Đề tài Hoàn thiện tổ chức công tác xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội – AGREXPORT

Tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức công tác xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội – AGREXPORT: Lời mở đầu Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, đất nước đang phát triển nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh làm thước đo cho hoạt động đổi mới. Việt Nam với 70% dân số làm nghề nông, diện tích đất đai màu mỡ. Những ưu thế này đã tạo cho mặt hàng nông sản Việt Nam có lợi thế so sánh hơn so với một số nước khác trên thế giới. Công tác xuất nhập khẩu (XNK) là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà nước mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Thực chất của xuất khẩu là mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm tạo ra ngoại tệ cần thiết để nhập khẩu vật tư kỹ thuật cho xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời thông qua công tác XNK cho phép phát huy sử dụng tốt nguồn lao động, tài nguyên của đất nước, tạo điều kiện tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống cho người lao động. Hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta đang phát triển theo cơ ...

doc84 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1020 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức công tác xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội – AGREXPORT, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, đất nước đang phát triển nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh làm thước đo cho hoạt động đổi mới. Việt Nam với 70% dân số làm nghề nông, diện tích đất đai màu mỡ. Những ưu thế này đã tạo cho mặt hàng nông sản Việt Nam có lợi thế so sánh hơn so với một số nước khác trên thế giới. Công tác xuất nhập khẩu (XNK) là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà nước mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Thực chất của xuất khẩu là mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm tạo ra ngoại tệ cần thiết để nhập khẩu vật tư kỹ thuật cho xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời thông qua công tác XNK cho phép phát huy sử dụng tốt nguồn lao động, tài nguyên của đất nước, tạo điều kiện tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống cho người lao động. Hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta đang phát triển theo cơ chế thị trường nhiều thành phần. Trong những năm gần đây, Nhà nước cho phép các đơn vị kinh doanh được quyền XNK trực tiếp. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt. Trong những năm gần đây quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới ngày càng được củng cố và mở rộng. Việt Nam đã rất tích cực trong việc tham gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA và đặc biệt sự cố gắng nỗ lực để gia nhập WTO, có thể nói rằng khi tham gia vào tổ chức này thì Việt Nam có được nhiều các cơ hội song cũng gặp không ít khó khăn. Cùng với việc Mỹ bình thường hoá quan hệ và ký Hiệp định thương mại Việt-Mỹ với Việt Nam đã làm cho kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Chính vì thế mà Nhà nước ta luôn coi trọng, khuyến khích và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng cho xuất khẩu. Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang có xu hướng, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và nâng cao lợi ích kinh tế cho toàn xã hội nói chung. Để nâng cao khả năng xuất khẩu của Việt Nam ra thị trường thế giới thì cần phải từng bước hoàn thiện công tác xuất khẩu. Cùng với sự ra đời của cơ chế thị trường ở Việt Nam kèm theo đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế khác nhau đã khiến cho công ty AGREXPORT gặp nhiều khó khăn: nguồn hàng không đáp ứng được nhu cầu của bạn hàng, bạn hàng còn hạn chế, chất lượng hàng chưa cao,…do vậy hiệu quả kinh doanh của công ty chưa còn thấp. Vì những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “hoan thien to chuc cong tac xuat khau tai cong ty xnk nong san thuc pham ha noi – AGREXPORT”. Kết cấu chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm có 3 chương: Chương I: Lý luận cơ bản về xuất khẩu của hệ thống các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chương II: Hoạt động xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội – AGREXPORT. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác xuất khẩu hàng nông sản thực phẩm của công ty XNK Nông sản Thực phẩm Hà Nội. Chương I Lý luận cơ bản về xuất khẩu của hệ thống các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I. Khái niệm Khái niệm, nhiệm vụ của công ty thương mại trong giai đoạn hiện nay Khái niệm Xem xét dưới hai góc độ Macro Marketing và Micro Marketing: - Macro Marketing: Công ty thương mại được hiểu là một đơn vị kinh doanh thương mại độc lập, được tổ chức theo quan điểm phân công lao động xã hội và Marketing thương mại theo định hướng thoả mãn nhu cầu thị trường xã hội. Một doanh nghiệp thương mại cần phải có những điều kiện để trở thành một công ty thương mại, đó chính là mức độ độc lập của các đơn vị kinh doanh trên 3 mặt: + Độc lập về tài sản: Mức độ chiếm hữu và tự quyết định của đơn vị về các tài sản cố định và lưu động của mình. + Mức độc lập về tác nghiệp: Mức chủ động và năng lực tự do vận dụng tài sản trong các quyết định dự án kinh doanh. + Mức độc lập về pháp luật: Mức thừa nhận và bảo hộ của pháp luật hiện hành và khả năng tự chủ tự quyết của đơn vị tham gia các đơn vị pháp luật. - Micro Marketing: Công ty thương mại được hiểu là một chỉnh thể tổ chức và công nghệ tiếp thị bán hàng trên thị trường. Mục tiêu của nó bao gồm một tổ hợp thương mại (cửa hàng, trạm, kho…) và các cơ cấu quản trị như văn phòng quản trị trung tâm, văn phòng ban quản trị chức năng, các trung tâm điều hành các đơn vị thương mại trực thuộc. Nhiệm vụ của công ty thương mại trong giai đoạn hiện nay Nghiên cứu và ứng xử tối ưu với tình thế diễn biến thị trường để hình thành một sắc diện mặt hàng phù hợp với chức năng và hình thành tổ chức kinh doanh, có đầy đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường mục tiêu. Tổ chức thu mua nắm nguồn hàng ở tất cả các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế trong phạm vi các mặt hàng kinh doanh và theo đúng quy định chính sách nhà nước. Mở rộng nguồn hàng và thị trường tiêu thụ theo chiến lược đồng bộ. Cần chú ý rằng trong nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều nguồn cung ứng hàng hoá cho nên doanh nghiệp cần phân loại nguồn hàng, có bịên pháp tích cực để mở rộng nguồn hàng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Đẩy mạnh tốc độ chu chuyển của hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân, tổ chức khâu mua bán và tổ chức khâu vận động hàng hoá hợp lý từ sản xuất đến tiêu dùng. Tiết kiệm chi phí lưu thông, đáp ứng tốt mọi nhu cầu của khách hàng. Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thương mại, thực hiện các hoạt động của quá trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông. Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý và mạng lưới kinh doanh. Tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và quản lý khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ấy, đảm bảo đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, bù đắp chi phí và thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ đối với nhà nước, xã hội và người lao động. Bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tăng cường công tác kiểm tra, quản lý, hướng dẫn và uốn nắn kịp thời những sai lệch trong quá trình hoạt động kinh doanh của đơn vị trực thuộc. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu Khái niệm Trong nền kinh tế thị trường một nền sản xuất xã hội muốn có hiệu quả cao thì phải tiến hành sản xuất nhiều với chất lượng cao và giá cả phải hợp lý. Muốn vậy nền sản xuất ấy phải có sự phân công lao động xã hội. Với phân công lao động xã hội một cách mạnh mẽ hay là chuyên môn hoá sản xuất một mặt hàng nhất định sẽ tạo ra sự dư thừa trong sản xuất. Và sự dư thừa đó sẽ thúc đẩy nhu cầu trao đổi hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và ngoài nước. Thương mại quốc tế ra đời mà nòng cốt của vấn đề này là hoạt động xuất nhập khẩu (XNK). Xuất khẩu là một hoạt động của thương mại quốc tế: được trình bày là một hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống kinh tế của nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà cả chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Theo điều 52 NĐ52/1998 của Chính phủ: hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hoá. Như vậy, cả hai khái niệm trên đều cho rằng xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh nhưng phạm vi kinh doanh vượt khỏi biên giới quốc gia hay là hoạt động buôn bán với nước ngoài. Thông qua hoạt động xuất khẩu có thể đem lại những thuận lợi to lớn cho nền sản xuất trong nước. Xuất khẩu và nhập khẩu là hai mặt thống nhất của hoạt động ngoại thương. Đó chính là bán và mua trong trao đổi quốc tế, ngay khi phân công lao động vượt ra khỏi quốc gia, ngoại thương đã ra đời và trở thành hình thức hợp tác hoá đầu tiên của phân công lao động quốc tế. Như vậy, có thể xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế quan trọng và lâu đời nhất. Đầu tiên xuất khẩu chỉ là xuất khẩu hàng hoá hữu hình như xuất khẩu nông sản, sản phẩm công nghiệp, khoáng sản. Càng ngày, hoạt động xuất khẩu càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Cho đến nay, xuất khẩu diễn ra trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Người ta xuất khẩu từ tư liệu sản xuất đến vật phẩm tiêu dùng, từ những loại máy móc khổng lồ tới những chi tiết, linh kiện cực nhỏ, từ nguyên thô đến những sản phẩm tinh tế… Trong cơ cấu xuất khẩu đã xuất hiện cả hàng hoá vô hình như vận tải, bảo hiểm, ngân hàng,… Các hình thức xuất khẩu cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hoá. Vai trò của xuất khẩu 2.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân - Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Việt Nam đang đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chậm phát triển. Máy móc, thiết bị, kỹ thuật và công nghệ là động lực của quá trình này. Để có thể nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại chúng ta cần một số vốn rất lớn. Số vốn này có thể được hình thành từ các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động, Nhưng chúng ta đều thấy rõ rằng vốn có được từ đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác đều phải trả. Thu từ du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ chỉ đáp ứng một phần nhỏ. Còn xuất khẩu sức lao động chủ yếu tạo công ăn việc làm chứ không phải thu ngoại tệ nên nguồn thu rất hạn chế. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Trong thực tiễn xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với nhau vừa là kết quả vừa là tiền đề của nhau, đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cường nhập khẩu, tăng cường nhập khẩu là để mở rộng và tăng khả năng xuất khẩu. Có thể nói xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng nhập khẩu. Với xu thế toàn cầu hoá, với chính sách mở cửa và những thành tựu bước đầu chúng ta đã đạt được, trong tương lai nguồn vốn nước ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài, các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư là người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn duy nhất để trả nợ – có thể trở thành hiện thực. - Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của công cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu với nước ta. Có hai quan điểm về tác động của xuất khẩu với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Theo quan điểm thứ nhất: xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng cường chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ không được bao nhiêu. Theo quan điểm thứ hai: Coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở: Một là xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Hai là xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Khi khả năng sản xuất đã được mở rộng, thị trường trong nước trở nên nhỏ hẹp thì thị trường nước ngoài là nơi tiêu thụ, đem lại ngoại tệ. Đồng thời hướng sản xuất theo yêu cầu thoả mãn yêu cầu của thị trường đó. Tạo ra thị trường ổn định cũng có nghĩa là ổn định sản xuất. Ba là xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Bốn là xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Vì xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại nền kinh tế nước ta. Năm là thông qua xuất khẩu hàng hoá nội địa sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi và đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Sáu là xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Những tác động kể trên của xuất khẩu đến sản xuất đủ khẳng định quan điểm thứ hai này cần được quán triệt đối với một nền kinh tế nước ta. Chờ sản phẩm thừa ra để xuất khẩu giống như tự mình làm thui chột dần ý chí của mình vì nội lực của Việt Nam còn chưa lớn. Chỉ có tự vươn lên quyết tâm thúc đẩy sản xuất bằng cả vốn tự có lẫn sự giúp đỡ từ bên ngoài, tăng khả năng xuất khẩu và đến lượt nó những tác động của việc xuất khẩu lại tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, vừa phục vụ nền kinh tế quốc dân vừa phát huy vai trò của Việt Nam trên thị trường thế giới. Như vậy bên cạnh việc sử dụng tốt lợi thế so sánh để phát triển sản xuất, xuất khẩu còn góp phần hoàn thiện trong khâu tổ chức giảm những lãng phí không đáng có và nâng cao trình độ người lao động. - Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là hàng thô, nguyên liệu hoặc chỉ mới qua sơ chế. Tuy vậy cũng có được hàng triệu lao động được thu hút để sản xuất những mặt hàng này. Tới đây khi chúng ta tăng hàm lượng chế biến trong hàng xuất khẩu, cho dù có sự hỗ trợ của máy móc thì một lượng không nhỏ lao động nữa sẽ có thêm thu nhập. Đẩy mạnh xuất khẩu tham gia thị trường thế giới tức là chúng ta đã đi sâu hơn vào phân công lao động quốc tế – con đường tốt nhất để tạo việc làm cho người lao động. Đời sống của người lao động được cải thiện dần theo thu nhập ngày càng tăng lên dựa vào đà tăng của kim ngạch xuất khẩu cả nước. Cần chú ý rằng không phải những người lao động tham gia trực tiếp vào xuất khẩu mới có thu nhập tăng lên. Những người lao động khác dù ở ngành có hay không liên quan đến xuất khẩu nếu không được hưởng các quyền lợi vật chất như lương cao thì cũng được hưởng phúc lợi xã hội do sự đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu vào ngân sách Nhà nước. Nếu chỉ dựa vào những thành tựu trong nước thì đến nay, đến những năm đầu thế kỷ XXI thì chúng ta không được hưởng những phát minh khoa học như máy giặt, tủ lạnh,… Do đó cần phải nhận thức rõ vai trò của xuất khẩu, tập trung sức mạnh để đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa và xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu nhưng hiện đại phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng một phong phú của nhân dân. - Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu là một hoạt động của kinh tế đối ngoại sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Xuất khẩu sẽ làm các quan hệ kinh tế phát triển. Bạn bè thế giới sẽ biết đến nước ta. Ngoài những người có nhu cầu tham quan, du lịch, tìm hiểu văn hoá, phong tục, còn có những người tiến hành tìm kiếm, thăm dò thị trường thông qua du lịch và hoạt động này sẽ làm ngành du lịch phát triển, tăng trưởng. Khi xuất khẩu tăng, nhu cầu về vận tải, bảo hiểm tăng, quan hệ tín dụng cũng phát triển theo và đầu tư cũng gia tăng bởi bạn hàng nước ngoài thấy được khả năng phát triển của Việt Nam thông qua hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh. Ngược lại, chính các quan hệ đối ngoại kể trên cũng tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu trong khi ngành vận tải của Việt Nam chưa lớn mạnh, ngành bảo hiểm còn non trẻ những kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế còn chưa nhiều. Rõ ràng là các quan hệ kinh tế đối ngoại khác có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Tóm lại với vai trò quan trọng của mình, xuất khẩu và việc đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước. 2.2.2. Đối với các doanh nghiệp Cùng với xu hướng hội nhập của đất nước thì xu hướng vươn ra thị trường thế giới của doanh nghiệp cũng là một tất yếu khách quan. Bán hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài mang lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích: - Xuất khẩu tạo nguồn vốn để nhập khẩu những mặt hàng khác của doanh nghiệp, xuất khẩu không chỉ là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận lớn mà nó còn là một cơ sở, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Do vậy mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu chính của các công ty. Bên cạnh việc xuất khẩu công ty còn phải nhập khẩu. Để nhập khẩu được đòi hỏi phải có vốn. Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp các công ty nhập khẩu theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước với vốn do Nhà nước cấp. Nay chuyển sang cơ chế thị trường xoá bỏ bao cấp các doanh nghiệp phải tự dùng vốn của chính mình để nhập khẩu. Mà nguồn vốn nhập khẩu quan trọng nhất của các doanh nghiệp chính là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. - Xuất khẩu mở ra những thị trường rộng lớn hơn, giúp doanh nghiệp có thêm cơ hội tiêu thụ hàng hoá và góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi khả năng sản xuất đã được mở rộng cộng với việc xuất hiện hàng loạt các công ty cạnh tranh thì thị trường trong nước trở nên nhỏ hẹp không thể tiêu thụ hết hàng hoá sản xuất ra, sản phẩm dư thừa thì thị trường ngoài nước là nơi tiêu thụ rất tốt giúp công ty giải quyết số sản phẩm dư thừa đó đem lại ngoại tệ cho các công ty. Đồng thời xuất khẩu còn tạo ra thị trường ổn định thì cũng có nghĩa là ổn định sản xuất. - Xuất khẩu để duy trì sản xuất và thu lợi nhuận. Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn cạnh tranh với các đối thủ mạnh khắp nơi trên thế giới. Do vậy để tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi công ty phải làm tốt tất cả mọi khâu trong quá trình kinh doanh từ nghiên cứu thị trường, tìm đối tác giao dịch,…cho đến khâu tiêu thụ và thu tiền về. Nếu như trước đây trong cơ chế cũ công ty chỉ cần tạo ra nguồn hàng theo chỉ tiêu của Nhà nước còn mọi công việc phân phối, tiêu thụ là do Nhà nước đảm nhiệm thì nay chuyển sang cơ chế mới – Cơ chề thị trường thì nhiệm vụ này của công ty không chỉ dừng lại ở việc tạo ra nguồn hàng mà tiếp tục còn phải hoàn thành khâu tiêu thụ và thu tiền về thì mới hết một quy trình kinh doanh. Trong quy trình trên khâu tiêu thụ là rất quan trọng – Bởi lẽ thị trường trong nước đang ngày càng bị thu hẹp lại. Do vậy xuất khẩu sẽ là một phương thức hữu hiệu giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất và thu lợi nhuận. - Tăng cường sự cạnh tranh giữa hàng ngoại và hàng của công ty bắt buộc các doanh nghiệp phải tiếp tục vươn lên: Xuất khẩu cũng là một phương thức tiêu thụ nhưng nó khác với tiêu thụ nội địa ở chỗ xuất khẩu buộc các doanh nghiệp không chỉ canh tranh với các đối thủ trong nước mà còn phải canh tranh với nhiều đối thủ trên trế giới. Do vậy thông qua xuất khẩu hàng hoá nội địa sẽ tham gia vào cuộc canh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Vì vậy doanh nghiệp phải nâng cao khả năng quản lý để tăng năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Đây là điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. 3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu Với chủ trương đa dạng hóa các loại hình xuất khẩu hiện nay các doanh nghiệp ngoại thương đang áp dụng rất nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Sau đây, chúng ta xem xét một số loại hình xuất khẩu chủ yếu sau: Xuất khẩu trực tiếp: Là hình thức đơn vị ngoại thương đặt mua các sản phẩm của các đơn vị sản xuất trong nước (hoặc tự liên doanh sản xuất). Sau đó xuất khẩu những sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của mình. Các bước tiến hành: Ký hợp đồng nội, mua hàng, trả tiền cho các đơn vị sản xuất trong nước. Ký hợp đồng ngoại, giao hàng, nhận tiền thanh toán với bên nước ngoài. Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận mà các đơn vị kinh doanh xuất khẩu thu được thường cao hơn các hình thức khác. Đơn vị ngoại thương đứng ra với vai trò là người bán trực tiếp. Do đó nếu hàng có quy cách, sản xuất tốt sẽ nâng cao được uy tín của đơn vị. Tuy nhiên, trước hết nó đòi hỏi đơn vị xuất khẩu phải có lượng vốn khá lớn ứng trước để mua hàng. Hơn nữa loại hình này thường có mức độ rủi ro lớn vì: doanh nghiệp ngoại thương không tự sản xuất, công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm không chu đáo dẫn đến bị khiếu nại, do thiên tai, mất mùa nên ký hợp đồng ngoại thương song không có hàng để xuất. Xuất khẩu gia công uỷ thác. Trong hình thức này đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu từ nước ngoài và bán lại nguyên liệu về cho xí nghiệp gia công để gia công ra thành phẩm, sản phẩm. Sau đó thu hồi thành phẩm xuất lại cho bên nước ngoài. Và đơn vị phải thanh toán giá gia công cho bên nhận gia công. Các bước tiến hành: Ký kết hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị trong nước. Ký kết hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên liệu. Giao nguyên liệu cho đơn vị gia công. Nhận thành phẩm và giao cho bên nước ngoài. Thanh toán phí gia công cho đơn vị gia công và hưởng chênh lệch phí gia công giữa đơn vị trong nước và đơn vị nước ngoài. Hình thức này có ưu điểm là không cần đưa vốn vào kinh doanh nhưng đạt hiệu quả tương đối cao, rủi ro rất thấp, thanh toán đảm bảo nhưng đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải có nhiều kinh nghiệm. Khi ký kết hợp đồng gia công cần chú ý tính toán định mức tiêu hao nguyên liệu trong quá trình gia công, xem xét giá gia công, hình thức gia công… Hình thức gia công còn có thể là doanh nghiệp sau khi ký hợp đồng gia công với bên nước ngoài, tự tìm và nhập khẩu nguyên liệu. Ngoài ra còn có thể tự gia công để nhận toàn bộ phí gia công nếu doanh nghiệp có điều kiện gia công. Xuất khẩu uỷ thác. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hàng hoá dịch vụ muốn xuất khẩu nhưng doanh nghiệp này không được quyền xuất khẩu hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp, uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu làm dịch vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ được nhận một khoản tiền gọi là phí uỷ thác. Các bước tiến hành: Ký hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu với đơn vị sản xuất trong nước. Ký hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài, giao hàng và nhận tiền hàng. Thanh toán tiền hàng và nhận phí uỷ thác của đơn vị sản xuất. ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm thấp, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt không cần huy động vốn để mua hàng, cần ít thủ tục và tương đối tin cậy. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được không cao. Buôn bán đối lưu. Là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. ở đây mục đích xuất khẩu không phải để thu được một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương giá trị lô hàng đã xuất. Trong buôn bán đối lưu, người ta luôn luôn chú trọng đến yêu cầu cân bằng. Đó là yêu cầu phải có sự cân đối giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên. yêu cầu cân bằng thể hiện ở chỗ: + Cân bằng về mặt hàng, nghĩa là: mặt hàng quý đổi lấy mặt hàng quý, mặt hàng tồn kho, khó bán đổi lấy mặt hàng tồn kho, khó bán. + Cân bằng về giá cả: so với giá quốc tế nếu giá hàng nhập cao thì khi xuất cho đối phương giá hàng xuất khẩu cũng phải được tính cao tương ứng; ngược lại nếu giá hàng nhập hạ thì khi xuất khẩu cho đối phương, giá hàng xuất cũng phải tính hạ một cách tương ứng. + Cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau: do không có sự di chuyển tiền tệ, hai bên thường quan tâm sao cho tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ giao cho nhau phải tương đối cân bằng nhau. + Cân bằng về điều kiện giao hàng: nếu xuất khẩu CIF thì phải nhập khẩu CIF; nếu nhập khẩu FOB thì nhập khẩu FOB. Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu: a/ Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter) hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng hầu như diễn ra đồng thời. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng cổ điển, đồng tiền không được dùng để thanh toán và chỉ có hai bên tham gia. Trong nghiệp vụ đổi hàng hiện đại, người ta có sử dụng tiền để thanh toán một phần tiền hàng, hơn nữa lại có thể thu hút tới 3 - 4 bên tham gia. b/ Trong nghiệp vụ bù trừ (compensation) hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi trị giá hàng giao và hàng nhận đến cuối kỳ hạn, hai bên mới đối chiếu sổ sách, so sánh giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế, mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. c/ Trong nghiệp vụ buôn bán có thanh toán bình hành (clearing), hai chủ thể của quan hệ buôn bán thoả thuận chỉ định ngân hàng thanh toán. Ngân hàng này mở tài khoản, gọi là tài khoản clearing, để ghi chép tổng giá trị hàng giao nhận của mỗi bên. Sau một thời gian quy định, ngân hàng mới quyết toán tài khoản clearing và bên bị nợ (tức nhận nhiều mà giao ít) sẽ phải trả khoản nợ bội chi mà mình đã gây ra. d/ Trong nghiệp vụ mua đối lưu (counter-purchase) một bên giao thiết bị cho khách hàng của mình và, để đổi lại, mua sản phẩm của công nghiệp chế biến, bán thành phẩm, nguyên vật liệu… Hàng giao và hàng nhận có thể cùng trong một ngành hàng, có thể thuộc danh mục kinh doanh của một công ty, nhưng cũng có khi, nghiệp vụ mua đối lưu thu hút nhiều tổ chức tham gia trao đổi với một danh mục mặt hàng rất rộng rãi. Việc trao đổi hàng hoá trong khuôn khổ mua đối lưu được thực hiện trong một thời gian không dài (thường từ 1 đến 5 năm) còn trị giá hàng giao để thanh toán thường không đạt 100% trị giá hàng mua về. e/ Trong nghiệp vụ chuyển nợ (switch) bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ ba để bên thứ ba này trả tiền. Nghiệp vụ này bảo đảm cho các công ty, khi nhận hàng đối lưu không phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của mình, có thể bán hàng đó đi. f/ Trong giao dịch bồi hoàn (offset) người ta đổi hàng hoá và/hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và ưu huệ (như ưu huệ trong đầu tư hoặc giúp đỡ bán sản phẩm). Giao dịch bồi hoàn hiện nay chiếm gần 1/4 số hợp đồng buôn bán đối lưu. Nó thường xảy ra trong lĩnh vực buôn bán những kỹ thuật quân sự đắt tiền trong việc giao những chi tiết và cụm chi tiết trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp. g/ Trong việc chuyển giao công nghệ, người ta thường tiến hành nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy-backs) trong đó một bên cung cấp thiết bị toàn bộ và/hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật (know-how) cho bên khác, đồng thời cam kết mua lại những sản phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó sáng tạo ra. Giao dịch tái xuất. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Vì vậy, người ta còn gọi giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác (triangular transaction). Tái xuất có thể được thực hiện bằng một trong hai hình thức sau: + Tái xuất theo đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền: nước tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. + Chuyển khẩu, trong đó hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Xuất khẩu theo nghị định thư. Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được ký kết giữa hai Chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có rất nhiều ưu đãi như: khả năng thanh toán chắc chắn (do nhà nước trả cho đơn vị xuất khẩu), giá cả hàng hoá nhìn chung dễ chấp nhận, việc sản xuất thu mua có nhiều sự ủng hộ, ưu tiên. II. Nội dung cơ bản của công tác xuất khẩu Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng phát triển hợp tác kinh tế giữa các nước ngày càng phát triển. Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Do đó, hoạt động xuất khẩu ở đây phức tạp hơn việc bán sản phẩm trong thị trường nội địa, bởi hoạt động này là việc giao dịch với những người có ngôn ngữ khác nhau, thị trường rộng lớn, khó kiểm soát đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân thủ tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của địa phương. Để việc hoạt động xuất khẩu được thực hiện có hiệu quả, tránh được những tổn thất không đáng có, mỗi doanh nghiệp phải nắm bắt được những vấn đề cơ bản khi tiến hành giao dịch ngoại thương. Quá trình xuất khẩu: Sơ đồ 1: quá trình xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường và lập phương án kinh doanh Đàm phán ký kết hợp đồng Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Tổ chức thực hiện hợp đồng. Thu nhận kết quả. 1. Nghiên cứu thị trường và lập phương án kinh doanh Nghiên cứu thị trường Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra quyết định đúng đắn để lập kế hoạch marketing. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong công việc thực hiện phương châm hành động “ chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái sẵn có”. Công tác nghiên cứu thị trường phải giải đáp những vấn đề sau: - Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước hay khu vực doanh nghiệp xuất khẩu sang, để dự đoán nhu cầu có tăng trưởng hay không? - Hệ thống chính sách pháp luật, tập quán buôn bán của nước nghiên cứu đối với nước ta: hàng hoá doanh nghiệp xuất khẩu sang có được ưu đãi gì không, thuộc loại hàng khuyến khích hay hạn chế nhập khẩu… để có thể xác định hình thức xuất khẩu nào cần được áp dụng. - Hệ thống chính sách tiền tệ của nước đó: sự phát triển của hệ thống tài chính - ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngoại thương của một nước. Nó là tiền đề quan trọng để mở rộng ngoại thương, nó tăng cường hình thức thanh toán và tín dụng với các tổ chức, đơn vị kinh tế khác, đảm bảo tin cậy. - Giá cả mặt hàng tại thị trường trong và ngoài nước, quy luật vận động của nó, giá cả này có thể là giá khu vực hay giá quốc tế. Giá cả hàng hoá thường xuyên biến động cho nên doanh nghiệp cần phải so sánh giá cả của các nguồn cung khác nhau để quyết định giá cả hàng hoá của mình. - Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định. Nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu thật của khách hàng, kể cả dung lượng dự trữ, xu thế biến động của nhu cầu của từng vùng, từng thời điểm, các khu vực có nhu cầu lớn và đặc điểm của nhu cầu cho từng khu vực, từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng với việc xác định, nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung – cầu của thị trường bao gồm việc xem xét đặc điểm tính chất, khả năng sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán, những nhân tố ảnh hưởng làm thay đổi dung lượng thị trường. Điều này rất quan trọng bởi nó giúp cho nhà kinh doanh xuất khẩu cân nhắc để đề ra quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh doanh giao dịch cao nhất. - Tình hình vận tải – giá cước: nghiên cứu khả năng thuê tàu, hành trình vận chuyển của tàu, giá cước… Tất cả các thông tin doanh nghiệp có thể thu thập được thông qua hai phương pháp thu thập: + Nghiên cứu tại bàn: về cơ bản bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, internet, các cơ quan thương mại (cơ quan xúc tiến thương mại: cục xúc tiến thương mại), các phương tiện thông tin đại chúng. Phương pháp này có ưu điểm là đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những người xuất khẩu mới tham gia thị trường thế giới. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế như chậm và mức độ tin cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu tại bàn cũng cần phải được bổ sung bằng nghiên cứu hiện trường. + Nghiên cứu tại hiện trường: nghiên cứu tại hiện trường bao gồm việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người tại hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu tại hiện trường là thu thập thông tin từ trực quan và qua các quan hệ giao tiếp với thương nhân và với người tiêu dùng. Phương pháp này có ưu điểm là việc thu thập và xử lý thông tin là một quá trình liên tục, nhiều khi cùng một lúc và luôn được bổ sung những thông tin mới nên đảm bảo tính chính xác nhưng nghiên cứu hiện trường là một hoạt động tốn kém và không phải ai cũng đủ trình độ để làm được. 1.2. Chọn thị trường, mặt hàng kinh doanh Từ quá trình nghiên cứu thị trường nhà kinh doanh phải xác định được thị trường dự định kinh doanh là thị trường nào, mặt hàng dự định kinh doanh là mặt hàng nào quy cách phẩm chất, nhãn hiệu, bao bì đóng gói hàng hóa đó như thế nào. Đối với việc lựa chọn thị trường trước hết cần xác định những tiêu chuẩn mà các thị trường phải đáp ứng được: Những tiêu chuẩn về chính trị. Những tiêu chuẩn về địa lý. Những tiêu chuẩn về kinh tế. Những tiêu chuẩn về kỹ thuật. Những tiêu chuẩn về thương mại và tiền tệ. Đối với vấn đề lựa chọn mặt hàng kinh doanh vấn đề quan trọng là xác định được số lượng hàng xuất khẩu để đạt được lợi nhuận tối đa. 1.3. Lập phương án kinh doanh Sau khi được những thông tin cần thiết về việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Doanh nghiệp ngoại thương cần phải lập kế hoạch hành động cụ thể trước khi đi đến ký hợp đồng. Việc lập phương án kinh doanh bao gồm: - Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, những thuận lợi khó khăn. - Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức giao dịch (quá trình giao dịch có thể trực tiếp hoặc qua trung gian). - Đề ra biện pháp thực hiện ở trong nước cũng như nước ngoài. - Dự kiến đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế. 2. Đàm phán ký kết hợp đồng Trong giao dịch giữa các bên thường có sự khác biệt về chính kiến, về pháp luật, tập quán, ngôn ngữ, tư duy truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi giữa các bên. Những vấn đề đó dễ dẫn đến xung đột giữa các bên, muốn giải quyết xung đột đó các bên phải trao đổi ý kiến với nhau để thống nhất quan điểm như thế gọi là đàm phán. Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một xung đột nhằm đi tới thống nhất cách nhận định, thống nhất quan điểm, thống nhất cách xử lý những vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán giữa hai hoặc nhiều bên. Các hình thức đàm phán: - Đàm phán giao dịch qua thư tín: ngày nay vẫn còn là phương tiện giao dịch chủ yếu giữa những người xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư từ. Ngay khi sau này hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải thông qua thư tín thương mại. So với việc gặp gỡ thực tiếp thì giao dịch qua thư tín dụng tiết kiệm được nhiều chi phí. Hơn nữa trong cùng một lúc, lại có thể giao dịch trao đổi với nhiều khách hàng ở nhiều nước khác nhau. Người viết thư tín có điều kiện để cân nhắc suy nghĩ, tranh thủ ý kiến của nhiều người và có thể khéo léo dấu kín ý định thực sự của mình. Nội dung của thư thương mại bao giờ cũng hết sức chính xác. Tránh nhưng hiểu nhầm do trình bày không rõ ràng hoặc sử dụng từ ngữ không chính xác. Mọi lý lẽ được diễn đạt đầy đủ, nhưng không rườm rà. Do tập quán, văn hóa, ngôn ngữ,… của mỗi nước là khác nhau nên khi đề cập đến mỗi vấn đề, cần phải thật chi tiết, cụ thể, rõ ràng về quan niệm của mình hoặc những yêu cầu của mình nêu ra. Không bao giờ nghĩ rằng chắc đối phương cũng hiểu vấn đề này như cách mình hiểu. - Giao dịch đàm phán qua điện thoại: việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng giúp người giao dịch tiến hành đàm phán một cách khẩn trương, đúng vào thời cơ cần thiết. Nhưng phí tổn điện thoại giữa các nước rất cao, các cuộc trao đổi qua điện thoại thường phải hạn chế về mặt thời gian, các bên không thể trình bày chi tiết, mặt khác trao đổi điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thỏa thuận, quyết định trong trao đổi bởi vậy điện thoại chỉ được dùng trong những trường hợp cần thiết, khẩn trương, sợ lỡ thời cơ, hoặc là trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thỏa thuận xong, chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết… Khi phải sử dụng điện thoại, cần chuẩn bị thật chu đáo để có thể trả lời ngay mọi vấn đề được nêu lên một cách chính xác. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán thoả thuận. - Giao dịch đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: là hình thức đặc biệt quan trọng, hình thức này đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại đã kéo dài qua lâu mà không có kết quả. Hình thức đàm phán này thường được dùng khi hai bên có nhiều điều kiện phải giải thích căn kẽ để thuyết phục nhau, khi đàm phán về những hợp đồng lớn, những hợp đồng có tính chất phức tạp… Trước khi đàm phán người ta thường lập phương án đàm phán. Trong phương án nêu rõ mục đích của khách hàng, dự kiến những vấn đề khách hàng sẽ nêu ra và cách giải quyết những vấn đề đó. Bên cạnh phương án, các cán bộ kinh doanh còn có phương án tiếp đãi, nêu rõ những người tiếp đón, đàm phán, dự kiến bố trí chương trình làm việc, giải trí, tặng phẩm, chiêu đãi… Đàm phán trực tiếp đòi hỏi người tiến hành đàm phán phải chắc chắn về nghiệp vụ, tự chủ, phản ứng nhanh nhạy…để có thể tỉnh táo, bình tĩnh nhận xét, nắm được ý đồ, sách lược đối phương, nhanh chóng có biện pháp đối phó trong những trường hợp cần thiết hoặc quyết định ngay tại chỗ khi thấy thời cơ ký kết đã chín muồi. Cần xác định rõ mục đích, yêu cầu của đợt đàm phán, dự kiến những biện pháp để đạt được những kết quả mong muốn. Cần tránh hai khuynh hướng: Một hướng cho rằng chẳng cần chuẩn bị gì nhiều cũng có thể đàm phán thành công, ỷ vào những hiểu biết và kinh nghiệm vốn có… Một khuynh hướng khác thì chuẩn bị qua lâu, quá cầu toàn. Việc chuẩn bị đàm phán cần phải chi tiết, chu đáo nhưng phải nhanh. Trong thương mại những vấn đề thường trở thành nội dung của các cuộc đàm phán là: tên hàng, phẩm chất, số lượng, bao bì đóng gói, giao hàng, giá cả, thanh toán, bảo hiểm, bảo hành, khiếu nại, phạt và bồi thường thiệt hại, trọng tài, trường hợp bất khả kháng. 3. Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được bắt đầu bằng họat động thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu và kết thúc ở hoạt động xuất khẩu, công tác thu mua nguồn hàng xuất khẩu là tiền đề và cơ sở cho việc kinh doanh, Chính vì vậy có thể khẳng định tổ chức tạo nguồn hàng xuất khẩu có vị trí vô cùng quan trọng trong việc đạt hiệu quả kinh doanh của công ty kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu: Nghiên cứu thị trường: là nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường cũng như khả năng tiêu thụ hàng trên thị trường. Nghiên cứu thị trường mua và thị trường bán trên cơ sở đó doanh nghiệp ngoại thương có những hướng dẫn kỹ thuật giúp người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài. Lựa chọn phương thức giao dịch hàng xuất khẩu: trong quan hệ giữa đơn vị ngoại thương với các đơn vị “chân hàng” (tức là đơn vị sản xuất, thu mua, chế biến hàng xuất khẩu), ba phương thức giao dịch sau đây thường được vận dụng: Xuất khẩu ủy thác: đơn vị “chân hàng” gọi là bên ủy thác, giao cho đơn vị ngoại thương, gọi là bên nhận ủy thác, tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận ủy thác) nhưng với chi phí của bên ủy thác. Về bản chất pháp lý, bên nhận ủy thác là một đại lý hoa hồng của bên ủy thác. Cho nên phí ủy thác thực chất là tiền thù lao (hoa hồng) trả cho bên đại lý. Trong trường hợp này, đơn vị ngoại thương chắc chắn có hàng để giao cho khách hàng nhằm mục đích thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Liên doanh liên kết xuất khẩu: trong phương thức này, đơn vị “chân hàng” cùng bỏ vốn kinh doanh chung với đơn vị ngoại thương, lãi cùng hưởng, lỗ cùng chịu, lãi lỗ và rủi ro phân chia theo số vốn đóng góp của mỗi bên. Phần vốn góp của đơn vị “chân hàng” thường là trị giá của bản thân hàng xuất khẩu, của đơn vị ngoại thương là khoản tiền để thu mua bổ sung hoặc để gia công, tái chế, đóng gói bao bì và để chi những tạp phí về việc xuất khẩu. Thu mua hàng xuất khẩu: đối với thu mua hàng nông, lâm, thủy sản doanh nghiệp ngoại thương thường áp dụng những hình thức: - Ký kết hợp đồng sản xuất, khai thác, đánh bắt với các đơn vị sản xuất nông, lâm, thủy sản. - Thu mua tự do, từ những người sản xuất nhỏ trên cơ sở tự do thỏa thuận về giá cả và các điều kiện giao dịch trong mỗi lần mua bán. - Gia công nông nghiệp, trong đó đơn vị ngoại thương giao giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc cho đơn vị sản xuất nông nghiệp để đơn vị này trồng trọt hoặc chăn nuôi ra thành phẩm xuất khẩu. Sau khi giao nộp thành phẩm, đơn vị sản xuất được hưởng thù lao gia công. - Đổi hàng đổi hạt, trong đó đơn vị ngoại thương giao cho đơn vị sản xuất hàng tiêu dùng hoặc tư liệu sản xuất để đổi lấy sản phẩm xuất khẩu. Tổ chức thực hiện hợp đồng tạo nguồn và mua hàng. Trong việc thu mua và cung ứng hàng xuất khẩu, người ta thường ký kết những loại hợp đồng sau: - Hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu: theo hợp đồng này , đơn vị “chân hàng” chuyển vào quyền sở hữu của đơn vị ngoại thương một hoặc một số lô hàng nhất định; còn đơn vị ngoại thương có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng. - Hợp đồng gia công hàng xuất khẩu: theo hợp đồng này, đơn vị ngoại thương giao nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho đơn vị sản xuất và yêu cầu đơn vị sản xuất gia công, chế biến chúng thành ra sản phẩm xuất khẩu. Đơn vị ngoại thương sau khi nhận thành phẩm xuất khẩu phải trả phí gia công. - Hợp đồng đại lý thu mua hàng xuất khẩu: theo hợp đồng này, đơn vị ngoại thương ủy nhiệm cho đơn vị nội thương, hợp tác xã mua bán hoặc cho cá nhân (có đăng ký kinh doanh) tiến hành thu mua hàng xuất khẩu tại một địa phương nhất định. Đơn vị ngoại thương phải trả cho đơn vị thu mua một khoản thù lao nhất định gọi là phí đại lý thu mua. - Hợp đồng xuất khẩu ủy thác: đơn vị “chân hàng “ gọi là bên ủy thác, giao cho đơn vị ngoại thương, gọi là bên nhận ủy thác, tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận ủy thác) nhưng với chi phí của bên ủy thác. - Hợp đồng liên doanh, liên kết xuất khẩu: theo hợp đồng này, chân hàng và đơn vị ngoại thương cùng chung vốn, chung sức, chung rủi ro để kinh doanh xuất khẩu. Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu sau khi đã ký kết hợp đồng với các chân hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương tiến hành khai thác nguồn hàng xuất khẩu. Tiếp nhận, phân loại, bảo quản và đóng gói hàng xuất khẩu chuẩn bị cho việc giao hàng xuất khẩu. 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng Sau khi hợp đồng được ký kết nghĩa là nghĩa vụ và quyền lợi của các bên trong hợp đồng đã được xác định, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu – với tư cách là một bên ký kết – phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời đảm bảo quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Vừa tiến hành sắp xếp những phần việc phải làm ghi thành bảng biểu để theo dõi tiến hành thực hiện hợp đồng, vừa yêu cầu, thúc dục đối phương thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định của hợp đồng. Nếu có gì phát sinh trong quá trình thực hiện thì các bên phải nhanh chóng trao đổi bàn bạc để có hướng giải quyết kịp thời. Các công việc doanh nghiệp phải tiến hành thực hiện hợp đồng: Sơ đồ 2: nghiệp vụ thực hiện hợp đồng Ký hợp đồng xuất khẩu. Xin giấy phép (nếu cần). Kiểm tra L/C. Chuẩn bị hàng hóa. Làm thủ tục hải quan Thuê phương tiện vận chuyển (nếu được quyền). Mua bảo hiểm hàng hóa (nều được quyền). Xử lý tranh chấp (nếu có). Thủ tục thanh toán. Giao hàng hóa. 4.1. Xin giấy phép xuất khẩu Giấy phép xuất khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý xuất khẩu. Ngày nay, trong xu thế tự do hóa mậu dịch, những mặt hàng cần phải xin giấy phép xuất khẩu ngày càng giảm. Trong cơ chế quản lý hàng hoá xuất, nhập khẩu giai đoạn 2001-2005 là danh mục hàng hoá xuất, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại được nêu rõ ràng cụ thể và theo hướng giảm dần. Về danh mục hàng xuất, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành, qua nhiều năm trao đổi, quản lý, đúc rút kinh nghiệm, hướng quản lý được đề ra là: - Xoá bỏ hoàn toàn quản lý nếu xét thấy không cần thiết. - Quản lý theo hình thức quy định tiêu chuẩn, điều kiện (chỉ quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng sử dụng, điều kiện được xuất khẩu để doanh nghiệp có cơ sở làm thủ tục tại hải quan cửa khẩu, không cấp giấy phép hoặc duyệt mặt hàng, số lượng, trị giá). - Trong những trường hợp cần thiết đặc biệt, có thể duy trì giấy phép chuyên ngành để hạn chế số lượng nhập khẩu và phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép. Mỗi giấy phép xuất khẩu chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để có thể xuất khẩu một hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định, chuyên chở bằng một phương tiện vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định. 4.2. Kiểm tra L/C Được tiến hành trong trường hợp trong hợp đồng có quy định sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. L/C là một văn bản pháp lý do một ngân hàng viết ra theo yêu cầu của người nhập khẩu cam kết trả cho người xuất khẩu một số tiền nhất định trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện người này thực hiện đúng và đầy đủ những điều khoản trong thư đó. Theo đó người xuất khẩu chỉ nhận được tiền khi đã thực hiện đầy đủ và đúng như nội dung của L/C cho nên khi nhận được L/C từ phía đối tác người xuất khẩu phải thực hiện công việc kiểm tra L/C một cách chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền lợi của mình sau này trong thanh toán. Cần phải kiểm tra: Kiểm tra toàn bộ nội dung L/C theo UCP500. Kiểm tra tính pháp lý của L/C. Khi kiểm tra nếu có sai sót gì đề nghị người nhập khẩu và ngân hàng sửa đổi căn cứ theo hợp đồng. 4.3. Chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu. Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã ký với nước ngoài và/hoặc L/C (nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C). Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm 3 khâu chủ yếu: - Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu. - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu phải tuân theo quy định của hợp đồng. Tuyển chọn bao bì và đóng gói cực kỳ quan trọng bởi vì bao bì không chỉ dùng để bảo quan hàng hóa mà còn giúp cho dễ dàng trong vận chuyển, xếp dỡ, giảm được phần nào chi phí và chống thất thoát hàng hóa. - Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: ký mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên bao bì bên ngoài nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ hoặc bảo quản hàng hóa. Việc ký mã hiệu cần phải đạt được yêu cầu sau: sáng sủa, dễ đọc, không phai màu, không thấm nước, sơn (hoặc mực) không làm ảnh hưởng đến phẩm chất hàng hóa. 4.4. Làm thủ tục hải quan Hàng hóa khi đi ngang qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau: - Khai báo hải quan: chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hóa lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Yêu cầu việc khai báo này là trung thực và chính xác. Tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm theo với một số chứng từ khác: giấy phép xuất khẩu, hóa đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết. - Xuất trình hàng hóa: hàng hóa xuất khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. - Thực hiện các quyết định của hải quan: sau khi kiểm tra hải quan sẽ ra quyết định như: thông quan, thông quan có điều kiện, thông quan khi chủ hàng đã nộp thuế, lưu kho, không được xuất khẩu… Chủ hàng có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm túc quyết định đó. 4.5. Mua bảo hiểm và thuê tàu lưu cước Mua bảo hiểm hàng hóa là hình thức bảo đảm cho hàng hóa được an toàn ngay cả khi có sự cố, rủi ro xảy ra. Thuê tàu lưu cước vận chuyển hàng hóa xuất khẩu đồng thời bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển đến nơi giao hàng. 4.6. Giao hàng xuất khẩu Phần lớn hàng xuất khẩu nước ta được vận chuyển bằng đường biển. Do vậy khi giao hàng chủ hàng phải tiến hành các công việc sau: - Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu, lập bảng đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để đổi lấy sơ đồ xếp hàng. - Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng. - Bố trí phương tiện đem hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. - Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển. 4.7. Làm thủ tục thanh toán Thanh toán là khâu trọng tâm và là kết quả kinh doanh cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh thương mại quốc tế. Thủ tục thanh toán tuân thủ theo hợp đồng và phương thức do hai bên lựa chọn. Dưới đây là hai phương thức thanh toán chủ yếu: - Thanh toán bằng thư tín dụng: Thư tín dụng là một loại giấy mà ngân hàng thay mặt cho người nhập khẩu đảm bảo hoặc hứa sẽ trả tiền cho người xuất khẩu sau khi hàng hóa được giao. Thư tín dụng được lập trên cơ sở quy định của hợp đồng được ký kết giữa hai bên. Đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải đôn đốc người mua ở nước ngoài mở thư tín dụng (L/C) đúng hạn và sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và khả năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu bằng L/C đó. Có L/C người xuất khẩu tiến hành làm những công việc quy định trong hợp đồng. Cùng với việc giao hàng người xuất khẩu phải lập bộ chứng từ hoàn hảo, phù hợp với L/C cả về nội dung lẫn hình thức. - Thanh toán bằng phương thức nhờ thu: Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và phải xuất trình cho ngân hàng để ủy thác cho ngân hàng đổi tiền hộ. Chứng từ thanh toán phải hợp lệ, chính xác và nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm thu lại vốn. 5. Đánh giá kết quả ý nghĩa công việc này nhằm tạo điều kiện cho các thành viên trong doanh nghiệp thấy được kết quả và hạn chế trong quá trình thực hiện hợp đồng. Từ đó rút ra những kinh nghiệm đồng thời có những biện pháp khuyến khích tinh thần làm việc thông qua những hình thức khen thưởng và xử phạt vật chất cụ thể. III. Tình hình xuất khẩu hàng nông sản ở nước ta Tình hình xuất khẩu hàng nông sản ở nước ta Tăng trưởng bình quân hàng nông sản của Việt Nam đạt 21%/năm trong suốt 10 năm. Gạo, cà phê, chè, cao su là 4 mặt hàng chủ lực. Năm 1999 đạt 1,8 tỷ USD chiếm 16,63% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Có thể thấy rằng cả 4 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của thế giới và cao hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan (trong mặt hàng gạo và cà phê), Indonexia (cà phê và cao su), Pakistan (về gạo), Brazin, Clombia (cà phê), Kenia (chè)… Bảng 1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1990-1999 TT Năm Sản lượng xuất khẩu (1000 tấn) Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) Gạo Cà phê Cao su Chè Gạo Cà phê Cao su Chè 1 1990 1624 89,6 75,9 10,8 305 76,16 75,3 12,96 2 1991 1033 93,8 62,9 10,5 235 74 50 14 3 1992 1940 116,2 81,9 13 418 92 66,9 16 4 1993 1722 122,6 96,7 20,6 362 110,6 74,7 26 5 1994 1983 177 135,5 21,2 424 328,2 135,4 26,5 6 1995 2058 248,1 138,1 18,8 530 595,5 193,5 26,5 7 1996 3047 281,4 194,5 21 868 420 163,3 29 8 1997 3682 391,6 195 32,3 891 497,5 194,6 48 9 1998 3800 372 197 33,2 1100 593,8 127,5 50,5 10 1999 4500 487,5 265 37 1080 592 145 46 Nguồn: Vụ Thương mại Dịch vụ – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam so với Thái Lan có xu hướng tăng từ dưới 30% (trước năm 1998) lên 44% (năm 1998) kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam so với Brazin đã tăng từ 9,44% (năm 1992) lên 25,4% (năm 1996). Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam so với ấn Độ cũng tăng từ 4,3% (năm 1992) lên 9,32% (năm 1998) kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam so với Thái Lan cũng có tăng nhưng so với tốc độ chậm hơn từ 5,87% (năm 1992) lên 8,81% (năm 1998). So với các đối thủ cạnh tranh thì tốc độ tăng sản lượng của họ thấp hơn nhưng tốc độ tăng kim ngạch lại cao hơn Việt Nam. Chẳng hạn trong khi sản lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan chỉ gấp 1,67 lần của Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu lại gấp 2,27 lần, sản lượng cà phê xuất khẩu của Brazin chỉ gấp 2,6 lần Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu lại gấp 3,93 lần kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhiều mặt hàng khác cũng trong tình trạng tương tự. Trừ mặt hàng gạo, còn 3 mặt hàng kia lại có sự chênh lệch khá lớn về số lượng so với các đối thủ cạnh tranh chính: cà phê chỉ bằng 1/3 của Indonexia, chè chỉ bằng 1/6,7 của ấn Độ, 1/8 của Slilanca, cao su chỉ bằng 1/5 của Malaisia và 1/9 của Thái Lan… Như vậy, 10 năm qua tuy đã có sự phát triển vượt bậc song nhìn chung nông sản xuất khẩu của Việt Nam (trừ gạo) còn chiếm số lượng nhỏ so với các đối thủ cạnh tranh, chưa đủ sức để chi phối đến sự biến động giá cả trên thị trường thế giới và nông sản Việt Nam vẫn phải chịu tác động của giá cả thế giới và lấy đó làm tiêu chuẩn phấn đấu cho mình. Về chất lượng hàng nông sản xuất khẩu có được cải thiện đáng kể ở hầu hết các mặt hàng. Tuy nhiên mẫu mã đơn điệu nên chưa thâm nhập được vào phần thị trường cao cấp, giá nông sản xuất khẩu có tăng nhưng vẫn thấp hơn giá của các đối thủ cạnh tranh và thấp hơn so với giá thế giới đây được xem là những nguyên nhân chính làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới có sự chênh lệch đáng kể. Định hướng phát triển xuất khẩu 2.1. Định hướng chung Chiến lược phát triển xnk thời kỳ 2001-2005 là 16%/năm. Theo mục tiêu này, kim ngạch xuất khẩu năm 2005 dự kiến sẽ đạt 30 tỷ USD. Do gặp nhiều khó khăn nên mặc dù đã hết sức cố gắng, xuất khẩu của ta năm 2001 mới tăng 4% so với năm 2000, năm 2002 tăng 11,2% với 2001. Với kim ngạch năm 2002 là 16,7 tỷ USD, dự kiến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân thời kỳ 2003-2005 phải đạt tới 22% /năm thì mới có thể đạt được mục tiêu 30 tỷ USD vào năm 2005. Tình hình trong nước và bên ngoài đặt khá nhiều thách thức đối với xuất khẩu trong năm 2003 và những năm tiếp theo. Năm 2003 là năm bản lề, có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện mục tiêu xuất khẩu của cả thời kỳ 2001-2005. Trong bối cảnh đó, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 2 đã xác định chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu của năm 2003 là 18 tỷ USD, tăng 7,5-8% so với năm 2002. Mục tiêu này rất có cơ sở và phù hợp với tình hình thực tế. Nhưng với quyết tâm đẩy mạnh xuất khẩu, nỗ lực hướng tới mục tiêu nêu trong Chiến lược, Bộ thương mại đề ra kế hoạch phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 18,5 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2002. Để đạt được mục tiêu này cần có sự nỗ lực rất lớn của các ngành hàng nói chung và ngành hàng nông sản thực phẩm nói riêng, trong đó nhóm hàng nông sản thực phẩm thuộc chủ lực phải phấn đấu như sau: Bảng 2: Kế hoạch xuất khẩu hàng nông sản: Mặt hàng Số lượng (1000 tấn) So với 2002 (%) Trị giá (triệu USD) So với 2002 (%) Tỷ trọng 2002 % Tỷ trọng 2003 % Tổng KNXK … nhóm nông, thủy sản. - Gạo. - Cà phê. - Cao su. - Hạt tiêu. - Hạt điều. - Rau quả. - Thủy sản. … 3.200 600 470 80 70 98,7 83,5 105 104,4 112,5 18.500 4.532 725 420 350 120 240 230 2.300 111 113,4 100 130 130 112 115 114 114 23,9 24,5 Nguồn: Kế hoạch xuất khẩu Bộ Thương mại 2.2. Định hướng về thị trường Trong bối cảnh kinh tế thương mại thế giới và khu vực có nhiều thay đổi, phương châm chung là tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa thị trường. Bên cạnh việc tích cực thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, cần tăng cường xuất khẩu vào các thị trường Châu á và một số nước EU mới. Bên cạnh đó, cần bắt tay nghiên cứu một số thị trường khác tại khu vực Mỹ Latinh như Mêhicô, Achentina, Brazin, Chile để tìm kiếm cơ hội mới cho xuất khẩu. 2.3. Định hướng đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm: nhóm hàng nông, thủy sản; nhóm hàng chế biến; nhóm khoáng sản. Chương II hoạt động xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội – AGREXPORT I. Khái quát chung về tình hình công ty XNK nông sản thực phẩm Hà Nội Lịch sử hình thành và phát triển của công ty 1.1. Quá trình hình thành và phát triển Được thành lập năm 1963 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ mang tên tổng công ty XNK Nông sản - Thực phẩm Hà Nội và do Bộ thương mại quản lý. Công ty XNK Nông sản - Thực phẩm Hà Nội, tên giao dịch là AGREXPORT – Hà Nội có trụ sở tại số 6 Tràng Tiền. Năm 1985 công ty được chuyển sang Bộ Nông nghiệp và công nghiệp quản lý theo quyết định số 08-HĐBT ngày 14/01/1985. Đến năm 1995, công ty đổi tên thành công ty XNK Nông sản - Thực phẩm Hà Nội thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý theo quyết định số 90-TTG ngày 17/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ và công văn hướng dẫn của UBKH Nhà nước số 04/UBKH ngày 05/05/1994. Kể từ ngày thành lập đến nay công ty đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và cùng đi lên với sự phát triển của đất nước. - Từ năm 1963 đến 1975 là thời kỳ Đảng và nhà nước thực hiện hai nhiệm vụ lớn là : Xây dựng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Phương châm chính của công ty trong giai đoạn này là đẩy mạnh XK và tranh thủ NK. Về XK, công ty đã thành lập nhiều trạm thu mua từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến Nghệ An. Về NK, chủ yếu là hàng viện trợ của các nước XHCN như : lúa mỳ, bột mỳ, ngô, thịt hộp, thực phẩm khô … - Từ năm 1975 đến 1985: khi đất nước hoàn toàn Giải phóng, Nhà nước thực hiện cơ chế tập trung bao cấp. Trong thời kỳ này công ty được độc quyền trong lĩnh vực kinh doanh XNK hàng nông sản thực phẩm với các nước XHCN trên địa bàn hoạt động của công ty. Hàng XNK chủ yếu là gạo, đậu tương, lạc, rượu, bia, chè, cà phê, lương thực từ Liên Xô (cũ), đường (Cuba) và các nước Đông Âu khác. - Từ 1985 đến 1990 là thời kỳ đầu của quá trình đổi mới đất nước, niệm vụ chủ yếu của công ty là thực hiện những nghị định đã ký của nước ta với các nước XHCN. Các mặt hàng XK chủ yếu là: lạc nhân, đậu tương, dầu lạc, cà phê … và NK chủ yếu các mặt hàng phục vụ sản xuất Nông nghiệp và nhu cầu tiêu dùng xã hội. - Từ 1991 đến nay : thời kỳ đầu của giai đoạn này công ty đã gặp nhiều khó khăn do Nhà nước chuyển đổi quản lý nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong kinh doanh XNK công ty đã gặp nhiều vấn đề phức tạp và việc cân đối tài chính vẫn do nhà nước trợ giúp. Từ những năm 1994 đến nay công ty phải tự hạch toán cân đối tài chính, trả khấu hao TSCĐ, vay vốn ngân hàng, nộp các khoản phải nộp cho ngân sách Nhà nước và chăm lo đến đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty. Thực tế hoạt động kinh doanh công ty đã sớm thích nghi với cơ chế thị trường và ngày càng có uy tín trong hoạt động kinh doanh hàng nông sản thực phẩm chế biến ở trong nước cũng như trên thế giới. 1.2. Chức năng và nhiệm vụ chính của công ty XNK Nông sản – Thực phẩm Hà Nội 1.2.1. Chức năng - Tổ chức xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn hằng năm về mua bán, chế biến, vận chuyển, bảo quản XNK nông sản. - Tổ chức thực hiện kế hoạch của Nhà nước, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn giao cho cũng như đáp ứng nhu cầu của sản xuất nông nghiệp và ngành khai thác trong nước. - Cùng với các đơn vị XNK trong và ngoài ngành tổ chức nghiên cứu tìm tòi xây dựng tạo thị trường và nguồn hàng ổn định. 1.2.2. Nhiệm vụ - Tổ chức thu mua trực tiếp nông sản và một số mặt hàng khác theo yêu cầu của XK, cùng với nó là tổ chức XK những hàng hoá và sản phẩm trong kế hoạch được giao. - Tổ chức NK các loại vật tư cần thiết phục vụ cho sản xuất nông nghiệp cần thiết. - Liên doanh liên kết với các cơ sở trong nước và ngoài nước đảm bảo tự hạch toán kinh doanh, bảo toàn vốn được có lãi. - Quản lý và sử dụng tốt cơ sơ vật chất kỹ thuật phương tiện phục vụ trực tiếp cho yêu cầu kinh doanh của công ty. Tổ chức đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ trong ngành đồng thời hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thực hiện những kế hoạch về nhiệm vụ cần thiết khác. 2 . Hệ thống tổ chức 2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty Công ty XNK Nông sản - Thực phẩm Hà Nội thuộc sự quản lý của Nhà nước, hiện nay trực thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn nhưng được tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Công ty có bộ máy tổ chức được thực hiện theo cơ cấu trực tuyến chức năng, nghĩa là công ty quản lý theo chế độ một thủ trưởng và các nhân viên được nhóm vào các bộ phận phòng ban trên cơ sở thành thạo tay nghề hoặc các hoạt động giống nhau. Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy của công ty XNK AGREXPORT Giám đốc P.giám đốc chi nhánh hải phòng Các phòng ban quản lý p.tổ chức hành chính ban công nợ p.kế toán tài chính p.kế hoạch thị trường Các Đơn vị nghiệp vụ phòng xnk từ 1đ7 NM chế biến hạt điều Vĩnh hoà chi nhánh tphcm P.giám đốc NM chế biến NS – TP Bắc Giang Nguồn: Phòng tổ chức - Giám đốc: là người trực tiếp điều hành và chỉ đạo mọi hoạt động của công ty. - Phó giám đốc: giúp giám đốc quản lý, điều hành các mảng hoạt động mà giám đốc giao phó, đồng thời thay mặt giám đốc quản lý và điều hành các công việc khi được giao. - Tổ chức hành chính: tham mưu cho giám đốc để sắp xếp bộ máy về tổ chức và công tác cán bộ của công ty. Thanh tra, kiểm tra các hoạt động kinh tế của các đơn vị cơ sở, thực hiện các chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện các công tác bảo vệ nội bộ, an toàn cơ quan, khen thưởng, kỷ luật. - Kế toán tài chính : có nhiệm vụ kiểm tra, quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động quản lý, tính toán về hiệu quả kinh tế trong kinh doanh, cân đối giữa vốn và nguồn vốn … nhằm đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh và chủ động tài chính của công ty. - Kế hoạch thị trường: xây dựng các kế hoạnh ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổng hợp cấn đối toàn diện kế hoạch nhằm xác định hiệu quản kinh doanh của công ty. Điều chỉnh cân đối trong quá trình thực hiện mục tiêu, phương hướng của công ty. Ngoài ra còn làm nhiệm vụ xúc tiến, quảng cáo, đối nội, đối ngoại. Đề xuất, nghiêm cứu, kiến nghị với giám đốc những vấn đề có liên quan. - Ban công nợ: giải quyết các khoản nợ trong và ngoài nước vẫn còn tồn đọng. Ngoài ra còn phải tìm đối tác, xây dựng các đề án liên doanh. - Phòng XNK : + XNK trực tiếp các mặt hàng được nhà nước cho phép, làm đại lý tiêu thụ các mặt hàng tiêu dùng khác mà Nhà nước cho phép. + Khai thác các mặt hàng trong phạm vi cả nước, xây dựng phương án thu mua và xuất khẩu hàng hoá. + Ký kết các hợp đồng kinh tế với các tổ chức sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước trên cơ sơ giám đốc uỷ quyền. + Liên doanh, liên kết XNK với các tổ chức sản xuất trong và ngoài nước, các đơn vị có liên quan đến phương án được duyệt. + Được phép uỷ thác khi thấy cần thiết và hiệu quả. + Được phép vay vốn trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất thu mua. - Chi nhánh Hải Phòng và Hồ Chí Minh: là hai chi nhánh hoạt động độc lập nhưng vẫn chịu sự điều hành và chỉ đạo của giám đốc theo những chính sách và kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn giao cho. - Các nhà máy: chịu sự điều hành và chỉ đạo của giám đốc, nhận trách nhiệm chế biến các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu. + Nhà máy chế biến hạt điều Vĩnh Hoà thuộc chi nhánh TP.HCM. + Nhà máy chế biến nông sản - thực phẩm Bắc Giang trực thuộc công ty. 2.2. Cơ cấu lao động của Công ty Hoạt động kinh doanh XNK đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chuyên môn và nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ tốt. Nhìn bảng biểu 1 ta thấy: cán bộ công nhân viên trong công ty có tăng về số lượng và trình độ nghiệp vụ, lực lượng lao động trong công ty đang dần trẻ hoá, nam nhân viên chiếm khoảng gần 65%. Với những lô hàng xuất khẩu cán bộ nghiệp vụ phải xuống tận cơ sở sản xuất, công việc này phù hợp với nam giới hơn. Đây có thể nói là một lợi thế của công ty, lực lượng lao động trẻ dễ tiếp thu những công nghệ – kỹ thuật mới, có đầu óc năng động, sáng tạo, nhanh nhạy trong xử lý công việc, có điều kiện xuống tận cơ sở để thu mua, quản lý hay đi ký kết hợp đồng… nhìn chung cơ cấu lao động của công ty tương đối hợp lý, rất thuận tiện cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong thời gian tới. Bảng 3: Phân bố lao động của công ty AGREXPORT Đơn vị: người Chỉ tiêu phân bố lao động 1998 1999 2000 Phân bố trình độ Đại học trở lên 120 130 130 Trung cấp, cao đẳng 37 30 30 Phân theo giới tính Nam 90 100 100 Nữ 67 60 60 Phân theo độ tuổi 25-40 50 89 89 41-60 107 71 71 Tổng số 157 160 160 Nguồn: Phòng tổ chức công ty AGREXPORT Trong những năm gần đây, số lượng cán bộ công nhân viên trong công ty có tăng lên để phù hợp với sự phát triển của thị trường và tình hình tăng trưởng của công ty, tuy nhiên tỷ lệ cơ cấu phân bố lao động theo giới tính và theo độ tuổi không thay đổi nhiều, chỉ có cơ cấu trình độ ngày càng được tăng lên: số lượng cán bộ có trình độ đại học tăng lên. II. Phân tích hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu tại công ty Kết quả hoạt động xuất khẩu Bảng 4: Kết quả họat động kinh doanh của công ty Chỉ tiêu Năm 1999 (1) Năm 2000 (2) Năm 2001 (3) So sánh (2)–(1) So sánh (3)-(2) Vốn kinh doanh (1000đ) 13.100.690 13.257.699 13.310.031 157.009 52.332 Tổng XNK (USD) 15.042.325 20.003.982 24.202.372 5.181.657 3.978.390 Xuất khẩu (USD) 2.930.579 9.157.368 15.054.705 6.226.789 5.897.337 Nhập khẩu (USD) 12.111.746 11.066.614 9.147.667 -1.045.132 -1.918.947 Doanh thu (1000đ) 100.400.120 104.403.164 139.201.813 4.003.044 34.798.649 Doanh thu XK (1000đ) 20.508.865 27.202.083 42.006.562 6.693.218 14.804.079 Doanh thu NK (1000đ) 72.834.473 70.63.817 89.250.807 -2.197.656 1.861.399 Doanh thu khác (1000đ) 7.056.782 6.564.264 7.944.444 -4.925.180 1.380.180 Lãi (1000đ) 500.790 600.210 800.500 99.420 200.290 TN/người/th (triệu đồng) 0.85 1.30 1.36 0.45 0.06 Nguồn: Phòng tài chính kế toán. Như vậy qua kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 3 năm gần đây có thể thấy rằng kim ngạch xuất khẩu của công ty năm sau cao hơn so với năm trước. Hoạt động xuất khẩu có tốc độ tăng, ban đầu doanh thu của họat động nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nhưng nó lại giảm đáng kể so với những năm sau, đây là một dấu hiệu đáng mừng cho công ty nói riêng và toàn nền kinh tế Việt Nam nói chung. Quy mô kinh doanh cũng được mở rộng. Cùng với việc xuất khẩu hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn là đồng lương của cán bộ công nhân viên trong công ty dần được nâng cao, điều này góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty. Những mặt hàng đạt doanh thu cao và có khả năng tái xuất như cà phê, lạc nhân, hạt điều, hạt tiêu, hoa quả tươi,… đây là các mặt hàng chủ lực của công ty. Hoạt động xuất khẩu theo mặt hàng. Mặt hàng XK chủ yếu của công ty là: lạc nhân, hoa hồi, quế, chè đây là những mặt hàng có tỷ trọng kim ngạch tương đối cao và được XK liên tục trong nhiều năm. Ngoài ra, công ty còn XK một số hàng khác như: cà phê, ngô, đậu xanh… nhưng với số lượng ít. Bảng 5: Cơ cấu mặt hàng của công ty AGREXPORT. Mặt hàng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng (USD) Tỷ trọng (%) Tổng (USD) Tỷ trọng (%) Tổng (USD) Tỷ trọng (%) Lạc nhân 237.487,7 8,1 716.302 7,8 16.028 0,1 Cao su 510.871 17,43 802.945 8,75 656.705 4,3 Hoa hồi 264.334,3 9,2 329.098 3,6 694028 4,5 Chè 58.296,4 2,0 212.069 2,3 145.853 0,96 Quế 321.876,4 11,0 161.007,2 1,75 108.814 0,7 Hạt tiêu 46.139,5 1,6 72.200 0,76 ----- ----- Hạt điều 405.924 13,85 1.096.974 11,9 590.656 3,9 Gạo 588.690 20,0 ----- ----- ----- Nhãn 49.200 1,7 3.081.174 33,6 ----- ----- Hoa quả ----- ----- 834.065 9,2 3.541.584 23,5 Cá mực ----- ----- ----- ----- 3.651.783 23,6 Hàng khô ----- ----- ----- ----- 3.545.088 23,0 Đậu ----- ----- 170.078 1,85 26.517 0,2 ý dĩ 2993040 10,2 201.600 2,2 384.000 2,6 Các loại khác ----- 3,4 ----- 16,38 319.019 10,21 Tổng KNXK 2930579 100 9.157.368 100 15.054.705 100 Nguồn: Phòng tài chính kế toán công ty AGREXPORT Dấu -----: là công ty không thực hiện xuất khẩu. Hiện nay danh mục các mặt hàng xuất khẩu của công ty đã tăng dần theo từng năm, cụ thể là: năm 1996 có 11 mặt hàng , năm 1997 có 14 mặt hàng, năm 1998 là 16 mặt hàng và 19 mặt hàng vào năm 2000. Các mặt hàng truyền thống như: lạc, hồi, quế, chè… vẫn được duy trì đều đặn vì đây là những mặt hàng quan trọng từ gần 40 năm qua, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng năng suất lao động trong nước, tận dụng và phát huy điều kiện đất. Nguồn hàng trong nước của công ty, công ty đã sử dụng các phương thức thu mua tạo nguồn thích hợp cho mình như thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng thu mua theo hợp đồng, thu mua tạo nguồn hàng thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất, thu mua qua đại lý, mua đứt bán đoạn, các phương thức đối lưu hàng qua L/C xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị tư nhân không có khả năng XNK. 3. Thị trường XNK của AGREXPORT HN 3.1 Thị trường trong nước Kể từ khi nghị định 46/HĐBT ngày 10/06/1989 về đổi mới quản lý XNK đã mở rộng quyền chủ động của các đơn vị kinh doanh XNK. Đã có nhiều công ty tham gia vào lĩnh vực này làm cho công ty gặp nhiều trở ngại. Lúc này công ty không còn độc quyền về XNK nữa mà phải cạnh tranh với các đơn vị kinh doanh XNK như: Vinafood, Vinalimex, công ty XNK Phú Thọ… Nhưng hiện nay bộ máy hoạt động của công ty đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước. Với hai chi nhánh Hải Phòng và TP.HCM đang hoạt động có hiệu quả. Công ty đã thiết lập được nhiều quan hệ với bạn hàng trên cả nước, từ thành phố đến các tỉnh đồng bằng và vùng trung du miền núi. 3.2 Thị trường ngoài nước. Với chủ trương ngày càng mở rộng các hoạt động nghiên cứu thị trường, công ty đã từng bước mở rộng thị trường XNK và có sự chuyển hướng hoạt động sang một số thị trường lớn, đáp ứng nhu cầu XNK của công ty. Thị trường thế giới là thị trường có nhiều biến động về kinh tế, chính trị xã hội và có ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động kinh doanh. Trước đây, hoạt động XNK của công ty hầu như được ấn định sẵn. Ngày nay, thị trường lớn nhất của AGREXPORT Hà Nội là các nước Châu á- Thái Bình Dương, chủ yếu là các nước ASEAN, Đài Loan, Trung Quốc. Ngoài ra công ty còn mở rộng mối quan hệ sang một số thị trường Bắc Âu, Mỹ nhưng giá trị không lớn lắm. 4. Quy trình xuất khẩu Sơ đồ 4: Quy trình xuất khẩu. Làm thủ tục thanh toán. Giao hàng. Ký hợp đồng ngoại. Ký hợp đồng nội. Ký giấy ủy quyền. Trình duyệt phương án. Làm phương án kinh doanh. Chào hàng 4.1. Chào hàng Sau giai đoạn nghiên cứu thị trường để chuẩn bị giao dịch xuất khẩu công ty tiến hành tìm kiếm khách hàng và tiếp xúc với khách hàng bằng các biện pháp quảng cáo công ty trên mọi phương tiện. Có hai loại chào hàng: chào hàng cố định và chào hàng tự do. Vì phương thức chào hàng tự do có đặc điểm và điều kiện không bị ràng buộc nhiều như phương thức chào hàng cố định: một mặt hàng có thể chào bán cho nhiều người, không bị ràng buộc về mặt pháp lý và có thể lựa chọn những chấp nhận chào hàng nào hợp lý và thu được lợi nhuận cao nhất có thể. 4.2. Làm phương án kinh doanh Khi mà giữa công ty và đối tác đã có thỏa thuận về quá trình mua bán thì phòng kinh doanh lập ra phương án kinh doanh trình lên giám đốc, phòng kế toán, phòng kế hoạch thị trường duyệt phương án kinh doanh. 4.3. Ký giấy ủy quyền Sau khi phương án kinh doanh đã được duyệt giám đốc ký giấy ủy quyền cho trưởng phòng hoặc phó phòng quyền ký hợp đồng xuất khẩu (bao gồm hợp đồng nội và hợp đồng ngoại). Đây là khâu quan trọng trong kinh doanh vì đây là giấy chứng nhận người ký hợp đồng có đủ tư cách pháp nhân thay mặt công ty ký hợp đồng hay không và là một trong những điều kiện xem xét hợp đồng có hiệu lực hay không. 4.4. Ký hợp đồng nội Ký hợp đồng nội là việc ký hợp đồng mua hàng để tạo nguồn hàng xuất khẩu. Mục tiêu của công ty đề ra là giữ vững vị thế cạnh tranh trên thị trường đồng thời thu lợi nhuận cao. Do vậy tổ chức mua của công ty đã đặt ra mục tiêu sau: + Đảm bảo về số lượng, chất lượng của hàng mua. + Giá cả của hàng mua phải đảm bảo cho công ty thu hút được khách hàng và thu được lợi nhuận sau khi bán. + Giảm thiểu của chi phí khi thực hiện công tác mua. Ký hợp đồng nội công ty áp dụng đối với hai loại hợp đồng sau: + Hợp đồng mua bán: căn cứ vào đơn đặt hàng của khách hàng của công ty mà công ty tiến hành mua với số lượng và chất lượng được quy định trong hợp đồng. Đây là hình thức mua phổ biến và chủ yếu nhất, mua thỏa thuận được tiến hành trên cơ sở thỏa thuận nhất trí giữa đại diện công ty và các chủ hàng về phương thức giao nhận, giá cả, hình thức thanh toán… các ràng buộc cam kết trong hợp đồng mua bán với quyền lợi và trách nhịêm của hai bên. + Hợp đồng ủy thác: căn cứ vào sự ủy thác của đơn vị “chân hàng” công ty nhận sự ủy thác và tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình nhưng với chi phí của bên ủy thác. Trong trường hợp này công ty chắc chắn có hàng để giao dịch 4.5. Ký hợp đồng ngoại Ký hợp đồng ngoại là việc ký kết hợp đồng giữa công ty và một bên là đối tác nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa theo sự thỏa thuận giữa hai bên. Đối với hợp đồng ngoại công ty áp dụng đối với hai loại sau: + Hợp đồng bán thẳng: khi công ty ký được hợp đồng trực tiếp với đối tác nhập khẩu để xuất khẩu trực tiếp sang nước đối tác. Đối với hợp đồng này công ty giao dịch thẳng với đối tác nên chi phí giao dịch không mất nhiều, mặt khác công ty sẽ có nhiều lợi thế hơn và tạo ra nhiều cơ hội giao dịch với bạn hàng. + Hợp đồng ký qua trung gian: là hợp đồng được ký giữa công ty và đối tác nước ngoài và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua một người thứ ba, người thứ ba này được gọi là người trung gian. Đối với hợp đồng này ngoài chi phí cho việc giao dịch hàng hóa công ty còn phải chịu một khoản phí cho người thứ ba gọi là phí hoa hồng 4.6. Giao hàng Việc giao hàng được thực hiện theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng đã ký 4.7. Làm thủ tục thanh toán Khi đã hoàn thành việc giao hàng, công ty lập bộ chứng từ thanh toán xuất trình ngân hàng Vietcombank (ngân hàng đại diện cho công ty trong giao dịch thanh toán với đối tác nước ngoài). Tùy thuộc vào hợp đồng và phương thức thanh toán hai bên lựa chọn để lập bộ chứng từ thanh toán. Bộ chứng từ thường gồm có: B/L (Bill of lading: vận đơn đường biển). Commercial Invoice (hóa đơn thương mại). Packing list (phiếu đóng gói). C/O (certificate of origin: giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa). Certificate of quality: giấy chứng nhận chất lượng. Giấy chứng nhận côn trùng. Giấy chứng nhận kiểm dịch. Công ty thường sử dụng nhiều phương thức thanh toán tuỳ vào mối quan hệ với đối tác làm ăn. Đối với đối