Tài liệu Đề tài Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ: LỜI MỞ ĐẦU
C
ông cuộc đổi mới , hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi mỗi ngành , mỗi doanh nghiệp phải cố gắng hơn , tiếp tục đổi mới toàn diện sâu sắc trong mọi hoạt động của mình.
Với chức năng huy động số lượng tiền nhỏ từ nhiều cá nhân nhằm hình thành một quỹ bảo hiểm tập trung để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế , công ty bảo hiểm , đặc biệt là công ty bảo hiểm nhân thọ đã trở thành một tổ chức , một nhà đầu tư chuyên nghiệp chủ chốt trên thị vốn của nhiều nước .Và nếu như trong một thời kỳ dài trên thế giơí , hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ được xem như là một hoạt động bổ trợ nhằm gia tăng thêm lợi nhuận ngoài phần lợi nhuận từ hoạt động bảo hiểm thì ngay từ khi loại hình bảo hiểm nhân thọ được đưa ra thị trường , đầu tư đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng , không thể tách rời và có thể nói nó quyết định đến sự sống còn của công ty bảo hiểm nhân thọ
Để làm rõ hơn các vấn đề về hoạt động đầu tư của cô...
32 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
C
ông cuộc đổi mới , hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi mỗi ngành , mỗi doanh nghiệp phải cố gắng hơn , tiếp tục đổi mới toàn diện sâu sắc trong mọi hoạt động của mình.
Với chức năng huy động số lượng tiền nhỏ từ nhiều cá nhân nhằm hình thành một quỹ bảo hiểm tập trung để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế , công ty bảo hiểm , đặc biệt là công ty bảo hiểm nhân thọ đã trở thành một tổ chức , một nhà đầu tư chuyên nghiệp chủ chốt trên thị vốn của nhiều nước .Và nếu như trong một thời kỳ dài trên thế giơí , hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ được xem như là một hoạt động bổ trợ nhằm gia tăng thêm lợi nhuận ngoài phần lợi nhuận từ hoạt động bảo hiểm thì ngay từ khi loại hình bảo hiểm nhân thọ được đưa ra thị trường , đầu tư đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng , không thể tách rời và có thể nói nó quyết định đến sự sống còn của công ty bảo hiểm nhân thọ
Để làm rõ hơn các vấn đề về hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ người viết xin trình bày đề tài: Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ
Đề tài này sẽ cho ta thấy vai trò của hoạt động đầu tư , các công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tư như thế nào và hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay
Em rất trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô đã giúp em hoàn thành đề tài này đặc biệt là tiến sỹ Nguyễn văn Định .
Đề tài bao gồm một số nội dung chính sau:
Phần I : Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong các công ty BHNT
I.Lý luận chung về hoạt động đầu tư hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp
1.Khái quát chung về đầu tư
2.Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp
II.Đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và sự cần thiết của hoạt động đầu tư
1.Đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
2.Vai trò hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ
III.Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư của công ty BHNT
1.Sự cần thiết của quản lý nhà nước về đầu tư
2.Quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động đầu tư của các công ty BHNT
3.Những tác động tiêu cực của các quy định pháp luật về hoạt động đầu tư của công ty BHNT
Phần II :Các hình thức đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ
I.Các hình thức đầu tư thông dụng
II.Các hình thức tổ chức đầu tư
Phần III: Hoạt động đầu tư trong công ty BHNT ở Việt nam hiện nay và giải pháp
I.Thực trạng hoạt động đầu tư trong các công ty BHNT ở Việt nam hiện nay
II.Phương hướng và giải pháp chủ yếu trong hoạt động đầu tư của các công ty BHNT ở Việt nam hiện nay:
III.Kiến nghị
PHẦN I
SỰ CẦN THIẾT CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
I.LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.Khái quát chung về đầu tư
T
rong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001- 2010 là “ Đưa nước ta ra khoỉ tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất , văn hoá tinh thần của nhân dân , tạo nền tảng để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại “ . Muốn thực hiện được mục tiêu tổng quát trên chúng ta phải quan tâm giải quyết nhiều vấn đề nhưng vấn đề đầu tư luôn được đặt ở vị trí hàng đầu
Đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm lực của nền kinh tế nói chung , tiềm lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng , là điều kiện chủ yếu để tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội
Có thể hiểu đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động naò đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó
Nguồn lực đó có thể là tiền , tài nguyên thiên nhiên , là sức lao động và trí lực
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn ) , tài sản vật chất (nhà máy , đường xá ) tầi sản trí tuệ (trình độ văn hoá , chuyên môn , KHXH..) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xã hội
Đối với từng cá nhân , đơn vị , đầu tư là điều kiện quyết định sự ra đời , tồn tại và tiếp tục phát triển mọi hoạt động sản xuất , kinh doanh dịch vụ . Đối với nền kinh tế , đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã hội , là chìa khoá của sự tăng trưởng . Đầu tư được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư
2.HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG DOANH NGHIỆP
Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp giữ vai trò hết sức quan trong đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường .Hoạt đông đầu tư là quá trình trong đó người có tiền (nhà đầu tư ) bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm mục đích chung là thu được lợi ích nào đó (tài chính , cơ sở vật chất , nâng cao trình độ ...)trong tương lai lớn hơn những chi phí bỏ ra
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư mang lại chúng ta có thể chia ra một số hoạt động đầu tư chính trong doanh nghiệp như sau :
Đầu tư tài chính : là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các loại chứng khoán có giá trị để hưởng lãi suất
Đầu tư thương mại là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và bán
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động : Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế , làm tăng tiềm lực sản xuất và mọi hoạt động xã hội khác
II.ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
