Đề tài Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Lời nói đầu Con người là nguồn tài nguyên quan trọng nhất quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khoẻ là vốn quý giá nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, đây cũng là một trong những niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi người, mỗi gia đình. Vì vậy, đầu tư cho sức khoẻ mọi người đều được chăm sóc sức khoẻ chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, của mỗi gia đình. Đất nước ta qua hơn 13 năm chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân đã dần được cải thiện. Do vậy nhu cầu cần được chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày một cao. Nhận thức được vai trò của con người trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết Trung Ương IV đã nêu rõ:"Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng và...

doc94 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Con người là nguồn tài nguyên quan trọng nhất quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khoẻ là vốn quý giá nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, đây cũng là một trong những niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi người, mỗi gia đình. Vì vậy, đầu tư cho sức khoẻ mọi người đều được chăm sóc sức khoẻ chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, của mỗi gia đình. Đất nước ta qua hơn 13 năm chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân đã dần được cải thiện. Do vậy nhu cầu cần được chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày một cao. Nhận thức được vai trò của con người trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết Trung Ương IV đã nêu rõ:"Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp Đảng uỷ và chính quyền, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành Y tế giữ vai trò nòng cốt". Chính phủ đã có nghị quyết 37/CP ngày 20/06/1996 và định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân với nòng cốt là ngành Y tế. Và hệ thống y tế địa phương đã có sự thay đổi theo nghị định 01/1998 NĐ-CP của Chính phủ để phù hợp với điều kiện mới. Trong khi Quyết định số 07UB/TĐTL ngày 23/1/1975 của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước hướng dẫn cơ cấu tổ chức biên chế cán bộ của các cơ sở y tế địa phương ra đời đã hơn 20 năm đến nay có nhiều điểm không còn phù hợp nữa. Hơn nữa, sự phát triển của kinh tế xã hội những năm qua đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái làm cho bệnh tật trong nhân dân ngày một gia tăng, do vậy nhiệm vụ của ngành Y tế càng nặng nề thêm. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung và khoa học kỹ thuật y nói riêng đòi hỏi phải có sự sắp xếp lại đội ngũ cán bộ y tế hợp lý đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài. Trước tình hình đó, yêu cầu sắp xếp lại cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế trong các cơ sở y tế hiện nay là hết sức cần thiết, nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Sau một thời gian học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân và qua thời gian khảo sát thực trạng cơ cấu cán bộ y tế tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu em đã chọn đề tài "Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu" làm luận văn tốt nghiệp của mình. Vì còn hạn chế về mặt thời gian, trình độ và kiến thức của bản thân nói chung và kiến thức ngành Y tế nói riêng nên những vấn đề đề cập đến trong bài viết này không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô và cán bộ trong ngành Y tế. Phần thứ nhất Những vấn đề cơ bản về tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu lao động trong tổ chức I/ Những vấn đề lý luận chung 1. Khái niệm về tổ chức 1.1. Định nghĩa Theo Chester I. Barnard thì tổ chức là một hệ thống những hoạt động hay nỗ lực của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý thức. Nói cách khác, khi người ta cùng nhau hợp tác và thoả thuận một cách chính thức để phối hợp những nỗ lực của họ nhằm hoàn thành những mục tiêu chung thì một tổ chức sẽ được hình thành. Trong tổ chức con người cùng làm việc và hợp tác với nhau trong mối quan hệ tương tác qua lại, do vậy mà sự hình thành tổ chức không phụ thuộc vào số lượng các thành viên. 1.2. Những đặc điểm chung của các tổ chức Các tổ chức cho dù ở cỡ nào cũng có các quy tắc, chính sách và thủ tục nhất định. Chúng được sử dụng để xác định các mục tiêu cho các thành viên, để vạch ra phương pháp tốt nhất cho thực hiện một nhiệm vụ nào đó, để chỉ ra khía cạnh nào của một công việc là quan trọng nhất, và để đưa ra cách đánh giá cá nhân. Theo nhà tâm lý học tổ chức Edgars thì có 4 đặc điểm chung đối với tất cả các tổ chức: Một là, kết hợp các nỗ lực của các thành viên. Như chúng ta thường thấy, khi các cá nhân cùng nhau tham gia và phối hợp những nỗ lực vật chất hay trí tuệ của họ thì nhiều công việc phức tạp và vĩ đại có thể hoàn thành. Sự kết hợp nỗ lực nhân lên sự đóng góp của các cá nhân. Hai là, có mục đích chung. Sự kết hợp nỗ lực không thể thực hiện được, nếu những thành viên tham gia không nhất trí cùng nhau phấn đấu cho những quyền lợi chung nào đó. Một mục tiêu chung đem lại cho các thành viên của tổ chức một tiêu điểm để tập hợp nhau lại. Ba là, sự phân công lao động. Bằng cách phân chia một cách hệ thống các nhiệm vụ phức tạp thành những công việc cụ thể, một tổ chức có thể sử dụng nguồn nhân lực của nó một cách hiệu quả. Phân công lao động tạo điều kiện cho mỗi thành viên của tổ chức trở lên tài giỏi hơn do chuyên sâu vào một công việc cụ thể. Bốn là, hệ thống thứ bậc quyền lực. Theo lý thuyết tổ chức truyền thống nếu bất cứ công việc gì được hoàn thành thông qua những nỗ lực chung chính thức thì một người nào đó nên được giao quyền nhằm bảo đảm cho các mục tiêu đã đề ra được thực hiện một cách hiệu quả. Các nhà lý thuyết tổ chức định nghĩa quyền lực là quyền điều khiển hành động của những người khác. Nếu không có một hệ thống thứ bậc quyền lực rõ ràng thì sự phối hợp những cố gắng của thành viên sẽ rất khó khăn. Một trong những biểu hiện của hệ thứ bậc là hệ thống ra mệnh lệnh và sự phục tùng. Qua những đặc điểm trên ta có thể xác lập sự hiện diện của một tổ chức. 1.3 Phân loại tổ chức Các tổ chức được thành lập nhằm theo đuổi những mục tiêu nào đó và có thể phân loại các tổ chức theo mục đích của chúng. Cách phân loại này cho phép giải thích vai trò của mỗi loại tổ chức mà chúng đảm nhiệm trong xã hội. 1.3.1. Các tổ chức kinh doanh mưu lợi Các tổ chức kinh doanh mưu lợi là những tổ chức hoạt động với mục đích tạo ra lợi nhuận trong điều kiện pháp luật cho phép và xã hội có thể chấp nhận được. Loại tổ chức này không thể tồn tại được nếu không tạo ra lợi nhuận thông qua con đường sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ thoả mãn nhu cầu xã hội. 1.3.2. Các tổ chức cung cấp dịch vụ phi lợi nhuận. Những tổ chức loại này thường cung cấp một số loại dịch vụ nào đó, cho một khu vực nào đó của xã hội không vì mục đích tìm lợi nhuận. Các nguồn ngân quỹ phục vụ cho hoạt động của loại tổ chức này chủ yếu dựa vào sự biếu tặng, trợ cấp, hay tài trợ mang tính từ thiện hay nhân đạo... Các tổ chức loại này bao gồm các trường học, bệnh viện miễn phí.v.v. 1.3.3. Các tổ chức hoạt động vì quyền lợi chung của tập thể Những tổ chức loại này được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các thành viên của nó. Để tồn tại, những tổ chức loại này cũng phải hoạt động một cách hiệu qủa và hữu hiệu. Những tổ chức loại này bao gồm các nghiệp đoàn, các tổ chức chính trị, các hiệp hội, hội đoàn .v.v. 1.3.4. Các tổ chức cung ứng các dịch vụ công cộng Những tổ chức loại này được thành lập nhằm cung cấp cho xã hội những dịch vụ công cộng. Mục tiêu chung của chúng là đảm bảo sự an toàn hay lợi ích chung cho toàn xã hội. Chẳng hạn, những tổ chức loại này bao gồm các đơn vị quân đội, cảnh sát, các đơn vị thuộc ngành bưu chính viễn thông... Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả các đơn vị y tế thuộc ngành Y tế đều do Nhà nước quản lý. Do vậy mà mục đích phục vụ , chăm sóc sức khoẻ nhân dân là mục đích chủ yếu. Do đó các đơn vị y tế Nhà nước đều thuộc loại "tổ chức cung cấp dịch vụ phi lợi nhuận và dịch vụ công cộng". 2. Cơ cấu tổ chức của một đơn vị 2.1. Khái niệm Cơ cấu tổ chức bộ máy của một đơn vị (cơ cấu tổ chức quản trị) là tổng hợp các bộ phận ( đơn vị và cá nhân) khác nhau, có mối quan hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá và có những trách nhiệm , quyền hạn nhất định, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng quản trị và phục vụ mục đích chung đã xác định của đơn vị. Cơ cấu tổ chức cho phép chúng ta tổ chức và xử dụng hợp lý các nguồn lực - phân bổ nguồn nhân lực và các nguồn lực khác cho từng bộ phận và công việc cụ thể. Nó cũng cho phép chúng ta xác định rõ mối tương quan giữa các hoạt động cụ thể và trách nhiệm quyền hạn gắn liền với mỗi cá nhân, phân hệ của cơ cấu - xác định rõ trách nhiệm và cách thức thể hiện vai trò của mỗi thành viên theo quy chế của bản mô tả công việc, sơ đồ tổ chức và hệ thống phân cấp quyền hạn trong tổ chức. Nó trợ giúp cho việc ra quyết định bởi các luồng thông tin rõ ràng. Nó trợ giúp cho việc ra quyết định bởi các luồng thông tin rõ ràng. Nó giúp xác định cơ cấu quyền lực cho tổ chức. 2.2. Những thành phần cơ bản của cơ cấu tổ chức Cơ cấu của một tổ chức gồm có 4 yếu tố cơ bản: 2.2.1. Chuyên môn hoá Chuyên môn hoá là quá trình nhận diện những công việc cụ thể và phân công các cá nhân hay nhóm làm việc đã được huấn luyện thích hợp đảm nhiệm chúng. Do đó trong tổ chức, một cá nhân hay nhóm làm việc có thể chuyên sâu vào một công việc hay công đoạn nào đó trong quá trình sản xuất. 2.2.2. Tiêu chuẩn hoá Tiêu chuẩn hoá là quá trình phát triển các thủ tục của tổ chức mà theo đó các nhân viên có thể hoàn thành công việc của họ theo một cách thức thống nhất và thích hợp. Quy trình nàY tác động vào mỗi nhân viên như một cơ chế mà các công việc không được tiêu chuẩn hoá thì tổ chức không thể đạt được các mục tiêu của nó. Các tiêu chuẩn cho phép các nhà quản trị đo lường các thành tích của nhân viên. Đồng thời cùng với bản mô tả công việc, các tiêu chuẩn công việc là cơ sở để tuyển chọn nhân viên cho tổ chức. 2.2.3. Sự phối hợp Phối hợp là những thủ tục chính thức và phi chính thức để liên kết các hoạt động do các nhóm riêng rẽ trong tổ chức đảm nhiệm. Trong các tổ chức quan liêu, các quy định, quy chế của nó đã đủ để liên kết những hoạt động này. Còn trong những tổ chức có cấu trúc lỏng lẻo đòi hỏi có sự phối hợp một cách linh hoạt trong việc giải quyết những vấn đề của toàn đơn vị, đòi hỏi sự sẵn lòng chia xẻ trách nhiệm và sự truyền thống một cách hiệu quả giữa các thành viên của tổ chức. 2.2.4. Quyền lực Quyền lực là quyền ra quyết định và điều khiển hoạt động của người khác. Mỗi tổ chức thường có những cách thức phân bố quyền lực khác nhau. Trong những tổ chức phi tập trung, một số quyền ra quyết định được uỷ quyền cho cấp dưới và ngược lại, trong các tổ tập quyền thì quyền ra quyết định được tập trung vào các nhà quản trị cao cấp. Ngày nay các tổ chức thường kết hợp hai khuynh hướng này bằng cách tập trung một số chức năng nào đó, đồng thời cũng tiến hành phân tán một số chức năng khác. 2.3. Các loại cơ cấu tổ chức Như chúng ta đã thấy rằng sự chuyên môn hoá xảy ra thông qua sự phân công lao động. Nhờ sự phân công lao động mà quá trình sản xuất, dịch vụ trở nên ít phức tạp hơn và có thể phân biệt dễ dàng hơn. Nhưng quá trình này có khuynh hướng phân nhỏ nên xuất hiện nhu cầu phối hợp các bộ phận của tổ chức với nhau. Khuynh hướng kết hợp phổ biến nhất là sự cơ cấu hoá những công việc, những hoạt động có liên quan mật thiết với nhau thành các bộ phận, đơn vị trong tổ chức. Có 4 hình thức cơ cấu hoá cơ bản các hoạt động của tổ chức là: - Cơ cấu theo chức năng - Cơ cấu theo sản phẩm, dịch vụ - Cơ cấu theo phạm vi địa lý - Cơ cấu ma trận 2.3.1. Cơ cấu theo chức năng Các chức năng là các phần việc được tiến hành trong một tổ chức như chức năng tài chính, chức năng tổ chức, chức năng kế hoạch, chức năng , sản xuất. Cơ cấu chức năng phân công các thành viên theo những lĩnh vực chuyên môn mà họ tinh thông, cùng những nguồn lực giúp họ hoàn thành các công việc của tổ chức. Các bộ phận chức năng được phân chia tuỳ theo tính chất của từng tổ chức. Chẳng hạn các bộ phận chức năng trong một bệnh viện thì được phân chia khác hẳn so với một doanh nghiệp sản xuất vật chất. Lãnh đạo Bộ phận chức năng I Bộ phận chức năng II 3 4 2 1 Sơ đồ 1: cơ cấu tổ chức theo chức năng 1,2,3,4 là các bộ phận thực hiện theo chức năng nhỏ hơn. * Những ưu, nhược điểm của cơ cấu theo chức năng . ưu điểm: - Cơ cấu phân chia các nhiệm vụ rất rõ ràng thích hợp với những lĩnh vực cá nhân được đào tạo. - Tập trung quyền lực và quyền ra quyết định vào các quản trị gia cao cấp. Việc ra các quyết định thuộc về các nhà quản trị đứng đầu các bộ phận và cấp trên của họ. Do đó