Tài liệu Đề tài Hoàn thiện kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện: Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, toàn cầu hoá và xu thế hội nhập đã làm thay đổi cơ bản những diễn biến của kinh tế thế giới. Với sự phát triển nhanh chóng từng ngày của các tổ chức kinh tế, hàng trăm thậm chí hàng nghìn công ty liên doanh, Công ty 100% vốn nước ngoài,…đang hoạt động và mỗi ngày mỗi nhiều hơn, công tác quản lý ngày càng trở nên phức tạp đòi hỏi chúng ta cần coi trọng công tác kiểm toán, phải xem kiểm toán là một công cụ quan trọng và cần thiết để giúp cho nền kinh tế đất nước tránh được những thiệt hại lớn lao.
Là một bộ phận của nền kinh tế, việc hình thành và phát triển thị trường dịch vụ kế toán – kiểm toán vừa là tất yếu khách quan; vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế – tài chính và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển nền kinh tế xã hội. Xuất phát từ lợi ích thiết yếu đó của hoạt động dịch vụ kế toán – kiểm toán, trong những năm gần đây hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán độ...
123 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1070 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, toàn cầu hoá và xu thế hội nhập đã làm thay đổi cơ bản những diễn biến của kinh tế thế giới. Với sự phát triển nhanh chóng từng ngày của các tổ chức kinh tế, hàng trăm thậm chí hàng nghìn công ty liên doanh, Công ty 100% vốn nước ngoài,…đang hoạt động và mỗi ngày mỗi nhiều hơn, công tác quản lý ngày càng trở nên phức tạp đòi hỏi chúng ta cần coi trọng công tác kiểm toán, phải xem kiểm toán là một công cụ quan trọng và cần thiết để giúp cho nền kinh tế đất nước tránh được những thiệt hại lớn lao.
Là một bộ phận của nền kinh tế, việc hình thành và phát triển thị trường dịch vụ kế toán – kiểm toán vừa là tất yếu khách quan; vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế – tài chính và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển nền kinh tế xã hội. Xuất phát từ lợi ích thiết yếu đó của hoạt động dịch vụ kế toán – kiểm toán, trong những năm gần đây hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng không ngừng tiến bộ, ngày càng phát triển và khẳng định vị trí vững chắc của mình trong khu vực và trên thế giới. Đó cũng là xu thế phát triển tất yếu của một nền kinh tế đổi mới và đang trên đà phát triển như nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Toàn bộ một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính là sự tổng hợp kết quả của các phần hành, các chu trình khác nhau, từ giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tới giai đoạn kết thúc kiểm toán và phát hành Báo cáo. Mỗi phần hành, chu trình là một quá trình kiểm toán riêng biệt, song chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong suốt quá trình của cuộc kiểm toán. Trong đó, việc hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung và quy trình kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất nói riêng là vấn đề quan trọng hàng đầu của bất kỳ một Công ty kiểm toán nào hiện nay, bởi khoản mục chi phí sản xuất là một khoản mục mang tính tổng hợp trên Báo cáo tài chính, ảnh hưởng rất nhiều đến các khoản mục khác và đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị; và nó cũng chính là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của Công ty kiểm toán trong nền kinh tế thị trường có sức cạnh tranh mạnh mẽ, khốc liệt như hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam, cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Bùi Thị Minh Hải và các cô chú lãnh đạo, các anh chị trong Công ty, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện” để nghiên cứu. Nội dung chính của luận văn, ngoài phần mở đầu và phần kết luận bao gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
Chương II: Thực tế kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán BCTC do Công ty VAE thực hiện.
Chương III: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục CPSX trong kiểm toán BCTC tại Công ty VAE.
Trong quá trình thực hiện bài luận văn này, do hạn chế về kiến thức thực tế cũng như thời gian nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng tất cả những người quan tâm để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tạo điều kiện cho sinh viên chúng em có một thời gian thực tập bổ ích. Cảm ơn cô giáo, Ban lãnh đạo và toàn thể các anh chị trong Công ty VAE cùng tất cả các thầy cô giáo đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành bài luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: cơ sở lý luận về kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán báo cáo tài chính.
I. Khoản mục chi phí sản xuất trong mối quan hệ với kiểm toán báo cáo tài chính.
1. Đặc điểm chi phí sản xuất với vấn đề kiểm toán.
1.1. Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của chi phí.
“Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm)” Nguyễn Văn Công – Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính- NXB Tài Chính – HN 2004 Tr.82
Mọi hoạt động và phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động, tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Hay nói cách khác, quá trình sản xuất là quá trình kết hợp cả ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Sự kết hợp cả ba yếu tố này trong quá trình sản xuất sẽ tạo ra những sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của con người. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Với mỗi doanh nghiệp, chi phí luôn gắn liền với mỗi kỳ sản xuất và phải là chi phí thực. Vì vậy, cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí của kỳ hạch toán là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tuy chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Trên thực tế, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau (như: chi mua nguyên vật liệu, vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng,…); có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng chưa được chi tiêu (các khoản phải trả). Như vậy, chi phí và chi tiêu không những khác nhau về mặt lượng mà còn khác nhau về thời gian. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán.
Như vậy, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết mà doanh nghiệp đã chi ra trong một kỳ kinh doanh nhất định. Trong đó:
Chi phí về lao động sống là các chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương được tính vào chi phí.
Chi phí về lao động vật hoá bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu, chi phí điện nước, chi phí khấu hao,…
Nói một cách khác, thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn – chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá ( sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
1.2. Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò và vị trí. Xuất phát từ các mục tiêu và yêu cầu khác nhau của hoạt động quản lý, CPSX có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức: theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí, theo mục đích sử dụng,…Một trong những cách phân loại được sử dụng phổ biến nhất trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trên góc độ kế toán tài chính là phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, CPSX được cấu thành bao gồm các khoản:
w Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT): Bao gồm chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,…tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
w Chi phí nhân công trực tiếp (NCTT): Bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ) trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất theo tỷ lệ quy định.
w Chi phí sản xuất chung (SXC): Là toàn bộ chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất chung tại bộ phận sản xuất, bao gồm các khoản sau:
Chi phí vật liệu: Là chi phí vật liệu sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung như: vật liệu dùng để sữa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định (TSCĐ), dùng cho công tác quản lý phân xưởng,…
Chi phí dụng cụ sản xuất: Là chi phí về các loại công cụ, dụng cụ dùng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng như: Dụng cụ cầm tay, dụng cụ bảo hộ lao động,…
Chi phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ): Bao gồm số khấu hao về tài sản cố định hữu hình, TSCĐ vô hình và TSCĐ thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng sản xuất như khấu hao máy móc, thiết bị sản xuất, khấu hao nhà xưởng,…
Chi phí nhân viên phân xưởng: Bao gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ tiền lương phát sinh của nhân viên phân xưởng.
Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền: Bao gồm các khoản chi về dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài để sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng như: Chi phí về điện, nước, điện thoại,…và các khoản chi phí khác phát sinh trong phạm vi phân xưởng.
Cách phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm này có tác dụng phục vụ đắc lực cho yêu cầu quản lý CPSX theo định mức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính giá thành sản phẩm, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức CPSX cho kỳ sau. Ngoài ra, cách phân loại này còn cung cấp các thông tin về cơ cấu và sự biến động của từng khoản mục chi phí trong việc tính giá thành giúp cho nhà quản lý nhanh chóng nắm bắt thông tin để từ đó đề ra các biện pháp quản lý hữu hiệu nhất.
Nói đến CPSX không thể không đề cập tới mối quan hệ giữa CPSX và giá thành sản phẩm. Chi phí và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. CPSX phản ánh mặt hao phí sản xuất, giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất gắn liền với khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ. Mối quan hệ đó có thể được biểu diễn qua công thức sau:
Z = D đk + C – D ck
Trong đó: Z : Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành.
C : CPSX phát sinh trong kỳ.
D đk, D ck: CPSX dở dang đầu kỳ, cuối kỳ.
Như vậy, CPSX là căn cứ, là cơ sở để xác định chỉ tiêu giá thành.
Tóm lại, qua tìm hiểu về đặc điểm chi phí sản xuất khi kiểm toán cần quan tâm các vấn đề sau:
Xem xét việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất, đối tượng hạch toán chi phí, tính phù hợp của phương pháp kế toán áp dụng, tính có thật và hợp lý của số liệu.
Như ta đã biết, CPSX nằm trong giai đoạn sản xuất và kết quả của giai đoạn này thể hiện ở thành phẩm, sản phẩm dở dang. Do đó, khi kiểm toán ngoài việc kiểm toán các yếu tố chi phí chính: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, Chi phí nhân công trực tiếp, Chi phí sản xuất chung thì kiểm toán viên còn phải kiểm toán đối với CPSX kinh doanh dở dang và việc tính giá thành sản phẩm. Kiểm toán viên cần phải xem xét các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang và phương pháp tính giá thành có phù hợp hay không, đồng thời xem xét tính nhất quán các phương pháp đó.
2. Kiểm soát nội bộ đối với chi phí sản xuất.
Trong mọi hoạt động của doanh nghiệp, chức năng kiểm tra kiểm soát luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình quản lý và được thực hiện chủ yếu bởi hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB). Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC): “Hệ thống KSNB là một hệ thống các chính sách, các thủ tục nhằm bốn mục tiêu sau: Bảo vệ tài sản của đơn vị; bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý, bảo đảm hiệu quả các hoạt động” Nguyễn Quang Quynh – Kiểm toán tài chính – NXB Tài chính – HN 2001 Tr.77
Với các doanh nghiệp sản xuất, CPSX là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng tương đối lớn trên Báo cáo tài chính của doanh nghiệp; để tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải có hệ thống KSNB hữu hiệu đối với các hoạt động đó đặc biệt là với CPSX. Mặt khác, đối với kiểm toán chi phí nói riêng kiểm toán Báo cáo tài chính (BCTC) nói chung, việc nghiên cứu và đánh giá về hệ thống KSNB của khách hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu kiểm toán viên (KTV) đánh giá hệ thống KSNB của khách hàng hoạt động có hiệu lực thì KTV có thể kế thừa các kết quả của hệ thống đó trong quá trình thực hiện kiểm toán. Hệ thống KSNB đối với chi phí sản xuất tại các doanh nghiệp thường bao gồm các yếu tố sau:
v Môi trường kiểm soát.
“Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài đơn vị có tính chất môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của các loại hình KSNB” Nguyễn Quang Quynh – Kiểm toán tài chính – NXB Tài chính – HN 2001 Tr.79
. Các nhân tố chủ yếu tác động đến CPSX là:
Bộ phận quản lý sản xuất: Là việc phân chia chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của từng người, từng bộ phận trong đơn vị. Cụ thể, bộ phận quản lý sản xuất phải bảo đảm xuyên suốt từ trên xuống dưới và phải được thiết lập từ bộ phận quản lý cấp cao như: Phòng kế hoạch, phòng quản lý sản xuất, phòng kiểm tra chất lượng , các phân xưởng, tổ đội sản xuất,…Các bộ phận này phải được phân định quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng sao cho vừa phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ, trình độ quản lý vừa phải hướng tới mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp.
Các chính sách về quản lý sản xuất: trong doanh nghiệp được xây dựng từ giai đoạn cung cấp các nguồn lực cho sản xuất đến giai đoạn kết thúc sản xuất, bao gồm:
Chính sách về vật tư cho sản xuất như: vật tư xuất kho phải có phiếu yêu cầu sử dụng vật tư và có sự phê chuẩn của bộ phận sản xuất,…
Chính sách về tính lương cho công nhân viên như: quy định rõ ràng, công khai về mức lương, mức thưởng, các khoản phụ cấp, thời gian trả lương … Các chính sách này phải đảm bảo công bằng, hợp lý cho tất cả công nhân viên.
Đối với các doanh nghiệp lớn thì cần phải xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn để kiểm soát chi phí. Doanh nghiệp phải xây được định mức kinh tế kỹ thuật về tiêu hao vật tư và lao động cho từng loại sản phẩm và từng công đoạn chế biến sản phẩm. Các định mức chi phí này luôn phải được thiết lập phù hợp với dây chuyền công nghệ và được theo dõi định kỳ bởi bộ phận quản lý sản xuất. Các chi phí sản xuất thực tế phát sinh được so sánh với định mức nhằm phát hiện những biến động bất thường để từ đó đưa ra những quyết định kịp thời.
Công tác kế hoạch: Doanh nghiệp nên xây dựng hệ thống kế hoạch, dự toán đối với chi phí như: kế hoạch sản xuất, kế hoạch giá thành, kế hoạch tài chính, dự toán chi phí,…Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc thì hệ thống kế hoạch và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu.
v Hệ thống kế toán.
