nhận đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện ở Badiley, Thụy Sĩ, với tên gọi E. Vansai. Hãng này kinh doanh cả vận tải, giao nhận và thu phí giao nhận rất cao, khoảng 1/3 giá trị của hàng hóa.
Cùng với sự phát triển của vận tải và buôn bán quốc tế, giao nhận được tách khỏi vận tải và buôn bán, dần trở thành một nghành kinh doanh độc lập. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty giao nhận dẫn đến sự ra đời các Hiệp hội giao nhận trong phạm vi một cảng, một khu vực hay một nước. Trên phạm vi quốc tế hình thành các Liên đoàn giao nhận như: Liên đoàn những người giao nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ… đặc biệt là "Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận", gọi tắt là FIATA.
Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA), thành lập năm 1926 là một tổ chức giao nhận, vận tải lớn nhất thế giới. FIATA là một tổ chức phi chính trị, tự nguyện, là đại diện của 35.000 công ty giao nhận ở 130 quốc gia trên thế giới. Thành viên của FIATA là các hội viên chính thức và hội viên hợp tác. Hội viên chính thức là Liên đoàn giao nhận của các nước, còn hội viên hợp tác là các công ty giao nhận riêng lẻ.
FIATA được sự thừa nhận của các cơ quan thuộc Liên hợp quốc như: Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC), Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), Ủy ban châu Âu của Liên hợp quốc (ECE) và ESCAP…
FIATA cũng được các tổ chức liên quan đến buôn bán và vận tải như: Phòng thương mại quốc tế, Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (IATA), các tổ chức của người chuyên chở và chủ hàng thừa nhận.
Mục tiêu chính của FIATA là bảo vệ và tăng cường lợi ích của người giao nhận trên phạm vi quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận, liên kết nghề nghiệp, tuyên truyền dịch vụ giao nhận vận tải, xúc tiến quá trình đơn giản hóa và thống nhất chứng từ và các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn nhằm cải tiến chất lượng dịch vụ của hội viên, đào tạo nghiệp vụ ở trình độ quốc tế, tăng cường các quan hệ phối hợp giữa các tổ chức giao nhận với chủ hàng và người chuyên chở. Phạm vi hoạt động của FIATA rất rộng, thông qua hoạt động của hàng loạt Tiểu ban:
Tiểu ban về các quan hệ xã hội.
Tiểu ban nghiên cứu về kỹ thuật vận chuyển đường ô tô, đường sắt, đường hàng không…
Ủy ban về vận chuyển đường biển và vận tải đa phương thức.
Tiểu ban luật pháp, chứng từ và bảo hiểm.
Tiểu ban về đào tạo nghề nghiệp.
Ủy ban về đơn giản hóa thủ tục buôn bán.
Tiểu ban về hải quan.
Hiện nay nhiều công ty giao nhận của Việt Nam đã trở thành hội viên hợp tác của FIATA.
3.2. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam - VIFFAS
Những năm 60 thế kỷ XX, các tổ chức giao nhận quốc tế ở Việt Nam mang tính chất phân tán. Các đơn vị xuất nhập khẩu tự đảm nhận việc tổ chức chuyên chở hàng hóa của mình, vì vậy các công ty xuất nhập khẩu đã thành lập riêng phòng kho vận, chi nhánh xuất nhập khẩu, trạm giao nhận ở các cảng, ga đường sắt liên vận.
Để tập trung đầu mối quản lý, chuyên môn hóa khâu vận tải, giao nhận, năm 1970 Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) đã thành lập hai tổ chức giao nhận:
Cục Kho vận kiêm Tổng công ty giao nhận ngoại thương, trụ sở ở Hải Phòng.
Công ty giao nhận đường bộ, trụ sở tại Hà Nội.
Năm 1976, Bộ Ngoại thương đã sáp nhập hai tổ chức trên thành lập một công ty giao nhận thống nhất là Tổng công ty giao nhận và kho vận ngoại thương (Vietrans). Trong thời kỳ bao cấp, Vietrans là cơ quan duy nhất được phép tiến hành tổ chức giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu trên cơ sở ủy thác của các đơn vị xuất nhập khẩu.
Những năm gần đây, kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu không còn do Vietrans độc quyền nữa mà do nhiều cơ quan, tổ chức khác tham gia, trong đó nhiều chủ hàng ngoại thương lại tự đảm nhận công tác giao nhận.
Do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường giao nhận Việt Nam, để bảo vệ quyền lợi của các nhà giao nhận, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) đã được thành lập năm 1994 và đã trở thành hội viên chính thức của FIATA trong năm đó. Cho đến nay, VIFFAS đã có 76 thành viên. Ngoài ra, đến đầu năm 2005 đã có hơn 30 công ty giao nhận - vận tải của Việt Nam được công nhận là hội viên hợp tác của FIATA.
4. Sự cần thiết phải phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Việt Nam
Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cùng với sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại quốc tế, các hoạt động giao nhận vận tải ngày một tăng trưởng mạnh, góp phần tích lũy ngoại tệ, đẩy mạnh giao lưu kinh tế, nối liền các hoạt động kinh tế giữa các khu vực trong nước, giữa trong nước với nước ngoài làm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhịp nhàng, cân đối.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa được coi là "nhà tổ chức - kiến trúc sư của vận tải" vì người giao nhận có khả năng tổ chức quá trình chuyên chở một cách tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất. Họ phải lựa chọn phương tiện, người vận tải thích hợp, tuyến đường thích hợp có hiệu quả kinh tế nhất và đứng ra trực tiếp vận tải hay tổ chức thu xếp quá trình vận tải của toàn chặng với nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau như tàu thủy, máy bay, ô tô… vận chuyển qua nhiều nước và chịu trách nhiệm trực tiếp với chủ hàng. Vì vậy chủ hàng chỉ cần gõ môt cửa, ký một hợp đồng vận tải với người giao nhận nhưng hàng hóa được vận chuyển kịp thời, an toàn với giá cước hợp lý từ cửa kho nhà xuất khẩu tới cửa kho nhà nhập khẩu, tiết kiệm được thời gian, giảm chi phí vận chuyển và nâng cao được tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế. Sự phát triển của dịch vụ giao nhận hàng hóa ở một nước gắn liền với sự phát triển vận tải ở nước đó.
Tiền đề cho sự phát triển hoạt động giao nhận vận tải của nước ta là rất nhiều và có triển vọng cao. Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động giao nhận vận tải cũng được Nhà nước quan tâm phát triển. Hệ thống bến cảng, sân bay, đường quốc lộ trên bộ, đường sông, đường sắt… được nâng cấp xây dựng mới thường xuyên. Nhà nước liên tục tiếp nhận khoa học công nghệ mới trong giao nhận vận tải như: hiện đại hoá hệ thống máy nâng hạ container, cần cẩu, tin học hoá hoạt động giao nhận vận tải…
Đặc biệt từ khi thi hành chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng đáng kể với tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm 7,3%, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm là 20% và đã tạo nên những điều kiện cần thiết cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Việc phát triển trên sẽ khuyến khích các chủ tàu, môi giới hàng hải, giao nhận và các thương gia về những cơ hội hoạt động trong xuất nhập khẩu do sự tăng trưởng kinh tế liên tục mang lại.
Việt Nam nằm trên tuyến đường vận tải quan trọng từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương, từ biển Đông ra Thái Bình Dương nên tiềm năng giao nhận vận tải biển của Việt Nam rất lớn. Mặt khác, Việt Nam có chiều dài bờ biển 3.260 km với nhiều vịnh tự nhiên kín gió như: Vũng Tàu, Hạ Long, Cam Ranh... nên có điều kiện để xây dựng các cảng biển lớn. Hiện cả nước đã xây dựng được 90 cảng các loại với gần 24.000 mét cầu cảng, 10 khu trung chuyển tải và 10 triệu m2 kho bãi. Nhiều cảng biển Việt Nam đã được xây dựng thành những cảng biển quốc tế quan trọng như cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng, cảng Bà Rịa - Vũng Tàu, hệ thống cảng khu vực thành phố Hồ Chí Minh… Để đáp ứng nhu cầu giao nhận vận tải hàng hoá trong nước và quốc tế, Nhà nước đã có nhiều đề án về phát triển ngành giao nhận vận tải biển: hiện đại hoá cơ sở vật chất giao nhận vận tải biển, tăng nhanh đội tàu buôn dự kiến các con số về trọng tải đội tàu buôn nước ta đến năm 2010 là 1,5 triệu DWT. Vào tháng 3 năm 2005, Việt Nam đã khai trương hạ thuỷ con tàu chở container lớn nhất nước, đây có thể được xem là bước tiến quan trọng của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hiện đại hoá cơ sở vật chất cho hoạt động giao nhận vận tải của đất nước.
Phát triển kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế ở nước ta có một ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ giao lưu hàng hóa xuất nhập khẩu với các nước trên thế giới, tạo điều kiện đơn giản hóa chứng từ, thủ tục thương mại, hải quan và các thủ tục pháp lý khác, hấp dẫn các bạn hàng nước ngoài có quan hệ kinh doanh với các doanh nghiệp trong nước, làm cho sức cạnh tranh hàng hóa ở nước ta trên thị trường quốc tế tăng lên đáng kể, và tạo điều kiện cho đất nước có thêm nguồn thu ngoại tệ, cải thiện một phần cán cân tài chính của đất nước. Có thể nói việc phát triển dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế gắn liền với sự phát triển kinh tế của đất nước.
II. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP GIAO NHẬN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
1. Cơ sở pháp lý của hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế
1.1. Các cơ quan tổ chức liên quan
Ngoài mối liên hệ với người gửi hàng và người nhận hàng, người giao nhận cần phải liên hệ với rất nhiều các cơ quan tổ chức khác nhau trong suốt giai đoạn làm dịch vụ cho khách, như:
Cơ quan quản lý Nhà nước:
Các Bộ chủ quản. Cơ quan Hải quan để khai hải quan. Cơ quan Cảng để làm thủ tục thông qua cảng. Ngân hàng trung ương để được phép kiểm tra hối đoái. Bộ Y tế để xin giấy phép y tế. Viên chức lãnh sự để xin giấy chứng nhận xuất xứ. Các cơ quan kiểm soát mậu dịch xuất nhập khẩu. Các cơ quan cấp giấy phép vận tải.
Các tổ chức vận tải
Các công ty (hãng) kinh doanh vận tải đường biển, đường hàng không, đường thủy, đường sắt, đường bộ…
Các tổ chức dịch vụ có liên quan:
Đại lý hãng tàu. Các công ty giao nhận, kiểm kiện… Dịch vụ xếp/dỡ. Kho hàng ga, cảng… Người giữ kho để lưu kho hàng hóa. Tổ chức đóng gói để đóng gói hàng. Công ty bảo hiểm để bảo hiểm hàng hóa. Ngân hàng thương mại để thực hiện tín dụng chứng từ…
1.2. Cơ sở pháp lý
Các văn bản của Nhà nước
Nhà nước Việt Nam đã ban hành khá nhiều các văn bản, quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm giao nhận hàng hóa của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhằm điều chỉnh mối quan hệ phát sinh từ các hợp đồng mua bán, vận tải, bảo hiểm, giao nhận, xếp dỡ... như:
Bộ luật Hàng hải Việt Nam ngày 30 tháng 6 năm 1990.
Quyết định 2073/QĐVT ngày 6 tháng 10 năm 1991 của Bộ Giao thông vận tải về việc ban hành thể lệ bốc dỡ, giao nhận và bảo quản hàng hóa tại cảng biển Việt Nam.
Pháp lệnh Hải quan ngày 20 tháng 2 năm 1990.
Nghị định 114/HĐBT ngày 27 tháng 5 năm 1991 của Hội đồng bộ trưởng ban hành quy định cụ thể thủ tục hải quan và lệ phí hải quan.
Bộ luật Hàng không dân dụng Việt Nam ngày 26 tháng 12 năm 1991…
Các luật lệ quốc tế
Các công ước, các định ước, các hiệp ước, các hiệp định, các nghị định thư, các quy chế… về buôn bán, vận tải, bảo hiểm… mà việc giao nhận bắt buộc phải phù hợp mới bảo vệ được quyền lợi của chủ hàng.
Các loại hợp đồng.
Các tập quán thương mại, hàng hải và luật tập tục của mỗi nước.
2. Địa vị pháp lý, quyền hạn nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận hàng hóa quốc tế
2.1. Địa vị pháp lý
Do thiếu luật lệ quốc tế về lĩnh vực giao nhận, địa vị pháp lý của người giao nhận ở từng nước có khác nhau, tùy theo luật pháp ở nước đó.
2.1.1. Đối với các nước theo luật tập quán
Đối với các nước theo luật tập quán - là luật không thành văn như Anh, Úc, Canada, NewZealand thì địa vị pháp lý của người giao nhận được căn cứ trên khái niệm về đại lý. Người giao nhận lấy danh nghĩa của người ủy thác (tức người gửi hàng hay người nhận hàng) để giao dịch cho công việc của người ủy thác.