1.Đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều phải chịu sự chi phối của các quy luật th̃ trường ,sự tác động mạnh mẽ và liên tục của hệ thống các chƯnh sách vĩ mô của nhà nước
Công ty bảo hiểm là một tổ chức kinh doanh như nhỉu doanh nghiệp khác trên thịtrường nên luôn ch̃u sự chi phối của các quy luật thị trường và các chính sách chính phủ của mỗi nước đó .Tuy vậy , sự khác nhau cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm với các doanh nghiệp khác là ở hàng hoá kinh doanh .Các doanh nghiệp bảo hiểm có mặt hàng kinh doanh rất đặc biệt “kinh doanh rủi ro “.Chính vì sự khác nhau này các công ty bảo hiểm được coi là các tổ chức tài chính trung gian ở mỗi nền kinh tế với chức năng chủ yếu là huy động số lượng tiền nhỏ từ các khách hàng của mình (phí bảo hiểm )để lập ra một quỹ vốn rất lớn do chính họ quản lý
Công ty bảo hiểm nhân thọ , ngoài những đặc điểm của các công ty bảo hiểm nhân thọ nói chung còn mang những đặc điểm riêng biệt .Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm , vừa mang tính rủi ro : Tức là người mua bảo hiểm cũng là người gửi tiết kiệm vào doanh nghiệp bảo hiểm , chỉ khác tiền gửi ngân hàng ở chỗ đầu tư tiết kiệm qua hợp đồng bảo hiểm , người được bảo hiểm còn được bảo vệ trước các rủi ro của cuộc sống
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể dùng làm vật thế chấp để vay vốn hoặc bản thân người tham gia bảo hiểm đến công ty bảo hiểm vay những thông thường khoản tiền vay này thấp hơn tiền dự phòng phí tính toán trên hợp đồng của anh ta
Mặt khác , trong quá trình kinh doanh công ty bảo hiểm nhân thọ có thể kiểm soát được rủi ro ( ít có rủi ro nằm ngoài dự kiến ) nên công ty này tính được tương đối chính xác nhu cầu về chi trả bồi thường , và do đó họ sẽ cam kết trả một tỷ lệ lãi nhất định hàng năm , quý , tháng cho người tham gia bảo hiểm
Như vậy nguồn thu của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ từ phí bảo hiểm là rất lớn , nhưng trách nhiệm bồi thường cảu công ty bảo hiểm lại không phát sinh ngay mà thường kéo dài trong một thời gian dài , có thể lên đến mấy chục năm như trong các hợp đồng Niên kim nhân thọ .Do đó việc sử dụng nguồn quỹ này như thế nào giữ vị trí rất quan trọng , ảnh hưởng không chỉ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ mà còn nảh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung .Các đặc điểm trên tác động đến hoạt động đầu tư của ccông ty bảo hiểm nhân thọ thường xuyên trực tiếp
Ở Mỹ , trong số các tổ chức tài chính trung gian , các công ty bảo hiểm nhân thọ đứng thứ hai sau các ngân hàng thương mại về tổng giá trị tài sản có mà công ty này đang nắm giữ với gía trị lên tới hơn 1500 tỷ USD mỹ , cung cấp khoảng 10% tổng quỹ đầu tư cảu thị trường tiền tệ và vốn
2.Vai trò hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ
Đầu tư trong công ty bảo hiểm nhân thọ là một bộ phận quan trọng của cộng ty bảo hiểm .Tăng cường hiệu quả của công tác đầu tư sẽ góp phần phát triển nền kinh tế nói chung và cộng ty bảo hiểm nói riêng , đẩy mạnh công cuộc đổi mới để hội nhập với khu vực và thế giới của các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tư vào nhiêù lĩnh vực khác nhau từ đầu tư trực tiếp vào các dự án , cho vay thế chấp bất động sản , cho xây dựng các cao ốc văn phòng , siêu thị , căn hộ ...đến đầu tư gián tiếp qua thị trường vốn và thị trường tiền tệ cả trong và ngoài nước
Vai trò hoạt động đầu tư thể hiện ở hai lĩnh vực
2.1.Hoạt động đầu tư đối với bản thân công ty bảo hiểm nhân thọ
Đối với một công ty bảo hiểm nhân thọ , toàn bộ lợi nhuận của công ty đều thu được từ hoạt động đầu tư do vậy kết quả của hoạt động đầu tư có ý nghĩa sống còn đối với kết quả chung của toàn công ty
Đầu tư gắn liền với hoạt động của các công ty bảo hiểm nhân thọ từ thiết kế sản phẩm , tính phí , công bố cổ tức hay các lợi ích khác cho cổ đông và nó đóng một vai trò nhất định trong quan hệ với khách hàng .Lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư sẽ quyết định đến các sản phẩm bảo hiểm của công ty
Nếu thu nhập của hoạt động đầu tư cao sẽ giúp sản phẩm đưa ra thị trường hấp dẫn hơn đối với khách hàng về phí , về lãi suất đầu tư ...trong khi tỷ lệ lãi đầu tư thấp có thể làm cho các sản phẩm kém cạnh tranh và có thể dẫn đến mất khách hàng
Hơn nữa nếu công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tư được với mức lãi suất cao tỷ lệ lãi trung bình của thị trường , thì họ có thể tính phí thấp hơn so với các công ty khác và trong một môi trường cạnh tranh , khả năng chiến thắng đối thủ cạnh tranh là rất lớn .ở các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới như AIG , Cigna...,tỷ lệ bồi thường đạt 98%-99%.Tức là gần như toàn bộ phí bảo hiểm thu được chỉ đủ trả cho chi bồi thường , còn các chi phí khác và lãi cổ đông được lấy từ tiền đầu tư
Có thể nói việc tạo ra sản phẩm bảo hiểm mới với mức phí linh hoạt , nhạy cảm với mức biến động của lãi suất đã làm nảy sinh mối quan hệ qua lại giữa hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm
Hoạt động đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi đối với các công ty bảo hiểm được ví như một ‘cánh tay ‘ của công ty bảo hiểm đối với ‘cánh tay ‘ kinh doanh trực tiếp .Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể ‘vỗ tay’ được khi có đủ cả hai cánh tay.’Đầu tư hay là chết ‘ đó là phương châm tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp bảo hiểm trong môi trường cạnh tranh
Ngoài ra các công ty bảo hiểm còn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia
2.2.Hoạt động đầu tư đối với xã hội
Xuất phát từ đặc điểm của công ty bảo hiểm nhân thọ ở trên ta thấy công ty bảo hiểm có trong tay một quỹ taì chính rất lớn , nhưng trách nhiệm bồi thường của các công ty này lại không phát sinh ngay mà thường kéo dài .Do vậy các công ty bảo hiểm nhân thọ đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế với tư cách là một trong những tổ chức tài chính cung cấp vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế
ví dụ : Tổng đầu tư của các công ty nhân thọ mỹ lên đến 1408 tỷ USD năm 1990 , 1551 tỷ năm 1991 , 1839 tỷ năm 1993 và 1977 tỷ năm 1994 đứng thứ 3 sau các ngân hàng thương mại và các quỹ tương hỗ
(Nguồn best’s aggregates&averages;mutual fund fact book 1994)
Đầu tư của các công ty nhân thọ Pháp là 2638 tỷ France năm 1995 và 3089 năm 1996
(Nguồn :French isurance in 1996)
