Tài liệu Đề tài Hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh: LỜI NÓI ĐẦU
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp, đặc biệt là trình độ quản lý tài chính.
Trình độ quản lý tài chính của các nhà quản lý thể hiện qua sự hiểu biết về tài chính của mình, tức là không chỉ nắm vững tình hình tài chính của công ty mà còn có khả năng xử lý các thông tin tài chính của thị trường. Nắm vững tình hình tài chính của công ty là nắm vững được sự sống còn của công ty, chính vì vậy phân tích tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý của các nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên dường như phân tích tài chính vẫn chưa được chú trọng nhiều ở các doanh nghiệp ở Việt Nam, nhiều người vẫn còn mang suy nghĩ đánh đồng giữa công tác kế toán với công tác phân tích tài chính của công ty.
Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh cũng không là một ngoại lệ, chính vì điều này nên em chọn đề tài cho chuyên đề này là: “Hoàn thiện phân tích t...
65 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1028 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp, đặc biệt là trình độ quản lý tài chính.
Trình độ quản lý tài chính của các nhà quản lý thể hiện qua sự hiểu biết về tài chính của mình, tức là không chỉ nắm vững tình hình tài chính của công ty mà còn có khả năng xử lý các thông tin tài chính của thị trường. Nắm vững tình hình tài chính của công ty là nắm vững được sự sống còn của công ty, chính vì vậy phân tích tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý của các nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên dường như phân tích tài chính vẫn chưa được chú trọng nhiều ở các doanh nghiệp ở Việt Nam, nhiều người vẫn còn mang suy nghĩ đánh đồng giữa công tác kế toán với công tác phân tích tài chính của công ty.
Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh cũng không là một ngoại lệ, chính vì điều này nên em chọn đề tài cho chuyên đề này là: “Hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh” nhằm mục đích nắm bắt tình hình tài chính của công ty từ đó đưa ra được những vấn đề cần quan tâm về phía công ty TNHH quảng cáo Liên Minh, cũng như việc nêu lên tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính đối với công ty TNHH quảng cáo Liên Minh, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đã ra nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO.
Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh là công ty có ngành nghề kinh doanh đa dạng. Vì vậy bản thân điều này đã cho thấy sự phức tạp của việc phân tích tài chính của công ty, chính vì vậy cần phải phân tích một cách cẩn trọng hơn.
Dựa trên những dữ liệu thu được từ công ty cũng như công tác phân tích, kết cấu chuyên đề bao gồm:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện phân tích tài chính của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên chuyên đề này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định cần được bổ sung. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và ban lãnh đạo công ty Liên Minh.
LỜI CẢM ƠN
Chuyên đề này được hoàn thành với sự giúp đỡ của khoa Ngân hàng - Tài chính và nhân viên công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Hữu Tài đã nhiệt tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm chuyên đề.
Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo trong công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
Do thời gian có hạn nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn./.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế thị trường, cơ chế hoạt động của mỗi doanh nghiệp luôn tồn tại nhiều hoạt động khác nhau diễn ra đồng thời, một doanh nghiệp hoạt động tốt là một doanh nghiệp có thể phối hợp nhịp nhàng các hoạt động đó với nhau. Các hoạt động hỗ trợ cho nhau, thúc đẩy nhau giúp cho cả bộ máy doanh nghiệp được vận hành một cách tốt nhất. Các hoạt động đó bao gồm: hoạt động đầu tư, hoạt động quản trị nguồn nhân lực, hoạt động marketing, hoạt động tài chính doanh nghiệp. Các hoạt động này chỉ được thực hiện có hiệu quả khi nhà quản lý doanh nghiệp nắm bắt được thực trạng tài chính của doanh nghiệp để từ đó có thể xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh với số liệu quá khứ, thông qua đó đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh, những rủi ro tương lai và triển vọng phát triển của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp can thiệp kịp thời để điều chỉnh các hoạt động trong doanh nghiệp. Nhưng để nắm bắt được thực trạng tài chính doanh nghiệp, không có cách nào khác là phải nghiên cứu sâu sắc các báo cáo tài chính, phải tiến hành công tác phân tích tài chính thật tỉ mỉ, thật khoa học.
Những đặc điểm về môi trường hoạt động.
Để đạt mức doanh lợi mong muốn, doanh nghiệp cần phải có những quyết định về tổ chức hoạt động sản xuất và vận hành quá trình trao đổi. Mọi quyết định đều phải gắn kết với môi trường xung quanh. Bao quanh doanh nghiệp là một môi trường kinh tế - xã hội phức tạp và luôn biến động. Có thể kể đến một số yếu tố khách quan tác động trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ . Sự phát triển của công nghệ là một yếu tố góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của Nhà Nước. Sự thắt chặt hay nới lỏng hoạt động của doanh nghiệp được điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cơ chế quản lý tài chính.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải dự tính được khả năng xảy ra rủi ro, đặc biệt là rủi ro tài chính để có cách ứng phó kịp thời và đúng đắn. Doanh nghiệp, với sức ép của thị trường cạnh tranh, phải chuyển dần từ từ chiến lược trọng cung cổ điển sang chiến lược trọng cầu hiện đại. Những đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hóa, về chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn, tinh tế hơn của khách hàng buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất - kinh doanh có hiệu quả và chất lượng cao.
Doanh nghiệp thường phải đáp ứng được các đòi hỏi của các đối tác về mức vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn. Sự tăng, giảm vốn chủ sở hữu có tác động đáng kể tới hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế khác nhau.
Muốn phát triển bền vững, các doanh nghiệp làm chủ và dự đoán trước được sự thay đổi của môi trường để sẵn sàng thích nghi với nó. Trong môi trường đó, quan hệ tài chính của doanh nghiệp được thể hiện rất phong phú và đa dạng.
Khái niệm tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính chủ yếu bao gồm:
a ) Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà Nước.
Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà Nước, khi Nhà Nước góp vốn vào doanh nghiệp.
b ) Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính.
Quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng.
c ) Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động vv…Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường.
d ) Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.
Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất - kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thể hiện thông qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức (phân phối thu nhập), chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí vv…
Cơ sở tài chính doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp, muốn tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, cần phải có một lượng tài sản phản ánh bên tài sản của bảng cân đối kế toán. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ đượcđánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể được xác định cho một thời kỳ nhất định và được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù có sự khác biệt này, người ta vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng hóa dịch vụ đầu vào và hàng hóa dịch vụ đầu ra.
Một hàng hóa dịch vụ đầu vào hay một yếu tố sản xuất là một hàng hóa hay dịch vụ mà các doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản xuất - kinh doanh của họ. Các hàng hóa dịch vụ đầu vào được kết hợp với nhau để tạo ra các hàng hóa dịch vụ đầu ra - đó là hàng loạt các hàng hóa, dịch vụ có ích được tiêu dùng hoặc được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh khác. Như vậy, trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hóa các đầu vào thành các hàng hóa dịch vụ đầu ra để trao đổi (bán). Mối quan hệ giữa tài sản hiện có và hàng hóa dịch vụ đầu vào, hàng hóa dịch vụ đầu ra (tức là quan hệ giữa bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh) có thể mô tả sơ đồ như sau:
Hàng hóa và dịch vụ (mua vào)
Sản xuất- chuyển hóa
Hàng hóa và dịch vụ (bán ra)
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt – đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép doanh nghiệp mua các hàng hóa, dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho mục đích trao đổi. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian là tiền và khái niệm dòng vật chất và dòng tiền phát sinh từ đó, tức là sự dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế.
Như vậy, tương ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hóa, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng tiền vật chất đi ra (hàng hóa, dịch vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào.
Sản xuất, chuyển hóa là quá trình công nghệ. Một mặt nó được đặc trưng bởi thời gian chuyển hóa hàng hóa và dịch vụ, mặt khác, nó đặc trưng bởi các yếu tố cần thiết cho sự vận hành – đó là tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình công nghệ này có tác dụng quyết định tới cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thực hiện hoạt động trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hóa dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hóa dịch vụ đầu ra và tùy thuộc vào tính chất sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá trình trao đổi đó. Quá trình này quyết định sự vận hành của sản xuất và làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp dựa trên hai khái niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích lũy ban đầu những hàng hóa, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi khối lượng tài sản tích lũy của doanh nghiệp. Một khối lượng hàng hóa, tài sản hoặc tiền được đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Trong khi một khoản dự trữ chỉ có ý nghĩa tại một thời điểm nhất định thì các dòng chỉ được đo trong một thời kỳ nhất định. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp.
II. Phân tích tài chính doanh nghiệp.
2.1. Mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết.
Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau nhằm các mục tiêu khác nhau.
a ) Đối với nhà quản trị.
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng các quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính, dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý.
b ) Đối với nhà đầu tư.
Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu – lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không?
c ) Đối với người cho vay.
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư…Dù họ công tác ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ.
Như vậy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính.
2.2. Những thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp.
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng.
Trong những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin chung (thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất), thông tin về ngành kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần…) và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp (các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp…).
Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng các thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính – được hình thành thông qua xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu đó là: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
a ) Bảng cân đối kế toán.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền sử dụng và quản lý của doanh nghiệp: đó là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn của chủ (vốn tự có) và các khoản nợ.
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng chuyển hóa thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Bên tài sản: tài sản lưu động (tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán, các khoản phải thu, dự trữ); tài sản cố định hữu hình và vô hình.
Bên nguồn vốn: Nợ ngắn hạn (nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả khác, nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác). Nợ dài hạn (nợ vay dài hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu). Vốn chủ sở hữu (thường bao gồm: vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới).
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài sản, bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp.
Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong bảng còn có một khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: một số tài sản thuê ngoai, vật tư, hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hóa nhận bán hộ, ngoại tệ các loại vv…
Nhìn vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.
b ) Báo cáo kết quả kinh doanh.
Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng ghoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo két quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng với từng hoạt động đó.
Các loại thuế: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất, không phải là doanh thu không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không được báo cáo trên kết quả kinh doanh.
c ) Ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được chi trả hay không, cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định cho thời gian ngắn hạn (thường là từng tháng).
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ (thu ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ đầu tư tài chính, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện đầu tư tài chính, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền xuất quỹ và dòng tiền nhập quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục đích đảm bảo chi trả.
2.3. Phương pháp và nội dung phân tích tài chính.
2.3.1. Phương pháp phân tích tài chính.
Người ta sử dụng rất nhiều các phương pháp phân tích tài chính khác nhau nhưng trên thực tế hiện nay thì có 3 phương pháp được sử dụng phổ biến nhất: phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ và phương pháp Dupont.
a) Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Phương pháp này dùng để xây dựng xu hướng phát triển và mức độ biến động của các chỉ tiêu phát triển. Nội dung so sánh gồm:
- So sánh kỳ này với kỳ trước để thấy rõ hơn xu thế thay đổi về tình hình tài chính của doanh nghiệp
- So sánh giữa số liệu thực hiện với số kế hoạch
- So sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu của doanh nghiệp khác hoặc với số liệu trung bình của ngành.