Hoạt động của người giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy tắc truyền thống về đại lý, như việc phải mẫn cán khi thực hiện nghĩa vụ của mình, phải trung thực với người ủy thác và phải tuân theo các chỉ dẫn hợp lý của người ủy thác. Bên cạnh đó người giao nhận được hưởng những quyền bảo vệ và các giới hạn trách nhiệm phù hợp với vai trò của một đại lý.
Trong trường hợp người giao nhận đảm nhiệm vai trò của người ủy thác (người ủy thác là người cho phép và chỉ đạo một người khác - người đại lý - hành động cho lợi ích của mình, chịu sự chỉ đạo và kiểm soát của mình) tự mình ký kết hợp đồng sử dụng cho người chuyên chở và các đại lý, thì không được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm nói trên, mà phải chịu trách nhiệm cho cả quá trình vận tải hàng hóa kể cả khi hàng nằm trong tay những người chuyên chở và các đại lý mà anh ta sử dụng. Tuy nhiên trong thực tế, thường có sự khác biệt tùy theo loại dịch vụ mà người giao nhận đảm nhiệm. Chẳng hạn như khi người giao nhận đảm nhận trách nhiệm lo liệu vận tải đường bộ, tự mình vận chuyển hàng hóa, đó là đảm nhận vai trò của người ủy thác; nhưng nếu như người ủy thác có một đại lý phụ mà khách hàng của người giao nhận biết và đồng ý chỉ định thì người giao nhận giữ nguyên địa vị đại lý của mình. Nhưng khi người giao nhận làm dịch vụ gom hàng và cấp vận đơn riêng của mình thì người giao nhận trở thành người ủy thác.
2.1.2. Đối với các nước theo luật dân sự
Ở những nước có luật dân sự thì địa vị pháp lý, quyền lợi và nghĩa vụ của những người giao nhận giữa các nước có khác nhau. Thông thường người giao nhận ở những nước đó lấy danh nghĩa của mình giao dịch cho công việc của người ủy thác, họ vừa là người ủy thác, vừa là đại lý. Đối với người ủy thác (người nhận hàng hay người gửi hàng) họ được coi là đại lý của người ủy thác, và đối với người chuyên chở thì họ lại là người ủy thác.
Tuy nhiên, thể chế mỗi nước có những điểm khác nhau. Ví dụ, Pháp là một nước có luật dân sự, ngoài trách nhiệm về các hoạt động giao nhận của mình, người giao nhận còn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện đúng đắn hợp đồng vận tải đã ký. Về phương diện này, người giao nhận thường được coi như người chuyên chở. Khi có trách nhiệm nảy sinh trong việc thực hiện vận tải thực sự, luật của Pháp cho phép chủ hàng có quyền kiện người giao nhận hoặc người chuyên chở. Song Đức cũng là một nước có luật dân sự thì địa vị pháp lý của người giao nhận lại khác. Người giao nhận không chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng vận tải trừ phi bản thân anh ta trực tiếp thực hiện vận tải.
Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận (FIATA) đã soạn thảo một bản mẫu "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" để các nước tham khảo xây dựng các điều kiện cho nghành giao nhận của mình, giải thích rõ ràng các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của người giao nhận. Nhiều Hiệp hội coi "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" là một trong những phương tiện chủ yếu nhằm duy trì và nâng cao tiêu chuẩn nghề nghiệp của nghành giao nhận và đã thông qua "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" cho hội viên của mình làm căn cứ hợp đồng hoặc đính kèm hợp đồng ký với khách hàng. Những điều kiện này thường được hình thành phù hợp với tập quán thương mại hay thể chế pháp lý hiện hành ở từng nước. Những nước chưa có điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn thì hợp đồng giữa người giao nhận và khách hàng quy định những quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm mỗi bên.
2.2. Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận hàng hoá quốc tế
Từ những cơ sở pháp lý nói trên, có thể phân biệt quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận khi đóng vai trò đại lý và khi đóng vai trò người ủy thác. Ở địa vị nào, người giao nhận cũng phải chăm sóc chu đáo hàng hóa được ủy thác, thực hiện đúng những chỉ dẫn của khách hàng về những vấn đề có liên quan đến vận tải hàng hóa.
Khi người giao nhận là đại lý
Người giao nhận phải chịu trách nhiệm về những lỗi lầm, sai sót của bản thân mình khi thực hiện dịch vụ. Lỗi lầm sai sót đó có thể là: giao hàng trái chỉ dẫn, giao hàng sai địa chỉ, quên mua bảo hiểm hoặc sai sót trong việc bảo hiểm cho hàng hóa mặc dù đã có chỉ dẫn, lỗi lầm khi làm thủ tục hải quan, lập chứng từ nhầm lẫn, tái xuất không theo những thủ tục cần thiết hoặc không hoàn lại thuế, quên thông báo khiến hàng phải lưu kho tốn kém…
Người giao nhận không chịu trách nhiệm về tổn thất do lỗi lầm, sai sót của bên thứ ba (người chuyên chở, người ký hợp đồng phụ, nhận lại dịch vụ…) miễn là người giao nhận đã biểu hiện sự cần mẫn thích đáng trong việc lựa chọn bên thứ ba đó.
Khi là đại lý thì người giao nhận phải tuân thủ "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" của mình.
Khi người giao nhận đóng vai trò người ủy thác, với tư cách là một bên ký hợp đồng độc lập đảm nhận trách nhiệm với danh nghĩa của mình thực hiện các dịch vụ do khách hàng yêu cầu, thì ngoài những trách nhiệm của đại lý nói trên, người giao nhận còn chịu trách nhiệm về cả những hành vi và sơ suất của bên thứ ba mà người giao nhận sử dụng để thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này người giao nhận thường thương lượng với khách hàng giá dịch vụ (giá khoán, giá cả gói), chứ không chỉ nhận hoa hồng như đại lý.
Người giao nhận thường đóng vai trò người ủy thác khi thu gom hàng lẻ, khi kinh doanh vận tải đa phương thức, khi đảm nhận tự vận chuyển hàng hóa hay nhận bảo quản hàng hóa trong kho của mình.
Khi đóng vai trò là người chuyên chở thì các "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" thường không áp dụng mà áp dụng các công ước quốc tế hoặc các quy tắc do Phòng thương mại quốc tế ban hành.
3. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng hoá quốc tế
Đối với mỗi phương thức vận tải, đối với mỗi loại hàng hóa khác nhau thì trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng hóa cũng khác nhau. Ở đây chỉ giới thiệu trình tự giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu tại cảng biển để hiểu hơn về hoạt động giao nhận hàng hoá quốc tế.
3.1. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng xuất khẩu
3.1.1. Chuẩn bị hàng để giao cho người vận tải
Chuẩn bị hàng hoá, nắm tình hình tàu:
Nghiên cứu hợp đồng mua bán và L/C để chuẩn bị hàng hoá. Chuẩn bị các chứng từ cần thiết để làm thủ tục hải quan. Tiến hàng lưu cước. Lập Bảng danh mục hàng xuất khẩu gửi hãng tàu.
Kiểm tra hàng hoá
Về số lượng, trọng lượng, phẩm chất có phù hợp với hợp đồng mua bán hay không. Xin kiểm nghiệm, giám định, kiểm dịch (nếu cần) và lấy giấy chứng nhận hay biên bản thích hợp.
3.1.2. Giao hàng cho người vận tải
Làm thủ tục hải quan
Đăng ký tờ khai hải quan. Tính thuế sơ bộ và ra thông báo thuế. Kiểm hoá. Tính lại thuế và nộp thuế.
Giao hàng hoá xuất khẩu cho tàu
Đối với hàng đóng trong container
+ Nếu gửi hàng nguyên container (FCL)
. Người gửi hàng điền và ký Booking note rồi giao lại cho đại diện hãng tàu để xin ký cùng Bản danh mục hàng xuất khẩu.
. Hãng tàu ký Booking note, cấp lệnh giao vỏ cotainer để chủ hàng mượn.
. Người gửi hàng đưa container rỗng về kho của mình để đóng hàng vào, lập Bản chi tiết đóng gói, mang hàng ra cảng để làm thủ tục hải quan.
. Giao hàng cho tàu tại CY quy định, lấy Biên lai thuyền phó để lập B/L.
. Cảng bốc container lên tàu, người gửi hàng mang Biên lai thuyền phó đến hãng tàu hoặc đại lý để lấy B/L.
+ Nếu giao hàng lẻ (LCL)
. Người gửi hàng mang hàng đến giao cho người vận tải tại CFS quy định và lấy HB/L.
. Người chuyên chở hoặc người gom hàng đóng các lô hàng lẻ đó vào container, xếp container lên tàu và vận chuyển đến nơi đến.
. Thanh lý, thanh khoản tờ khai hải quan.
Đối với hàng hoá thông thường
Người gửi hàng trực tiếp giao hàng cho tàu hay uỷ thác cho cảng để cảng giao hàng cho tàu, cũng có thể giao nhận tay ba (người gửi, cảng, tàu) theo các bước:
. Trước khi xếp phải vận chuyển hàng từ kho cảng, lấy lệnh xếp hàng.
. Tiến hành bốc và giao hàng cho tàu.
. Sau khi xếp hàng lên tàu, cảng sẽ lập Bản tổng kết xếp hàng lên tàu.
. Lấy Biên lai thuyền phó để trên cơ sở đó lập B/L.
. Thông báo cho người mua về việc giao hàng và mua bảo hiểm cho hàng hoá (nếu cần).
3.3.1. Lập bộ chứng từ thanh toán
Căn cứ vào hợp đồng mua bán và L/C, cán bộ giao nhận phải lập hay lấy các chứng từ cần thiết để tập hợp thành bộ chứng từ thanh toán và xuất trình cho ngân hàng để thanh toán tiền hàng.
3.1.4. Quyết toán
Thanh toán các chi phí liên quan đến quá trình giao nhận: chi phí bốc xếp, vận chuyển, bảo quản, lưu kho… Thanh toán tiền thưởng phạt xếp dỡ (nếu có).
3.2. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng nhập khẩu
3.2.1. Chuẩn bị trước khi nhận hàng
Nắm thông tin về hàng và tàu, về thủ tục hải quan… Nhận các giấy tờ như: thông báo tàu đến, B/L và các chứng từ khác về hàng hoá…
3.2.2. Tổ chức dỡ và nhận hàng từ người vận tải
Đối với hàng nhập đóng trong container
Đối với hàng nguyên container (FCL)
. Khi nhận được Thông báo hàng đến từ hãng tàu hay đại lý, người nhận mang B/L gốc đến hãng tàu để lấy D/O và đóng lệ phí.
. Mang D/O đến Hải quan làm thủ tục, nộp thuế nhập khẩu và đăng ký kiểm hoá.
. Mang bộ chứng từ đến văn phòng quản lý tàu để xác nhận D/O.
. Người nhận hàng mang 2 bản D/O đã có xác nhận của hãng tàu đến bộ phận kho vận làm phiếu xuất kho và nhận hàng.
Đối với hàng lẻ (LCL)
. Chủ hàng mang B/L gốc hoặc HB/L đến hãng tàu hoặc đại lý của người gom hàng để lấy D/O.
. Sau khi xác nhận, đối chiếu D/O thì mang đến thủ kho để nhận phiếu xuất kho.
. Sau đó mang chứng từ đến kho CFS để nhận hàng.
Đối với hàng nhập thông thường
Hàng nhập không đóng trong container có thể gồm: nguyên tàu, nguyên hầm tàu hay rời từng lô nhỏ. Việc giao nhận những loại hàng này có thể tiến hành giữa cảng với tàu, giữa người nhận với tàu hay giao nhận tay ba (tàu, cảng, người nhận).
Trước khi dỡ hàng, tàu hoặc đại lý phải cung cấp cho cảng Bản lược khai hàng hoá, Sơ đồ hầm tàu.
Người nhận hàng và đại diện tàu tiến hành kiểm tra tình trạng hầm tàu.
Dỡ hàng bằng cần cẩu của tàu hoặc của cảng và xếp lên phương tiện vận tải để đưa về kho bãi.
Lập Bản kết toán nhận hàng với tàu.
Lập các giấy tờ cần thiết trong quá trình giao nhận như Biên bản hư hỏng đổ vỡ, Biên bản giám định, hay Giấy chứng nhận hàng thiếu (nếu cần).
3.2.3. Làm thủ tục hải quan
Sau khi có B/L và D/O có thể tiến hành làm thủ tục hải quan cho hàng nhập khẩu. Thủ tục hải quan thường qua các bước:
Chuẩn bị hồ sơ hải quan.
Khai và tính thuế nhập khẩu. Người nhận tự khai và áp mã tính thuế.
Đăng ký tờ khai.
Đăng ký kiểm hoá.
Tiến hành kiểm hoá.
Kiểm tra thuế.
Nhận thông báo thuế, đóng thuế và lệ phí hải quan.