họ có thể ra quyết định một cách nhanh chóng và kịp thời. - Cơ cấu chức năng cho phép tổ chức tiết kiệm chi phí bởi nó là một cấu trúc đơn giản, mặt khác các thành viên của tổ chức có cơ hội nâng cao kỹ năng tay nghề trong lĩnh vực chuyên môn của họ và gia tăng hiệu quả hoạt động thông qua sự phối hợp với các đồng nghiệp trong cùng một bộ phận. - Cơ cấu cung cấp một nền đào tạo tốt cho các nhà phụ trách mới chuyển dịch từ cái họ học vào hành động của tổ chức. Nhược điểm: - Cơ cấu có thể thúc đẩy sự đào tạo hẹp cho các cá nhân và dẫn tới các công việc nhàm chán và một tuyến. - Khi tổ chức phát triển với quy mô lớn thì việc ra quyết định trở nên khó khăn, phức tạp hơn, bởi quá trình này phải qua nhiều tầng nấc, nhất là khi có sự mâu thuẫn giữa các bộ phận thì quá trình này càng phức tạp tốn kém thời gian hơn. - Các nhà quản trị gia có thể mất khá nhiều thời gian, sức lực để phối hợp các hoạt động của các thành viên thuộc những bộ phận khác nhau. Đồng thời các nhà quản trị và nhân viên của mỗi bộ phận thường chú trọng vào những mục tiêu của bộ phận mà họ đang làm hơn là mục tiêu chung của tổ chức . Do đó lãnh đạo chỉ lo lắng cho bộ phận mà họ phụ trách nên rất khó đồng tình với quan điểm của các nhà quản trị khác. Trong khi đó, do trung thành với bộ phận của họ nên các nhân viên cũng rất khó hợp tác với nhân viên ở bộ phận khác. 2.3.2. Cơ cấu theo khu vực địa lý Cơ cấu chức năng theo khu vực địa lý thường được các đơn vị lớn áp dụng, hoạt động kinh doanh dịch vụ trong nhiều vùng địa lý khác nhau. Tại mỗi khu vực địa lý có một đơn vị nhỏ, người lãnh đạo đơn vị nhỏ được giao quyền đảm nhiệm thực hiện tất cả các chức năng như đơn vị lớn nhưng với quy mô nhỏ hơn. Mỗi đơn vị của tổ chức hoạt động tại một khu vực địa lý có thể trực tiếp theo sát mọi biến động và đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu của khách hàng. Về mặt sản xuất, nhà máy đặt tại các khu vực gần nơi cung cấp nguyên liệu do đó có thể tiết kiệm được chi phí do giá cả nguyên liệu, chi phí vận chuyển và sử dụng được lao động tại chỗ. Đồng thời các dịch vụ khách hàng, dịch vụ hậu mãi được tiến hành phù hợp với khách hàng sở tại. Cơ cấu theo khu vực địa lý thường được áp dụng trong việc tổ chức bộ máy chính quyền ở các nước, áp dụng đối với các công ty lớn, các tập đoàn, các ngành kinh tế - xã hội. Văn phòng trung tâm 1 3 4 2 Sơ đồ 2: cơ cấu theo khu vực địa lý. 1, 2, 3, 4, là các khu vực địa lý khác nhau * Ưu nhược điểm của cơ cấu theo cùng địa lý. ưu điểm: - Cơ cấu theo khu vực địa lý cho phép nắm bắt được mọi biến động một cách nhanh nhất để có quyết định hợp thời đáp ứng được nhu cầu của từng khu vực. - Tại các vùng thường có nguồn nguyên liệu và nhân lực dồi dào có thể sử dụng tại chỗ vừa tiết kiệm được chi phí, vừa hạn chế được việc điều động nhân lực. - Các nhà quản trị có thể phát triển các kỹ năng, chuyên môn, kỹ thuật để giải quyết các vấn đề chuyên môn phù hợp với thực tế. Nhược điểm: - Tất cả các bộ phận chức năng đều được thiết lập tại mỗi văn phòng khu vực do đó cơ cấu tổ chức bộ máy khá cồng kềnh . - Rất dễ xảy ra những xung đột giữa các mục tiêu của mỗi văn phòng khu vực với các mục tiêu chung của tổ chức. - Tổ chức phải đề ra nhiều quy chế và quy định để phối hợp và đảm bảo sự thống nhất giữa các bộ phận khu vực. - Cơ cấu này không khuyến khích các nhân viên phát triển những kiến thức giải quyết những vấn đề tại các khu vực khác. 2.3.3. Cơ cấu tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ Lãnh đạo sản phẩm dịch vụ X sản phẩm dịch vụ Y 2 3 1 2 3 1 Sơ đồ 3: cơ cấu theo sản phẩm hay dịch vụ 1, 2, 3, là các bộ phận chức năng. Cơ cấu tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ phân chia tổ chức thành những đơn vị chuyên trách thiết kế, sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Cơ cấu theo mô hình này tỏ ra rất phù hợp với các đơn vị, tổ chức có quy mô lớn. Trong mỗi đơn vị được tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ đều phải hiện diện đầy đủ các bộ phận chức năng phục vụ cho hoạt động của đơn vị đó. * ưu, nhược điểm của cơ cấu theo sản phẩm hay dịch vụ ưu điểm: - Gia tăng sự chuyên môn hoá bởi cơ cấu này cho phép các nhà quản trị và nhân viên trong từng bộ phận tập trung vào tuyến sản phẩm hay dịch vụ mà họ đảm nhận. - Cho phép xác định một cách khá chính xác các yếu tố; chi phí, lợi nhuận, những vấn đề cần giải quyết và khả năng thành công trong mỗi tuyến sản phẩm, hay dịch vụ. - Cho phép mỗi bộ phận có thể phát huy tối đa khả năng cạnh tranh hay lợi thế chiến lược của mỗi sản phẩm hay dịch vụ. - Do chú trọng vào một vài sản phẩm hay dịch vụ nên các nhà quản trị có thể duy trì tính linh hoạt, phản ứng kịp thời với những thay đổi về nhu cầu tiêu dùng và sự thay đổi của môi trường. Nhược điểm: - Sử dụng không hiệu quả các nguồn lực của tổ chức, bởi phải thường tổ chức ra tất cả các bộ phận chức năng cho mỗi tuyến sản phẩm hay dịch vụ. Nếu sản phẩm hay dịch vụ có tính mùa vụ cao thì có thể gây lãng phí về nhân công. - Rất khó phối hợp hoạt động giữa các bộ phận sản phẩm bởi nhân viên thường chú trọng vào sản phẩm hay dịch vụ của họ hơn là các mục tiêu của toàn tổ chức. Tình trạng này làm giảm khả năng cạnh tranh chung của tổ chức bởi rất khó khăn. Khi điều động các nguồn lực từ sản phẩm hay dịch vụ mạnh chi viện tăng cường cho sản phẩm hay dịch vụ yếu. - Cơ cấu tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ làm giảm sự điều động nhân sự trong nội bộ. Bởi nhân viên tập trung vào một sản phẩm hay dịch vụ nên họ chú trọng phát triển những kỹ năng cần thiết cho loại sản phẩm hay dịch vụ đó. Sự chuyên môn hoá đó không cho phép họ có thể thuyên chuyển sang các chức vụ thuộc các sản phẩm khác. - Có thể lãnh đạo cấp cao đặt ra những tiêu chuẩn chung cho tất cả các tuyến sản phẩm hay dịch vụ của cả tổ chức mà không quan tâm đến những đặc điểm của các đơn vị khác nhau. Trong ngành Y tế nước ta thường áp dụng cơ cấu này đối với việc quản lý các bệnh viện chuyên khoa. 2.3.4. Cơ cấu tổ chức ma trận Cơ cấu tổ chức ma trận là loại cơ cấu tổ chức dựa trên những hệ thống quyền lực và hỗ trợ nhiều chiều. Cơ cấu này tạo ra một bộ phận chịu trách nhiệm phối hợp các hoạt động của các bộ phận khác và phân chia quyền lực với tất cả các lãnh đạo các bộ phận theo chức năng và lãnh đạo các bộ phận theo sản phẩm hay dịch vụ. Trong một cơ cấu ma trận có hai tuyến quyền lực, tuyến chức năng hoạt động theo chiều dọc và tuyến sản phẩm hay dịch vụ hoạt động theo chiều ngang. Bởi vậy một cơ cấu ma trận tồn tại ba tập hợp các mối quan hệ đơn tuyến. - Các mối quan hệ giữa lãnh đạo bộ phận chịu trách nhiệm phối hợp là người đứng đầu và cân bằng hai tuyến quyền lực với các lãnh đạo bộ phận theo chức năng và lãnh đạo bộ phận theo sản phẩm hay dịch vụ. - Các mối quan hệ giữa lãnh đạo bộ phận chức năng và lãnh đạo bộ phận theo sản phẩm hay dịch vụ. - Các mối quan hệ giữa các cấp dưới ở các bộ phận. Cơ cấu mà trên được sáng tạo ra nhằm tận dụng những lợi điểm của cả mô hình cơ cấu tổ chức theo chức năng và mô hình tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ, đồng thời tối thiểu hoá những bất lợi của chúng. Cơ cấu này phá vỡ những rào cản bằng cách cho phép các nhân viên từ các bộ phận chức năng khác nhau đóng góp những kỹ năng của họ trong việc giải quyết những vấn đề chung của tổ chức. Do đó, làm tăng khả năng sử dụng các nguồn lực nhằm thích nghi với sự tác động của môi trường. Đây là một cơ cấu tổ chức khá phức tạp đòi hỏi sự phối hợp giữa các thành viên ở các bộ phận là rất cao. Lãnh đạo Lãnh đạo chức năng 3 Lãnh đạo chức năng 2 Lãnh đạo chức năng 1 Lãnh đạo bộ phận phối hợp 1 2 Sơ đồ 4: Cơ cấu tổ chức ma trận. 1.2. Là phụ trách các dự án hoặc sản phẩm hay dịch vụ * Những ưu, điểm và nhược điểm của cơ cấu tổ chức ma trận. Ưu điểm: - Kết hợp sức mạnh và hạn chế yếu điểm của cơ cấu chức năng và cơ cấu theo sản phẩm hay dịch vụ. Đồng thời các nhà quản trị có thể rút ra được nhiều kỹ năng chuyên môn từ nhiều lĩnh vực khác nhau và do đó, họ có thể giải quyết những vấn đề phức tạp với hiệu quả tối đa. - Thúc đẩy sự hợp tác giữa các bộ phận trong tổ chức. Do đó có thể điều động nhân sự giữa các bộ phận một cách dễ dàng. Nhược điểm: - Quyền lực và trách nhiệm của các nhà lãnh đạo các bộ phận có thể trùng nhau tạo ra các xung đột và khoảng cách trong nỗ lực giữa các đơn vị và sự không nhất quán. - Đây là một cơ cấu rất cồng kềnh, do vậy không kinh tế. Hơn nữa, nhiều khi không còn sự thống nhất mệnh lệnh của lãnh đạo các bộ phận. Làm cho nhiều khi nhân viên khó xử. 3. Sự phối hợp các bộ phận trong tổ chức 3.1. Khái niệm Sự thiết lập cơ cấu đã phân chia công việc của tổ chức, cho phép chuyên môn hoá và tiêu chuẩn hoá các hoạt động. Tuy nhiên, đã đạt được những mục tiêu chung của tổ chức các nhà quản trị cũng cần phối hợp hoạt động của các thành viên, các dự án và công việc trong tổ chức. Phối hợp là một tập hợp các cơ chế mà tổ chức sử dụng để liên kết những hành động của các bộ phận thành một khối thống nhất để hoàn thành những mục tiêu chung. Nếu không có sự phối hợp sẽ dẫn tới sự lãng phí, trì trệ và vô hiệu hoá những có gắng của mọi người. Do đó, phối hợp là một trong những yếu tố cơ bản trong cấu trúc của tổ chức, và nó là một quá trình năng động và liên tục. 3.2.Mục đích của sự phối hợp Phối hợp nhằm mục đích xây dựng những luồng thông tin hàng ngang và hàng dọc sao cho không bị tắc nghẽn (thông tin giữa các bộ phận, phòng ban, thông tin giữa các cấp quản trị thông tin chỉ đạo và thông tin phản hồi), thống nhất mọi hoạt động của các bộ phận xây dựng mối quan hệ công tác giữa các bộ phận của tổ chức và trong mỗi bộ phận riêng lẻ, duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa tổ chức với các cơ sở bên ngoài có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp và liên hệ với các cơ quan quản lý vĩ mô, với các cơ quan lập pháp, lập quy. 3.3. Các phương pháp phối hợp Để phối hợp cá bộ phận của cơ cấu tổ chức người ta thường sử dụng một số phương pháp hình thức và phi hình thức. Các phương pháp hình thức nhấn mạnh khía cạnh chính thức hoá và tiêu chuẩn hoá. Trong một số trường hợp, chỉ có ít khả năng cho đối thoại và thảo luận giữa nhân viên và nhà quản lý. Nói chung các tổ chức nhấn mạnh vào các phương pháp hình thức thường trở nên kém linh động. Ngược lại, các phương pháp phối hợp phi hình thức như là các giá trị chung, thông tin không chính thức và bàn bạc trong hội đồng, mở ra khả năng sáng tạo cao hơn cho con người của tổ chức. Điều then chốt ở đây là nhân viên và các nhà quản lý có cơ hội trao đổi ý kiến và tranh luận cùng nhau. Những phương pháp phi hình thức cho phép tổ chức xác định được những nhu cầu đặc biệt quan trọng của các bộ phận và cá nhân khác nhau trong tổ chức. Các phương pháp phi hình thức được chú trọng nhiều hơn khi những cá nhân của các phòng ban khác nhau trong tổ chức cần phải phối hợp chặt chẽ để điều chỉnh hoạt động giữa họ với nhau. 3.3.1. Các phương pháp phi hình thức Các giá trị chung: chúng được xây dựng trong quản lý qua sự tuyển chọn chuyên môn hoá, đào tạo và sự tăng cường. Như một tổ chức xác định cách thức ăn mặc hoặc triết lý kinh doanh riêng. Hệ thống thông tin chính thức: mặc dù có được rất nhanh nhưng những thông tin này thường không chính xác và cần được bổ sung bằng các phương tiện chính thức hơn. Hội đồng : hội đồng cho phép sự tham gia và tranh luận qua lại giữa các bộ phận. Hội đồng rất tốt cho sự đồng bộ liên lạc qua lại cho phép có được thông tin có chất lượng cao và đặc biệt bổ ích khi các nhà quản lý phải phối hợp hành động. Sự bắt buộc của công việc: các cá nhân từ các bộ phận khác nhau của tổ chức cùng nhau xác định và giải quyết vấn đề liên quan giữa các phòng ban. 3.3.2. Các phương pháp hình thức Những quy tắc, chính sách và thủ tục: chúng bao gồm cả khung tiến độ ngân sách và kế hoạch. Những bộ phận được chuyên môn hoá: những bộ phận này được sử dụng để phối hợp các chức năng trong cơ cấu. Trong cơ cấu ma trận chức năng phối hợp nhân viên thường phát triển thành một trung tâm quyết định theo tuyến. Những hệ thống thông tin quản lý: chúng bao gồm cả các hệ thống đề xuất, các bản tin... ngày nay chúng còn bao gồm cả hệ thống thông tin đã được máy tính hoá và hệ thống lưu trữ. 4. Quyền hạn 4.1. Khái niệm Quyền hạn là quyền để hành động hay đưa ra một quyết định. Quyền hạn là chất keo của cơ cấu tổ chức và nó có tác dụng gắn kết các hoạt động của tổ chức. Thông thường thì đa số các quyết định hay mệnh lệnh của người lãnh đạo đều rơi vào "vùng trung tính" của cấp dưới. Điều đó có nghĩa là cấp dưới sẽ hoàn toàn chấp nhận hay tuân theo các quyết định hoặc mệnh lệnh mà không có bất cứ nghi ngờ nào cả. Tuy nhiên, nếu các quyết định hay mệnh lệnh rơi ra ngoài vùng này thì cấp dưới sẽ xem xét chúng để tuân theo hay từ chối. Chẳng hạn khi người lãnh đạo yêu cầu một nhân viên thực hiện một nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của anh ta và đã được ghi rõ trong bản