Đây là một phương pháp đơn giản, dễ tính toán, dễ thực hiện. Sử dụng phương pháp này giúp cho các nhà phân tích đánh giá được vị thế của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, xem xét việc thực hiện kế hoạch đã đề ra thông qua đó nhà quản lý đưa ra được kế hoạch chiến lược hoạt động cho thời gian tới. Tuy nhiên kết quả thu được khi sử dụng phương pháp này chưa phản ánh một cách tổng quát nhất thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Do vậy khi tiến hành phân tích tài chính nhà phân tích thường sử dụng phối hợp nhiều phương pháp.
b) Phương pháp tỷ lệ
Là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính. Về nguyên tắc khi sử dụng phương pháp này cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu: có thể là mức trung bình ngành hay kỳ trước. Để đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm chính:
* Tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
* Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
* Tỷ số về khả năng hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
* Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất - kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp.
Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn đến nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Việc phân tích các tỷ số sẽ có ý nghĩa hơn nếu sử dụng số liệu trong các báo cáo tài chính để minh hoạ bản chất, cách tính toán và ý nghĩa các con số. Vì lẽ đó các số liệu được cung cấp trong Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh.
c ) Phương pháp Dupont
Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó với tỷ số tổng hợp.
Phương pháp phân tích Dupont cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính đặc trưng.
Biểu đồ:
Error! Bookmark not defined.
Mục đích của phương pháp này là cung cấp cho nhà quản trị một thước đo về khả năng sinh lời của doanh nghiệp và giúp cho nhà quản trị có thể tìm hiểu và tiếp cận các nguyên nhân gây ra hiện tượng đó.
Hai tỷ lệ phổ biến để phân tích là ROA và ROE
Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần
ROA = = x
Tổng TS bình quân Doanh thu thuần Tổng TS bình quân
ROA phụ thuộc vào 2 yếu tố: lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu là bao nhiêu? một đồng tài sản thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Sự phân tích cho phép xác định được nguồn gốc làm tăng hay giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
Vốn CSH bình quân
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần TổngTS bình quân
= x x
Doanh thu thuần Tổng TS bình quân Vốn CSH bình quân
Phân tích ROE cho thấy khi hệ số nợ tăng thì tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu cũng cao hơn và như vậy tỷ lệ nợ cao sẽ khuyếch trương một hệ quả về lợi nhuận là nếu tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản cao thì tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu sẽ càng cao, ngược lại khi doanh nghiệp thua lỗ thì thua lỗ càng nặng.
2.3.2.Nội dung phân tích tài chính.
a ) Phân tích các tỷ số tài chính
Trong phân tích tài chính, các chỉ số tài chínhchủ yếu thường được phân thành bốn nhóm chính:
+ Tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
+ Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
+ Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất – kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp.
+ Tỷ số về khả năng hoạt động: Nhóm chỉ tiêu này đặc trưng cho khả năng sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
Tùy theo mục tiêu phân tích tài chính mà các nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm chỉ tiêu này hay nhóm chỉ tiêu khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi của tỷ số này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.
Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Phân tiếp theo sẽ đề cập tới những tỷ số chủ yếu nhất, phố biến nhất được dùng trong phân tích, đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp.
Các tỷ số về khả năng thanh toán:
Tài sản lưu động
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác…Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Để đánh giá khả năng thanh toán các chủ nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán , mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy , sự phát triển của không ít doanh nghiệp còn được thể hiện ở sự tăng trưởng ở vốn lưu động dòng.
Tỷ số khả năng thanh toán nhanh: là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn.Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ và được xác định bằng cách lấy tài sản lưu động trừ phần dự trữ chia cho nợ ngắn hạn.
tài sản lưu động – dự trữ
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng: tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Nó được tính bằng cách chia dự trữ cho vốn lưu động ròng.
Các tỷ số về khả năng cân đối vốn:
Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu của công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bao an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất – kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chụi. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể.
Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ): tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp bị phá sản. Trong khi đó, Các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nhưng nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi: thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Các tỷ số về khả năng hoạt động:
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng sản phẩm của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền: Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng ); nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm.
Vòng quay dự trữ (tồn kho): Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân.
360
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x
Doanh thu
Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định: chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm.
Doanh thu
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Tài sản cố định
Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Doanh thu
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Tài sản
Các tỷ số về khả năng sinh lãi:
Nếu như các nhóm chỉ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất – kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp.
Thu nhập sau thuế
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
Doanh thu
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu.
Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chhủ sở hữu (doanh lợi vốn chủ sở hữu): ROE
Thu nhập sau thuế
ROE =
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bị vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
Doanh lợi tài sản: ROA
Thu nhập trước thuế & L
ROA =
Tài sản
Hoặc;
Thu nhập sau thuế
ROA =
Tài sản
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản.
Ngoài các tỷ số trên đây, các nhà phân tích cũng đặc biệt chú ý tới việc tính toán và phân tích những tỷ số liên quan tới các chủ sở hữu và giá trị thị trường. Chẳng hạn:
Thu nhập sau thuế
-Tỷ lệ hoàn vốn cổ phần =
Vốn cổ phần
Thu nhập sau thuế
-Thu nhập cổ phiếu =
Số lượng cổ phiếu thường
Lãi cổ phiếu
-Tỷ lệ trả cổ tức =
Thu nhập cổ phiếu
vv…
Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, nhà phân tích có thể thực hiện việc tách ROE như sau:
-Tách ROE
TNST TNST TS
ROE = = x
VCSH TS VCSH
= ROA x EM (số nhân vốn)
ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng vốn chủ sơ hữu – mức tăng giá trị tài sản cho các chủ sơ hữu. Còn ROA phản ánh mức sinh lợi của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp – khả năng quản lý tài sản của các nhà quản lý doanh nghiệp. EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn từ bên ngoài.
Tách ROA
TNST TNST DT
ROE = = x = PM x AU
TS DT TS
PM : Doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp. Khi PM tăng, điều đó thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu và quản lý chi phí có hiệu quả.
AU : Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Như vậy, qua hai lần phân tích, ROE có thể được biến đổi như sau:
ROE = PM x AU x EM
Đến đây, có thể nhận biết được các yếu tố cơ bản tác động tới ROE của một doanh nghiệp: đó là khả năng tăng doanh thu, công tác quản lý chi phí, quản lý tài sản và đòn bẩy tài chính.
Các thành phần trên lại được phân tích chi tiết hơn tùy thuộc vào mục tiêu cần đạt của nhà phân tích. Với trình tự hạch toán như trên, có thể xác định các nguyên nhân làm tăng, giảm ROE của doanh nghiệp.
b ) Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ).
Trong phân tích nguồn vốn, người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán.
Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là biểu kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Nó giúp nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó.
Để lập được biểu này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc:
Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn.
Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư.
c ) Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian.
Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để đưa về một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp.Nếu như trạng thái tĩnh được thể hiện qua bảng cân đối kế toán thì trạng thái động (sự dịch chuyển của các dòng tiền) được phản ánh qua bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn, qua báo cáo kết quả kinh doanh. Thông qua các báo cáo tài chính này, các nhà phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vốn lưu động, từ đó có thể đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh nghiệp. Như vậy, giữa các báo cáo tài chính có mối liên hệ rất chặt chẽ: những thay đổi trên bảng cân đối kế toán lập đầu kỳ và cuối kỳ cùng với khả năng tự tài trợ được tính từ báo cáo kết quả kinh doanh được thể hiện qua bảng tài trợ và liên quan mật thiết tới ngân quỹ của doanh nghiệp.
Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định, người ta còn chú trọng tới các chỉ tiêu quản lý trung gian nhằm đánh giá chi tiết hơn tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số (tỷ lệ) rất có ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn, vv… của doanh nghiệp.
Lãi gộp = Doanh thu – Giá vốn bán hàng
Thu nhập trước khấu hao và lãi = Lãi gộp – Chi phí bán hàng, quản lý
Thu nhập trước thuế và lãi = Thu nhập trước khấu hao và lãi – khấu hao
Thu nhập trước thuế = Thu nhập trước thuế và lãi – Lãi vay
Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế - thuế thu nhập doanh nghiệp
Trên cơ sở đó, nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức tăng tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời, nhà phân tích cũng cần so sánh chúng với các chỉ tiêu cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp.
2.4. Nhân tố ảnh hưởng tới phân tích tài chính doanh nghiệp.
a ) Nhân tố chủ quan.
Sự đầy đủ và chất lượng thông tin sử dụng.
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài chính bởi một khi thông tin sử dụng không đầy đủ, phiến diện, không chính xác, không phù hợp thì kết quả mà phân tích đem lại chỉ là hình thức. Có thể nói, thông tin trong phân tích tài chính là nền tảng của phân tích tài chính. Từ những thông tin bên trong trực tiếp phản ánh tài chính doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài liên quan đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp, người phân tích có thể thấy được tình hình tài chính doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai.
Tình hình nền kinh tế trong và ngoài nước không ngừng biến động tác động hàng ngày đến điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, tiền lại có giá trị theo thời gian. Do đó, tính kịp thời, giá trị dự đoán là đặc điểm cần thiết làm nên sự phù hợp của thông tin. Thiếu đi sự chính xác, kịp thời, phù hợp, thông tin sẽ không còn độ tin cậy và điều này tất yếu ảnh hưởng đến phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu có sự tồn tại của hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Đây là cơ sở để tham chiếu trong quá trình phân tích. Người ta chỉ có thể nói các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp là cao hay thấp, tốt hay xấu khi đem nó so sánh với các tỷ lệ tương ứngcủa doanh nghiệp khác có đặc điểm và điều kiện sản xuất, kinh doanh tương tự mà đại diện ở đâylà các chỉ tiêu trung bình ngành. Thông qua đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý tài chính biết được vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó đánh giá được thực trạng tài chính doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Trình độ cán bộ phân tích.
Có được thông tin đầy đủ, phù hợp, chính xác nhưng tập hợp thông tin như thế nào và xử lý thông tin ra sao để đưa lại kết quả phân tích tài chính có chất lượng cao lại là điều không đơn giản. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ cán bộ thực hiện phân tích. Từ các thông tin thu thập được, các cán bộ phân tích phải tính toán các chỉ tiêu, thiết lập các bảng biểu, tuy nhiên đó chỉ là những con số và nếu chúng để riêng lẻ thì bản thân chúng không nói lên điều gì. Nhiệm vụ của người phân tích là phải gắn kết, tạo lập các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp với các thông tin về điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của doanh nghiệp, xác định thế mạnh, điểm yếu cũng như nguyên nhân của những điểm yếu trên. Hay nói cách khác, cán bộ phân tích là người làm cho các con số biết nói. Chính tầm quan trọng và sự phức tạp của phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao.
Công nghệ và phần mềm sử dụng trong phân tích tài chính.
