Tài liệu Đề tài Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE: LỜI NÓI ĐẦU
Sau gần hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cho đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đó không thể không kể đến những thay đổi tích cực từ việc đổi mới, nâng cao hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh những hoạt động cho thuê, mua bán, sát nhập doanh nghiệp thì cổ phần hóa là hoạt động diễn ra nhiều nhất và thu hút được sự quan tâm đông đảo của nhiều đối tượng.
Trong qua trình diễn ra các hoạt động nói trên, có thể thấy nổi lên một vấn đề chung nhất có tầm quan trọng đặc biệt đó là xác định giá trị doanh nghiệp, bởi lẽ bất kỳ quyết định nào liên quan đến các hoạt động nói trên cũng sẽ phải dựa trên cơ sở của giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng nhất để các bên hữu quan và Chính phủ xem xét, đưa ra các quyết định cuối cùng liên quan đến sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp, của từng ngành, từng lĩnh vực và của cả nền kinh tế.
Công tác định giá ở nước ta mặc dù đã diễn r...
110 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Sau gần hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cho đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đó không thể không kể đến những thay đổi tích cực từ việc đổi mới, nâng cao hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh những hoạt động cho thuê, mua bán, sát nhập doanh nghiệp thì cổ phần hóa là hoạt động diễn ra nhiều nhất và thu hút được sự quan tâm đông đảo của nhiều đối tượng.
Trong qua trình diễn ra các hoạt động nói trên, có thể thấy nổi lên một vấn đề chung nhất có tầm quan trọng đặc biệt đó là xác định giá trị doanh nghiệp, bởi lẽ bất kỳ quyết định nào liên quan đến các hoạt động nói trên cũng sẽ phải dựa trên cơ sở của giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng nhất để các bên hữu quan và Chính phủ xem xét, đưa ra các quyết định cuối cùng liên quan đến sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp, của từng ngành, từng lĩnh vực và của cả nền kinh tế.
Công tác định giá ở nước ta mặc dù đã diễn ra từ rất lâu (đầu những năm 90) nhưng gần đây mới thu hút được sự quan tâm của mọi người, nhất là trong thời điểm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Mặc dù chúng ta có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện công tác định giá thông qua hàng loạt những thay đổi từ phía Nhà nước nhưng thực tế cho thấy công tác này vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn. Cơ chế tổ chức định giá chưa chặt chẽ, giá trị của doanh nghiệp được xác định chưa mang tính khách quan, thiếu chính xác và tốn thời gian, chi phí. Do vậy mà công tác định giá trong thời gian qua được đánh giá là chưa hiệu quả.
Định giá doanh nghiệp có một tầm quan trọng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế và do vậy cần có những giải pháp hoàn chỉnh và khoa học nhất để làm sao nâng cao được hiệu quả của công tác này sẽ giúp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi là một thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Ngay từ khi mới tham gia vào hoạt động định giá, công ty Cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam, nay là công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã luôn chú trọng đến việc mở rộng và hoàn thiện chất lượng công tác định giá của mình nhằm bắt nhịp và đáp ứng tốt nhất nhu cầu định giá trong bối cảnh hội nhập. Do đó, công ty đã trở thành một trong những tổ chức định giá hàng đầu và có uy tín nhất tại Việt Nam hiện nay. Vì vậy, sau khi thực tập tại đây, với mục đích tìm hiểu thực tế về hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty và những tồn tại của nó nhằm tìm ra giải pháp khắc phục, thúc đẩy hơn nữa hoạt động này, tôi đã chọn để tài “Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiẹm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE” để làm đề tài cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu về thực trạng hoạt động định giá tại VAE , trước hết tôi muốn đi sâu nghiên cứu những lý luận chung nhất về định giá, tiếp đến là phân tích thực trạng công tác định giá hiện nay và thứ ba là trong giới hạn hiểu biết của mình tôi đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động định giá tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hoạt động định giá tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là những doanh nghiệp được định giá bởi công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam trong những năm từ 2005 trở lại đây.
Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp tổng hợp như: tập hợp, nghiên cứu tài liệu sau đó chọn lọc, phân tích, đánh giá thông tin dữ liệu trên cơ sở các số liệu thống kê thu thập được từ Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Bố cục của đề tài:
Đề tài này gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty TNHH Kiểm tóan và Định giá Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lê Đức Lữ cùng toàn thể các anh, chị nhân viên phòng Nghiệp vụ I, công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành báo cáo thực tập của mình.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
1.1 Doanh nghiệp và các đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá nhỏ.
Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là doanh nghiệp nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.
Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Vậy:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (theo luật doanh nghiệp 2005).
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế và cần được coi là một loại hàng hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một nhu cầu tất yếu và đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau. Giá trị doanh nghiệp cần được xác định một cách hợp lý để đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia trong các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp. Trước khi xem xét đến giá trị doanh nghiệp, chúng ta cũng cần làm rõ những đặc điểm của doanh nghiệp như sau:
a) Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế
Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn được đặt trong mối quan hệ chung với các phần tử khác của nền kinh tế. Sự tồn tại đó không chỉ được quyết định bởi các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn bởi các mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài như: khách hàng, nhà cung cấp, tổ chức tài chính, pháp luật…Sự hoạt động của doanh nghiệp thực chất là sự thích ứng của nó với môi trường hoạt động. Do vậy khi nhìn nhận doanh nghiệp cần thấy được vị trí của nó trong nền kinh tế và quan trọng hơn là phải đánh giá được nó về mặt tổ chức cũng như sự thích ứng của nó với môi trường.
b) Doanh nghiệp là một tổ chức, một thực thể hoặt động chứ không phải là các tài sản rời rạc được tập hợp vào với nhau
Doanh nghiệp không phải là một kho hàng, doanh nghiệp không đơn giản là tập hợp của những tài sản vô tri vô giác, giá trị sử dụng của chúng bị giảm dần theo thời gian. Khi hoạt động, các tài sản trong doanh nghiệp gắn kết lại với nhau để tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho doanh nghiệp. Chỉ khi doanh nghiệp bị giải thể hay phá sản, những tài sản ấy mới được coi là những tài sản đơn lẻ, rời rạc, người ta có thể đem bán nó như một loại hàng hóa thông thường với mức giá thấp hơn rất nhiều giá trị thực của nó. Do vậy, giá trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ được dùng cho những doanh nghiệp đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
c) Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt
Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng để bán, tuy vậy giống như các hàng hoá thông thường khác, doanh nghiệp cũng là đối tượng của các giao dịch: mua bán, hợp nhất, chia nhỏ,… Quá trình hình thành giá cả và giá trị đối với loại hàng hoá này cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Nhưng doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt, bởi nó là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố cầu thành, ngoài việc được tạo nên bởi các tài sản hữu hình còn có các tài sản vô hình như: lợi thế thương mại, thương hiệu…Hơn nữa, bản thân các yếu tố tạo nên giá trị của doanh nghiệp luôn có sự thay đổi, luôn só sự tăng lên hay giảm đi, có sự ra đời hay biến mất, chính vì vậy giá trị của một doanh nghiệp cũng thay đổi theo thời gian và giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động.
d) Việc thành lập hay mua bán lại doanh nghiệp thực chất là nhằm tìm kiếm thu nhập từ quyền sở hữu đối với doanh nghiệp đó
Con người muốn sở hữu doanh nghiệp là vì lợi nhuận. Việc sở hữu các tài sản cố định tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh doanh, chỉ là cách thức, là phương tiện để đạt mục tiêu lợi nhuận mà thôi. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và đánh giá giá trị doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai.
1.2 Định giá doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm về định giá doanh nghiệp
Giá trị (value) là một khái niệm kinh tế có liên quan đến giá cả, chủ yếu do người mua và người bán xác định. Giá trị là mức giá dự tính sẽ phải trả đối với hàng hoá hoặc dịch vụ tại một thời điểm nhất định.
Giá trị của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của các khỏan thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đẩu tư trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để xác định được giá trị doanh nghiệp, có thể tiếp cận theo hai cách:
Tiếp cận trực tiếp: Trực tiếp đánh giá các tài sản của doanh nghiệp, bao gồm cả tài sản hữu hình, tài sản vô hình và định lượng giá trị các yếu tố về tổ chức, danh tiếng, thị phần của doanh nghiệp.
Tiếp cận gián tiếp: Đánh giá doanh nghiệp thông qua việc lượng hóa các khoản thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong suốt thời gian hoạt động còn lại của doanh nghiệp.
Với hai cách tiếp cận như vậy, trên thế giới hiện nay có nhiều phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khác nhau (sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau). Tuy nhiên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thường có sự chênh lệch lớn thậm chí ngay cả khi sử dụng cùng một phương pháp vì kết quả đó phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác của các tham số tính toán. Do vậy mỗi phương pháp đưa ra đều có những thích ứng đối với từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi doanh nghiệp và tẩm nhìn của nhà đầu tư. Không thể có một phương pháp chung phù hợp cho mọi doanh nghiệp nên việc lựa chọn phương pháp nào đó để áp dụng thống nhất cho mọi doanh nghiệp là điều khó thực hiện và sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Định giá là một môn khoa học có tính nghệ thuật ước lượng cao chứ không hẳn là một khoa học chính xác. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của nhà thẩm định, điều quan trọng là quá trình định giá phải thực hiện một cách thống nhất và kết quả định giá sẽ được sử dụng một cách hữu ích nhất.
1.2.2 Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
Giá trị thị trường.
Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên thị trường vào thời điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán khách quan và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường:
+ “Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên thị trường... ” là số tiền ước tính để tài sản có thể được mua, bán trên thị trường trong điều kiện thương mại bình thường mà sự mua bán đó thoả mãn những điều kiện của thị trường tại thời điểm thẩm định giá.
+ “vào thời điểm thẩm định giá...” là ngày, tháng, năm cụ thể khi tiến hành thẩm định giá, được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức mua trên thị trường khi thực hiện thẩm định giá trị tài sản.
+ “giữa một bên là người mua sẵn sàng mua...” là người đang có khả năng thanh toán và có nhu cầu mua tài sản được xác định giá trị thị trường.
+ “và một bên là người bán sẵn sàng bán...” là người bán đang có quyền sở hữu tài sản (trừ đất), có quyền sử dụng đất có nhu cầu muốn bán tài sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường.
+ “Điều kiện thương mại bình thường” là việc mua bán được tiến hành khi các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xảy ra những đột biến do chịu tác động của thiên tai, địch họa; nền kinh tế không bị suy thoái hoặc phát triển quá nóng…; thông tin về cung, cầu, giá cả tài sản được thể hiện công khai trên thị trường.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai và cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường quốc tế, có thể bao gồm nhiều người mua, người bán hoặc bao gồm một số lượng hạn chế người mua, người bán.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá ước tính mà trên cơ sở đó, bên bán và bên mua thoả thuận tại một thời điểm sau khi cả hai bên đã khảo sát, cân nhắc đầy đủ các cơ hội và lựa chọn tốt nhất cho mình từ các thông tin trên thị trường trước khi đưa ra quyết định mua hoặc quyết định bán một cách hoàn toàn tự nguyện, không nhiệt tình mua hoặc nhiệt tình bán quá mức.
Giá trị phi thị trường
Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính của một tài sản dựa trên việc đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể mua bán tài sản trên thị trường.
Cơ sở của việc đưa ra khái niệm giá trị phi thị trường cũng xuất phát trực tiếp từ khái niệm giá trị tài sản: là biểu hiện bằng tiền về những lợi ích mà tài sản mang lại cho chủ thể nào đó tại một thời điểm nhất định.
Sau đây một số khái niệm giá trị phi thị trường thường dùng:
- Giá trị còn lại (salvage value): là giá trị của tài sản (bao gồm cả đất đai) không còn được tiếp tục sửa chữa hay sử dụng nữa. Giá trị này có thể coi như giá trị ròng của chi phí dỡ bỏ. Trong mọi trường hợp, khi định giá tài sản cần xác định rõ những bộ phận dỡ bỏ và những bộ phận còn lại của tài sản.
- Giá trị tài sản bắt buộc phải bán (forcedsale value): là tổng số tiền hợp lý có thể thu về từ bán tài sản trong phạm vị thời gian quá ngắn so với thời gian trung bình cần có để giao dịch mua bán theo giá trị thị trường. Tại một số nước, giá trị tài sản bắt buộc phải bán có thể liên quan đến tình huống người bán tài sản chưa sẵn sàng bán và người mua tài sản biết rõ việc chưa sẵn sàng bán đó.