3.2.4. Quyết toán
Thanh toán các chi phí cho cảng: tiền thưởng phạt xếp dỡ, tiền phạt lưu container, tiền lưu kho bãi…
4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động giao nhận hàng hoá quốc tế của doanh nghiệp
4.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Gồm những yếu tố, những mối quan hệ nằm ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có một cách duy nhất là tự điều chỉnh bản thân để phù hợp với các yếu tố này.
4.1.1. Môi trường pháp lý
Đó là luật quốc gia, luật quốc tế, các tập quán quốc tế… về hoạt động giao nhận và các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động giao nhận như xuất nhập khẩu, bảo hiểm, hải quan… Tại đó địa vị pháp lý, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận được quy định. Môi trường pháp lý làm nền cho hoạt động giao nhận được diễn ra và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động giữa người giao nhận và các bên liên quan khi thực hiện hợp đồng.
Hệ thống luật pháp rõ ràng, nhất quán, đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho hoạt động giao nhận diễn ra thuận lợi, tiết kiệm được thời gian và chi phí do sự chồng chéo của các quy định pháp luật.
4.1.2. Môi trường kinh tế
Tình hình kinh tế quốc gia cũng như kinh tế thế giới đều ảnh hưởng đến hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế. Các yếu tố kinh tế bao gồm GNP bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, yếu tố lạm phát, yếu tố lãi suất… đều tác động một cách trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động kinh doanh giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế.
Đặc biệt tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế của Việt Nam, bởi giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế là một ngành kinh tế phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Mối quan hệ giữa thương mại quốc tế - vận tải - giao nhận thường là mối quan hệ tỉ lệ thuận. Ngoại thương của đất nước có phát triển, khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu tăng lên nhu cầu vận chuyển hàng hoá gia tăng thì các doanh nghiệp kinh doanh giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế cũng có cơ hội tăng doanh số hoạt động.
4.1.3. Môi trường cạnh tranh
Một trong những thách thức lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp là phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hiện nay, tại Việt Nam có trên 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kho vận giao nhận vận tải thuộc đủ mọi thành phần kinh tế: tư nhân, nhà nước, liên doanh… đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với tiềm lực tài chính, sự hỗ trợ từ công ty mẹ, khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại… là những đối thủ nặng ký trên thị trường. Đặc biệt đây là một lĩnh vực kinh doanh rất hấp dẫn bởi không cần nhiều vốn đầu tư như kinh doanh các ngành khác mà lợi nhuận thu được rất cao, do đó có ngày càng nhiều các doanh nghiệp tham gia vào thị trường này.
Với một môi trường cạnh tranh gay gắt như vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm cho mình hướng đi đúng phù hợp với năng lực bản thân, tận dụng lợi thế cạnh tranh để đứng vững và khẳng định vị thế của mình.
4.1.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật
Lịch sử đã chứng minh rằng, các cuộc cách mạng khoa học lớn đã diễn ra trong đời sống xã hội con người đều được phản ánh trong ngành vận tải. Đầu những năm 60 của thế kỷ XX, trong các phương thức vận tải bắt đầu áp dụng khá phổ biến phương pháp chuyên chở bằng container. Container hàng hóa trong chuyên chở hàng hóa đã trực tiếp làm thay đổi sâu sắc về nhiều mặt không chỉ trong ngành vận tải mà trong các ngành kinh tế khác, mà trực tiếp là ngành giao nhận.
Cuộc cách mạng container đã tạo điều kiện cho dịch vụ gom hàng lẻ có cơ hội phát triển mạnh và tạo ra một dịch vụ kinh doanh mới - cho thuê kho bãi để container. Nhưng đồng thời làm giảm hiệu quả kinh doanh kho vận do hàng hóa để trong cotainer có độ an toàn cao nên chỉ cần có bãi thích hợp là được bốc thẳng từ tàu xuống ô tô về nơi nhận hàng mà không cần gửi ở cảng (khi hàng hóa đã hoàn tất thủ tục nhập khẩu) thì việc kinh doanh kho vận cũng không còn phát triển như trước nữa.
4.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Tất cả các yếu bên trong doanh nghiệp như cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ cán bộ công nhân viên… và đặc biệt là chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và mục tiêu mà doanh nghiệp đang theo đuổi là những yếu tố tác động mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt động có mục tiêu của doanh nghiệp trong một thời gian dài. Nó định ra được các mục tiêu lớn, theo đó cần phải huy động hợp lý các nguồn lực cả trước mắt và lâu dài. Nó bảo đảm cho các kế hoạch không lạc hướng. Chiến lược kinh doanh được xây dựng tốt giúp cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận, có chỗ đứng vững chắc và an toàn trong kinh doanh, chủ động thích ứng với môi trường. Để chiến lược kinh doanh có tính khả thi khi xây dựng phải dựa trên các căn cứ sau:
Khách hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nghiên cứu khách hàng của mình trên thị trường để xác định những nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu nhu cầu để dự báo được thay đổi trong nhu cầu, khả năng thanh toán. Điều quan trọng trong nghiên cứu khách hàng là phát hiện nhu cầu thành sức mua và định hướng nhu cầu.
Môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh là một thực thể khách quan bao gồm tất cả các chủ thể kinh doanh trên thị trường và tổng thể các yếu tố, các mối quan hệ tác động chi phối mọi hành vi hoạt động của họ. Hoạt động kinh doanh được thực hiện trong những môi trường cụ thể, mức sinh lời phụ thuộc trước hết vào khả năng phân tích và sự am hiểu môi trường kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, từ đó hoạch định chiến lược kinh doanh và thực hiện chiến lược kinh doanh một cách nhất quán, năng động linh hoạt, không thụ động trước những rủi ro.
Tiềm năng của doanh nghiệp :
Đó là khả năng về vốn, lao động, quản lý, tài sản, cơ sở vật chất - kỹ thuật. Đây là những tài sản hữu hình. Các tiềm năng vô hình của doanh nghiệp cũng cần phải được khai thác. Đó là niềm tin của khách hàng, uy tín của doanh nghiệp, khả năng chiếm giữ thông tin, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ, kỹ năng quản trị… tất cả các yếu tố trên đây tạo ra sức mạnh, tiềm lực của doanh nghiệp. Dựa trên những căn cứ đó, bảo đảm chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có tính khoa học, khả thi cao, đồng thời không bỏ qua các tiềm năng.
CH¦¥NG II
THùC TR¹NG HO¹T §éNG KINH DOANH DÞCH Vô GIAO NHËN HµNG HãA QUèC TÕ T¹I CHI NH¸NH C¤NG TY KHO VËN MIÒN NAM - SOTRANS Hµ NéI
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH CÔNG TY KHO VẬN MIỀN NAM - SOTRANS HÀ NỘI
1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Kho vận miền Nam thành lập ngày 14 tháng 10 năm 1975 theo Quyết định số 165/QĐ-BNT của Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) với tên giao dịch là "SOTRANS - South Transport Warehousing Trade Company". Công ty đặt trụ sở chính tại số 1B, đường Hoàng Diệu, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ bao cấp, Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương, Tổng công ty giao nhận và kho vận ngoại thương (Vietrans) là cơ quan duy nhất được phép tiến hành tổ chức giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu. Do đó, trong những năm đầu thành lập SOTRANS hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực giao nhận vận tải nội địa bằng đường bộ, đường biển, đường sông và một số ít các hoạt động giao nhận vận tải hàng hóa sang Lào, Campuchia. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam thực hiện đổi mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, SOTRANS bước vào một môi trường hoạt động kinh doanh mới.
Qua gần 30 năm trưởng thành và phát triển, SOTRANS liên tục mở rộng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và phạm vi hoạt động, đạt được nhiều thành tựu đáng nể. Hiện nay, SOTRANS được biết đến như một nhà cung cấp hàng đầu các dịch vụ Logistics, dịch vụ giao nhận kho vận trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, SOTRANS còn là nhà sản xuất sản phẩm dầu nhớt mang nhãn hiệu SOLUBE và sản phẩm thời trang mang thương hiệu GARMENT 117.
SOTRANS rất tích cực tham gia vào các hiệp hội chuyên ngành kho vận giao nhận vận tải và các tổ chức có liên quan. Từ năm 1995 SOTRANS đã trở thành thành viên chính thức của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Năm 1996 là thành viên chính thức của Hiệp hội giao nhận và kho vận Việt Nam. Năm 1997 là thành viên liên kết của Hiệp hội giao nhận và kho vận quốc tế. Và năm 2001 SOTRANS đã đạt tiêu chuẩn hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 : 2000 cho các lĩnh vực dịch vụ vận tải biển, vận tải hàng không và những dịch vụ giao nhận kèm theo khác.
SOTRANS gồm 8 đơn vị trực thuộc, phân theo lĩnh vực kinh doanh gồm có:
Lĩnh vực kho vận giao nhận - xếp dỡ có:
1. Trạm kho Bến Súc (BEN SUC WAREHOUSE)
2. Xí nghiệp Kho vận Thủ Đức (SOTRANS WFT)
3. Xí nghiệp dịch vụ Giao nhận Vận tải Kiểm kiện (SOTRANS TFT)
4. Công ty thu bãi cảng cẩu
5. Xí nghiệp đại lý Giao nhận Vận tải quốc tế (SOTRANS IFF)
6. Chi nhánh Công ty tại Hà Nội (SOTRANS HANOI)
Lĩnh vực sản xuất gia công, kinh doanh may mặc có:
Xí nghiệp may 117 (GARMENT 117)
Lĩnh vực thương mại - xăng dầu - nhớt có:
Xí nghiệp kinh doanh thương mại (SOTRANS TRADING)
Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội thành lập ngày 1 tháng 6 năm 1999 theo Quyết định số 107/QĐ-KVMN của Công ty Kho vận miền Nam với tên giao dịch là "SOTRANS IFF - Ha Noi branch office" (SOTRANS International Freight Forwarder), đặt trụ sở tại số 12, đường Đoàn Thị Điểm, quận Đống Đa, Hà Nội. SOTRANS Hà Nội được biết đến như một nhà tiên phong trong lĩnh vực giao nhận vận tải và dịch vụ Logistics tại Hà Nội. Hoạt động của SOTRANS Hà Nội bao trùm khắp các vùng miền của miền Bắc Việt Nam - bao gồm cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân và sân bay quốc tế Nội Bài.
Từ 1.6.1999 đến 7.2003
Là Văn phòng đại diện Công ty Kho vận miền Nam tại Hà Nội. Có cùng chức năng và lĩnh vực kinh doanh với Xí nghiệp đại lý Giao nhận Vận tải quốc tế, do đó hạch toán kinh doanh theo Xí nghiệp.
Từ 7.2003 đến nay
Chính thức là Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam tại Hà Nội theo Quyết định số 74/QĐ-KVMN ngày 17/7/2003 của Công ty kho vận miền Nam. Từ đây SOTRANS Hà Nội hạch toán kinh doanh độc lập, hàng năm nộp lãi cho công ty.
2. Chức năng, nhiệm vụ và nội dung hoạt động
2.1. Chức năng
SOTRANS Hà Nội là đơn vị trực thuộc Công ty Kho vận miền Nam có chức năng quan hệ với khách hàng, các cơ quan chức năng ở khu vực miền Bắc để nắm bắt thông tin, tạo nguồn hàng, phát triển các dịch vụ đại lý giao nhận vận tải quốc tế và đại lý vận tải hàng hóa trong nước tại khu vực miền Bắc, khai thác khả năng phương tiện, kho tàng và nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên nhằm phục vụ tốt công tác xuất nhập khẩu, phân phối hàng hóa trong nước, góp phần phát triển kinh tế, tích lũy cho ngân sách và Công ty.
2.2. Nội dung hoạt động
Khai thác các nguồn hàng xuất nhập khẩu trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, liên hệ thỏa thuận giá cả và ký hợp đồng cung cấp dịch vụ với các đơn vị xuất nhập khẩu.
Xử lý kịp thời các thông tin nhận được trực tiếp từ hệ thống đại lý của Công ty ở nước ngoài theo sự hướng dẫn của đại lý, thông lệ quốc tế và phù hợp với luật pháp Việt Nam nhằm giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến giao nhận vận tải quốc tế.
Chủ động liên hệ với các hãng vận tải để thương lượng giá cả, phương tiện vận tải, đặt chỗ, lịch trình.
Thực hiện việc khai thuê hải quan, giao nhận vận chuyển vật tư, thiết bị, hàng hóa cho khách hàng.
2.3. Nhiệm vụ
Thực hiện tốt nội dung hoạt động của Chi nhánh.
Chấp hành đúng các chế độ, chính sách pháp luật của Nhà nước và tập quán quốc tế về các lĩnh vực liên quan đến công tác giao nhận vận tải.
Quản lý toàn diện cán bộ công nhân viên của Chi nhánh theo chính sách hiện hành của Nhà nước và sự phân cấp của Công ty. Có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ công nhân viên để thực hiện tốt nhiệm vụ.
Không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các biện pháp để cải tiến, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chi nhánh nhằm đem lại hiệu quả cao.
3. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật
3.1. Đặc điểm về nguồn vốn
Là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại, là một đơn vị trực thuộc của Công ty Kho vận miền Nam được thành lập theo Quyết định số 107/QĐ-KVMN của Công ty Kho vận miền Nam, do vậy nguồn vốn ban đầu của SOTRANS Hà Nội là do Công ty cấp khi mới thành lập.
Tổng nguồn vốn kinh doanh hiện nay của Chi nhánh là:
10.000 triệu đồng.
Trong đó: Vốn cố định: 3.000 triệu đồng.
Vốn lưu động: 7.000 triệu đồng.
Chi nhánh phải tự tạo, tự bảo toàn và phát triển, quản lý khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh. Chủ yếu vốn kinh doanh của Chi nhánh được bổ sung từ hai nguồn là tích lũy nội bộ và vay ngân hàng. Bên cạnh đó hàng năm Chi nhánh đều thực hiện việc nâng cấp trang thiết bị cơ sở vật chất để đáp ứng kịp thời nhu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng dịch vụ.
3.2. Cơ cấu tổ chức và Bộ máy quản lý
Đứng đầu Chi nhánh là Giám đốc Chi nhánh do Giám đốc Công ty bổ nhiệm, là người chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty và pháp luật về mọi hoạt động của đơn vị mình. Giúp việc cho Giám đốc Chi nhánh có 1 Phó giám đốc, Phó giám đốc được Giám đốc phân công phụ trách một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước Giám đốc Chi nhánh về kết quả thực hiện các nhiệm vụ được giao. Tiếp đến là các phòng và trạm chức năng, gồm có:
2 Phòng quản lý: Phòng Hành chính Tổ chức và Phòng Kế toán.
3 Phòng kinh doanh: Phòng Nghiệp vụ kinh doanh, Phòng Đại lý, Phòng Giao nhận.
1 Trạm giao nhận tại Hải Phòng.
Cơ cấu tổ chức và Bộ máy quản lý của Chi nhánh có thể được biểu diễn qua sơ đồ sau (Hình 2.1):
………………………………………………………………………………………………………………..3.3. Đặc điểm về lao động
Sau hơn 5 năm hoạt động, tổ chức nhân sự của Chi nhánh đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng với trình độ chuyên môn được đào tạo qua các trường đại học, qua các lớp nghiệp vụ ngoại thương, với sự năng động nhiệt tình của tuổi trẻ và sự gắn kết của tập thể, tổ chức nhân sự của Chi nhánh đang dần ổn định.
Quy mô lao động của Chi nhánh được mở rộng qua từng năm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu công việc, phục vụ mục tiêu mở rộng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Năm 2003, Chi nhánh có 23 thành viên, đã tiếp nhận vào làm việc 4 nhân viên mới tại văn phòng Hà Nội và 3 nhân viên mới tại văn phòng Hải Phòng. Cùng với sự nhiệt tình đào tạo, hướng dẫn của ban lãnh đạo và tập thể Chi nhánh, qua thời gian tính chuyên nghiệp và chất lượng dịch vụ từng bước cao hơn. Hiện tại tổ chức nhân sự của Chi nhánh dần đi vào ổn định với 35 thành viên, tạm thời đáp ứng được nhu cầu công việc và đặc thù riêng của thị trường miền Bắc.
Bảng 2.1: Tình hình nhân sự của Chi nhánh
Thứ tự
Chức danh
Số lượng
Nam
Nữ
Trình độ
Độ tuổi
bình quân
1
Giám đốc
1
1
0
Đại học
45
2
Phó giám đốc
1
1
0
Đại học
32
3
Phòng Hành chính Tổng hợp
5
2
3
Đại học
35
4
Phòng Kế toán
3
0
3
Đại học
25
5
Phòng Nghiệp vụ kinh doanh
5
3
2
Đại học
24
6
Phòng Đại lý
7
1
6
Đại học
27
7
Phòng Giao nhận
7
6
1
Đại học
26
8
Trạm giao nhận Hải Phòng
6
5
1
Đại học
27
Tổng
35
19
16
30
(Nguồn: Hồ sơ lưu trữ về lao động của SOTRANS Hà Nội)
Một đặc điểm có thể được xem là thế mạnh của SOTRANS Hà Nội đó là Chi nhánh có một đội ngũ nhân viên thật sự trẻ với tuổi đời bình quân chỉ khoảng 30 tuổi, năng động, sáng tạo và đầy nhiệt huyết với công việc.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI CHI NHÁNH CÔNG TY KHO VẬN MIỀN NAM - SOTRANS HÀ NỘI
1. Kết quả kinh doanh tổng hợp
Trong những năm đầu thành lập với địa vị là Văn phòng đại diện Công ty Kho vận miền Nam tại Hà Nội, những hoạt động chủ yếu của SOTRANS Hà Nội thời kỳ này là thực hiện các giao dịch với các cơ quan chức năng, đối tác, khách hàng của SOTRANS trên thị trường miền Bắc, thực hiện nhiệm vụ mở rộng thị trường hoạt động cho công ty, tìm kiếm thêm cho SOTRANS những khách hàng tiềm năng mới.
Với tuổi đời còn non trẻ, trong những ngày đầu SOTRANS Hà Nội không tránh khỏi những khó khăn: Kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ, tính nhanh nhạy và xử lý công việc chính xác của nhân viên chưa cao. Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường miền Bắc khi nhu cầu vận chuyển không nhiều. Trang thiết bị văn phòng, phương tiện làm việc còn thiếu dẫn đến việc thực hiện công việc còn bị gián đoạn, tốc độ chậm. Việc triển khai các nghiệp vụ giao nhận còn gặp nhiều khó khăn do thiếu cơ sở vật chất như kho bãi, phương tiện vận chuyển. Điều này làm cho chi phí kinh doanh tăng lên làm giảm hiệu quả kinh doanh…
Tuy nhiên, bên cạnh khó khăn SOTRANS Hà Nội cũng có những điều kiện thuận lợi: Sự ủng hộ và hỗ trợ nhiệt tình của ban lãnh đạo Công ty và Xí nghiệp là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của Văn phòng đại diện. Tận dụng và phát huy tối đa lợi thế mạng lưới đại lý rộng khắp trên toàn thế giới. Uy tín lâu năm của Công ty, Xí nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Văn phòng đại diện...
Thời kỳ này, SOTRANS Hà Nội đã đạt được những kết quả kinh doanh rất khả quan, tạo được uy tín của SOTRANS trên thị trường miền Bắc, xây dựng được cho SOTRANS tập hợp các khách hàng truyền thống như Công ty thang máy Tài Nguyên, Công ty TS Ari, Công ty Toàn Thắng, Công ty Tiến Thành, Tổng công ty xây dựng miền Trung, Công ty dệt Hà Nam , Công ty dệt may Hà Nội - Hanosimex, Pamatex, TST, Utech, OE - Galaxy, Vinaconex, Hotexco…
Năm 2003 là một năm đáng nhớ, năm đánh dấu sự chuyển mình trưởng thành của SOTRANS Hà Nội. Vào tháng 7 năm 2003 SOTRANS Hà Nội chính thức là Chi nhánh công ty kho vận miền Nam tại Hà Nội. Chi nhánh đã không ngừng nâng cao chất lượng cũng như quy mô và loại hình dịch vụ cho khách hàng, SOTRANS Hà Nội ngày càng khẳng định uy tín và tên tuổi trên thị trường miền Bắc.
Đánh giá kết quả kinh doanh
Bảng 2.2: Kết quả kinh doanh giai đoạn 2000 - 2004
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Doanh thu
Thực hiện
6.351
6.796
7.251
7.000
9.315
Kế hoạch
Giao
6.400
6.600
6.800
7.700
8.100
Đạt (%)
99
103
107
91
115
So với
năm trước
Mức tăng tuyệt đối
-
445
455
-251
2.315
Tốc độ tăng (%)
-
7
7
-3
33
Lợi nhuận
Thực hiện
494
509
703
1.000
1.556
Kế hoạch
Giao
490
530
700
900
1.200
Đạt (%)
101
96
100
111
130
So với
năm trước
Mức tăng tuyệt đối
-
15
194
297
556
Tốc độ tăng (%)
-
3
38
42
56
Tỉ suất lợi nhuận/doanh thu (%)
7,78
7,49
9,69
14,29
16,70
Lãi nộp Công ty
Thực hiện
-
-
-
1.120
1.373
So với kế hoạch (%)
-
-
-
109
119
So với
năm trước
Mức tăng tuyệt đối
-
-
-
-
253
Tốc độ tăng (%)
-
-
-
-
22,6
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của SOTRANS Hà Nội)
Tỉ suất lợi nhuận/doanh thu năm 2001 là 7,49%. Năm 2002 chỉ tiêu này có sự tăng vọt đáng kể đạt 9,69%. Thời kỳ này Văn phòng thường xuyên đạt chỉ tiêu kế hoạch được giao, doanh thu tạo ra hàng năm chiếm khoảng 21% doanh thu hàng năm của Xí nghiệp.
Kể từ năm 2003, SOTRANS Hà Nội chính thức là Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam tại Hà Nội. SOTRANS Hà Nội không còn hạch toán kinh doanh theo Xí nghiệp nữa mà hạch toán độc lập, hàng năm nộp lãi cho Công tỵ
Năm 2003 Chi nhánh đã hoàn thành vượt mức kế hoạch về chỉ tiêu lợi nhuận nhưng về chỉ tiêu doanh thu lại không hoàn thành kế hoạch. Tổng doanh thu năm 2003 của Chi nhánh đạt 7.000 triệu đồng hoàn thành 91% kế hoạch. Có tình trạng này là do năm 2003, SOTRANS Hà Nội đã là Chi nhánh nên không còn nhận được các hợp đồng do Công ty ủy quyền thực hiện như khi còn là Văn phòng đại diện, mà tự hạch toán kinh doanh độc lập. Mặc dù vậy chỉ tiêu lợi nhuận năm 2003 của Chi nhánh vẫn vượt mức kế hoạch đặt ra, đạt 1.000 triệu đồng, tăng 42% so với năm 2002.
Năm 2004 là một năm với nhiều khó khăn thách thức cho Chi nhánh do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, rào cản về thuế của một số nước lớn áp đặt với sản phẩm thuỷ sản đã làm khó khăn đến xuất khẩu. Mặt khác giá một số vật tư thiết yếu tăng cao như sắt thép, xăng dầu, phân bón, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 9,5% đã làm giảm phần nào tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta nói chung và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Tuy nhiên, Chi nhánh vẫn hoàn thành một cách xuất sắc và vượt mức kế hoạch đề ra cả về chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận (có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng toàn Công ty - mức tăng trưởng toàn Công ty đạt 124% kế hoạch và 126% năm 2003), cũng như lãi nộp công ty (chiếm 5,1% và đứng thứ 4 so với toàn Công ty về chỉ tiêu lãi nộp công ty), tỷ suất lợi nhuận/doanh thu đạt 16,7% cao hơn năm 2003 là 2,41%.
Đánh giá thu nhập cá nhân
Thu nhập của cán bộ công nhân viên Chi nhánh tăng đều qua các năm. Qua bảng số liệu ta thấy, tuy mức thu nhập trên chưa hẳn là cao trong xã hội hôm nay, song so với mặt bằng chung của Việt Nam thì đây là một mức thu nhập khá. Đây là sự đền đáp thích đáng cho những gì mà nhân viên của Chi nhánh đã đóng góp vào sự phát triển chung của Chi nhánh.
Bảng 2.3:
Thu nhập bình quân của cán bộ nhân viên giai đoạn 2000 - 2004
ĐVT: nghìn đồng/tháng
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Thu nhập bình quân/tháng/người
3.200
3.300
3.600
3.950
4.670
So với
Năm trước
Mức tăng tuyệt đối
-
100
300
350
720
Tốc độ tăng (%)
-
3
9,1
9,7
18,2
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của SOTRANS Hà Nội)
Từ chỗ chỉ có 17 nhân viên vào năm 2002, đến hết năm 2003 số lượng nhân viên chính thức đã là 23 bao gồm Hà Nội 17 người và Hải Phòng 6 người. Tuy số lượng nhân viên trong năm 2003 tăng tới 35%, nhưng tính bình quân cả năm thu nhập của các nhân viên không có sự giảm sút so với năm 2002 thậm chí trong các tháng cuối năm 2003 mức thu nhập còn tăng cao. Năm 2003 thu nhập bình quân đầu người khoảng 3.950.000 đồng/tháng, tăng gần 10% so với năm 2002. Tổng quỹ lương cho nhân viên tại Chi nhánh là 960 triệu đồng. Năm 2004 thu nhập bình quân đầu người khoảng 4.670.000 đồng/tháng, tăng hơn 18% so với năm 2003. Tổng quỹ lương cho nhân viên khoảng 1.400 triệu đồng (xem Bảng 2.3).
Thành công trong việc cải thiện thu nhập của nhân viên tại Chi nhánh trong bối cảnh hoạt động kinh doanh đang gặp nhiều khó khăn sẽ là động lực to lớn thúc đẩy tinh thần làm việc hăng say, cống hiến hết mình và nâng cao hiệu suất lao động của toàn thể nhân viên tại Chi nhánh.
2. Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
2.1. Khối lượng hàng hóa được giao nhận
Từ năm 2000 trở lại đây khối lượng hàng hóa giao nhận có tăng nhưng tăng không lớn. Năm 2001 tăng so với năm 2000 là 4%, năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7%, riêng năm 2003 tốc độ tăng còn không bằng năm 2002 (chỉ đạt 98,8% so với năm 2002). Sở dĩ như vậy là do năm 2003 SOTRANS Hà Nội không còn nhận được các hợp đồng ủy thác thực hiện từ Công ty như khi còn là Văn phòng đai diện mà phải tự hạch toán kinh doanh, tự tìm kiếm thêm nguồn hàng cho mình. Bước sang năm 2004, tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh có sự khởi sắc đáng khích lệ, khối lượng hàng hóa giao nhận tăng vọt so với các năm trước, đạt 172.054 tấn hàng hóa tương ứng tăng so với năm 2003 là 20% (xem Bảng 2.4). Điều đó chứng tỏ mặc dù có sự biến động, chuyển đổi trong cơ cấu quản lý nhưng đó là sự biến đổi tích cực đánh dấu sự trưởng thành của SOTRANS Hà Nội, chứng tỏ chiến lược phương hướng hoạt động của Chi nhánh là đúng đắn.
Bảng 2.4: Khối lượng hàng hóa giao nhận giai đoạn 2000 - 2004
ĐVT: Tấn
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng khối lượng
132.972
138.297
148.008
146.226
172.054
So với
năm trước
Mức tăng tuyệt đối
-
5.325
9.711
- 882
28.828
Tốc độ tăng (%)
-
4
7
-1,2
20
Hàng xuất
Số tuyệt đối
46.020
50.456
60.043
61.876
80.748
Mức tăng tuyệt đối
-
4.436
9.587
1.833
18.872
Tốc độ tăng (%)
-
9,6
19
3,1
30,5
Hàng nhập
Số tuyệt đối
86.952
87.841
87.965
84.350
91.306
Mức tăng tuyệt đối
-
889
124
- 3.615
6.956
Tốc độ tăng (%)
-
1,0
0,1
-4,1
8,2
(Nguồn: Báo cáo kế toán của SOTRANS Hà Nội)
Một đặc điểm dễ nhận thấy là sản lượng hàng nhập trong tổng khối lượng hàng hóa được giao nhận thường cao hơn so với hàng xuất. Chi nhánh đã khai thác rất tốt nguồn hàng nhập với vai trò là đại lý cho các hãng giao nhận vận tải quốc tế, hoàn thành quy trình giao nhận vận tải đưa hàng hóa đến tận tay người nhận và phân phối hàng hóa nếu được yêu cầu. Tỉ lệ này có sự cân đối hơn trong những năm gần đây, Chi nhánh đã rất nỗ lực cố gắng khai thác nguồn hàng hai chiều xuất và nhập khẩu.
ĐVT: Tấn
Hình 2.2:
Khối lượng hàng hóa giao nhận giai đoạn 2000 - 2004
(Nguồn: Báo cáo kế toán của SOTRANS Hà Nội)
Qua hình 2.2 ta thấy khối lượng hàng nhập khẩu được giao nhận tại SOTRANS Hà Nội không có sự biến động mạnh song khối lượng hàng xuất khẩu được giao nhận tăng rất nhanh. Năm 2000 Chi nhánh mới chỉ giao nhận được 46.020 tấn hàng xuất khẩu thì đến năm 2004 đã là 80.748 tấn, đạt tốc độ tăng 30,5% so với năm 2003 và gần gấp đôi sau 5 năm.
Cơ cấu mặt hàng giao nhận tại SOTRANS Hà Nội rất đa dạng, có từ hàng nguyên vật liệu đến hàng tiêu dùng, từ hàng công trình cho đến hàng thủ công mỹ nghệ. Chủng loại hàng hóa xuất khẩu được giao nhận tập trung vào các mặt hàng có ưu thế xuất khẩu của Việt Nam như: hàng giầy dép, hàng dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ, than đá (xem Bảng 2.5.2)… Hàng xuất khẩu được Chi nhánh giao nhận tập trung chủ yếu sang các thị trường Mỹ, EU, Nhật, Đài Loan… là những thị trường giao nhận hàng hóa quốc tế truyền thống của SOTRANS từ lâu đời.
Bảng 2.5.1: Tình hình giao nhận theo cơ cấu mặt hàng (Hàng NK)
ĐVT: Tấn
Năm
Hàng NK
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng
86.952
87.841
87.965
84.350
91.306
Hàng công trình
Tỉ Trọng (%)
8.695
10
12.298
14
12.345
14
12.653
15
20.087
22
Hàng NVL
Tỉ Trọng (%)
23.477
27
21.960
25
22.871
26
21.088
25
19.174
21
Sắt thép
Tỉ Trọng (%)
9.565
11
7.906
9
8.767
10
8.435
10
6.393
7
Máy vi tính và linh kiện
Tỉ Trọng (%)
7.826
9
8.784
10
7.037
8
7.592
9
6.391
7
Tân dược
Tỉ Trọng (%)
6.087
7
6.149
7
7.917
9
6.748
8
7.304
8
Hàng lỏng
Tỉ Trọng (%)
12.173
14
13.176
15
14.954
17
10.966
13
15.522
17
Hàng khác
Tỉ Trọng (%)
19.129
22
17.568
20
14.074
16
16.868
20
16.435
18
(Nguồn: Báo cáo kế toán của SOTRANS Hà Nội)
Bảng 2.5.2: Tình hình giao nhận theo cơ cấu mặt hàng (Hàng XK)
ĐVT: Tấn
Năm
Hàng XK
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng
46.020
50.456
60.043
61.876
80.748
Hàng giầy dép
Tỉ Trọng (%)
5.062
11
6.559
13
9.006
15
8.663
14
10.497
13
Hàng dệt may
Tỉ Trọng (%)
8.284
18
9.587
19
10.207
17
9.900
16
12.920
16
Hàng thủ công mỹ nghệ
Tỉ Trọng (%)
7.363
16
9.082
18
9.006
15
10.519
17
11.305
14
Gốm sứ thủy tinh
Tỉ Trọng (%)
4.602
10
4.510
9
4.803
8
4.950
8
5.652
7
Hàng lỏng
Tỉ Trọng (%)
4.142
9
4.036
8
6.004
10
7.425
12
12.112
15
Than đá
Tỉ Trọng (%)
6.903
15
7.064
14
10.207
17
9.281
15
14.535
18
Hàng khác
Tỉ Trọng (%)
9.664
21
9.587
19
10.808
18
11.138
18
13.727
17
(Nguồn: Báo cáo kế toán của SOTRANS Hà Nội)
Trong cơ cấu mặt hàng giao nhận có hai loại hàng hóa rất được sự quan tâm của SOTRANS Hà Nội, đó là hàng công trình và hàng chất lỏng. Hàng công trình, hàng dự án và hàng siêu trường siêu trọng là loại hàng mà trong công tác giao nhận cần đến sự trợ giúp của các thiết bị chuyên dùng như cần cẩu loại nặng, xe vận tải ngoại cỡ… để phục vụ cho quá trình giao nhận và cần phải có kế hoạch cẩn thận để đảm bảo giao hàng kịp thời hạn. Mặc dù chưa sở hữu những loại phương tiện chuyên dùng trên nhưng SOTRANS Hà Nội đã thực hiện giao nhận khá nhiều lô hàng dự án rất hiệu quả bằng cách sử dụng dịch vụ của những công ty cho thuê các phương tiện chuyên dùng. Khối lượng hàng hóa giao nhận của loại hàng này tăng rất khá, từ 8.695 tấn năm 2000 đến năm 2004 đã là 20.087 tấn, tức là tăng hơn 2 lần sau 4 năm (xem Bảng 2.5.1). Hàng lỏng cũng là loại hàng có kết quả giao nhận tăng khá và ổn định. SOTRANS Hà Nội đã kinh doanh giao nhận vận tải hàng hóa là chất lỏng chứa đựng trong bồn cao su (Flexitank) ngay từ những ngày đầu thành lập. Flexitank là container chuyên dùng cho giao nhận vận tải hàng hóa là chất lỏng không độc. Ưu điểm của Flexitank trong chuyên chở hàng hóa lỏng không độc là: Flexitank có trọng lượng nhẹ hơn, dung tích chứa hàng lớn hơn, hơi nước ít đọng bên trong nên hạn chế được thiệt hại do nước đọng, chống ăn mòn tốt hơn các vật liệu khác. Giao nhận vận tải hàng Flexitank luôn gắn với phương thức giao nhận vận tải bằng đường biển. Đối tác của SOTRANS Hà Nội trong lĩnh vực giao nhận vận tải hàng Flexitank là hãng Trans Ocean Distribution (TOD) của Singapore. Kinh doanh loại hàng này bên cạnh doanh thu thu được từ hoạt động giao nhận như các loại hàng hóa bình thường khác thì SOTRANS Hà Nội còn thu được lợi nhuận qua việc kinh doanh bồn cao su. Những loại hàng hóa lỏng được SOTRANS Hà Nội giao nhận là dầu thành phẩm, mủ cao su, dầu ăn, dược phẩm, sữa…
Năm 2003 và 2004 là năm nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch SARS và dịch cúm gia cầm, tác động một cách trực tiếp và gián tiếp đến tổng khối lượng hàng hóa giao nhận của SOTRANS Hà Nội. Trong năm 2003 sản lượng hàng hóa giao nhận của SOTRANS Hà Nội có giảm một phần do những tác động này. Năm 2004 do đã có kinh nghiệm từ năm 2003 nên SOTRANS Hà Nội không còn chịu tác động nhiều nữa.
2.2. Hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế theo phương thức vận tải
Khối lượng hàng hóa giao nhận bằng đường biển luôn chiếm tỉ trọng cao trong tổng khối lượng hàng hóa giao nhận của Chi nhánh, trung bình khoảng 70 - 80 % khối lượng hàng hóa được giao nhận. Điều này cũng theo logic bình thường bởi trong chuyên chở hàng hóa quốc tế thì vận tải biển đóng vai trò quan trọng nhất, trên 3/4 tổng khối lượng hàng hóa chuyên chở trong buôn bán quốc tế được thực hiện bằng phương thức vận tải biển. Tại Việt Nam tỉ trọng này là 80 - 90 %. Vận tải đường biển có năng lực vận chuyển lớn vì phương tiện trong vận tải biển là các tàu có sức chở rất lớn, lại có thể chạy nhiều tàu trong cùng một thời gian trên cùng một tuyến đường. Vận tải biển thích hợp cho việc vận chuyển hầu hết các loại hàng hóa, đặc biệt thích hợp và hiệu quả trong việc chuyên chở các loại hàng rời có khối lượng lớn và giá trị thấp. Một lý do nữa tạo nên sức hút của phương thức vận tải biển là giá thành rất thấp, vào loại thấp nhất trong các phương thức vận tải.
Bảng 2.6: Khối lượng hàng hóa giao nhận theo phương thức vận tải
ĐVT: Tấn
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
GNĐB
Tốc độ tăng (%)
109.722
-
114.355
4,2
120.806
5,6
113.938
-5,7
122.150
7,2
GNHK
Tốc độ tăng (%)
17.591
-
17.027
-3,2
18.282
7,4
20.728
13,4
30.616
47,7
GN VTĐPT
Tốc độ tăng (%)
5.659
-
6.915
22,2
8.920
29
11.560
29,6
19.288
66,9
Tổng
132.972
138.297
148.008
146.226
172.054
(Nguồn: Báo cáo kế toán của SOTRANS Hà Nội)
Khối lượng hàng hóa giao nhận bằng đường biển khá ổn định, tốc độ tăng không đáng kể, đạt cao nhất năm 2004 là 122.150 tấn, chiếm 71% tổng khối lượng hàng hóa giao nhận trong năm (xem Bảng 2.6). Năm 2003 khối lượng hàng hóa giao nhận bằng đường biển có giảm, đây là tình hình hoạt động chung của Chi nhánh năm 2003. Những năm trở lại đây tỉ trọng giao nhận vận tải biển có phần giảm xuống. Nguyên nhân không phải do Chi nhánh không khai thác tốt mảng hoạt động giao nhận vận tải biển mà do Chi nhánh đã phát triển được hoạt động giao nhận bằng phương thức hàng không và VTĐPT, tỉ trọng hàng hóa giao nhận của hai phương thức này trong những năm gần đây tăng khá. Chi nhánh đã mở rộng được phạm vi kinh doanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng trong giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế.