Công tác phân tích tài chính đòi hỏi số liệu tập hợp với số lượng lớn, nhiều nguồn, phải kiểm tra mức độ chính xác, tin cậy, nó cũng đòi hỏi khối lượng tính toán nhiều, có những phép tính phức tạp, dự báo chính xác, lưu trữ lượng thông tin lớn. Vì thế, nếu chỉ đơn thuần làm bằng phương pháp thủ công thì tốc độ rất chậm và không đáp ứng được nhu cầu ra các quyết định nhanh chóng trong giai đoạn kinh tế hiện nay. Chỉ có các công nghệ và phần mềm chuyên dụng sử dụng cho phân tích tài chính mới cho phép phân tích tài chính chính xác, kịp thời đáp ứng nhu cầu về quản lý tài chính doanh nghiệp.
Sự quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp.
Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của phân tích tài chính bởi vì nếu ban lãnh đạo hiểu được tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính thì mới đầu tư kinh phí, mua sắm các phần mềm phân tích tài chính, bố trí phân công cụ thể đội ngũ nhân viên phân tích, xây dựng các quy trình phân tích khoa học cho nhân viên thực hiện, chỉ đạo sự phối hợp giữa các phòng ban trong việc cung cấp thông tin, hồi âm kết quả, áp dụng các giải pháp mà việc phân tích tài chính đưa ra để làm tốt hơn quá trình phân tích sau
Tóm lại, trong công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp, cần phân tích đầy dủ các nội dung cần thiết Chương tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
b ) Nhân tố khách quan.
Bao gồm yếu tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô.
+ Các chính sách của Nhà Nước.
+ Công nghệ.
+ Tác động của các thị trường như: thị trường tài chính, thị trường tỷ giá, lạm phát…
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Ở
CÔNG TY TNHH QUẢNG CÁO LIÊN MINH
I. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
Quá trình hình thành.
Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh được thành lập ngày 26/06/2000 do sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp.
Giấy phép kinh doanh số: 0102000764.
Mã số thuế: 0101039691.
Tài khoản số: 0011000268348 (VNĐ) 0011370268358 (USD)
Ngân hàng: Sở giao dịch - Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
Tên giao dịch: ALLIANCE ADVERTISING COMPANY LIMITED
Tên viết tắt: ALICOM CO, LTD.
Địa chỉ trụ sở chính: 49 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại; 048310358
Đăng ký lần đầu : 26/06/2000
Đăng ký thay đổi lần thứ hai: 14/10/2005
Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh có vốn điều lệ là: 1.900.000.000 đồng.
Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh có đầy đủ tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, hoạch toán kinh tế độc lập, tự chụi trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do công ty quản lý, được mở tài khoản tại ngân hàng, có tài sản, sử dụng con dấu theo sự quản lý của Nhà nước đồng thời được tổ chức quản lý theo điều lệ của công ty.
Là đơn vị hạch toán độc lập nên công ty phải thực hiện chức năng kinh doanh đạt hiệu quả và tuân thủ theo các nguyên tắccủa cơ chế thị trường.
Ngành, nghề kinh doanh chủ yếu là:
Dịch vụ quảng cáo thương mại;
Buôn bán vật tư, thiết bị phục vụ ngành quảng cáo;
Tổ chức biểu diễn nghệ thuật;
In và các dịch vụ khác liên quan đến in;
In, sao băng hình, đĩa hình (được phép lưu hành)
Tổ chức hội trợ, triển lãm thương mại;
Đại lý bán xuất bản phẩm được phép lưu hành;
Mua bán hàng tiêu dùng (chủ yếu là hàng dùng làm quà tặng, khuyến mại)
Nghiên cứu, phân tích thị trường và môi giới thương mại;
Sản xuất và phát hành phim ảnh, các chương trình nghe nhìn (trừ các chương trình Nhà Nước cấm)
Hoạt động kinh doanh bổ trợ cho công nghiệp phim ảnh và video (biên tập, lồng tiếng, phụ đề, đồ họa)
Đào tào dạy nghề; quay phim, dựng phim, kỹ thuật viên sản xuất phim
Mua bán cho thuê các thiết bị nghe nhìn;
Tổ chức các sự kiện: khai trương, động thổ, hội nghị , hội thảo;
Thi công, trang trí nội ngoại thất.
Đến nay công ty đã có một mạng lưới khách hàng rộng lớn. Với lĩnh vực kinh doanh chính là quảng cáo.
Cơ cấu tổ chức và chức năng các phòng ban.
Bộ máy tổ chức, quản lý hoạt động của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh bao gồm:
HỘI ĐỒNG
THÀNH VIÊN
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
Phòng tài chính - kế toán
Phòng thiết kế
Phòng kinh doanh
Phòng tư vấn bán hàng
Phòng hỗ trợ kinh doanh
Chức năng của bộ máy tổ chức và quản lý hoạt động của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh:
Hội đồng thành viên: gồm 5 người, nghiên cứu phương hướng phát triển của công ty. Xem xét phê duyệt kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh cho 6 tháng, 1 năm và 5 năm hoạt động. Xúc tiến hợp tác với các tổ chức, các đối tác trong và ngoài nước việc đầu tư, sản xuất kinh doanh. Kiểm tra, đôn đốc, đốc thúc ban giám đốc thực hiện kế hoạch kinh doanh do công ty đề ra. Ban hành các quy chế, quy định về tổ chức hành chính, thưởng phạt liên quan tới người lao động.
Ban giám đốc: Trong đó ban giám đốc do hội đồng thành viên bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của hội đồng thành viên. Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty và chụi trách nhiệm cá nhân trước hội đồng thành viên và trước pháp luật về hoạt động điều hành của công ty. Giám đốc là người điều hành cao nhất trong nội bộ công ty, có quyền triệu tập và chủ trì các cuộc họp thường xuyên hoặc đột xuất cũng như có quyền thông qua những chủ trương, phương hướng của công ty.
Phó giám đốc: là người giúp việc giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của công ty theo sự phân công của giám đốc và chụi trách nhiệm trước giám đốc và luật pháp về nhiệm vụ được giám đốc phân công thực hiện.
Trợ lý giám đốc: là người hỗ trợ ban giám đốc trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của công ty được phân công và chụi trách nhiệm về các quyết định của mình trước ban giám đốc.
Văn phòng: Gồm có 3 bộ phận; tổ chức lao động, hành chính và bảo vệ với tổng số là 18 người (trong đó có một trưởng phòng và một phó phòng) được phân bổ cho cửa hàng. Nhiệm vụ chính là tham mưu, giúp cho ban lãnh đạo trong công tác tổ chức cán bộ, công tác lao động tiền lương, công tác hành chính văn phòng.
Phòng kinh doanh: gồm có 4 người trong đó có một trưởng phòng. Nhiệm vụ chính là giúp lãnh đạo công ty trong hoạt động kinh doanh hàng hóa, thiết bị…như lập kế hoạch mua, lập kế hoạch tiêu thụ, tổ chức thực hiện kế hoạch mua, tổ chức thực hiện kế hoạch bán cũng như kiểm tra.
Phòng tài chính - kế toán: gồm có 6 người nhiệm vụ chính là hạch toán hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trên cơ sở các quy chế đã đề ra có nhiệm vụ thanh toán mua và bán với khách hàng. Giám sát chặt chẽ tình hình sản xuất kinh doanh của công ty từ khâu đầu đến khâu cuối. Hạch toán hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chủ động tổ chức toàn bộ hoạt động tài chính của công ty mở rộng hệ thống sổ sách kế toán theo đúng pháp lệnh và điều lệ kế toán ban hành từ sổ chi tiết đến sổ tổng hợp. Xác định kết quả kinh doanh theo từng quý và năm. Lập và nộp các báo cáo tài chính đúng thời hạn và chế độ kế toán hiện hành đảm bảo tính trung thực và chính xác. Làm công tác tham mưu cho giám đốc về lĩnh vực tài chính, giúp giám đốc quản lý vốn và chi tiêu đúng chế độ của quản lý tài chính của Nhà Nước quy định. Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành sản xuất kinh doanh kiểm tra và phân tích các hoạt động kinh tế phục vụ cho việc lập và theo dõi việc thực hiện kế hoạch, thực hiện nghĩa vụ đối với công ty và ngân sách Nhà Nước.
Phòng thiết kế: gồm 5 người có trách nhiệm kiểm tra, giám sát tình hình hoàn thiện sản phẩm cho khách hàng, xử lý những sai sót bất ngờ xảy ra, bảo hành và sửa chữa sản phẩm của công ty.
Phòng tư vấn bán hàng: gồm có 4 người với trách nhiệm nghiên cứu, tư vấn, cung cấp các thông tin cần thiết cho công ty cũng như khách hàng về những sản phẩm của công ty.
Phòng hỗ trợ kinh doanh: gồm 4 người giữ trách nhiệm giúp đỡ cho công việc bán hàng. Trên cơ sở tài liệu cung cấp của phòng tư vấn bán hàng, phòng hỗ trợ kinh doanh có nhiệm vụ gợi ý, giới thiệu cho khách hàng những sản phẩm phù hợp cả về kiếu dáng, màu sắc cũng như giá cả.
Sau 7 năm đi vào hoạt động, công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống phân cấp quản lý năng động và hiệu quả, đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty cần cù, hăng hái, nhiệt tình với công việc. Đồng thời, trong mỗi thời điểm nhất định công ty cũng có những kế hoạch chi tiết cụ thể. Bên cạnh đầu tư về nhân sự thì công ty đã có nhiều sự đầu tư cho trang thiết bị kỹ thuật và cơ sở hạ tầng. Điều này giúp cho chất lượng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng.
Điều này thể hiện rõ khi tài sản cố định không ngừng tăng lên trong những năm qua: năm 2003 tổng giá trị tài sản cố định là 147.345.000 đồng, năm 2004 tổng giá trị tài sản cố định là 172.347.181 đồng (tăng 17% so với năm 2003 ) và đến năm 2005 là 200.000.000 đồng (tăng 16.27% so với năm 2004), năm 2006 là 212.000.000.
Tình hình cạnh tranh trên thị trường và hoạt động kinh doanh của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh trong một số năm qua.
Tình hình cạnh tranh trên thị trường.
Cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ một xã hội mà hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì và phát triển. Thay vì một thị trường với những đối thủ cạnh tranh cố định đã biết, doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trừơng “ chiến tranh” với những đối thủ cạnh tranh biến đổi nhanh chóng, những tiến bộ về khoa học công nghệ, những chính sách quản lý thương mại mới và sự trung thành của khách hàng ngày càng giảm sút.
Cạnh tranh gay gắt làm cho các công ty, doanh nghiệp phải tích cực suy nghĩ tìm ra phương thức để tạo điểm nhấn cho sản phẩm của mình hơn hẳn hoặc khác biệt hẳn so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Có thể sử dụng các biện pháp sau để cạnh tranh có hiệu qủa:
+ Cạnh tranh bằng sản phẩm.
+ Cạnh tranh bằng giá cả.
+ Cạnh tranh bằng thông tin.
+ Cạnh tranh bằng vốn, tài sản.
+ Cạnh tranh bằng tiến bộ khoa học công nghệ.
+ Cạnh tranh bằng các dịch vụ bán và sau bán.
+ Cạnh tranh bằng các phương pháp xúc tiến, kích thích tiêu thụ.