Để quản lý và kiểm soát chặt chẽ các chi phí phát sinh trong doanh nghiệp, nhà quản lý cần phải có một hệ thống thông tin đầy đủ về chi phí; mà chức năng của kế toán là cung cấp và truyền đạt các thông tin kinh tế về một tổ chức cho các đối tượng sử dụng khác. Do đó, hệ thống kế toán đóng một vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát các chi phí nói chung, CPSX nói riêng bao gồm: hệ thống các chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán chi phí,…
w Hệ thống chứng từ kế toán:
Chứng từ kế toán là vật mang tin, chứng minh cho nghiệp vụ kinh tế đã thực sự phát sinh và hoàn thành. Các chứng từ sử dụng trong hạch toán CPSX bao gồm:
Chứng từ vật tư: Phiếu yêu cầu sử dụng vật tư, phiếu xuất kho, bảng kê các hoá đơn chứng từ mua nguyên vật liệu,…
Chứng từ về tiền lương: Bảng chấm công, Bảng thanh toán tiền lương, tiền thưởng, BHXH,…
Chứng từ về chi phí khấu hao TSCĐ: Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ,…
Chứng từ dịch vụ mua ngoài: Hoá đơn tiền điện, tiền nước,…
w Phương thức hạch toán CPSX:
Các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến chi phí sản xuất phát sinh phải được hạch toán đúng vào tài khoản trên cơ sở quy trình hạch toán như sau:
Sơ đồ 1.1:Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất
TK 334,338
TK 111,331
TK 152,153
TK 142,242
TK 334,338,335
TK 111
TK 214
TK 621
TK 622
TK 627
TK 154
TK 155,157
TK 632
Kết chuyển chi
phí NVLTT
Kết chuyển chi
phí NCTT
Kết chuyển chi
phí SXC
Nhập kho hoặc
Gửi bán
Tiêu thụ thẳng
Không qua kho
TK 152
w Hệ thống sổ kế toán:
Sổ kế toán về chi phí sản xuất bao gồm hệ thống sổ tổng hợp và sổ chi tiết. Hệ thống sổ chi tiết gồm: Sổ chi tiết các tài khoản (TK) 621, 622, 627, 154,… được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán CPSX. Kế toán tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán CPSX để xác định số lượng sổ cần mở, kết cấu của từng loại sổ. Hệ thống sổ tổng hợp tuỳ thuộc vào hình thức sổ kế toán mà doanh nghiệp áp dụng ( Nhật ký chung, Chứng từ ghi sổ, Nhật ký chứng từ, Nhật ký sổ cái).
w Các nguyên tắc cơ bản trong hạch toán CPSX:
Trong quá trình hạch toán CPSX, doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận trong chuẩn mực số 01 Chuẩn mực kế toán Việt Nam quyển II – NXB Tài chính HN 01/2003 Tr.34,35
do Hội đồng chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành, đặc biệt là bốn nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc chi phí: Việc tính toán chi phí và trình bày trên Báo cáo tài chính phải dựa trên giá thực tế mà không quan tâm đến giá thị trường.
Nguyên tắc nhất quán: Việc sử dụng các phương pháp tính giá, phương pháp hạch toán chi phí phải thống nhất giữa các kỳ.
Nguyên tắc phù hợp: Hạch toán chi phí phải đúng đối tượng chịu chi phí, đúng thời kỳ và phù hợp với doanh thu trong kỳ, chi phí tương ứng với doanh thu trong kỳ gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.
Nguyên tắc thận trọng: Việc hạch toán CPSX phải đảm bảo sự an toàn khi tính các khoản chi phí và thu nhập, trong đó thu nhập phải được đảm bảo chắc chắn, chi phí phải được tính tối đa.
v Các thủ tục kiểm soát đối với CPSX.
Các thủ tục kiểm soát chủ yếu đối với khoản mục chi phí sản xuất trong doanh nghiệp được thiết lập dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc phân công, phân nhiệm: Theo nguyên tắc này, trách nhiệm và công việc cần được phân chia cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều người trong bộ phận; không cho phép cá nhân nào quản lý nghiệp vụ từ khâu đầu đến khâu cuối. Cụ thể là phải phân công công việc giữa chức năng mua hàng, chức năng phê duyệt, chức năng nhập kho, ghi sổ…để tránh tình trạng gian lận, đồng thời thông qua đó các chức năng có thể kiểm soát chéo lẫn nhau.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: Nguyên tắc này quy định sự cách ly thích hợp về trách nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và hành vi lạm dụng quyền hạn. Cụ thể, cần tách bạch giữa công tác ghi sổ, công tác quản lý vật tư, tài sản, theo dõi lao động và công tác thu chi trong doanh nghiệp.
Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn: Theo sự uỷ quyền của nhà quản lý, các cấp dưới được giao cho giải quyết một số công việc trong một phạm vi nhất định. Tất cả các nghiệp vụ về thu, chi, xuất, nhập vật tư, quyết định các vấn đề về tiền lương, tiền thưởng,…phải được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.
v Kiểm toán nội bộ.
Là một trong những nhân tố cơ bản nhất của hệ thống KSNB, bộ phận này cung cấp một sự quan sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong đó có hoạt động sản xuất. Mối quan tâm chủ yếu của KTV nội bộ trước hết là phải xác định xem liệu có tồn tại một cơ sở phù hợp cho hoạt động kiểm soát chi phí. Thứ hai là, liệu cơ sở đó có đang được quản lý có hiệu quả hay không? Bộ phận này hoạt động hữu hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin chính xác, kịp thời về tình hình sản xuất của doanh nghiệp, quản lý được CPSX và giá thành sản phẩm từ đó giúp nhà quản lý đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có kiểm toán nội bộ; mà đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hệ thống KSNB được thay thế bởi bộ phận kiểm tra, kiểm soát.
Hiểu được những đặc điểm của CPSX và KSNB đối với CPSX không chỉ giúp cho các nhà quản lý kiểm soát được chặt chẽ các CPSX phát sinh trong đơn vị; từ đó đề ra các quyết định đúng đắn mà còn giúp KTV nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng kiểm toán BCTC trong kiểm toán BCTC của các doanh nghiệp.
3. Vai trò của kiểm toán khoản mục CPSX trong kiểm toán BCTC.
ỉ Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với các khoản mục trên Báo cáo kết quả kinh doanh.
Chi phí nói chung và chi phí sản xuất nói riêng đóng vai trò nhất định trong Báo cáo tài chính và là một trong những yếu tố rất quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí phát sinh và biến đổi liên tục trong quá trình phát triển của doanh nghiệp, gắn liền với sự tồn tại của doanh nghiệp. Mặc dù CPSX chưa đủ để nói lên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhưng nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh và việc tính toán các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính. Cụ thể:
Trên Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, các chỉ tiêu về chi phí là các chỉ tiêu quan trọng phản ánh tổng quát quá trình kinh doanh trong bất kỳ doanh nghiệp nào mà mọi sai sót liên quan đến việc phản ánh chi phí đều có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh.
Các chỉ tiêu về chi phí sản xuất có liên quan chặt chẽ tới các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán cũng như các chu trình kiểm toán khác nhau. Cụ thể, CPSX liên quan đến tài khoản 152, 153, 154, 155, 334, 338, 214,…nên nó cũng liên quan đến các chu trình mua hàng – thanh toán, chu trình tiền lương – nhân viên, chu trình đầu tư tài sản cố định,…Vì vậy, việc xem xét, đánh giá các chỉ tiêu chi phí sản xuất được gắn liền với quá trình xem xét, đánh giá các khoản mục, các chu trình nghiệp vụ liên quan và đòi hỏi một sự phân tích, đánh giá tổng hợp của kiểm toán viên.
Đối với Nhà nước, các chỉ tiêu doanh thu và chi phí cùng các khoản thu nhập khác có liên quan trực tiếp đến việc xác định thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng phải nộp. Theo đó, những sai sót hay gian lận trong quá trình hạch toán CPSX có ảnh hưởng trực tiếp tới nghĩa vụ của doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước.
ỉTính tất yếu phải có kiểm toán chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
Với vai trò quan trọng, kiểm toán CPSX thực sự trở thành một phần hành không thể thiếu được trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Nếu thiếu kiểm toán khoản mục này kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của các thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính trên các khía cạnh trọng yếu. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến uy tín Công ty kiểm toán do không đạt được mục tiêu kiểm toán đối với khách hàng.
Tầm quan trọng của kiểm toán CPSX trong kiểm toán Báo cáo tài chính được thể hiện qua các điểm sau:
Khoản mục CPSX có ảnh hưởng lớn tới các khoản mục khác trong Báo cáo tài chính, nên khoản mục này luôn được coi là trọng yếu. Trong bất kỳ một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính nào, khi đánh giá tính trọng yếu của các khoản mục trên Báo cáo tài chính, các kiểm toán viên đều cho rằng khoản mục CPSX là trọng yếu và cần phải được tiến hành kiểm toán một cách đầy đủ nhằm tránh bỏ sót những sai sót trọng yếu có thể có đối với khoản mục này và do đó, có thể giảm rủi ro kiểm toán xuống mức thấp nhất có thể được. Chính vì vậy kiểm toán viên không thể bỏ qua khoản mục này. Nếu thiếu nó thì sẽ không có kết luận kiểm toán, không đưa ra được ý kiến về Báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Khoản mục chi phí sản xuất không những bản thân nó được xét là trọng yếu, mà nó còn ảnh hưởng tới các khoản mục khác trên Báo cáo tài chính như: Hàng tồn kho, lợi nhuận ròng,…
Tính đúng đắn của việc tập hợp chi phí sản xuất là một cơ sở quan trọng để kiểm toán viên đưa ra ý kiến của mình về tính trung thực và hợp lý của các thông tin trình bày trên các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời tư vấn cho doanh nghiệp hoàn thiện hơn.
Với tất cả các lý do trên, có thể khẳng định rằng kiểm toán CPSX là một phần hành không thể thiếu được trong kiểm toán Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất.
4. Đặc điểm kiểm toán khoản mục CPSX trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
Là một phần hành quan trọng trong kiểm toán BCTC, kiểm toán CPSX vừa mang đặc điểm chung của kiểm toán Báo cáo tài chính, vừa mang đặc điểm riêng của kiểm toán khoản mục.
w Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất mang đặc điểm chung của kiểm toán Báo cáo tài chính.
Về chức năng: Kiểm toán khoản mục CPSX nhằm xác minh và bày tỏ ý kiến về tính trung thực, hợp lý và hợp pháp của khoản mục CPSX trên Báo cáo tài chính.
Về phương pháp kiểm toán: Kiểm toán tài chính sử dụng hệ thống phương pháp kiểm toán chứng từ gồm: cân đối, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic và phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ gồm: kiểm kê, thực nghiệm, điều tra.
Về trình tự kiểm toán: Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất được tiến hành theo ba bước: Lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán.
w Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất mang đặc điểm riêng của kiểm toán khoản mục.
Về đối tượng kiểm toán: Kiểm toán chi phí sản xuất có đối tượng trực tiếp là khoản mục CPSX trên BCTC. Do đó, việc kiểm toán chi phí sản xuất gắn với việc kiểm tra tính đúng đắn và hợp lý trong quá trình lập và luân chuyển chứng từ về CPSX, tính chính xác trong quá trình tính toán, ghi chép sổ sách về chi phí sản xuất và trình bày trên Báo cáo tài chính.
Về phương pháp kiểm toán: Kiểm toán chi phí sản xuất sử dụng kết hợp cả hai phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ; nhưng chú trọng nhiều đến phương pháp kiểm toán chứng từ hơn. Bên cạnh đó, kiểm toán viên còn sử dụng các phương pháp quan sát, phỏng vấn, điều tra,…
Về thực hiện kiểm toán: Trong quá trình thực hiện kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất, kiểm toán viên thường chú ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất có liên quan đến các chỉ tiêu tiền mặt, vật tư, hàng hoá, tiền lương,…Vì vậy, kiểm toán khoản mục CPSX thường kết hợp với kiểm toán các phần hành có liên quan để giảm bớt khối lượng công việc kiểm toán.
Thứ hai, các nghiệp vụ phát sinh về chi phí sản xuất có liên quan trực tiếp đến các nghiệp vụ chi tiền, nghiệp vụ xuất vật tư, hàng hoá. Đây là những yếu tố thường xuyên biến động, dễ xảy ra gian lận và sai sót nhất nên khoản mục CPSX dễ xảy ra sai phạm. Vì vậy, kiểm toán viên phải hết sức thận trọng trong quá trình kiểm toán khoản mục CPSX.
Thứ ba, khoản mục chi phí sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh. Vì vậy, khoản mục chi phí sản xuất được đánh giá là trọng yếu trong quá trình kiểm toán.
II. Mục tiêu và trình tự kiểm toán khoản mục CPSX trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
1. Mục tiêu kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất.
Việc xác định hệ thống mục tiêu kiểm toán có vai trò rất quan trọng. Nó giúp cho kiểm toán viên thực hiện kiểm toán đúng hướng và có hiệu quả. Là một loại hình kiểm toán, kiểm toán tài chính có mục tiêu tổng quát là thu thập bằng chứng để đưa ra kết luận trình bày trên một báo cáo kiểm toán thích hợp. Mục tiêu tổng quát này đã được xác định trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 – Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán Báo cáo tài chính, khoản 11 xác định:
“ Mục tiêu kiểm toán Báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng Báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành ( hoặc được chấp nhận ), có tuân thủ pháp luật liên quan, có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên các khía cạnh trọng yếu hay không?” Chuẩn mực kiểm toán số 200 quyển I Bộ Tài chính, HN 09/1999 Tr 16
Đây là mục tiêu tổng quát của cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính. Mục tiêu tổng quát này được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm toán chung như: Tính hợp lý chung, tính hiện hữu, tính đầy đủ, tính chính xác cơ học, phân loại và trình bày, quyền và nghĩa vụ, định giá và phân bổ.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán, ngoài việc phải xác định chính xác các mục tiêu cụ thể, kiểm toán viên còn phải gắn các mục tiêu đó vào từng phần hành kiểm toán để xây dựng hệ thống mục tiêu đặc thù. Việc xác định mục tiêu kiểm toán đặc thù cho mỗi phần hành, khoản mục cụ thể là một công việc quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc kiểm toán đồng thời có thể giúp làm giảm rủi ro kiểm toán xuống mức thấp nhất. Trên cơ sở các mục tiêu kiểm toán đặc thù cho từng khoản mục, kiểm toán viên tiến hành các thủ tục để khẳng định mục tiêu kiểm toán đó có được đơn vị khách hàng tuân thủ hay không? Từ đó tìm ra các sai phạm.
Như đã trình bày ở mục 1.2, chi phí sản xuất bao gồm các yếu tố chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Do vậy, việc kiểm toán CPSX được tiến hành dựa trên cơ sở kiểm toán đối với những khoản mục này. Kiểm toán khoản mục CPSX trong kiểm toán Báo cáo tài chính thường hướng tới các mục tiêu đặc thù sau ( Bảng 1.2).