- Giá trị đặc biệt (special value): là khái niệm có liên quan đến những yếu tố đặc biệt có thể làm tăng giá trị tài sản lên vượt quá giá trị thị trường. Giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi một tài sản này có thể gắn liền với một tài sản khác về mặt kỹ thuật hoặc kinh tế mà sự liên kết đó chỉ thu hút mối quan tâm đặc biệt của một số ít khách hàng mà không thu hút sự quan tâm của nhiều người. Các yếu tố của giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi xem xét yếu tố của giá trị tài sản đang quan tâm hoặc giá trị đầu tư. Thẩm định viên phải phân biệt rõ ràng những thông số và nguyên nhân để vận dụng các khái niệm giá trị thị trường nói trên thay vì sử dụng khái niệm giá trị thị trường.
- Giá trị có thể bảo hiểm (insurable value): là giá trị của tài sản quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
- Giá trị có thể tính thuế (taxable value): là giá trị trong phạm vi luật pháp liên quan đến việc thuê mướn hoặc thu thuế tài sản. Mặc dù một số văn bản pháp quy trích
- Giá trị đầu tư (investment value): là giá trị của một tài sản đối với một số nhà đầu tư áp dụng cho một dự án đầu tư nhất định. Khái niệm này liên quan đến những tài sản riêng biệt với những nhà đầu tư riêng biệt. Không nên nhầm lẫn giữa giá trị đầu tư và giá trị thị trường. Giá trị đầu tư của một tài sản có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị thị trường có thể phản ánh một số đánh giá cá nhân về giá trị đầu tư. Giá trị đầu tư có liên quan đến giá trị đặc biệt
- Giá trị đang sử dụng (Value in use): là giá trị các tài sản khi nói đang được một người cụ thể sử dụng cho một mục đích nhất định. Vì vậy, tài sản đó không liên quan đến thị trường. Loại giá trị này đóng góp vào một doanh nghiệp với tư cách là một bộ phận của tài sản doanh nghiệp, không tính đến giá trị sử dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản cũng như số tiền mà tài sản đó mang lại khi nó được mang ra bán. Xét trên giác độ kế toán, giá trị đang sử dụng là giá trị hiện tại của luồng tiền mặt ước tính có thể mang lại trong tương lai kể từ khi bắt đầu sử dụng tài sản đến khi thanh lý tài sản.
Giá trị doanh nghiệp đang hoạt động (going concern): là giá trị toàn bộ của một doanh nghiệp. Khái niệm này liên quan đến định giá tài sản một doanh nghiệp đang hoạt động mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh nghiệp đó không thể tách rời và cũng không thể thẩm định trên cơ sở giá trị thị trường.
1.2.3 Các nhân tố tác động tới giá trị doanh nghiệp
Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh
a) Môi trường kinh doanh tổng quát:
- Môi trường kinh tế: Bối cảnh kinh tế được nhìn nhận thông qua hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá cả, tỷ giá ngoại tệ, tỷ suất đầu tư,…Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tố khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp lại là sự tác động trực tiếp, mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Ví dụ: Chỉ số giá chứng khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi xuất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, lạm phát phi mã là biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay tận gốc.
- Môi trường chính trị: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị nhất định. Chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, sự lộng hành của Mafia và những yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội chứ không riêng gì với sản xuất kinh doanh.
Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ như:
+ Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống pháp luật.
+ Quan điểm của nhà nước đối với sản xuất kinh doanh được thể hiện thông qua các văn bản pháp quy như: luật cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,…
- Môi trường văn hoá xã hội: Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi những quan niệm, những hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức. Thể hiện trong quan niệm về “chân, thiện, mỹ” quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ, …..
- Môi trường khoa học công nghệ: Sự tác động của kỹ thuật - công nghệ đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, hàm lượng tri thức có khuynh hướng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.
Sự nhảy vọt của nền văn minh nhân loại không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá về doanh nghiệp phải chỉ ra được mức độ tác động của môi trường này đến sản xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước phát triển mới của khoa học- công nghệ.
b) Môi trường đặc thù
- Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng: Thị trường đối với doanh nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, thông thường khách hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng cũng có trường hợp khách hàng lại bị lệ thuộc vào khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng khả năng phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng và đặc biệt là thị phần hiện tại, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu đó qua các chu kỳ kinh doanh.
- Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp: Doanh nghiệp thường phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hoá, nguyên vật liệu, các dịch vụ điện, nước,… Tính ổn định đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo đúng chỉ tiêu đã đề ra.
Để đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào đảm bảo cho sản xuất kinh doanh có thể ổn định phải xem xét đến: Sự phong phú của các nguồn cung cấp, số lượng, chủng loại các nguyên liệu có thể thay thế được cho nhau, khả năng đáp ứng lâu dài, tính kịp thời, chất lượng và giá cả.
- Các hãng cạnh tranh: Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, đánh giá năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét 3 tiêu chuẩn: Giá cả, chất lượng sản phẩm và dịch vụ hậu thương mại còn phải xác định được số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, năng lực thự sự và thế mạnh của họ là gì.
- Các cơ quan Nhà nước: Sự hoạt động của doanh nghiệp luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, các tổ chức công đoàn…Các tổ chức này có bổn phận kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp không vượt ra khỏi những quy ước xã hội thể hiện trong luật thuế, luật môi trường,…
Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là những doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với xã hội, như nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động,… Đó cũng là biểu hiện của những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh. Vì vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng của doanh nghiệp với các tổ chức đó.
Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp
- Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp: Khi xác định giá trị doanh nghiệp, bao giờ người ta cũng quan tâm ngay đến hiện trạng tài sản của doanh nghiệp, vì 2 lý do chủ yếu:
Thứ nhất: Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loạ tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra.
Thứ hai: Giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.
Chính vì vậy, người ta thường đánh giá cao các phương pháp có liên quan trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp.
- Vị trí kinh doanh: Được đặc trưng bởi các yếu tố như: địa điểm, diện tích của doanh nghiệp và các chi nhánh thuộc doanh nghiệp, yếu tố địa hình, thời tiết….
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh. Ví dụ: Những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, được đặt gần đô thị, các nơi đông dân cư, các trung tâm buôn bán lớn và các đầu mối giao thông quan trọng có thể đem lại rất nhiều lợi thế cho doanh nghiệp như: Chi phí vận chuyển, bảo quản, chi phí lưu kho, … Đồng thời doanh nghiệp có những thuận lợi lớn để tiếp cận và nắm bắt nhanh chóng nhu cầu, thị hiếu của thị trường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu thương mại… Tuy nhiên, với vị trí đó cũng có thể kéo theo sự gia tăng một số khoản chi phí như thuê văn phòng giao dịch thuê lao động…
Vì vậy vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá giá trị doanh nghiệp.
- Uy tín kinh doanh: Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong doanh nghiệp, như: Do chất lượng sản phẩm cao, do trình độ quản lý kinh doanh giỏi, …
Khi sản phẩm của doanh nghiệp đã được đánh giá cao trong con mắt của khách hàng, thì uy tín trở thành một tài sản thực, chúng có giá và người ta gọi đó là giá trị của nhãn mác. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán quyền dán nhãn mác sản phẩm, quyền dán nhãn mác nhiều khi được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín của doanh nghiệp được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị doanh nghiệp.
- Trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động: Đây là một yếu tố có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh do việc sử dụng hợp lý nguyên liệu… trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng, góp phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp.
Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động không chỉ xem ở bằng cấp, bậc thợ mà điều quan trọng là hàm lượng tri thức có trong mỗi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Vì vậy đây cũng được coi là một yếu tố nội tại quyết định đến giá trị của doanh nghiệp.
- Năng lực quản trị kinh doanh: Trong điều kiện hiện nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh đủ mạnh giúp để có thể sự dụng tốt nhất các nguồn lực cho quá trình sản xuất, biết tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó một cách linh hoạt với những biến động của môi trường. Vì lý do đó, năng lực quản trị kinh doanh luôn được nhắc tới như một yếu tố đặc biệt quan trọng tác động tới giá trị doanh nghiệp.
Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là định lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới tác động của môi trường. Ngoài ra năng lực quản trị kinh doanh tổng hợp còn được thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Do đó, thực hiện phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần với thời điểm định giá cũng có thể cho phép rút ra những kết luận quan trọng về năng lực quản trị và sự tác động của nó đến giá trị doanh nghiệp.
1.2.4. Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị doanh nghiệp là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng như hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các doanh nghiệp được đánh giá. Sự cần thiết của định giá trị doanh nghiệp được xuất phát từ các yêu cầu quản lý và các giao dịch:
a) Đối với bản thân doanh nghiệp được định giá
- Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 90 và đã cho những kết quả tương đối tốt, không ít các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đã đi vào làm ăn hiệu quả, kinh doanh có lãi, vai trò của người lao động được nâng lên, quy mô sản xuất được mở rộng. Tính hiệu quả của hoạt động này đã phát huy rất rõ và tiến trình đẩy nhanh cổ phần hóa ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, vấn đề xác định giá trị phần vốn góp nhà nước tại doanh nghiệp hiện vẫn đang còn nhiều tranh cãi và là bước cản lớn nhất trong cả tiến trình, do đó, việc nâng cao chất lượng công tác định giá sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động cổ phần hóa diễn ra được nhanh chóng hơn.
- Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ các doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi trường tự do cạnh tranh. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động tới doanh nghiệp, trong đó giá trị doanh nghiệp là một yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong tiến trình giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ doanh nghiệp.
- Định giá doanh nghiệp để vay ngân hàng: Nhu cầu mở rộng đầu tư,mua sắm mới các trang thiết bị và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay là rất lớn. Để có được nguồn vốn tài trợ cho các nhu cầu đó, doanh nghiệp thường tìm đến các ngân hàng, các tổ chức tín dụng để vay. Tuy nhiên một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền cho vay cần được đảm bảo bởi chính tài sản của doanh nghiệp. Từ đó nảy sinh nhu cầu định giá tài sản, định giá giá trị doanh nghiệp để làm cơ sỏ cho việc vay vốn của ngân hàng.
b) Đối với các nhà quản trị
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị phân tích, đánh giá trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh nghiệp được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài chính doanh nghiệp, xét cho cùng là phải tăng giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là sự phản ánh năng lực tổng hợp, phản ánh khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây các nhà quản trị kinh doanh có thể thấy được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khác. Theo đó, giá trị doanh nghiệp là một căn cứ thích hợp, là cơ sở để đưa ra các quyết định về kinh doanh, về tài chính… một cách đúng đắn.
c) Đối với các nhà đầu tư
Trong cách nhìn của các nhà đầu tư, của người cung cấp, thông tin về giá trị doanh nghiệp cho người ta một sự đánh giá tổng quát về uy tín kinh doanh, về khả năng tài chính và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra các quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc có tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp nữa hay không.
d) Đối với nền kinh tế nói chung
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô: Giá cả của các loại chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của doanh nghiệp có chứng khoán được trao đổi, mua bán trên thị trường. Vì vậy, trên phương diện quản lý nền kinh tế vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường, thâu tóm quyền kiểm soát doanh nghiệp … để từ đó có thể đưa ra các chính sách điều tiết thị trường một các phù hợp.
Có thể nói, các hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông thường trong cơ chế thị trường đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp. Chúng là mối quan tâm của 3 loại chủ thể, đó là: Nhà nước, nhà đầu tư và nhà quản trị doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp vì vậy là một đòi hỏi tất yếu đối với các quốc gia muốn xây dựng và phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Đối với Việt Nam, nền kinh tế mới được chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, những nỗ lực cải cách nền kinh tế đã được thế giới công nhận và đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thì nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị doanh nghiệp như thế nào càng trở nên cấp thiết vì trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị doanh nghiệp còn là một bước đi quan trọng để các quốc gia tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nước, như: cổ phần hoá, sát nhập, hợp nhất hay giao, bán, khoán và cho thuê nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này để đủ sức đứng vững và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang hội nhập một cách mạnh mẽ, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn.
1.2.5 Chất lượng công tác định giá và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác định giá.
a) Chất lượng công tác định giá
Chất lượng là một khái niệm mang tính trừu tượng và chủ quan của người đánh giá nhất là đối tượng của việc đánh giá lại là một công việc, một hoạt động cụ thểlại càng khó hơn. Tuy nhiên do tầm quan trọng của công tác định giá mà người ta cần phải đánh giá được chất lượng của công tác này. Công tác định giá doanh nghiệp được coi là có chất lượng khi mà giá xác định luôn bám sát với giá thị trường, thực hiện theo đúng quy trình, dựa trên một phương pháp định giá khoa học và đảm bảo được đúng mục tiêu, yêu cầu của các chủ thể tham gia với thời gian,chi phí thấp nhất.
b) Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác định giá.
Công tác định giá phải đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu và yêu cầu của các chủ thể tham gia.