+ Cạnh tranh bằng nguồn nhân lực.
Trong những hoàn cảnh cụ thể, mỗi doanh nghiệp nên lựa chọn cho riêng mình biện pháp cạnh tranh thích hợp. Cụ thể đói với thị trường dịch vụ quảng cáo đang diễn ra sôi động giữa các công ty, doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh liên quan đến các trang thiết bị dùng trong quảng cáo.
Cạnh tranh do nhu cầu giảm sút:
Người ta thường hay cho rằng cạnh tranh phải do hai hay nhiều nhân tố tạo nên nhưng thực tế khi nhu cầu giảm sút thì cạnh tranh ngày càng phát triển dữ dội.
Trước tình trạng nhu cầu giảm sút nghĩa là số lượng người tiêu dùng ngày càng giảm trong khi đó cung trên thị trường không đổi và có xu hướng tăng lên thì cạnh tranh tất yếu xảy ra. Mọi công ty doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường đều muốn thu hút khách hàng về phía mình nên thỏa mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu và ước muốn của khách hàng kèm theo những dịch vụ sau bán tốt nhất có thể.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, nhiều thiết bị hiện đại ra đời. Nó xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực khác nhau của xã hội và thay đổi toàn bộ bộ mặt của nền kinh tế. Quá trình thực hiện giao dịch trực tiếp qua điện thoại hoặc giữa hai người với nhau được thay thế bằng hoạt động giao dịch qua điện thoại, thư giao dịch, dần dần các hoạt động này được thực hiện thông qua mạng internet. Việc giao dịch qua mạng hay qua điện thoại giải quyết được nhiều vấn đề như tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại cũng giảm rất nhiều về cấu trúc hiện hữu giữa người mua và người bán.
Cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh:
Mới hiểu được các khách hàng của mình không thôi là chưa đủ. Một công ty muốn kinh doanh thành công trên thương trường thì không chỉ hiểu biết và nắm rõ nhu cầu của khách hàng mà còn biết đối thủ cạnh tranh của mình là ai? Và hiểu được chiến lược kinh doanh của họ là gì? Đây là điều cực kỳ quan trọng làm tiền đề cho việc thiết lập các chương trình hành động phù hợp và công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã làm được điều đó.
Hiện nay trên thị trường số lượng các công ty quảng cáo đã tăng lên nhanh chóng chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành Phố Hồ Chí Minh…làm cho mức độ cạnh tranh trong nước gia tăng.
Sự đa dạng hóa của các công ty quảng cáo là cung cấp những dịch vụ phong phú, giá bán, chất lượng, kiểu cách phân phối hàng hóa cũng như hình thức dịch vụ kèm theo đã làm tăng tính cạnh tranh trong các công ty quảng cáo.
1.3.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty trong một số năm qua:
Trong thời gian hoạt động kể từ khi bắt đầu năm 2000 cho đến nay, công ty đã khẳng định được sự tồn tại và phát triển của mình. Điều đó được thể hiện khi các hợp đồng quảng cáo ngày càng nhiều cũng như lợi nhuận của công ty liên tục tăng qua các năm và có vị trí vững chắc trên thị trường.
Có thể xem như trong cuộc chiến thương hiệu công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã đạt được thành công lớn, nếu chúng ta nhìn lại quá trình khẳng định mình trong những năm đầu của công ty thì có thể thấy được điều đó. Nhờ có sự nỗ lực hết mình, áp dụng những chính sách xúc tiến bán hàng thích hợp, hiện nay công ty đã vươn lên chiếm giữ khoảng 50% thị phần tức là công ty cung cấp khoảng 50% số lượng các dịch vụ quảng cáo.
Sự gia tăng nhanh chóng doanh thu của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh do rất nhiều nguyên nhân tác động tới, nhưng có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Chủng loại các ngành nghề kinh doanh của công ty được mở rộng, nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau về một loại hàng hóa dịch vụ, không chỉ tăng thêm các chương trình quảng cáo mà còn tăng thêm đối với hoạt động bán hàng và dạy nghề.
Kết quả của việc xúc tiến nghiên cứu và bao quát thị trường tốt, sự cố gắng nỗ lực và sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng của toàn thể các cán bộ công nhân viên trong công ty cũng là một nhân tố quan trọng không thể thiếu tác động tới việc doanh thu của công ty không ngừng tăng lên và kéo theo đó là lợi nhuận của công ty cũng không ngừng tăng qua các năm. Việc tăng doanh thu và lợi nhuận lên đã kích thích công ty tăng đầu tư mở rộng mặt bằng cơ sở và cũng loại bỏ những mắt xích kém hiệu quả.
Công ty đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường qua 7 năm hoạt động, khách hàng đã quen thuộc với những dịch vụ quảng cáo thương mại.Khách hàng thường xuyên nhất của công ty là Mobiphone và truyền hình kĩ thuật số VTC.
Các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng cũng như công tác bảo hành sản phẩm đã được công ty thực hiện triệt để trong vòng 12 tháng kể từ khi sản phẩm được bán. Tức là bắt đầu từ khi khách hàng có nhu cầu về sản phẩm của công ty thì đã được gợi ý để chọn những sản phẩm sao cho thích hợp nhất và khách hàng thấy đúng yêu cầu đến khi vận chuyển, lắp đặt và sản phẩm mà khách hàng lựa chọn vẫn được công ty quan tâm đến trong 12 tháng tiếp theo đó.
Hoạt động của công ty luôn hướng tới sư tối đa hóa lợi nhuận dựa trên cơ sở đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu nghĩa là chỉ cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ đã qua kiểm tra đáp ứng các nhu cầu kĩ thuật. Vì thế phòng thiết kế cũng rất quan trọng đối với công ty vì họ có trách nhiệm kiểm tra, giám sát tình hình, hoàn thiện sản phẩm dịch vụ cho khách hàng đồng thời xử lý những sai sót bất ngờ xảy ra.Chính họ là một nhân tố quan trọng đem đến cho công ty uy tín đối với khách hàng, giúp cho công ty ngày càng nâng cao lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh.
II. Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh:
1.1. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp:
Nhìn chung, công ty đã sử dụng phương pháp tỷ số và phương pháp so sánh để phân tích tài chính. Việc sử dụng hai phương pháp này về khía cạnh nào đó cũng cho ta thấy những mặt cơ bản nhất của hoạt động tài chính. Nhưng hai phương pháp này chỉ thực sư phát huy hiệu quả khi nó đươc kết hợp nhuần nhuyễn, sử dụng đúng các chỉ tiêu và đặt chúng trong các mối liên hệ với các chỉ tiêu khác, với chỉ tiêu trung bình của ngành và các doanh nghiệp có cùng tính chất. Thế nhưng, việc sử dụng kết hợp hai phương pháp tỷ số này vẫn còn đơn điệu, cứng nhắc, các chỉ tiêu tính toán chưa đúng. Điều này gây ra sự hạn chế trong việc xác định điểm mạnh, điểm yếu, chất lượng các chỉ tiêu, dự báo tình hình để lãnh đạo ra quyết định. Cũng từ đòi hỏi của hai phương pháp này cũng nói lên những nhược điểm của chúng khi không tìm thấy số liệu so sánh. Mà tìm số liệu để so sánh trong điều kiện hiện nay là rất khó. Phương pháp DUPONT hiện đang được sử dung rộng rãi có ưu điểm trong việc tìm nguyên nhân của vấn đề nhưng vẫn chưa được công ty sử dụng, chưa kể các phương pháp ưu việt như phương pháp phân tích theo mô hình hồi quy kinh tế lượng, phương pháp tính độ co giãn giúp dự báo các chỉ tiêu. Phương pháp tỷ số thể hiện trong các bản báo cáo tài chính và một số chỉ tiêu tài chính sẽ được trình bày ở phần sau.
1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh:
* Bảng báo cáo kết quả kinh doanh, công ty TNHH quảng cáo Liên Minh trong một số năm qua (giai đoạn 2003- 2006 ):
Đơn vị: 1000 đ
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
Doanh thu thuần
8.542.300
9.346.723
11.555.782
13.457.321
Giá vốn
7.913.200
8.658.336
10.704.698
12.466.189
Chi phí quản lý kinh doanh
184.531
201.889
239.604
290.677
Chi phí khác
27.000
25.432
29.040
31.000
LNTT và lãi
417.587
461.066
582.440
669.455
Lãi vay
146.990
162.295
240.424
168.702
LNTT
270.597
298.771
342.014
500.753
Thuế thu nhập doanh nghiệp
86.591
95.606
109.445
160.241
Lợi nhuận sau thuế
184.006
203.165
232.571
340.512
Nguồn:phòng TC –KT công ty TNHH quảng cáo Liên Minh
* Bảng cân đối kế toán công ty TNHH quảng cáo Liên Minh (giai đoạn 2003- 2006)
Đơn vị: 1000 đ
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
I. tài sản lưu động
-Tiền mặt
-Tiền gửi ngân hàng
-Phải thu khách hàng
-Phải thu khác
-VAT khấu trừ
-Hàng tồn kho
II. Tài sản cố định
-TSCĐ (nguyên giá )
-Khấu hao
-TSCĐ (giá trị còn lại )
2.099.697
6.761
851.327
68.143
7.678
137.845
1.027.943
147.345
3.678
143.667
2.397.450
7.719
972.051
77.807
8.152
157.392
1.174.392
172.347
4.200
168.147
2.792.510
8.992
1.132.229
90.628
8.235
183.328
1.369.098
200.000
7.532
192.468
3.451.802
11.115
1.399.540
112.024
11.400
226.611
1.691.112
212.000
8.047
203.953
Tổng TS
2.243.364
2.565.597
2.984.978
3.655.755
I. Nợ phải trả
-Nợ ngắn hạn
-Nợ dài hạn
II. Vốn chủ sở hữu
1.280.815
1.139.925
140.890
962.549
1.429.048
1.236.133
192.915
1.136.549
1.648.429
1.415.471
233.258
1.336.549
2.088.956
1.831.553
257.403
1.566.799
Tổng NV
2.243.364
2.565.579
2.984.978
3.655.755
Nguồn: Phòng TC – KT công ty TNHH quảng cáo Liên Minh
* Phân tích tình hình tài chính của công ty:
Sự phát triển của công ty được thể hiện qua tốc độ gia tăng của vốn năm 2003 nguồn vốn của công ty là 2.243.364.000 đồng, năm 2004 là 2.565.597.000 đồng (tăng 14,3% so với năm 2003 )…đến năm 2006 tổng nguồn là 3.655.755.000 đồng (tăng 62,9% so với năm 2003). Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã khai thác tốt các nguồn huy động, tuy nhiên vốn tăng lên chủ yếu là do vay ngắn han.Trong đó tỷ trọng vốn chủ sở hữu qua các năm như sau: năm 2003 là 42,9%; năm 2004 là 44,3%...năm 2006 là 42,8%. Điều này, cho ta thấy công ty có xu hướng sử dụng nợ vay để tài trợ cho các tài sản của mình hơn là sử dụng vốn chủ sở hữu. Điều này, giúp công ty có khả năng gia tăng nhanh lợi nhuận nhưng vẫn nắm được quyền kiểm soát công ty. Tuy nhiên nó cũng mang lại rủi ro, đó là làm giảm khả năng thanh toán của công ty.