tác thông thường thì công ty sử dụng phương thức thanh toán bằng L/C. Đối với đối tác mới làm ăn có thể công ty sử dụng phương thức D/P (Documents against Payment: chứng từ khi trả tiền) nhận bộ chứng từ trả 100% tiền hàng. Còn khách hàng đã làm ăn lâu dài với công ty, công ty đã thực sự tin tưởng thì có thể dùng phương thức TTR (Telegraphic transfer) trả chậm có thời hạn. 5. Đánh giá 5.1 ưu điểm Công ty có bộ máy tổ chức tương đối gọn nhẹ, ít phòng ban, giám đốc trực tiếp chỉ đạo kinh doanh. Do vậy, các tình huống được xử lý nhanh đặc biệt là về thời gian. Đội ngũ cán bộ trong công ty đã biết nắm nhanh, khá chính xác tình hình hàng hóa tiêu thụ để xử lý trong kinh doanh một cách chủ động linh hoạt. Cán bộ công nhân viên có trình độ cao, hầu hết là tốt nghiệp ở các trường đại học có uy tín trong đào tạo các nhà kinh doanh. Đội ngũ cán bộ còn trẻ nhưng công ty đã bố trí hợp lý những người có nhiều kinh nghiệm với những người năng động linh họat trong kinh doanh. Công ty đã biết tích cực mở rộng thị trường xuất nhập khẩu khai thác khá triệt để khả năng sản xuất và nhập khẩu đạt hiệu quả kinh tế cao đồng thời không ngừng củng cố và tăng cường uy tín đối với khách hàng. Biết tổ chức tốt việc huy động nguồn hàng xuất khẩu đặc biệt số lượng, chất lượng, thời gian, việc tiêu thụ hàng được nhập khẩu được tổ chức rộng rãi, chủ động đạt được yêu cầu: vừa tiêu thụ nhanh, vừa đảm bảo hiệu quả cao. Biết tôn trọng mọi khả năng bằng nhiều biện pháp có kết quả, huy động tốt nguồn vốn đáp ứng kinh doanh. Từng bước hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh chặt chẽ khoa học. Có cơ sở vật chất đầy đủ để phục vụ kinh doanh: nối liền giữa các bộ phận với ban giám đốc công ty để giám đốc kịp thời đưa ra quyết định kinh doanh đúng đắn. Có hệ thống kho tàng, trạm thu mua tại những vùng trọng điểm để phục vụ công tác huy động hàng xuất khẩu, khai thác triệt để tiềm năng của một nước nông nghiệp. Vấn đề có tính chất quyết định kết quả kinh doanh đó là sự đoàn kết nhất trí của tập thể lãnh đạo, sự lao động sáng tạo nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm cao của các phòng ban và toàn thể cán bộ công nhân viên. 5.2 Tồn tại Việc huy động hàng nông sản xuất khẩu mới chỉ thực hiện ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung còn ở miền Nam chưa khai thác được nhiều, do đó số lượng hàng nông sản xuất khẩu còn thấp. Công tác mua buôn phải qua nhiều trung gian nên giá thành cao, hạn chế hiệu quả kinh doanh. Công tác bố trí, sử dụng cán bộ, việc đổi mới công tác tổ chức còn chậm, biện pháp tiến hành thiếu kiên quyết gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Chưa có sự quan tâm tới thị trường trong nước cho nên việc khai thác thị trường chưa mang lại hiệu quả cao. Công tác quản lý kinh doanh có lúc, có nơi còn mang tính bao cấp. Cho nên việc phát huy tính năng động sáng tạo trong đội ngũ công nhân viên còn hạn chế. Việc sử dụng vốn còn chưa sát sao, chưa đạt tính tối ưu vì vậy công nợ còn tồn đọng dẫn đến việc giảm hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Tuy có cơ sở vật chất đầy đủ để phục vụ kinh doanh nhưng khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì việc cập nhật thông tin mới, nhanh là công tác quan trọng tạo rất nhiều cơ hội cho công ty khi tham gia thị trường, thì việc công ty không truy cập Internet là một thiếu sót lớn. Việc truy cập Internet giúp cho công ty có thể tìm kiếm được nhiều thị trường mới, khác hàng mới có thể hợp tác tốt với công ty. Mặt khác, đây cũng là một cách công ty có thể quảng cáo nhanh, tốt về công ty với rất nhiều bạn hàng mới trên thế giới, qua đó mở rộng được thị trường xuất khẩu, tìm kiếm khách hàng đạt hiệu quả cao trong kinh doanh, thu được lợi nhuận tối ưu nhất. Công ty đã hoạt động gần 40 năm do đó có ít nhiều ảnh hưởng của cung cách làm ăn thời bao cấp trước đây, nghĩa là chờ chỉ tiêu, chỉ thị của cấp trên xuống rồi mới thực hiện, vì vậy công tác nghiên cứu thị trường còn rất nhiều yếu kém. Từ trước đến nay công ty hoạt động giống như một người trung gian giữa người sản xuất và người nhập khẩu do đó mà công ty không thể kiểm soát được mặt hàng của mình khi đã chuyển sang nước nhập khẩu, không biết nhu cầu tiêu dùng của từng nước. Điều đó cũng giải thích vì sao công ty đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu rồi mà vẫn không được người tiêu dùng biết đến. Thêm vào đó độ đa dạng chủng loại hàng hoá thấp, hàng chất lượng thấp và hàng vẫn chủ yếu xuất khẩu làm nguyên liệu sản xuất cho các nước khác. Công ty mua hàng từ các nơi khác nhau nên giá cả hay thay đổi vì thế công ty chưa thể xây dựng một chính sách giá cho các mặt hàng kinh doanh. Hiện nay giá sản phẩm xuất khẩu của công ty được xây dựng dựa trên mức giá mua trong nước cộng với chi phí phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng. Giá chào hàng hay ký kết hợp đồng lại dựa trên mức giá thị trường giao dịch quốc tế như giá ở thị trường London, New York, Sysney… Còn về các hoạt động nhằm mở rộng thị trường kinh doanh của công ty vẫn đứng ở mức chào hàng, gửi quảng cáo, chưa có điều kiện đặt văn phòng ở nước ngoài, chiến lược phát triển thị trường của công ty chưa được hình thành vì thế làm hạn chế đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. 5.3 Nguyên nhân tồn tại 5.3.1. Nguyên nhân khách quan Mặt hàng nông sản nhiều khi chịu ảnh hưởng của thiên tai nên sản lượng thất thường, nhà nước chưa có chính sách đầu tư cho khâu xuất khẩu, chưa hình thành quỹ bảo hiểm sản xuất khi mất mùa hoặc mất thị trường tiêu thụ. Sự kiện tại Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 vừa qua đã gây cản trở cho công tác xuất nhập khẩu ở các quốc gia nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Nó làm cho đồng đôla giảm xuống, các nhà xuất nhập khẩu khó đoán trước được các biến động của thị trường. 5.3.2. Nguyên nhân chủ quan Tiêu chuẩn hàng nông sản quốc gia chưa đủ tính thuyết phục đối với khách hàng nước ngoài và việc thực hiện tiêu chuẩn này chưa được kiểm tra chặt chẽ. Công ty chưa có những giải pháp cho tình huống khác nhau trong công tác mua buôn. Công ty chưa xây dựng được những phương án mua thực sự có hiệu quả. Nhân viên trong công ty làm việc nhiều khi thiếu nhiệt tình, chưa thực sự coi hiệu quả kinh doanh là yếu tố quan tâm hàng đầu để phấn đấu làm việc. Chương III giải pháp hoàn thiện công tác xuất khẩu hàng nông sản thực phẩm I. Định hướng hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian tới 1. Định hướng của Đảng, Nhà nước về khuyến khích , đẩy mạnh xuất khẩu Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nông sản trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương, đa phương như AFTA, APEC, hiệp định thương mại Việt Mỹ, tổ chức thương mại thế giới. Nhà nước có những chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Tạo thị trường ổn định cho một loại số mặt hàng nông sản thực phẩm. Tìm kiếm thị trường cho các mặt hàng xuất khẩu mới. Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như: gạo, cà phê, cao su, hàng thủy sản,… Tiếp tục thực hiện và mở rộng chế độ khen thưởng theo kim ngạch xuất khẩu vào tất cả các thị trường và cho tất cả các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đối với các mặt hàng sau: gạo, cà phê, chè, lạc nhân, thịt gia súc, gia cầm các loại, rau quả tươi, rau quả khô và sơ chế, hạt điều, hạt tiêu,… (không kể số hàng hóa được xuất khẩu theo hiệp định chính phủ để trả nợ). Thương nhân thuộc thành phần kinh tế xuất khẩu các mặt hàng khuyến khích xuất khẩu vào tất cả các thị trường, được ưu tiên vay vốn tín dụng xuất khẩu theo quyết định số 133/2001/QĐ - TTg ngày 10 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Định hướng phát triển và kinh doanh của công ty XNK Nông sản Thực phẩm Hà Nội trong thời gian tới 2.1. Nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu năm 2003 và các chỉ tiêu khác Tổng công ty giao trên cơ sở đăng ký của các công ty nhiệm vụ kinh doanh của công ty năm 2003 là: Tổng kim ngạch xuất khẩu: 24 triệu USD Trong đó: xuất khẩu là: 13 triệu USD Lợi nhuận tịnh: 700 triệu VND Nhà máy Bắc Giang đi vào hoạt động thường xuyên và có sản phẩm xuất khẩu. Xí nghiệp hạt điều tích cực bù lỗ các năm trước. Đảm bào đời sống tối thiểu cho cán bộ công nhân viên theo mức thu nhập của từng địa phương, đơn vị đã đăng ký. 2.2. Một số giải pháp cho thực hiện kế hoạch năm 2003 Đối với văn phòng công ty: Tiếp tục khai thác và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nông sản, đồ hộp, đồ khô đi Trung Quốc. (vì theo đánh giá hàng nông, lâm, hải sản, rau quả, cao su,… chưa đáp ứng đủ yêu cầu của bạn hàng). Đây là thị trường số một cho xuất khẩu, sau đó là các nước ASEAN, Nga, ấn Độ. ổn định các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu lâu nay của công ty: hồi, quế, ý dĩ, sữa, thuốc trừ sâu, thiết bị, hóa chất,… Khai thác phục hồi mặt hàng xuất khẩu như lạc, cà phê, hạt tiêu. Đưa nhà máy Bắc Giang hoạt động và khai thác có hiệu quả mọi mặt. Tìm thêm dịch vụ lớn như trả nợ, đấu thầu để tăng lợi nhuận. Bố trí, sắp xếp lại tổ chức công ty, các đơn vị, các phòng ban để hoạt động tốt hơn và phù hợp hơn. Thực hiện chế độ khoán trong kinh doanh, trong các hoạt động khác, có thưởng phạt rõ ràng. Chuyển kho Cầu Tiên thành một đơn vị kinh doanh. Đối với chi nhánh TP HCM. Tăng cường xuất khẩu hàng nông sản từ đầu vụ như: lạc, đỗ, sắn,… mà lâu nay quên. Để thực hiện tăng kim ngạch, mặt hàng đề nghị giám đốc và chi nhánh công ty nghiên cứu cho tăng thêm nhân lực để tăng kim ngạch. Xem xét nhập hai đơn vị phía nam là một xí nghiệp: xí nghiệp hạt điều và chi nhánh. Đối với nhà máy Bắc Giang. Khai thác năng lực và công suất của nhà máy và địa phương để có sản phẩm đồ hộp xuất khẩu như: dứa, vải, hàng khác như kế hoạch của nhà máy đã đăng ký. Vụ dứa và vải tới phải tổ chức và sản xuất được hàng hóa. Tổ chức và triển khai kinh doanh phụ như xuất nhập khẩu, chế biến hàng nội địa và gia công. Tổ chức vùng nguyên liệu cho nhà máy gồm cả dây chuyền 2 (dứa cô đặc) gồm cả phần tỉnh trồng và nhà máy tự quản lý từ A đến Z (100 ha). ổn định tổ chức của nhà máy từ sản xuất đến hành chính, kỹ thuật. Chi nhánh Hải Phòng. Tổ chức khai thác tốt kho tàng có sẵn, tìm đối tác để sớm tăng hiệu quả của kho tàng. Tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu và các dạng khác. Làm nghĩa vụ nộp kinh phí cho công ty. II/ Các giải pháp hoàn thiện công tác xuất khẩu 1/ Đổi mới và hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường Ngày nay thông tin đã trở thành một nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác, chúng ta muốn hiểu biết về khách hàng phải thông qua thông tin. Nhu cầu về thông tin ngày càng trở nên cấp bách do thị trường thay đổi về quy mô và phạm vi sự thay đổi về chất của nhu cầu, sự lựa chọn của khách hàng thay đổi, sự cạch tranh ngày càng đa dạng. Chính vì vậy, thu thập và xử lý thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nghiên cứu thị trường. Hiện tại công tác nghiên cứu thị trường của công ty là rất kém. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho kim ngạch xuất khẩu của công ty ngày một giảm. Khi trình độ công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì việc nghiên cứu thị trường ngày càng giảm bớt khó khăn cho người nghiên cứu, nghiên cứu thông qua thông tin có sẵn trên mạng thông tin toàn cầu Internet, qua truyền hình, sách báo, hoặc tự nghiên cứu,… Thực hiện công tác nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp đưa ra những quyết định đúng đắn góp phần vào việc nâng cao hiệu quả tránh được những tổn thất không đáng có. Hiện nay, có nhiều cách mà thông qua đó công ty có thể có được những thông tin cần thiết về thị trường. + Nguồn ghi chép nội bộ. Trước đây công ty đã bỏ qua nguồn này. Đây là nguồn cung cấp thông tin về thị trường hết sức chính xác, hơn nữa chi phí ít lại đơn giản. Tuy nhiên, nguồn này chưa cho phép công ty có cái nhìn bao quát tổng thể thị trường khu vực và thế giới. Công ty có thể thu thập thông tin từ các báo cáo về đơn đặt hàng, tình hình tiêu thụ, giá cả, mức dự trữ. + Nguồn qua sách báo, ấn phẩm: Đây là một trong những nguồn mà từ trước đến nay AGREXPORT rất hay sử dụng để thu thập thông tin. Thông qua đó những sách báo chuyên ngành, tạp chí, các báo cáo của chính phủ, của Bộ thương mại đặc biệt qua mạng Internet công ty có thể có những thông tin mới nhất hàng ngày. Công ty cũng cần tham gia hội chợ triển lãm trong nước và các nước trong khu vực nhằm giới thiệu mặt hàng kinh doanh và tìm kiếm những cơ hội kinh doanh mới cho công ty. Công ty nên đặt các văn phòng đại diện, chi nhánh của công ty ở những th nước ngoài trọng điểm. Các đại diện này ngoài việc giúp công ty trong giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng tại khu vực đó còn thu thập thông tin cho công tác nghiên cứu thị trường. Công ty nên đưa ra các phiếu điều tra với các câu hỏi nhằm xác định nhu cầu về sản phẩm của khách hàng: đặc điểm kỹ thuật, giá cả, bao bì cũng như khối lượng. Phiếu điều tra sẽ là nguồn dồi dào thông tin hữu ích. Tuy nhiên, công ty cần xem xét cẩn thận kết quả thăm dò thị trường vì việc thăm dò này không được giới hạn trong khuôn khổ những khách hàng hiện có nhằm tránh việc thu được những thông tin không chính xác. Khách hàng hiện tại và tương lai là nguồn nuôi dưỡng công ty. Tăng cường đối thoại với khách hàng. Mời họ đến trụ sở công ty để thảo luận những suy nghĩ của họ đối với sản phẩm của công ty. Mời họ tham gia vào các dự báo của công ty trong tương lai. Thường xuyên tham khảo ý kiến của họ. Làm việc cùng nhau sẽ tạo ra sự ràng buộc thương mại vững chắc hơn nhiều so với mối quan hệ buôn bán đơn thuần. Những cuộc gặp gỡ thảo luận không chính thức có thể trở thành điểm tựa quan trọng để phát triển những ý tưởng mới. Như vậy công ty sẽ luôn nắm bắt kịp thời nhu cầu của khách hàng, đảm bảo được các quyết định đưa ra sẽ được thị trường chấp nhận. Song để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả, việc thu thập thông tin chính xác tránh lãng phí, doanh nghiệp luôn xem xét mục tiêu trong khi tiến hành nghiên cứu và thu thập thông tin. 2/ Nghiên cứu phát triển thị trường Về thị trường cần có hệ thống chiến lược kế hoạch cụ thể, phải phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, lợi thế, thách thức, cơ hội mà công ty có thể xác định thị trường cũng như mặt hàng kinh doanh của công ty. Có thể dựa trên các kênh thông tin khác nhau như: Các tổ chức quốc tế ( trung tâm thương mại quốc tế –ITC… ), niên giám thống kê xuất khẩu của các nước, bản tin Reuter về các mặt hàng, thời báo kinh tế, Internet, truyền hình các nước… để thu thập, nắm bắt những nhu cầu của các thị trường khác nhau, từ đó định hướng kinh doanh cho mình. Thường xuyên cử người đi nghiên cứu, khảo sát các thị trường mục tiêu. Ngoài ra, bên cạnh những mặt hàng truyền thống, những thị trường quen thuộc công ty có thể chào bán các mặt hàng có trong danh mục hàng xuất khẩu. Một số thị trường mà công ty cần nghiên cứu và tìm hiểu để tạo cơ hội xuất khẩu cho chính công ty: Thị trường úc: Theo đánh giá của các chuyên gia xúc tiến thương mại, trong những năm tới, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường úc sẽ tiếp tục tăng. Tuy nhiên, để tăng thị phần của hàng Việt Nam trên thị trường này, bên cạnh việc nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng hàng hóa và giá cả của sản phẩm, các nhà xuất khẩu của Việt Nam cần phải nắm vững những đặc tính và tập quán tiêu thụ ở úc. Ví dụ các nhà tiêu thụ ở úc đã quen với tập quán là được giảm giá khoảng 50% so với giá thị trường. Đây thực sự là thách thức lớn nhất đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, vì hàng của Việt Nam thường đắt hơn hàng cùng loại của Trung Quốc trên thị trường úc . Mặc dù úc là một thị trường tương đối mở, có hệ thống pháp luật ổn định, nhưng các chuyên gia xúc tiến thương mại cho rằng, các nhà xuất khẩu Việt Nam tại úc cần liên hệ chặt chẽ với Thương vụ Việt Nam tại úc để nắm bắt và cập nhật thông tin về thị trường và chính sách thương mại ở nước này. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, theo các chuyên gia thương mại, các doanh nghiệp về hiệp hội doanh nghiệp cần xúc tiến mở các cơ sở giới thiệu sản phẩm của Việt Nam tại các trung tâm thương mại lớn của úc như Sydney, Melbourne,… Cũng theo sáng kiến của thương vụ Việt Nam tại úc, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể xuất khẩu hàng hóa sang úc theo hình thức hàng đổi hàng. Thị trường Hàn Quốc: Trong thời gian tới việc tiến hành phương thức bán hàng linh hoạt là hết sức cần thiết. Bởi lẽ doanh nghiệp Hàn Quốc chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ vì vậy họ thường mua những lô hàng nhỏ. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần xem xét phương thức sử dụng đại lý bán hàng là các công ty Hàn Quốc thuộc thành viên của Hiệp hội các nhà nhập khẩu. Để xuất khẩu sang thị trường này đây là phương thức phổ biến nhất vì 90% (khoảng 100 tỷ USD) kim ngạch nhập khẩu của Hàn Quốc là thông qua Hiệp hội này. Khi xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc doanh nghiệp trong nước nên sử dụng các đại lý ở đây, chứ không nên giữ thói quen mua đứt bán đoạn. Bên cạnh đó cần quan tâm đến đặc điểm tiêu dùng của người Hàn Quốc. Đối với các sản phẩm nông sản thực phẩm, công ty nên chú ý tới khẩu vị của người Hàn Quốc. Ví dụ cá khô, mực khô,… phải tẩm gia vị cay hơn thì mới cạnh tranh được với hàng Trung Quốc, Thái Lan. Việc tăng cường quảng cáo tiếp thị giới thiệu sản phẩm cũng góp phần quan trọng. Nếu công ty làm tốt công tác thông tin giới thiệu sản phẩm thì có thể tăng kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường Hàn Quốc. Tham tán thương mại Việt Nam tại Hàn Quốc cho biết các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu hàng nông sản vào Hàn Quốc phải đặt quan hệ trước với các nhà nhập khẩu cung cấp giá và mẫu hàng để tham gia đấu thầu. Nhưng trên thực tế đến nay, chỉ mới các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam tham gia đấu thầu còn các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm khác có tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa nắm được quy định trên và chưa tham gia hoạt động này. Vì vậy công ty cần chú trọng hoạt động này để tăng cường xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc Thị trường Singapore: Theo đánh giá của ông Mai Văn Dâu, thứ trưởng Bộ Thương mại, buôn bán hai chiều giữa Việt Nam – Singapore ngày càng phát triển. Đặc biệt trong những năm gần đây, Singapore cùng với Nhật Bản luôn là bạn hàng lớn nhất nhì của Việt Nam. Kim ngạch hai chiều tăng hơn 1,5 lầm từ năm 1993-1998. Riêng năm 2000, Singapore là đối tác buôn bán lớn thứ hai của Việt Nam với doanh số buôn bán hai chiều đạt 3,646 tỷ USD, tăng 47% so với năm 1999. Từ năm 2000, Singapore giảm dần nhập khẩu những mặt hàng nguyên liệu thô, sơ chế, nguồn gốc từ sản phẩm nông, lâm nghiệp, thực phẩm, bởi những mặt hàng này vừa tốn nhân lực, lại kém hiệu quả khi tái xuất khẩu. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, kim ngạch những mặt hàng trên chưa lớn lắm, nhưng hướng lâu dài sẽ trở thành nhóm mặt hàng tiềm năng có thể làm tăng kim ngạch, khối lượng xuất khẩu với mức trung bình khoảng 1 tỷ USD/năm. Bảng 6: kim ngạch xuất nhập khẩu Singapore – Việt Nam đơn vị tính: 1.000 USD Năm Nhập khẩu Xuất khẩu Xuất nhập khẩu Cân đối xuất nhập 1993 568.932 1.582.449 2.151.381 + 1.013.516 1994 687.689 2.030.304 2.717.994 +1.342.615 1995 636.098 2.537.129 3.173.228 +1.901.031 1996 614.892 2.419.717 3.034.608 +1.804.825 1997 807.279 2.473.424 3.280.703 +1.666.146 1998 709.279 2.530.990 3.240.269 +1.821.711 1999 888.038 2.532.479 3.420.517 +1.644.441 2000 1.413.215 3.610.515 5.923.729 +2.197.300 6/2001 705.683 1.920.626 2.626.309 +1.214.942 Nguồn: TDB Singapore. Trong đó tỷ trọng các mặt hàng nông sản thực phẩm chiếm 25,1% năm 1999, chiếm 11,92% năm 2000, chiếm 9,34% tính đến nửa đầu năm 2001 trong tổng số kim ngạch các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu vào Singapore. Thị trường EU: Hàng năm, nhu cầu tiêu thụ của EU đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam rất lớn, đồng thời chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam không ngừng được hoàn thiện. EU cũng là khu vực kinh tế khá ổn định cùng với việc ra đời và hoạt động của “khu vực đồng Euro”, đang tạo những thuận lợi mới cho thương mại của Việt Nam. Tiến trình tự do thương mại đã được tăng tốc bởi vòng đàm phán Uruguay, điều này có nghĩa rằng các hàng rào phi thuế quan như Quota sẽ được bãi bỏ và những hàng rào thuế quan cũng sẽ dần bị cắt giảm. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các nhà xuất khẩu có thể dễ dàng tiếp cận vào thị trường EU. Việc tiếp cận thị trường EU trở nên khó khăn hơn nhiều do việc tăng nhanh những quy định và các yêu cầu thị trường trong các khía cạnh về an toàn, sức khoẻ, chất lượng và các vấn đề môi trường và xã hội. Hiện EU đang tạo ra các tiêu chuẩn thống nhất và điều hoà cho toàn EU đối với các lãnh vực sản phẩm chính nhằm thay thế hàng ngàn các tiêu chuẩn quốc gia khác nhau. Tiêu chuẩn hoá không chỉ trong lĩnh vực sức khoẻ, an toàn mà còn trong lĩnh vực quản lý chất lượng, sản xuất mang tính môi trường, trách nhiệm xã hội. Đối với xuất khẩu hàng thuỷ hải sản, các doanh nghiệp phải chú ‎ý tới hai điều kiện là: HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point: tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp thực phẩm) là điều kiện hàng đầu khi xuất khẩu vào thị trường EU. Một tiêu chuẩn mang tính bắt buộc trong chỉ thị EU về Vệ sinh cho thực phẩm (93/43/EC)có hiệu lực từ 1/1/1996 Nhãn hiệu môi trường đối với hàng thuỷ hải sản: MSC. Doanh nghiệp khi định hướng xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Eu phải làm việc trên một hệ thống HACCP. Thị trường Hoa Kỳ: Hoa Kỳ là 1 nền kinh tế mạnh, đa dạng và có kỹ thuật tiên tiến bậc nhất trên thế giới, với tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người là 30.200 USD, là một trong số các quốc gia công nghiệp lớn nhất. Với nền kinh tế định hướng thị trường, các công ty kinh doanh và các công ty tư nhân đóng vai trò quyết định, chính phủ là một khách hàng mua vượt trội những hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu tại thị trường tư nhân. Do nền kinh tế liên tục phát triển trong vòng 3 năm vừa qua, tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu của hàng hải sản Hoa Kỳ tăng lên rõ rệt. Các sản phẩm tăng nhanh bao gồm: tôm, cá ngừ đông, cá fillet, tilapia, mực/mực ống và cá ngừ đóng hộp. Các doanh nghiệp Việt Nam cần biết khi nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ sản phẩm phải đảm bảo như là các sản phẩm trong nội địa. Các sản phẩm nhập khẩu và tinh khiết, không có độc tố và an toàn trong sử dụng và được sản xuất trong một điều kiện vệ sinh; các thiết bị bức xạ phải đảm bảo các tiêu chuẩn và nhãn trên tất cả các sản phẩm phải cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng. Hệ thống HACCP không thể thay thế tất cả các yêu cầu của FDA đó là một yêu cầu rất quan trọng trong an toàn thực phẩm. Các nguyên tắc này nhằm ngăn chặn những khả năng nhiễm bẩn của thực phẩm theo những thói quen không vệ sinh. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký tạo điều kiện cho buôn bán song phương tăng đáng kể. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước, dỡ bỏ phần lớn rào cản tồn tại nhiều năm qua. Thời gian tới, ngoài việc tăng cường xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh, bên cạnh đó công ty cần tạo cho sản phẩm của mình một tên gọi riêng để người tiêu dùng Mỹ quen dần. Tuy nhiên. cần thấy trước những khó khăn ở thị trường này là ta chưa quen về luật lệ, thị hiếu, kênh phân phối,… lại vấp phải những biện pháp bảo hộ vô hình và hữu hình cùng với sự cạnh trnh mạnh mẽ của các đối thủ khác. Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào tháng 9 năm 1973 và vào tháng 7 năm 1976 bắt đầu quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam thống nhất đặt nền tàng cho sự phát triển quan hệ giữa hai nước. Với dân số 127 triệu người (tháng 1/2001), GDP đạt xấp xỉ 4.417.060 triệu USD vào năm 2000, Nhật Bản là thị trường tiêu thụ hàng hoá lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ, đồng thời cũng là nước nhập khẩu lớn với kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 300-400 tỷ USD. Quan hệ thương mại Việt-Nhật đã có những bước phát triển tốt đẹp trong thời kỳ 1991-2001. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản hầu như tăng đều qua các năm. Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản của Việt Nam 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Kim ngạch (triệu USD) 719 831 937 1.179 1.461 1.546 1.675,4 1.514,5 1.786,3 2.621,7 Tỉ trọng (%) 34,5 32,3 31,4 30,3 26,8 21,3 18,2 16,2 13,1 18,3 Tăng trưởng (%) 15,9 12,4 25,9 23,9 5,8 8,4 -9,6 17,9 46,8 Nguồn: niên giám thống kê 2000. Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm nhưng cho tới nay Việt Nam vẫn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100748.doc