mô tả công việc thì mệnh lệnh đó rơi vào trong " vùng trung tính" của người nhân viên. Anh ta sẽ chấp hành mệnh lệnh này vô điều kiện. Nhưng nếu yêu cầu đó không ghi trong bản mô tả công việc thì người nhân viên này sẽ cân nhắc để có thể từ chối. Quyền hạn bao hàm trách nhiệm và sự chịu trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là khi thực thi quyền hạn các nhà quản trị nhận trách nhiệm để hành động và sẵn sàng chịu trách nhiệm về sự thành công hay thất bại do hành động để mang lại. Hơn nữa, khi giao phó nhiệm vụ cho cấp dưới các nhà quản trị cần bảo đảm bảo sự tương xứng giữa trách nhiệm - quyền hạn và gắn liền với sự chịu trách nhiệm về kết quả. 4.2. Trách nhiệm Trách nhiệm là nghĩa vụ phải hoàn thành những nhiệm vụ được giao của một nhà quản trị hay nhân viên. Người nhân viên nhận lãnh trách nhiệm này dựa trên sự chấp nhận công việc hay một sự phân công cụ thể. Còn người lãnh đạo thì không phải chịu trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ nào đó mà còn phải chịu trách nhiệm đối với hành động của cấp dưới. 4.3. Sự chịu trách nhiệm Chịu trách nhiệm là việc người nhân viên kỳ vọng sẽ nhận được công lao hay sự khiển trách do kết quả thực hiện nhiệm vụ mang lại. Còn các nhà lãnh đạo thì chờ đợi nhân viên báo cáo về kết quả công việc của họ. Dựa vào những thông tin phản hồi này, các nhà lãnh đạo sẽ đánh giá những quyết định mà họ đã đưa ra có đúng đắn và mức độ hoàn thành có thích hợp hay không. Các nhà lãnh đạo không thể kiểm tra mỗi hành động mà cấp dưới của họ đã làm, do đó họ phải thiết lập những nguyên tắc chỉ đạo mà người nhân viên phải tuân theo khi tiến hành công việc. Người nhân viên chỉ chịu trách nhiệm đối với kết quả trong những giới hạn này. Bởi vậy, sự chịu trách nhiệm luôn luôn xuất phát từ trên xuống và chịu trách nhiệm là điểm gặp nhau giữa quyền hạn và trách nhiệm. Khi không giao đủ trách nhiệm hay quyền hạn, các nhà lãnh đạo sẽ không đòi hỏi cấp dưới hoàn thành đúng mức nhiệm vụ. Đồng thời, trong trường hợp các nhà lãnh đạo không đề ra mức độ chịu trách nhiệm rõ ràng thì cấp dưới cũng có thể dễ dàng biện minh cho sự không hoàn thành nhiệm vụ của họ. 4.4. Uỷ quyền Uỷ quyền là quá trình mà các lãnh đạo trao quyền hành động và ra quyết định trong những phạm vi nào đó cho cấp dưới. Hay nói cách khác, nhà lãnh đạo giao một nhiệm vụ cho cấp dưới cùng dưới quyền hạn tương xứng để thực hiện nó một cách hiệu quả. Sự uỷ quyền bắt đầu khi cơ cấu tổ chức được thiết lập và nhiệm vụ được phân công cho các thành viên đảm nhiệm. Các yếu tố thành phần cơ bản của quá trình uỷ quyền là đánh giá các kết quả dự kiến, phân công nhiệm vụ, giao quyền hạn để hoàn thành chúng và xác lập mức độ chịu trách nhiệm đối với kết quả. Đây là một quá trình liên tục không tách rời nhau. 5. Các nguyên tắc để hình thành cơ cấu tổ chức Để hình thành một cơ cấu tổ chức hoạt động mang lại hiệu quả cao, phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Cơ cấu tổ chức phải bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt chế độ thủ trưởng và trách nhiệm cá nhân. - Cơ cấu tổ chức bảo đảm cân đối giữa các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cán bộ quản trị, thể hiện sự phân cấp và phân bố hợp lý các chức năng quản trị. Điều đó cho phép cán bộ quản lý có thể độc lập giải quyết công việc thuộc phạm vi chức năng của mình . - Trong quá trình hoạt động, cơ cấu tổ chức không được bỏ sót chức năng, cũng không để xảy ra tình trạng cùng một chức năng lại được giao cho hai hay nhiều bộ phận cùng thực hiện. Trường hợp có một số chức năng có mối quan hệ mật thiết với nhau thì giao cho một bộ phận đảm nhiệm thực hiện rõ chức năng đó. - Trong cơ cấu tổ chức, các mối quan hệ phụ thuộc của mỗi bộ phận và nhân viên thừa hành nhất thiết phải được xác định rõ ràng. Mỗi nhân viên chỉ có thể có một người chỉ huy để nhận chỉ thị trực tiếp để báo cáo kết quả công việc. - Rút gọn đến mức cho phép những thang bậc quản trị cũng như số lượng cán bộ và nhân viên quản trị. Nhờ đó, mà phát hiện kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình quản trị. - Cơ cấu tổ chức phải được thiết kế và thực hiện trong một thời gian dài, chỉ nên thay đổi khi thật sự cần thiết, do mục tiêu đòi hỏi. - Cơ cấu tổ chức phải có khả năng thích nghi với những điều kiện vốn có trong phạm vi của mình. Đó là sự thống nhất giữa chủ thể quản trị với đối tượng quản trị. Dù cho một cơ cấu tổ chức hợp lý thế nào đi nữa cũng không tính hết được các tình huống bất ngờ có thể xảy ra do hoàn cảnh tác động tới. Cơ cấu tổ chức phải năng động, mềm dẻo, co dãn với các tình hình biến động của môi trường. - Trong quá trình dự thảo cơ cấu tổ chức cần thu hút sự tham gia của cán bộ, nhân viên trong tổ chức. Tinh thần chủ động cho phép họ giúp giải quyết đúng đắn hơn các vấn đề đặt ra. Giai đoạn cuối cùng trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức hiện hành là bổ sung, thay đổi cán bộ, xây dựng các thủ tục, quy tắc hoạt động cho từng bộ phận cho lãnh đạo đơn vị và các nhân viên thừa hành chủ chốt của đơn vị. 6. Những phương pháp hình thành cơ cấu tổ chức Xác định phân bổ đúng đắn chức năng quản trị và nắm vững kiến thức về các kiểu cơ cấu tổ chức là tiền đề để hoàn thiện cơ cấu tổ chức hiện có, cũng như hình thành cơ cấu tổ chức mới. Sự tuỳ tiện hình thành xoá bỏ hoặc sửa đổi một cơ cấu tổ chức nào đó thiếu sự phân tích khoa học, theo ý muốn chủ quan, phiến diện, thường gây ra nhiều tai hại. Yêu cầu tối thiểu trước khi hình thành một bộ phận nào đó của tổ chức là phải xác định nhiệm vụ của nó một cách rõ ràng, dự kiến số cán bộ đủ trình độ để hoàn thành nhiệm vụ và xác định đúng đắn vị trí của bộ phận mới này trong hệ thống những bộ phận đã có trước của tổ chức. Qua lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ cấu tổ chức đến nay đã hình thành những quan điểm và những phương pháp hình thành cơ cấu tổ chức cho một tổ chức sau đây: 6.1. Những quan điểm hình thành cơ cấu tổ chức Thứ nhất, là việc hình thành cơ cấu tổ chức cho một tổ chức bao giờ cũng bắt đầu từ việc xác định mục tiêu và phương hướng phát triển. Trên cơ sở này tiến hành tập hợp cụ thể các yếu tố của tổ chức tổ chức và xác lập mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó. Đây là quan điểm theo phưong pháp diễn giải đi từ tổng hợp đến chi tiết, được ứng dụng cho những tổ chức đang hoạt động. Thứ hai, là việc hình thành cơ cấu tổ chức của một tổ chức trước hết phải được bắt đầu từ việc mô tả chi tiết các hoạt động của các đối tượng quản trị và xác lập tất cả các mối liên hệ thông tin. Rồi sau đó mới hình thành cơ cấu tổ chức, quản trị. Quan điểm này dùng phương pháp quy nạp đi từ chi tiết đến tổng hợp áp dụng cho trường hợp hình thành cơ cấu tổ chức mới. Thứ ba, là việc hình thành cơ cấu tổ chức theo phương pháp hỗn hợp, nghĩa là có sự kết hợp một cách hợp lý hai quan điểm trên. Trước hết phải đưa ra những kết luận có tính nguyên tắc nhằm hoàn thiện hay hình thành cơ cấu tổ chức quản trị, sau đó mới tổ chức công việc nghiên cứu chi tiết cho các bộ phận trong cơ cấu, soạn thảo các điều lệ, quy chế, nội quy cho các bộ phận của cơ cấu, đồng thời xác lập các kênh thông tin cần thiết. Như vậy, toàn bộ những công việc nghiên cứu chi tiết là tiếp tục làm sáng tỏ, cụ thể hóa những kết luận đã được khẳng định. Quan điểm này chỉ đạt hiệu quả khi việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức đã có sự quan tâm thường xuyên, có sự tổng kết đánh giá nghiêm túc và đúng đắn của tổ chức. 6.2. Những phương pháp hình thành cơ cấu tổ chức 6.2.1. Phương pháp tương tự Đây là một phương pháp hình thành cơ cấu tổ chức mới dựa vào việc thừa kết những kinh nghiệm thành công và gạt bỏ những yếu tố bất hợp lý của các cơ cấu tổ chức có sẵn. Những cơ cấu tổ chức có trước này có những yếu tố tương tự với cơ cấu tổ chức sắp hình thành. Cơ sở phương pháp lý luận để xác định sự tương tự là sự phân loại các đối tượng quản trị căn cứ vào những dấu hiệu nhất định. Như là tính đồng nhất về kết quả cuối cùng của hoạt động, tính đồng nhất về các chức năng quản trị được thực hiện, chịu ảnh hưởng của các nhân tố giống nhau... Điểm nổi bật của phương pháp này là quá trình hình thành cơ cấu nhanh, chi phí thiết kế cơ cấu ít, thừa kế có phân tích những kinh nghiệm quý báu của quá khứ. Đây là một phương pháp được áp dụng khá phổ biến. Tuy vậy, phải ngăn ngừa sự sao chép kinh nghiệm một cách máy móc, và phải phân tích các điều kiện thực tế của cơ cấu tổ chức mới. 6.2.2. Phương pháp phân tích theo yếu tố Đây là một phương pháp khoa học được ứng dụng rộng rãi cho mọi cấp mọi đối tượng quản trị. Phương pháp này thường được chia thành ba giai đoạn được biểu diễn ở sơ đồ 5. Sẽ xảy ra 2 trường hợp: 6.2.2.1. Trường hợp thứ nhất: đối với việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức đang hoạt động Việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản trị hiện hành được bắt đầu bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng cơ cấu hiện tại và tiến hành đánh giá hoạt động của nó theo những căn cứ nhất định. Để làm được điều đó, người ta biểu thị cơ cấu tổ chức hiện hành và các bộ phận của nó dưới dạng sơ đồ. Từ sơ đồ rõ chỉ rõ quan hệ phụ thuộc của từng bộ phận và các chức năng mà nó phải thi hành. Nội dung phân tích đối với cơ cấu tổ chức đang hoạt động bao gồm: - Phân tích tình hình thực hiện các chức năng đã quy định cho từng bộ phận, từng nhân viên của bộ máy quản trị. - Phân tích khối lượng công tác thực tế của mỗi bộ phận, mỗi người, phát hiện khâu yếu trong việc phân bố khối lượng công việc quản lý. - Phân tích tình hình phân định chức năng kết quả việc thực hiện chế độ trách nhiệm cá nhân, mối quan hệ ngang, dọc trong cơ cấu. - Phân tích việc chia quyền hạn và trách nhiệm cho các bộ phận, các cấp quản trị. - Phân tích việc thực hiện các văn kiện, tài liệu, những quy định ràng buộc của các cơ quan quản lý vĩ mô và trong nội bộ cơ cấu tổ chức của đơn vị. - Phân tích tình hình tăng giảm số lượng và tỷ lệ cán bộ, nhân viên gián tiếp so với trực tiếp sản xuất, tỷ trọng tiền lương cán bộ gián tiếp trong giá thành sản phẩm. - Phân tích sự phù hợp giữa trình độ cán bộ, nhân viên hiện có (cơ cấu trình độ nghề nghiệp) với yêu cầu công việc. - Phân tích điều kiện làm việc, hợp lý hoá lao động và cơ khí hoá lao động của cán bộ và nhân viên. - Phân tích những nhân tố khách quan có tác động tích cực và tiêu cực đến việc duy trì sự ổn định của tổ chức. Kết quả phân tích là những nhận xét đánh giá mặt hợp lý và chưa hợp lý của cơ cấu hiện hành, trên cơ sở đó dự thảo cơ cấu tổ chức mới. 6.2.3.2. Trường hợp hình thành cơ cấu tổ chức mới Bước 1: Dựa vào những tài liệu ban đầu, những văn bản hướng dẫn của các cơ quan quản lý vĩ mô, những quy định có tính chất luật pháp để xây dựng sơ đồ cơ cấu tổ chức tổng quát và xác định các đặc trưng cơ bản của cơ cấu tổ chức này: kết quả thực hiện giai đoạn I là xây dựng mục tiêu của tổ chức; xây dựng các phân hệ chức năng nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu; phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp quản trị; xác lập các mối quan hệ cơ bản giữa các bộ phận và các cơ quan cấp trên, các đơn vị hiệp tác bên ngoài; xác định các nhu cầu bảo đảm cán bộ và thông tin. Như vậy, đây là bước giải quyết những vấn đề có tính chất định tính đối với cơ cấu tổ chức. Bước 2: Xác định các bộ phận, các thành phần của cơ cấu tổ chức và xác lập mối quan hệ giữa các bộ phận ấy. Nội dung cơ bản của bước này được thể hiện ở việc xây dựng phân hệ trực tuyến, phân hệ chức năng và chương trình mục tiêu. Cơ sở để xác định thành phần các bộ phận của cơ cấu là sự cần thiết chuyên môn hoá hoạt động quản trị, sự phân cấp và phân chia hợp lý các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn cho các bộ phận ấy. Điều quan trọng nhất là tập hợp và phân tích các dấu hiệu ảnh hưởng tới cơ cấu tổ chức. Bước 3: những công việc cụ thể ở bước này là phân phối và cụ thể hóa các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quyết định số lượng cán bộ, nhân viên cho từng bộ phận trong cơ cấu tổ chức. Từ đó xây dựng điều lệ, thủ tục, quy tắc, lề lối làm việc nhằm bảo đảm cơ cấu tổ chức đạt hiệu quả cao. Phương pháp phân tích theo yếu tố Giai đoạn 3 Giai đoạn 2 Giai đoạn 1 Xây dựng sơ đồ cơ cấu tổng quát Xác định những kết luận có tính chất nguyên tắc của tổ chức Quy định hoạt động của cơ cấu tổ chức quản lý (điều lệ, nội quy, quy chế) Xác định những đặc trưng của các yếu tố cơ cấu (chức năng, nhiệm vụ quyền hạn) Xác định mối liên hệ giữa các bộ phận Xác định các thành phần cho các bộ phận của cơ cấu Sơ đồ 5: Lôgíc của việc hình thành cơ cấu theo phương pháp phân tích theo yếu tố. II. Các loại lao động của ngành Y tế Y tế là một ngành chuyên môn mang tính chất cộng đồng, với nhiệm vụ quan trọng là chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Do đó lao động trong ngành Y tế có tính chất đặc thù riêng, với trách nhiệm hết sức to lớn, đó là tính mạng và