Tổng tài sản của công ty không ngừng tăng, nhưng chủ yếu là do tài sản lưu động tăng lên, đặc biệt là do hàng tồn kho tăng mạnh điều này là do sản xuất tăng lên.
Qua các báo cáo trên có thể thấy doanh thu của công ty tăng liên tục qua các năm, cụ thể: doanh thu năm 2003 đạt 8.542.300.000 đồng, năm 2004 là 9.346.723.300 đồng (tăng 9,4% so với năm 2003). Đến năm 2005 là 11.555.782.000 đồng (tăng 23,6% so với năm 2004) và đến năm 2006 doanh thu tăng thêm 16,4% so với năm 2005.
Doanh thu của công ty đã tăng đột biến vào năm 2005 và vẫn tăng ở mức cao vào năm 2006, điều này là do nhiều yếu tố mang lại. Những chiến lược kinh doanh mà công ty triển khai đã bắt đầu phát huy hiệu quả, lượng khách hàng tăng nhanh, thương hiệu công ty đã bắt đầu trở nên quen thuộc với khách hàng.
Bên cạnh đó công ty đã khai thác rất tốt khả năng huy động vốn vay với tỷ số nợ trên tổng tài sản qua các năm như sau: năm 2003 đạt 57,1%; năm 2004 đạt 55,7%;… năm 2006 đạt 57%. Tác dụng của việc này là gia tăng nhanh lợi nhuận cho công ty, nhưng chủ sở hữu vẫn lắm quyền kiểm soát công ty, tuy nhiên việc để tỷ số này ở mức cao chưa hẳn là hoàn toàn tốt, việc này chúng ta sẽ xem xét trong phần sau:
Ngoài ra, còn có nguyên nhân khách quan tác động tới vấn đề này. Đó là, do nền kinh tế nước ta đã và đang phát triển mạnh, thu nhập tăng cao so với trước, đời sống nhân dân được cải thiện, nhu cầu và ước muốn của xã hội ngày càng phát triển theo xu hướng gia tăng cấp độ và mức độ. Mặt khác, xu hướng sử dụng các dịch vụ quảng cáo không chỉ thỏa mãn nhu cầu sử dụng của khách hàng mà còn đem lại giá trị thẩm mĩ và giá trị tinh thần của khách hàng. Cầu về những dịch vụ này đã tăng lên, số lượng và doanh số bán của các doanh nghiệp kinh doanh loại này cũng tăng lên, do vậy Công ty TNHH Quảng cáo Liên Minh tăng doanh thu cũng là kết quả tất yếu.
Doanh thu tăng, trong khi đó tốc độ gia tăng của chi phí không cao, do đó lợi nhuận của công ty cũng không ngừng tăng lên. Năm 2003 lợi nhuận sau thuế đạt 184.000.000đ, năm 2004 là 203.165.000đ … đến năm 2006 đạt mức 340.513.000đ.
Vấn đề phân tích tài chính của Công ty TNHH Quảng cáo Liên Minh:
Dựa vào các báo cáo tài chính của công ty TNHH Quảng Cáo Liên Minh, đưa vào phân tích theo các công cụ đã đưa ra, chúng ta thu được những kết quả như sau:
* Bảng thuyết minh một số chỉ tiêu phân tích tài chính:
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
Khả năng TTHH
1,8420
1,9400
1,9730
1,8850
Khả năng TTN
0,9410
0,9894
1,0050
0,9613
Khả năng TTLV
2,8400
2,8410
2,4200
3,9700
Vòng quay dự trữ
8,30
7,95
8,44
7,96
DT/VLĐR (%)
95,91
96
96,2
96
Nợ trên tổng tài sản (%)
57,1
55,7
55,2
57
ROE (%)
19,1
17,8
17,45
21,7
ROA (%)
8,2
7,91
7,8
9,3
Từ Bảng trên ta thấy, các chỉ tiêu đều tương đối ít biến động qua các năm, một số chỉ tiêu hầu như không thay đổi ( dự trữ trên vốn lưu động ròng). Điều này cho ta thấy công ty đang ở trong chu kỳ phát triển tương đối ổn định, tuy nhiên đi vào chi tiết chúng ta sẽ thấy một số vấn đề cần quan tâm đối với tình hình tài chính của công ty.
Doanh thu tăng lên trong các năm qua, trong khi đó khả năng thanh toán hiện hành luôn ở mức cao ( năm 2003 là 1,842; năm 2004 là 1,94; năm 2005 là 1,973; năm 2006 là 1,885). Trong khi nợ ngắn hạn cũng không ngừng tăng lên, điều này cũng cho thấy sản xuất không ngừng gia tăng qua các năm. Vì vậy có thể nói, công ty vẫn đáp ứng được khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của mình. Nhưng cùng với việc đáp ứng được khả năng thanh toán thì công ty cũng sẽ làm giảm bớt lợi nhuận của mình vì chi phí quản lý của công ty sẽ tăng lên.
Tỷ số khả năng thanh toán nhanh lần lượt qua các năm như sau, năm 2003 là 0,941; năm2004 là 0,9894; năm 2005 là 1,005: năm 2006 là 0,9613. Có thể nhận ra là tốc độ gia tăng nợ ngắn hạn là tương đối nhanh qua các năm. Tuy dự trữ có thể đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn nhưng, có thể sẽ rất nguy hiểm khi thị trường đạt được sự bão hòa, hàng hóa ứ đọng nhiều. Chi phí của công ty sẽ tăng cao, rất dễ dẫn tới mất khả năng thanh toán có thể kéo theo là việc phá sản.
Tỷ số nợ / Tổng tài sản, qua bảng trên ta nhận thấy tỷ số này là tương đối cao vì vậy công ty sẽ khó huy động thêm vốn trong thời gian tới . Tỷ số này cao đồng nghĩa với công ty có lợi nhiều hơn, nhưng cũng có nhiều trách nhiệm hơn đối với các chủ nợ .
Ngoài ra, các chỉ tiêu khác như khả năng thanh toán lãi vay như trên thể hiện, khả năng thanh toán của công ty là chưa cao so với những gì mà công ty đã thể hiện. Tỷ số Dự trữ / Vốn lưu động ròng, không thay đổi nhiều nhưng ở mức cao. Tức là, dự trữ đang trở thành gánh nặng cho tài sản lưu động, vì vậy tỷ số này cần được giảm xuống nhằm nâng cao khả năng tài trợ cho dự trữ của công ty.
Về nhóm chỉ tiêu doanh lợi, có thể thấy doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) năm 2004 và 2005 có giảm nhưng không đáng kể, đến năm 2006 lại tăng mạnh điều này có thể nói đã làm thỏa mãn các chủ sở hữu. Tuy nhiên doanh lợi tài sản (ROA) thì chưa cao.
Qua tất cả những phân tích trên, có thể thấy tình hình tài chính của công ty là rất khả quan, công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà Nước, chấp hành kỷ luật thanh toán với các đối tác kinh doanh và tiếp tục có lãi. Tuy nhiên cũng qua đó, ta nhận thấy vì công ty đang ở trong một chu kỳ phát triển tốt cho nên những yếu kém về quản lý tài chính chưa bộc lộ rõ ràng, nhưng luôn tiềm ẩn sự nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Từ đó có thể nhận thấy việc phân tích tài chính là rất cần thiết đối với công ty, nhằm đảm bảo cho hoạt động của công ty được an toàn. Tránh tình trạng chủ quan, phiến diện, sự tồn tại và phát triển của công ty phải dựa trên những cơ sở khoa học,đấy mới là sự phát triển thực sự của công ty. Mặc dù trong những năm qua, công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã chú ý tới nhiều vấn đề này nhưng chưa quán triệt, thậm chí đôi lúc còn coi phân tích tài chính như là một công việc của kế toán. Chính vì vậy trong công tác phân tích tài chính của công ty không tránh khỏi tồn tại nhiều hạn chế.
III. Những ưu điểm và tồn tại trong phân tích tài chính của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh
1.1. Những ưu điểm.
Qua quá trình hoạt động và phát triển, công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Doanh thu liên tục tăng, thị phần ngày càng mở rộng, dịch vụ hàng hóa của công ty ngày càng trở nên quen thuộc với khách hàng…có được điều này là do khả năng nắm bắt xu hướng thị phần tốt của bộ máy lãnh đạo. Đội ngũ nhân viên có năng lực, khả năng làm việc tập thể rất tốt, không khí làm việc sôi nổi đoàn kết, nhưng không thiếu tính cạnh tranh, những điều này giúp cho công ty đạt được hiệu suất công việc cao.
Công ty liên tục có sự đổi mới về dịch vụ quảng cáo thương mại, không ngừng nâng cao chất lượng đa dạng về mẫu mã. Chủng loại mặt hàng và các dịch vụ của công ty được mở rộng về chiều dài. Dịch vụ sau bán cũng như công tác bảo hiểm được công ty quan tâm triệt để, công ty hoạt động hướng tới tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu, nghĩa là chỉ cung cấp cho khách hàng những sản phẩm và những dịch vụ quảng cáo đã qua kiểm tra, đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật. Trong cuộc chiến thương hiệu, công ty đã dần khẳng định được vị thế của mình trước các đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh đó công ty đã đạt được những bước tiến nhảy vọt, nhờ vào khả năng huy động vốn và sử dụng vốn tương đối hiệu quả. Lợi nhuận của công ty không ngừng tăng lên qua các năm, thu nhập công nhân viên của công ty ngày càng tăng trong khi đó công ty luôn thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với Nhà Nước, qua việc nộp thuế, và các loại phí và lệ phí. Tuy nhiên công ty cũng còn tồn tại nhiều hạn chế mà chúng ta sẽ bàn tới trong phần sau.
1.2. Những tồn tại trong việc phân tích tài chính.
Có một ưu điểm nổi bật của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh là đã tuyển chọn được một đội ngũ kế toán không chỉ có bằng cấp (đại học và sau đại học) mà thực sự là những kế toán vững vàng về nghiệp vụ , sổ sách minh bạch, lưu trữ cẩn thận, sắp xếp khoa học. Khi lập các báo cáo tài chính họ đã tuân thủ nghiêm chỉnh khâu kiểm tra, đối chiếu số liệu kế toán giữa các sổ sách có liên quan, do đó số liệu trên các báo cáo tài chính đảm bảo tình chính xác. Đây thực sự là một thuận lợi của công ty trong quá trình tiến hành phân tích tài chính của công ty.
Tuy nhiên, mặc dù công tác phân tích tài chính ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã được đề cập đến nhưng chưa được coi trọng điều này thể hiện qua những hạn chế sau:
* Công tác tài chính chưa được chú trọng: cũng giống như đa số các công ty quảng cáo trong nước, công ty TNHH quảng cáo Liên Minh chưa thực sự quan tâm đến công tác phân tích tài chính, mà chủ yếu nắm bắt tình hình tài chính của công ty thông qua các báo cáo tài chính được báo cáo bởi kế toán trưởng.