Bảng 2.7: Kết quả giao nhận theo phương thức vận tải
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
I. Doanh thu (T)
5.081
6.048
6.236
6.510
8.477
GNĐB
Tốc độ tăng (%)
3.303
-
3.758
13,8
3.946
5,0
4.108
4,1
5.733
39,6
GNHK
Tốc độ tăng (%)
962
-
964
0,2
1.045
8,4
1.152
10,2
1.377
19,5
GN VTĐPT
Tốc độ tăng (%)
816
-
1.326
62,5
1.245
- 6,1
1.250
0,4
1.367
9,4
II. Lợi nhuận (P)
445
484
626
930
1.432
GNĐB
Tốc độ tăng (%)
293
-
300
2,4
422
40,7
678
60,7
1.022
50,7
GNHK
Tốc độ tăng (%)
83
-
84
1,2
97
15,5
120
23,7
205
70,8
GN VTĐPT
Tốc độ tăng (%)
69
-
100
36
107
0,1
132
23
205
67
III. Tỉ suất P/T (%)
8,76
8,00
10,04
14,29
16,89
GNĐB
8,87
7,98
10,69
16,90
17,83
GNHK
8,63
8,71
9,28
10,42
14,89
GN VTĐPT
8,46
7,54
8,60
10,56
15,00
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SOTRANS Hà Nội)
Doanh thu từ hoạt động giao nhận đường biển cũng tăng đều qua các năm, đặc biệt năm 2003 mặc dù khối lượng giảm chỉ đạt 113.938 tấn hàng hóa, tốc độ tăng không bằng năm 2002, song doanh thu và lợi nhuận đều cao hơn, đặc biệt tỉ suất lợi nhuận/doanh thu cao hơn rất nhiều (xem Bảng 2.7). Trong hoạt động giao nhận nói chung và giao nhận biển nói riêng Chi nhánh đã áp dụng rất nhiều biện pháp để giảm chi phí hoạt động nâng cao được hiệu quả kinh doanh như: giảm chi phí làm hàng, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các hãng tàu nhờ đó mà giành được giá ưu đãi trong thời điểm nhiều hàng…
ĐVT: Tấn
Hình 2.3:
Khối lượng hàng hóa giao nhận của phương thức hàng không
(Nguồn: Báo cáo kế toán của SOTRANS Hà Nội)
Giao nhận hàng không cũng là mảng hoạt động chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh kể cả về khối lượng hàng hóa giao nhận lẫn doanh thu và lợi nhuận. Năm 2001 mặc dù có sự kiện 11 tháng 9 song hoạt động giao nhận hàng không của Chi nhánh chịu ảnh hưởng rất ít. Khối lượng hàng hóa giao nhận giảm không đáng kể, thậm chí doanh thu và lợi nhuận còn tăng so với năm 2000. Đây là sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh trong bối cảnh vận tải hàng không chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng bố. Năm 2002 Chi nhánh bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch mở rộng thị trường giao nhận hàng không và bước đầu có quan hệ với hơn 23 hãng giao nhận hàng không trên thế giới như: Translink, Sino transport Co, Piomeer Express, Gateway Epress… đây đều là các hãng hàng không lớn, có uy tín trên thị trường giao nhận. Nhờ đó mà dù tác động của cuộc khủng bố 11 tháng 9 đến giao nhận vận tải hàng không là rất lớn nhưng Chi nhánh chịu ảnh hưởng rất ít. Năm 2003 thị trường giao nhận vận tải hàng hóa hàng không trở lại ổn định sau khủng bố, khối lượng hàng hóa giao nhận hàng không của Chi nhánh cũng tăng trưởng trở lại đạt 20.728 tấn. Năm 2004 khối lượng hàng giao nhận hàng không đạt 30.616 tấn, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2003 (xem Hình 2.3). Doanh thu và lợi nhuận năm 2004 cũng tăng cao và cao nhất so với các năm trước, đạt 1.377 triệu đồng doanh thu và 205 triệu đồng lợi nhuận, tỉ suất lợi nhuận/doanh thu cũng cao nhất là 14,89% (xem Bảng 2.7). Mối quan hệ giữa Chi nhánh và các hãng hàng không ngày càng được thắt chặt, nguồn hàng ủy thác giao nhận từ các hãng hàng không không những được duy trì mà ngày càng lớn. Giờ đây SOTRANS Hà Nội có khả năng cung cấp dịch vụ bay thẳng tới các vùng hàng không trên thế giới như LD3, LD9; dịch vụ kết hợp vận chuyển đường biển - đường hàng không qua cảng, sân bay Singapore, Hồng Kông, Ấn Độ, Dubai… SOTRANS Hà Nội liên tục phát triển dịch vụ giao nhận vận tải hàng không quốc tế với sự trợ giúp của các hãng hàng không quốc tế trên thế giới như: AF, VN, TG, JL, BR, CI, OZ, SU…
ĐVT: Triệu đồng
Hình 2.4: Kết quả giao nhận VTĐPT
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của SOTRANS Hà Nội)
Đối với lĩnh vực giao nhận VTĐPT, SOTRANS hoạt động chủ yếu với tư cách là đại lý giao nhận của các hãng giao nhận VTĐPT nước ngoài để tiếp tục thực hiện các nghiệp vụ về thủ tục khai hải quan, thủ tục giao nhận hàng hoá ở cảng biển và vận chuyển vào sâu trong nội địa để giao hàng cho người nhận hàng hoặc chuyên chở quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam để chở tiếp tới các nước láng giềng.
Hiện nay, mảng hoạt động này rất phát triển tại SOTRANS Hà Nội. Kinh nghiệm tích lũy được sau một thời gian hoạt động cho phép SOTRANS Hà Nội thực hiện giao nhận một cách thuần thục các lô hàng, đặc biệt là đối với các loại hàng siêu trường siêu trong như hàng dự án, hàng công trình. Khối lượng hàng hóa giao nhận bằng phương thức này năm 2004 tăng gần gấp đôi năm 2003, doanh thu tăng khá, đặc biệt lợi nhuận tăng nhanh, tỉ suất lợi nhuận/doanh thu tăng gấp 1,5 lần so với năm 2003 và gần gấp đôi so với các năm trước. Hình thức vận tải đường biển - đường bộ, đường biển - đường bộ - đường sắt đã được Chi nhánh thực hiện từ lâu, gần đây Chi nhánh còn mở rộng khai thác thêm tuyến VTĐPT đường biển - đường hàng không nhằm đa dạng loại hình dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng và phù hợp với các loại hàng hóa khác nhau.
2.3. Hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế theo vai trò của người giao nhận
Trên thị trường kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế SOTRANS Hà Nội tham gia với đầy đủ các vai trò của một người giao nhận. Tuy nhiên có những vai trò là thế mạnh của SOTRANS Hà Nội và những vai trò khác thì không mạnh.
2.3.1. Với vai trò đại lý
Đây là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận khá cao, cao nhất trong những hoạt động giao nhận hàng hóa của Chi nhánh, đặc biệt là trong thời gian đầu thành lập.
Bảng 2.8: Kết quả giao nhận với vai trò đại lý
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
I. Doanh thu (T)
3.557
4.053
4.303
4.036
4.579
Đại lý GNĐB
2.117
2.437
2.703
2.317
2.653
Đại lý GNVTĐPT
816
996
950
966
1.000
Đại lý GNHK
624
620
650
753
926
II. Lợi nhuận (P)
308
334
445
595
802
Đại lý GNĐB
186
209
302
414
523
Đại lý GNVTĐPT
69
75
82
102
150
Đại lý GNHK
53
50
61
79
129
III. Tỉ suất P/T
8,66
8,24
10,34
14,56
17,51
Đại lý GNĐB
8,79
8,58
11,17
17,87
19,71
Đại lý GNVTĐPT
8,46
7,53
8,63
10,56
15,00
Đại lý GNHK
8,49
8,06
9,38
10,49
13,93
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của SOTRANS Hà Nội)
ĐVT: Triệu đồng
Hình 2.5: Doanh thu hoạt động giao nhận với vai trò đại lý
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của SOTRANS Hà Nội)
Qua hình 2.5 cho thấy hoạt động với vai trò đại lý vẫn tập trung vào phương thức giao nhận bằng đường biển. Doanh thu từ hoạt động đại lý GNĐB thường chiếm khoảng 80% tổng doanh thu của hoạt động đại lý. Gần đây tỉ trọng này đã có xu hướng giảm nhường chỗ cho sự vươn lên của hoạt động đại lý GNHK và đại lý GNVTĐPT, nhưng nhìn chung đại lý GNĐB vẫn luôn chiếm ưu thế. Hiện tại Chi nhánh cùng Công ty và Xí nghiệp đang phấn đấu trở thành đại lý của nhiều hãng giao nhận vận tải hàng không hơn nữa, một trong các hãng quan tâm là Việt Nam AIRLINE, đặc biệt là việc đăng ký để trở thành hội viên của tổ chức IATA (Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế). Trong thời gian tới hoạt động đại lý GNHK sẽ có sự tăng trưởng mạnh mẽ không kém hoạt động đại lý GNĐB.
Phát huy vai trò đại lý nhận ủy thác xuất nhập khẩu truyền thống, SOTRANS Hà Nội ngày càng thể hiện rõ ưu thế của mình trong hoạt động giao nhận ủy thác cho các đơn vị xuất nhập khẩu bên cạnh việc phát triển các hình thức đại lý như đại lý hàng hải, đại lý hàng không và đặc biệt là hoạt động mua bán cước quốc tế.
Bảng 2.9:
Số lượng hãng giao nhận quốc tế ký hợp đồng đại lý với SOTRANS Hà Nội
Năm
Loại hình đại lý
2002
2003
2004
Đại lý hàng hải
53
56
64
Đại lý hàng không
15
18
24
Tổng
68
74
88
Tốc độ tăng
-
8,8
19
(Nguồn: Tài liệu lưu trữ về hợp đồng đại lý)
Số lượng hãng giao nhận quốc tế có mối quan hệ đại lý với SOTRANS Hà Nội là gần 90 hãng. Đa số các hãng này có quan hệ với Công ty và Xí nghiệp từ lâu đời và một số ít các hãng do chính SOTRANS Hà Nội thiết lập mối quan hệ trong thời gian hoạt động. Trong hệ thống đại lý của Công ty, Xí nghiệp cũng như của SOTRANS Hà Nội thì những đại lý như IFB, SAIMA, SANKYU, ABX… là những hãng có mối quan hệ truyền thống, lượng hàng chỉ định của những hãng này thường chiếm tỉ trọng cao hơn so với các đại lý khác của Chi nhánh. Các đại lý có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới và mỗi đại lý lại có văn phòng đại diện và chi nhánh ở các nước khác nhau. Chính điều này đã tạo cho hoạt động của Chi nhánh có thể diễn ra mọi nơi trên thế giới đáp ứng được đa dạng nhu cầu của khách hàng. Hiện nay đối với SOTRANS Hà Nội hoạt động đại lý vẫn là hoạt động thu lợi lớn, Chi nhánh không ngừng nâng cao uy tín và sức cạnh tranh để thu hút các hãng, công ty nước ngoài tin tưởng và tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh doanh.
Với vai trò này, SOTRANS Hà Nội nhận ủy thác từ chủ hàng hoặc các công ty giao nhận vận tải để thực hiện các công việc khác nhau như nhận hàng, giao hàng, khai thuê hải quan… trên cơ sở hợp đồng ủy thác.
2.3.2. Với vai trò là người gom hàng.
Gom hàng là tập hợp những lô hàng nhỏ lẻ của nhiều người gửi ở một địa điểm thành một lô hàng lớn để đưa đến cho một hoặc nhiều người nhận ở một địa điểm khác gửi cho đại lý của người gom hàng ở nơi đến để chia lẻ cho từng người nhận. Khi làm nhiệm vụ của người gom hàng giao cho người chuyên chở những container đã xếp đầy hàng trong đó gồm nhiều lô hàng lẻ (LCL) gộp lại thì người gom hàng được người vận tải coi là người gửi hàng nguyên công (FCL) và được hưởng giá cước container nguyên.
Nghiệp vụ gom hàng là một trong những thế mạnh của SOTRANS Hà Nội, đặc biệt trong chuyên chở hàng hóa bằng container dịch vụ gom hàng là không thể thiếu được nhằm biến những lô hàng lẻ thành những lô hàng nguyên công. Trong hoạt động này SOTRANS Hà Nội mua buôn khoang chứa hàng của người chuyên chở thực tế để bán lẻ cho từng khách hàng. SOTRANS được hưởng phần tiền chênh lệch giữa tổng số tiền cước thu được của người gửi hàng về những lô hàng lẻ trừ đi số tiền cước phải trả cho người chuyên chở.
Hiện nay cùng với xu thế container hóa, SOTRANS Hà Nội tích cực làm đại lý cho các hãng giao nhận vận tải trực tiếp thực hiện các dịch vụ gom hàng. Chi nhánh đặc biệt chú trọng hoạt động gom hàng xuất khẩu cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước.
Bảng 2.10:
Khối lượng hàng hóa giao nhận với vai trò người gom hàng
ĐVT: Tấn
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Số tuyệt đối
22.997
24.942
30.423
38.506
50.246
Mức tăng tuyệt đối
-
1.945
5.481
8.083
11.758
Tốc độ tăng (%)
-
8,5
22
26,6
30,5
(Nguồn: Báo cáo kế toán của SOTRANS Hà Nội)
2.3.3. Với vai trò là người chuyên chở
SOTRANS Hà Nội chỉ đóng vai trò là người thầu chuyên chở chứ không phải là người chuyên chở thực tế bởi Chi nhánh không sở hữu đội tàu hay đội xe. Việc không sở hữu các phương tiện chuyên chở có thể được xem là một trong những hạn chế của Chi nhánh.