sức khoẻ của con người. Để thuận lợi cho việc sắp xếp và bố trí lao động, lao động trong ngành Y tế thường chia ra làm 3 loại là: lao động quản lý, lao động chuyên môn kỹ thuật ngành Y và lao động phục vụ y tế. 1. Lao động quản lý Nếu xét trên quan điểm của lý thuyết hệ thống và lý thuyết quản lý thì bất kỳ một tổ chức nào cũng đều là một hệ thống được tạo thành từ hai hệ thống bộ phận là hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý. Hệ thống quản lý bao gồm: hệ thống các chức năng quản lý; hệ thống các bộ phận quản lý (các phòng, ban) và các cán bộ, nhân viên làm việc trong bộ phận đó; hệ thống các mối quan hệ quản lý và hệ thống các phương tiện vật chất - kỹ thuật, các phương pháp quản lý cần thiết để giải quyết các công việc quản lý. Với tư cách là chủ thể quản lý, hệ thống quản lý tác động và hệ thống bị quản lý nhằm thống nhất hành động, đảm bảo mối quan hệ tương hỗ, thống nhất mục đích công tác của tất cả các bộ phận, các thành viên trong tổ chức để đảm bảo đưa tổ chức đạt mục tiêu chung. Sự tác động có hướng đích đó của quản lý được thực hiện thông qua các quá trình hoạt động lao động của các cán bộ, nhân viên làm việc trong bộ máy quản lý để thực hiện các chức năng quản lý. Do đó lao động quản lý được hiểu là tất cả những lao động hoạt động trong bộ máy quản lý và tham gia vào việc thực hiện các chức năng quản lý. Do đặc thù riêng của ngành Y tế cho nên lao động quản lý tại các đơn vị khám chữa bệnh của ngành thì chỉ có ban giám đốc và các trưởng phòng, phó phòng, trưởng ban, phó ban chức năng mới được tính là lao động quản lý. Mặc dù các trưởng khoa, phó khoa, điều dưỡng trưởng cũng phải thực hiện các chức năng quản lý, song những người này vẫn thực hiện lao động chuyên môn nghiệp vụ y tế của mình. 2. Lao động chuyên môn nghiệp vụ y tế Lao động chuyên môn nghiệp vụ y tế được quy định tại quyết định 415/TCCP- VC ngày 29/5/93 của Bộ trưởng- trưởng ban tổ chức Chính Phủ theo tiêu chuẩn của ngạch công chức ngành Y tế bao gồm 24 ngạch. 1. Bác sỹ cao cấp 13. Kỹ thuật viên Y 2. Bác sỹ chính 14. Dược sỹ cao cấp 3. Bác sỹ 15. Dược sỹ chính 4. Y sỹ 16. Dược sỹ 5. Y tá cao cấp 17. Dược sỹ trung cấp 6. Y tá chính 18. Kỹ thuật viên chính Dược 7. Y tá 19. Kỹ thuật viên Dược 8. Nhà hộ sinh cao cấp 20. Dược tá 9. Nữ hộ sinh chính 21. Nhân viên y tế (Hộ lý) 10. Nữ hộ sinh 22. Nhân viên nhà xác 11. Kỹ thuật viên cao cấp Y 23. Y công 12. Kỹ thuật viên chính Y 24. Lương y Tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch trên là căn cứ để các bộ, ngành, địa phương thực hiện việc sử dụng, tuyển dụng bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, nâng bậc lương và chuyển ngạch cho công chức ngành Y theo quy định của Nhà nước. Do vậy mà chỉ những người làm việc ở các khu lâm sàng và cận lâm sàng tại các đơn vị khám và chữa bệnh mới được tính là lao động chuyên môn nghiệp vụ ngành Y tế. 3. Lao động phục vụ y tế Lao động phục vụ y tế là những người làm công việc chuyên môn ngoài ngành Y tế và những người làm công việc phục vụ nhằm duy trì mọi hoạt động cho các đơn vị khám và chữa bệnh của ngành Y tế như là kế toán lái xe, hành chính, thợ điện, thợ bảo dưỡng thiết bị y tế, bảo vệ ... Phần thứ hai Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh Bà rịa - Vũng tàu. I. Những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy và cơ cấu cán bộ công chức, viên chức của bệnh viện đa khoa tỉnh bà rịa vũng tàu. 1. Vị trí địa lý và đặc điểm kinh tế xã hội Bà Rịa- Vũng Tàu là một tỉnh thuộc vùng Miền Đông Nam bộ của nước ta. Trước đây là Đặc khu Vũng Tàu- Côn Đảo và chính thức chuyển thành tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu từ năm 1991. Với diện tích 1967 km2 và dân số 752317 người. Nằm ở phía Đông- Nam của miền Đông Nam Bộ, có phía Đông Bắc giáp tỉnh Bình Thuận, phía Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh và với hơn 100 km phía Nam và Đông Nam giáp biển. Trung tâm thành phố Vũng Tàu chỉ cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 119 km đường bộ. Đây là một tỉnh có vị trí rất quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng và hết sức thuận lợi trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và của tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu nói riêng. Bà Rịa- Vũng Tàu là một tỉnh có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế như khai thác dầu khí, đánh bắt và nuôi trồng hải sản, trồng cây công nghiệp như cao su, điều... và đặc biệt là có nhiều bãi biển đẹp để phát triển du lịch. Ngoài ra các ngành công nghiệp và nông nghiệp cũng rất phát triển. Đây là một tỉnh có thu nhập bình quân đầu người cao nhất toàn quốc, khoảng 1.730.000đ /người/tháng (1998). Tuy vậy, nhưng đây lại là địa phương có nhiều dân di cư đến làm ăn, sinh sống, số này có thu nhập thấp, không ổn định vì không có đất đai, trang trại. Bên cạnh đó, hàng năm số lượng khách du lịch đến tham quan, nghỉ mát ở đây nhiều. Đó cũng là nguyên nhân làm cho bệnh tật dễ lây lan, phát triển, khó kiểm soát. Cơ cấu hành chính của tỉnh bao gồm: thành phố Vũng Tàu là trung tâm kinh tế, chính trị- xã hội của tỉnh; thị xã Bà Rịa; và 5 huyện: Xuyên Mộc, Long Đất, Châu Đức, Tân Thành và huyện Côn Đảo. Đặc biệt huyện Côn Đảo chỉ có khoảng 2700 dân và cách xa đất liền hơn 200 km đường biển. Còn lại tất cả các xã đều có đường ô tô rải nhựa đến tận nơi và đều có điện thắp sáng. Nói chung, về cơ sở hạ tầng về điện, đường, trường, trạm cho các xã là đầy đủ. Tuy nhiên, một số xã vùng sâu, vùng xa của tỉnh, đời sống, dân trí còn rất thấp, do tập tục địa phương còn lạc hậu chưa được thay đổi. Do đó, công tác phòng bệnh và chữa bệnh còn gặp nhiều khó khăn. 2. Đặc điểm hệ thống y tế, cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế và kết quả của ngành Y tế tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu 2.1. Đặc điểm hệ thống y tế Hệ thống y tế tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu (sơ đồ 7) được tổ chức theo quy định của thông tư 02/1998/TTLB- BVT- BTCCBCP (sơ đồ 6) bao gồm: Bệnh viện đa khoa Bà Rịa: với 300 giường bệnh, đây là bệnh viện tuyến tỉnh là đơn vị khám bệnh cao nhất của tỉnh. Bệnh viện đa khoa Lê Lợi: với 200 giường bệnh là bệnh viện đa khoa khu vực thành phố Vũng Tàu, phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân trong thành phố và khách du lịch. Trung tâm y tế dự phòng: thực hiện các mặt công tác vệ sinh, phòng chống bệnh dịch, vệ sinh lao động, phòng chống sốt rét, bướu cổ, kiểm dịch y tế quốc tế, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh học đường... cho toàn tỉnh. Đồng thời, hiện nay đảm nhiệm công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ cho nhân dân trong tỉnh. Trung tâm bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em- kế hoạch hoá gia đình. Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm, mỹ phẩm: làm công tác kiểm nghiệm chất lượng dược phẩm, mỹ phẩm. Trường đào tạo cán bộ Y tế: làm nhiệm vụ bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và đào tạo cán bộ y tế cho tỉnh. Công ty Dược- Vật tư y tế: làm nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh dược phẩm và dụng cụ, thiết bị, vật tư y tế theo luật doanh nghiệp Nhà nước và hướng dẫn của ngành Y tế. UBND xã UBND huyện Sơ đồ 6: sơ đồ tổ chức theo thông tư số 02/1998/ttlt- bvt- btccbcp Trung tâm y tế huyện Trạm y tế xã Trung tâm kiểm nghiệm DP và MP Uỷ ban nhân dân Sớ y tế Trung tâm tuyên truyền GDSK Bệnh viện chuyên khoa Bệnh viện y học cổ truyền Trung tâm phòng chống bệnh xã hội c) Công tác phục vụ khám chữa bệnh b) Công tác chữa bệnh Tổ chức SXKD trang thiết bị y tế Bệnh viện đa khoa khu vực Trung tâm BVSKBMTE a) Công tác phòng bệnh Bệnh viện đa khoa tỉnh Trường học Y tế Trung tâm Ytế dự phòng Giám định pháp y UBND Huyện,thị Sở Y Tế Trung tâm BVBMTE - KHHGĐ TT kiểm nghiệm dược, mỹ phẩm Giám định y khoa Trung tâm y tế dự phòng Bệnh viện đa khoa Lê Lợi UBND tỉnh Bệnh viện đa khoa Bà Rịa Công ty Dược - Vật tư y tế Chỉ đạo chuyên môn Trường đào tạo cán bộ y tế Bảo hiểm y tế 7 trung tâm y tế huyện, thị Phòng khám khu vực Trạm ytế xã, phường UBND xã Đội ytế SK cộng đồng Sơ đồ 7: Sơ đồ tổ chức mạng lưới ytế - ngành Ytế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Phòng giám định Y khoa: làm nhiệm vụ thường trực về công tác chuyên môn, kỹ thuật y tế cho Hội đồng giám định. Bảo hiểm y tế được tổ chức theo quy định của Nhà nước và Bộ Y tế. 7 trung tâm y tế huyện, thị xã, thành phố: với 176 giường bệnh trong đó có 2 trung tâm y tế không có giường bệnh là trung tâm y tế thị xã Bà Rịa và trung tâm y tế thành phố Vũng Tàu. Riêng trung tâm y tế huyện Côn Đảo chỉ có 20 giường bệnh. 53 trạm y tế xã: dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các trung tâm y tế huyện, thị xã. 6 phòng khám đa khoa khu vực: làm nhiệm vụ khám bệnh cho nhân dân tại khu vực đó, do các trung tâm y tế huyện, thị xã trực tiếp quản lý. Công tác giám định pháp y được giao cho bệnh viện đa khoa Bà Rịa. Ngoài ra, tỉnh còn xây dựng mạng lưới nhân viên sức khoẻ cộng đồng ở các xã, phường gồm 54 tổ với 1196 người. Nói chung, hiện nay tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu không còn xã trắng hoàn toàn về y tế nhưng có một số xã, phường có cán bộ y tế phải lồng ghép với một số cơ sở khác như phường 7 thành phố Vũng Tàu nằm trong trung tâm y tế Vũng Tàu, xã Ngãi Giao nằm trong trung tâm y tế huyện Châu Đức. 5 phường của thị xã Bà Rịa đã có quyết định thành lập 2 trạm y tế liên phường nhưng hiện tại chưa có cơ sở để hoạt động. Hiện tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu không có bệnh viện chuyên khoa như Lao, Tâm thần, Nhi, Phụ sản, Phục hồi chức năng, nhưng những chuyên khoa này đã và sẽ có trong bệnh viện đa khoa của tỉnh. Bên cạnh hệ thống y tế của ngành Y tế, ở Vũng Tàu còn có bệnh viện của ngành Dầu khí, bệnh viện của ngành Cao su, đóng trên địa bàn của tỉnh. Do đó đã phần nào hạn chế được sự quá tải của các bệnh viện thuộc ngành Y tế của tỉnh. 2.2. Đặc điểm cơ cấu cán bộ theo ngạch công chức viên chức y tế Tổng số lao động biên chế của ngành Y tế tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu năm 1998 là 1570 người. Trong đó tuyến tỉnh 851 người, tuyến huyện 547 người, tuyến xã 172 người. Cán bộ công chức y tế toàn tỉnh là 1371 người, có cơ cấu theo ngạch bậc như sau: Biểu số 1: cơ cấu cán bộ y tế theo ngạch công chức viên chức y tế của tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu STT Chức danh công việc Số lượng (người) 1 Bác sỹ chính 1 2 Bác sỹ 317 3 Y sỹ 265 4 Y tá cao cấp 1 5 Y tá chính 123 6 Y tá 176 7 Nữ hộ sinh chính 73 8 Nữ hộ sinh 30 9 Kỹ thuật viên cao cấp y 2 10 Kỹ thuật viên chính y 43 11 Kỹ thuật viên y 8 12 Dược sỹ đại học 16 13 Dược sỹ trung cấp 24 14 Kỹ thuật viên dược 1 15 Kỹ thuật viên chính dược 8 16 Dược tá 15 17 Nhân viên y tế 80 18 Nhân viên nhà xác 3 19 Y công 4 20 Lương y 2 21 Kế toán 48 22 Lái xe 26 23 Cán bộ hành chính 39 24 Cán bộ bảo vệ 24 25 Công nhân lao động 24 26 Đại học khác 4 27 Lao động khác 15 Tổng số 1371 * Một số chỉ tiêu tổng hợp: ãSố cán bộ y tế toàn tỉnh cho 10.000 dân: 18,2 người ãSố Y sỹ, Bác sỹ toàn tỉnh cho 10000 dân: 7,7 người ãSố giường bệnh toàn tỉnh cho 10.000 dân: 10,9 giường ( toàn tỉnh có 820 giường bệnh cả tuyến xã ) ãSố Y sỹ, Bác sỹ cho 100 giường bệnh: 70,9 ãSố Dược sỹ đại học /số Bác sỹ (16/317) 1/19,8 ãSố Bác sỹ /nhân viên phục vụ (317/39) 1/19,8 ãSố Dược sỹ đại học /nhân viên phục vụ (16/39) 1/2,44 Qua số liệu trên ta thấy rằng số cán bộ y tế toàn tỉnh cho 10.000 dân là còn thấp. Số Y sỹ, Bác sỹ toàn tỉnh cho 10.000 dân (7,7 người) thấp hơn cả QĐ-07 (8,3 người). Trong khi số giường bệnh toàn tỉnh cho 10.000 dân lại rất thấp (10,9 giường), mà số Y sỹ, Bác sỹ cho 100 giường bệnh lại rất cao (70,9 người; cả tuyến xã) so với QĐ- 07 (20,2 người), điều đó cho thấy số lượng giường bệnh của tỉnh là chưa hợp lý với quy mô dân số. Cơ cấu cán bộ giữa Dược sỹ đại học /Bác sỹ chưa hợp lý (1/19,8), thấp hơn rất nhiều so với QĐ- 07 (1/3,5). Số Dược sỹ đại học còn quá ít, hầu hết các đơn vị Y tế tuyến huyện chưa có Dược sỹ đại học. Cơ cấu cán bộ giữa Bác sỹ /nhân viên phục vụ (1/3,24) có cao hơn QĐ- 07 (1/3), nhưng vẫn chưa hợp lý. Cơ cấu giữa Dược sỹ đại học /nhân viên phục vụ còn quá thấp (1/2,44) so với QĐ- 07 (1/3). Hiện nay, đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật y tế nói chung còn thiếu, đặc biệt là thiếu đội ngũ nhân viên phục vụ như điều dưỡng, Kỹ thuật viên, Nữ hộ sinh. Các đơn vị điều trị của tỉnh thường phải trích quỹ để thuê thêm người phục vụ. Điều đó phản ánh thực tế của tỉnh là thiếu cán bộ y tế và cơ cấu cán bộ y tế chưa hợp lý. Nguyên nhân chính ở đây là do QĐ- 07- UB/LĐTL không còn phù hợp trong điều kiện hiện nay nữa. Hơn nữa, cán bộ ngành Y tế phải được thường xuyên học tập nâng cao nghiệp vụ, vì trách nhiệm của họ rất nặng nề là sức khoẻ và tính mạng của con người, do đó phải có số lượng cán bộ hợp lý để thay phiên đi học, cũng như có thời