* Công ty chưa lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hàng năm, do vậy lãnh đạo công ty gặp khó khăn trong việc đánh giá khả năng tạo ra luồng tiền trong kỳ tiếp theo, sự biến động của tài sản và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
* Các chỉ tiêu tài chính của công ty mới chỉ được so sánh giữa các năm với nhau mà chưa được đối chiếu với các chỉ tiêu cùng loại cảu các công ty kinh doanh cùng ngành quảng cáo khác, cũng chưa đối chiếu với mức trung bình ngành để thấy được vị thế của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh trong ngành kinh doanh dịch vụ quảng cáo.
* Ngoài ra, phân tích tài chính tại công ty chỉ dựa chủ yếu vào các số liệu kế toán của các báo cáo tài chính, mà chưa sử dụng các thông tin khác về bối cảnh kinh tế trong nước cũng như quốc tế.
* Phân tích tài chính của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh mới chỉ được tiến hành trên cơ sở tính toán một số chỉ tiêu tài chính theo phương pháp tỷ lệ kết hợp với phương pháp so sánh, nhằm xem xét xu hướng biến động của từng chỉ tiêu qua các năm, các năm từ 2003 đến năm 2006. Rõ ràng nếu chỉ làm như thế thì chưa phong phú. Trong mỗi nhóm chỉ tiêu còn cần phải sử dụng thêm một số phương pháp khác thì mới có thể đánh giá chính xác tình hình tài chính của công ty.
* Công ty chưa phân tích đầy đủ các nội dung, và với mỗi nội dung được phân tích những đánh giá những nhận xét còn chưa sâu sắc . Công ty chú ý nhiều vào các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi mà còn xem nhẹ các chỉ tiêu khác phản ánh khả năng thanh toán, khả năng hoạt động, tình hình cơ cấu vốn. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp, khả năng sinh lợi là quan trọng nhưng cũng không thể xem nhẹ các yếu tố khác trong hoạt động của mình. Vì khả năng sinh lợi chỉ được cải thiện vững chắc khi khả năng thanh toán và tình hình cơ cấu vốn được đảm bảo hợp lý, tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn có hiệu quả.
Phân tích tài chính tại công ty TNHH quảng cáo Liên Minh còn có những hạn chế là do những nguyên nhân sau:
a ) Nguyên nhân chủ quan:
Lập và tổ chức công tác tài chính chưa được tốt .
Phân tích tài chính của công ty mới chỉ dừng ở dạng thuyết minh báo cáo tài chính. Phân tích tài chính là công tác khoa học nên rất khó, được làm ra để lãnh đạo sử dụng có kết quả vào công việc lên kế hoạch kinh doanh, điều chỉnh các hoạt động trong doanh nghiệp. Vì thế người làm phân tích tài chính ngoài các nghiệp vụ còn phải rất có kinh nghiệm. Tuy nhiên công ty TNHH quảng cáo Liên Minh chưa có cán bộ chuyên trách về phân tích tài chính (việc phân tích tài chính do nhân viên phòng tài chính kế toán kiêm nhiệm).
Trình độ cán bộ làm phân tích tài chính còn hạn chế.
Các nhân viên phòng tài chính - kế toán của công ty đều làm tốt công việc kế toán và có tâm lý chỉ tập trung vào công tác kế toán. Còn phân tích tài chính tuy ai cũng nhận thức được đó là một công tác rất quan trọng, nhưng quan trọng với lãnh đạo công ty thôi. Có lẽ vì thế nên khi lập báo cáo tái chính và phân tích tài chính từ các số liệu của kế toán tài vụ và kế toán tổng hợp người ta chưa dốc sức làm kỹ càng , cứ theo lối mòn đã có mà làm, một số chỉ tiêu tài chính rất cần cho phân tích tài chính luôn bị thiếu vắng. Ngoài ra, còn do các phương pháp phân tích luôn được bổ sung và đổi mới mà các nhân viên phòng Tài chính – Kế toán chưa tiếp cận được nên bỏ qua, một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính bị bỏ qua do thiếu thông tin bên ngoài (như các số liệu khác thuộc các công ty khác cùng ngành hàng).
Thông tin sử dụng trong phân tích còn thiếu.
Lãnh đạo công ty tuy coi trọng phân tích tài chính nhưng lại chưa thấy hết tầm quan trọng của các thông tin, nhất là thông tin từ bên ngoài. Phân tích tài chính đòi hỏi những thông tin phải chính xác, đầy đủ, kịp thời trên nhiều lĩnh vực. Rõ ràng để kinh doanh có hiệu quả, nhất là trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, thị trường có nhiều biến động không chỉ từng tháng mà có khi là từng ngày, thì việc thu thập thông tin từ bên ngoài là rất quan trọng, trong đó có thông tin tỷ giá, giá cả, các thông tin về các công ty kinh doanh cùng ngành quảng cáo. Còn phải kể đến thông tin thị trường tiêu thụ . Chính vì vậy, thu thập thông tin , xử lý thông tin, có những thông tin do chính phủ cung cấp, có những thông tin phải mua hoặc truy cập qua internet là rất cần thiết, vậy mà đến nay công ty TNHH quảng cáo Liên Minh vẫn chưa có được nhân viên đặc trách công tác thông tin.
Các chỉ tiêu phân tích tài chính chưa đầy đủ.
Lãnh đạo công ty có ý thức coi trọng công tác phân tích tài chính, nhưng để mất quá nhiều thời gian cho việc nghiên cứu và đánh giá các báo cáo tài chính, các phân tích tài chính do kế toán trưởng trình lên. Giám đốc ít khi yêu cầu phải cung cấp thêm các chỉ tiêu tài chính mà báo cáo tài chính được trình lên để giám đốc hoàn thiện việc phân tích tài chính.
b ) Nguyên nhân khách quan:
Phân tích tài chính còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Đây là một nguyên nhân làm các doanh nghiệp trước đây sản xuất kinh doanh cái gì? Cho ai và như thế nào đều do cấp trên giao. Khái niệm chi phí vốn chưa hề được biết đến. Các quyết định của nhà quản trị không tính đến hiệu quả tài chính : tìm nguồn tài trợ nào để chi phí thấp nhất và đảm bảo các lợi ích khác, làm thế nào với nguồn vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp? lượng tồn kho phải là bao nhiêu để vừa đảm bảo sự liên tục của nguồn hàng vừa giảm chi phí, với tiền mặt cũng như vậy, nên mua hay đi thuê tài sản cố định.
- Công tác kế toán chưa hoàn thiện nên phân tích tài chính chưa được đầy đủ, chính xác. Báo cáo tài chính của các công ty không được công khai, do đó khi tiến hành phân tích tài chính công ty không thể biết được các chỉ tiêu tài chính tương tự ở các doanh nghiệp khác trong cùng ngành và chưa có cơ quan nào chính thức đứng ra cung cấp mức trung bình của một ngành một cách đầy đủ, kịp thời để công ty tiến hành so sánh , xác định vị thế của công ty.
- Trong công tác kế toán, việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ chưa phải là yêu cầu bắt buộc nên công ty không lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, do đó nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là chưa đầy đủ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một tài liệu rất quan trọng cung cấp các thông tin về luồng tiền vào, ra trong chu kỳ của công ty, là cơ sở để công ty có chính sách quản lý ngân quỹ hợp lý . Nhiều thuật ngữ sử dụng trong các văn bản pháp quy còn chưa thống nhất và chưa chímh xác dễ gây nhầm lẫn.
- Thị trường tiền tệ, thị trường vốn của Việt Nam chưa phát triển nên phân tích tài chính chưa được quan tâm đúng mức. Khí các thị trường này được xây dựng hoàn chỉnh và hoạt động đầy đủ thì nhà đầu tư mới có cơ hội đầu tư vào các doanh nghiệp và do đó họ cần phải biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi quyết định đầu tư, tức là họ phải phân tích tài chính doanh nghiệp và đến lúc đó, các công ty sẽ phải công khai hóa các báo cáo tài chính và có công ty kiểm toán thẩm định lại tính chính xác của báo cáo này, nhờ đó công tác phân tích tài chính sẽ được thực hiện có hiệu quả hơn. Trong khi đó, hiện nay ở Việt Nam thị trường chhứng khoán đã thực sự sôi động, số lượng công ty tham gia niêm yết trên sàn đã tăng một cách chóng mặt, các công ty chứng khoán cũng được thành lập rất nhiều, các nhà đầu tư ngày một nhiều. Vì vậy phân tích tài chính cần phải coi trọng nhiều hơn nữa.
- Đặc thù kinh doanh của công ty: đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty phụ thuộc vào dân cư, tình trạng của nền kinh tế hay nói khác đi là phụ thuộc vào mức thu nhập của dân cư, do đó, dù cố gắng hết sức thì tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận… còn phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
- Bản thân hai phương pháp đang phân tích công ty đang sử dụng cũng có những hạn chế của nó, đó là không cho thấy nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng và đo lường sự thay đổi của yếu tố này đến yếu tố khác, tính dự báo không cao và chỉ phát huy hiệu quả nếu được so sánh với các doanh nghiệp cùng tính chất hoạt động.
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA
CÔNG TY TNHH QUẢNG CÁO LIÊN MINH
I. Định hướng hoạt động của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
1.1. Các mục tiêu chính.
Mục tiêu của công ty trong 5 năm tới:
- Phát triển đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn lực con người trong 5 năm tới.
- Triển khai thực hiện nhiều dự án kinh doanh mới.
- Đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực quản lý.
1.2. Những vấn đề then chốt.
- Tiếp tục nghiên cứu mở rộng thêm các ngành nghề kinh doanh, đặc biệt là trong dịch vụ quảng cáo thương mại.
- Mở rộng địa bàn ra các tỉnh lân cận, thiết lập hệ thống các chi nhánh ở các tỉnh.
- Đầu tư trang thiết bị hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh trên địa bàn.
- Hoàn thiện cơ chế tự ứng vốn kinh doanh đối với công ty nhằm khai thác tối đa nội lực của công ty.
- Nghiên cứu cơ chế huy động vốn, tạo nguồn vốn và có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt quan tâm đến thu nhập của cán bộ công nhân viên.
1.3. Các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu trên.
- Hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức: Để thực hiện tốt mục tiêu trên, chiến lược phát triển do công ty đề ra cần phải rà soát lại cơ cấu tổ chức, cơ cấu bộ máy, quy chế tuyển dụng để thu hút cán bộ trẻ bổ sung cho công ty.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Đổi mới quản lý tài chính là yêu cầu khách quan của nền kinh tế, tính chất của tài chính doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn đạt được các mục tiêu đã định trước cần làm tốt hai yếu tố: yếu tố về trình độ vận dụng của cán bộ quản lý tài chính thể hiện ở những công cụ quản lý thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và yếu tố môi trường pháp lý, thông tin tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp.