Chuyên chở là hoạt động không thể thiếu được trong quy trình nghiệp vụ giao nhận hàng hóa. Với vai trò này SOTRANS Hà Nội thường thực hiện các hoạt động như lưu cước lưu khoang với hãng tàu, với các hãng giao nhận vận tải hàng không, thực hiện giao nhận nội địa bằng đường bộ (ô tô, đường sắt) và cả bằng đường biển để hoàn thành quy trình giao nhận đưa hàng hóa đến tận kho người nhận. Mặc dù có những hạn chế về phương tiện chuyên chở song Chi nhánh đã thực hiện rất tốt vai trò này của người giao nhận. Mối quan hệ của Chi nhánh với các hãng vận tải ngày càng được củng cố và phát triển.
2.3.4. Với vai trò môi giới hải quan và người kinh doanh VTĐPT
Các vai trò khác như môi giới hải quan, vai trò người kinh doanh VTĐPT là những hoạt động chiếm tỉ trọng thấp hơn các vai trò đại lý và người gom hàng trong hoạt động của Chi nhánh.
Trong thời gian đầu hoạt động thì môi giới hải quan (khai thuê hải quan) được Chi nhánh thực hiện khá nhiều cho các lô hàng xuất khẩu cũng như nhập khẩu trong khi các dịch vụ khác như kinh doanh VTĐPT, chuyên chở chưa phát triển. Nhìn chung hoạt động này đem lại nguồn thu khá khiêm tốn cho Chi nhánh. Chi nhánh thường thu hút và khuyến khích khách hàng sử dụng trọn gói dịch vụ chứ không riêng gì khai thuê hải quan.
Trong hoạt động kinh doanh VTĐPT, SOTRANS Hà Nội hoạt động chủ yếu với tư cách là đại lý giao nhận cho các hãng giao nhận VTĐPT nước ngoài, thay mặt các hãng trên làm các dịch vụ giao nhận hàng hoá ở cảng, ở các sân bay và chuyển giao hàng cho các chủ hàng ở các điểm nhận, hoặc sử dụng vận đơn, chứng từ VTĐPT của các hãng đó để thực hiện việc gom hàng và chở hàng tới các ga cảng trung gian…
Còn với vai trò là người kinh doanh VTĐPT, tức là người "tự mình hoặc thông qua một người khác thay mặt cho mình, ký một hợp đồng VTĐPT và hoạt động như là một người uỷ thác chứ không phải là người đại lý hoặc người thay mặt người gửi hàng hay người chuyên chở tham gia công việc VTĐPT và đảm nhận trách nhiệm thực hiện hợp đồng". Vai trò người kinh doanh VTĐPT của SOTRANS Hà Nội còn rất yếu. Trong thời gian đầu hoạt động giao nhận VTĐPT của Chi nhánh đơn thuần chỉ là đại lý cho các hãng giao nhận vận tải nước ngoài. Gần đây Chi nhánh có thực hiện hoạt động giao nhận với vai trò người kinh doanh VTĐPT song còn rất hạn chế.
2.4. Khách hàng của dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại SOTRANS Hà Nội
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường như ngày nay thì khách hàng là tối quan trọng. Khách hàng có toàn quyền lựa chọn doanh nghiệp có khả năng cung cấp cho mình sản phẩm (dịch vụ) với chất lượng tốt nhất. Xác định như vậy, ngay từ những ngày đầu hoạt động SOTRANS Hà Nội đã rất quan tâm vào chiến lược khách hàng.
Tuy mới chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn song SOTRANS Hà Nội đã xây dựng được cho mình một tập hợp khách hàng truyền thống. Khoảng 100 khách hàng là những công ty lớn như: IBM, FPT, Ford, Orion Hanel, ABB, công ty dệt 8/3, Hanosimex, Cargill, SGE - Schidller, công ty may 10, Thạch Bàn - Viglacera, Bitis', Ptrolimex… và khoảng 200 bạn hàng là những công ty vừa và nhỏ như: Phú Thái, Haphaco, Atlas Copco, Mediphar Co…
Bảng 2.11:
Doanh thu hoạt động giao nhận hàng hoá quốc tế theo khách hàng
ĐVT: Triệu đồng
Khách hàng
Năm 2003
Năm 2004
STT
TT (%)
STT
TT (%)
Công ty Thang máy Schindler
143
2,2
254
3
Công ty Thang máy và Xây dựng Tài Nguyên
111
1,7
170
2
Công ty Vật liệu xây dựng Thái Nguyên
72
1,1
161
1,9
Công ty TNHH Thạch Bàn - TBC
156
2,4
229
2,7
Tổng công ty than Việt Nam
221
3,4
339
4
Petrolimex
195
3
339
4
Cargill Việt Nam
176
2,7
254
3
Công ty may 10
117
2,8
237
2,8
Công ty dệt may Hà Nội - Hanosimex
150
2,3
263
3,1
FPT
189
2,9
271
3,2
Orion Hanel
65
1
127
1,5
Bitis’
91
1,4
144
1,7
Công ty giày Thượng Đình
85
1,3
161
1,9
Công ty giày Đông Anh
59
0,9
76
0,9
Công ty TNHH Tân Hoàng Minh
124
1,9
195
2,3
Các công ty khác
6.510
70
8.477
62
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của SOTRANS Hà Nội)
Tuy chỉ chiếm 5% số lượng khách hàng song những khách hàng này đã chiếm đến 30 - 38% doanh thu của Chi nhánh.
Với mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh, quảng bá thương hiệu SOTRANS trên thị trường miền Bắc. SOTRANS Hà Nội nhận được rất nhiều sự ủng hộ từ Công ty, đặc biệt uy tín lâu đời của Công ty đã tạo bước đệm quan trọng cho sự phát triển của Chi nhánh trên thị trường miền Bắc. Tận dụng những ưu thế của mạng lưới SOTRANS, lực lượng cán bộ trẻ năng động có trình độ nghiệp vụ, hệ thống cơ sở vật chất ngày càng được hiện đại hóa để thúc đẩy và phát triển các đầu mối hàng hóa kể cả trong nước lẫn từ đầu nước ngoài, kể cả hàng xuất nhập khẩu lẫn quá cảnh, phát triển mạnh công tác tiếp thị, thắt chặt mối quan hệ với khách hàng. Để tạo được uy tín với khách hàng chiến lược kinh doanh của Chi nhánh là không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ (sản phẩm) của mình, sử dụng chính chất lượng dịch vụ (sản phẩm) để đem lại niềm tin cho khách hàng về hình ảnh SOTRANS. Chất lượng dịch vụ luôn được xem là giải pháp hàng đầu, bên cạnh công tác dịch vụ khách hàng, sử dụng khách hàng làm phương tiện marketing cho mình. Nhờ đó SOTRANS Hà Nội luôn có được nguồn khách hàng dồi dào và ngày càng mở rộng. Chi nhánh đã tham gia Hiệp hội hàng hải Việt Nam, Hiệp hội giao nhận Việt Nam và quốc tế, tham gia viết bài cho các tạp chí chuyên ngành kho vận giao nhận như tạp chí Visaba, mở website… nhằm giới thiệu quảng bá rộng rãi các thành tựu của mình.
Mặc dù đã có mối quan hệ rộng rãi và chặt chẽ với rất nhiều công ty trên thị trường miền Bắc song mở rộng quan hệ với nhiều bạn hàng hơn nữa vẫn luôn được SOTRANS Hà Nội xem là cần thiết quan trọng để tránh phụ thuộc vào lượng khách hàng truyền thống, tránh những tác động xấu khi tình hình kinh tế có biến động tiêu cực. Tuy nhiên thời gian gần đây lượng khách hàng mới không có sự tăng trưởng đáng kể, nguyên nhân do công tác sales - marketing chưa được tổ chức hiệu quả.
2.5. Hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế theo thị trường
2.5.1. Thị trường nội địa
Một ưu thế của SOTRANS đó là mạng lưới văn phòng đại diện, chi nhánh phủ rộng khắp toàn quốc, bên cạnh trụ sở chính đặt tại quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. SOTRANS có 6 đơn vị trực thuộc kinh doanh lĩnh vực giao nhận - kho vận - xếp dỡ, văn phòng đại diện tại Đà Nẵng, chi nhánh giao nhận và vận tải hàng hoá tại Đồng Nai cho khu công nghiệp Biên Hoà, Cảng thông quan nội địa Phước Long 2 tại quận Thủ Đức - thành phố Hồ Chí Minh, và các trạm giao nhận tại hầu hết các ga, cảng và sân bay trên toàn quốc như: Trạm giao nhận Hải Phòng, Trạm giao nhận hàng không tại sân bay Tân Sơn Nhất, Trạm giao nhận Bình Dương... Do đó bất cứ lô hàng xuất nhập khẩu nào cũng được SOTRANS thực hiện giao nhận một cách dễ dàng, an toàn và hiệu quả. So với các đơn vị khác trong hệ thống SOTRANS thì SOTRANS Hà Nội là đơn vị trẻ nhất. Khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật cũng kém bề thế so với các đơn vị khác trực thuộc Công ty. Nằm trong chiến lược trọng điểm của SOTRANS - tấn công mở rộng thị trường hoạt động của SOTRANS ra miền Bắc, SOTRANS Hà Nội là mũi tên chiến lược của Công ty để thực hiện thành công mục tiêu này.
Hoạt động giao nhận của SOTRANS Hà Nội tập trung chủ yếu ở các ga, cảng, sân bay của miền Bắc Việt Nam. Đối với những lô hàng nhập khẩu thì đó là việc chuyên chở giao nhận vào sâu trong nội địa tới tất cả các tỉnh, các vùng miền Bắc Việt Nam, đảm bảo hàng hóa được giao nhận an toàn, với thời gian nhanh nhất, chi phí hợp lý tới tận kho hàng người nhận. Khi phải thực hiện giao nhận những lô hàng tới các ga cảng và các vùng miền phía Nam, miền trung Việt Nam thì SOTRANS Hà Nội vẫn thực hiện một cách nhanh chóng hiệu quả với sự trợ giúp của các đơn vị, các văn phòng đại diện thuộc mạng lưới SOTRANS phủ rộng khắp cả nước.
2.5.2. Thị trường quốc tế
Mạng lưới hoạt động của SOTRANS không chỉ phủ rộng khắp toàn quốc mà còn vươn ra khắp toàn cầu. SOTRANS đã ký kết hiệp định là đại lý giao nhận với rất nhiều công ty giao nhận vận tải quốc tế như: đại lý hãng tàu container Hapag Lloyd, hãng Zim Lines, hãng Lloyd Triestino hoặc các đại lý giao nhận như: KuLme và Nagel, PanaLpina, Jardine, LEP… ở tất cả các nước trên thế giới: Thụy Sĩ, Đức, Hàn Quốc, Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật, Singapore… nên hoạt động của SOTRANS gần như không hạn chế. Đó là lợi điểm của SOTRANS mà SOTRANS Hà Nội có được rất nhiều thuận lợi từ ưu thế này.
Thị trường giao nhận hàng hóa quốc tế của SOTRANS Hà Nội bao gồm:
Khối ASEAN
Khu vực Đông Bắc Á có Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc.
EU có Pháp, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Ý, Bỉ…
Châu Mỹ có Hoa Kỳ, Canada, Mexico và một số nước châu Mỹ Latinh
Thị trường khác
ĐVT: %
Hình 2.6: Tỉ trọng khối lượng hàng hóa giao nhận theo thị trường
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của SOTRANS Hà Nội)
Nhìn chung thị trường giao nhận của Chi nhánh ngày càng được mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Khối ASEAN
ASEAN là thị trường có kim ngạch buôn bán với Việt Nam khá cao trong những năm gần đây.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc khối ASEAN năm 1998 là 1.000 triệu USD, năm 2003 tăng tới 5.500 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường ASEAN tăng từ 3.800 triệu USD năm 1998 đến 8.550 triệu USD vào năm 2003.
Kinh doanh trong khối ASEAN các doanh nghiệp Việt Nam có được những thuận lợi:
Các nước ASEAN có các nét tương đồng về văn hóa xã hội do đó tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ giao dịch buôn bán giữa các nước với nhau.
ASEAN đã áp dụng mức thuế ưu đãi đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trong khối.
Lợi điểm về khoảng cách địa lý là một trong những ưu thế cho việc kinh doanh buôn bán giữa các nước trong khối…
SOTRANS Hà Nội đã phát huy được lợi thế của các doanh nghiệp Việt Nam khi kinh doanh trong thị trường này. Trong năm 2004 Chi nhánh đã giao nhận được một khối lượng hàng hóa là 43.013 tấn chiếm 25% khối lượng hàng hóa giao nhận của Chi nhánh, hàng chuyển tải qua các cảng của Singapore chiếm tỉ trọng cao trong tổng khối lượng hàng hoá giao nhận được Chi nhánh thực hiện. Dự báo trong những năm tới hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế của Chi nhánh trong thị trường ASEAN còn mở rộng hơn nữa.