Như đã trình bày ở trên, công tác định giá luôn thu hút sự quan tâm của 3 loại chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư và Nhà quản trị. Mục tiêu của mỗi chủ thể tham gia không giống nhau, thậm chí có những sự đối lập. Nhà quản trị luôn mong muốn được định giá cao trong khi các nhà đầu tư lại mong muốn định giá càng thấp càng tốt. Mâu thuẫn này cần được dung hòa để đi đến thống nhất chung, tổ chức định giá phải là người trung gian đứng ra làm trọng tài. Vì thế giá trị doanh nghiệp sẽ được định giá một cách khách quan và thống nhất các mục đích riêng của các chủ thể tham gia.
Công tác định giá được thực hiện theo đúng quy trình
Công tác định giá là một công việc hết sức phức tạp và nhiều công đoạn, mỗi công đoạn lại đòi hỏi nhiều kỹ thuật xử lý thông tin rất cao. Do vậy để đảm bảo chất lượng của công tác này việc thực hiện theo đúng quy trình là một yêu cầu tất yếu. Các bước công việc cần được thực hiện tuần tự và phải tuân thủ theo nguyên tắc chung đặt ra như vậy công việc định giá sẽ được thực hiện nhanh chóng, tránh thiếu sót và bám sát với kế hoạch đã định.
Công tác định giá dựa trên phương pháp định giá linh hoạt và khoa học
Đối với bất cứ hoạt động nào, nếu không có một phương pháp khoa học thì hiệu quả của công việc sẽ không đạt được như ý muốn thậm chí còn gây thiệt hại. Đối với công tác định giá cũng vậy, định giá doanh nghiệp bằng các phương pháp khác nhau sẽ cho các kết quả khác nhau. Vì vậy, việc áp dụng phương pháp nào cần phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn. Đó chính là tính khoa học của phương pháp định giá được áp dụng.
Công tác định giá phải bám sát với giá thị trường
Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng, định giá doanh nghiệp là hoạt động khoa học có tính tổng hợp và khả năng dự đoán cao vì quá trình định giá doanh nghiệp không chỉ căn cứ vào các thông tin hiện có của doanh nghiệp, cung cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp, giá trị các tài sản tương đương với tài sản của doanh nghiệp, nhu cầu mua, bán về loại hình doanh nghiệp đang định giá…Gía trị doanh nghiệp không thể tự xác định được nếu không gắn nó với thị trường, chỉ có thông qua thị trường, giá trị các tài sản của doanh nghiệp mới phản ánh một cách chính xác và khách quan. Chính vì vậy đòi hỏi các chuyên gia định giá phải phải nắm vững kỹ thuật và đặc biệt là phải luôn gắn yếu tố thị trường vào khi định giá.
Công tác định giá phải đảm bảo tốn ít thời gian và chi phí nhất.
Chất lượng của công tác định giá doanh nghiệp không thể coi là tốt khi mà tiêu chí về thời gian và chi phí không được đảm bảo. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể tham gia luôn có sự cạnh tranh, các cơ hội kinh doanh xuất hiện bất thường, nếu hoạt động định giá diễn ra trong thời gian quá dài sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động, bản thân các yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp luôn có sự thay đổi theo biến động của thị trường, giá trị của chúng luôn có sự tăng lên hoặc giảm đi và có sự ra đời hoặc mất đi của một vài yếu tố nào đó. Vì vậy khi công tác định giá kéo dài thí các yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp cũng sẽ bị biến động, điều này dẫn đến giá trị doanh nghiệp có nguy cơ bị đánh giá sai.
Xét về mặt chi phí, chúng ta khẳng định được rằng chất lượng của công tác định giá không thể xem là cao khi mà chi phí bỏ ra để thực hiện quá cao. Chi phí định giá dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng là khoản phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu vì vậy nếu công tác định giá đảm bảo được ở mức thấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp sau cuộc định giá.
1.2.6 Các phương pháp định giá và phạm vi ứng dụng của các phương pháp đó.
a) Phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF).
* Cơ sở lý luận:
“Đầu tư” là khái niệm được dùng để chỉ hoạt đông bỏ vốn nhằm đạt đến khả năng có thể thâu tóm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nói cách khác, đó là hoạt động bỏ vốn đầu tư có tính chất đa số, chẳng hạn như mua một số lượng chứng khoán nào đó nhằm trông đợi vào khoản thu nhập do sự tăng giá chứng khoán và lợi tức cổ phần. Thu nhập đưa lại cho “ nhà đầu tư thiểu số” có tính thụ động.
Phương pháp hiện tại hoá dòng tiền thuần là một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên quan điểm đánh giá của nhà đầu tư đa số. Trong cách nhìn nhận của những người này thì quan niệm về giá trị doanh nghiệp có những điểm khác căn bản so với các phương pháp khác, vì:
- Đối với nhà đầu tư đa số, việc bỏ tiền ra mua doanh nghiệp không phải nhằm để trông đợi một cách thụ động có tính chất may rủi về những khoản lợi tức cổ phần mà doanh nghiệp “ có thể” sẽ trả trong tương lai. Theo quan điểm của nhà đầu tư đa số, mua doanh nghiệp giống như việc đổi lấy một dự án đang được triển khai, giống như việc đổi lấy một cơ hội, để theo đó nhà đầu tư sau khi nắm quyền kiểm soát còn có thể điều khiển dự án- doanh nghiệp, hoạt động theo những dự định, những ý tưởng và sự tính toán của riêng mình.
- Đối với nhà đầu tư, quá trình SXKD là một quá trình phát sinh các dòng tiền vào và các dòng tiền ra ( xem sơ đồ 1.1):
+A
-A
-A
+A
-A
+A
+A
+A
(+A) Dòng tiền vào
(-A) Dòng tiền ra
Sơ đồ 1.1: Biểu diễn các dòng tiền của dự án đầu tư.
Nhà đầu tư luôn đánh giá mọi việc trên cơ sở các dòng tiền. Họ chỉ quyết định mua doanh nghiệp trên cơ sở xem xét và đánh giá doanh nghiệp theo tiêu chuẩn hiệu quả của dự án đầu tư. Tức là, người ta còn phải xem xét, cân nhắc đến số lượng vốn phải tiếp tục bỏ ra trong tương lai, độ lớn của các khoản thu nhập có thể đạt được. Và đặc biệt, trên quan điểm thời giá của tiền tệ và đầu tư là hoạt động bỏ vốn với số lượng lớn, trong một khoảng thời gian dài, cho nên, yếu tố mà người ta không thể bỏ qua là thời điểm phát sinh các dòng tiền đó.
Do vậy, giá trị hiện tại của dòng tiền thuần mà việc đầu tư vào doanh nghiệp cả ở thời điểm hiện tại và tương lai đem lại cho đầu tư là tiêu chuẩn thích hợp để xác định giá trị doanh nghiệp.
* Phương pháp xác định:
Dòng tiền ra
-
Dòng tiền vào
Dòng tiền thuần của dự án đầu tư
Phương pháp chiết khấu dòng tiền thuần cũng được xây dựng dựa trên công thức tổng quát (1.2). Nhưng điểm khác biệt căn bản đối với các phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần và phương pháp hiện tại hoá lợi tức cổ phần là ở chỗ: Các phương khoản thu nhập trong tương lai được thay thế bằng dòng tiền thuần của dự án đầu tư vào doanh nghiệp:
=
Trong đó:
“ Dòng tiền vào” là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại dưới hình thức: Trích khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận thuần hàng năm và các khoản vốn doanh nghiệp thu được khi dự án đầu tư kết thúc.
“ Dòng tiền ra” là những khoản chi đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm các khoản vốn đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động thường xuyên trong tương lai đối với doanh nghiệp.
Để dễ dàng phân biệt các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp, người ta xây dựng công thức tổng quát (1.3) như sau:
Trong đó:
+ Vo: Giá trị doanh nghiệp.
+ CFt: thu nhập thuần năm thứ t
+ Vn: Giá trị doanh nghiệp ở cuối kỳ đầu tư ( năm thứ n)
+ i: Tỷ suất hiện tại hoá.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này thường được chia ra thành các bước cơ bản sau:
- Bước 1: Thực hiện dự báo dài hạn về dòng tiền vào và dòng tiền ra có thể phát sinh trong tương lai, bao gồm:
+ Dự báo về doanh thu, chi phí vận hành, các khoản vốn đầu tư bổ sung và các khoản vốn rút ra khỏi quá trình luân chuyển trong từng năm.
+ Dự báo chu kỳ đầu tư ( n) và giá trị doanh nghiệp ở thời điểm cuối của chu kỳ đó (Vn). Thông thường thời điểm cuối của chu kỳ đầu tư được xác định khi mà các số liệu dự báo trong tương lai xa không còn đủ độ tin cậy ở mức độ cần thiết.
- Bước 2: Xác định tỷ suất chiết khấu dòng tiền.
Tỷ suất chiết khấu được lựa chọn trên nguyên tắc vừa thể hiện được yếu tố thời giá của tiền tệ vừa tính đến yếu tố rủi ro. Đối với phương pháp này, thường người ta tìm cách dự tính chi phí sử dụng vốn bình quân- phản ánh chi phí cơ hội đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
- Bước 3: Xác định giá trị hiện tại của dòng tiền thuần theo tỷ suất chiết khấu nói trên để tìm ra giá trị doanh nghiệp.
* Ưu điểm:
- Doanh nghiệp coi như một dự án đầu tư đang triển khai, mỗi nhà đầu tư nhìn nhận tương lai của dư án này khác nhau.
- Giá trị doanh nghiệp là mức giá cao nhất nhà đầu tư có thể bỏ thầu.
- Quan niệm về dòng tiền tránh được việc điều chỉnh số liệu kế toán sao cho có thể phản ánh đúng thời điểm phát sinh các khoản tiền.
* Nhược điểm:
- Khó khăn trong khi dự báo các tham số : i, n…
- Đối với các doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh hoặc có chiến lược kinh doanh không rõ ràng khó áp dụng phương pháp này.
- Đòi hỏi phải có một lượng thông tin lớn.
b) Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức (DDM)
- Giá trị doanh nghiệp (đối với chủ sở hữu) bằng tổng giá trị các loại cổ phiếu mà doanh nghiệp đã phát hành.
- Giá trị doanh nghiệp (tổng thể) bằng tổng giá trị các loại cổ phiếu cộng giá trị của các trái phiếu mà doanh nghiệp đang lưu hành và giá trị các khoản nợ khác.
* Phương pháp xác định:
Công thức tổng quát xác định giá trị thực của các loại chứng khoán như sau:
Trong đó:
+ Vo: Giá trị doanh nghiệp;
+ Rt: Thu nhập từ chứng khoán năm t;
+ i: Tỷ suất hiện tại hoá;
+ n: Số năm nhận được thu nhập.
- Xác định giá trị thực của trái phiếu: Nếu lợi tức trái phiếu giữ ổn định hàng năm và bằng R, ta được:
t
n
Trong đó:
+ Pn: Mệnh giá trái phiếu phải trả vào năm thứ n.
- Xác định giá trị thực của cổ phiếu
+ Giả định 1: Doanh nghiệp có thể chi trả lưọi tức cổ phần một cách ổn định hàng năm. Tức là mức lợi tức trong tương lai luôn là một hằng số D và Cho t ® + ¥, ta có:
Trong đó:
+ Dt: Cổ tức năm t;
+ D: Cổ tức trung bình một năm.
+ Giả định 2: Cổ tức chi trả hàng năm tăng một cách đều đặn theo một tỷ lệ ổn định là g ( với g < i), ta có:
Xác định g:
- Lấy của quá khứ
- Dự đoán: g = ROE x tỷ lệ lợi nhuận sau thuế tái đầu tư
+ Giả định 3: lợi tức cổ phiếu chi trả hàng năm khác nhau cho tới thời điểm n, từ n+1 trở đi giả thiết tăng đều với tốc độ là g (với g < r):
Với
Trong đó:
+ Vn: Giá trị doanh nghiệp năm n
* Ưu điểm:
- Đây là mô hình đầu tiên tiếp cận trực tiếp các khoản thu dưới hình thức lợi tức cổ phần để xác định giá trị cổ phiếu.
- Phương pháp này đặc biệt phù hợp với quan điểm nhìn nhận và đánh giá giá trị doanh nghiệp của các nhà đầu tư thiểu số.
- Thích hợp với doanh nghiệp có chứng khoán giao dịch trên thị trường, xác định giá trị doanh nghiệp bằng phương pháp tài sản thuần gặp nhiều khó khăn và có giá trị tài sản vô hình được đánh giá là rất cao.
* Nhược điểm:
- Việc dự báo lợi tức cổ phần không phải là dễ dàng.
- Phụ thuộc vào chính sách phân chia lợi tức cổ phần trong tương lai.
- Việc xác định các tham số có tính thuyết phục không cao (t, n, i, g…)
c) Phương pháp tài sản thuần
* Cơ sở lý luận: Phương pháp này còn gọi là phương pháp giá trị nội tại hay mô hình định giá tài sản, được xây dựng dựa trên các nhận định:
- Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại hàng hoá thông thường.
- Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành trên cơ sở một lượng tài sản có thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể về sự tồn tại của doanh nghiệp, chúng cấu thành thực thể của doanh nghiệp.
- Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà đầu tư ngay khi thành lập doanh nghiệp và còn có thể được bổ sung trong quá trình SXKD. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và thừa nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu tư đối với tài sản đó.
Chính vì vậy, giá trị của doanh nghiệp được tính bằng tổng gía trị thị trường của số tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào SXKD.
* Phương pháp xác định:
Tổng giá trị tài sản trong doanh nghiệp thường không chỉ thuộc về người chủ sở hữu doanh nghiệp mà chúng còn được hình thành trên các trái quyền khác, như: các trái chủ cho doanh nghiệp vay vốn, tiền lương chưa đến kỳ hạn trả, thuế chưa đến kỳ hạn nộp, các khoản ứng trước của khách hàng, các khoản bán chịu của nhà cung cấp, các tài sản đi thuê…Do vậy, mặc dù giá trị doanh nghiệp được coi là tổng giá trị các tài sản cấu thành, nhưng để thực hiện một giao dịch mua bán doanh nghiệp, người ta phải xác định giá trị tài sản thuần- thuộc chủ sở hữu doanh nghiệp.
Theo đó, công thức tổng quát được xây dựng như sau:
V0 = Vt - VN (1.1)
Trong đó:
+ V0: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp.
+ Vt: Tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào SXKD.
+ VN: Giá trị các khoản nợ.
Dựa theo công thức (1.1), người ta suy diễn ra hai cách tính cụ thể về giá trị tài sản thuần( V0) như sau:
- Cách thứ nhất: Dựa vào số liệu về tài sản và cơ cấu nguồn vốn phản ánh trên bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá để xác định bằng cách: lấy tổng giá trị tài sản trừ đi các khoản nợ phải trả bên nguồn vốn.
+ Đây là một cách tính toán đơn giản, dễ dàng. Nếu như việc ghi chép phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định của chế độ kế toán thì giá trị tài sản thuần tính toán được sẽ là số liệu có độ tin cậy về số vốn theo sổ sách của chủ sở hữu đang được huy động vào SXKD. Nó chỉ ra mức độ độc lập về mặt tài chính, khả năng tự chủ trong việc điều hành SXKD của chủ doanh nghiệp, là căn cứ thích hợp để các nhà tài trợ đánh giá khả năng toàn của đồng vốn đầu tư, đánh giá vị thế tín dụng của doanh nghiệp.
+ Mặc dù người ta có thể đánh giá giá trị doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau. Song, theo cách này nó cũng minh chứng cho các bên liên quan thấy được rằng đầu tư vào doanh nghiệp luôn luôn được đảm bảo bằng giá trị của các tài sản hiện có trong doanh nghiệp, chứ không phải bằng cái “có thể” như nhiều phương pháp khác.
Tuy nhiên, giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp này cũng chủ là những thông tin, số liệu mang tính lịch sử có tính chất tham khảo trong quá trình vận dụng các phương pháp khác nhằm định ra giá trị doanh nghiệp một cách sát đúng hơn.
- Cách thứ hai: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường.
Ngay cả khi doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ kế toán do Nhà nước quy định thì thì số liệu trên bảng cân đối kế toán được lập vào thời điểm nào đó cũng không phản ánh đúng giá trị thị trường của toàn bộ tài sản trong doanh nghiệp vì các lý do sau:
+ Toàn bộ giá trị của các tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán là những số liệu được tập hợp từ các sổ kế toán, các bảng kê…Các số liệu này phản ánh trung thực các chi phí phát sinh tại thời điểm xảy ra các nghiệp vụ kinh tế trong quá khứ của niên độ kế toán. Đó là những chi phí mang tính lịch sử, không còn phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả khi không có lạm phát.
+ Giá trị còn lại của tài sản cố định phản ánh trên sổ sách kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nào, phụ thuộc vào thời điểm mà doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của tài sản cố định. Vì vậy, giá trị tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
+ Trị giá hàng hoá vật tư, công cụ lao động…tồn kho hoặc đang dùng trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào cách sử dụng giá hạch toán là giá mua đầu kỳ, cuối kỳ hay giá thực tế bình quân. Mặt khác, còn phụ thuộc vào sự lựa chọn các tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hoá dự trữ. Do vậy, số liệu kế toán phản ánh giá trị của loại tài sản đó cũng không được coi là không có đủ độ tin cậy ở thời điểm đánh giá doanh nghiệp.
Đó là một số lý do cơ bản, nhưng cũng đủ để giải thích: Vì sao trị giá tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán chỉ được coi là tài kiệu tham khảo trong quá trình đánh giá toàn bộ tài sản theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ra khỏi danh mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của SXKD. Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng loại tài sản cụ thể, như sau:
+ Đối với tài sản cố định và tài sản lưu động là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị trường hiện đang có bán những tài sản như vậy. Trong thực tế, thường không tồn tại thị trường tài sản cố định cũ, đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau. Khi đó, người ta dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ snả xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một tài sản cố định mới.
Đối với tài sản cố định không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp dụng một hệ số quy đổi so với nhưng tài sản cố định khác loại nhưng có tính năng tương đương.
+ Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm đánh giá. Vàng, bạc, kim khí, đá quý…cũng được tính toán như vậy.
+ Các khoản phải thu: Do khả năng đòi nợ của các khoản này có thể ở nhiều mức độ khác nhau. Vì vậy, bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phảI thu nhằm loại ra những khoản mà doanh nghiệp không có khả năng đòi được hoặc khả năng đòi được là quá mong manh.
+ Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: Về mặt nguyên tắc phải thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với các doanh nghiệp hiện đang sử dụng các khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ nhất đã đề cập ở trên.
+ Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản: tính theo phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai.
+ Các tài sản vô hình: Theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến các lợi thế thương mại của doanh nghiệp.
Sau cùng giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của các tài sản đã được xác định trừ đi các khoản nợ phản ánh ở bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của tài sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
* Ưu điểm của phương pháp xác định giá trị tài sản thuần:
- Nó chứng minh được: Giá trị DN là một lượng tài sản có thật
- Nó chỉ ra được giá trị tối thiểu của doanh nghiệp
- Thích hợp với những doanh nghiệp nhỏ, ít tài sản vô hình.
* Nhược điểm của phương pháp xác định giá trị tài sản thuần:
- Đánh giá giá trị doanh nghiệp trong trạng thái tĩnh.
- Không xây dựng được những cơ sở thông tin đánh giá về triển vọng sinh lời của doanh nghiệp.
- Trong nhiều trường hợp, kỹ thuật đánh giá quá phức tạp, chi phí tốn kém, thời gian kéo dài.
d) Phương pháp hệ số P/E
* Cơ sở phương pháp luận:
- Giá cả chứng khoán chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, giá cả chứng khoán thường không phản ánh đúng giá trị của DN đã phát hành.
- Nếu thị trường chứng khoán hoàn hảo, tức là thoả mãn 5 điều kiện:
+ Có vô số người mua và ngời bán.
+ Các loại chứng khoán có thể thay thế được cho nhau.
+ Chứng khoán và thông tin được lưu thông tự do.
+ Người ta có thể mua bán chúng vào bất kỳ lúc nào và nơi nào.
+ Mọi thành viên tham gia thị trường đều nắm được các điều kiện giao dịch mua bán chứng khoán.
Khi đó, giá cả chứng khoán chỉ phản ánh cung cầu thuần tuý, thì có thể được sử dụng để ước lượng giá trị DN.
* Phương pháp xác định:
Tỷ số PER được gọi là tỷ số giá/thu nhập, cho biết thị trường sẵn sàng trả giá bao nhiêu cho một đồng thu nhập được tạo ra của DN
Giá trị DN = Lợi nhuận dự kiến đạt được ´ PER (quá khứ)
Trong đó:
+ P : Giá mua bán cổ phần trên thị trường;
+ EPS: Thu nhập dự kiến của mỗi cổ phần, và bằng lợi nhuận thuần dự kiến chia cho số lượng cổ phần đang lưu hành.
* Ưu điểm:
- Cho kết quả nhanh chóng để ra quyết định kịp thời.
- Phương pháp PER dựa trên cơ sở giá trị thị trường bằng cách so sánh trực tiếp.
* Nhược điểm:
- Mang nặng tính kinh nghiệm.
- Dựa vào tỷ số PER không thể giải thích được vì sao cũng là một đồng lợi nhuận, nhưng ở DN này PER= 20, tức là được trả với giá gấp 20 lần, trong khi với DN khác, thị trường lại sẵn sàng trả tới 30 lần hoặc hơn nữa.
- Phương pháp PER cũng không đa ra được những cơ sở để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá về khả năng tăng trưởng và rủi ro tác động tới giá trị DN.
Kết luận: Xác định giá trị doanh nghiệp là một việc làm đặc biệt phức tạp. Có rất nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để xác định giá trị doanh nghiệp. Nhưng các phương pháp đã nêu ở trên là những phương pháp cơ bản, có cơ sở lý luận rõ ràng, vững chắc và có tính khả thi cao trong thực tế. Mỗi một phương pháp đã đưa ra đều thích ứng với những hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp và tầm nhìn nhận của từng nhà đầu tư. Không có một phương pháp nào phù hợp trong mọi hoàn cảnh.
Kết quả xác định về giá trị doanh nghiệp có thể có sự chênh lệch rất lớn khi sử dụng các phương pháp khác nhau, và thậm chí ngay cả khi vận dụng cùng một phương pháp. Vì, kết quả tính toán được không chỉ phụ thuộc vào khả năng ước lượng với độ chính xác cao và các tham số đưa ra khảo sát, tức là phụ thuộc vào mặt kỹ thuật của bản thân từng phương pháp, mà còn phụ thuộc vào quan điểm đánh giá về mặt lợi ích của doanh nghiệp đối với từng nhà đầu tư và dự định riêng của họ đối với tương lai của doanh nghiệp.
Một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp được coi là tốt nhất nếu nó chỉ ra được những lợi ích thực sự mà doanh nghiệp sẽ mang lại cho nhà đầu tư, đồng thời nó cho phép người ta có cơ sở thực tiễn để lượng hoá những lợi ích đó. Có nghĩa là, nó được cả người mua và người bán cùng sử dụng như một cơ sở duy nhất để đàm phán về giá cả giữa đôi bên.
1.2.7 Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến công tác định giá doanh nghiệp.
a) Sự nhận thức của các chủ thể về định giá doanh nghiệp
Trước hết cần hiểu các chủ thể được đề cập đến ở đây chính là các nhà quản trị, các nhà đầu tư, các cơ quan Nhà nước… Việc nhận thức của họ có ảnh hưởng rất lớn đến công tác định giá. Mỗi chủ thể, đứng ở các vị trí khác nhau thường có những cái nhìn khác nhau về giá trị của doanh nghiệp. Nhìn chung có hai cách nhìn nhận chính ở đây, cách thứ nhất, xác định giá trị doanh nghiệp là giá bán doanh nghiệp. Do vậy công tác định giá doanh nghiệp cũng chính là công tác định giá bán. Phải khẳng định ngay rằng nhận thức này là sai bởi nó đi ngược lại với quy luật giá trị, “giá cả là hình thức biểu hiện của giá trị và biến động xung quanh giá trị đó”. Cách thứ hai, xác định giá trị doanh nghiệp là xác định giá gắn với giá thị trường và căn cứ vào giá trị thực tế của các yếu tố cấu thành. Khi một yếu tố thay đổi về số lượng hay chất lượng thì lập tức giá trị doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi luôn theo. Tuy nhiên sự thay đổi giá trị doanh nghiệp ít hay nhiều còn phụ thuộc vào tỷ trọng giá trị của các yếu tố cấu thành trong giá trị doanh nghiệp.
b) Loại hình và quy mô doanh nghiệp.
Nhân tố này trực tiếp tác động tới phương pháp định giá được áp dụng bởi không phải loại hình và quy mô doanh nghiệp nào cũng sử dụng một phương pháp định giá giống nhau. Thường thì các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với các đặc trưng tài sản chiếm phần nhiều là tài sản hữu hình do đó công tác định giá thường sử dụng phương pháp tài sản ròng. Còn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng thì tài sản hữu hình lại chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ so với tài sản vô hình (lợi thế thương mại, giá trị quyền sử dụng đất, thương hiệu…) do vậy thường sử dụng phương pháp định giá theo khả năng sinh lời.
Cũng giống như vậy, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường là các doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường và đã khẳng định được uy tín, chỗ đứng của mình vì vậy việc định giá thường sử dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu. Đối với các doanh nghiệp nhỏ thì sử dụng phương pháp tài sản ròng lại dễ dàng và cho hiệu quả cao hơn.
Việc lựa chọn phương pháp định giá thích hợp có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tính toán được. Lựa chọn phương pháp càng phù hợp thì kết quả càng cao và ngược lại.
c)Tính chất đặc thù của các loại tài sản định giá.