- Công ty có chính sách thu hút vốn hợp lý và tin cậy, song song với các giải pháp thu hút và sử dụng vốn có hiệu quả.
- Đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu: Trước sự phát triển không ngừng của công nghệ quảng cáo tiên tiến, ngành quảng cáo phải có chiến lược đầu tư dài hạn để nâng cao năng lực quảng cáo, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Trong phương hướng phát triển công ty từ nay đến năm 2012, công ty đã xây dựng kế hoạch đầu tư vào các thiết bị phục vụ quảng cáo.
Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
Mục tiêu của phân tích tài chính là phản ánh tình hình tài chính của công ty làm cơ sở cho các quyết định và giúp lập kế hoạch tài chính cho tương lai. Tuy nhiên, với những nội dung như hiện tại, phân tích tài chính của công ty chưa thể đạt đến mục tiêu đó. Vì vậy, giải pháp đưa ra gồm:
1.1. Lập và tổ chức công tác phân tích tài chính tại công ty TNHH quảng cáo Liên Minh.
Công tác phân tích tài chính của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã được triển khai nhưng chưa được thực hiện một cách có bài bản, dựa trên một hệ thống cơ sở lý luận vững chắc, phương pháp phân tích hoàn chỉnh. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan Nhà Nước nói chung và cho các nhà quản lý doanh nghiệp nói riêng trong việc đưa ra các quyết định quản lý phù hợp. Vì vậy để khắc phục những hạn chế đó, công ty nên thực hiện phân tích theo một quy trình hoàn chỉnh với đầy đủ nội dung phân tích, phương pháp và thông tin sử dụng, đảm bảo tốt chất lượng nhân sự cho công tác phân tích. Cụ thể công ty nên tiến hành phân tích theo các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích.
Phải xác định được mục tiêu chính cần phân tích, từ đó lập kế họach phân tích (thời gian tiến hành, số lượng nhân sự và phân công chi tiết).
Thông báo cho các bộ phận để có kế hoạch phối hợp thực hiện phân tích.
Thu thập, xử lý sơ bộ các thông tin : từ thông tin bên ngoài cho đến thông tin nội bộ mà quan trọng hơn hết là thông tin kế toán.
Bước 2: Tiến hành phân tích
Tiến hành phân tích đầy đủ các nội dung theo quy định của Nhà Nước và theo yêu cầu của công ty. Trên cơ sở đó, tùy theo mục tiêu nghiên cứu, ứng dụng cụ thể sẽ đi sâu vào phân tích các nội dung có liên quan.
Bước 3: Báo cáo kết qủa phân tích.
Tổng hợp số liệu để đưa ra các nhận xét, đánh giá về kết quả kinh doanh của công ty trong kỳ phân tích trên cơ sở so sánh với kỳ trước, với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Dựa vào đó, đưa ra các giải pháp để phát huy những thành công đã đạt được và khắc phục những hạn chế còn tồn tại, lập kế hoạch tài chính chung cho năm tới và đưa ra các dự báo tài chính cụ thể.
Tuy nhiên để đảm bảo chất lượng phân tích, khi tiến hành phân tích theo quy trình trên, thì trước hết công ty phải nâng cao chất lượng nhân sự phân tích tài chính, thông tin, phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính, hoàn thiện các chỉ tiêu đánh giá công tác phân tích tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.
1.2. Nâng cao trình độ cán bộ phân tích
Chất lượng phân tích tài chính phụ thuộc rất nhiều vào trình độ cán bộ thực hiện công tác phân tích tài chính. Hiện nay, các nhân viên phòng tài chính - kế toán hầu như đều tốt nghiệp đại học, có kiến thức khá vững chắc về kế toán. Mặc dù vậy, với nhhững thay đổi mang tính chất thường xuyên của hệ thống kế toán, pháp luật Việt Nam, trước mắt công ty cần có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ kế toán để nâng cao chất lượng kết quả phân tích tài chính.
Công ty nên tổ chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ kế toán bằng cách mời các chuyên gia có kinh nghiệm đến giảng dạy hoặc cử nhân viên tham gia các lớp học về kế toán do Bộ Tài Chính mở.
Hơn nữa, trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng quản lý. Chính vì vậy, tầm quan trọng của phân tích tài chính ngày càng được khẳmg định và đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ cán bộ phân tích tài chính giỏi về chuyên môn, hiểu biết sâu rộng về đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, về môi trường kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính của Nhà nước, chính sách thuế, những xu hướng biến động của nền kinh tế trong Nước và Quốc tế.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra hiện nay là công ty TNHH quảng cáo Liên Minh cũng như nhiều công ty khác không có cán bộ chuyên trách về phân tích tài chính, công việc này do các nhân viên phòng Tài chính - Kế toán thực hiện, mà cũng chỉ mới thực hiện dưới hình thức thuyết minh báo cáo tài chính, không đủ cơ sở để đánh giá toàn diện tình hình tài chính của công ty. Vì thế, về lâu dài, công ty bên cạnh việc cử nhân viên đi bồi dưỡng nghiệp vụ hàng năm cũng cần phải tuyển thêm một người chuyên trách phân tích tài chính của công ty, để đào tạo chỉ thực hiện công tác phân tích tài chính của công ty.
Công ty cũng cần tổ chức hướng dẫn, cập nhật cho các cán bộ quản lý nói chung và cán bộ phân tích nói riêng về việc áp dụng các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh của công ty mới được ban hành.
1.3. Hoàn thiện phương pháp phân tích
Phân tích tài chính doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là việc đưa ra các chỉ tiêu phân tích tài chính, rồi sau đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp, mà yêu cầu đặt ra là phải chỉ ra rõ nguyên nhân nào gây ra tình hình tài chính đó. Trên cơ sở đó, tư vấn cho ban lãnh đạo đề ra mục tiêu, kế hoạch và phương hướng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, Công ty cũng như các chủ thể kinh tế khác đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, mới chỉ áp dụng 2 phương pháp phân tích là phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh do vậy không thể đáp ứng được yêu cầu đề ra. Để tháo gỡ những vướng mắc trên Công ty nên nhanh chóng đưa phương pháp phân tích Dupont vào áp dụng trong công tác phân tích tài chính. Khi sử dụng phương pháp tài chính Dupont, các cán bộ phân tích tài chính của công ty sẽ xác định được chính xác các nguyên nhân căn bản dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của công ty.
1.4. Sử dụng đầy đủ thông tin và phương pháp phân tích.
Để công tác tài chính đạt được kết quả chính xác, đánh giá đúng thực trạng bức tranh tài chính của doanh nghiệp, yêu cầu nhà phân tích phải kết hợp đồng bộ nhiều thông tin.
a ) Với nguồn thông tin bên ngoài.
Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành: đây là hệ thống chỉ tiêu tham chiếu quan trọng của công ty. Nhìn chung, đến nay hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành đã có nhưng chưa đầy đủ và thường xuyên không chính xác, cập nhật. Hiện nay, theo quy định của Nhà Nước, mỗi năm các doanh nghiệp phải gửi báo cáo tài chính của mình cho cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cơ quan thống kê và Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư nếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, đối với một số doanh nghiệp, theo quy định của Nhà Nước phải công bố công khai một số tỷ lệ tài chính. Vì vậy, các cơ quan nói trên hoàn toàn có thể cung cấp các chỉ tiêu trung bình ngành cho công ty khi công ty yêu cầu. Tuy nhiên, một thực trạng hết sức phổ biến ở các doanh nghiệp hiện nay là khâu hạch toán thường làm để đối phó với các cơ quan thuế vụ và cấp trên. Không hiếm trường hợp một doanh nghiệp tồn tại ba loại sổ sách hạch toán riêng: một cho mình, một cho cấp trên, một cho cơ quan thuế vụ. Chính vì vậy, các chỉ tiêu trung bình ngành thường sai lệch so với thực tế. Mặt khác, hoạt động phân tích tài chính ở nước ta chưa trở thành việc làm thường xuyên và hệ thống thông tin chưa hoàn hảo nên các chỉ tiêu trung bình ngành dù quan trọng nhưng hiện tại, công ty TNHH quảng cáo Liên Minh chỉ nên xem nó là tiêu chuẩn để tham khảo. Do đó, các cán bộ phân tích giỏi về chuyên môn, am hiểu thị trường mới là quan trọng. Nguồn thông tin bên ngoài còn bao gồm những thông tin về tình hình trong nước và quốc tế có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, do đó, cán bộ phân tích tài chính của công ty cần thực hiện theo các giải pháp sau.
+ Theo dõi sự biến động của lãi suất ngân hàng một cách thường xuyên bởi nó ảnh hưởng đến số lãi vay ngân hàng của các khoản nợ ngắn và dài hạn, đến các khoản đầu tư tài chính của công ty.
+ Thu thập các thông tin về sự thay đổi chỉ số giá các yếu tố đầu vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh để kết hợp trong phân tích, có các giải pháp hợp lý trong trường hợp khan hiếm nguyên liệu đầu vào hay trường hợp chỉ số giá biến động thất thường.
+ Tìm hiểu về chiến lược kinh doanh của các đối thủ để có biện pháp đối phó kịp thời vì nó ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của công ty.
+ Các chủ trương, chính sách của Nhà Nước liên quan đến xuất nhập khẩu, đặc biệt các chính sách liên quan đến xuất nhập khẩu, đặc biệt là chính sách liên quan đến lĩnh vực quảng cáo cần được quan tâm.
Để có được nguồn thông tin này các cán bộ phân tích có thể theo dõi trên các phương tiên thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, internet…đặt mua các văn bản pháp luật mới có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của công ty. Trên cơ sở đó, cán bộ phân tích sử dụng những thông tin này để dự toán nhu cầu tài chính doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho năm tới.
b ) Với nguồn thông tin bên trong.
Công ty cần thu thập tất cả các số liệu kế toán cần thiết để lập đầy đủ các báo cáo tài chính, nguồn thông tin chủ yếu cho việc phân tích tài chính. Các thông tin này phải được cung cấp một cách kịp thời, cập nhật, đầy đủ để công tác phân tích đạt hiệu quả.
Hiện nay, công ty chưa tiến hành lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và đây quả là một thiếu sót của công ty, mặc dù vẫn biết rằng báo cáo lưu chuyển tiền tệ tạm thời chưa được quy định là bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhưng nó vẫn được khuyến khích lập và sử dụng. Bởi thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ có được những thông tin rõ nét về việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng có thể đánh giá khả năng tạo tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng thanh toán và dự đoán luồng tiền trong kỳ tiếp theo. Mặt khác, báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn cung cấp các thông tin để tạo ra các tài sản tương đương tiền và nhu cầu của doanh nghiệp trong việc sử dụng các khoản tiền, cung cấp các thông tin về nguồn hình thành từ các lĩnh vực hoạt động kinh doanh, đầu tư tài chính, hoạt động bất thường…để đánh giá ảnh hưởng của các hoạt động đó đối với tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, việc lập đủ các báo cáo tài chính sẽ tạo ra một ấn tượng tốt về sự quy củ trong quản lý tài chính của công ty trước các đối tác, tạo nên lợi thế cho công ty trong cạnh tranh trong thời gian tới.