gian nghiên cứu, học tập thêm. 2.3. Đặc điểm cơ cấu cán bộ y tế theo trình độ đào tạo tại các đơn vị Cơ cấu cán bộ tại các đơn vị được phân bổ theo trình độ đào tạo như sau: Trình độ Tên đơn vị Tổng số Trên ĐH Đại học Trung học, Y tá, Y sỹ, DS KTV, NHS Hộ lý Bảo vệ văn thư tạp vụ lái xe LĐ khác Thạc sỹ CK II CK I BS, DS, kỹ sư cử nhân BS DS Khác Văn phòng sở 32 4 10 3 3 3 4 5 Bệnh viện Bà Rịa 310 1 15 55 3 3 164 36 15 18 Bệnh viện Lê Lợi 231 11 1 9 44 3 2 113 26 16 16 TTYT dự phòng 64 1 25 2 2 23 6 5 TTBVBMTE, KHHGĐ 23 8 12 2 1 Giám định Y khoa 4 3 1 Kiểm nghiệm Dược 7 3 2 1 1 TTYT TP Vũng Tàu 117 2 26 1 83 1 2 2 TTYT TX Bà Rịa 56 15 1 34 1 2 3 TTYT Tân Thành 90 2 25 1 54 2 3 3 TTYTế Châu Đức 118 20 91 2 3 2 TTYTế Long Đất 125 16 97 4 5 3 TTYTế Xuyên Mộc 159 1 24 110 11 6 7 TTYTế Côn Đảo 27 4 20 1 1 1 TTĐT Bồi dưỡng cán bộ y tế 6 1 2 1 1 1 Pháp y 2 2 Công ty dược 199 13 182 4 Tổng cộng 1.570 2 1 35 279 29 13 987 84 72 68 Biểu số 2: Cơ cấu cán bộ theo trình độ đào tạo tại các đơn vị. Qua số liệu bảng trên ta thấy rằng đa số cán bộ y tế của tỉnh có trình độ đào tạo trên đại học đều thuộc các đơn vị tuyến tỉnh, chủ yếu là 2 bệnh viện đa khoa Lê Lợi và Bà Rịa. Tỉnh có 2 trung tâm y tế không có giường bệnh là trung tâm y tế thành phố Vũng Tàu và trung tâm y tế thị xã Bà Rịa có số lượng Bác sỹ cao và số lượng nhân viên phục vụ y tế cũng rất cao. Trong khi đó các trung tâm y tế tuyến huyện Bác sỹ lại ít, địa bàn rộng, nhất là trung tâm y tế các huyện xung quanh thị xã Bà Rịa như Long Đất và Châu Đức. Do đó các trung tâm y tế này chỉ có khả năng chữa trị các bệnh nhẹ, thông thường không có khoa chuyên sâu vì thiếu cán bộ có trình độ. Đây cũng là nguyên nhân gây ra sự quá tải cho bệnh viện tuyến tỉnh. 3. Đặc điểm bệnh dịch và trang thiết bị y tế Trong những năm gần đây Nhà nước và ngành Y tế đã có chủ trương tăng cường công tác phòng chống bệnh dịch cho nhân dân, với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh. Các chương trình phòng chống bệnh dịch cũng được tăng cường và các đơn vị cũng như số lượng cán bộ y tế thuộc hệ dự phòng được tăng thêm. Tuy vậy, do dân số tăng và môi trường sinh thái bị ô nhiễm, nên bệnh dịch trong nhân dân vẫn có xu hướng tăng, làm cho các bệnh viện luôn ở tình trạng quá tải. Công suất sử dụng giường bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh của tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu rất cao. Năm 1997 là 96,23%, năm 1998 là 101,86 %. Hầu hết các bệnh viện và các trung tâm y tế của tỉnh phải kê thêm giường bệnh. Hiện nay, hầu hết các cơ sở khám, chữa bệnh của tỉnh đều thiếu trang thiết bị y tế, một số máy móc hiện tại đang sử dụng đã lạc hậu, làm cho công tác khám, chuẩn đoán và điều trị bệnh còn gặp rất nhiều khó khăn. 4. Đặc điểm riêng của lao động trong ngành Y tế Cán bộ công chức, viên chức ngành Y tế làm nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho con người, vốn quý nhất của mỗi người và của toàn xã hội. Trước sức khoẻ của con người nói chung và tính mạng của người bệnh nói riêng, đòi hỏi lao động trong ngành Y tế phải có trách nhiệm cao, chuyên môn giỏi, để bảo vệ tính mạng cho người bệnh và nâng cao sức khoẻ cho nhân dân. Cán bộ công chức, viên chức ngành Y tế với đối tượng phục vụ là người ốm đau, bệnh tật, luôn có tâm lý lo âu, dễ cáu gắt, bực bội, luôn chịu gánh nặng tâm lý rất lớn trước đau thương, mất mát của người bệnh và gia đình bệnh nhân... Cán bộ công chức, viên chức y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh luôn phải làm việc trong môi trường độc hại, dễ lây nhiễm dịch bệnh nguy hiểm, thường xuyên phải tiếp xúc với các chất thải như phân, nước tiểu... cùng các hoá chất độc hại, các tia phóng xạ... đây là môi trường mà chính những người đang làm nhiệm vụ khám, chữa bệnh cũng dễ bị lây nhiễm. Do đặc thù của công tác khám chữa bệnh mà ngoài 8 giờ làm việc hành chính bình thường, cán bộ công chức, viên chức ngành Y tế còn phải trực đêm, trực ngoài giờ, trực ngày lễ, ngày chủ nhật, đảm bảo sao cho 24/24 giờ trong ngày luôn luôn có người làm việc ở các cơ sở để kịp thời cấp cứu bệnh nhân, phòng chống dịch và bảo đảm cho người bệnh luôn luôn được chăm sóc, điều trị. Khi dịch bệnh xảy ra thì không kể ngày đêm, lễ tết người cán bộ y tế phải đến tận ổ dịch làm nhiệm vụ phòng chống dịch. Ngoài ra, người cán bộ y tế luôn phải học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ ngành nghề, phục vụ cho công tác khám bệnh, chữa bệnh và phòng bệnh được tốt hơn. Nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh công việc cụ thể được quy định trong quy chế bệnh viện do Bộ Y tế ban hành năm 1997. II- Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý, cơ cấu cán bộ và công tác khám chữa bệnh của bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu 1. Đặc điểm chức năng, nhiệm vụ của bệnh viện Theo hệ thống tổ chức mạng lưới y tế tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu thì bệnh viện đa khoa Bà Rịa là bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, là đơn vị khám bệnh, chữa bệnh cao nhất của tỉnh. Bệnh viện đa khoa Bà Rịa trước đây là bệnh viện đa khoa khu vực của đặc khu Vũng Tàu- Côn Đảo. Năm 1991, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu được thành lập, trong hệ thống y tế của tỉnh bệnh viện đa khoa Bà Rịa và bệnh viện đa khoa Lê Lợi là hai bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, với chức năng và nhiệm vụ tương đương nhau. Từ năm 1998 bệnh viện đa khoa Bà Rịa được chính thức trở thành bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh duy nhất của tỉnh. Với quy mô 300 giường bệnh và là bệnh viện đa khoa hạng III. Bệnh viện đa khoa Bà Rịa trực thuộc sở y tế tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, có trách nhiệm khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của một bệnh viện đa khoa hạng III, cụ thể như sau: * Công tác cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh: - Bệnh viện có trách nhiệm tiếp nhận tất cả các trường hợp người bệnh từ ngoài vào hoặc từ tuyến dưới chuyển lên để cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh nội trú hoặc ngoại trú. - Tổ chức khám sức khoẻ và chứng nhận sức khoẻ theo quy định của Nhà nước. - Bệnh viện có trách nhiệm giải quyết hầu hết các bệnh tật của nhân dân trong tỉnh. - Tổ chức giám định sức khoẻ, giám định pháp y khi Hội đồng giám định y khoa của tỉnh hoặc cơ quan bảo vệ pháp luật trưng cầu. - Chuyển bệnh nhân lên tuyến trên khi bệnh viện không đủ khả năng giải quyết. * Công tác đào tạo cán bộ y tế: - Bệnh viện là cơ sở thực hành cho các trường, lớp trung học y tế. - Tổ chức đào tạo liên tục cho các thành viên trong các bệnh viện và cơ sở y tế tuyến dưới để nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng quản lý, chăm sóc sức khoẻ ban đầu. * Công tác nghiên cứu khoa học về y học: - Tổ chức nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các đề tài y học cấp Nhà nước, cấp bộ, hoặc cấp cơ sở. Chú trọng nghiên cứu về y học cổ truyền, kết hợp với y học hiện đại và các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc. - Nghiên cứu, triển khai dịch tễ học cộng đồng trong công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, lựa chọn ưu tiên thích hợp trong địa bàn tỉnh. - Kết hợp với bệnh viện tuyến trên và các bệnh viện chuyên khoa đầu ngành để phát triển kỹ thuật của bệnh viện. * Chỉ đạo tuyến dưới về chuyên môn kỹ thuật: - Lập kế hoạch và chỉ đạo tuyến dưới thực hiện việc phát triển kỹ thuật chuyên môn. - Kết hợp với các bệnh viện tuyến dưới thực hiện các chương trình về chăm sóc sức khoẻ ban đầu trong địa bàn tỉnh. * Công tác phòng bệnh: - Phối hợp với các cơ sở y tế dự phòng thường xuyên thực hiện nhiệm vụ phòng bệnh, phòng dịch trong toàn tỉnh. * Hợp tác quốc tế: - Hợp tác với các tổ chức hoặc cá nhân ở nước ngoài theo quy định của Nhà nước. * Quản lý kinh tế y tế. - Có kế hoạch sử dụng hiệu quả ngân sách Nhà nước cấp và các nguồn kinh phí khác. - Tạo thêm nguồn kinh phí từ các dịch vụ y tế : viện phí, bảo hiểm y tế, đầu tư của nước ngoài và các tổ chức kinh tế. - Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về thu, chi ngân sách của bệnh viện. Từng bước thực hiện hạch toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh. Ngoài ra, bệnh viện còn phải thực hiện các chương trình như: chương trình bảo vệ bà mẹ trẻ em- kế hoạch hoá gia đình, chương trình chống sốt rét, công tác chống mù loà, chương trình phòng chống HIV/AIDS và giáo dục truyền thông phòng chống bệnh tật cho nhân dân. Qua đó ta thấy rằng để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, bệnh viện đa khoa Bà Rịa cần phải có một cơ sở hạ tầng với quy mô hợp lý, được trang bị đầy đủ trang thiết bị cần thiết và đặc biệt là phải có một bộ máy quản lý phù hợp, với một đội ngũ cán bộ có cơ cấu theo trình độ hợp lý. 2. Đặc điểm cơ sở hạ tầng và trang thiết bị y tế của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu Bệnh viện đa khoa Bà Rịa- Vũng Tàu được xây dựng từ năm 1991, là một hệ thống nhà hai tầng khép kín với diện tích 10.963 m2, trong đó diện tích nhà điều trị là 4.500 m2 với 180 phòng. Đường đi lại giữa các khoa phòng có mái che và có cầu thang nghiêng để chuyển bệnh nhân giữa các tầng. Tuy nhiên, với quy mô của bệnh viện thì chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân hiện nay. Hiện tại cán bộ trong bệnh viện còn thiếu, phòng làm việc và phòng nghỉ ngơi khi trực còn chật hẹp, bệnh viện nhiều khi còn phải kê thêm giường ở khu vực hành lang đi lại, do đó nó ảnh hưởng rất lớn đến công tác điều trị bệnh. Trang thiết bị thông thường hiện nay của bệnh viện về cơ bản là đầy đủ. Nhưng nhiều máy móc đã xuống cấp và lạc hậu. Hiện tại, bệnh viện còn thiếu những máy móc hiện đại phục vụ cho công tác khám bệnh, chẩn đoán bệnh và chữa bệnh như thiếu máy X-Quang, máy siêu âm, chưa có máy nội soi, trang bị dụng cụ phẫu thuật thần kinh, máy Monitoring, CTScanner... Đây là một nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến công tác khám chữa bệnh của bệnh viện. 3. Đặc điểm cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế theo trình độ đào tạo và chức danh công việc tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu Toàn bộ bệnh viện đa khoa Bà Rịa có 310 cán bộ công chức, viên chức y tế, trong đó: (Biểu số 3) Qua số liệu tại các biểu số 3 và biểu số 4, ta thấy rằng số lượng cán bộ hiện nay của bệnh viện có cao hơn so với QĐ- 07, nhưng thực tế hiện nay cán bộ ở các khoa, phòng rất thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh tại địa phương. Tỉ lệ Bác sỹ/ 100 giường bệnh hiện nay của bệnh viện (23,66) cao hơn rất nhiều so với quy định tại QĐ- 07(7,7). Tuy nhiên số lượng Bác sỹ vẫn còn quá ít so với nhu cầu thực tế. Hơn nữa, hiện nay tại bệnh viện hầu hết số Y sỹ đang làm nhiệm vụ điều dưỡng. Do đó bệnh viện hiện nay không những thiếu Bác sỹ mà còn thiếu đội ngũ nhân viên phục vụ như Y tá, Kỹ thuật viên, Nữ hộ sinh. Tỉ lệ Bác sỹ/ nhân viên phục vụ còn rất thấp (1/1,76) so với quy định tại QĐ-07 (1/3). Điều đó nói lên cơ cấu cán bộ hiện nay tại bệnh viện chưa hợp lý. STT Trình độ- chức danh Số lượng (người) 1 Thạc sỹ y khoa 1 2 Bác sỹ chuyên khoa I 12 3 Bác sỹ 58 4 Y sỹ 27 5 Y tá đại học 6 Y tá trung cấp 75 7 Y tá sơ cấp 15 8 Nữ hộ sinh trung cấp 14 9 Nữ hộ sinh sơ cấp 4 10 Kỹ thuật viên đại học y 1 11 Kỹ thuật viên trung cấp y 14 12 Kỹ thuật viên sơ cấp y 2 13 Dược sỹ đại học 3 14 Dược sỹ trung cấp 6 15 Kỹ thuật viên trung cấp dược 16 Dược tá 6 17 Hộ lý 29 18 Y công 6 19 Nhân viên nhà xác 3 20 Lương y 21 Đại học kế toán 3 22 Trung cấp kế toán 5 23 Sơ cấp kế toán 4 24 Văn thư 2 25 Thủ kho 1 26 Bảo vệ 9 27 Lái xe 4 28 Đại học khác 29 Trung cấp khác 5 30 Lao động khác 1 Tổng số: 310 Biểu số 3: Cơ cấu cán bộ y tế theo trình độ đào tạo và chức danh công việc của bệnh viện đa khoa Bà Rịa Đv: người Số TT Các chỉ tiêu QĐ07-UB/ĐTL (hệ số 1) Bệnh viện Bà Rịa Thiết kế chuyên gia 1 Tỉ lệ lao động y tế/ 100 giường bệnh 100 103,3 120 2 Tỉ lệ Bác sỹ/ 100 giường bệnh 7,7 23,66 25 3 Tỉ lệ Y sỹ/ 100 giường bệnh 12,5 9 0 4 Dược sỹ đại học/ Bác sỹ 1/3,5 1/23,66 1/9 5 Tỉ lệ Bác sỹ/ nhân viên phục vụ (Y tá, Nữ hộ sinh, Kỹ thuật viên) 1/3 1/1,76 1/2,5 6 Tỉ lệ Dược sỹ/ nhân viên phục vụ (dược trung cấp, dược tá, KTV dược) 1/3 1/4 1/3 7 Tỉ lệ Dược sỹ đại học/ 100 giường bệnh) 1,3 1 1,6 Biểu số 4: Một số chỉ tiêu tổng hợp của bệnh viện đa khoa Bà Rịa hiện nay Nó còn được thể hiện là toàn bệnh viện với 300 giường bệnh chỉ có 3 Dược sỹ đại học, trong khi đó quy định tại QĐ- 07 phải là 4 Dược sỹ đại học. Với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức của bệnh viện như vậy, trong khi công suất sử dụng giường bệnh luôn rất cao: năm 1997 là 109,95% và 1998 là 109,86%. Hầu hết các phòng, khoa lâm sàng hiện nay của bệnh viện không có Y tá hành chính mà nhiệm vụ này Y tá trưởng khoa phải đảm nhiệm. Các nhân viên phục vụ nhiều khi không còn thời gian để làm sổ sách mà phải đem về nhà làm thêm. Nhiều quy trình nghiệp vụ trong công tác khám chữa bệnh bị làm tắt hoặc bỏ qua, do thiếu người mà số lượng bệnh nhân lại quá đông. Hơn thế nữa, do bệnh viện nằm ở vị trí gần một số trung tâm Y tế các huyện lân cận cho nên người bệnh thường đến thẳng bệnh viện mà không qua các trung tâm Y tế. Điều đó làm cho công tác khám và điều trị bệnh càng thêm quá tải. Qua đó ta thấy rằng hiện nay đội ngũ cán bộ công chức, viên chức y tế tại bệnh viện đa khoa Bà Rịa chưa đủ để đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân. Cơ cấu cán bộ còn nhiều bất hợp lý, do đó cần được bổ sung thêm cán bộ với một cơ cấu hợp lý để bệnh viện có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức năng của mình. 4. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý, cơ cấu cán bộ và chức năng nhiệm vụ của các khoa, phòng, ban trong bệnh viện Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý của bệnh viện được tổ chức theo sơ đồ sau: Sơ đồ 8: Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Bệnh viện đa khoa Bà Rịa. Ban giám đốc Phòng Quản trị Phòng Tài chính- Kế toán Phòng Tổ chức- Hành chính Các khoa, phòng lâm sàng và cận lâm sàng Các phòng ban chức năng Khoa Dược Khoa Xét nghiệm- Xquang Liên chuyên khoa RHM-M-TMH Khoa Nội- Nhiễm Khoa Giải phẫu bệnh Khoa Sản Khoa Ngoại tổng hợp Khoa Phẫu thuật Khoa Y học dân tộc cổ truyền Khoa Hồi sức- Cấp cứu Khoa Nhi Khoa Khám bệnh- Cấp cứu Phòng Kế hoạch tổng hợp- Y vụ 4.1.Đặc điểm chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Ban giám đốc Ban giám đốc là bộ phận lãnh đạo cao nhất của bệnh viện tổ chức duy trì mọi hoạt động của bệnh viện. Ban giám đốc gồm 3 Bác sỹ: 1 giám đốc và 2 phó giám đốc. Trong đó, giám đốc bệnh viện là người đứng đầu bệnh viện chịu trách nhiệm trực tiếp trước cấp trên về mọi hoạt động của bệnh viện, cụ thể là: - Giám đốc là chủ tài khoản, trực tiếp quản lý việc sử dụng ngân sách của bệnh viện có hiệu quả và đúng quy định của Nhà nước. - Căn cứ vào kế hoạch của ngành và nhiệm vụ của bệnh viện tổ chức xây dựng kế hoạch phát triển hàng năm và lâu dài của bệnh viện trình cấp trên duyệt và tổ chức thực hiện. - Tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ của cấp trên giao, giáo dục, động viên các thành viên trong bệnh viện thực hiện tốt nhiệm vụ của bệnh viện. - Tổ chức bộ máy quả lý của bệnh viện phù hợp với nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt công tác cán bộ và mọi chính sách chế độ đối với các thành viên trong bệnh viện và người bệnh theo quy định. - Mở rộng quan hệ hợp tác trong và ngoài nước nhằm phát triển mọi nguồn lực của bệnh viện theo quy định của Nhà nước. ... Phó giám đốc là người giúp giám đốc về từng mặt công tác do giám đốc phân công và chịu trách nhiệm trước giám đốc về những quyết định của mình. Phó giám đốc được quyền thay giám đốc giải quyết những công việc theo giấy uỷ quyền của giám đốc và phải báo cáo lại những công việc đã giải quyết với giám đốc. Tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu 2 phó giám đốc được phân công nhiệm vụ cụ thể: một người phụ trách khối lâm sàng; một người phụ trách khối hành chính và cận lâm sàng. Như vậy cơ cấu ban giám đốc của bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là rất hợp lý, có đủ khả năng lãnh đạo bệnh viện hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao. 4.2. Đặc điểm chức năng nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Phòng Kế hoạch tổng hợp Phòng Kế hoạch tổng hợp của bệnh viện là phòng nghiệp vụ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của giám đốc bệnh viện hoặc phó giám đốc được giám đốc uỷ quyền. Phòng chịu trách nhiệm trước giám đốc về kế hoạch hoạt động của các khoa, phòng; đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện quy chế bệnh viện; tổ chức chỉ đạo công tác nghiệp vụ chuyên môn của bệnh viện. Cơ cấu cán bộ, nhân viên như sau: Chức danh công việc Số lượng Bác sỹ 3 Y sỹ 3 Y tá trung cấp 5 Kỹ thuật viên trung cấp 1 Kỹ thuật viên sơ cấp 1 Dược tá 1 Y công 1 Tổng số 15 Trong đó: 1 trưởng phòng phụ trách chung. 1 phó phòng giúp việc cho trưởng phòng. 1 điều dưỡng trưởng bệnh viện tổ chức, thực hiện việc chăm sóc người bệnh toàn diện. Các thành viên khác trong phòng thực hiện công việc theo sự phân công, chỉ đạo của trưởng phòng và theo qui chế bệnh viện. Trong cơ cấu cán bộ hiện nay của phòng Kế hoạch tổng hợp bao gồm cả cơ cấu cán bộ của phòng Điều dưỡng, do đó phòng còn có nhiệm vụ tổ chức, điều hành và giám sát công tác chăm sóc người bệnh toàn diện. Nhiệm vụ cụ thể: - Căn cứ vào nhiệm vụ của bệnh viện, hướng dẫn các khoa, phòng lập kế hoạch thực hiện các mặt hoạt động của bệnh viện. - Tổ chức đào tạo liên tục cho các thành viên trong bệnh viện và tuyến dưới. Phối hợp với các trường để tổ chức thực hành cho các thành viên. - Tổng kết, đánh giá công tác chuyên môn, triển khai công tác nghiên cứu khoa học trong toàn bệnh viện. - Tổ chức việc điều hoà phối hợp công tác giữa các khoa phòng trong bệnh viện, giữa bệnh viện với các cơ quan có liên quan nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bệnh viện. - Tổ chức thực hiện công tác hợp tác quốc tế theo kế hoạch của bệnh viện và quy định của Nhà nước. - Phối hợp với các phòng ban chức năng để chỉ đạo, hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật cho tuyến dưới. - Đảm bảo việc lưu trữ, thống kê, khai thác hồ sơ bệnh án theo quy định. - Tổ chức công tác thường trực toàn bệnh viện. - Xây dựng quy hoạch phát triển chuyên môn kỹ thuật của bệnh viện để trình giám đốc xét duyệt và báo cáo cấp trên. - Định kỳ sơ kết, tổng kết công tác điều trị, báo cáo giám đốc và cơ quan cấp trên. - Chuẩn bị các phương án phòng chống thiên tai, thảm hoạ và các trường hợp bất thường khác để trình giám đốc và tổ chức thực hiện. Bên cạnh những nhiệm vụ trên, bộ phận làm công tác điều dưỡng, đứng đầu là điều dưỡng trưởng bệnh viện, thực hiện các nhiệm vụ sau: - Tổ chức chỉ đạo Y tá (điều dưỡng), Nữ hộ sinh, Kỹ thuật viên và Hộ lý thực hiện đúng các quy định kỹ thuật bệnh viện và quy chế bệnh viện. - Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho Y tá (điều dưỡng), Nữ hộ sinh, Kỹ thuật viên và Hộ lý. Tham gia hướng dẫn thực hành cho học viên và kiểm tra tay nghề cho Y tá, Nữ hộ sinh , Kỹ thuật viên và Hộ lý trước khi tuyển dụng. - Lập kế hoạch mua sắm dụng cụ, vật tư cho công tác chăm sóc và phục vụ người bệnh; kiểm tra việc sử dụng và bảo quản theo quy định. - Kiểm tra công tác về sinh, chống nhiễm khuẩn tại các buồng bệnh và các khoa. - Phối hợp với phòng tổ chức cán bộ, bố trí và điều động Y tá (điều dưỡng), Nữ hộ sinh, Kỹ thuật viên và Hộ lý. - Tham gia công tác nghiên cứu khoa học và chỉ đạo tuyến. - Định kỳ sơ kết, tổng kết công tác chăm sóc người bệnh toàn diện, báo cáo cho giám đốc bệnh viện. Qua chức năng và nhiệm vụ của phòng Kế hoạch tổng hợp tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu ta thấy rằng, tuy cùng một phòng nhưng được tách thành hai bộ phận riêng và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ riêng. Cơ cấu tổ chức của phòng như vậy còn gây khó khăn cho lãnh đạo phòng cũng như lãnh đạo bệnh viện trong việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ còn thiếu, chưa có cán bộ có chuyên môn về lập kế hoạch và thống kê, gây ảnh hưởng đến chất lượng công việc cũng như năng suất lao động. 4.3. Đặc điểm chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Phòng Tổ chức- Hành chính Phòng Tổ chức- Hành chính là phòng nghiệp vụ, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của giám đốc bệnh viện và chịu tránh nhiệm trước giám đốc về tổ chức thực hiện công tác tổ chức cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ và công tác hành chính của bệnh viện . Cơ cấu cán bộ, nhân viên như sau: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Y sỹ 2 2 Văn thư 2 Tổng số 4 Trong đó bố trí như sau: 1 trưởng phòng phụ trách chung. Các thành viên khác thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công chỉ đạo của trưởng phòng và theo qui chế bệnh viện. Đây là phòng kiêm nhiệm hai chức năng tổ chức và hành chính, với nhiệm vụ cụ thể là: - Căn cứ vào nhiệm vụ chung của bệnh viện, lập kế hoạch tổ chức bộ máy,sắp xếp nhân lực , đào tạo nhân lực , tổ chức thi tuyển nhân lực để trình giám đốc xét duyệt và tổ chức thực hiện. -Tổ chức thực hiện công tác cán bộ, quản lý hồ sơ, lý lịch theo phương pháp khoa học, làm thống kê báo cáo theo qui định. -Xây dựng lề lối làm việc và quan hệ công tác giữa các khoa phòng trình giám đốc xét duyệt và tổ chức thực hiện. -Tổ chức thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quan hệ chặt chẽ với các tổ chức Đảng, chính quyền địa phương để phối hợp công tác trong công việc có liên quan. -Tổ chức thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước, của ngành Y tế đối với mọi thành viên và người bệnh. Phối hợp với các đoàn thể quần chúng, tổ chức các phong trào thi đua, các đợt học tập thời sự, chính trị, chính sách, văn hoá, ngoại ngữ để nâng cao Y đức, tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ. -Phối hợp với các khoa, phòng chức năng, đề xuất với giám đốc bệnh viện giải quyết những vấn đề có liên quan đến người bệnh thuộc diện chính sách xã hội. -Nắm tình hình, tâm tư nguyện vọng của mọi thành viên trong bệnh viện để đề xuất với giám đốc giải quyết. -Tổ chức công tác quản lý các công văn đi và đến của bệnh viện, bảo quản lưu trữ hồ sơ theo quy định. Đảm bảo hệ thống thông tin liên lạc của bệnh viện. Qua chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của phòng Tổ chức-Hành chính, ta thấy rằng số lượng cán bộ chưa đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ của phòng. Cơ cấu cán bộ còn chưa hợp lý, chưa có cán bộ có chuyên môn về tổ chức, do đó ảnh hưởng đến công tác cán bộ của bệnh viện. Bên cạnh đó, sự lồng ghép các chức năng chưa phù hợp cũng gây ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của phòng. 4.4 Đặc điểm chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Phòng Quản trị Phòng Quản trị là phòng chức năng, nghiệp vụ, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của giám đốc bệnh viện, và chịu trách nhiệm trước giám đốc về toàn bộ công tác quản trị trong bệnh viện. Cơ cấu cán bộ của phòng như sau: STT Chức danh công việc Số lượng 1 Đại học kế toán 1 2 Thủ kho 1 3 Bảo vệ 9 4 Lái xe 4 5 Thợ mộc 1 6 Nhân viên nhà xác 1 7 Thợ điện,nước 3 8 Thợ bảo dưỡng máy móc,thiết bị 2 9 Y công 4 Tổng cộng 26 Trong đó: 1 trưởng phòng phụ trách chung. 1 phó phòng giúp việc cho trưởng phòng. Các thành viên khác thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công, chỉ đạo của trưởng phòng và theo qui chế bệnh viện. Nhiệm vụ cụ thể của phòng Quản trị: - Căn cứ vào kế hoạch công tác của bệnh viện, lập kế hoạch công tác của phòng để trình giám đốc phê duyệt và tổ chức thực hiện. - Lập kế hoạch cung ứng vật tư, trang thiết bị thông dụng cho các khoa, phòng trong bệnh viện theo kế hoạch đã duyệt, đảm bảo đầy đủ, đúng chủng loại, đúng quy định về quản lý tài chính. - Đảm bảo công tác tiếp khách, phục vụ các buổi hội nghị toàn bệnh viện. - Tham gia kiểm tra chế độ bảo quản, sử dụng vận hành các máy móc, thiết bị thông dụng của các khoa, phòng trong bệnh viện. - Quản lý nhà cửa, kho tàng, vật tư, thiết bị thông dụng của bệnh viện. - Quản lý phương tiện vận tải của bệnh viện. Điều động ôtô đi công tác, cấp cứu theo quy định. - Tổ chức việc thực hiện sửa chữa nhà cửa, dụng cụ, duy tu, bảo dưỡng các máy móc thiết bị thông dụng theo kế hoạch. - Đảm bảo cung cấp đầy đủ nước sạch, cung ứng điện, hơi để sấy, hấp tiệt trùng và sử lý chất thải của bệnh viện. - Đảm bảo vệ sinh ngoại cảnh sạch đẹp (vườn hoa, cây cảnh...), hệ thống cống rãnh thông thoát trong bệnh viện. Định kỳ tổ chức kiểm tra vệ sinh chung trong bệnh viện. - Đảm bảo công tác trật tự trị an chung. Tham gia kiểm tra công tác bảo hộ trong bệnh viện. - Định kỳ tổng kết công tác cung ứng, mua sắm vật liệu, vật tư, trang thiết bị thông dụng, báo cáo giám đốc bệnh viện. - Định kỳ báo cáo giám đốc và nhận xét việc sử dụng hợp lý vật tư tiêu hao ở các khoa, phòng trong bệnh viện để giám đốc xem xét việc khen thưởng, kỷ luật. - Nghiên cứu xây dựng định mức vật tư thông dụng để trình giám đốc duyệt,và tổ chức thực hiện. Qua chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của phòng Quản trị, ta thấy rằng số lượng cán bộ còn ít so với quy mô của bệnh viện cũng như nhiệm vụ của phòng. Cơ cấu cán bộ của phòng còn chưa hợp lý, chưa có cán bộ có chuyên môn quản trị.Cường độ làm việc của cán bộ nhân viên trong phòng còn cao, và công tác điều hành công việc còn gặp khó khăn. Vì vậy cần bổ sung thêm cán bộ để phòng có thể thực hiện tốt nhiệm vụ. 4.5. Đặc điểm chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Phòng Tài chính - Kế toán Phòng Tài chính - Kế toán của bệnh viện là phòng nghiệp vụ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc bệnh viện