Bảng 1.2: Mục tiêu kiểm toán CPSX trong kiểm toán BCTC
Mục tiêu kiểm toán
Khoản mục chi phí sản xuất
Mục tiêu hợp lý chung
Tất cả các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến CPSX đều được biểu hiện hợp lý.
Các mục tiêu chung khác:
Tính hiện hữu
Các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến CPSX đã ghi sổ là có thật và có căn cứ hợp lý.
Tính đầy đủ
Tất cả các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến CPSX đều được tập hợp và ghi sổ đầy đủ, không bị bỏ sót, không bị trùng lắp
Tính chính xác số học
Các khoản CPSX phát sinh trong kỳ phải được phản ánh đúng giá trị thực của nó và phù hợp với các chứng từ gốc đi kèm.
Việc kết chuyển số liệu giữa các sổ kế toán và Báo cáo tài chính phải được thực hiện một cách chính xác và phù hợp với các nguyên tắc kế toán.
Định giá và phân bổ
Các CPSX phát sinh được phân bổ cho đúng đối tượng phát sinh chi phí.
Trình bày và khai báo
Các nghiệp vụ CPSX phát sinh phải được trình bày đúng tài khoản.
Việc kết chuyển số liệu giữa các sổ kế toán và Báo cáo tài chính phải được thực hiện một cách chính xác và phù hợp với các nguyên tắc kế toán.
Tính đúng kỳ
Các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến CPSX phải được phản ánh đúng kỳ kế toán.
Tính tuân thủ
Việc áp dụng các quy định, chính sách về CPSX phải nhất quán giữa các kỳ.
Việc hạch toán CPSX phải tuân thủ theo đúng các chuẩn mực, chế độ kế toán hiện hành.
2. Quy trình kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất.
Sau khi đã xác định được mục tiêu kiểm toán cho từng phần hành, khoản mục kiểm toán viên tiến hành công việc thu thập bằng chứng cho cuộc kiểm toán. Để thực hiện công việc này, kiểm toán viên cần xây dựng một quy trình kiểm toán cụ thể cho cuộc kiểm toán để có thể đạt kết quả tốt. Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất được tiến hành qua 3 giai đoạn: Lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán.
2.1. Lập kế hoạch kiểm toán khoản mục CPSX.
Lập kế hoạch kiểm toán là giai doạn đầu tiên có vai trò quan trọng chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Việc lập kế hoạch kiểm toán đã được quy định trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300- Lập kế hoạch, đoạn 2 quy định: “Kiểm toán viên và Công ty kiểm toán cần lập kế hoạch kiểm toán để có thể đảm bảo được rằng cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả”. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên cần thực hiện các bước công việc sau:
Bước 1: Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất.
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán nhằm mục đích xác định cơ sở pháp lý, các mục tiêu, phạm vi kiểm toán cùng các điều kiện về nhân lực, vật lực cho cuộc kiểm toán.
Khi tiếp nhận thư mời kiểm toán, Công ty kiểm toán cần đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán thông qua xem xét hệ thống KSNB, tính liêm chính của Ban quản lý và liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm.
Nếu chấp nhận thư mời kiểm toán, Công ty kiểm toán sẽ lựa chọn nhân viên kiểm toán xuống đơn vị theo yêu cầu của khách hàng. Kiểm toán viên phải có trình độ, năng lực, chuyên môn về kiểm toán chi phí và sự hiểu biết về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Kiểm toán viên cũng phải đảm bảo tính độc lập với khách hàng về lợi ích kinh tế và quan hệ xã hội. Trên cơ sở đó, trưởng nhóm kiểm toán sẽ thay mặt Công ty kiểm toán cùng khách hàng ký hợp đồng kiểm toán.
Sau khi ký kết hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên xác định các mục tiêu của cuộc kiểm toán. Đây là bước rất quan trọng vì đó là cái đích cần đạt tới và là thước đo đánh giá kết quả cuộc kiểm toán. Xác định được mục tiêu bao trùm cuộc kiểm toán, kiểm toán viên cần xác định đối tượng là báo cáo tài chính, một quy trình nghiệp vụ hay là một hoạt động….Tiếp đó cần xác định phạm vi kiểm toán, là giới hạn về không gian và thời gian của đối tượng kiểm toán.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện cũng cần tránh thay đổi nhân viên nhằm bảo đảm hiệu quả cũng như chất lượng công việc. Đặc biệt, việc kiểm toán cho một khách hàng trong nhiều năm có thể giúp cho kiểm toán viên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cũng như có được hiểu biết sâu sắc về ngành nghề kinh doanh của khách hàng.
Bước 2: Thu thập thông tin cơ sở.
Đây là một giai đoạn quan trọng trong công việc lập kế hoạch kiểm toán tổng quát. Giai đoạn này sẽ cung cấp những thông tin cơ bản làm nền tảng cho các công việc tiếp theo. Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300 – Lập kế hoạch kiểm toán đã xác định rằng kiểm toán viên cần thu thập hiểu biết về ngành nghề, công việc kinh doanh của khách hàng, tìm hiểu về hệ thống kế toán, hệ thống KSNB và các bên liên quan để đánh giá rủi ro và lên kế hoạch kiểm toán. Bao gồm:
ỉ Tìm hiểu ngành nghề kinh doanh kinh doanh của khách hàng.
Công việc này rất cần thiết cho việc đảm bảo tính thận trọng nghề nghiệp đúng mức của kiểm toán viên. Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế (ISA) 310 chỉ rõ: “Để thực hiện công tác kiểm toán tài chính, chuyên gia kiểm toán phải hiểu biết đầy đủ về hoạt động của đơn vị được kiểm toán để xác định và hiểu được các sự kiện, nghiệp vụ và cách làm việc của đơn vị, mà theo đánh giá của kiểm toán viên có thể có một tác động quan trọng đến các Báo cáo tài chính, đến việc kiểm toán hoặc đến Báo cáo kiểm toán”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 310 – Hiểu biết về tình hình kinh doanh, đoạn 2 đã quy định: “Để thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải nắm được tình hình kinh doanh của đơn vị để có thể nhận thức và xác định các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động mà theo đánh giá của kiểm toán viên có thể ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của kiểm toán viên hoặc đến Báo cáo kiểm toán” Chuăn mực kiểm toán Việt Nam quyển II – Bộ Tài chính HN 02/2001 Tr.44
Đối với phần hành kiểm toán CPSX, KTV phải tìm hiểu cơ cấu tổ chức, bộ máy sản xuất, quy trình công nghệ, đặc điểm về hạch toán chi phí sản xuất của đơn vị, các chính sách, quy định liên quan đến hoạt động sản xuất của đơn vị, KSNB đối với CPSX của đơn vị.
ỉ Tham quan nhà xưởng.
Việc tham quan nhà xưởng, quan sát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng sẽ cung cấp cho KTV những thông tin bổ ích. Qua đó, KTV sẽ có cái nhìn thực tế về đơn vị giúp KTV có được những nhận định ban đầu về phong cách quản lý, tổ chức quản lý, KSNB đối với CPSX,…của khách hàng.
ỉ Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng.
Nếu những thông tin cơ sở giúp KTV hiểu biết về tình hình kinh doanh của khách hàng thì thông tin về các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích giúp kiểm toán viên hiểu được những căn cứ cho sự hiện diện của khách hàng nền kinh tế như doanh nghiệp thành lập theo quyết định nào, cơ quan nào cấp, loại hình doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức,…Kiểm toán viên có thể thu thập từ các nguồn thông tin như: Quyết định thành lập Công ty, quy chế, Biên bản họp hội đồng quản trị, các hợp đồng kinh tế, phỏng vấn Ban giám đốc, nhân viên Công ty,…
Tuy nhiên, việc thu thập các thông tin về đơn vị chỉ cho phép kiểm toán viên hiểu được doanh nghiệp theo “chiều rộng” mà chưa hiểu được theo “chiều sâu” và nó chỉ hướng tới việc đưa ra các bước kiểm toán chứ chưa đặt ra mục tiêu thu thập bằng chứng cho kết luận của kiểm toán viên.
Bước 3: Thực hiện thủ tục phân tích đối với khoản mục chi phí sản xuất.
Thực hiện thủ tục phân tích là việc kiểm toán viên phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra xu hướng biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin có liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến.
Các thủ tục phân tích thường được thực hiện ở cả 3 bước là lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, kết thúc kiểm toán. Trong giai đoạn kế hoạch kiểm toán, các thủ tục phân tích giúp kiểm toán viên nhân diện các vấn đề quan trọng cần cho quá trình kiểm toán; xác định được rủi ro tiềm tàng liên quan đến các khoản mục. Một thủ tục phân tích bao giờ cũng bao gồm 3 yếu tố: dự đoán, so sánh, đánh giá. Các thủ tục phân tích được kiểm toán viên sử dụng bao gồm 2 loại:
- Phân tích ngang: Là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các trị số của cùng chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính. Các chỉ tiêu được sử dụng bao gồm:
+ So sánh số liệu của kỳ này với kỳ trước.
+ So sánh số liệu thực tế với ước tính.
+ So sánh số liệu của Doanh nghiệp với số liệu chung của ngành.
- Phân tích dọc: Là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ tương quan qua chỉ tiêu và các khoản mục khác nhau trên Báo cáo tài chính. Các tỷ suất tài chính thường dùng trong phân tích dọc có thể là các tỷ suất về khả năng thanh toán, các tỷ suất sinh lời,…
Sau khi các thủ tục phân tích được thiết kế, kiểm toán viên tiến hành phân tích nhằm giúp KTV biết về xu hướng tăng, giảm của thông tin, tính hợp lý của thông tin.
Đối với khoản mục chi phí sản xuất, kiểm toán viên có thể căn cứ trên một số thủ tục phân tích xu hướng bằng cách so sánh giá vốn hàng bán giữa các tháng, các kỳ với nhau để phát hiện sự thay đổi đột biến của một kỳ nào đó hay KTV có thể so sánh theo khoản mục cấu thành sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí NCTT, chi phí sản xuất chung. Qua việc so sánh này sẽ giúp KTV phát hiện ra các dấu hiệu không bình thường của mỗi yếu tố trong mối quan hệ chung. KTV thường sử dụng các tỷ suất:
Tỷ suất lợi nhuận gộp
=
Tổng lợi nhuận gộp
Doanh thu
Số vòng luân chuyển của hàng tồn kho
=
Tổng giá vốn hàng bán
Bình quân hàng tồn kho
Bước 4: Tìm hiểu sơ bộ hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đối với chi phí sản xuất.
Đây là công việc hết sức quan trọng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Việc nghiên cứu hệ thống KSNB của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát đã được quy định trong chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, đã nêu: “Kiểm toán viên phải có được hiểu biết đầy đủ về hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ để đánh giá thái độ, mức độ quan tâm và sự can thiệp của các thành viên trong Hội đồng quản trị và Ban giám đốc với KSNB và đánh giá khả năng của KSNB của khách hàng trong việc ngăn ngừa, phát hiện các sai sót trọng yếu trong Báo cáo tài chính” Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, quyển III – Bộ Tài chính HN 03/2002 Tr.75
.
Để đạt được sự hiểu biết về hệ thống KSNB, KTV tiến hành khảo sát thông qua các hình thức cơ bản sau: Phỏng vấn, kiểm tra chứng từ, sổ sách, báo cáo, tham quan thực tế, lấy xác nhận,…Căn cứ vào các ước tính về tính hiện hữu của KSNB, KTV sẽ đánh giá rủi ro kiểm soát theo những cách thức khác nhau như theo tỷ lệ, theo mức độ,…
Đánh giá hệ thống KSNB đối với khoản mục chi phí sản xuất là hết sức cần thiết vì đó là cơ sở cho việc thiết kế các thủ tục kiểm tra chi tiết trong thực hiện kiểm toán CPSX. Các vấn đề thường được quan tâm về KSNB đối với khoản mục chi phí sản xuất là: Doanh nghiệp có thiết lập các quy định về hạch toán chi phí sản xuất, các khoản chi có đúng thủ tục quy định không? Các chứng từ có có dấu hiệu của KSNB và có đúng mẫu quy định không?...
Bước 5: Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro đối với khoản mục chi phí sản xuất.
* Đánh giá tính trọng yếu:
Trọng yếu là khái niệm chỉ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử dụng thông tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lý. Nguyễn Quang Quynh Kiểm toán tài chính NXB Tài chính HN 2001 Tr.111
Để đánh giá mức trọng yếu, kiểm toán viên cần thực hiên các bước sau:
- Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu: Là sai số tối đa mà KTV tin rằng tại mức đó các Báo cáo tài chính có chứa đựng sai sót nhưng chưa ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng Báo cáo tài chính. Việc ước tính này đòi hỏi chủ yếu là kinh nghiệm và trình độ của KTV.
- Phân bổ ước tính ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục: Các khoản mục CPSX sẽ lần lượt được phân phối ước tính ban đầu về tính trọng yếu.
Đối với khoản mục chi phí sản xuất, kiểm toán viên căn cứ vào các nhân tố có ảnh hưởng đến tính trọng yếu đối với khoản mục CPSX để đưa ra mức sai số tối đa cho phép đối với khoản mục này. Thông thường, chi phí sản xuất được phân bổ với mức trọng yếu cao bởi vì chi phí sản xuất thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh, các nghiệp vụ về chi phí sản xuất thường xảy ra gian lận, sai sót,…
* Đánh giá rủi ro:
Trong khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải đánh giá mức rủi ro kiểm toán đối với từng khoản mục trong BCTC. KTV thường quan tâm các loại rủi ro sau:
Rủi ro riềm tàng (IR): Là mức rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống KSNB. Rủi ro tiềm tàng đối với khoản mục CPSX phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như: Bản chất hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, tính trung thực của Ban giám đốc, bản chất nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kết quả các lần kiểm toán trước,…Các sai sót tiềm tàng đối với khoản mục CPSX bao gồm:
Bảng 1.3: Các sai sót tiềm tàng đối với khoản mục chi phí sản xuất.
