Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng

Tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng: Lời mở đầu Hoạt động phân tích tài chính đã được đề cập khá nhiều qua các công trình của các nhà nghiên cứu kinh tế. Tuy nhiên việc ứng dụng từ lý luận vào thực tiễn là một khoảng cách khá xa. Thực tế đã chứng minh rằng không thể đưa ra một khuôn mẫu phân tích tài chính áp dụng với mọi loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Do vậy các bài viết, nghiên cứu về phân tích tài chính cụ thể cho các loại hình doanh nghiệp, các ngành nghề kinh doanh là rất cần thiết cho các doanh nghiệp vì đó là cơ sở nền tảng để các doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định tài chính hiệu quả nhất. Hiện nay, trước xu thế hội nhập và cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chú trọng tới công tác phân tích tài chính và xem nó là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nhà đầu tư, các cổ đông, ngân hàng, nhà...

doc74 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1002 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Hoạt động phân tích tài chính đã được đề cập khá nhiều qua các công trình của các nhà nghiên cứu kinh tế. Tuy nhiên việc ứng dụng từ lý luận vào thực tiễn là một khoảng cách khá xa. Thực tế đã chứng minh rằng không thể đưa ra một khuôn mẫu phân tích tài chính áp dụng với mọi loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Do vậy các bài viết, nghiên cứu về phân tích tài chính cụ thể cho các loại hình doanh nghiệp, các ngành nghề kinh doanh là rất cần thiết cho các doanh nghiệp vì đó là cơ sở nền tảng để các doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định tài chính hiệu quả nhất. Hiện nay, trước xu thế hội nhập và cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chú trọng tới công tác phân tích tài chính và xem nó là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nhà đầu tư, các cổ đông, ngân hàng, nhà cung cấp, công nhân viên,… và nhiều đối tượng khác liên quan đến tài chính của doanh nghiệp. Riêng đối với các nhà quản lý tài chính thì công tác phân tích tài chính luôn đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Qua thực tế thực tập tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng em nhận thấy công tác phân tích tài chính tại Công ty chưa được quan tâm đúng mức và còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy em đã chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng”. Kết cấu của luận văn gồm 3 chương : Chương 1 : Lý luận chung về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Chương 2 : Thực trạng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng. Chương 3 : Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng. Để hoàn thành được bài viết này em đã nhận được sự hướng dẫn rất tận tình của cô giáo Trần Thị Thanh Tú và cô Lương Thị Tỳ - kế toán trưởng Công ty Xây dựng Ngân Hàng. Với lòng biết ơn sâu sắc em xin cảm ơn cô giáo Trần Thị Thanh Tú và các cán bộ công nhân viên đang làm việc tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng. Chương 1: Lý luận chung về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.1.Sự cần thiết của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.1.1.Hoạt động tài chính doanh nghiệp Theo luật doanh nghiệp số 13/1999/QH ngày 12 tháng 6 năm 1999 thì doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt dộng tài chính doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đó là: tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp, tối đa hoá lợi nhuận,… Tài chính doanh nghiệp là tổng thể những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu bao gồm: 1.Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước. 2.Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính. 3.Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác. 4.Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong cả quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, nhà doanh nghiệp phải giải quyết một số vấn đề quan trọng sau đây: Thứ nhất: nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn? Đây là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp và là cơ sở dự toán vốn đầu tư. Thứ hai: nguồn vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng là nguồn nào? Thứ ba: nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính như thế nào? Chẳng hạn như: sử dụng lợi nhuận; phân tích, đánh giá, kiểm kê các hoạt động tài chính; đảm bảo cân bằng qua sự thu chi phù hợp. Đây là các quyết định ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp. Mặc