và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về toàn bộ hoạt động tài chính, kế toán của bệnh viện. Nhiệm vụ cụ thể của phòng: - Căn cứ vào chế độ chính sách hiện hành và kế hoạch công tác của bệnh viện, lập dự toán ngân sách, kế hoạch thu, chi của bệnh viện và tổ chức thực hiện khi kế hoạch được duyệt. - Theo định hướng hạch toán kinh trong công tác khám bệnh, chữa bệnh, tổ chức quả lý chặt chẽ việc thu, chi viện phí theo quy định. - Theo kế hoạch ngân sách và các nguồn thu khác tổ chức xây dựng định mức chi tiêu cho từng hoạt động cụ thể của bệnh viện. - Tổ chức công tác kế toán trong bệnh viện theo đúng quy định hiện hành. Thực hiện các nghiệp vụ kế toán lao động, tiền lương, chế độ chính sách, vật tư tài sản, hành chính sự nghiệp chính xác, kịp thời. Tổ chức hướng dẫn kiểm tra, giám sát công tác kế toán, chế độ thu, chi của bệnh viện. - Định ký thực hiện báo cáo quyết toán, tổng kết tài sản, kiểm kê tài sản. - Tổ chức bảơ quản, lưu trữ các chứng từ, sổ sách kế toán theo đúng quy định. - Tổng hợp tình hình, số liệu cụ thể, phân tích kết quả hoạt động của bệnh viện. Cơ cấu cán bộ của Phòng Tài chính - Kế toán như sau: STT Chức danh công việc Số lượng 1 Kế toán Đại học 2 2 Kế toán Trung cấp 5 3 Kế toán Sơ cấp 4 Tổng số 11 Trong đó: Một trưởng phòng phụ trách chung. Một phó phòng giúp việc cho trưởng phòng. Các nhân viên trong phòng thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của trưởng phòng. Theo chức năng nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Phòng Tài chính - Kế toán của Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa hiện nay thì số lượng và cơ cấu cán bộ là phù hợp đối với quy mô của một bệnh viện hạng III, 300 giường bệnh. Do bệnh viện hiện nay đã thực hiện hạch toán kinh tế mà bệnh viện đang có kế hoạch tăng số lượng giường bệnh. Vì vậy cũng cần tăng thêm cán bộ. Tuy nhiên, để thuận lợi cho công việc thu, chi viện phí thì Phòng cũng cần có cán bộ am hiểu về chuyên môn ngành Y. 4.6. Đặc điểm công tác và cơ cấu cán bộ của Khoa Khám bệnh Khoa Khám bệnh của bệnh viện là Khoa lâm sàng, có nhiệm vụ tổ chức và tiếp nhận người bệnh đến cấp cứu, khám bệnh, chọn lọc người bệnh vào điều trị nội trú, thực hiện điều trị ngoại trú và hướng dẫn chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ, theo dõi tình hình bệnh tật trong vùng dân cư được phụ trách để có biện pháp ngăn ngừa bệnh tật. Khoa thường xuyên được cán bộ có chuyên môn kỹ thuật tại các khoa điều trị ra công tác tại khoa theo chuyên khoa. Cơ cấu cán bộ của Khoa Khám bệnh: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 10 2 Y sỹ 3 3 Nữ hộ sinh sơ cấp 1 4 Y tá trung cấp 11 5 Y tá sơ cấp 5 6 Hộ lý 7 Tổng cộng 37 Trong đó, bố trí như sau: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Bác sỹ phó khoa giúp việc cho trưởng khoa và làm công tác chuyên môn. Một Y tá trưởng khoa. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế bệnh viện và chịu sự phân công chỉ đạo của trưởng khoa. Với nhiệm vụ đón tiếp bệnh nhân đến cấp cứu và khám bệnh ban đầu, cho nên biên chế hiện nay của khoa chưa đáp ứng được nhu cầu do bệnh nhân quá đông. Hiện tại Bác sỹ nội - cấp cứu phải trực tua 3, không đảm bảo sức khoẻ. Y tá ( điều dưỡng ) tại Phòng khám bệnh chưa có và tại Phòng cấp cứu không đủ người trực. Khoa chưa có Y tá hành chính, nhiệm vụ này hiện nay do Y tá trưởng khoa đảm nhịêm, do đó ảnh hưởng rất nhiều đến công tác của Y tá trưởng khoa. Mặt bằng của phòng khám rộng, hai Hộ lý không đảm nhiệm nổi. Riêng phòng cấp cứu có 5 Hộ lý không đủ trực tua 3. Hơn nữa bệnh nhân hiện nay quá đông và Hộ lý phải đảm nhiệm công việc chuyển bệnh nhân đến Phòng cấp cứu và các khoa điều trị, Y tá còn phải theo xe cứu thương đi đón bệnh nhân hoặc phải đưa bệnh nhân chuyển viện. Qua đó ta thấy rằng để đảm bảo tốt nhiệm vụ thì Khoa Khám bệnh cần được bổ sung thêm cán bộ với cơ cấu hợp lý. 4.7. Đặc điểm nhiệm vụ, cơ cấu cán bộ của Khoa Hồi sức-Cấp cứu Khoa Hồi sức- Cấp cứu là Khoa lâm sàng, điều trị và chăm sóc tích cực những người bệnh nặng, có chức năng sống bị đe doạ cần phải hỗ trợ. Đây là khoa được ưu tiên bố trí nhân lực đào tạo chuyên khoa, đầu tư trang thiết bị và các điều kiện làm việc đáp ứng công tác hồi sức cấp cứu 24/24 h. Khoa được tổ chức giây chuyền cấp cứu, điều trị, chăm sóc tích cực người bệnh tại khoa, và hỗ trợ chuyên môn cho hệ thống hồi sức cấp cứu tại các khoa trong bệnh viện hoặc tuyến dưới. Khi bệnh nhân đã ổn định thì chuyển về các khoa thích hợp. Các cán bộ tại khoa phải thường xuyên có mặt bên giường bệnh để theo dõi những diễn biến bất thường của người bệnh, chuyển bị đầy đủ dụng cụ, phương tiện, thuốc men theo quy định sẵn sàng phục vụ người bệnh. Cơ cấu cán bộ của Khoa Hồi sức- Cấp cứu: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 6 2 Y sỹ 1 3 Y tá trung cấp 13 4 Hộ lý 3 Tổng cộng 23 Trong đó sắp xếp như sau: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Bác sỹ phó khoa giúp việc Bác sỹ trưởng khoa. Một Y tá trưởng khoa. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện và chịu sự chỉ đạo của trưởng khoa. Một số chỉ tiêu tổng hợp: - Giường bệnh: 12 - Cán bộ cho một giường bệnh ( 23/12 ): 1,9. - Số giường bệnh một Bác sỹ phụ trách ( 12/6 ): 2. - Tỉ lệ Bác sỹ/ nhân viên phục vụ ( 6/14 ): 1/ 1,33. - Công suất sử dụng giường bệnh: 114%. Nhìn chung, số lượng cán bộ và cơ cấu cán bộ tại Khoa Hồi sức-Cấp cứu hiện nay của Bệnh viện đa khoa Bà Rịa là phù hợp với quy mô bệnh viện và quy mô giường bệnh. Tuy nhiên do tính chất đặc thù của khoa này đòi hỏi cán bộ phải có trình độ chuyên môn cao và trách nhiệm rất nặng nề, do vậy cán bộ cần có thời gian học tập nghiên cứu. Cho nên, cần bổ sung thêm cán bộ để tránh tình trạng làm việc quá tải trong khoa, nhất là khi có người đi học, bị ốm đau hoặc nghỉ phép. Hơn nữa công suất sử dụng giường bệnh hiện nay là rất cao 114%. 4.8. Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Khoa Nội - Nhiễm Khoa Nội- Nhiễm là Khoa lâm sàng thực hiện các phương pháp không phẫu thuật để chữa bệnh. Trong khám bệnh, chữa bệnh, phải kết hợp chặt chẽ lâm sàng, các kết quả xét nghiệm cận lâm sàng và kết hợp với các chuyên khoa. Khoa Nội- Nhiễm là một khoa trọng điểm có liên quan đến nhiều chuyên khoa trong bệnh viện, do đó được bố trí tại trung tâm bệnh viện thuận lợi cho việc cấp cứu người bệnh, làm xét nghiệm cận lâm sàng. Bác sỹ của Khoa Nội phải tham gia khám bệnh tại Khoa khám bệnh. Khi khám bệnh Bác sỹ phải khại thác tiền sử của người bệnh, kết hợp với phương pháp xét nghiệm cận lâm sàng để chuẩn đoán, xác định bệnh, làm hồ sơ bệnh án ban đầu theo quy chế chuẩn đoán và kê đơn điều trị. Khi phát hiện người bệnh có dấu hiệu mắc bệnh truyền nhiễm phải chuyển sang phòng khám chuyên khoa thích hợp mà người bệnh mắc là chính. Đối với bệnh nặng mới cho vào viện, bệnh nhẹ thì kê đơn về nhà điều trị hoặc thực hiện điều trị ngoại trú, với bệnh nhân chưa xác định bệnh phải cho nằm lưu để theo dõi. Tại khoa điều trị Bác sỹ phải thăm khám bệnh nhân ngay để bổ sung bệnh án đối với người bệnh mới vào, cho làm các xét nghiệm cần thiết để chuẩn đoán xác định bệnh, ghi y lệnh điều trị, chế độ chăm sóc dinh dưỡng. Hiện tại Khoa Nội- Nhiễm của Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa được sát nhập từ hai chuyên khoa Nội và Nhiễm. Tuy nhiên khu vực bệnh nhiễm được cách ly xa các khoa khác để tránh lây lan. Cơ cấu cán bộ của Khoa Nội- Nhiễm: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 10 2 Y sỹ 4 3 Nữ hộ sinh trung cấp 1 4 Y tá trung cấp 11 5 Y tá sơ cấp 2 6 Hộ lý 4 Tổng cộng 32 Trong đó: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Bác sỹ phó khoa giúp việc Bác sỹ trưởng khoa. Một Y tá trưởng khoa. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện, quy chế của Khoa Nội- Nhiễm và chịu sự phân công, chỉ đạo của trưởng khoa. Một số chỉ tiêu tổng hợp: - Giường bệnh (Nội: 60;Nhiễm: 20): 80 - Cán bộ cho một giường bệnh (32/80 ): 0,4. - Số giường bệnh một Bác sỹ phụ trách ( 80/10 ): 8. - Tỉ lệ Bác sỹ/ nhân viên phục vụ ( 10/18 ): 1/ 1,8. - Công suất sử dụng giường bệnh: 117%. Hiện nay Khoa Nội- Nhiễm có các phòng nội chuyên sâu như phòng cấp cứu, Phòng bệnh tim mạch, Phòng bệnh thường và khu bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm. Hiện nay Khoa rất thiếu cán bộ, vì phải chia làm hai khu vực. Y tá trưởng khoa phải kiêm nhiệm vụ của Y tá hành chính. Cơ cấu cán bộ cũng chưa phù hợp, một Bác sỹ phụ trách 8 giường bệnh quá cao so với mức hợp lý. Tỷ lệ giữa Bác sỹ và nhân viên phục vụ quá thấp (1/1,8) dẫn đến tình trạng thiếu Y tá làm công tác điều dưỡng, 4 Y sỹ hiện nay đang làm công tác điều dưỡng, với 4 Hộ lý phụ trách 80 giường bệnh chia làm 2 khu vực và phải trực 24/24 h thì quá vất vả. Trong khi công suất sử dụng giường bệnh lại rất cao ( 117% ). Do đó cần phải bổ sung thêm cán bộ cho phù hợp, đảm bảo được tốt công tác của khoa cũng như có thời gian học tập, nghiên cứu nâng cao chuyên môn. Điều đó giải quyết được vấn đề làm việc quá tải của nhân viên trong khoa hiện nay. Hơn nữa để có đủ cán bộ và nhân viên tách thành hai:Khoa Nội và Khoa Nhiễm. 4.9. Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Khoa Ngoại tổng hợp Khoa Ngoại tổng hợp là Khoa lâm sàng thực hiện khám bệnh, chữa bệnh chủ yếu bằng các thủ thuật và phẫu thuật. Đây là khoa được bố trí liên hoàn thuận lợi cho công tác phẫu thuật, chăm sóc và vận chuyển người bệnh. Các cán bộ: Bác sỹ, Y tá, Kỹ thuật viên phải tham gia phẫu thuật theo sự phân công của trưởng khoa, có trách nhiệm theo dõi và điều trị người bệnh trước và sau khi phẫu thuật. Thực hiện mọi quy định của Khoa Ngoại theo quy chế bệnh viện. Hiện nay, Khoa Ngoại tổng hợp của bệnh viện Đa khoa Bà Rịa hoạt động chuyên môn tập trung 3 chuyên khoa lớn là Ngoại thần kinh, Ngoại tổng quát, Ngoại chỉnh hình. Trong khoa có một phòng Hồi sức- Cấp cứu để chăm sóc bệnh nhân nặng. Cơ cấu cán bộ của Khoa Ngoại tổng hợp: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 10 2 Y sỹ 2 3 Y tá trung cấp 9 4 Y tá sơ cấp 3 5 Hộ lý 4 Tổng cộng 28 Trong đó: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Bác sỹ phó khoa giúp việc Bác sỹ trưởng khoa. Một Y tá trưởng khoa. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện, quy chế của Khoa Ngoại và chịu sự phân công, chỉ đạo của trưởng khoa. Một số chỉ tiêu tổng hợp: - Giường bệnh: 60. - Cán bộ cho một giường bệnh (28/60): 0,46. - Số giường bệnh một Bác sỹ phụ trách (60/10): 6. - Tỉ lệ Bác sỹ/ nhân viên phục vụ (10/14): 1/ 1,4. - Công suất sử dụng giường bệnh: 110%. Qua số liệu trên ta thấy rằng số lượng cán bộ nhân viên/1 giường bệnh là rất thấp (0,46). Trong khi công suất sử dụng giường bệnh lại rất cao gây ra tình trạng làm việc rất vất vả của cán bộ nhân viên trong khoa. Khoa chưa có Y tá hành chính, nhiệm vụ này Y tá trưởng khoa phải đảm nhiệm, do đó ảnh hưởng tới công việc chăm sóc người bệnh. Cơ cấu cán bộ trong khoa cũng chưa hợp lý, Bác sỹ chưa đủ cho các chuyên khoa sâu như: Ngoại chỉnh hình và Ngoại thần kinh. Cán bộ điều dưỡng thiếu nghiêm trọng. Khoa có nhiều phòng bố trí mặt bằng rộng, do vậy 4 Hộ lý không đảm nhiệm tốt được nhiệm vụ trong suôt 24/ 24 h. Trong khi đó các trung tâm y tế huyện lân cận, Khoa Ngoại lại rất yếu chỉ có khả năng thực hiện các ca tiểu phẫu đơn giản. Khoa Ngoại tổng hợp rất cần được bổ sung cán bộ với cơ cấu chuyên môn hợp lý thì mới đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ. 4.10. Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Khoa Sản Khoa Phụ sản là Khoa lâm sàng có nhiệm vụ đỡ đẻ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ - trẻ sơ sinh và khám bệnh, chữa bệnh phụ khoa. Bên cạnh đó tham gia chỉ đạo tuyến dưới, đào tạo cán bộ chuyên khoa và tham gia tuyên truyền bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh, dân số - kế hoạch hoá gia đình. Các thành viên của khoa phải thực hiện quy chế công tác Khoa Khám bệnh, Khoa Ngoại, Khoa Phẫu thuật - Gây mê hồi sức và quy chế chống nhiễm khuẩn của bệnh viện. Phải theo dõi sát sản phụ, ghi đầy đủ các diễn biến vào hồ sơ bệnh án, khi có dấu hiệu cấp cứu sản, phụ và thai nhi phải sử lý kịp thời nhất là khi cần can thiệp phẫu thuật. Sau khi sinh nếu trẻ có dấu hiệu bất thường phải báo cáo ngay Bác sỹ sản khoa để xử lý kịp thời và chuyển đến buồng nuôi riêng. Tại bệnh viện Đa khoa Bà Rịa Khoa Sản được bố trí thành 7 phòng: 1. Phòng khám phụ khoa. 2. Phòng khám thai. 3. Phòng kế hoạch hóa gia đình. 4. Phòng nạo sẩy thai. 5. Phòng hậu sản. 6. Phòng hậu phẫu sản phụ khoa. 7. Phòng nhận bệnh. Cơ cấu cán bộ của Khoa Sản: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 5 2 Y sỹ 5 3 Y tá trung cấp 1 4 Nữ hộ sinh trung cấp 10 5 Hộ lý 4 Tổng cộng 27 Trong đó: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Bác sỹ phó khoa giúp việc Bác sỹ trưởng khoa. Một Nữ hộ sinh trưởng khoa. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện, quy chế của Khoa Sản và chịu sự phân công, chỉ đạo của trưởng khoa. Một số chỉ tiêu tổng hợp: - Giường bệnh: 60. - Cán bộ cho một giường bệnh (27/60): 0,45. - Số giường bệnh một Bác sỹ phụ trách (60/5): 12. - Tỉ lệ Bác sỹ/ nhân viên phục vụ (5/18): 1/ 3,6. - Công suất sử dụng giường bệnh: 76%. Mặc dù công suất sử dụng giường bệnh của khoa là thấp nhưng do cơ cấu cán bộ chưa hợp lý, số Bác sỹ còn quá ít để phân bổ cho các phòng cũng như đảm bảo trực và tham gia chỉ đạo chuyên môn cho tuyến dưới. Do đó khoa vẫn cần được bổ sung thêm cán bộ nhất là Bác sỹ. 4.11. Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Khoa Nhi Khoa Nhi là Khoa lâm sàng điều trị các bệnh cho trẻ em dưới 15 tuổi. Khoa được xắp xếp bố trí theo từng giường bệnh và từng buồng bệnh. Cán bộ trong khoa phải thực hiện quy chế công tác Khoa Nội, tham gia khám bệnh chuyên khoa Nhi tại Khoa khám bệnh. Phải theo dõi sát sao các diễn biến lâm sàng, ghi đầy đủ các triệu chứng điển hình, sử lý kịp thời các diễn biến nặng như sốt cao co giật, mất nước, dối loạn điện giải, ngạt thở tím tái, phải tiến hành thủ thuật tại buồng riêng tránh cho trẻ em sợ hãi. Do đặc điểm lứa tuổi, cho nên khi khám bệnh nhi phải dựa vào cha mẹ, người nuôi dưỡng để khai thác tiền sử của bệnh. Kết hợp với khám các chuyên khoa có liên quan và các phương tiện xét nghiệm chuẩn đoán cận lâm sàng. Nhiều thao tác kỹ thuật không thể thực hiện ngay được. Cơ cấu cán bộ của Khoa nhi: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 8 2 Y sỹ 3 3 Y tá trung cấp 8 4 Y Tá sơ cấp 1 5 Nữ hộ sinh trung cấp 1 6 Hộ lý 2 Tổng cộng 23 Trong đó: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Bác sỹ phó khoa giúp việc Bác sỹ trưởng khoa. Một Y tá trưởng khoa. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện, quy chế của Khoa Nhi và chịu sự phân công, chỉ đạo của trưởng khoa. Một số chỉ tiêu tổng hợp: - Giường bệnh: 60. - Cán bộ cho một giường bệnh (23/60): 0,38. - Số giường bệnh một Bác sỹ phụ trách (60/8): 7,5. - Tỉ lệ Bác sỹ/ nhân viên phục vụ (8/13): 1/1,625. - Công suất sử dụng giường bệnh: 128% Qua đặc điểm công tác và cơ cấu cán bộ của khoa nhi ta thấy rằng số lượng cán bộ cho một giường bệnh quá thấp (0,38), nhân viên phục vụ còn quá ít. Hai Hộ lý không thể đảm bảo phục vụ cho 60 giường bệnh cả 24/24 h. Hiện nay khoa chưa có Y tá hành chính công việc này Y tá trưởng khoa phải đảm nhiệm. Khoa cần được bổ sung thêm nhân sự nhất là Y tá và Hộ lý. Hơn nữa theo kế hoạch của bệnh viện khoa sẽ triển khai phòng cấp cứu nhi, phòng săn sóc trẻ sơ sinh và phụ trách phòng khám Nhi thì với số lượng và cơ cấu cán bộ như vậy không thể triển khai được. 4.12. Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Liên chuyên khoa (Răng- Hàm- Mặt- Mắt- Tai- Mũi- Họng) Liên chuyên khoa là một Khoa lâm sàng thực hiện công tác chữa bệnh bằng nội khoa và ngoại khoa. Liên chuyên khoa tại bệnh viện Đa khoa Bà Rịa là một khoa gồm 3 chuyên khoa: Mắt - Tai Mũi Họng - Răng Hàm Mặt. Cán bộ trong khoa phải tham gia khám bệnh chuyên khoa tại 3 phòng khám thuộc Khoa khám bệnh của bệnh viện. Khoa thực hiện điều trị bệnh nội trú và tham gia phẫu thuật, tham gia công tác chỉ đạo tuyến dưới. Các thành viên trong khoa phải thực hiện quy chế công tác khoa khám bệnh, Khoa Ngoại, Khoa Nội, Khoa Phẫu thuật- Gây mê hồi sức, quy chế chống nhiễm khuẩn bệnh viện và chăm sóc người bệnh toàn diện. Cơ cấu cán bộ của Khoa Liên chuyên khoa: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 7 2 Y sỹ 1 3 Y tá trung cấp 4 4 Nữ hộ sinh sơ cấp 1 Tổng cộng 13 Trong đó: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Bác sỹ phó khoa giúp việc Bác sỹ trưởng khoa. Một Y tá trưởng khoa. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện, quy chế của các khoa liên quan và chịu sự phân công, chỉ đạo của trưởng khoa. Một số chỉ tiêu tổng hợp: - Giường bệnh: 20. - Cán bộ cho một giường bệnh (13/20): 0,65. - Số giường bệnh một Bác sỹ phụ trách (20/7): 2,85. - Tỉ lệ Bác sỹ/ nhân viên phục vụ (7/13): 1/ 1,85. - Công suất sử dụng giường bệnh: 125%. Khoa bao gồm 3 chuyên khoa, nhưng số giường bệnh ít, do bệnh nhân thường đến khám và thực hiện thủ thuật song về nhà điều trị ngoại trú. Chỉ những bệnh nhân nặng hoặc phải phẫu thuật mới điều trị tại khoa, khoa cần được sử dụng các kỹ thuật cận lâm sàng hỗ trợ cho công tác khám và điều trị như: thăm dò chức năng, siêu âm mắt, nội soi tai mũi họng. Khoa cần có ê kíp mổ chuyên khoa do vậy cần phải bổ sung nhân lực hơn nữa hiện nay khoa chưa có Hộ lý trong biên chế. Khoa cần phải được tách riêng các chuyên khoa để thuận lợi cho công tác khám chữa bệnh và công tác quản lý của khoa. 4.13. Đặc điểm nhiệm vụ của Khoa Phẫu thuật -Gây mê hồi sức Khoa Phẫu thuật- Gây mê hồi sức là Khoa lâm sàng gồm hệ thống các buồng phẫu thuật để thực hiện các thủ thuật, phẫu thuật cấp cứu theo kế hoạch. Các cán bộ làm việc tại khoa phải đảm bảo các yêu cầu và tuân theo quy chế của khoa phẫu thuật - gây mê hồi sức trong quy chế của bệnh viện do Bộ Y tế ban hành. Phải thực hiện đầy đủ các quy trình trước, trong và sau khi phẫu thuật. Các cán bộ nhân viên của khoa phải thường xuyên chuẩn bị chu đáo phòng, dụng cụ, thuốc men, máy móc phục vụ cho các kíp mổ theo kế hoạch và đáp ứng được mọi nhu cầu cho mổ cấp cứu. Các ca phẫu thuật thường do các cán bộ của các chuyên khoa thực hiện. Cơ cấu cán bộ của Khoa Phẫu thuật- Gây mê hồi sức: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 1 2 Y sỹ 2 3 Kỹ thuật viên Đại học 1 4 Kỹ thuật viên trung cấp 3 5 Y tá trung cấp 11 6 Y tá sơ cấp 4 7 Nữ hộ sinh trung cấp 2 8 Hộ lý 2 Tổng cộng 26 Trong đó: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Y tá trưởng khoa. Khoa có 8 giường hậu phẫu. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện, quy chế của Khoa Phẫu thuật- Gây mê hồi sức và chịu sự phân công, chỉ đạo của trưởng khoa. Qua đặc điểm nhiệm vụ, cơ cấu cán bộ của khoa và nhiệm vụ của bệnh viện tại tỉnh ta thấy rằng khoa được bố trí khá hợp lý cả về số lượng lẫn cơ cấu. Tuy nhiên xét riêng Kỹ thuật viên gây mê hồi sức thì không đảm bảo bố trí thường trực thường xuyên 24/ 24 h do đó cần được bổ sung thêm. 4.14. Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ tại Khoa Cận lâm sàng Đây là khoa cơ sở thực hiện các kỹ thuật về xét nghiệm huyết học, hoá sinh, vi sinh, sử dụng các thiết bị y tế để đánh giá chức năng các cơ quan trong cơ thể, thực hiện các kỹ thuật tạo ảnh y học để chẩn đoán bệnh và theo dõi kết quả điều trị. Các cán bộ nhân viên trong khoa phải thực hiện nghiêm chỉnh quy chế công tác tại các Khoa Cận lâm sàng. Hiện nay tại Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa Khoa Cận lâm sàng có các chuyên khoa: Xét nghiệm và Chẩn đoán hình ảnh. - Khoa xét nghiệm gồm các chuyên khoa huyết hoc, sinh hoá, vi trùng. - Khoa Chẩn đoán hình ảnh gồm các chuyên khoa X quang, Siêu âm, Điện tim ( hiện nay chưa có máy nội soi ). Cơ cấu cán bộ của Khoa Cận lâm sàng: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Bác sỹ 6 2 Dược sỹ 1 3 Kỹ thuật viên trung cấp 10 4 Kỹ thuật viên sơ cấp 1 5 Y tá trung cấp 2 6 Y công 3 Tổng cộng 23 Trong đó: Một Bác sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Bác sỹ phó khoa giúp việc cho trưởng khoa và công tác chuyên môn. Một Kỹ thuật viên trưởng khoa. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện, quy chế của Khoa Cận lâm sàng và chịu sự phân công, chỉ đạo của trưởng khoa. Hiện nay do số lượng bệnh nhân đông, máy móc cán bộ thiếu gây ảnh hưởng đến công tác của khoa. Người bệnh đến làm Xét nghiệm, X quang, Siêu âm phải chờ đợi lâu. Do vậy cần phải trang bị thêm máy móc, nhân lực cho khoa mới có thể đáp ứng được nhu cầu. Hơn nữa khoa cần được tách thành 2 khoa Xét nghiệm và Chẩn đoán hình ảnh để thuận lợi cho công tác quản lý của khoa cũng như đáp ứng nhu cầu chẩn đoán bệnh hiện nay của bệnh viện. 4.15. Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Khoa Dược Khoa Dược là Khoa cận lâm sàng, có nhiệm vụ lập kế hoạch, cung cấp và bảo đảm số lượng, chất lượng thuốc thường và thuốc chuyên khoa, hoá chất, vật dụng Ytế tiêu hao:bông, băng,cồn, gạc cho điều trị nội trú và ngoại trú đáp ứng yêu cầu điều trị hợp lý. Khoa thực hiện pha chế một số thuốc dùng trong bệnh viện; kiểm tra theo dõi việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý trong toàn bệnh viện. Tham gia quản lý kinh phí thuốc, thực hiện tiết kiệm đạt hiệu quả cao trong phục vụ người bệnh. Đồng thời đây là cơ sở thực hành của các trường Đại học Y Dược, khoa Y trong các trường Đại học và Trung học y tế. Ngoài ra còn phải tham gia công tác nghiên cứu khoa học và thông tin về thuốc. Các cán bộ của khoa phải dự trù, mua, vận chuyển thuốc và kiểm nhập thuốc, quản lý thuốc, hoá chất và dụng cụ y tế tiêu hao tại các khoa, lập sổ sách thanh toán, thống kê báo cáo. Thực hiện đúng quy chế của khoa dược theo quy chế của bệnh viện. Cơ cấu cán bộ của Khoa Dược: Stt Chức danh công việc Số lượng 1 Dược sỹ Đại học 2 2 Dược sỹ trung cấp 6 3 Dược tá 5 4 Y công 1 Tổng cộng 14 Trong đó: Một Dược sỹ trưởng khoa phụ trách chung. Một Dược sỹ phó khoa giúp việc cho trưởng khoa và công tác chuyên môn. Các cán bộ nhân viên trong khoa thực hiện nhiệm vụ theo quy chế của bệnh viện, quy chế của Khoa Dược và chịu sự phân công, chỉ đạo của trưởng khoa. Một số chỉ tiêu tổng hợp: - Số cán bộ làm công tác dược cho 100 giường bệnh (13/300): 4,3. - Số Dược sỹ Đại học cho 100 giường bệnh (2/300): 0,6. - Tỉ lệ Dược sỹ/ nhân viên phục vụ (2./11): 1/5,5. Với nhiệm hiện nay của Khoa Dược tại Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa thì biên chế của khoa là quá thấp. Chỉ có 2 Dược sỹ đại học, không có Kỹ thuật viên dược làm nhiệm vụ pha chế. Do vậy khoa cần được bổ sung thêm nhân sự với số lượng Dược sỹ đại học và Kỹ thuật viên dược hợp lý. 4.16. Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Khoa Y học dân tộc cổ truyền. Khoa Y học dân tộc cổ truyền thực hiện kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong khám, chữa bệnh ngoại trú, nội trú và đông dược. Khoa Y học dân tộc cổ truyền phối hợp với các Khoa lâm sàng tiến hành nghiên cứu ứng dụng y học dân tộc cổ truyền và kết hợp cùng y học hiện đại trong điều trị và nghiên cứu khoa học. Khoa Y học cổ truyền hướng về cộng đồng chỉ đạo sử dụng những kiến thức thông thường về xoa bóp, day ấn huyệt, tập luyện dưỡng sinh, sử dụng thuốc y học cổ của truyền trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Khoa Y học dân tộc cổ truyền tại Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa hiện nay không có giường bệnh, chỉ khám kê đơn điều trị ngoại trú. Hiện tại khoa chỉ có 2 cán bộ: Một Bác sỹ đông y. Một Y sỹ đông y. Theo kế hoạch của bệnh viện khoa sẽ phát triển thành Khoa Vật lý trị liệu- Y học cổ truyền có giường bệnh nội trú. Do đó cần có số lượng cán bộ nhân viên phù hợp. 4.17.Đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của Khoa Giải phẫu bệnh Khoa giải phẫu bệnh là cơ sở làm các xét nghiệm sinh thiết, tế bào học, khám nghiệm tử thi và siêu cấu trúc. Khoa giải phẫu bệnh có 2 bộ phận: Labô giải phẫu và nhà đại thể. Khoa làm nhiệm vụ tiếp nhận và bảo quản tử thi, khám nghiệm tử thi, khâm liệm và mai táng tử thi. Và một nhiệm vụ quan trọng là sinh thiết, xét nghiệm cơ bản. Đọc các tiêu bản tế bào bệnh học, ghi các kết quả xét nghiệm vào sổ khoa, lưu trữ những tiêu bản, bệnh phẩm điển hình phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hiện tại khoa giải phẫu bệnh tại Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa có 3 cán bộ nhân viên, trong đó: - Một Bác sỹ trưởng khoa. - Hai nhân viên nhà xác. - Với nhiệm vụ hiện nay của khoa cần được bổ sung nhân lực để đảm bảo thực hiện đầy đủ quy chế công tác của khoa và bảo đảm có người thường trực 24/ 24 h. Trên đây là đặc điểm nhiệm vụ và cơ cấu cán bộ của toàn bộ các khoa, các phòng ban trong Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa. Ngoài những phòng ban nghiệp vụ chức năng trên thì bệnh viện còn có các hội đồng với các thành viên là các cán bộ thuộc các khoa, phòng trong bệnh viện, như: Hội đồng khoa học công nghệ: 9 thành viên. Hội đồng thuốc và điều trị: 13 thành viên. Hội đồng thi đua, khen thưởng: 7 thành viên. Hội đồng khám sức khoẻ: 10 thành viên. Ban tiếp dân: 5 thành viên. Các hội đồng làm nhiệm vụ tư vấn cho Giám đốc những vấn đề liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ và thực hiện các chính sách trong bệnh viện. 5. Một số kết quả của bệnh viện trong năm qua Trong năm qua, năm đầu tiên bệnh viện chính thức là Bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, bệnh viện còn gặp nhiều khó khăn trong công tác quy hoạch cán bộ cho nên chưa đáp ứng được nhu cầu của người bệnh. Tuy vậy, bệnh viện đã đạt được một số kết quả sau: * Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú: 23.112 người. Tổng số bệnh nhân ra viện : 16.335 người. Tổng số bệnh nhân trốn viện: 1.085 người. Tổng số bệnh nhân chuyển viện: 855 ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24019.DOC
Tài liệu liên quan