Mục tiêu
Các sai sót tiềm tàng
Tính hiện hữu
Các khoản CPSX ghi sổ nhưng thực tế không phát sinh
Tính chính xác
Chi phí phải trả cao hơn chi phí thực tế.
Số thanh toán ghi sổ cao hơn so với số đã chi trong thực tế
Tính đầy đủ
Chi phí sản xuất thực tế phát sinh nhưng không được ghi sổ
Tính đúng kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh kỳ sau nhưng lại ghi sổ kỳ này.
Chi phí phải trả phát sinh kỳ này nhưng lại ghi sổ kỳ sau.
Tính tuân thủ
Việc ghi sổ CPSX chưa phù hợp với chế độ kế toán mà đơn vị đang áp dụng.
Trình bày và khai báo
Chi phí sản xuất trình bày không hợp lý.
Rủi ro kiểm soát (CR): Là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do hệ thống KSNB của đơn vị khách hàng không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả do đó đã không phát hiện và ngăn chặn các sai phạm này. Rủi ro kiểm soát đối với khoản mục chi phí sản xuất là xác suất mà khoản mục chi phí sản xuất có chứa những sai sót trọng yếu mà không được hệ thống KSNB ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Rủi ro phát hiện (DR): Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp lại mà trong quá trình kiểm toán, KTV và Công ty kiểm toán không phát hiện được.
Rủi ro kiểm toán (AR): AR = IR ẽ CR ẽ DR
DR = AR/(IRẽCR)
Với mức rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được và các rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát xác định, KTV sẽ tính ra rủi ro phát hiện và dựa vào đó xác định số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập.
Bước 6: Lập kế hoạch kiểm toán chung và thiết kế chương trình kiểm toán.
Trên cơ sở những hiểu biết về tình hình kinh doanh, nghĩa vụ pháp lý cùng hệ thống KSNB của khách hàng, kiểm toán viên tiến hành lập kế hoạch kiểm toán chung và thiết kế chương trình kiểm toán.
v Lập kế hoạch kiểm toán chung.
Lập kế hoạch kiểm toán chung là quá trình cân đối giữa nhu cầu và nguồn lực đã có. Việc lập kế hoạch kiểm toán chung giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng đầy đủ, tin cậy nhằm hạn chế các sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý và giữ uy tín cho Công ty. Đồng thời kế hoạch kiểm toán chung sẽ giúp tăng cường hiệu quả hợp tác giữa kiểm toán viên với kiểm toán viên và với khách hàng để có mức phí kiểm toán hợp lý, tăng cường khả năng cạnh tranh của Công ty kiểm toán.
Trưởng nhóm kiểm toán dựa vào kết quả thông tin thu thập được kết hợp với những xét đoán nghề nghiệp để lập ra kế hoạch kiểm toán chung. Nội dung của kế hoạch bao gồm: Đặc điểm của khách thể kiểm toán, mục tiêu và phạm vi kiểm toán, thời gian và trình tự tiến hành công việc kiểm toán, yêu cầu đối với đơn vị được kiểm toán về điều kiện, phương tiện, tài liệu phục vụ cho cuộc kiểm toán, dự kiến nhóm kiểm toán thực hiện, đánh giá ban đầu về mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán, sắp xếp một cách có kế hoạch các công việc và nhân lực, bảo đảm sự phối hợp giữa các kiểm toán viên.
v Thiết kế chương trình kiểm toán.
Việc lập kế hoạch kiểm toán chung làm cơ sở cho các kiểm toán viên thiết kế chương trình kiểm toán. “Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán bao gồm các thủ tục kiểm toán thực hiện, thời gian hoàn thành các thủ tục và sự phân công lao động giữa các KTV cũng như dự kiến về những tư liệu thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập” Nguyễn Quang Quynh – Kiểm toán tài chính NXB Tài chính HN 2001 Tr.119
.
Chương trình kiểm toán thường được thiết kế riêng cho từng khoản mục. Chương trình kiểm toán các khoản mục nói chung và chi phí sản xuất nói riêng thường gồm 3 phần:
Trắc nghiệm công việc: Bao gồm hai loại trắc nghiệm là trắc nghiệm đạt yêu cầu và trắc nghiệm độ vững chãi.
- Trắc nghiệm đạt yêu cầu (khảo sát kiểm toán): Nhằm mục tiêu đánh giá hệ thống kế toán, việc quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả của các loại hình kiểm soát nội bộ đối với khoản mục chi phí sản xuất. Loại trắc nghiệm này được tiến hành theo hai trường hợp: có dấu vết và không có dấu vết.
- Trắc nghiệm độ vững chãi (khảo sát nghiệp vụ): Nhằm mục đích khảo sát các sai sót hoặc các quy tắc về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới các số dư trên Báo cáo tài chính. Những dấu hiệu ngoại lệ khi tiến hành trắc nghiệm đạt yêu cầu sẽ là cơ sở cho việc tiến hành trắc nghiệm độ vững chãi. Để đạt được các loại trắc nghiệm này đối với chi phí sản xuất, KTV phải tìm hiểu các đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ chức bộ phận sản xuất, các quy định chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất của khách hàng, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về hạch toán chi phí sản xuất như: chứng từ, sổ sách,…, kiểm tra tính độc lập giữa các bộ phận trong bộ máy quản lý sản xuất,..
Trắc nghiệm phân tích: Các KTV thường sử dụng trắc nghiệm phân tích trong tất cả các cuộc kiểm toán vì chúng được thực hiện nhanh chóng với chi phí sản xuất thấp. Trắc nghiệm phân tích gồm 3 mục đích: Hiểu biết về công việc kinh doanh của khách hàng, đánh giá khả năng sai sót có thể có trên Báo cáo tài chính và để giảm bớt các trắc nghiệm trực tiếp số dư.
Đối với khoản mục chi phí sản xuất, KTV thường tiến hành so sánh chi phí sản xuất thực tế giữa các tháng, quý, năm với nhau; giữa doanh nghiệp với các đơn vị cùng ngành, so sánh chi phí sản xuất thực tế với kế hoạch hoặc định mức, so sánh tỷ lệ giữa các yếu tố chi phí sản xuất trên tổng CPSX,…
Trắc nghiệm trực tiếp số dư (khảo sát chi tiết): Trắc nghiệm trực tiếp số dư tập trung vào các số dư cuối kỳ trên sổ tổng hợp và các Báo cáo tài chính. Đối với khoản mục chi phí sản xuất, KTV thường thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết sau:
- Đối chiếu số liệu trên bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, bảng tổng hợp chi phí sản xuất với số liệu trên sổ cái, sổ chi tiết chi phí.
- Đối chiếu số liệu về chi phí sản xuất giữa các bộ phận kế toán với các bộ phận có liên quan: Bộ phận kho, bộ phận thống kê phân xưởng,…
- Kiểm tra chi tiết với các nghiệp vụ ghi giảm chi phí sản xuất, các nghiệp vụ ghi giảm chi phí có nội dung không bình thường.
- Chọn mẫu một số chứng từ liên quan đến nghiệp vụ về chi phí, đối chiếu với sổ chi tiết để kiểm tra tính đúng đắn của nghiệp vụ này.
Như vậy, lập kế hoạch kiểm toán là bước đầu tiên trong quy trình kiểm toán và có ý nghĩa rất quan trọng việc xác lập cơ sở cho công việc kiểm toán, định hướng cuộc kiểm toán và chuẩn bị đầy đủ điều kiện làm tiền đề cho toàn bộ cuộc kiểm toán.
2.2. Thực hiện kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất.
Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình thực hiện các công việc đã lập ra trong kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán. Mục đích của giai đoạn này là thu thập bằng chứng đầy đủ, tin cậy làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên trên Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Thực chất của công việc này là thu thập các bằng chứng để chứng minh đánh giá rủi ro kiểm soát và tính chính xác của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh về chi phí sản xuất.
Để đạt được mục đích trên, KTV phải thực hiện ba bước công việc:
Thực hiện các thủ tục kiểm soát,
Thực hiện các thủ tục phân tích,
Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết.
đối với khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung và chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
2.2.1. Thực hiện kiểm toán đối với khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Kiểm toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là một trong những nội dung quan trọng và phức tạp trong khoản mục CPSX vì:
Thứ nhất, Chi phí nói chung và chi phí sản xuất nói riêng, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường chiếm tỷ trọng lớn nhất. Những sai sót về chi phí nguyên vật liệu không chỉ dẫn đến sai sót trong khoản mục CPSX mà còn dẫn đến sai sót ở một số khoản mục khác như hàng tồn kho, giá vốn hàng bán,…Hơn nữa, những sai sót này thường dẫn đến sai sót trọng yếu về chi phí sản xuất, kết quả kinh doanh,…
Thứ hai, việc theo dõi, tính toán, đánh giá nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và dùng cho các mục đích khác trong doanh nghiệp rất phức tạp. Phương pháp tính và vận dụng trong doanh nghiệp đôi lúc không khoa học, thường mang nặng tính chủ quan nên dễ dẫn đến sai sót, nhầm lẫn và gian lận phát sinh.
ỉ Thực hiện thủ tục kiểm soát đối với khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Thực hiện các thủ tục kiểm soát đối với khoản mục chi phí NVLTT là việc KTV kiểm tra các quy định về chi phí nguyên vật liệu và sự tuân thủ các quy định này tại đơn vị được kiểm toán. Cụ thể, KTV xem xét các nội dung sau:
Kiểm tra việc tổ chức quản lý và theo dõi quá trình sản xuất ở các bộ phận sản xuất, quy trình làm việc của các bộ phận kiểm tra chất lượng và tính độc lập của đội ngũ cán bộ công nhân viên làm các công việc trên.
Kiểm tra việc ghi nhật ký và lập các báo cáo định kỳ của các bộ phận sản xuất. KTV kiểm tra dấu hiệu của KSNB đối với các báo cáo kiểm định chất lượng sản phẩm, các bảng tập hợp chi phí sản xuất, phiếu xin lĩnh vật tư,…
Quan sát việc quản lý, bảo quản vật tư, sản phẩm dở dang ở các bộ phận sản xuất, quy trình và thủ tục kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang.
Xem xét quy trình lập, luân chuyển chứng từ và sử dụng chứng từ kế toán cùng các tài liệu liên quan. Kiểm tra việc ghi sổ kế toán và quy trình hạch toán chi phí nguyên vật liệu ở bộ phận kế toán.
Xem xét việc đối chiếu số liệu giữa bộ phận kho và bộ phận kế toán, giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết có được thực hiện thường xuyên không thông qua phỏng vấn nhân viên của đơn vị và kiểm tra dấu hiệu của KSNB.
ỉ Thực hiện các thủ tục phân tích .
Thực hiện thủ thục phân tích đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là việc phân tích số liệu, các tỷ suất quan trọng liên quan đến chi phí nguyên vật liệu, qua đó tìm ra các chênh lệch của khoản mục này. Kiểm toán viên thường sử dụng các thủ tục sau:
So sánh chi phí nguyên vật liệu trực tiếp giữa kỳ này với kỳ trước hoặc với kế hoạch để phát hiện các biến động bất thường.
So sánh tổng chi phí nguyên vật liệu sử dụng trong kỳ và tổng giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
So sánh tổng chi phí nguyên vật liệu sử dụng trong kỳ và tổng khối lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
Một số tỷ suất quan trọng mà KTV thường sử dụng là:
+ Tỷ suất chi phí nguyên vật liệu trên giá thành sản phẩm.
+ Tỷ suất chi phí nguyên vật liệu trên lượng sản phẩm hoàn thành.
Phân tích hai tỷ suất trên cho phép KTV thấy được tính hợp lý của chi phí nguyên vật liệu sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
ỉ Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết.
Kiểm tra chi tiết chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật cụ thể nhằm khẳng định tính chính xác của số liệu về chi phí nguyên vật liệu trên sổ sách và báo cáo. Các thủ tục kiểm tra chi tiết đối với khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm:
Kiểm tra chi tiết chứng từ liên quan đến nhập, xuất vật tư. Kiểm toán viên tiến hành kiểm tra chọn mẫu một số phiếu xuất kho nguyên vật liệu dùng cho sản xuất để xem có trường hợp nào hạch toán sai hoặc không đúng không.
Đối chiếu lượng vật tư xuất kho với báo cáo sử dụng vật tư nhằm kiểm tra xem vật tư xuất dùng có được sử dụng đúng mục đích, đúng bộ phận yêu cầu và hạch toán đúng đắn vào chi phí nguyên vật liệu trong kỳ hay không?
Đối chiếu giá trị nguyên vật liệu xuất kho với tổng chi phí nguyên vật liệu phát sinh trong kỳ. Thực hiện công việc này nhằm phát hiện sự chênh lệch giữa tổng giá trị nguyên vật liệu xuất dùng với chi phí nguyên vật liệu được ghi nhận hoặc sự nhầm lẫn giữa các khoản mục chi phí.
Sử dụng sơ đồ tài khoản để chi tiết và xác định rõ các nghiệp vụ sản xuất cần được hạch toán vào tài khoản nào khi phát sinh.
Độc lập cộng dồn và đối chiếu các sổ kế toán chi phí nguyên vật liệu để phát hiện các sai sót trong cộng dồn và chuyển sổ trước khi chúng được sử dụng để tập hợp chi phí.