Tài sản thường gắn với loại hình hoạt động của mỗi doanh nghiệp, ví dụ doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực chế tạo khuôn máy, ép nhựa sẽ có các loại máy riêng, doanh nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm lại sử dụng các loại máy riêng trong khi đó ở các doanh nghiệp kinh doanh thương mại lại thưởng có rất ít tài sản cố định. Mỗi loại tài sản này có những tính chất, xuất xứ rất khác nhau và rất khó đánh giá, nhất là những tài sản được nhập khẩu từ nước ngòai vào và tại thời điểm định giá không còn bán trên thị trường, trong trường hợp đó, thẩm định viên rất khó để xác định được giá trị chính xác của tài sản trên. Để có thể đưa ra được kết quả đánh giá có tính thuyết phục thì thẩm định viên cần tham khảo thêm ý kiến của các chuyên gia.
d) Môi trường kinh tế pháp lý.
Đây là một nhân tố tương đối quan trọng. Nó có ảnh hưởng lớn đến các nhân tố trên và do vậy tác động tới công tác định giá doanh nghiệp. Môi trường pháp lý ở đây chính là hệ thống các văn bản, các quy định, điều chỉnh trực tiếp hoạt động định giá.
Hệ thống pháp lý càng đầy đủ, thống nhất thì càng làm cơ sở đảm bảo cho công tác định giá. Tính thống nhất thể hiện ở nội dung, quy định của từng văn bản và giữa các văn bản với nhau. Bên cạnh đó, ngoài những văn bản định hướng như Nghị định cần có những thông tư hướng dẫn cụ thể các vấn đề về tổ chức thực hiện.
Vấn đề thông tin trong nền kinh tế cũng rất quan trọng, thông tin càng hoàn hảo thì công tác định giá càng đạt được độ chính xác cao và tiến trình thực hiện càng diễn ra nhanh chóng, doanh nghiệp được định giá cũng như các nhà thẩm định sẽ tránh được các rủi ro có thể gặp phải.
e) Trình độ của cán bộ định giá.
Con người luôn là nhân tố quan trọng và có tính chất quyết định đến chất lượng của mỗi hoạt động trong đời sống. Công tác định giá vốn là một công việc hết sức phức tạp và mang tính nghệ thuật vì vậy giá trị doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào trình độ cũng như tính chuyên nghiệp của cán bộ định giá. Cán bộ định giá có chuyên môn sâu và thâm niên cao sẽ có kinh nghiệm và tính nhạy bén trong xử lý những tác động bất thường đến công tác định giá. Họ cũng sẽ có được sự phán đoán dự trên những xu hướng biến động tài sản, thị trường một cách linh hoạt. Mặt khác, khi trình độ của các cán bộ định giá ở mức cao, họ sẽ có sự lựa chọn các phương pháp định giá thích hợp, giá trị của doanh nghiệp nhờ đó mà được xác định chính xác hơn, đảm bảo khách quan hơn. Các tổ chức định giá cần đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ những cán bọ của mình để họ có điều kiện nâng cao trình độ từ đó đạt tới sự chính xác cao hơn trong công tác định giá doanh nghiệp.
1.3 Nội dung công tác định giá doanh nghiệp.
Do sự phụ thuộc của giá trị vào nhiều yếu tố do vậy mà việc xác định giá trị doanh nghiệp đòi hỏi phải trải qua một quá trình phân tích, tính toán và ra quyết định. Quá trình định giá gồm một số giai đoạn và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau vừa là kết quả, vừa là sự kiểm chứng cho hoạt động của giai đoạn trước. Cụ thể:
1.3.1 Xác định nhiệm vụ.
Xác định mục tiêu của việc định giá. Việc lựa chọn mục tiêu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nội dung các công việc cần tiến hành, quá trình và biện pháp thực hiện và do đó ảnh hưởng đến kết quả của định giá. Trước hết cần khẳng định kết quả của định giá sẽ phục vụ cho công việc nào: Cổ phần hóa, cho thuê hay bán doanh nghiệp,..để phục vụ cho việc lập kế hoạch. Đồng thời cần thấy rằng, mục tiêu của định giá phải thỏa mãn mối quan tâm và quyền lợi của một bên hữu quan cụ thể bởi lẽ giá trị doanh nghiệp là mức độn hữu ích của nó đối với riêng họ mà thôi.
1.3.2 Thiết lập cơ sở và lên kế hoạch cho việc định giá.
Giai đoạn này bao gồm các công việc sau:
Lựa chọn phương pháp định giá. Mỗi phương pháp định giá cho ta một loại thông tin riêng về giá trị của doanh nghiệp. Phương pháp định giá được chọn tùy thuộc vào mục tiêu định giá và các đặc điểm của doanh nghiệp, của ngành và một số yếu tố vi mô khác. Ngoài ra tình trạng sẵn có và đặc điểm của thông tin cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp, thiết lập thông số kỹ thuật làm cơ sở cho việc tính toán.
Lập kế hoạch để thực hiện việc định giá. Để đảm bảo được kết quả tốt quá trình định giá phải được tiến hành theo một kế hoạch. Tất nhiên kế hoạch này có thể được điều chỉnh, bổ sung trên cơ sở các phản hồi trong quá trình thực hiện.
1.3.3 Phân tích bên trong.
Phân tích bên trong nhằm nhận định chuỗi giá trị của doanh nghiệp, năng lực khác biệt của nó từ đó phát hiện các điềm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Chuỗi giá trị là một khái niệm được nhắc đến rất nhiều trong định giá, nó được chia làm hai nhóm các hoạt động: Các hoạt động chính và các hoạt động hỗ trợ.
Các họat động chính có liên quan đến sự sáng tạo có tính vật chất tạo ra sản phẩm hoạt động tiếp thị và chuyển giao sản phẩm đến tay người mua, các dịch vụ sau bán hàng. Nhóm các hoạt động hỗ trợ có nhiệm vụ cung cấp đầu vào để cho các hoạt động chính có thể được tiến hành.
1.3.4 Phân tích bên ngoài.
Môi trường của một doanh nghiệp bao gồm môi trường ngành, môi trường pháp lý và các môi trường vĩ mô mà trong đó doanh nghiệp hoạt động. Môi trường đó bao gồm các nhân tố trực tiếp tác động đến doanh nghiệp như đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà cung cấp và các sản phẩm thay thế. Môi trường vĩ mô bao gồm các nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội và công nghệ.
Nhờ có sự phân tích bên ngoài mà người ta có thể nhận dạng được các cơ hội và hiểm họa của doanh nghiệp từ đó có thêm thông tin để dự báo viễn cảnh sự phát triển của doanh nghiệp.
1.3.5 Nhận định khái quát.
Đây là giai đoạn đánh giá chung về DN. Nội dung của nó bao gồm:
Nhận định về kinh tế và thương mại: Nghiên cứu tác động cụ thể của các chính sách kinh tế và thương mại của chính phủ đến doanh nghiệp, vai trò của đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà cung cấp và các sản phẩm thay thế trong ngắn hạn, dài hạn. Khuynh hướng biến đổi của các yếu tố đó cũng cần được xem xét.
Nhận định về công nghệ và công tác quản lý của doanh nghiệp để so sánh với bối cảnh chung của toàn ngành, của cả nước và khuynh hướng thế giới. Nhận định tình trạng thực tế của các tài sản, phân loại tài sản theo các tiêu chí thuận tiện cho việc kiểm kê đánh giá lại. Xem xét khả năng trực tiếp tham gia sản xuất của các tài sản, đặc biệt là các tài sản cố định như nhà xưởng, thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, dây chuyền công nghệ.
1.3.6 Nhận định chuyên sâu.
Nhận định chuyên sâu ở đây là nhận định nội tại mà chủ yếu về mặt kế toán tài chính nhằm phục vụ cho việc ước lượng giá trị doanh nghiệp. Nội dung của giai đoạn này bao gồm:
- Phân tích vị thế tài chính của doanh nghiệp ở thời điểm định giá.
- Tính và đánh giá các chỉ tiêu tài chính.
- Tổng kết các kết quả hoạt động quá khứ và hiện tại của doanh nghiệp.
Đây là một giai đoạn rất quan trọng trong quy trình định giá vì nó sẽ cung cấp các thông tin tài chính để đánh giá sức mạnh tài chính của doanh nghiệp và dự báo viễn cảnh phát triển của doanh nghiệp trong một tương lai xác định. Công tác nhận định chuyên sâu được tiến hành một phần dựa trên kết quả phân tích bên trong và bên ngoài doanh nghiệp ở phần trước.
1.3.7 Dự báo viễn cảnh.
Dự báo viễn cảnh là nhận định các khuynh hướng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp và các kết quả kỳ vọng, trong đó trọng tâm là thu nhập doanh nghiệp. Nội dung của giai đoạn này bao gồm.
Nhận dạng vị thế của doanh nghiệp trong tương lai.
Xây dựng các kế hoạch phát triển.
Dự báo kết quả hoạt động thông qua các báo cáo tài chính dự kiến được hình thành trên cơ sở kế hoạch đã xây dựng.
Kiểm tra độ tin cậy, tính hợp lý của các kịch bản và kết quả dự báo
1.3.8 Hoàn tất công việc định giá.
Mục tiêu của giai đoạn này là rà soát tính đúng đắn của phương pháp tính và kết quả tính toán được. Nhiệm vụ chủ yếu của các chuyên viên là kiểm tra tính chính xác và hợp lý của kết quả ước tính giá trị doanh nghiệp. Cần phải làm rõ các rủi ro tiềm tàng chưa được đề cập đến trong quá trình làm việc và có sự xét đoán, tính toán lại nếu cần.
Lập báo cáo cuối cùng và các khuyến nghị cho tương lai. Các kết quả đã đạt được cũng cần được kiểm tra, đối chiếu lại để đảm bảo thỏa mãn các yêu cầu ban đầu và trình bày theo các tiêu chuẩn phù hợp với mục tiêu đã chọn.
Trên cơ sở các thông tin thu lượm được trong quá trình định giá, tiến hành rút ra các bài học kinh nghiệm cho các hoạt động tiếp theo.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM.
2.1 Giới thiệu chung về công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
2.1.1 Giới thiệu chung về công ty.
Công ty TNHH Kiểm toán và định giá Việt Nam tên giao dịch quốc tế là Auditting and Evaluation Limited company (VAE) hiện có trụ sở chính tại tầng 11 Tòa nhà Sông Đà, số 165 Cầu Giấy, Hà Nội được thành lập ngày 21/12/2001 trên cơ sở giấy phép kinh doanh số 0103000692 do Sở Kế hoạch và Đầu Tư Hà Nội cấp.
Trải qua nhiều thăng trầm và biến động, cho đến nay công ty đã xây dựng được uy tín và vị trí của mình. Thế mạnh của công ty đã được khẳng định trong việc đa dạng hóa dịch vụ cung cấp, với gần 40 danh mục dịch vụ đã được khách hàng sử dụng trong 7 năm qua. Được các cơ quan chức năng đánh giá là Hãng kiểm toán và định giá hàng đầu Việt Nam.
Theo số liệu của Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán công bố ngày 04/08/2006: Đến thời điểm ngày 31/12/2005, công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam có lượng khách hàng thường xuyên là 450 khách hàng - Là 01 trong danh sách 10 công ty Kiểm toán có lượng khách hàng lớn nhất trong số các công ty Kiểm toán đang hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng của công ty rất đa dạng, gồm các công ty lien doanh, Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các tổng công ty và Doanh nghiệp Nhà nước, Công ty Cổ phần, Công ty TNHH, …
VAE là 01 trong 13 Công ty Kiểm toán đầu tiên được chấp thuận kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam theo công văn số 724/QĐ-UBCK ngày 30/11/2006 của Uỷ ban Chúng khoán Nhà nước.
VAE là 01 trong 47 tổ chức có đủ điều kiện thực hiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp năm 2006 theo Công văn số 5257/QĐ-BTC ngày 30/12/2005 của Bộ Tài Chính.
VAE cũng là 01 trong 11 tổ chức có đủ điều kiện thực hiện Thẩm định giá - Đợt 1 năm 2006 theo công văn số 263/TB-BTC ngày 07/08/2006 của Bộ Tài Chính.
Ngoài trụ sở chính tại Hà Nội, hiện nay công ty còn có 3 văn phòng đại diện tại các Tỉnh:
Văn Phòng tại TP. Hồ Chí Minh
P.213 Lô 2 Chung cư 1 Bis 1 kep đường Nguyễn Đình Chiểu phường Đa Kao - quận 1 - TP. Hồ Chí Minh
ĐT: (84-8) 9101421 Fax: (84-8) 9101421
Văn Phòng tại TP. Đà Nẵng
Số 9 - đường 2/9 - quận Hải Châu – TP. Đà Nẵng
ĐT: (84-511) 3246505 Fax: (84-511) 3572122
Văn Phòng tại Thị xã Sơn La
Số 266 – đừong Tô Hiệu – Phường Tô Hiệu – TX Sơn La
ĐT: (84-22) 852425 Fax: (84-22) 862426
Với mạng lưới các văn phòng này, công ty luôn đảm bảo bố trí kịp thời các cán bộ nhân viên phục vụ theo yêu cầu của khách hàng từ Bắc vào Nam trên lãnh thổ Việt Nam.