Sử dụng thông tin phải kết hợp với yêu cầu thông tin sử dụng phải có tính chính xác. Do đó, kế toán trưởng nên chỉ đạo công tác kiểm toán nội bộ trong công ty để đảm bảo thông tin sử dụng là thông tin “ sạch” . Bên cạnh đó, công ty cũng nên khuyến khích sự phân tích, đề xuất của cán bộ công nhân viên về tình hình sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa bởi đây cũng là nguồn thông tin bổ sung quan trọng, góp phần làm tăng thông tin cho công tác phân tích.
Kết hợp các phương pháp phân tích.
Phương pháp phân tích tỷ lệ cho phép nhà phân tích đánh giá, so sánh các chỉ tiêu tài chính đặc trưng qua các thời kỳ để thấy được tình hình tài chính của công ty mạnh yếu thế nào. Còn phương pháp Dupont lại giúp đánh giá mối quan hệ tác động qua lại giữa các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của công ty. Vì vậy, để có được bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các phương pháp tài chính.
ROE = LNST / VCSH = LNST / DT x DT / TS x TS / VCSH
Qua phương pháp này ta thấy được tác động của doanh thu tiêu thụ, hiệu suất sử dụng tài sản, nghịch đảo của hệ số cơ cấu nguồn vốn đối với sự biến động của doanh lợi vốn chủ sở hữu.
LNST LNST
ROE = =
VCSH Tài sản – nợ
LNST
TS ROA
ROE = =
TS – Nợ 1 – Hệ số nợ
TS
Sự phân tích các thành phần của doanh lợi vốn chủ sở hữu cho thấy khi hệ số nợ tăng lên thì doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng cao hơn. Tuy nhiên, nợ lại là công cụ có tính hai mặt: Một mặt nó khuyếch đại tỷ suất lợi nhuận nếu doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, các dự án đầu tư từ vốn vay đem lại tỷ lệ hoàn vốn cao hơn chi phí lãi vay và phần chênh lệch bổ sung cho lợi nhuận của chủ sở hữu; mặt khác vay nợ có thể làm thua lỗ thêm nặng nề nếu doanh nghiệp đang thua lỗ hoặc lợi nhuận thấp thì phải đeo gánh nặng chi phí lãi.
Trên đây là những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh. Em hy vọng rằng nững điều đó cũng giúp ích một phần nào đấy cho sự phát triển của công ty trong tương lai.
III. Những tiền đề thực hiện những giải pháp đã nêu.
Bên cạnh những nỗ lực từ phía các doanh nghiệp, thì Nhà Nước cũng phải có những sự đổi mới nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy được hết khả năng của mình . Vì vậy, em xin có một số kiến nghị với Nhà Nước như sau:
Hoàn thiện chế độ kế toán.
Nền kinh tế nước ta trong hơn một thập kỷ qua đã có nhiều biến chuyển với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Chế độ kế toán Việt Nam qua đó cũng liên tục được đổi mới cho phù hợp. Trong những năm tới, xu hướng hòa nhập sẽ ngày một phát triển mạnh mẽ hơn, do đó Nhà Nước cần phải tiếp tục có các giải pháp cụ thể để hoàn thiện hơn nữa chế độ kế toán của Việt Nam nhằm đảm bảo chế độ này luôn phù hợp với mọi thành phần kinh tế và nguyên tắc thông lệ có tính phổ biến của kế toán ở các nước đang phát triển. Đồng thời Nhà Nước luôn phải chú ý đến những vướng mắc về chế độ kế toán có thể phát sinh để xử lý kịp thời. Pháp lệnh kế toán Việt Nam ra đời trong bối cảnh nền kinh tế nước ta từng bứơc chuyển sang kinh tế thị trường nên còn nhiều tồn tại, bất cập. Vì vậy, Nhà Nước nên sớm hoàn thiện luật kế toán Việt Nam nhằm tạo nền tảng và cơ sở pháp lý hoàn chỉnh về kế toán và kiểm toán, tránh không xảy ra tình trạng nhiều cơ quan cùng có những quy định khác nhau về cùng một lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, Bộ Tài Chính cần có quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm cung cấp các thông tin về luồng tiền vào, ra trong kỳ, phản ánh trạng thái động của doanh nghiệp để bổ sung các tài liệu khác như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh khi đánh giá về hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, nên có quy định cụ thể về vấn đề các doanh nghiệp phải thực hiện công khai báo cáo tài chính để làm cơ sở cho việc quản lý doanh nghiệp và phân tích tài chính được dễ dàng, thuận lợi, chính xác hơn. Hiện nay, chỉ có bản thân doanh nghiệp và các cơ quan quản lý doanh nghiệp là có đủ tài liệu để phân tích còn những người ngoài doanh nghiệp thì chưa để tìm hiểu cụ thể về doanh nghiệp mà mình quan tâm. Ngoài ra, cần tiến tới yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện phân tích tài chính để tự đánh giá hoạt động của mình và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên. Phân tích tài chính vẫn còn mới mẻ đối với các doanh nghiệp nên Bộ Tài Chính cần có sự hướng dẫn cụ thể và các biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện phân tích tài chính tại doanh nghiệp mình.
Tăng cường vai trò của công tác kiểm toán
Công tác kiểm toán ở Việt Nam tuy mới ra đời và phát triển nhưng đã có địa vị pháp lý vững chắc, công tác kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp đã được thực hiện, trong những năm qua là một bước tiến quan trọng trong công tác quản lý tài chính của các doanh nghiệp này. Trên thực tế, phạm vi và mục đích của kiểm toán nội bộ thường biến động và phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu của doanh nghiệp cũng như yêu cầu của các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp. Vì thế, một mặt để đảm bảo tính khách quan của công tác kiểm toán, mặt khác để tăng cường sự kiểm tra của Nhà Nước về tính hợp lý của chế độ kế toán, tình hình tài chính doanh nghiệp và việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà Nước thì các cơ quan kiểm toán của Nhà Nước như: kiểm toán Nhà Nước, kiểm toán Bộ Tài Chính… cần thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, đảm bảo công tác kiểm toán của các cơ quan này tiến hành tại các doanh nghiệp được thực hiện đúng theo thời gian quy định, đầy đủ các nội dung nghiệp vụ, báo cáo kịp thời lên Bộ Tài Chính những bất hợp lý phát sinh. Qua đó thúc đẩy tính chuyên nghiệp, quy củ trong công tác quản lý tài chính nói chung và phân tích tài chính nói riêng ở các doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua đó cung cấp thông tin cho Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư nắm bắt được những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để có hướng giải quyết, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút vốn đầu tư. Đồng thời giúp cho cơ quan thuế phát hiện được tình trạng chốn thuế của các doanh ngghiệp.
Tiến tới hoàn thiện việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành
Hiện nay hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành đã có nhưng chưa đầy đủ và không kịp thời. Cho dù không phải bất cứ một doanh nghiệp nào đạt được các chỉ tiêu theo hệ thống này là rất hiệu quả, bởi còn nhiều yếu tố cần được xem xét để mang lại kết luận chính xác nhưng hệ thống này rõ ràng là một căn cứ quan trọng giúp cho các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp tự đánh giá hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp mình. Vì vậy, đề nghị Nhà Nựớc sớm có những văn bản cụ thể hơn về việc xây dựng và cung cấp hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành nhằm góp phần mang lại hiệu quả cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Các cơ quan đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực này như tổng cục Thông Kê, Bộ Tài Chính cần được tăng cường thêm một số quyền hạn cần thiết và phải đảm bảo thực hiện tốt, khắc phục được những nhược điểm đã nói ở trên.
IV. Một số kiến nghị.
Nhà Nước cần có chính sách đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ phân tích quản lý tài chính, hình thành nên đội ngũ chuyên viên tài chính để công tác phân tích tài chính và quản lý tài chính doanh nghiệp có hiệu quả. Đồng thời xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát tình hình tài chính ở doanh nghiệp, nghiêm khắc xử lý những hiện tượng làm thay đổi số liệu tài chính với các mục đích mờ ám.
Nhà Nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh:
+ Lĩnh vực ngân hàng cần có những điều chỉnh về cơ chế tín dụng hợp lý theo hướng kết hợp giữa thế chấp và tín chấp để các doanh nghiệp có thể dễ dàng vay vốn ngân hàng , giảm bớt các thủ tục hành chính phiền hà trong khi vay và cần có thái độ hợp tác với khách hàng.
+ Nhà Nước cần có những điều chỉnh hợp lý đối với chính sách thuế theo hướng sắp xếp lại các sắc lệnh thuế cho phù hợp với tính chất của từng loại thuế, phù hợp với tiến trình hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cần xem xét lại cách đánh thuế, tránh tình trạng chồng chéo, không phản ánh được bản chất của mỗi loại thuế (chẳng hạn như việc thu thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa vừa nhập về chưa có tác động gì), quy định cụ thể nhóm mặt hàng chụi thuế và thuế suất với từng mặt hàng…để tránh tình trạng thông đồng giữa các doanh nghiệp và cán bộ thuế, gây thất thoát cho Nhà Nước, khuyến khích các doanh nghiệp tích lũy vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Nhà Nước cần có những điều chỉnh về thủ tục hành chính và pháp lý đối với các đối tác nước ngoài như: xóa bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, xóa bỏ quy định doanh nghiệp phải xin phép điều chỉnh vốn điều lệ và vốn đầu tư, mà nên quy định doanh nghiệp chỉ cần đăng ký thay đổi vốn điều lệ và vốn đầu tư với Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư… để họ mạnh dạn bỏ thêm vốn vào liên kết, liên doanh, hợp tác đầu tư.
Khi các doanh nghiệp mạnh dạn bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, Nhà Nước sẽ có các điều kiện tiền đề để từng bước xây dựng các chính sách nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư…để hòa nhập thị trường vốn trong nước với khu vực và thế giới. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán, qua đó có thể tự huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, có điều kiện và nhu cầu thực hiện phân tích tài chính nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp
KẾT LUẬN
Như đã trình bày và từ những gì đã được học, khi đến thực tập tại công ty TNHH quảng cáo Liên Minh em càng thấy rõ hơn tầm quan trọng hơn của công tác phân tích tài chính của một doanh nghiệp
Với những cố gắng nhằm nêu bật lên sự cần thiết của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, mà công ty TNHH quảng cáo Liên Minh là môi trường cần nghiên cứu. Phân tích tài chính doanh nghiệp là một vấn đề bao quát, do vậy trong phạm vi chuyên đề này em chỉ đề cập tổng thể thực trạng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty đồng thời đi sâu nghiên cứu các chỉ tiêu. Rút ra nhận xét và qua đó mạnh dạn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
Do kiến thức còn hạn chế, thực tế chưa nhiều nên chuyên đề thực tập này không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp chân thành của thầy cô giáo, bạn bè, để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn, PGS. TS. Nguyễn Hữu Tài đã nhiệt tình giúp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC_19_1_.doc