2.2.2. Kiểm toán khoản mục chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp luôn được xem là một khoản mục trọng yếu vì việc phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho các đối tượng chịu chi phí không đúng đắn sẽ dẫn đến sai lệch về giá trị hàng tồn kho và do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, kiểm toán khoản mục chi phí nhân công trực tiếp đóng vai trò quan trọng trong kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán chi phí sản xuất nói riêng. Kiểm toán chi phí nhân công trực tiếp được thực hiện theo 3 thủ tục: thủ tục kiểm soát, thủ tục phân tích và thủ tục kiểm tra chi tiết.
ỉ Thực hiện thủ tục kiểm soát đối với khoản mục chi phí nhân công trực tiếp.
Thực hiện thủ tục kiểm soát đối với khoản mục chi phí nhân công trực tiếp là việc soát xét hệ thống KSNB về chi phí tiền lương và các vấn đề liên quan đến tiền lương trong doanh nghiệp. Các thủ tục bao gồm:
Xem xét việc tuân thủ các văn bản quy định của Nhà nước và của doanh nghiệp về lao động, tiền lương như: Các quy định về tuyển dụng và quản lý lao động, quy chế quản lý và sử dụng lao động, thoả ước lao động,…Kiểm tra việc này thông qua phỏng vấn Ban giám đốc và bộ phận nhân sự ở đơn vị khách hàng.
Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quản lý lao động và tiền lương như kiểm tra việc thực hiện các quy định về tuyển dụng, đề bạt nhân viên, kiểm tra việc thực hiện các quy định về định mức tỷ lệ tiền lương trên giá thành sản phẩm hoặc lợi nhuận kinh doanh.
Kiểm tra việc phân bổ chi phí tiền lương và đối tượng sử dụng lao động, kiểm tra tính nhất quán trong hạch toán chi phí tiền lương tại các bộ phận chịu chi phí.
ỉ Thực hiện các thủ tục phân tích.
Để đánh giá được tính hợp lý của tổng chi phí tiền lương của đơn vị cũng như chi phí tiền lương của từng bộ phận, KTV cần đi sâu vào các thủ tục phân tích sau:
So sánh số dư của tài khoản chi phí tiền lương với các năm trước.
So sánh chi phí tiền lương giữa các kỳ, các bộ phận với nhau để thấy được những biến động bất thường của một kỳ hay một bộ phận nào đó, giữa chi phí tiền lương với sản lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc doanh thu đã thực hiện.
So sánh tỷ lệ chi phí tiền lương gián tiếp với tiền lương trực tiếp; giữa tiền lương gián tiếp và tiền lương trực tiếp của kỳ này với kỳ trước.
So sánh mức đơn giá tiền lương của kỳ này với mức đơn giá tiền lương của kỳ trước. Nếu có biến động bất thường thì phải tìm hiểu nguyên nhân là do thay đổi của Nhà nước, của ngành hay do đơn vị hạch toán sai.
So sánh tỷ lệ thuế thu nhập trong tổng số tiền lương so với các năm trước xem có sự thay đổi bất thường nào về thu nhập của các cá nhân trong đơn vị hay không.
So sánh các tài khoản chi tiết theo dõi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của kỳ này so với kỳ trước để kiểm tra tính hợp lý của các khoản mục này.
Qua thực hiện các thủ tục phân tích KTV sẽ thấy được những thay đổi không bình thường về tiền lương và nguyên nhân làm cho chi phí tiền lương có những thay đổi không bình thường đó.
ỉ Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết.
Việc thực hiện các thủ tục kiểm soát và thủ tục phân tích cho phép kiểm toán viên đánh giá sơ bộ và xác định phạm vi kiểm tra chi tiết chi phí nhân công trực tiếp. Để có thể đưa ra kết luận chính xác hơn nữa về chi phí nhân công trực tiếp, KTV phải tiến hành thủ tục kiểm tra chi tiết. Đối với khoản mục này, do giới hạn về thời gian và chi phí nên kiểm toán viên không thể thực hiện kiểm tra chi tiết toàn bộ các nghiệp vụ chi phí về nhân công phát sinh mà phải chọn mẫu để kiểm toán. Kiểm toán viên thường tiến hành chọn mẫu các nội dung sau:
Đối chiếu danh sách, họ tên, mức lương của nhân công trong hồ sơ lao động với danh sách, họ tên, mức lương trong bảng tính lương nhằm phát hiện số công nhân khai khống hoặc sai mức lương quy định. Chọn ra từ sổ nhân sự một số hồ sơ nhân viên đã thôi việc hoặc đã mãn hạn hợp đồng trong năm để kiểm tra tính có thật và phù hợp của các khoản thanh toán mãn hạn hợp đồng. Các gian lận thường xảy ra do không đảm bảo tính độc lập trong quản lý lao động và tiền lương hoặc có sự thông đồng trong nội bộ doanh nghiệp.
Đối chiếu số giờ công, ngày công trên bảng tính lương với số giờ công trên bảng chấm công. Đối chiếu số lượng sản phẩm đã sản xuất ra của từng lao động trên bảng tính lương với số lượng sản phẩm đã nhập kho của từng lao động trên sổ theo dõi báo cáo của bộ phận sản xuất để kiểm tra tính đúng đắn của việc tính và trả lương. Chênh lệch nếu có chủ yếu là do việc theo dõi, giám sát và quản lý không chặt chẽ về thời gian lao động hoặc do mối quan hệ giữa người giám sát với các nhân viên trong đơn vị.
Kiểm tra tính chính xác, hợp lý của việc áp dụng đơn giá tiền lương và tính lương đối với người lao động trên bảng tính lương.
Kiểm tra việc tính toán các khoản khấu trừ lương của người lao động trên bảng tính lương.
Kiểm tra việc tính và phân bổ tiền lương vào sản phẩm sản xuất trong kỳ.
Kiểm tra, đối chiếu tổng số tiền lương đã tính trên bảng tính lương với số tiền ghi trên chứng từ trả lương bằng cách chọn mẫu một số nghiệp vụ trả lương trên sổ chi tiết tiền lương, đối chiếu với các chứng từ có liên quan để kiểm tra xem nghiệp vụ trả lương có thực sự tồn tại không?
Kiểm tra việc hạch toán và lập báo cáo chi phí tiền lương.
Kiểm tra chi tiết tính đúng đắn của tỷ lệ trích và nguồn trích các khoản trích trên tiền lương.
2.2.3. Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất chung.
Theo quy định hiện hành, chi phí sản xuất chung là những chi phí nhằm phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong quá trình sản xuất, cung cấp các lao vụ, dịch vụ như: Tiền lương và các khoản phải trả cho cán bộ, nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ sản xuất dùng cho phân xưởng, bộ phận sản xuất, khấu hao TSCĐ thuộc phân xưởng, bộ phận sản xuất, chi phí lao vụ, dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác. Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất chung được thực hiện theo trình tự sau:
ỉ Thực hiện các thủ tục kiểm soát đối với chi phí sản xuất chung.
Hệ thống kiểm soát nội bộ đối với chi phí sản xuất chung được thể hiện qua hệ thống văn bản quy định của Nhà nước và của doanh nghiệp về quản lý và hạch toán khoản mục chi phí sản xuất chung cũng như việc tuân thủ các quy định đó của đơn vị. Vì vậy, để soát xét hệ thống KSNB đối với khoản mục này, KTV cần xem xét các văn bản quy định của Nhà nước và của đơn vị về quản lý và hạch toán khoản mục chi phí sản xuất chung và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó. Cụ thể: Kiểm tra xem đơn vị có lập đầy đủ chứng từ, có mở đầy đủ sổ tổng hợp, sổ chi tiết để theo dõi khoản mục chi phí sản xuất chung theo đúng quy định hay không, kiểm tra hệ thống tài khoản và sơ đồ hạch toán chi phí sản chung có đúng với các quy định hiện hành về kế toán hay không? Kiểm tra xem có sự đối chiếu thường xuyên giữa số liệu thực tế và định mức, giữa sổ tổng hợp và sổ chi tiết hay không?
ỉ Thực hiện các thủ tục phân tích.
Để đánh giá được tính hợp lý của khoản mục chi phí sản xuất chung của từng bộ phận và của toàn đơn vị; đồng thời để giảm bớt khối lượng công việc trong quá trình kiểm toán chi phí SXC, KTV thực hiện một số thủ tục sau:
Kiểm toán viên cần so sánh tổng chi phí sản xuất chung của kỳ này với định mức và với kỳ trước để phát hiện những biến động bất thường đối với khoản mục này. Trong quá trình so sánh, KTV có thể kết hợp với việc phân tích các chỉ tiêu doanh thu, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh để thấy được tính hợp lý của khoản mục chi phí sản xuất chung trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác.
So sánh tỷ lệ chi phí sản xuất chung trên tổng chi phí, tổng doanh thu của kỳ này so với kỳ trước.
So sánh tỷ lệ chi phí sản xuất chung cố định trên tổng khối lượng sản phẩm hoàn thành của kỳ này so với kỳ trước. Tỷ lệ này thường có xu hướng giảm khi khối lượng sản phẩm hoàn thành tăng do tổng chi phí sản xuất chung cố định không đổi so với khối lượng sản phẩm hoàn thành.
So sánh tỷ lệ chi phí sản xuất chung biến đổi trên tổng khối lượng sản phẩm hoàn thành của kỳ này so với kỳ trước. Tỷ lệ này thường ít thay đổi do tổng chi phí sản xuất chung biến đổi biến động tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm hoàn thành.
So sánh, phân tích để có được những đánh giá về cơ cấu giữa các yếu tố trong khoản mục chi phí sản xuất chung.
ỉ Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết.
Chi phí sản xuất chung là một khoản mục bao gồm nhiều yếu tố, vì vậy khối lượng công việc cần thực hiện trong quá trình kiểm tra chi tiết chi phí sản xuất chung thường lớn và phức tạp hơn các khoản mục chi phí khác. Do đó, KTV thường chú ý đến các khoản chi mức biến động bất thường, các khoản chi có mức chi chi thực tế cao hơn dự đoán…Nội dung kiểm tra chi tiết bao gồm các vấn đề sau:
Kiểm tra việc phân bổ chi phí sản xuất chung: KTV tiến hành kiểm tra xem tiêu thức phân bổ có phù hợp và nhất quán giữa các kỳ hay không. Nếu có sự thay đổi về tiêu thức phân bổ mà có ảnh hưởng trọng yếu đến khoản mục chi phí sản xuất chung cũng như giá thành trong kỳ thì cần phải xem xét, tính toán, phân bổ lại để đảm bảo tính trung thực, hợp lý trong việc xác định chi phí sản xuất chung và tính giá thành sản phẩm.
Đối chiếu chi phí sản xuất chung với các phần hành liên quan đã kiểm toán trước như hàng tồn kho, khấu hao tài sản cố định, phải trả nhà cung cấp,…
Kiểm tra chi tiết toàn bộ các nghiệp vụ chi có nội dung không bình thường và các nghiệp vụ phát sinh làm giảm chi phí sản xuất chung. Tiến hành đối chiếu với các quy định hiện hành để có được đánh giá đúng đắn về các nghiệp vụ này.
Tiến hành kiểm tra chọn mẫu các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ.
2.2.4. Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và tính giá thành sản phẩm.
Việc kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh dở dang có ý nghĩa rất quan trọng trong kiểm toán chi phí sản xuất. Nếu việc tính toán xác định chi phí sản xuất kinh doanh dở danh cuối kỳ không hợp lý đúng đắn sẽ dẫn đến những sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu đến chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm,…và toàn bộ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, đây là một công việc không thể thiếu trong kiểm toán CPSX. KTV thực hiện các công việc sau:
Trong thực tế, việc xác định chi phí sản xuất kinh doanh dở dang không được các doanh nghiệp coi trọng, nhiều khi chỉ là ước tính chủ quan. Vì vậy, khi kiểm toán trước hết phải xem xét tìm hiểu quy trình tính toán xác định chi phí sản xuất dở dang của doanh nghiệp, xem xét tính hợp lý, tính khách quan và tính phù hợp của phương pháp mà doanh nghiệp áp dụng. KTV thực hiện một số thủ tục phân tích như: So sánh tỷ lệ chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ này với các kỳ trước để tìm ra những bất hợp lý hoặc những thay đổi bất thường.
Khi thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết, KTV phải thu thập, nghiên cứu và kiểm tra kết quả kiểm kê thực tế chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ. Trong trường hợp cần thiết, KTV phải kiểm tra chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh dở dang đối với một số đối tượng để xác định tính đúng đắn của việc kiểm kê. Sau đó, KTV đối chiếu, so sánh số liệu của kết quả kiểm kê với số liệu đã tính toán, xác định trên sổ kế toán.
Để kiểm tra việc tính giá thành, KTV cần tìm hiểu phương pháp tính giá thành của đơn vị, xem xét tính hợp lý, tính nhất quán của phương pháp tính giá thành mà doanh nghiệp đang áp dụng. Đồng thời, KTV cũng cần phải chú ý đến tính nhất quán trong một niên độ kế toán của phương pháp tính giá thành đó.
2.3. Kết thúc kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất.
Giai đoạn kết thúc kiểm toán là giai đoạn rất quan trọng đối với cả cuộc kiểm toán. Mục đích của giai đoạn này là kiểm toán viên đưa ra ý kiến tổng quát của mình về toàn bộ Báo cáo tài chính của đơn vị có trình bày trung thực, hợp lý hay không xét trên khía cạnh trọng yếu. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên cần thực hiện các bước công việc sau:
2.3.1. Xem xét các sự kiện sau ngày kết thúc niên độ kế toán.
Thông thường, phần lớn các công việc quan trọng của một cuộc kiểm toán được thực hiện sau ngày kết thúc niên độ kế toán, do vậy trong khoảng thời gian kể từ ngày kết thúc niên độ đến khi hoàn thành Báo cáo kiểm toán có thể xảy ra các sự kiện có ảnh hưởng đến việc đánh giá hoặc công khai Báo cáo tài chính. Do đó, KTV phải có trách nhiệm xem xét các sự kiện này.