Ngoài ra công ty bảo hiểm còn tạo ra việc làm cho một lực lượng lao động lớn trong thị trường Việt Nam hiện nay góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp cho nền kinh tế nói chung và cho sinh viên chuyên ngành bảo hiểm nói riêng
III.QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY BAO HIỂM NHÂN THỌ
1.Sự cần thiết của quản lý nhà nước về đầu tư
Nhà nước cần phải quản lý chính sách đầu tư của các công ty bảo hiểm nhằm:
Bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm (khách hàng)
Hướng đầu tư các quỹ vào những mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước
Ngăn ngừa các công ty bảo hiểm tìm cách gây ảnh hưởng tiêu cực trong toàn bộ lĩnh vực tài chính
1.1.Quản lý nhà nước về đầu tư nhằm bảo vệ người tham gia bảo hiểm
Khi xem xét đến rủi ro đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ chúng ta phải đi từ mối quan hệ nói chung đó là quan hệ giữa rủi ro đầu tư và lợi nhuận , rủi ro càng cao thì lợi nhuận cũng càng lớn và ngược lại .Mục đích của nhà quản lý quỹ là làm sao tối đa hoá lợi nhuận với một mức độ rủi ro nhất định . Tuy nhiên do đặc thù của mình nên công ty bảo hiểm nhân thọ cần có những đòi hỏi riêng
Các rủi ro tài chính đối với công ty bảo hiểm nhân thọ là :
-Rủi ro về tài sản (c1):Phát sinh do các nhà quản lý quỹ không thu hồi được nợ hoặc các tài sản đầu tư của các công ty baỏ hiểm nhân thọ bị giảm giá trị
-Rủi ro về tính phí (c2) : phát sinh do trong lúc tính phí bảo hiểm công ty bảo hiểm nhân thọ không dự tính đúng các yếu tố liên quan trong quá trình tính phí như : thu nhập đầu tư ,tỷ lệ chết chi phí kinh doanh , mức bán hàng
-Rủi ro về cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ (c3):Do các trách nhiệm phát sinh hiện tại nhiều hơn tiền thu từ phí bảo hiểm và các khoản đầu tư làm cho công ty bảo hiểm nhân thọ phải bán tài sản với giá thấp để đảm bảo cho khả năng thanh toán
-Các rủi ro khác (c4): Liên quan đến khả năng thanh toán của công ty bao hiểm nhân thọ trong việc dự đoán các rủi ro như sự thay đổi về thuế , chính sách của nhà nước hay sự lỗi thời của sản phẩm và trong mọi trường hợp rủi ro xảy ra người phải chịu thiệt thòi trước sự mạo hiểm của công ty bảo hiểm không ai khác chính là người tham gia bảo hiểm .Những hạn chế đối với công ty bảo hiểm trong việc lựa chọn hình thức đầu tư được đặt ra nhằm giảm bớt khả năng các công ty này lâm vào tình trạng phá sản và để đảm bảo rằng nếu xảy ra phá sản thì những người tham gia bảo hiểm chỉ chịu thiệt hại ít nhất
1.2.Định hướng sự lưu chuyển của quỹ đầu tư
Các công ty bảo hiểm nhân thọ thường quản lý một tỷ lệ khá lớn các cổ phiếu và tiền tiết kiệm cá nhân dài hạn bởi vậy đòi hỏi khi chính phủ thấy rằng cần phải định hướng sự lưu chuyển của số cổ phiếu và tiền tiết kiệm này để phục vụ cho những mục tiêu kinh tế cao hơn của đất nước .Việc định hướng sự lưu chuyển trên thường nhằm vào một số mục tiêu cụ thể sau :
-Bảo đảm đủ nguồn vốn để tài trợ cho các chương trình cho tiêu công cộng
-Đảm bảo để các quỹ đầu tư vào nền kinh tế trong nước
-Bổ xung cho sự thâm hụt của ngân sách Nhà Nước
1.3.Làm giảm nguy cơ tập trung nguồn lực trong khu vực tài chính
Tại một số nước chính phủ thường đưa ra những giới hạn đối với hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhằm ngăn chặn các công ty này sử dụng nguồn lực tài chính của mình để kiểm soát các tổ chức tài chính khác .Những giới hạn này làm giảm quyền sở hữu trong các doanh nghiệp tài chính phi bảo hiểm như Ngân hàng , thậm chí ngay cả trong ngành bảo hiểm .VD :chính phủ nhật bản không khuyến khích các công ty bảo hiểm nhân thọ sở hữu các công ty bảo hiểm nhân thọ và ngược lại
2.Quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ
Những chính sách đầu tư của công ty bảo hiểm chủ yếu chịu sự điều chỉnh của các đạo luật bảo hiểm .Những hạn chế đối với hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm được quy định trong luật bảo hiểm nhằm đạt ít nhất một trong các mục tiêu sau :
-Các tài sản đầu tư tài chính phải đảm bảo mức độ rủi ro thua lỗ thấp nhất đến mức có thể chấp nhận được
-Danh mục đầu tư phải được đa dạng hoá ở mức đủ để làm giảm bớt hơn nữa rủi ro thua lỗ và có tính thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán bồi thường
-Cơ cấu của danh mục đầu tư phải tương ứng với tính chất của các trách nhiệm để đảm bảo khả năng đáp ứng các thanh khoản theo hợp đồng cho người tham gia bảo hiểm
*Các quy định chủ yếu trong luật bảo hiểm của các nước về quản lý hoạt động đầu tư
+Danh mục đầu tư : Là danh mục các loại đầu tư mà công ty bảo hiểm nhân thọ được phép thực hiện .Danh mục đầu tư mà công ty bảo hiểm nắm giữ có độ rủi ro và tính thanh khoản có thể chấp nhận được .Theo thông tư số 72/ TC BTC ngày 28-8-2001 của bộ tài chính thì danh mục đầu tư gồm có : Mua công trái , tín phiếu kho bạc nhà nước , kinh doanh bất động sản , mua chứng khoán , góp vốn liên doanh , gửi ngân hàng , các tổ chức tín dụng , cho vay thế chấp
+Những giới hạn tối đa , tối thiểu với các loại đầu tư .Những giới hạn tối đa được áp dụng đối với những loại đầu tư bị coi là có mức độ rủi ro cao ví dụ :Cổ phiếu công ty , bất động sản và cho vay .Mức giới hạn tối đa và tối thiểu với các loại đầu tư thường được ấn định bằng một tỷ lệ phần trăm chứ không phải bằng một con số cụ thể .VD : Việt Nam -Theo thông tư trên thì mức giới hạn tối đa là 35% tổng vốn từ khoản dự phòng nghiệp vụ
Những giới hạn tối thiểu cũng được pháp luật quy định đối với một số loại hình đầu tư nhất là các chứng khoán chính phủ nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô của nhà nước
+Những hạn chế đối với một khoản đầu tư : Luật bảo hiểm không chỉ hạn chế đối với từng loại hình đầu tư mà còn hạn chế đối với mỗi khoản đầu tư
+Duy trì tỷ lệ hợp lý giữa các khoản đầu tư và nghĩa vụ của công ty bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm .Yêu cầu này được xuất phát từ nguyên tắc mà theo đó các công ty bảo hiểm phải luôn bảo đảm phần chênh lệch giữa tài sản nợ nằm trong giới hạn nhất định
+Giới hạn về hoạt động đầu tư ra nước ngoài .Ở các nước , luật bảo hiểm thường quy định rằng trách nhiệm của một công ty bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm được bảo đảm bằng những khoản đầu tư thực hiện trên cùng một đồng tiền với đồng tiền mà người tham gia bảo hiểm nộp phí .Ngoài ra , giới hạn đối với các khoản đầu tư ra nước ngoài luôn thấp hơn so với các khoản đầu tư trong nước
3.Những tác động tiêu cực của các quy định pháp luật về hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ
Những hạn chế đối với những chính sách đầu tư về cơ bản nhằm mục đích bảo vệ người tham gia bảo hiểm .Tuy nhiên , những hạn chế này khiến các công ty bảo hiểm phải giữ danh mục đầu tư sao cho đáp ứng được những yêu cầu nhất định và điều này gây thiệt hại cho chính người tham gia bảo hiểm .Trong một thị trường cạnh tranh gay gắt , một tỷ suất lợi nhuận đầu tư thấp sẽ khiến giá cả của sản phẩm bảo hiểm trở nên cao hơn .Đặc biệt ,đối với bảo hiểm nhân thọ , là nơi mà động cơ chủ yếu của việc tham gia bảo hiểm là đảm bảo một tỷ lệ lãi tỷ suất thu hồi lơị nhuận như khoản tiết kiệm dài hạn , giá cả còn có thể cao hơn
Việc thiết kế các sản phẩm mới trong các công ty bảo hiểm nhân thọ , vốn
có liên quan chặt chẽ với sự điều chỉnh linh hoạt theo chính sách đầu tư , cũng có thể bị ảnh hưởng .Sự linh hoạt mềm dẻo trong các chính sách đầu tư càng lớn thì phạm vi cải tiến các sản phẩm càng mở rộng.Các công ty bảo hiểm sẽ bị đặt vào vị trí bất lợi so với các nhà cung cấp các khoản tiết kiệm đầu tư dài hạn khác , VD như : Ngân hàng thương mại do những ngân hàng này không phải chịu những hạn chế trên
Cuối cùng , các quy định của pháp luật cũng ảnh hưởng đến việc huy động tiết kiệm .Các công ty bảo hiểm là một trong những công cụ quan trọng để huy động những khoản tiết kiệm cá nhân dài hạn .Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhằm vào những nhóm dân cư là những người ít có khả năng đầu tư vào thị trường vốn do hạn chế về quy mô vốn và kiến thức tài chính .Do đó những hạn chế của pháp luật về đầu tư làm giảm khả năng của công ty bảo hiểm trong việc tung ra thị trường những sản phẩm tiết kiệm hấp dẫn , gây phương hại cho việc huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế
PHẦN II
CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
I.CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ THÔNG DỤNG
Do những đặc điểm của mình mà công ty bảo hiểm nhân thọ phải phân bổ tài sản làm sao hạn chế rủi ro , đồng thời cũng do đặc điểm quỹ của công ty bảo hiểm nhân thọ có thời han dài nên việc phân bổ tài sản của công ty nhân thọ cũng tương đối khác biệt .Dưới đây là một số hạng mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ
1.Gửi tiền vào các tổ chức ngân hàng (tín dụng )
Do đặc thù của công tác đầu tư vốn của công ty bảo hiểm là phải đảm bảo
nguyên tắc bảo toàn và phát triển nguồn vốn , hoạt động đầu tư tín dụng vẫn là một hoạt động chính , chủ yếu đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ đặc biệt là đối với các nước có thị trường vốn chưa phát triển như Việt Nam
2.Các công cụ nợ có lãi suất cố định của công ty
Các chứng khoán có lãi suất cố định của các công ty phát hành là tài sản lớn nhất trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ vì nó giúp cho các công ty bảo hiểm nhân thọ dễ quản lý được tài sản có của họ để cân đối với tài sản nợ cũng như hạn chế được rủi ro trong tính phí cũng như rủi ro tài sản
2.1.Trái phiếu công ty : Là các trái phiếu do các công ty phát hành , bản chất là hình thức vay nợ không mang tính chất cổ phần để tài trợ cho các nhu cầu về vốn cuả mình .Đây là hạng mục đầu tư lớn nhất của các công ty bảo hiểm nhân thọ chiếm trung bình khoảng 30%-40% trong các hạng mục đầu tư .Các công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tư vào trái phiếu công ty theo hai cách là đầu tư qua thị trường chứng khoán và đầu tư ngoài thị trường chứng khoán (thị trường OTC)
2.2.Các trái phiếu có thế chấp : Là dạng sản phẩm phát sinh rất đặc trưng của thị trường chứng khoán Mỹ có bản chất xuất phát từ các hợp đồng cho vay thế chấp. Đây là loại chứng khoán được ưa chuộng và mang lại lợi nhuận cao
2.3.Trái phiếu chính phủ và các cơ quan chính phủ phát hành : Đây là các trái phiếu có mức rủi ro tối thiểu là một phần quan trọng trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ
Hiện nay tỷ lệ đầu tư vào các trái phiếu này chiếm tỷ lệ 13%-15% tổng danh mục của các công ty bảo hiểm nhân thọ
2.4.Cho vay thế chấp bất động sản thương mại : Là một hình thức đầu tư rất phù hợp với công ty bảo hiểm nhân thọ để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính trong tương lai .Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực này chiếm 10% tổng tài sản của các công ty nhân thọ Mỹ
2.5.Cho vay theo đơn bảo hiểm :Đây là một hình thức đầu tư riêng của công ty bảo hiểm nhân thọ do hai đặc tính :
*Là hợp đồng tín dụng nhưng việc cho vay theo đơn bảo hiểm lại không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người cho vay ( công ty bảo hiểm nhân thọ ) mà nó là quyền được hưởng của khách hàng
*Vì số tiền vay không vượt quá số tiền giải ước và nếu người vay không trả tiền gốc thì công ty bảo hiểm nhân thọ có thể khấu trừ vào số tiền cam kết thanh toán khi người bảo hiểm chết, do vậyviệc cho vay theo đơn bảo hiểm là tương đối an toàn
Hiện nay , tỷ lệ cho vay theo đơn bảo hiểm chiếm khoảng trên 4% tổng tài sản của các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ
3.Cổ phiếu
Do tính chất đặc thù của cổ phiếu là không ổn định về giá và rất khó dự đoán sự biến động của nó nên đầu tư vào cổ phiếu sẽ rủi ro hơn đầu tư vào các sản phẩm có lãi suất cố định .Do vậy nói chung cổ phiếu thường không phù hợp lắm với những đòi hỏi của công ty bảo hiểm nhân thọ về thời hạn cũng như lãi đầu tư .Chính vì vậy luật pháp Mỹ thường kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư vào cổ phiếu thường từ tài khoản chung của các công ty bảo hiểm nhân thọ
Hiện nay tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu của các công ty bảo hiểm nhân thọ chiếm khoảng 9% tổng tài sản các công ty bảo hiểm nhân thọ mỹ
Đối với tài khoản riêng , do lãi đầu tư từ tài khoản này sẽ chuyển trực tiếp cho khách hàng nên luật pháp thường không hạn chế đầu tư của tài khoản này ,bởi vậy cổ phiếu thường chiếm trên 50% trong tài khoản này
4.Bất động sản
Đầu tư trực tiếp vào bất động sản là một dạng đầu tư có bản chất cổ phần nên đầu tư vào bất động sản cũng phải gánh chịu các rủi ro tương tự như đầu tư vào cổ phiếu , do vậy luật pháp cũng hạn chế các công ty bao hiểm nhân thọ đầu tư vào bất động sản
Khi tiến hành đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản , các công ty bảo hiểm thường tuân thủ một số chiến lược kinh doanh nhất định , đó là :
+Duy trì sự ổn định của giá trị , chống lạm phát
+Đảm bảo có lãi : Đem lại lợi nhuận cho chủ sở hữu các hợp đồng bảo hiểm
+Đa dạng hoá đầu tư bằng cách đầu tư vào nhiều lĩnh loại bất động sản khác nhau như : văn phòng , khách sạn , cửa hàng...