Khu vực Đông Bắc Á
Tuy chỉ có 5 nước nhưng đây là một thị trường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng khối lượng hàng hóa giao nhận của Chi nhánh. Năm 2000 sản lượng hàng hóa được giao nhận mới chỉ là 5.563 tấn thì sau 5 năm (năm 2004) đã là 46.450 tấn tăng hơn 8 lần.
Trong thị trường này thì Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là 3 quốc gia có tỉ trọng hàng hóa được giao nhận cao hơn cả. Còn Hồng Kông và Đài Loan mặc dù khối lượng hàng hóa được giao nhận không lớn như 3 nước trên song khối lượng hàng hóa được chuyển tải qua các cảng Hồng Kông và Đài Loan lại cao hơn.
Thị trường EU
Là một trong những thị trường xuất nhập khẩu lớn cuả Việt Nam trong những năm trở lại đây, hoạt động giao nhận của SOTRANS Hà Nội với thị trường này chiếm khoảng 30% doanh thu của Chi nhánh.
Nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại song phương, Việt Nam và EU đã ký kết Hiệp định buôn bán hàng dệt may, ký kết Hiệp định khung theo đó hai bên dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MNF), EU đã cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam chế độ GSP. Điều này làm cho EU trở thành thị trường buôn bán hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều ngày càng tăng. Hàng hoá được Chi nhánh giao nhận tại thị trường này theo cơ cấu mặt hàng đối với hàng NK chủ yếu là sắt thép, phân bón, xăng dầu, máy móc thiết bị phụ tùng... Hàng XK chủ yếu là dệt may, giày dép, các sản phẩm bằng da thuộc, đồ gỗ, đồ chơi trẻ em, đồ sứ mỹ nghệ, điện tử... Xét hoạt động giao nhận của Chi nhánh theo cơ cấu các nước thuộc EU thì đứng đầu là Cộng hoà Liên bang Đức chiếm tỉ trọng 28,5% tổng khối lượng hàng hoá Chi nhánh thực hiện giao nhận với EU, tiếp đến là Cộng hoà Pháp chiếm 20,7%; Anh 12,7%; Italia 9,6%; Bỉ - Lucxemburg 8,1%; Hà Lan 7,6%; Tây Ban Nha 4,2%; Thuỵ Điển 2,8%; Đan Mạch 2,2%; Áo 1,4%; Phần Lan 0,9%; Hy Lạp và Bồ Đào Nha đều 0,4%.
Tuy nhiên hoạt động giao nhận của Chi nhánh với thị trường EU gặp phải hạn chế do khoảng cách về địa lý là khá xa so với các thị trường khác, do đó thời gian vận chuyển thường lâu hơn và các rủi ro xảy ra với xác suất cũng cao hơn. Dù sao thì đây vẫn là thị trường đóng vai trò quan trọng đối với Chi nhánh và Chi nhánh nên có những biện pháp để tăng thị phần của mình tại thị trường này.
Thị trường châu Mỹ
Hoạt động giao nhận của Chi nhánh với thị trường này chủ yếu là với Mỹ. Đây là thị trường giao nhận hàng hóa quốc tế truyền thống không chỉ riêng của SOTRANS Hà Nội mà của Xí nghiệp đại lý giao nhận vận tải quốc tế từ những ngày đầu hoạt động. Mỹ vẫn được Chi nhánh đánh giá là thị trường tiềm năng của mình trong thời gian tới, đặc biệt kể từ sau khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết và có hiệu lực, kim ngạch buôn bán hai chiều Mỹ và Việt Nam đã đạt trên 2 tỉ USD thì chiến lược hoạt động của Công ty, Xí nghiệp cũng như của Chi nhánh luôn coi Mỹ là thị trường trọng điểm cần tập trung.
Đối với các nước khác như Canada, Mexico và các nước Mỹ latinh thì hoạt động của Chi nhánh còn khá hạn chế.
3. Kết quả kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Đại lý giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế là hoạt động kinh doanh chính của SOTRANS Hà Nội. Hoạt động này đem lại thu nhập chủ yếu cho Chi nhánh, chiếm khoảng 80 - 85% doanh thu và lợi nhuận. Kết quả kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tăng qua các năm hoạt động, đặc biệt là lợi nhuận có tốc độ tăng rất nhanh, nhanh hơn rất nhiều so với doanh thu.
Bảng 2.12: Kết quả kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Doanh thu (T)
Thực hiện
5.081
6.048
6.236
6.510
8.477
So với
năm trước
Mức tăng tuyệt đối
-
967
188
274
1967
Tốc độ tăng (%)
-
19
3
4
30
Lợi nhuận (P)
Thực hiện
445
484
626
930
1.432
So với
năm trước
Mức tăng tuyệt đối
-
39
142
304
502
Tốc độ tăng (%)
-
8,8
29,3
49
54
Tỉ suất P/T (%)
8,76
8,00
10,04
14,29
16,89
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh thời kỳ 2000 - 2004)
Nhìn chung tốc độ tăng lợi nhuận thường cao hơn tốc độ tăng doanh thu, nhờ thế mà hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh ngày càng được cải thiện, thể hiện ở tỉ suất lợi nhuận/doanh thu tăng và năm 2004 đạt cao nhất là 16,89% (xem Hình 2.7).
ĐVT: %
Hình 2.7: Tỉ suất lợi nhuận/doanh thu của hoạt động kinh doanh
dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc tế
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh thời kỳ 2000 - 2004)
III. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI SOTRANS HÀ NỘI
1. Thành tựu
Từ khi thành lập đến nay SOTRANS Hà Nội đã tổ chức giao nhận vận tải gần 740 nghìn tấn hàng hóa trong đó có gần 440 tấn hàng nhập và gần 300 tấn hàng xuất góp phần đáp ứng nhu cầu giao nhận vận tải phục vụ kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng tăng của Việt Nam.
Thời gian đầu hoạt động kết quả kinh doanh của Chi nhánh không được cao lắm, nguyên nhân không phải do yếu kém trong nghiệp vụ, đơn giản vì lợi nhuận không phải là mục tiêu chính trong thời gian đầu mà mục tiêu chính là mở rộng quan hệ khách hàng, đối tác, thiết lập mối quan hệ tốt với Hải quan và các cơ quan công quyền để xây dựng cơ sở thực hiện những chiến lược lâu dài sau này. Chi nhánh luôn bám sát các mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ hoạt động, kết quả kinh doanh đạt mức tăng trưởng vững chắc, bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. Khẳng định được chỗ đứng cho SOTRANS Hà Nội trên thị trường miền Bắc, xây dựng được uy tín và thương hiệu SOTRANS.
Một thành công của SOTRANS Hà Nội là xây dựng được Trạm giao nhận tại Hải Phòng. Bộ phận Hải Phòng đã trở thành cánh tay đắc lực của Bộ phận Giao nhận. Với sự cố gắng, nhiệt tình với công việc, Bộ phận Hải Phòng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, thiết lập được mối quan hệ tốt với Hải quan cũng như các hãng tàu, phần nào rút ngắn được thời gian giải quyết công việc cũng như chi phí.
Chi nhánh không ngừng mở rộng phạm vi kinh doanh, nâng cao chất lượng cũng như quy mô và loại hình dịch vụ cho khách hàng. Trong bối cảnh hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải diễn ra gay gắt SOTRANS Hà Nội đã dần khẳng định được vai trò của mình trong giao nhận vận chuyển hàng hóa nội địa và quốc tế. Chuyển dần từ một đơn vị thuần làm đại lý thực hiện các lô hàng chỉ định sang một đơn vị giao nhận có uy tín và được nhiều bạn hàng tín nhiệm. Nhiều mảng kinh doanh mới đã được triển khai và mang lại hiệu quả kinh tế cao đặc biệt là các hàng dự án, hàng siêu trường siêu trọng... Bộ phận Giao nhận quyết tâm đẩy mạnh việc khai thác lượng hàng hoá giao nhận xuất nhập khẩu, nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Bộ phận Nghiệp vụ kinh doanh và Bộ phận Đại lý đã rất cố gắng trong việc duy trì và phát triển mối quan hệ với đại lý cũ, khách hàng tiềm năng cũ và tìm kiếm các khách hàng mới, duy trì lượng khách hàng ổn định. Lượng khách hàng cũ vẫn được duy trì như Cargill, KTA, Thang máy Schindler, Thạch Bàn, Thang máy Thăng Long, Thang máy Tài Nguyên…
Có những tăng trưởng đáng kể về thị trường mới. Mặc dù nguồn hàng chỉ định của hệ thống đại lý ABX, SANKYU, IFB…đặc biệt là SAIMA có chiều hướng giảm sút so với trước nhưng Chi nhánh đã cố gắng khai thác những mảng kinh doanh mới trong lĩnh vực vận tải quốc tế như vận chuyển hàng sea-air, hàng không xuất.
Khai thác hàng nhập về Việt Nam vẫn là một mảng kinh doanh có hiệu quả, việc tiếp tục duy trì mảng kinh doanh này trong thời gian tới vẫn là trọng tâm hướng tới của Bộ phận Đại lý, Nghiệp vụ kinh doanh vì Chi nhánh đã có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện các lô hàng này, uy tín của SOTRANS trong hệ thống đại lý cũng được nâng cao nhiều, ưu thế về giá cả và chất lượng dịch vụ vẫn được Chi nhánh khai thác triệt để, ngoài ra lượng hàng nhập khẩu về Việt Nam còn rất lớn trong khi Chi nhánh mới chỉ khai thác được một thị trường rất nhỏ tại khu vực phía Bắc. Triển vọng phát triển của mảng kinh doanh này là rất cao trong tương lai.
Năm 2004 Chi nhánh đã mở rộng được thị trường mới là Đà Nẵng với trọng tâm là tuyến Đà Nẵng đi Pusan và một số hàng dệt may Hà Nội, Hà Nam… đi Korea. Tuy mảng kinh doanh này chưa mang lại hiệu quả lợi nhuận cao nhưng trong tương lai đây là thị trường khá tiềm năng để triển khai một số dịch vụ hỗ trợ khác cho các khách hàng tại khu vực thị trường này.
2. Tồn tại và nguyên nhân
2.1. Tồn tại
Chưa phát huy hết các vai trò của người giao nhận, còn tập trung vào hoạt động với vai trò đại lý
Mặc dù Chi nhánh kinh doanh giao nhận với đầy đủ các vai trò của người giao nhận nhưng hoạt động của Chi nhánh không đồng đều giữa các loại dịch vụ. Chi nhánh hoạt động chủ yếu với vai trò đại lý, người gom hàng, còn các vai trò khác như người kinh doanh VTĐPT, đặc biệt vai trò người chuyên chở còn rất hạn chế.
Trong ngoại thương các nhà kinh doanh XNK của Việt Nam thường giao hàng theo điều kiện xuất FOB nhập CIF, do đó nghiệp vụ thuê tàu, vận tải thường thuộc quyền lựa chọn của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu nước ngoài. Họ thường lựa chọn các hãng vận tải của nước họ, nghiệp vụ giao nhận thường được các hãng vận tải đó kiêm thực hiện luôn. Do đó, trong hoạt động giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế SOTRANS Hà Nội thường đóng vai trò là đại lý cho các hãng vận tải, thu hoa hồng và các chi phí phát sinh như: phí giao dịch, phí kho bãi, phí dịch vụ ở cảng, phí giao nhận nội địa… còn cước vận tải hầu hết do các công ty giao nhận vận tải nước ngoài thu.
Đội ngũ nhân viên của Chi nhánh là những người trẻ cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề có tinh thần nhiệt huyết với công việc song lại thiếu kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ, tính nhanh nhạy xử lý công việc chính xác chưa cao.
Chưa có biện pháp để thu hút khách hàng một cách hiệu quả
Khách hàng thường xuyên là yếu tố quan trọng đặt nền tảng cho sự phát triển ổn định của Chi nhánh, số lượng khách hàng này vẫn còn hạn chế. Các hợp đồng của Chi nhánh hiện nay chủ yếu còn nhỏ, không ổn định, các hợp đồng uỷ thác theo kế hoạch dài hạn không có nhiều, đã gây khó khăn lớn cho Chi nhánh trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm, cũng như xây dựng chiến lược phát triển dài hạn. Chi nhánh cũng chưa có những biện pháp để thu hút thêm các khách hàng mới cho mình.
Thị trường giao nhận vẫn còn mang tính tập trung.
Thị trường giao nhận hàng hóa chủ yếu của Chi nhánh vẫn là các thị trường như Đông Bắc Á, ASEAN, Mỹ, EU… Chi nhánh vẫn chưa khai thác được một số thị trường khác như: Châu Phi và các nước Nam Mỹ. Chi nhánh nên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24423.DOC