Công ty chuyên cung cấp các dịch vụ chủ yếu như:
Dịch vụ kiểm toán độc lập
Dịch vụ Định giá tài sản
Dịch vụ kế toán
Tư vấn tài chính kế toán thuế
Tư vấn đầu tư
Đào tạo giới thiệu việc làm trong lĩnh vực kế toán, tài chính, thuế, kiểm toán, chứng khoán, bảo hiểm.
Lập, tư vấn và quản lý, tổ chức thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, lập tổng dự toán, thẩm định lập dự toán, giám sát thi công.
Mục tiêu hoạt động của công ty:
Công ty không ngừng nâng cao lợi ích hợp pháp của các thành viên
Tăng tích lũy, không ngừng phát triển chất lượng các dịch vụ
Góp phần làm trong sạch nền tài chính quốc gia, thực hiện đúng, đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định.
Nguyên tắc tổ chức hoạt động của công ty:
Công ty tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ và tôn trọng pháp luật
Cơ quan quyết định cao nhất của công ty là Đại hội đồng Thành viên.
Ban kiểm soát của công ty là cơ quan kiểm soát hoạt động của công ty do Hội đồng thành viên bầu và miễn nhiệm.
Tổng giám đốc của Công ty do Hội đồng thành viên bổ nhiệm, miễn nhiệm và là người điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
Các phó giám đốc, kế toán trưởng do tổng giám đốc chỉ định và được sự phê chuẩn của hội đồng thành viên.
2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển.
Giai đoạn đầu (từ khi thành lập cho đến đầu năm 2004)
Ngày 21 tháng 12 năm 2001 công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam được thành lập, có trụ sở chính tại 466 Nguyễn Chí Thanh, quận Đống Đa, Tp Hà Nội. Lúc đó công ty có khoảng 10 nhân viên với mức vốn điều lệ là 1tỷ đồng được chia làm mười nghìn cổ phần và phát hành dưới hình thức cổ phiếu. Trong thời gian này công ty quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn khác nhau như: kiểm toán tài chính, tư vấn định giá, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản và các bộ phận có liên quan khác.
Năm 2002, công ty chuyển trụ sở đến số nhà 5, dãy D số 142 đường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội. Trong năm 2003 công ty tứng bước ổn định lại tình hình và bắt đầu kinh doanh có lãi, phát triển theo đúng mục tiêu và định hướng đề ra.
Giai đoạn sau (từ cuối năm 2004 đến nay)
Cuối năm 2004, công ty đã mua tầng 11 Tòa nhà Sông Đà, số 165 đường Cầu Giấy, Hà Nội, đây là trụ sở chính của công ty. Cũng trong năm này, công ty đã tăng vốn điều lệ lên hai tỷ đồng và có những sự thay đổi lớn về mặt tổ chức, quản lý, công ty thực hiện khoán doanh thu, khoán các khoản chi phí như chi điện thoại, chi công tác phí và một số chi phí khác về các phòng nghiệp vụ. Ngoài ra công ty còn thực hiện khoán quỹ lương cho các phòng, chính điều này đã làm tăng hiệu quả công việc và nâng cao trách nhiệm của các cán bộ nhân viên trong công ty. Để phù hợp cho việc quản lý, công ty đã tiến hành chia đều các chuyên môn nghiệp vụ về các phòng, theo đó mỗi phòng đều có thể thực hiện các dịch vụ như: tài chính, xây dựng, định giá, tư vấn…
Đến ngày 15/09/2006 công ty chính thức đổi tên thành Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0102026184 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp. Vốn điều lệ là 3 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ đóng góp của các thành viên là:
STT
Thành viên
Chức vụ
Số tiền đóng góp
Tỷ lệ %
1
Ô. Phạm Ngọc Toản
Chủ tịch
1.200.000.000
40%
2
Ô. Trần Quốc Tuấn
TGĐ
600.000.000
20%
3
Ô. Nguyễn Hồng Thái
600.000.000
20%
4
Ô. Phạm Hùng Sơn
78.000.000
2.6%
5
B.Nguyễn Thị Hồng Vân
72.000.000
2.4%
6
B.Phạm Thanh Ngọc
450.000.000
15%
Qua gần 7 năm hoạt động và phát triển công ty ngày càng chứng minh được vị thế của mình trên thị trường và với các đối thủ cạnh tranh. Với đội ngũ lãnh đạo đã có nhiều năm làm việc trong các Công ty Kiểm toán Quốc tế và Việt Nam, trên 130 nhân viên chuyên nghiệp được đào tạo cơ bản và có hệ thống, trình độ nghiệp vụ cao ( 16 người có chứng chỉ kiểm toán viên toán viên quốc gia, 5 người có chứng chỉ thẩm định viên về giá, 1 tiến sỹ, 7 thạc sỹ ..), ngoài ra công ty còn có một đội ngũ các cộng tác viên, các chuyên gia bên ngoài có năng lực và chuyên môn cao sẵn sang tham gia hỗ trợ trong các dự án lớn, các hợp đồng có tính chất quan trọng cùng công ty.
Trong thời gian qua uy tín và thương hiệu của VAE đã được khẳng định thể hiện qua chất luợng dịch vụ mà công ty cung cấp tới khách hàng. Chỉ tính riêng trong năm 2007 vừa qua, công ty đã cung cấp dịch vụ cho 466 khách hàng lớn nhỏ với gần hơn 520 hợp đồng. Doanh thu của công ty không ngừng tăng lên (trung bình từ 1,8 đến 2,1 lần) cụ thể:
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Doanh thu
10.115.687.960
11.760.132.496
24.489.124.675
LNTT
1.013.167.070
1.791.015.982
5.245.239.790
Bảng 1: Doanh thu của công ty một số năm
Theo đó, sự đóng góp của các lĩnh vực tư vấn và định giá vào doanh thu chung có xu hướng tăng hơn so với năm 2006. Cụ thể:
Các loại dịch vụ
Cơ cấu doanh thu của các năm (%)
2005
2006
2007
Kiểm toán báo cáo tài chính
55
53
47
Kiểm toán quyết toán và đầu tư XDCB
25
24
20
Dịch vụ định giá
10
12
18
Dịch vụ tư vấn
5
5
6
Dịch vụ khác
5
6
9
Bảng 2: Bảng cơ cấu doanh thu
Đối với dịch vụ định giá, từ mức tỷ trọng đóng góp trong doanh thu chung là 10% vào năm 2005, đến năm 2007, con số đó đã tăng lên là 18%, nguyên nhân của sự tăng này là do trong thời gian gần đây nước ta đang đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, đòi hỏi các danh nghiệp phải được định giá, hơn nữa đối với mỗi doanh nghiệp tận dụng được tốt nhất lợi thế của đòn bẩy tài chính bằng việc sử dụng nợ luôn là ưu tiên số một vì thế các doanh nghiệp cũng thuê các công ty, các tổ chức định giá để có thể vay tiền Ngân hàng…Chính xu thế đó đã tạo điều kiện cho dịch vụ này phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua.
Ở mảng dịch vụ tư vấn, tuy mức tăng không nhiều (1%) nhưng cũng cho thấy rằng công ty đã thành công trong việc thu hút khách hàng đến với dịch vụ này bởi như chúng ta đã biết, trước sự cạnh tranh rất lớn của thị trường, hầu hết các công ty Kiểm toán đều xem việc tư vấn cho khách hàng như một món quà “khuyến mại” để lôi kéo khách hàng đến với các dịch vụ khác. Chính vì thế mà trong thời gian tới, công ty cần nâng cao hơn nữa chất lượng của nhóm dịch vụ này để có thể mở rộng quy mô, tăng sự đóng góp vào doanh thu chung của cả công ty.
Tình hình phát triển khách hàng của công ty
Khách hàng của công ty rất đa dạng và có số lượng tương đối lớn, bao gồm các công ty liên doanh, các doanh nghiệp 100% vốn nưóc ngoài, các tổng công ty và các doanh nghiệp Nhà nước, các công ty cổ phần, công ty TNHH, hợp tác xã, dự án vay, tài trợ không hoàn lại của các Ngân hàng và các tổ chức phi Chính phủ, các dự án lớn của các Bộ, Ngành…
Công ty thực hiện việc phát triển khách hàng thông qua nhiều hình thức khác nhau:
Đối với các khách hàng mới, các khách hàng thông qua sự quen biết, sự giới thiệu, công ty gửi thư chào hàng hoặc hồ sơ giới thiệu năng lưc để khách hàng có thể nắm bắt được những thông tin chung nhất về công ty, các dịch vụ mà công ty có khả năng cung cấp. Tiếp đó, công ty đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu xem khách hàng của mình cần những dịch vụ gì để tiến hành tư vấn cho họ. Đối với các khách hàng lâu năm, các bạn hàng quen thuộc, công ty tạo niềm tin và sự gắn bó với khách hàng bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp.
Bên cạnh đó, việc tiếp cận thường xuyên với các Tổng công ty, các doanh nghiệp cũng được duy trì nhằm cung cấp cho họ những dịch vụ về định giá tài sản khi tiến hành cố phần hóa, định giá tài sản để thế chấp khi vay Ngân hàng…, tiếp cận các Tổ chức tài chính để tạo mối quan hệ nhằm tìm kiếm khách hàng thông qua sự giới thiệu của các tổ chức này.
Công ty đánh giá cao việc hợp tác với các Công ty kiểm toán quốc tế, thông qua các cơ hội hợp tác với các công ty như KPMG, Deloittle, Grant Thornton…
Phương châm của công ty là: Tạo niềm tin cho khách hàng thông qua chất lượng các dịch vụ mà công ty cung cấp và phong cách phục vụ khách hàng.
Ngoài ra đề giảm bớt rủi ro trong kinh doanh do tính đặc thù của ngành Kiểm toán, công ty cũng đã mua bảo hiểm đầy đủ.
2.1.3 Tổ chức bộ máy quản lý và chức năng của các Phòng, Ban trong công ty
Để tạo ra những biến chuyển có tính tích cực, năm 2004 công ty đã thay đổi cơ chế quản lý theo hướng mới, sơ đồ tổ chức như sau:
Hội đồng thành viên: Là cơ quan cao nhất trong công ty, có toàn quyền quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh của công ty, có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với Tổng giám đốc và các chức danh khác trong công ty
Tổng giám đốc: Là người do Hội đồng thành viên lựa chọn thay mặt Hội đồng thành viên trực tiếp quản lý các hoạt động trong công ty. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về mọi hoạt động trong quyền hạn và nhiệm vụ của mình
Các phó tổng giám đốc: Là người hỗ trợ cho Tổng giám đốc, phụ trách các phòng nghiệp vụ, các văn phòng đại diện của công ty đồng thời thay mặt Tổng giám đốc thực hiện các công việc khi Tổng giám đốc đi vắng. Hai phó tổng giám đốc mỗi người phụ trách một lĩnh vực: Tài chính và Xây dựng.
Hội đồng khoa học: Là bộ phận rất quan trọng trong việc tham mưu cho Ban giám đốc về các quyết định kinh doanh. Hội đồng khoa học còn tham gia tư vấn và cải tiến chương trình kiểm toán, đào tạo cán bộ trong công ty
Các Văn phòng đại diện: Có nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng, ký kết các hợp đồng. Sau khi kí kết hợp đồng thì công ty sẽ cử các kiểm toán viên ở trụ sở chính đến kiểm toán.
Các phòng nghiệp vụ: Là bộ phận trực tiếp thực hiện hợp đồng kinh doanh, trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách hàng và tạo ra lợi nhuận cho công ty dưới sự chỉ đạo của các Phó tổng giám đốc. Tại mỗi phòng nghiệp vụ đều có các dịch vụ: kiểm toán, tư vấn, định giá,…
Phòng tổng hợp: Bao gồm bộ phận kế toán và bộ phận hành chính. Trong đó bộ phận kế toán giúp ban giám đốc quản lý hoạt động tài chính của công ty, kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu tài chính, theo dõi sự biến động của tài sản, nguồn vốn… bộ phận hành chính, lễ tân có nhiệm vụ tiếp đón khách, kiểm tra quản lý các giấy tờ, công văn được gửi đến công ty và chuyển cho những người có liên quan.