Có hai loại sự kiện sau ngày lập báo cáo tài chính cần sự xem xét của Ban quản trị và kiểm toán viên là:
w Những sự kiện ảnh hưởng trực tiếp đến Báo cáo tài chính và đòi hỏi cần điều chỉnh: Những sự kiện này cung cấp thêm thông tin cho Ban quản trị khi xác định cách đánh giá các số dư tài khoản vào ngày lập Bản cân đối kế toán và cho các kiểm toán viên khi tiến hành kiểm tra số dư.
Những sự kiện này bao gồm: Tuyên bố phá sản do tình trạng tài chính xấu của một khách hàng có số dư khoản phải thu lớn chưa thanh toán, giải quyết một vụ kiện lớn với một món tiền khác với món tiền ghi sổ, bán các khoản đầu tư với giá thấp hơn giá vốn ghi sổ,….Kiểm toán viên cần phải thận trọng để phân biệt giữa các sự kiện đã có vào ngày lập bảng cân đối kế toán và các sự kiện mới phát sinh sau ngày cuối năm.
w Những sự kiện không ảnh hưởng trực tiếp đến Báo cáo tài chính nhưng cần công khai:
Các sự kiện này thường bao gồm: Sự phát hành trái phiếu hoặc các chứng khoán vốn, sự sụt giảm thị trường chứng khoán làm giảm các khoản đầu tư, khách hàng có số dư khoản phải thu lớn bị phá sản do gặp thiên tai, hoả hoạn,…
Các thủ tục kiểm toán của việc xem xét các sự kiện trên được chia làm 2 nhóm:
+ Nhóm các thủ tục thường được kết hợp với nhau thành một phần của quá trình kiểm tra các số dư tài khoản cuối năm.
+ Nhóm các thủ tục thực hiện đặc biệt nhằm mục đích phát hiện các sự kiện hoặc quá trình phải được thừa nhận trong kỳ kiểm toán.
Kết quả của việc đánh giá các sự kiện xảy ra sau ngày lập báo cáo tài chính là kiểm toán viên quyết định về việc có nên kiến nghị doanh nghiệp sửa đổi các báo cáo tài chính hay chỉ ghi chú bổ sung các sự kiện xảy ra trên báo cáo tài chính của đơn vị. Ngoài ra, kiểm toán viên còn xem xét sự ảnh hưởng của các sự kiện đó đến việc đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ trên Báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên.
2.3.2. Xem xét tính hoạt động liên tục.
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế có trình bày giả thuyết về tính hoạt động liên tục thường được định nghĩa như sau:
Khi không có thông tin đối nghịch thì doanh nghiệp sẽ có khả năng thực hiện tài sản và thanh toán công nợ trong diều kiện kinh doanh bình thường. Nếu giả định này không được chứng minh thì doanh nghiệp không thể thực hiện được tài sản ở mức giá trị ghi sổ và có thể có những thay đổi đối với giá trị vào ngày đáo hạn của công nợ. Vì thế doanh nghiệp có thể cần phải điều chỉnh lại giá trị và công nợ trên Báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên có trách nhiệm đánh giá xem liệu có mối nghi ngờ lớn nào về khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian hợp lý sau ngày lập Bảng cân đối kế toán. Vì mục đích này nên khoảng thời gian hợp lý được xem là khoảng thời gian không vượt quá một năm sau ngày lập bảng cân đối kế toán chỉ trừ khi những chuẩn mực nghề nghiệp đòi hỏi một khoảng thời gian khác.
Kiểm toán viên có thể đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp thông qua quá trình đọc báo cáo tài chính hoặc từ bằng chứng kiểm toán thu thập được trong suốt quá trình kiểm toán.
2.3.3. Đánh giá kết quả của toàn bộ cuộc kiểm toán.
Công việc này nhằm soát xét lại toàn bộ quá trình kiểm toán, kết quả thu nhận được và cân nhắc để đưa ra ý kiến nhận xét về Báo cáo tài chính. Để đạt được mục đích này, kiểm toán viên thường thực hiện các công việc sau:
ỉ áp dụng các thủ tục phân tích:
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 520 chỉ rõ: “Kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và giai đoạn soát xét tổng thể Báo cáo tài chính. Thủ tục phân tích cũng có thể được thực hiện ở các giai đoạn khác trong quá trình kiểm toán” Chuăn mực kiểm toán Việt Nam quyển II - Bộ Tài chính HN 02/2001 Tr.78
. Việc áp dụng các thủ tục phân tích trong giai đoạn kết thúc kiểm toán nhằm mục đích đánh giá tính đồng bộ và xác thực của các thông tin tài chính thu thập được nhất là các số liệu thu được của các khoản mục trên Báo cáo tài chính.
ỉ Đánh giá sự đầy đủ của các bằng chứng kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 500 có nêu: “Các kiểm toán viên phải thu thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp để đi đến kết luận hợp lý mà căn cứ vào đó kiểm toán viên đưa ra ý kiến kết luận của mình”. Do vậy, cần xem xét mọi khía cạnh của khoản mục chi phí sản xuất có được kiểm soát đầy đủ không, kiểm tra lại tính chính xác của các chứng từ. Nếu kiểm toán viên xét thấy chưa đủ bằng chứng về tính trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính thì có thể tiến hành thu thập thêm hoặc ra quyết định loại trừ.
ỉ Đánh giá tổng hợp các sai sót phát hiện được.
Kiểm toán viên cần đánh giá tổng hợp các sai sót không trọng yếu phát hiện được trong quá trình kiểm toán. Lập các bút toán điều chỉnh đối với các sai sót trọng yếu và tổng hợp lại. Sau đó so sánh với mức sai sót có thể bỏ qua xem có thể chấp nhận được khoản mục không?
ỉ Kiến nghị về những vấn đề còn tồn tại ở đơn vị của khách hàng:
Qua quá trình kiểm toán tại đơn vị khách hàng, kiểm toán viên rút ra kết luận về mục tiêu kiểm toán, chỉ ra các vấn đề còn tồn tại trong quản lý và hạch toán kế toán tại đơn vị khách hàng.
2.3.4. Xem xét lại các tài liệu kiểm toán.
Mục đích của công việc này là đánh giá việc thực hiện của kiểm toán viên chưa có kinh nghiệm và đảm bảo rằng cuộc kiểm toán thoả mãn các chuẩn mực thực hiện của Công ty kiểm toán. Vào giai đoạn hoàn thành cuộc kiểm toán có quy mô lớn, toàn bộ tư liệu kiểm toán sẽ được một kiểm toán viên có kinh nghiệm và độc lập không tham dự vào cuộc kiểm toán xem xét lại nhằm đánh giá khách quan xem cuộc kiểm toán có được tiến hành hợp lý không, các kiểm toán viên có khả năng đánh giá các bằng chứng mà họ tập hợp được hay không, cuộc kiểm toán có được thực hiện với sự thận trọng thích đáng hay không?
2.3.5. Phát hành thư quản lý.
Thư quản lý là thông báo cho khách hàng về những bình luận của Công ty kiểm toán đối với việc cải tiến công việc kinh doanh của khách hàng. Nó giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Việc kết hợp kinh nghiệm của kiểm toán viên trong nhiều ngành kinh doanh khác nhau với một sự hiểu biết sâu sắc thu được khi tiến hành kiểm toán giúp kiểm toán viên cung cấp cho Ban quản trị khách hàng nhiều thông tin bổ ích.
Thư quản lý không bắt buộc nhưng trong hầu hết các cuộc kiểm toán đều lập nhằm tạo mối quan hệ tốt hơn giữa Công ty kiểm toán và khách hàng. Không có một tiêu chuẩn nào cho việc viết thư quản lý. Mỗi thư phải được triển khai để đáp ứng phong cách của kiểm toán viên và nhu cầu của khách hàng. Nhưng thư quản lý phải chỉ ra được các nhược điểm và yếu kém của doanh nghiệp, ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3.6. Công bố Báo cáo kiểm toán.
Công bố Báo cáo kiểm toán là việc thực hiện mục tiêu cơ bản, mục tiêu lớn nhất của một cuộc kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về Báo cáo tài chính phục vụ yêu cầu những người quan tâm. Thông thường, Báo cáo kiểm toán được gửi kèm theo thư quản lý. Nội dung báo cáo bao gồm:
Tên, địa chỉ của Công ty kiểm toán.
Số hiệu Báo cáo kiểm toán.
Tiêu đề Báo cáo kiểm toán.
Căn cứ, phạm vi, địa điểm, thời gian lập Báo cáo kiểm toán.
Chữ ký, đóng dấu.
Có bốn loại ý kiến của kiểm toán viên về BCTC của doanh nghiệp là:
ý kiến chấp nhận toàn phần.
ý kiến chấp nhận từng phần.
ý kiến từ chối đưa ra ý kiến.
ý kiến không chấp nhận.
Tóm lại, kết thúc kiểm toán là bước quan trọng trong đó kiểm toán viên tổng hợp toàn bộ các kết quả kiểm toán và đưa ra ý kiến chung duy nhất cho toàn bộ cuộc kiểm toán. Kết thúc giai đoạn này, tất cả các mục tiêu kiểm toán cũng như trách nhiệm của Công ty kiểm toán đối với khách hàng đã hoàn thành.
Chương II: Thực tế kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện.
I. KHái quát về Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
1. Lịch sử hình thành và phát triển Công ty.
Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thành lập ngày 21/12/2001, trên cơ sở giấy phép kinh doanh số 0103000692 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp; hoạt động theo Luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH ngày 12/6/1999 của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là một Doanh nghiệp cổ phần thuộc quyền sở hữu của các cổ đông, Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam được thành lập nhằm phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội về các vấn đề kinh tế trong quá trình hội nhập.
Tên gọi đầy đủ của Công ty: Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Tên giao dịch: Vietnam Auditing and Evaluation Joint Stock Company.
Tên viết tắt: VAE_JSC.
Sau 3 lần chuyển địa điểm hiện nay, Công ty có trụ sở chính tại:
Tầng 11- toà nhà Sông Đà - số 165 - Đường Cầu Giấy
– phường Quan Hoa – quận Cầu Giấy – Hà Nội.
Tel: 2670 491/492/493. Email: VAE_Co@fpt.vn
Có tài khoản giao dịch tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam số 4311 01 01504 và 710 A 50524 - chi nhánh Ngân hàng Công thương quận Ba Đình Hà Nội. Mã số thuế: 01 01 20228
Ngoài ra, sau khi trụ sở chính tại Hà Nội thành lập chưa lâu Công ty còn mở thêm 2 chi nhánh:
Chi nhánh tại thị xã Hà Giang:
Tổ 20 - Đường Lê Văn Tám – P. Minh Khai – TX. Hà Giang.
Chi nhánh tại thị xã Sơn La:
Số 266 - Đường Tô Hiệu – P. Tô Hiệu – TX. Sơn La.
Vốn điều lệ của Công ty là 2.000.000.000 VNĐ, được chia thành 10.000 cổ phần; cổ phần được phát hành dưới hình thức cổ phiếu với mệnh giá cổ phiếu là 100.000 VNĐ.
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường Công ty còn dự định mở thêm chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng – là những địa điểm có tiềm năng rất lớn và phù hợp với thực tế.
Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam là một Công ty kiểm toán chuyên ngành kế toán, kiểm toán, định giá, tư vấn thuế có nhiều kinh nghiệm. Là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng; hạch toán độc lập tự chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình.
Cùng với đội ngũ cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm với nhiều năm làm việc và đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp được đào tạo tốt; thêm vào đó là các cộng tác viên bao gồm các GS, TS; các giảng viên dày dặn kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực, Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã hoạt động ngày càng đạt hiệu quả cao và mở rộng thêm nhiều lĩnh vực mới.
2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty VAE.
2.1. Tổ chức hoạt động của Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam..
Bộ máy kiểm toán phải có mô hình và cơ chế hoạt động linh hoạt phù hợp với đặc điểm của đối tượng và khách thể kiểm toán trong từng cuộc kiểm toán cụ thể. Vì vậy, cùng với việc thiết kế quy trình công nghệ, Công ty cần phải xây dựng cho mình một bộ máy hoạt động linh hoạt nhằm thích ứng với từng loại hình doanh nghiệp.
2.1.1. Mục tiêu:
Do đặc điểm kinh doanh và sự đòi hỏi của thị trường, Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thành lập nên nhằm mục tiêu:
Nâng cao lợi ích của các cổ đông: Đây chính là mục tiêu thể hiện sự sống còn và bộ mặt của Công ty. Công ty có tồn tại và phát triển lâu dài hay không, uy tín của Công ty có rộng không đều phụ thuộc vào mục tiêu này.
Tăng cường, mở rộng và tích luỹ, phát triển ngành nghề kinh doanh, dịch vụ: Đây là phương châm mà Công ty đặt ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Ban lãnh đạo Công ty cũng như toàn thể công nhân viên phải nỗ lực để thực hiện mục tiêu trên để Công ty hoạt động hiệu quả hơn, đa dạng hoá các dịch vụ giúp Công ty thu hút nhiều khách hàng; đồng thời Công ty thu nhiều lợi nhuận hơn, có điều kiện tích luỹ phát triển và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội.
Góp phần làm trong sạch nền tài chính quốc gia: Cũng như mọi Công ty kiểm toán, Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam ngoài mục đích là lợi nhuận, Công ty còn giúp các đơn vị, doanh nghiệp có bảng khai tài chính chính xác, trung thực, hợp lý; và còn là công cụ đắc lực để Nhà nước quản lý nền tài chính.
Thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước: Hàng năm, theo định kỳ Công ty nộp thuế cho Nhà nước theo đúng quy định.