+Tuân thủ lợi ích công cộng
+Phát huy tác dụng khuyếch trương quảng cáo
+Nâng cao hình ảnh cuả công ty bằng việc xây dựng những toà nhà chất lượng bảo đảm
Nhờ những chiến lược đó mà các công ty bảo hiểm đã có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường bất động sản .Công ty Cathay life .Co.LTD hiện nay sở hữu trên 189 toà nhà ở Đài Loan trong đó sử dụng cho công ty 106 toà , cho thuê 83 toà
Theo luật New york , các công ty bảo hiểm nhân thọ không được phép đầu tư quá 2% tài sản vào một bất động sản cụ thể và tổng bất động sản nắm giữ không quá 20% tài sản của công ty bảo hiểm nhân thọ
5.Đầu tư vào các quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một dạng doanh nghiệp thuộc loại công ty cổ phần , nó phát hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động .Nguồn hình thành quỹ rất phong phú và đa dạng : Các tập đoàn tư bản , các công ty công chúng , cá nhân ...có vốn nhàn rỗi dù nhiều hay ít đều có thể trở thành chủ sở hữu quỹ đầu tư bằng việc mua các cổ phiếu do quỹ đầu tư phát hành .Quỹ đầu tư còn là một loại doanh nghiệp mà có không dùng vốn để mua máy móc tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh , mà dùng vốn để đầu tư dài hạn thông qua góp vốn liên doanh , mua cổ phần hoặc các loại chứng khoán với mục đích thu lợi nhuận
Với tư cách là tổ chức tài chính trung gian , các công ty bảo hiểm có số vốn nhàn rỗi lớn và việc đầu tư vào góp vốn các quỹ đầu tư là hoàn toàn có thể thực hiện được và đây là xu hướng chính trong tương lai
(Theo tạp chí bảo hiểm số 1/1998 thì hầu hết các quỹ đầu tư các công ty bảo hiểm chiếm đến 84,8%)
6.Liên doanh
Đây là một hình thức đầu tư trực tiếp của công ty bảo họ dùng vốn của mình tham gia góp vốn với các tổ chức khác , cùng thực hiện các dự án kinh tế
7.Một số hình thức đầu tư khác
Để hạn chế rủi ro đầu tư như đã nêu trên các công ty bảo hiểm nhân thọ đã thực hiện các hợp đồng lựa chọn , tương lai hoặc hoán đổi , tuy nhiên các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng rất thận trọng đối với các sản phẩm tài chính này vì bản thân nó đã chứa đựng các yếu tố đầu cơ và rủi ro tiềm tàng
II.CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC ĐẦU TƯ
1.Đầu tư qua phòng đầu tư của công ty: thường thì mỗi công ty bảohiểm đều lập ra một phòng đầu tư riêng có vai trò như các phòng khác trong hệ thống quản lý , nó liên quan chặt chẽ với các phòng liên quan đến với các phòng liên quan đến tài chính .Giám đốc phòng này phải thường xuyên xem xét các dự án đầu tư của công ty và báo cáo tài chính lên giám đốc tổng công ty .Hoạt động đầu tư của công ty chủ yếu thông qua phòng đầu tư này.Hiện nay ở Việt nam , chỉ có Bảo Việt mới thành lập ra phòng đầu tư riêng cũng đang làm việc rất năng động và hiệu quả
2.Đầu tư thông qua công ty hay các quy đầu tư độc lập mà công ty bảo hiểm nắm 100% cổ phiếu hoặc công ty bảo hiểm là cổ động chính
Đầu tư thông qua công ty tài chính hoặc các công ty mà công ty bảo hiểm chỉ nắm một phần nhỏ cổ phiếu
Việc lựa chọn hình thức đầu tư và hình thức tổ chức đầu tư phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của công ty và điều kiện kinh tế xã hội của mỗi khu vực để chính công ty đó phải năng động và mềm dẻo sao cho hoạt động đầu tư có hiệu quả nhất
PHẦN III
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP
I.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ VIỆT NAM HIỆN NAY
Cùng với sự gia tăng , mở rộng quy mô hoạt động và đa dạng hoá sản phẩm , các công ty bảo hiểm đã góp phần đáng kể vào việc hình thành thị trường vốn ở Việt Nam .Tính đến thời điểm 31/12/1999 , mức tích luỹ vốn và các quỹ của công ty bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế đã lên tới 3197 tỷ đồng .Tốc độ tăng trưởng đầu tư bình quân trong giai đoạn 1994-1999 là 184%/năm .Chỉ tính riêng năm 1999 số vốn đầu tư của ngành bảo hiểm cho nền kinh tế là 2384 tỷ đồng ,gấp 31 lần so với năm 1995 và ước đạt 0,65% GDP năm 2000
Cũng như nhiều nước khác trên thế giới , hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc an toàn , hiệu quả và đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm , đồng thời đem lại lợi nhuận hợp lý để trang trải các chi phí hoạt động và mở rộng phạm vi kinh doanh cho doanh nghiệp
Tại Việt Nam , bảo hiểm nhân thọ mới chỉ bắt đầu được đưa ra thị trường vào cuối năm 1996 , nhưng theo những kết quả đạt được trong thời gian vừa qua triển vọng của ngành bảo hiểm nhân thọ Việt Nam là rất tươi sáng
Năm 2000 tổng doanh thu phí BHNT là 1117 tỷ đồng tương đương 230,78% so với năm 1999 (bảng 1)
Năm
Doanh thu phí BHNT các công ty BHNT ở Việt Nam
1999
484
2000
1117
Tuy vậy hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ nhìn chung chưa được chú trọng đúng mức và còn mờ nhạt so với hoạt động khai thác bảo hiểm -bảo Việt -Công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam hiên nay
Số liệu ở bảng sau chothấy tình hình hoạt động đầu tư của bảo việt bảo Việt -Công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam hiên nay
.Nguồn thu từ hoạt động đầu tư của công ty trong năm 1998, 1999,2000 tương ứng chỉ chiếm 6,5% ; 5,9% ; 5,8% (Bảng 2)
Năm
1998
1999
2000
Tổng doanh thu
1314,7
1544
2002
Doanh thu phí BHNT
202,7
481,378
916,74
Doanh thu từ hoạt động đầu tư
86,5
91,7
115,7
Bảng 2
Những hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm thường do một phòng chuyên trách thực hiện (VD phòng đầu tư vốn của bảo việt ) hay một bộ phận không chuyên trách thực hiện (VD như phòng kế hoạch hay phòng tổng hợp ở các công ty khác ) , và các công ty cũng mới chỉ tập chung vào việc mua tín phiếu kho bạc , kỳ phiếu ngân hàng hay gửi tiền tiết kiệm
Doanh thu phí bảo hiểm tăng lên ở các công ty bảo hiểm kéo sự tăng trưởng cao của nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật -nguồn vốn đầu tư chủ yếu của các công ty bảo hiểm nói chung và các công ty bảo hiểm nhân thọ nói riêng .Tốc độ tăng các quỹ dự phòng kỹ thuật của hai công ty bảo hiểm lớn của Việt Nam là Bảo Việt và Baỏ Minh đạt xấp xỉ 19% qua các năm .Các quỹ dự phòng kỹ thuật chiếm đến 60% nguồn vốn của bảng cân đối kế toán của hai công ty bảo hiểm này(Bảng 3)
DỰ PHÒNG KỸ THUẬT
1996
1997
1998
1999
I.Bảo hiểm phi nhân thọ
708300
811400
993300
II.Bảo hiểm nhân thọ