Sơ đồ bộ máy tổ chức Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam
(trang sau)
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
Phòng nghiệp vụ I
Phòng nghiệp vụ II
Phòng nghiệp vụ III
Phòng nghiệp vụ IV
Phòng tổng hợp
TX Sơn La
Tp. Đà Nẵng
Tp.Hồ Chí Minh
Kiểm toán báo cáo tài chính
Dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác
Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư
Bộ phận kế toán
Bộ phận hành chính, lái xe, lễ tân
Hội đồng khoa học
2.1.4 Dịch vụ tư vấn định giá
Tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam, dịch vụ tư vấn định giá ra đời từ những ngày đầu tiên thành lập cùng với các dịch vụ về tư vấn Thuế, tư vấn tài chính,… Tuy vậy, trong những ngày đầu tiên, tỷ lệ doanh thu mà dịch vụ này đóng góp chưa cao, nguyên nhân chính là do vào thời điểm đó dịch vụ này còn chưa phát triển, nhu cầu về định giá còn chưa cao. Hầu hết các doanh nghiệp định giá nhằm mục đích vay vốn ngân hàng và các doanh nghiệp thường để chính các ngân hàng trực tiếp tham gia định giá. Trong vòng 3, 4 năm trở lại đây, từ chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước mà nhu cầu này trở lên tăng đột biến, thêm nữa là do sự lớn mạnh của thị trường tài chính cũng góp phần làm gia tăng thêm các hoạt động về định giá khác (định giá để mua bảo hiểm, định giá để nhượng bán, định giá để vay tiền…)
Trong thời gian sắp tới, công ty dự định sẽ khai thác nhiều hơn các hợp đồng ở mảng dịch vụ này, nâng tỷ lệ đóng góp vào doanh thu chung cho công ty là khoảng 20%. Công ty đang có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho các chuyên viên trong lĩnh vực định giá để nâng cao tính chuyên nghiệp khi thực hiện các hợp đồng với khách hàng, đảm bảo cho khách hàng có được sự hài lòng và niềm tin lớn nhất vào công ty.
2.2 Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
2.2.1 Cơ sở pháp lý để xác định giá trị doanh nghiệp
Tại VAE thì phương pháp áp dụng chủ yếu để xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp tài sản thuần theo giá thị trường có tính đến lợi thế kinh doanh dựa trên các căn cứ:
Căn cứ Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của Chính phủ về Thẩm định giá;
Căn cứ Thông tư số 17/2006/TT-BTC ngày 13/3/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của Chính phủ về Thẩm định giá;
Căn cứ các Tiêu chuẩn Thẩm định giá Việt Nam do Bộ Tài chính ban hành;
- Căn cứ Hợp đồng kinh tế số /CI-VAE ngày giữa Công ty X với Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam về việc xác định giá trị doanh nghiệp Công ty X tại thời điểm Y
- Căn cứ Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty Cổ phần, Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 95/2006/TT-BTC ngày 12/10/2006 sửa đổi, bổ xung Thông tư số 126/2004/TT-BTC;
- Và các văn bản, các tài liệu liên quan khác tuỳ vào từng loại hình, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2.2 Trình tự tiến hành
Tại VAE thì phương pháp áp dụng chủ yếu để xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp tài sản thuần theo giá thị trường có tính đến lợi thế kinh doanh. Căn cứ vào tình hình của doanh nghiệp định giá, sau khi đi đến những thỏa thuận và ký kết hợp đồng, công việc thẩm định sẽ được tiến hành như sau:
I. Công tác chuẩn bị.
- Xem xét việc chuẩn bị và giao nhận tài liệu tại văn phòng doanh nghiệp.
- Kiểm tra, sắp xếp tài liệu liên quan.
- Yêu cầu cung cấp tài liệu bổ sung (nếu thiếu).
II. Thực hiện.
Kiểm kê, xác định giá trị tài sản: Kiểm kê, xác định số lượng và chất lượng của tài sản đang sủ dụng thực tế tại doanh nghiệp; Xác định tài sản thừa thiếu so với sổ sách và bảng kê của doanh nghiệp; Đánh giá hiện trạng hoạt động, tình trạng kỹ thuật và giá trị còn lại của tài sản; Tham khảo giá trị thực tế của tài sản trên thị trường khu vực.
Làm rõ và thông qua với khách hàng các vấn để: Nhận giao hay thuê đất đối với từng khu đất; Làm rõ các khoản đầu tư vào công ty con, liên doanh, liên kết, đầu tư dài hạn khác có tiếp tục được kế thừa?
Xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp: Kiểm tra việc tổng hợp, phân loại tài sản đã kiểm kê theo các nhóm: Tài sản có nhu cầu sử dụng, Tài sản không cần dùng, Tài sản ứ đọng, Tài sản chờ thanh lý, Tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi, Tài sản thuê ngoài nhận gia công, giữ hộ…; Đối chiếu việc xác nhận và phân loại công nợ; Đánh giá và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng theo chế độ Nhà nước; Xem xét toàn bộ tình hình tài sản; Xem xét các khoản nợ phải thu khó đòi; Xem xét các khoản nợ phải trả; Xem xét các khoản dự phòng và lãi chưa phân phối; Xem xét tài sản vốn góp liên doanh, liên kết; Xem xét số dư bằng tiền của các quỹ; Tính toán giá trị quyền sử dụng đất…
Tập hợp số liệu làm việc với doanh nghiệp và các đơn vị có liên quan.
Lập báo cáo định giá dự thảo tại VAE và trao đổi lại thông tin với doanh nghiệp.
III. Soát xét và phát hành báo cáo
Trình tự soát xét dồm 3 bước: soát xét sơ bộ, soát xét chất lượng và soát xét cuối cùng. Sau đó báo cáo sẽ chính thức được phát hành và gửi đến cho doanh nghiệp.
Cụ thể:
Đối với doanh nghiệp Nhà nước
Thực hiện theo:
- Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
- Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định trên.
- Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/07/2002 của Chính phủ về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Thông tư số 95/2002/TT-BTC ngày 29/09/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định trên.
a) Tài sản là hiện vật:
a.1. Kiểm tra số dư và phân loại tài sản:
- Thu thập bảng tổng hợp TSCĐ phản ánh đầy đủ thông tin như: ĐVT, số lượng, năm sản xuất, nước sản xuất, năm đưa vào sử dụng, nguyên giá, khấu hao luỹ kế, giá trị còn lại của từng loại tài sản.
- Bảng tổng hợp trên phân thành từng loại:
+ Tài sản có nhu cầu sử dụng.
+ Tài sản không cần dùng.
+ Tài sản ứ đọng, chờ thanh lý.
+ Tài sản thuê ngoài, nhận giữ hộ.
+ Tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi
- Mỗi loại trên lại phân thành từng nhóm tài sản:
+ Nhà cửa vật kiến trúc.
+ Máy móc thiết bị.
+ Phương tiện vận tải.
+ Thiết bị quản lý.
+ Tài sản cố định khác.
- Thu thập bảng tổng hợp số lượng, giá trị của hàng tồn kho theo từng khoản mục: Nguyên liệu vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá, hàng gửi bán, vật tư hàng hoá nhận gia công, nhận giữ hộ, nhận ký gửi.
- Kiểm tra số tổng hợp trên các bảng kê với sổ chi tiết và Báo cáo tài chính, nếu có chênh lệch yêu cầu doanh nghiệp có sự giải trình.
a.2. Kiểm kê đánh giá lại tài sản:
- Căn cứ theo số lượng trong bảng kê tài sản, hàng tồn kho của doanh nghiệp, nhóm kiểm toán phối hợp cùng với doanh nghiệp tiến hành kiểm kê.
- Một số thông tin cần thu thập trong quá trình kiểm kê: nước sản xuất; năm sản xuất; năm đưa vào sử dụng; công suất hoặc đặc trưng kỹ thuật chủ yếu; tình trạng hoạt động của tài sản…
- Tuỳ theo số lượng tài sản cố định và địa điểm sử dụng tài sản, có thể bố trí từ 2 đến 3 người triển khai thực hiện việc kiểm kê.
- Yêu cầu kiểm toán viên khi thực hiện kiểm kê, kết quả cuối cùng đạt được phải thống nhất được với khách hàng và cùng ký vào biên bản kiểm kê.
b) Tài sản bằng tiền:
- Thu thập biên bản kiểm kê quỹ tiền mặt tại thời điểm xác định định giá, bảng kê chi tiết số dư tiền gửi ngân hàng.
- Đối chiếu sổ phụ ngân hàng với sổ chi tiết của khách hàng và Báo cáo tài chính.
- Gửi thư xác nhận số dư tiền gửi ngân hàng.
- Đối với các tài khoản tiền có số dư ngoại tệ: thực hiện đánh giá lại từng loại ngoại tệ theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá.
c) Công nợ phải thu:
c.1. Kiểm tra số dư và việc phân loại công nợ phải thu
- Thu thập bảng tổng hợp số dư công nợ phải thu theo phân loại từng nhóm: Phải thu tạm ứng, phải thu khách hàng, trả trước cho người bán, phải thu nội bộ, phải thu khác
- Bảng tổng hợp phải có các thông tin sau: tên đối tượng nợ, năm phát sinh, số tiền
- Kiểm tra số tổng hợp so với sổ chi tiết và Báo cáo tài chính.
- Phân loại nợ phải thu có khả năng thu hồi và nợ khó đòi, không có khả năng thu hồi.
c.2. Kiểm tra việc đối chiếu công nợ
- Thu thập các biên bản đối chiếu công nợ phải thu đối với từng nhóm.
- Trường hợp khách hàng chưa thực hiện đối chiếu công nợ tại thời điểm định giá thì KTV lập thư đối chiếu công nợ và gửi đến các đối tượng.
c.3. Kiểm tra các khoản nợ phải thu khó đòi
- Thu thập bảng tổng hợp các khoản nợ phải thu khó đòi.
- Kiểm tra các hồ sơ chứng từ có liên quan tới việc không có khả năng thu hồi, đánh giá tính hợp lý của hồ sơ chứng từ theo quy định của nhà nước về xử lý nợ tồn đọng.
c.4. Kiểm tra các khoản phải thu có số dư ngoại tệ:
- Thực hiện việc đánh giá lại công nợ phải thu có gốc ngoại tệ theo tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá.
- Đối với ngoại tệ không có tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thì tính theo tỷ giá tính chéo.
c.5 Căn cứ xác định các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi:
Căn cứ để xác định các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi quy định tại Nghị định số 69/2002/NĐ- CP của Chính phủ và Thông tư số 85/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính:
- Tài liệu chứng minh khoản nợ tồn đọng đến thời điểm ngày 31/12/2000 (đối với doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động) và đến thời điểm xử lý nợ chưa thu được hoặc đến thời điểm chuyển đổi (đối với doanh nghiệp chuyển đổi) chưa thu được là: Biên bản đối chiếu nợ được chủ nợ và khách nợ xác nhận hoặc Bản thanh lý hợp đồng kinh tế hoặc xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp, tổ chức hoặc các tài liệu khách quan khác chứng minh được số nợ tồn đọng và các giấy tờ tài liệu liên quan.
- Sổ kế toán, chứng từ, tài liệu chứng minh khoản nợ chưa thu hồi được, đến thời điểm xử lý nợ doanh nghiệp đang hạch toán nợ phải thu trên sổ kế toán của doanh nghiệp.
- Tài liệu chứng minh khoản nợ phải thu quá hạn hoặc chưa quá hạn thuộc một trong các trường hợp sau đây coi là khoản nợ không có khả năng thu hồi:
+ Đối với khoản nợ mà khách nợ là doanh nghiệp, tổ chức đã giải thể, phá sản:
+ Quyết định hoặc thông báo giải thể của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp, tổ chức hoặc quyết định phá sản doanh nghiệp của toà án (bản sao có ký tên, đóng dấu của doanh nghiệp - dưới đây gọi tắt là bản sao). Trường hợp tự giải thể thì có thông báo của doanh nghiệp hoặc xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp, tổ chức;
+ Đối với doanh nghiệp đang hoạt động, phải có thêm tài liệu chứng minh khách nợ là doanh nghiệp, tổ chức đã hoàn thành việc giải thể, phá sản nhưng chưa thanh toán hết nợ cho doanh nghiệp: xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp, tổ chức hoặc của Toà án thụ lý phá sản doanh nghiệp.
+ Đối với khách nợ đã ngừng hoạt động và không có khả năng chi trả: Xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp hoặc tổ chức về việc doanh nghiệp, tổ chức đã ngừng hoạt động không có khả năng thanh toán.
+ Đối với khách nợ là cá nhân đã chết, mất tích, đang thi hành án phạt tù hoặc người thừa kế theo luật, nhưng không có khả năng chi trả theo phán quyết của Toà án:
+ Đối với khách nợ là cá nhân đã chết, có giấy chứng tử (bản sao) hoặc xác nhận đã chết của chính quyền địa phương;
+ Đối với khách nợ là cá nhân đã mất tích: văn bản tuyên bố mất tích của tòa án (bản sao) hoặc xác nhận của chính quyền địa phương;
+ Đối với khách nợ là cá nhân đã bỏ trốn khỏi địa phương: có lệnh truy nã của cơ quan công an (bản sao) hoặc xác nhận của công an xã, phường;
+ Đối với khách nợ là cá nhân đang thi hành án phạt tù: có Bản án thi hành án phạt tù của Toà án (bản sao); phán quyết của Toà án (bản sao) hoặc xác nhận của chính quyền địa phương về việc khách nợ hoặc người thừa kế không có khả năng chi trả.