2.1.2. Lĩnh vực kinh doanh của Công ty.
Với mục tiêu kinh doanh trên và phạm vi hoạt động rộng rãi, Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện cung cấp dịch vụ đến mọi đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế với mọi quy mô kinh doanh khác nhau. Theo giấy phép hành nghề, giấy phép thành lập của Bộ Tài chính và Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp thì ngành nghề kinh doanh chủ yếu của Công ty là:
Dịch vụ kiểm toán và thuế:
Kiểm toán độc lập Báo cáo tài chính;
Kiểm toán xác nhận Báo cáo số lượng, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm;
Tư vấn cho khách hàng về việc lập kế hoạch và nộp thuế;
……………
Dịch vụ kiểm toán xây dựng cơ bản:
Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành của các công trình, dự án;
Kiểm toán xác định giá trị quyết toán công trình;
Kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm của các Ban quản lý dự án;
…………..
Dịch vụ kiểm toán dự án:
Kiểm toán độc lập;
Soát xét hệ thống kiểm soát nội bộ;
Đánh giá khả năng thực hiện dự án;
……………..
Dịch vụ định giá tài sản:
Đánh giá tài sản, vốn góp kinh doanh;
Đánh giá tài sản, vốn cổ phần hoá doanh nghiệp;
Đánh giá tài sản thế chấp, chuyển nhượng, thuê, mua tài sản;
…………….
Dịch vụ tư vấn kinh doanh:
Tư vấn về việc lựa chọn hình thức kinh doanh;
Tư vấn về chính sách kế toán hiện hành;
Tư vấn quản lý sản xuất, lập kế hoạch chiến lược;
…………….
Dịch vụ tư vấn đầu tư:
Tư vấn tìm hiểu, đánh giá thị trường, định hướng đầu tư;
Tư vấn lập tổng dự toán, quyết toán, báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB hoàn thành;
Tư vấn thẩm định tổng dự toán, lập hồ sơ mời thầu, dự thầu;
………………..
Dịch vụ chuyển đổi báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán quốc tế:
w Giới thiệu, đào tạo việc làm trong lĩnh vực kiểm toán, tài chính, kế toán, thuế,…
Đặc biệt, Công ty là cơ quan đầu tiên thông qua công tác kiểm toán của mình giúp khách hàng thiết lập hệ thống KSNB hợp lý, nhằm giúp khách hàng cập nhật thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác.
2.2. Khách hàng của Công ty VAE.
Mặc dù chỉ hoạt động trong thời gian chưa dài, nhưng Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã uy tín và được Chính phủ, Bộ, ngành các cấp cũng như khách hàng đánh giá cao. Mạng lưới khách hàng của Công ty ngày càng được mở rộng và có số lượng khách hàng đa dạng theo loại hình và quy mô bao gồm:
s Các doanh nghiệp Nhà nước:
- Các đơn vị thành viên Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam.
- Các đơn vị thành viên Tổng Công ty Dệt may Việt Nam.
- Công ty xuất nhập khẩu chuyển giao và công nghệ Việt Nam.
- …………..
s Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
- Công ty DAESHIN Việt Nam (100% vốn nước ngoài)
- Công ty liên doanh may Lan Lan.
- Công ty Hải Ninh – Lợi Lai ( Liên doanh)
- …………
s Các dự án do Chính phủ và các tổ chức quốc tế tài trợ:
- Ban quản lý TƯ, Dự án Thuỷ lợi (CPO) – ADB
- Dự án Liên minh sinh vật biển.
- ………….
s Các công trình cơ bản hoàn thành:
- Công trình thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam.
- Công trình thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
- Ban quản lý dự án Thăng Long.
s Các Công ty hoạt động theo luật Doanh nghiệp tại Việt Nam:
- Công ty máy tính Việt Nam.
- Công ty TNHH Viễn Đông II
- Công ty cổ phần kiến trúc môi trường đô thị
- ………….
2.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty.
Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam chính thức đi vào hoạt động vào ngày 21/12/2001, với vốn điều lệ là 2.000.000.000 (VND), cùng bao khó khăn hiện nay Công ty đã có đủ điều kiện mở rộng địa bàn hoạt động của mình, doanh thu và só lượng hợp đồng kiểm toán tăng lên đáng kể. Năm đầu hoạt động với khoảng 150 hợp đồng kiểm toán – doanh thu của Công ty là 2,1 tỷ (VND); năm thứ hai số lượng hợp đồng kiểm toán đã tăng lên đến khoảng 250 – 350 hợp đồng kiểm toán. Tình hình hoạt động của Công ty VAE được thể hiện như bảng sau:
Bảng 2.1: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VAE
Năm 2002 – 2003
Đơn vị tính: VNĐ
Chỉ tiêu
31/12/2002
30/09/2003
1. Doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ
2.150.315.190
1.700.455.000
2. Doanh thu thuần
2.150.315.190
475.147.247
3. Giá vốn hàng bán
960.890.830
1.225.307.753
4. Lợi nhuận gộp
1.189.424.360
7.584.163
5. Chi phí tài chính
5.993.147
-
6. Chi phí bán hàng
-
-
7. Chi phí quản lý doanh nghiệp
-
392.197.586
8. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
559.451.384
840.394.330
9. Thu nhập khác
635.966.123
-
10. Chi phí khác
12.190.000
-
11. Lợi nhuận khác
3.190.000
-
12. Tổng lợi nhuận trước thuế
639.156.123
840.694.330
Đặc biệt, Công ty VAE là cơ quan đầu tiên thông qua công tác kiểm toán sẽ giúp khách hàng thiết lập một quy trình KSNB hợp lý, trên cơ sở này VAE sẽ thường xuyên cập nhật thông tin giúp khách hàng thực hiện kịp thời, chính xác các văn bản pháp quy của Nhà nước.
Nắm bắt được tình hình hoạt động của Công ty, ngay sau khi thành lập Công ty, Ban quản trị Công ty đã mở thêm hai chi nhánh tại 2 tỉnh Sơn La và Hà Giang. Hai chi nhánh hiện nay đang hoạt động rất hiệu quả. Trong kế hoạch gần đây của Công ty, VAE đang tiến tới mở thêm chi nhánh ở TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng trong tương lai không xa. Như vậy, VAE đang dần dần khẳng định mình và hoà mình cùng với nền kinh tế trong xu thế hội nhập.
3. Tổ chức bộ máy quản lý tại Công ty Cổ phần và Định giá Việt Nam.
3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy Công ty:
Bộ máy quản lý của mỗi đơn vị kinh doanh được thiết lập khác nhau tuỳ theo đặc điểm và quy mô của Công ty đó. VAE là Công ty Cổ phần với tư cách là chủ sở hữu theo quy định của luật Doanh nghiệp Việt Nam. Công ty hoạt động theo nguyên tắc tuân thủ pháp luật, đảm bảo tính trung thực, khách quan và công bằng, tuân thủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam và chuẩn mực kiểm toán Quốc tế. Với những đặc điểm như trên, Công ty đã xây dựng cho mình một bộ máy quản lý phù hợp theo mô hình trực tuyến, đáp ứng mục tiêu và hoạt động kinh doanh dịch vụ của Công ty. Trước đây quản lý theo ngành dọc, nhưng ngày 1/1/2004 đã gộp thành 3 phòng và quản lý theo chiều ngang ( Sơ đồ 2.2)
Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức bộ máy Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam
Hội đồng quản trị
Tổng Giám đốc
Hội đồng Khoa học
Ban Kiểm soát
Giám đốc
Tư vấn - Định giá
Giám đốc
Kiểm toán - Tài chính
Giám đốc
Kiểm toán - Đầu tư
Các văn phòng đại diện
Phòng Tư vấn Đầu tư
Phòng Định giá DN - TS
Phòng Tư vấn Tài chính, Kế toán, Thuế
Phòng Kiểm toán
Tài chính II
Phòng Kiểm toán
Tài chính I
Phòng Kiểm toán
Đầu tư Xây dựng II
Phòng Kiểm toán
Đầu tư Xây dựng I
Các bộ phận chức năng
Đại Hội đồng Cổ Đông
Bộ máy của Công ty được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Nhiệm vụ quản lý được chia theo các đơn vị riêng biệt, cho phép một chức năng tận dụng được nhiều tài năng quản lý, giảm bớt công việc cho lãnh đạo Công ty. Cơ quan quyết định cao nhất của VAE là Đại hội đồng cổ đông.
- Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý của Công ty do Đại hội đồng cổ đông bầu và miễn nhiệm, có toàn quyền nhân danh Công ty ra quyết định về mội vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty như: Chiến lược phát triển của Công ty, quyết định các giải pháp và phương án đầu tư….( trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông).
- Tổng giám đốc: Do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, là người điều hành hoạt động hàng ngày của Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Tổng giám đốc có quyền quyết định về tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của Công ty như: tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh, nêu ra phương án đầu tư; phương án thiết lập cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ Công ty.
- Ban kiểm soát: Là cơ quan kiểm soát của Công ty, có trưởng Ban kiểm soát là Ông Nguyễn Đình Thới và một người giúp việc là Ông Phạm Hồng Sơn do Đại hội đồng cổ đông bầu trực tiếp bằng bỏ phiếu kín. Người tham gia vào Ban kiểm soát phải là cổ đông của Công ty. Trưởng Ban kiểm soát phải có chuyên môn về kế toán ( hoặc phải được đào tạo nghiệp vụ kế toán). Quyền và nhiệm vụ của trưởng Ban kiếm soát do điều lệ Công ty quy định.
- Hội đồng khoa học: Là bộ phận tham mưu, nghiên cứu và là bộ phận đề xuất các phương án quản lý cũng như kinh doanh của Công ty. Đó là đội ngũ các cộng tác viên có trình độ chuyên môn cao gồm các giáo sư, tiến sĩ, cán bộ khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau có nhiệm vụ hợp tác tư vấn cho Công ty trong các lĩnh vực đáp ứng cho khách hàng.
- Dưới Tổng giám đốc là các giám đốc các phòng ban nhằm quản lý, điều hành các hoạt động của các bộ phận dưới sự chỉ đạo của Tổng giám đốc.
- Các chi nhánh: Hiện nay Công ty có 2 chi nhánh tại Hà Giang và Sơn La, tuy mới thành lập song các chi nhánh đã thực sự khẳng định vị trí của mình, thu hút nhiều khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Sắp tới Công ty sẽ mở thêm 2 chi nhánh đầy triển vọng nữa tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Tóm lại, cơ cấu tổ chức của Công ty Cổ phần và Định giá Việt Nam được sắp xếp phù hợp với ngành nghề kinh doanh của Công ty, đem lại hiệu quả hoạt động cao.
3.2. Cơ cấu nhân viên của Công ty VAE.
Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên giàu kinh nghiệm, có trình độ đại học và trên đại học đã qua đào tạo thực tế. Đây là những nhân viên chuyên nghiệm, năng động, nhiệt tình có khả năng đáp ứng tốt công việc đòi hỏi khắt khe về tri thức và sức khoẻ. Hiện nay, Công ty có trên 70 cán bộ công nhân viên chính thức, trong đó:
Cán bộ có trình độ tiến sĩ: 01 người;
Cán bộ có trình độ thạc sĩ: 03 người;
Cán bộ là luật sư: 02 người;
Cán bộ có trình độ CPA Việt Nam: 12 người;
Cán bộ có chứng chỉ ACCA: 01 người;
Mỗi nhân viên đều là người đại diện cho Công ty; vì vậy đòi hỏi mỗi nhân viên phải hành động, cư xử và có thái độ, tư cách đúng đắn là điều cần thiết cho mọi lúc, mọi nơi, nhất là khi tiếp xúc với khách hàng. Bằng sự nỗ lực phấn đấu và quyết tâm cao của các thành viên trong Công ty nên số lượng và chất lượng của đội ngũ nhân viên ngày càng được nâng cao; nhờ đó chất lượng dịch vụ cũng đẩy nhanh và luôn được mở rộng.
Ngoài ra, Công ty còn có đội ngũ các cộng tác viên là các GS, TS; các giảng viên giàu kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực đã giúp đỡ, cố vấn cho Công ty trong quá trình hoạt động. Và trong thời gian tới với sự tăng trưởng về quy mô của mình Công ty còn dự định tuyển thêm nhiều nhân viên giàu kinh nghiệm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
4. Chương trình kiểm toán mà Công ty VAE áp dụng.
Quy trình kiểm toán chung được áp dụng tại Công ty Cổ phần và Định giá Việt Nam theo sơ đồ sau:(Sơ đồ 2.3)
Sơ đồ 2.3: Quy trình kiểm toán chung
Lập kế hoạch kiểm toán
- Gửi thư chào hàng
- Xem xét hoạt động kinh doanh và chiến lược kinh doanh
- Tìm hiểu môi trường hoạt động
- Thu thập thông tin về khách hàng
- Lập kế hoạch chi tiết
- Thảo luận kế hoạch và phân công thực hiện
Thực hiện kiểm toán
- Soát xét hệ thống KSNB
- Kiểm tra, rà soát Báo cáo tài chính
- Xem xét việc tuân thủ pháp luật
- Kiểm tra hoạt động
- Kiểm soát và đánh giá tình hình sử dụng tài sản
Kết thúc kiểm toán
- Hoàn thiện giấy tờ làm việc
- Lập bút toán điều chỉnh
- Dự thảo Báo cáo kiểm toán
- Phê duyệt và phát hành báo cáo, thư quản lý( nếu có)
4.1. Lập kế hoạch kiểm toán.
4.1.1. Gửi thư chào hàng.
Cuối niên độ kế toán, căn cứ vào nhu cầu kiểm toán, Công ty VAE tiến hành gửi thư chào hàng tới các khách hàng thường xuyên và khách hàng tiềm năng của Công ty. Nội dung thư chào hàng nhằm giới thiệu về uy tín, chất lượng của Công ty. Bao gồm:
- Lịch sử hình thành Công ty;
- Chất lượng, quy mô đội ngũ cán bộ công nhân viên;
- Ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của Công ty.