1.Dự phòng toán học
630
630
1200
1200
175000
175000
438000
438000
III.Tổng dự phòng kỹ thuật
708930
823400
1168300
(đơn vị Triệu đồng)
Bảng 3:Dự phòng kỹ thuật của hai công ty bảo hiểm Bảo Việt và Bảo Minh
Qua bảng 3 ta thấy đặc biệt nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ của hai công ty bảo hiểm Bảo Việt và Bảo Minh tăng rất nhanh (Bảng 4)
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
Dự phòng kỹ thuật BHNT(Trđ)
630
12000
175000
483000
Tốc độ (%)
+1804,8
+1358,3
+150,3
Bảng 4
Nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật lớn cho phép các công ty bảo hiểm mở rộng đầu tư vào thị trường vốn trong nước
Các lĩnh vực đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng tương đối đa dạng với những tỷ lệ bỏ vốn khác nhau vào từng lĩnh vực .Có thể thông qua danh mục đầu tư của hai công ty bảo hiểm Bảo Việt và Bảo Minh (Bảng 5)
Danh mục
1997
1998
1999
1.Chứng khoán
231600
306100
320900
2.Bất động sản
1800
1800
1800
3.Cho vay
30200
28200
69300
4.Gửi tiền
335800
450000
1001600
5.Góp vốn liên doanh
46200
50700
119900
6.Đầu tư khác
500
600
7500
tổng cộng
871100
837400
1521000
Bảng 5 :Danh mục đầu tư vốn của Bảo Việt và Bảo Minh
*Danh mục đầu tư vốn của hai công ty bảo hiểm trên cho thấy đầu tư gửi tiền vào các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn đầu tư , năm 1997 chiếm 38,55% , năm 1998 là 54% và năm 1999 tăng lên 66% .Trong khi đó theo số liệu thống kê không đầy đủ , số tiền gửi tại các tổ chức tài chính chỉ đem lại lợi nhuận khoảng 14-15% , trong khi các ngân hàng cho vay thường thu lãi suất khoảng 25-35%
Như vậy tính sơ qua hàng năm với số vốn vài chục tỷ đồng thậm chí nhiều hơn nữa thì số tiền bị thất thu do khoản chênh lệch trên là rất lớn , điều này có thể khắc phục được nếu như các công ty bảo hiểm có thể dùng số vốn của mình để đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh
*Về lĩnh vực đầu tư chứng khoán mà chủ yếu là mua kỳ phiếu , trái phiếu kho bạc nhà nước , công trái nhà nước , kỳ phiếu của các ngân hàng cững chiếm lượng vốn lớn , năm 1997 chiếm 26.58%; năm 1998 chiếm 36,55% và năm 1999 chiếm 21,1%. Trong khi đó tỷ trọng này ở các công ty bảo hiểm ở Việt Nam là 30% và ở hầu hết các nước , đây là công cụ đầu tư được các công ty bảo hiểm trên thế giới sử dụng một cách rộng rãi nhất , chiếm tới 87,45 tổng giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm pháp ;51,2% tổng giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm Anh
*Lĩnh vực đầu tư ít được các công ty bảo hiểm chú ý và thực tế bỏ ra rất nhỏ là lĩnh vực kinh doanh bất động sản
Năm 1997 , 1998 và 1999 chỉ có 1800 triệu đồng được đầu tư vào bất động sản ở công ty bảo hiểm thành phố hồ chí minh , còn Bảo Việt chưa đầu tư vào lĩnh vực này .Lý do mà các công ty bảo hiểm không đầu tư nhiều vào thị teường bất động sản là thị trường này ở nước ta hiện nay có quá nhiều rủi ro , chính sách và luật pháp của nhà nước chưa thật ổn định
Tình hình đầu tư tài chính nguồn vốn nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong thời gian qua có thể được đánh giá một cách khái quát qua những điểm chính về những thành công và hạn chế sau đây
1)Thành công
-Các công ty bảo hiểm đã đóng góp một nguồn tài trợ mới đáng kể và ngày một gia tăng cho nền kinh tế trong giai đoạn mà nhu cầu vốn là một sự bức xúc , góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội .Một số loại hình đầu tư của các công ty bảo hiểm còn mang ý nghĩa chính trị , xã hội quan trọng .Cụ thể , ở những thời kỳ Nhà nước huy động vốn để thực hiện các mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế quan trọng bằng việc phát hành các loại trái phiếu , tín phiếu kho bạc và công trái Nhà nước ,các công ty bảo hiểm đã bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để mua các loại chứng khoán này .Đầu tư vào lĩnh vực này vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội cho các công ty bảo hiểm
-Trong môi trường đầu tư khó khăn như ở nước ta , các công ty bảo hiểm nhân thọ ở nước ta không để xảy ra tình trạng mất vốn mà tỷ suất lợi nhuận không quá thấp (Bảo Việt đạt khoảng 73% năm 1997 ; 82% năm 1998 ; Bảo Minh đạt 77% năm 1997) là kết quả đáng ghi nhận
Nhìn vào danh mục đầu tư của hai công ty bảo hiểm là Bảo Việt và Bảo Minh , có thể nhận thấy , các công ty bảo hiểm đã đầu tư hết sức thận trọng , đảm bảo đúng nguyên tắc “ Có sự đảm bảo chắc chắn nhất “ mà luật pháp quy định
-Thu nhập hoạt động đầu tư chiếm một vị trí không nhỏ và có xu hướng tăng lên trong tổng doanh thu và thu nhập của công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam , Như ở bảo Việt , Năm 1999 , thu nhập đầu tư chiếm gần 10% tổng doanh thu và thu nhập của công ty này
Nguồn thu nhập đầu tư đã góp phần tích cực giúp các công ty bảo hiểm nhân thọ giữ vững được hiệu quả kinh doanh , tăng cường sức cạnh tranh rên thị trường bảo hiểm và tăng cường khả năng chấp nhận bảo hiểm cho các rủi ro có giá trị lớn
Với những thành công nhất định , các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang trên đường trở thành những nhà đầu tư quan trọng trên thị trường tài chính mở ra một hệ thống tài trợ mới hiệu quả cho nền kinh tế nước ta -Hệ thống tài trợ gián tiếp phi ngân hàng và còn là nhân tố quan trọng để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
2.Những hạn chế
- Quy mô đầu tư còn nhỏ bé , tổng vốn đầu tư của hai công ty bảo hiểm nhân thọ (Bảo Việt và Bảo Minh ) nếu so với tổng số vốn đầu tư của nên kinh tế chỉ chiếm khoảng 12% .Điều này cho thấy việc thu hút vốn còn rất hạn chế của các công ty bảo hiểm nhân thọ
Mặc dù đã được đa dạng hoá , song phạm vi đầu tư còn rất bó hẹp , vốn chủ yếu được gửi vào các ngân hàng để hưởng lãi , tinh trạng này gọi là đầu tư “qua đêm “ .Trong khi đó những năm qua nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức độ cao , có rất nhiều lĩnh vực đầu tư có thể thu lơi nhuận cao nhưng các công ty bảo hiểm lại không đầu tư vào
-Việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư của các bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam chưa được thực hiện triệt để , phương pháp tính toán các dự phòng kỹ thuật còn mang nhiều sự bất cập và đôi khi còn tuỳ tiện .Vì thiếu chiến lược đầu tư và công việc đầu tư trong những năm trước đây chưa được chuyên môn hoá , nên xảy ra hiện tượng “vốn nhàn rỗi “ mà không biết đầu tư vào đâu .Tất nhiên cũng khôngphải tình trạng này có ở mọi công ty bảo hiểm nhân thọ đó là trường hợp của Bảo Việt , năm 1999 công ty đã thành lập một công ty đầu tư chứng khoán riêng để thực hiện việc chuyên môn hoá đầu tư
-Các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam chưa thực sự nắm bắt kịp thời những loại hình đầu tư mới có hiệu quả .Đơn cử cho vay đối với người được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một loại đầu tư mới có hiệu quả cao .Song các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam không có chủ trương chính sách sớm và rộng rãi để mở rộng hình thức cho vay này .Trong hệ thống Bảo Việt nhiều công ty thành viên vì lúng túng trong việc quản lý đã rất dè dặt trong việc cho các chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vay tiền .Hay khi trong ngành dầu khí - một lĩnh vực rất hấp dẫn , việc thành lập các doanh nghiệp mới , cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên là những cơ hội đầu tư rất tốt , song các công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam cũng không có những động thái đầu tư nào
-Nhìn tổng thể vào cơ cấu đầu tư có thể nhận thấy các tài sản đầu tư còn đơn điệu , tập trung chủ yếu vào những công cụ có tính thanh khoản cao để đáp ứng kịp thời những nhu cầu chi trả .Chính vì vậy hiệu quả đầu tư mà các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đạt được vẫn còn ở mức khiêm tốn .Tỷ suất lợi nhuận bình quân của những năm gần đây cũng không cao hơn lãi suất tiền gửi của ngân hàng
-Tính chuyên môn hoá của công việc đầu tư chưa cao ( như trên đã chỉ ra ) hiện nay chỉ có Bảo Việt là thành lập công ty đầu tư chứng khoán dưới hình thức cổ phần còn những công ty bảo hiểm khác , công việc đầu tư được giao cho một bộ phận phòng ban thực hiện .Điều này nói lên các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam chưa thực sự đánh giá đúng vai trò to lớn của đầu tư quỹ nhàn rỗi đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Tóm lại , những hạn chế của hoạt động đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi đối của các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam có thể lý giải bằng nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
Các nguyên nhân chủ quan
-Do đất nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhiều mặt chúng ta còn bỡ ngỡ trong lĩnh vực đầu tư đặc biệt là kỹ năng , kinh nghiệm trong quản lý đầu tư .Do đó so với các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài thì việc đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đạt hiệu quả kinh tế quá thấp .Sự chênh chênh lệch đó là khó tránh khỏi bởi các công ty bảo hiểm nhân thọ của nước ngoài có sự phát triển từ lâu và đến nay đã đạt được ở mức độ cao cả về hình thức đầutư cũng như trình độ quản lý
-Do quan điểm , thái độ về hình thức hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm là chưa đúng đắn
Các nguyên nhân khách quan
-Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh , cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm
-Cho tới tháng 8/1996 , công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trực thuộc hệ thống Bảo Việt mới chính thức đi vào họat động qua đó cung cấp một nguồn vốn đầu tư dài hạn cho phát triển nền kinh tế
-Việc thị trường chứng khoán mới ở giai đoạn đầu và quá trình cổ phần hóa diễn ra chậm là khó khăn cho hoạt động mua bán chứng khoán mà chủ yếu là các cổ phiếu và trái phiếu công ty .Bởi vậy , điều này cũng hạn chế sự lựa chọn đầu tư của các công ty trong nước
-Ở Việt Nam chưa có các quỹ tương hỗ đầu tư , là các công ty được thành lập từ vốn góp của các thành viên , chuyên thực hiện đầu tư
II.PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Xây dựng chiếm và tiến hành hoạt động đầu tư là một công việc không đơn giản , các công ty bảo hiểm nhân thọ cần phải tiến hanh nhiều giải pháp , phải hoàn thiện cả quy trình từ kinh doanh thu hút phí bảo hiểm đến xác định nguồn , lựa chọn danh mục đầu tư .Trước hết việc đầu tư nguồn cốn nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm nhân thọ phải luôn tuân thủ theo các nguyên tắc :
-An toàn : Để đảm bảo việc thực hiện tốt các cam kết với người được bảo hiểm
-Sinh lời :Đây là kết quả cuối cùng mà công ty bảo hiểm theo đuổi , để hỗ trợ sức mạnh tài chính cho công ty bảo hiểm nhân thọ
-Đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên : Các tài sản đầu tư phải dễ dàng chuyển thành tiền hoặc phải tạo ra lợi tức thường xuyên để đảm bảo cho công ty có tiền để chi trả cho người được bảo hiểm
-Đa dạng hoá danh mục đầu tư : Tài sản đầu tư để giảm thiểu rủi ro .Để khắc phục những hạn chế trong hoạt động đầu tư , các công ty bảo hiểm nhân thọ có thể đi theo một số hướng sau :
Thứ nhất , tiếp tục thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư , mở rộng và tăng cường đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
Đồng thời , phải có chiến lược đầu tư linh hoạt chắc trên thị trường chứng khoán và coi đây là chiến lược cơ bản lâu dài .Theo kinh nghiệm của các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài thì đầu tư vào chứng khoán là danh mục đầu tư phù hợp nhất với các công ty bảo hiểm
Để thâm nhập được vào thị trường chứng khoán , các công ty bảo hiểm nhân thọ cần phải thực hiện chuyên môn hóa đầu tư vốn như mô hình bảo việt đã tiến hành , bằng việc thành lập các công ty quản lý đầu tư vốn hay còn gọi là các công ty quản lý tài sản có .Các công ty quản lý quản lý này là không thể thiếu đối với các tập đoàn bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường
Trong việc mua bán chứng khoán , các công ty bảo hiểm nhân thọ nên tập trung chủ yếu vào các loại nhà nước ( trái phiếu , kỳ phiếu kho bạc nhà nước ,công trái nhà nước...) .Đây là các chứng khoán lãi suất không thấp mà được coi là có rủi ro thấp nhất
Với ưu thế về nguồn vốn của mình , các công ty bảo hiểm nhân thọ cần tìm mua được các loại cổ phiếu , trái phiếu công nghệ cao .Theo kinh nghiệm của các nhà đầu tư chứng khoán ở các nước , việc đầu tư vào các chứng khoán công nghệ cao là chiến lược hiệu quả cao .Do nguồn vốn đầu tư vào các loại chứng khoán này cần phải là nguồn vốn dài hạn nên chỉ có các công ty bảo hiểm nhân thọ mới thoả mãn được điều kiện này