+ Đối với khách nợ là Hợp tác xã nông nghiệp đã giải thể, Hợp tác xã nông nghiệp đã được chuyển đổi và đăng ký kinh doanh theo Nghị định số 16/CP ngày 12/ 02/1997 của Chính phủ nhưng quá khó khăn về tài chính, kinh doanh thua lỗ không có khả năng trả nợ, Hợp tác xã nông nghiệp đang hoạt động kinh doanh có lãi mà số tiền nợ này đã được sử dụng để đầu tư cơ sở hạ tầng, nhưng đến nay các cơ sở hạ tầng đó đã bị hư hỏng, thiệt hại do thiên tai, bão lụt tàn phá được Nhà nước cho xoá nợ. Tài liệu chứng minh là hồ sơ xử lý nợ theo hướng dẫn tại Thông tư số 31/2002/TT-BTC ngày 29/3/2002 của Bộ Tài chính hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền xoá nợ cho Hợp tác xã (bản sao).
+ Đối với các khoản nợ mà khách nợ đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định cho xoá nợ theo quy định của pháp luật: Quyết định của cơ quan có thẩm quyền xoá nợ cho khách nợ theo quy định của pháp luật (bản sao).
+ Đối với khoản chênh lệch còn lại của khoản nợ không thu hồi được sau khi đã xử lý trách nhiệm cá nhân, tập thể phải bồi thường vật chất: Quyết định xử lý nợ của Hội đồng quản trị hoặc Biên bản xử lý nợ của Hội đồng xử lý nợ doanh nghiệp hoặc quyết định của giám đốc doanh nghiệp xử lý trách nhiệm cá nhân, tập thể phải bồi thường vật chất (bản sao).
+ Khoản chênh lệch thiệt hại được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận do bán nợ phải thu: Hồ sơ khoản nợ và Hợp đồng mua bán nợ (bản sao).
+ Các khoản nợ phải thu mà dự toán chi phí đòi nợ lớn hơn giá trị khoản nợ phải thu: Các văn bản đôn đốc thanh toán nợ, dự toán chi phí đòi nợ của doanh nghiệp, Biên bản xử lý nợ của Hội đồng xử lý nợ doanh nghiệp (bản sao).
+ Các khoản nợ phải thu đã quá thời hạn thanh toán từ 3 năm trở lên kể từ khi đến hạn, tuy khách nợ còn tồn tại, đang hoạt động nhưng kinh doanh thua lỗ liên tục và quá khó khăn, hoàn toàn không có khả năng thanh toán, doanh nghiệp đã tích cực áp dụng các biện pháp nhưng vẫn không thu được nợ: Các tài liệu chứng minh khoản nợ tồn đọng đến thời điểm xử lý nợ đã quá hạn từ 3 năm trở lên chưa thu được; các văn bản đôn đốc đòi nợ của doanh nghiệp; báo cáo tài chính của khách nợ đã được kiểm toán (nếu có) hoặc có xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp về tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
c.6. Xử lý tài chính đối với khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi đối với doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện cổ phần hoá
- Các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi được xử lý bằng các nguồn theo thứ tự sau đây:
1. Dùng nguồn dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi bù đắp;
2. Nếu nguồn dự phòng các khoản phải thu khó đòi không đủ bù đắp, doanh nghiệp được hạch toán toàn bộ (xử lý 1 lần) số còn thiếu vào chi phí hoạt động kinh doanh trước khi chuyển đổi.
3. Trường hợp sau khi xử lý nợ phải thu không có khả năng thu hồi theo quy định tại điểm 2 nêu trên mà doanh nghiệp bị lỗ hoặc khi chưa xử lý nợ doanh nghiệp đã bị lỗ thì doanh nghiệp xuất trình các căn cứ chứng minh khoản nợ phải thu không thu hồi được và các tài liệu liên quan cho Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp hoặc Công ty kiểm toán, tổ chức có chức năng định giá được chọn để xem xét báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định giảm trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định hiện hành.
4. Đối với doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, trường hợp giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp không đủ để xử lý lỗ luỹ kế và nợ không có khả năng thu hồi hoặc sau khi xử lý giảm giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp mà giá trị còn lại không đủ để đảm bảo mức vốn Nhà nước cần tham gia trong công ty cổ phần theo phương án được duyệt thì doanh nghiệp có văn bản đề nghị kèm theo hồ sơ tài liệu gửi về Cục Tài chính doanh nghiệp xem xét, trình Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định chuyển giao (bán theo giá chỉ định) một số khoản nợ phải thu cho tổ chức có chức năng mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Phần chênh lệch do bán nợ (nếu có) được xử lý giảm vốn Nhà nước trước khi chuyển đổi.
- Việc xử lý nợ đối với doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi được thực hiện đồng bộ các giải pháp cùng với việc xử lý các tồn tại của doanh nghiệp trước khi chuyển đổi được xác định trong Phương án chuyển đổi sắp xếp doanh nghiệp.
d) Các khoản chi phí dở dang
d.1. Kiểm tra số dư chi phí dở dang
- Thu thập bảng tổng hợp các khoản chi phí dở dang theo từng khoản mục: chi phí XDCB dở dang, chi phí đầu tư XDCB…
- Kiểm tra số tổng hợp so với sổ chi tiết và Báo cáo tài chính.
d.2. Kiểm tra các khoản chi phí dở dang có số dư ngoại tệ
- Thực hiện việc đánh giá lại chi phí dở dang có gốc ngoại tệ theo tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá.
e) Các khoản ký cược, ký quỹ
e.1. Kiểm tra, đối chiếu số dư các khoản ký cược, ký quỹ
- Thu thập bảng tổng hợp các khoản ký cược, ký quỹ.
- Kiểm tra số tổng hợp so với sổ chi tiết và Báo cáo tài chính.
- Thu thập bản đối chiếu xác nhận của khách hàng với các tổ chức tài chính.
- Trường hợp khách hàng chưa thực hiện việc đối chiếu xác nhận thì KTV lập Thư xác nhận số dư tại thời điểm định giá và gửi tới các tổ chức tài chính.
e.2. Kiểm tra các khoản ký cược, ký quỹ có số dư ngoại tệ
- Thực hiện việc đánh giá lại các khoản ký cược, ký quỹ có gốc ngoại tệ theo tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá.
f) Tài sản cố định vô hình
- Thu thập bảng tổng hợp TSCĐ vô hình phản ánh năm đưa vào sử dụng, nguyên giá, khấu hao luỹ kế.
- Kiểm tra số tổng hợp so với sổ chi tiết và Báo cáo tài chính.
Ghi chú:
+ Giá trị tài sản vô hình (nếu có) được xác định theo giá trị còn lại đang hạch toán trên sổ kế toán.
+ Riêng giá trị quyền sử dụng đất
* Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hình thức thuê đất:
a. Nếu đang thuê thì không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp; công ty cổ phần tiếp tục ký hợp đồng thuê đất theo quy định của pháp luật và quản lý sử dụng đúng mục đích, không được nhượng bán.
b. Nếu diện tích đất đó được nhận giao, đó nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách nhà nước, mua quyền sử dụng đất của các cá nhân, pháp nhân khác nay chuyển sang thuê đất thì chỉ tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản chi phí làm tăng giá trị sử dụng đất và giá trị tài sản trên đất như: chi phí đền bù, giải toả, san lấp mặt bằng.
* Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất thì việc xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính giá trị doanh nghiệp được thực hiện như sau:
a. Đối với diện tích đất doanh nghiệp đang thuê: giá trị quyền sử dụng đất tính vào giá trị doanh nghiệp theo giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định nhưng không tính tăng vốn nhà nước tại doanh nghiệp mà hạch toán là khoản phải nộp ngân sách nhà nước.
b. Đối với diện tích đất doanh nghiệp đó được giao, đã nộp tiền sử dụng đất cho ngân sách nhà nước: phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất theo giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định. Khoản chênh lệch giữa giá trị quyền sử dụng đất xác định lại với giá trị hạch toán trên sổ kế toán được tính vào giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
g) Các khoản đầu tư tài chính
g.1. Kiểm tra, đối chiếu số dư các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn
- Thu thập bảng tổng hợp các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn cho các tổ chức.
- Kiểm tra số tổng hợp so với sổ chi tiết và Báo cáo tài chính.
g.2. Kiểm tra các khoản đầu tư tài chính
- Thu thập tài liệu có liên quan đến các khoản đầu tư góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp khác.
- Yêu cầu khách hàng cung cấp Báo cáo tài chính tại thời điểm gần nhất của doanh nghiệp khách hàng đầu tư, sau đó thực hiện các bước sau:
1. Xác định giá trị vốn chủ sở hữu theo Báo cáo tài chính thu thập được.
2. Xác định lại giá trị cổ phần và giá trị vốn góp theo giá trị vốn chủ sở hữu trên.
3. So sánh số liệu tính toán với số liệu trên bảng kê các khoản đầu tư tài chính.
g.3. Kiểm tra các khoản đầu tư tài chính có số dư ngoại tệ
- Thực hiện việc đánh giá lại các khoản đầu tư tài chính có gốc ngoại tệ theo tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá.
h) Tài sản góp vốn liên doanh
h.1. Kiểm tra, đối chiếu số dư các khoản góp vốn liên doanh tính vào giá trị doanh nghiệp
- Thu thập bảng tổng hợp các khoản góp vốn liên doanh mà doanh nghiệp cổ phần dự kiến kế thừa.
- Kiểm tra số tổng hợp so với sổ chi tiết và Báo cáo tài chính.
- Thu thập tài liệu có liên quan đến các khoản đầu tư góp vốn liên doanh.
- Xác định giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp cổ phần hoá tại các doanh nghiệp khác trên cơ sở:
+ Giá trị vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán của doanh nghiệp mà công ty nhà nước có đầu tư vốn;
+ Tỷ lệ vốn đầu tư của công ty nhà nước trước khi cổ phần hoá tại các doanh nghiệp khác;
+ Trường hợp giá trị vốn đầu tư dài hạn của công ty nhà nước tại doanh nghiệp khác được xác định thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế toán thì giá trị ghi trên sổ kế toán của công ty nhà nước là cơ sở để xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.
Giá trị vốn góp của công ty nhà nước vào công ty cổ phần đã niêm yết trên thị trường chứng khoán được xác định trên cơ sở giá cổ phần giao dịch trên thị trường chứng khoán tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
h.2. Kiểm tra các khoản góp vốn liên doanh mà doanh nghiệp cổ phần dự kiến không kế thừa
- Xem xét các thoả thuận mua và bán lại vốn góp liên doanh.
- Thu thập các quyết định liên quan đến việc chuyển doanh nghiệp khác làm đối tác liên doanh.
h.3. Kiểm tra các khoản góp vốn liên doanh có số dư ngoại tệ
- Thực hiện việc đánh giá lại các khoản góp vốn liên doanh có gốc ngoại tệ theo tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá.
i) Lợi thế thương mại
i.1. Thu thập các tài liệu liên quan
- Báo cáo tài chính 3 năm liền kề trước thời điểm cổ phần hoá.
- Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm.
- Giá trị thương hiệu đã được xác định.
i.2. Xác định giá trị lợi thế kinh doanh
- Xác định lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm và phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp bình quân 3 năm theo các Báo cáo tài chính thu thập được.
- Tính tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 3 năm.
- Tính giá trị lợi thế thương mại theo công thức:
Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp
=
Giá trị phần vốn nhà nước theo sổ kế toán tại thời điểm định giá
x
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 3 năm trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
-
Lãi suất trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 10 năm trở lên tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
Trong đó:
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên vốn nhà nước
Lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm liền kề
trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
Bình quân 3 năm trước
=
----------------------------------------------------------
x
100%
thời điểm xác định
giá trị doanh nghiệp
Vốn nhà nước theo sổ kế toán bình quân 3 năm liền kề trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
k) Công nợ phải trả
k.1. Kiểm tra số dư, phân loại công nợ phải trả
- Thu thập bảng tổng hợp số dư công nợ phải trả phân loại theo từng nhóm: Phải trả khách hàng, Người mua trả tiền trước, Phải trả nội bộ, Phải trả khác, Phải trả CNVC.
- Kiểm tra số tổng hợp từng nhóm so vói sổ chi tiết và Báo cáo tài chính.
- Phân loại nợ phải trả và nợ không phải trả.
k.2. Kiểm tra việc đối chiếu công nợ
-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC06.docx