- Nguyên tắc và phương pháp thực hiện kiểm toán;
- Các tài liệu và công cụ sử dụng…
- ………………
Với khách hàng thường xuyên, sau khi kiểm toán Công ty cần theo dõi hoạt động của khách hàng để từ đó quyết định có nên tiếp tục kiểm toán năm sau nữa hay không? Đồng thời, Công ty tìm hiểu và thu thập thêm khách hàng mới( khách hàng tiềm năng). Với khách hàng tiềm năng, Công ty phải tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi quyết định kiểm toán về các vấn đề như: Các gian lận tài chính, nguy cơ phá sản, giải thể, tham ô…và đảm bảo lĩnh vực công việc mà Công ty có khả năng đáp ứng tốt.
4.1.2. Hợp đồng kiểm toán và chọn nhóm kiểm toán.
Khi được khách hàng chấp nhận kiểm toán và gửi thư mời kiểm toán, Công ty tiến hành gặp mặt khách hàng và thảo luận hợp đồng kiểm toán.
Cuộc gặp mặt nhằm giúp hai bên tìm hiểu về nhau, thống nhất ý kiến. Kết hợp với việc xem xét khả năng chấp nhận kiểm toán, Công ty có thể liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm để quyết định có nên thực hiện kiểm toán hay không?
Công ty tiến hành ký kết hợp đồng kiểm toán, phân công nhóm kiểm toán và triển khai công việc kiểm toán.
4.1.3. Tìm hiểu hoạt động kinh doanh và thu thập thông tin pháp lý về khách hàng.
Trước khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên phải tìm hiểu tình hình chung về đơn vị khách hàng về các vấn đề như: Sự hình thành và phát triển của đơn vị; nguồn vốn hoạt động, cơ cấu tổ chức; ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh; đặc điểm hoạt động kinh doanh;…
Đây là công việc tạo cơ sở cho kiểm toán viên thực hiện việc lập kế hoạch kiểm toán. Để thu thập được các thông tin này, kiểm toán viên có thể phỏng vấn Ban giám đốc, thu thập tài liệu cần thiết; có thể trực tiếp tham quan nhà xưởng, hoặc xem xét hồ sơ đã được kiểm toán bởi Công ty kiểm toán khác, hay thu thập thông tin từ các bên hữu quan. Kiểm toán viên lưu vào hồ sơ kiểm toán hay sao chụp một số tư liệu cần thiết.
Với những khách hàng hoạt động trong các lĩnh vực mới, có rủi ro kinh doanh cao thì nhóm kiểm toán cần tham khảo ý kiến các chuyên gia để có thông tin sâu hơn.
Mẫu thông tin về khách hàng do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam quy định như sau( Bảng 2.4):
Bảng 2.4: Thông tin chung về khách hàng
- Khách hàng: Thường xuyên: Năm đầu:
- Tên công ty:
- Trụ sở chính:
- Điện thoại: Fax:
- Quyết định thành lập hay cấp giấy phép kinh doanh:
- Ngành nghề hoạt động:
- Số vốn đầu tư:
- Thời gian hoạt động:
- Hội đồng quản trị:
- Ban giám đốc:
- Công ty mẹ (đối tác liên doanh):
- Tóm tắt quy chế kiểm soát nội bộ của khách hàng:
4.1.4. Tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thu thập thông tin về hệ thống kế toán và hệ thống KSNB chủ yếu bằng hình thức gặp trực tiếp Ban giám đốc, phỏng vấn nhân viên hay kiểm tra sơ bộ sổ sách kế toán. Từ đó, phân tích điểm mạnh, yếu trong hệ thống kế toán, xác định độ tin cậy vào hệ thống kế toán, xác định rủi ro trong từng phần hành cụ thể.
Soát xét hệ thống KSNB nhằm mục đích đưa ra quyết định xem có thể dựa vào hệ thống KSNB hay không để giảm bớt khối lượng các thủ tục kiểm tra chi tiết phần hành kế toán.
4.1.5. Thực hiện thủ tục phân tích.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thủ tục phân tích sử dụng là:
- Phân tích soát xét các số liệu Báo cáo tài chính mới nhất của khách hàng.
- Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của công ty.
- Phân tích sơ bộ và kiểm tra tính logic của số liệu trên báo cáo.
Dựa vào Báo cáo tài chính do đơn vị khách hàng cung cấp, kiểm toán viên tiến hành phân tích các tỉ suất lợi nhuận, tỉ suất tài chính và tính logic của Báo cáo. Phân tích sự biến động các tỉ suất, đồng thời phát hiện các khoản mục trọng yếu trong Báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng.
4.1.6. Đánh giá rủi ro và xác định mức độ trọng yếu.
- Xem xét các sai sót tiềm tàng: Căn cứ đặc điểm hoạt động kinh doanh của đơn vị khách hàng và vị trí của từng loại hình kinh doanh mà kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng.
- Trên cơ sở tìm hiểu hệ thống KSNB, hệ thống kế toán của đơn vị khách hàng, kiểm toán viên phân tích, đánh giá rủi ro kiểm soát có thể xảy ra với các khoản mục trên Báo cáo tài chính.
4.1.7. Kế hoạch kiểm toán.
Sau khi thu thập đầy đủ thông tin, căn cứ vào yêu cầu công việc và nguồn lực hiện có của Công ty, tiến hành chọn nhóm kiểm toán và phân công công việc. Đồng thời, đề ra kế hoạch kiểm toán chi tiết, thời gian thực hiện kiểm toán.
4.2. Thực hiện kiểm toán.
Dựa vào kế hoạch đã lập, kiểm toán viên tiến hành kiểm toán. Song quá trình này không chỉ máy móc theo kế hoạch đã định mà trong khi thực hiện kiểm toán viên chủ động sáng tạo thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có độ tin cậy cao.
Đây cũng chính là giai đoạn cho thấy khả năng, trình độ của kiểm toán viên. Sự nhạy cảm và kinh hoạt trong công việc.
Kiểm toán viên tiến hành các công việc sau:
- Tiến hành thực hiện các biện pháp kiểm tra hệ thống KSNB và xem xét về những ảnh hưởng của các sai sót mà kiểm toán viên phát hiện.
- Thực hiện các thủ tục phân tích:
+ Xem xét tính độc lập và tính đáng tin cậy của các dữ liệu.
+ Tính toán ra một giá trị ước tính và so sánh giá trị đó với giá trị ghi sổ.
+ Phân tích nguyên chênh lệch
- Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết.
+ Xác nhận.
+ Kiểm tra thực tế.
- Đánh giá kết quả kiểm tra chi tiết.
- Xử lý các chênh lệch kiểm toán.
Tất cả các công việc mà kiểm toán viên thực hiện trong quá trình thực hiện kiểm toán đều được ghi nhận trên giấy tờ làm việc.
4.3. Kết thúc kiểm toán.
Kết thúc kiểm toán là giai đoan cuối cùng của cuộc kiểm toán. Công ty Cổ phần và Định giá Việt Nam thực hiện theo trình tự sau:
4.3.1. Xem xét tính hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng.
Công ty kiểm toán dựa vào các bằng chứng thu thập được để đánh giá, giải trình và đưa ra kết luận kiểm toán phù hợp.
4.3.2. Soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày lập Báo cáo tài chính.
Để soát xét các sự kiện sau ngày lập Báo cáo tài chính, kiểm toán viên tiến hành thẩm vấn Ban quản trị, xem xét các biên bản hay quyết định của giám đốc; sổ sách, chứng từ kế toán liên quan được lập sau ngày kết thúc niên độ kế toán hoặc tiến hành gửi thư xác nhận.
4.3.3. Hoàn thiện giấy tờ làm việc.
Sau khi hoàn thành công việc, các kiểm toán viên trong nhóm kiểm toán phải hoàn thiện giấy tờ làm việc của mình. Trưởng nhóm tiến hành soát xét giấy tờ, hoàn thiện các bằng chứng kiểm toán, kiểm tra, đối chiếu công việc đã hoàn thành. Nếu còn có sai sót thì cần phải bổ sung để hoàn thiện hồ sơ kiểm toán.
4.3.4. Đưa ra bút toán điều chỉnh và nêu nhược điểm cần hoàn thiện.
Trong quá trình kiểm toán, nếu kiểm toán viên phát hiện ra những sai sót của đơn vị khách hàng thì trước hết kiểm toán viên phải xem xét sai sót đó có ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính của đơn vị hay không? Nếu trọng yếu thì kiểm toán viên tiến hành điều chỉnh và phân lại cho phù hợp và giải trình lên Ban giám đốc đơn vị. Đồng thời, nếu kiểm toán viên phát hiện tại đơn vị khách hàng còn tồn tại những điểm yếu hay hạn chế về hệ thống kế toán hoặc hệ thống KSNB thì kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến tư vấn nhằm giúp Ban quản lý doanh nghiệp khắc phục và hoàn thiện tổ chức của mình.
4.3.5. Lập dự thảo Báo cáo kiểm toán và soát xét.
Sau khi đưa ra các bút toán điều chỉnh và thống nhất kết quả kiểm toán với đơn vị khách hàng, kiểm toán viên phát hành Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính. Nếu Ban quản trị đơn vị khách hàng đồng ý điều chỉnh các bút toán theo ý kiến của kiểm toán viên thì kiểm toán viên đưa ra Báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần; nếu Ban quản trị không đồng ý điều chỉnh lại theo ý kiến của kiểm toán viên thì tuỳ vào mức độ trọng yếu và ảnh hưởng của các sai sót đó mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần có ngoại trừ hay ý kiến không chấp nhận.
Dự thảo này sẽ được soát xét cả về nội dung lẫn hình thức trước khi gửi cho đơn vị khác hàng.
4.3.6. Phê duyệt và phát hành Báo cáo kiểm toán, thư quản lý ( nếu có).
Báo cáo kiểm toán và thư quản lý sau khi được lập phải được phê duyệt bởi Ban giám đốc Công ty Cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam. Kiểm toán viên dựa vào đó để phát hành Báo cáo kiểm toán và thư quản lý chính thức.
II. Thực tế kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện.
Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam hoạt động dựa vào các dịch vụ, thông tin như đã trình bày trong phần ngành nghề kinh doanh. Để chứng tỏ sự tồn tại của mình trong thị trường, Công ty sử dụng thư mời kiểm toán với khách hàng lần đầu kiểm toán, hợp đồng kiểm toán với khách hàng thường xuyên của Công ty, còn đối với những cuộc kiểm toán mang tính chất lớn thì Công ty làm hợp đồng như một cuộc đấu thầu. Khi hợp đồng đã được hai bên thoả thuận, Công ty VAE luôn thực hiện đúng những gì đã cam kết, theo đúng chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 210 – Hợp đồng kiểm toán (Bảng 2.7).
Chi phí sản xuất là khoản mục mang quy mô lớn, các nghiệp vụ phát sinh nhiều; đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất. Chính vì vậy, trong bài luận văn này em xin trình bày quy trình kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất tại hai doanh nghiệp sản xuất. Trong đó, Công ty TN là đối tượng trực tiếp để đánh giá, nhận xét; còn Công ty TM là đối tượng so sánh. Cả hai công ty đều lập thư mời VAE kiểm toán Báo cáo tài chính cho niên độ kế toán kết thúc ngày 31/12/2004. Quy trình kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất ở cả 2 Công ty đều trải qua 5 bước sau:
1. Chuẩn bị công việc kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất.
Trong giai đoạn chuẩn bị này kiểm toán viên cần thực hiện các bước công việc sau:
1.1. Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán.
Ngay sau khi nhận được thư mời kiểm toán do khách hàng gửi, Công ty xem xét khả năng chấp nhận kiểm toán qua việc đánh giá mức rủi ro kiểm toán rồi mới quyết định có nên chấp nhận khách hàng này hay không? Công ty sẽ từ chối kiểm toán nếu một trong các trường hợp sau xảy ra:
- Công ty nhận thấy khách hàng không đủ điều kiện cần thiết để thực hiện cuộc kiểm toán như: không thực hiện đúng luật kế toán; hệ thống KSNB của khách hàng kém hiệu lực, dẫn đến rủi ro quá cao,…
- Công ty nhận thấy chính bản thân Công ty không đủ khả năng và điều kiện cần thiết để cung cấp dịch vụ như khách hàng mong muốn được.
Tuy nhiên, với mỗi khách hàng kiểm toán khác nhau sẽ có mỗi cách thức đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán khác nhau như sau:
Với Công ty TN là khách hàng lần đầu kiểm toán, Công ty sẽ chọn một kiểm toán viên có kinh nghiệm trực tiếp đến doanh nghiệp để điều tra về nguồn gốc và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp đó. Kiểm toán viên có thể thực hiện công việc của mình bằng một trong các phương pháp sau: phỏng vấn, quan sát, điều tra thực tế,…Từ đó Công ty mới quyết định có chấp nhận kiểm toán hay không? Việc đánh giá có chính xác hay không phụ thuộc rất lớn vào kinh nghiệm của chính Kiểm toán viên đó, vì vậy nhân viên của Công ty phải là những người không chỉ có kiến thức sâu rộng mà còn phải có nhiều kinh nghiệm.
Với Công ty TM là khách hàng thường xuyên của Công ty, Công ty chỉ cần xem xét sự thay đổi lớn giữa niên độ kế toán này với niên độ kế toán trước. Ví dụ, Kiểm toán viên có thể xem xét về tính liêm chính của Ban giám đốc, thay đổi môi trường pháp lý ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh, phí kiểm toán,…
Sau khi xem xét, nếu rủi ro kiểm toán ở 2 khách hàng ở mức trung bình thì Công ty quyết định chấp nhận kiểm toán cho Công ty TN và tiếp tục kiểm toán với Công ty TM.
1.2. Lựa chọn nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20384.DOC