Thứ hai : Mạnh dạn nghiên cứu chiến lược đầu tư vào lĩnh vực bất động sản .Mặc dù trong những năm qua thị trường bất động sản biến động không ngừng , nhấtlà đất đai , những trong làn sóng di dân và tốc độ đô thị hoá như hiện nay , đầu tư vào lĩnh vực này cũng là một hướng đầu tư hiệu quả .Đầu tư bất động sản không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp , mà còn mang lại lợi ích quảng cáo rất quan trọng .ở các nước có thị trường bảo hiểm phát triển , các công ty bảo hiểm nhân thọ luôn có tên trong những toà nhà cao nhất , đẹp nhất trong trong các đô thị lớn .Đây là sự quảng cáo tốt nhất cho hình ảnh và sức mạnh tài chính của công ty bảo hiểm .Đồng thời đây là lĩnh vực đầu tư cho phép các công ty bảo hiểm nhân thọ chốn lại rủi ro lạm phát một cách hiệu quả nhất
Thứ ba : Mở rộng hình thức cho vay đối với các chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ .Trong kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ , hợp đồng bảo hiểm sau một thời gian nộp phí bảo hiểm sẽ có dự phòng toán học , tức là các khoản tiết kiệm được tích luỹ .Khoản tiền là thuộc quyền sở hữu của chủ hợp đồng
Nếu công ty bảo hiểm cho chủ hợp đồng vay thì khoản tiền dự phòng được coi là tài sản thế chấp .Như vậy đây sẽ là một khoản cho vay ít rủi ro nhất của công ty bảo hiểm .Hình thức thức cho vay này sẽ rất hiệu quả , vừa đảm bảo cho công ty bảo hiểm thu được lãi suất cao hơn lãi suất kỹ thuật , vừa giúp các chủ hợp đồng vay được vốn trong thời điểm khó khăn , điều này sẽ tăng cường khả năng duy trì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Thứ tư : Nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả đầu tư thông qua các công ty quản lý tài sản có theo mô hình của bảo việt , những công ty bảo hiểm nhân thọ có quy mô vừa thì có thể sử dụng dịch vụ đầu tư uỷ thác (quỹ đầu tư tương hỗ)
Một giải pháp có thể tính đến là các công ty bảo hiểm thành lập chung một công ty quản lý quỹ đầu tư .Trong điều kiện hiện nay việc sát nhập các công ty bảo hiểm còn là vấn đề bàn cãi , nhưng việc các công ty bảo hiểm có thể đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của mình qua một công ty đầu tư mà mỗi công ty bảo hiểm nhân thọ đều góp vốn là hướng có thể thực hiện được
Thứ năm : Phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm nhân thọ để thu hút vốn đầu tư dài hạn .Hiện nay trên thị trường bảo hiểm nhân thọ , ngoài Bảo Việt còn có bốn công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài .Sự cạnh tranh diễn ra trên thị trường này cũng hết sức gay gắt .Các công ty bảo hiểm nước ngoài đã mang đến những thay đổi cơ bản về phương thức kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .Để đứng vững trong cạnh tranh , công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam , một mặt cần phải thay đổi những chính sách về thương mại đặc biệt là chính sách về marketing , làm cho sản phẩm bảo hiểm hấp dẫn hơn .Mặt khác cần phải đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm để đáp ứng nhu cầu phong phú của khách hàng .Thành công trong thu hút phí bảo hiểm sẽ là bước khởi đầu quan trọng cho chiến lược đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ
*Để có thể thực hiện tốt các chiến lược , giải pháp đầu tư , các công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam cần có sự đầu tư nhất định vào việc đào tạo đội ngũ nhân viên đầu tư .Đầu tư chỉ có thể hiệu quả khi có những người đầu tư sáng tạo , kinh nghiệm và bản lĩnh .Bên cạnh đó là việc hiện đại hoá cơ sở vật chất , cũng là diều kiện không thể thiếu cho việc nâng cao khả năng đầu tư
*Về phía Nhà Nước , cần ban hành những quy định pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty bảo hiểm nhân thọ đâù tư tốt nguồn vốn nhàn rỗi , đồng thời quản lý chặt chẽ hoạt động đầu tư của các công ty này
Nền kinh tế nước ta đang đứng trước những tín hiệu lạc quan về đổi mới và phát triển kinh tế , sẽ mở ra những cơ hội cho các công ty bảo hiểm nhân thọ khẳng định được vị thế của mình trên thị trường bảo hiểm , và kết quả của hoạt động đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường tài chính sẽ là một yếu tố quyết định đến vị thế này
III.KIẾN NGHỊ
Bảo hiểm nhân thọ chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam nhưng theo những kết quả đạt được trong thời gian qua , triển vọng của ngành bảo hiểm nhân thọ Việt Nam là rất sáng sủa . Chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng vào sự phát triển mạnh mẽ trong tương lai .Với đặc điểm nguồn vốn lớn , thời hạn dài và thường xác định được tương đối chắc chắn trách nhiệm phải thanh toán , quỹ bảo hiểm nhân thọ sẽ là một nguồn vốn rất quan trọng nhằm thoả mãn cơn khát về vốn của Việt Nam cho đầu tư phát triển trong nhiều thập kỷ tới đây và công ty nhân thọ sẽ ngày càng trở thành một nhà đầu tư quan trọng trên thị trường vốn Việt Nam .Tuy nhiên để có thể phát huy được tiềm năng về vốn của mình , các công ty nhân thọ vẫn phải được sự quan tâm , định hướng phát triển từ tổ chức đầu tư , môi trường đầu tư , cần chuẩn bị lực lượng cán bộ được đào tạo kỹ càng về chuyên môn nghiệp vụ .Đặc biệt khi đã có nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời và cạnh tranh với nhau thì công ty nào quản lý đầu tư tốt sẽ tồn tại và thành công trên thị trường
Vì đầu tư là vấn đề mới với các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam và người nghiên cứu , do đó dù đã có nhiều cố gắng nhưng do chưa được tiếp xúc với thực tế , bài viết có thể chưa hoàn chỉnh , em mong có sự chỉ dẫn của thầy để cho bài viết được đầy đủ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Tiến Sỹ Nguyễn văn Định đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này
Hà Nội ngày 11 tháng 11 năm 2001
Sinh viên
Lê Hoàng Long
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Báo cáo tổng hợp BAOVIET năm 1999,2000 và phương hướng hoạt động năm 2001
- Tạp chí bảo hiểm 3/97,2/98,3/99,4/2000,5/2000
- Tạp chí kinh tế và phát triển
- Tạp chí thị trường tài chính
- Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 278(7/2001)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA143.docx