dù ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh của tài chính doanh nghiệp song đây là những vấn đề quan trọng nhất. Hoạt động tài chính doanh nghiệp chính là giải quyết tốt ba vấn đề trên. Để đạt được những mục tiêu đề ra doanh nghiệp cần phải có những quyết định đúng đắn về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn luôn phải chủ động trước mọi diễn biến phức tạp của môi trường xung quanh để từ đó đưa ra được quyết định phù hợp. Có như vậy thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển. Để có được những quyết định phù hợp đó thì một trong những công việc quan trọng mà doanh nghiệp phải tiến hành đó là phân tích tài chính doanh nghiệp. Như vậy phân tích tài chính doanh nghiệp là một bộ phận của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Và ngược lại, hoạt động tài chính doanh nghiệp lại là cơ sở cho quá trình phân tích tài chính. Thông qua phân tích tài chính nhà doanh nghiệp sẽ đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp để từ đó đưa ra những quyết định phù hợp và đúng đắn. 1.1.2.Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp: Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm,phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Mối quan tâm hàng đầu của phân tích tài chính doanh nghiệp là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính từ đó đưa ra các thông tin về khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Chính các thông tin đưa ra sẽ giúp cho người sử dụng thông tin xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, để từ đó nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, quyết định đầu tư và tài trợ phù hợp. Từ đó góp phần giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong thời buổi nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. 1.1.3.Mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp Thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng, các thông tin về mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước, với thị trường và với nội bộ doanh nghiệp, phân tích tài chính sẽ cho thấy những điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ đó những người quan tâm đến hoạt động của Công ty sẽ có các biện pháp và quyết định phù hợp. Những quyết định của nhà quản lý đều liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới khả năng phát triển, khả năng tối đa hoá tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp. Đồng thời việc phân tích tài chính cũng sẽ cho thấy được khả năng tiếp ứng đầu tư, tài trợ, thanh toán nợ. Qua đó nhà doanh nghiệp biết nên đầu tư cho doanh nghiệp như thế nào, sử dụng và khai thác những nguồn nào là hợp lý. Phân tích tài chính cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết giúp kiểm tra phân tích tổng hợp toàn diện, có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Nhà quản lý tài chính khi phân tích tài chính cần phải cân nhắc tính toán tới mức độ rủi ro, khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Giữa hai yếu tố rủi ro và doanh lợi có mối tương quan nhất định: rủi ro càng lớn thì doanh lợi càng cao và ngược lại. Mối quan tâm hàng đầu của những nhà quản lý tài chính là đánh giá rủi ro, phá sản tác động tới doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng hoạt động, khả năng cân đối vốn và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các dự đoán về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai. Ngoài ra phân tích tài chính còn cung cấp những thông tin, số liệu để kiểm tra, giám sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình hình chấp hành các chính sách chế độ kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì việc phân tích tài chính ngày càng trở nên quan trọng vì nó là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Phân tích tài chính cho thấy khả năng và tiềm năng kinh tế của doanh nghiệp, do đó sẽ gúp cho công tác dự báo, lập kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn. Hiện nay việc phân tích tài chính được rất nhiều đối tượng quan tâm. Tuy nhiên những người phát triển tài chính ở những cương vị khác nhau sẽ nhằm các mục tiêu khác nhau. 1.1.3.1.Phân tích tài chính đối với các nhà quản trị Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân tích tài chính nội bộ, khác với phân tích tài chính bên ngoài do các nhà phân tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do có thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể phân tích tốt nhất. Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm những mục tiêu sau đây: - Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp. - Định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc cũng như của giám đốc tài chính: quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần,… - Là cơ sở cho dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, ... - Cuối cùng, phân tích tài chính là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý. Phân tích tài chính làm nổi bật tầm quan trọng của dự báo tài chính và là cơ sở cho các nhà quản trị, làm sáng tỏ không chỉ chính sách tài chính mà còn làm rõ các chính sách chung. 1.1.3.2.Phân tích tài chính đối với nhà đầu tư Các nhà đầu tư là cá nhân hoặc doanh nghiệp quan tâm trực tiếp đến tính toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ đã giao vốn cho doanh nghiệp và có thể phải chịu rủi ro. Thu nhập của họ là tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp. Trong thực tế, các nhà đầu tư thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Câu hỏi trọng tâm là: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của Công ty là bao nhiêu? Chúng ta cũng sẽ thấy rằng họ không hài lòng trước lợi nhuận tính toán theo sổ sách kế toán và cho rằng phần lợi nhuận này có quan hệ rất xa so với lợi nhuận thực tế. Dự kiến trước lợi nhuận sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong chính sách phân chia lợi tức cổ phần và trong nghiên cứu rủi ro hướng các lựa chọn vào những cổ phiếu phù hợp nhất. Các cổ đông cá nhân của các Công ty lớn nói chung phải dựa vào các nhà chuyên môn. Họ là những người chuyên nghiên cứu các thông tin kinh tế tài chính, có những cuộc tiếp xúc trực tiếp với ban giám đốc tài chính của Công ty làm rõ triển vọng phát triển doanh nghiệp và đánh giá các cổ phiếu trên thị trường tài chính. 1.1.3.3.Phân tích tài chính đối với người cho vay Nếu phân tích tài chính được phát triển trong các ngân hàng khi ngân hàng muốn đảm bảo về khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, thì phân tích tài chính cũng được các doanh nghiệp cho vay, ứng trước, bán chịu sử dụng. Phân tích tài chính đối với các khoản nợ dài hạn khác với những khoản cho vay ngắn hạn. - Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn trả. - Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này. Chi phí cho vay thay đổi theo số tiền cho vay và theo thời hạn của khoản vay, nhưng dù cho nó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay. 1.1.3.4.Phân tích tài chính đối với những người hưởng lương trong doanh nghiệp Khoản tiền lương nhận được từ doanh nghiệp luôn là nguồn thu nhập lớn của người hưởng lương. Như vậy lợi ích của họ gắn liền với tình hình tài chính của doanh nghiệp. Sự quan tâm của người hưởng lương trong doanh nghiệp đến tình hình tài chính của công ty cũng là một cách phân tích tài chính. Họ cũng quan tâm đến những thông tin và số liệu đánh giá, xem xét tình hình tài chính, thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.Nội dung công tác phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.1.Tổ chức và quy trình thực hiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.1.1.Tổ chức công tác phân tích tài chính Quá trình tổ chức công tác phân tích tài chính được tiến hành tuỳ theo loại hình tổ chức kinh doanh ở các doanh nghiệp nhằn mục đích cung cấp, đáp ứng nhu cầu thông tin cho quá trình lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết định. Công tác tổ chức phân tích phải làm sao thoả mãn cao nhất nhu cầu thông tin của từng loại hình quản trị khác nhau. Thông thường công tác phân tích tài chính được tổ chức dưới một số hình thức sau: - Công tác phân tích tài chính có thể được bố trí nằm ở trong một bộ phận riêng biệt đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của ban giám đốc và làm tham mưu cho giám đốc. Theo hình thức này quá trình phân tích thể hiện được toàn bộ nội dung của hoạt động kinh doanh. Nó được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục. Kết quả phân tích sẽ cung cấp thông tin thường xuyên cho lãnh đạo trong doanh nghiệp. Trên cơ sở này các thông tin qua phân tích được truyền từ trên xuống theo hình chức năng quản lý và quá trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh, chấn chỉnh đối với từng bộ phận của doanh nghiệp theo cơ cấu từ ban giám đốc đến các phòng ban trong công ty. - Công tác phân tích tài chính cũng có thể được thực hiện ở nhiều bộ phận riêng biệt theo các chức năng quản lý nhằm cung cấp thông tin và thoả mãn thông tin cho các bộ phận của quản lý được phân quyền: +Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về chi phí, bộ phận này sẽ tổ chức thực hiện thu thập thông tin và tiến hành phân tích tình hình biến động chi phí, giữa thực tế so với định mức nhằm phát hiện chênh lệch chi phí để từ đó tìm ra nguyên nhân và đề ra giải pháp. Đối với bộ phận này khi tiến hành tổ chức công tác phân tích tài chính phải chú ý thu thập nguồn thông tin sát thực tế để phục vụ cho công tác phân tích đạt hiệu quả tối ưu. Bên cạnh những nguồn thông tin từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp cần chú ý đến những thông tin bên ngoài như thông tin về giá cả thị trường, tình hình biến động của những mặt hàng mà công ty đang sử dụng làm yếu tố đầu vào,… +Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về doanh thu, là bộ phận kinh doanh riêng biệt theo địa điểm hoặc một số sản phẩm nhóm hàng riêng biệt, do đó họ có quyền với bộ phận cấp dưới là bộ phận chi phí. ứng với với bộ phận này thường là trưởng phòng kinh doanh hoặc giám đốc kinh doanh tuỳ theo doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ tiến hành thu thập thông tin, tiến hành phân tích báo cáo thu nhập, đánh giá mối quan hệ chi phí-lợi nhuận, lập và tính toán các chỉ tiêu tài chính. Như vậy phân tích tài chính tại bộ phận này là hết sức quan trọng. Việc tổ chức công tác phân tích tài chính tại bộ phận này đòi hỏi phải công phu tỉ mỉ và có quy trình khoa học rõ ràng bởi đây là công việc làm cơ sở để đánh giá khả năng hoàn vốn trong kinh doanh, kết quả mà doanh nghiệp thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện kế hoạch và giúp nhà quản trị đưa ra được chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh trong thời gian tới. Cho dù công tác phân tích tài chính được tổ chức dưới hình thức nào đi chăng nữa thì công việc này phải được thực hiện theo một quy trình nhất định và hợp lý. Quy trình đó sẽ được trình bày ở mục dưới đây. 1.2.1.2.Quy trình thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp Trong công tác phân tích tài chính thì quy trình thực hiện phân tích là một yếu tố rất quan trọng. Nó quyết định tính chính xác của các chỉ tiêu tài chính và cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết cho việc lập chiến lược, kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh cho thời gian tới. Quy trình của công tác phân tích tài chính bao gồm các bước sau: - Bước 1: Thu thập thông tin Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán, đánh giá, lập kế hoạch và chiến lược phát triển công ty trong tương lai. Các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính bao gồm những thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin bên trong doanh nghiệp chủ yếu là các báo cáo tài chính, còn các thông tin bên ngoài bao gồm các thông tin về thị trường, chính sách tài chính, …Vì vậy khi tiến hành thu thập thông tin phải quan tâm tới cả thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. - Bước 2: Xử lý thông tin Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình xử lý thông tin đã thu thập được. Trong giai đoạn này, người ta sử dụng thông tin ở góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm so sánh, đánh giá, giải thích, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được nhằm phục vụ cho quá trình phân tích và ra quyết định sau này. Có xử lý thông tin tốt thì quá trình phân tích mới đạt được hiệu quả. - Bước 3: Phân tích và ra quyết định Hai giai đoạn thu thập và xử lý thông tin chính là cơ sở vô cùng quan trọng để tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Sau khi xử lý các thông tin thu thập được, nhận thấy sự biến động khác biệt của nó người phân tích sẽ tiến hành tìm hiểu để biết nguyên nhân của vấn đề và những nhân tố làm ảnh hưởng tới sự biến động này. Từ đó họ tìm cách khắc phục những hạn chế còn tồn tại và phát huy hơn nữa những mặt tốt đã đạt được. Đây là một bước hết sức quan trọng trong công tác phân tích tài chính, nó đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao, sự nhạy cảm trong công việc cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ phân tích. Sau khi tiến hành phân tích, mỗi đối tượng khác nhau sẽ có các quyết định khác nhau. Đối vơi các chủ doanh nghiệp, họ sẽ căn cứ vào các kết quả phân tích để đưa ra các quyết định tài chính cần thiết và phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp. Còn đối với chủ đầu tư thì kết quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp sẽ giúp họ đưa ra quyết định có nên đầu tư vào công ty nữa hay không? Nếu có thì đầu tư bao nhiêu là hợp lý? 1.2.2.Thu thập thông tin trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.2.1.Nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp Đây là những thông tin có liên quan đến cơ hội kinh doanh, nghĩa là tình hình chung về kinh tế tại một thời điểm trước đó. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng có tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh. Khi có cơ hội thuận lợi các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận của công ty cũng tăng lên. Hiện nay những thông tin về tình hình kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam được các tổ chức chuyên môn cập nhật từng ngày và thường xuyên công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là nguồn thông tin rất cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào bởi vì khi phân tích tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng là phải nhận thấy sự xuất hiện của cơ hội mang tính chu kỳ: qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến giai đoạn suy thoái và ngược lại. Đồng thời, cần phải đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh tế bởi vì trong cùng ngành sẽ có những tính chất và đực điểm giống nhau. Những nghiên cứu theo ngành sẽ chỉ rõ: - Tầm quan trọng của ngành nghiên cứu trong nền kinh tế - Các sản phẩm và hoạt động khác nhau của ngành - Quy trình công nghệ - Cơ cấu ngành (mức độ tập trung hoá, các tập đoàn chủ yếu,…) và độ nhạy của ngành trước những biến động của cơ hội. - Độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển. - Vị trí công tác nghiên cứu và phát triển luôn đặt điều kiện cho tawng trưởng của ngành. Ngoài ra trong phân tích tài chính còn phải lưu ý thu thập những thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp (các thông tin mà doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp,…) 1.2.2.2.Nguồn thông tin nội bộ doanh nghiệp Để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thì nguồn thông tin quan trọng nhất đó là thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông qua việc sử lý các báo cáo kế toán đó là: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. 1.2.2.2.1.Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp: đó là tài sản cố định và tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản mà doanh nghiệp có đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và các khoản nợ. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính hoặc khả năng thanh toán và cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Mặt khác, nhìn vào bảng cân đối kế toán ta còn có thể thấy được những quyết định về đầu tư và quyết định về lựa chọn nguồn tài trợ: quyết định về đầu tư thể hiện ở bên phần tài sản, quyết định tài trợ thể hiện bên phần nguồn vốn. Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống. Nhìn vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho nhà phân tích đánh giá được khả năng thanh toán và khả năng cân đối của doanh nghiệp. Bảng 1: Mẫu bảng cân đối kế toán Tài sản Mã số Số đầu năm Số cuối kỳ A.Tài sản lưu động & đầu tư ngắn hạn B.Tài sản cố định & đầu tư dài hạn Tổng tài sản Nguồn vốn A.Nợ phải trả B.Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn 1.2.2.2.2.Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo này cho biết kết quả kinh doanh của tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh đồng thời cũng giúp nhà phân tích nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Báo cáo kết quả kinh doanh gồm ba phần: Phần 1: Báo cáo lỗ lãi Phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau một kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh, phần này có các chỉ tiêu liên quan đến doanh thu, chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường của doanh nghiệp. Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước Phản ánh trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước ở các thời điểm đầu kỳ, trong kỳ, số luỹ kế từ đầu kỳ và số còn phải nộp cuối kỳ đối với nhà nước. Các khoản mà doanh nghiệp phải nộp Nhà nước bao gồm: thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, … Phần 3: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn thuế, được miễn giảm Phản ánh số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, đã khấu trừ, còn được khấu trừ, số thuế giá trị gia tăng được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn lại vào cuối kỳ. Bảng 2: Mẫu bảng báo cáo kết quả kinh doanh Phần 1: Lỗ, lãi Chỉ tiêu Mã số Quý trước Quý này LK từ đầu năm _Tổng doanh thu 1.Doanh thu thuần 2.Giá vốn hàng bán 3.Lợi nhuận gộp 4.Chi phí quản lý doanh nghiệp 5.Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 6.Thu nhập hoạt động tài chính 7.Chi phí hoạt động tài chính 8.Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính 9.Các khoản thu nhập bất thường 10.Chi phí bất thường 11.Lợi nhuận bất thường 12.Tổng lợi nhuận trước thuế 13.Thuế thu nhập doanh nghiệp 14.Lợi nhuận sau thuế Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước Chỉ tiêu Số còn phải nộp kỳ trước Số phải nộp kỳ này Số đã nộp trong kỳ này Số còn phải nộp đến cuối kỳ này I.Thuế II.Bảo hiểm, kinh phí CĐ III.Phải nộp khác Tổng cộng Phần 3: : Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn thuế, được miễn giảm Chỉ tiêu Kỳ trước Kỳ này Luỹ kế từ đầu năm I.Thuế VAT được hoàn lại II.Thuế VAT được khấu trừ III.Thuế VAT được miễn giảm Tổng số 1.2.2.2.3.Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để phản ánh diễn biến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình trả nợ, đầu tư của doanh nghiệp trong từng thời kỳ ngắn (thường là từng tháng). Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin về những dòng tiền tệ lưu chuyển và các khoản coi như tiền - những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành khoản tiền biết trước, ít chịu rủi ro về giá trị do những thay đổi về lãi suất. Những luồng tiền vào ra và những khoản coi như tiền được chia thành ba nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh;lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư tài chính; lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường. Như vậy báo cáo lưu chuyển tiền tệ được các nhà phân tích sử dụng để đánh giá khả năng chi trả của doanh nghiệp. Từ đó có thể lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu chi trả. Bảng 3: Mẫu bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ Chỉ tiêu Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Dư cuối kỳ I.Luồng tiền vào II.Luồng tiền ra III.Xử lý ngân quỹ - Tổng thu - Tổng chi - Chênh lệch - Dư đầu kỳ - Dư cuối kỳ 1.2.2.2.4.Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp những thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh chưa được phản ánh trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng thời giải trình bổ sung, thuyết minh một số chỉ tiêu chưa được phản ánh và trình bày đầy đủ trong các báo cáo tài chính khác của doanh nghiệp như: chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố, tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình tăng giảm tài sản lưu động,… Nói tóm lại, nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp và nguồn thông tin nội bộ doanh nghiệp (đặc biệt nguồn thông tin từ nội bộ doanh nghiệp) là rất cần thiết để nhà phân tích nghiên cứu, tìm hiểu để từ đó tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp. Hai nguồn thông tin này chính là cơ sở đầu tiên để tiến hành phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp để thấy rõ những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, từ đó có thể đưa ra những quyết định hiệu quả nhất. 1.2.3.Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Để đưa ra được quyết định một cách chính xác trong quá trình phân tích tài chính, nhất thiết doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một phương pháp phân tích phù hợp. Thông thường các doanh nghiệp không sử dụng đơn lẻ một phương pháp nào mà sử dụng kết hợp các phương pháp nhằm khai thác những điểm mạnh và điểm yếu của từng phương pháp để từ đó đưa ra kết quả tốt nhất. Có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng trên thực tế người ta thường sử dụng ba phương pháp chính là: phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ, phương pháp phân tích tách đoạn (Dupont). 1.2.3.1.Phương pháp so sánh Nếu có được sự thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán của các chỉ tiêu tài chính và theo mục đích thì mới xác định gốc so sánh. Đây cũng chính là điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh. Gốc so sánh được chọn phải là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Hiện nay, phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp với những nội dung chính sau: - Phân tích xu thế: là việc xem xét khuynh hướng biến động qua thời gian để đánh giá tỷ số trở nên xấu đi hay đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Phân tích này thực hiện so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay suy giảm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. - So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp mình tốt hay xấu, được hay chưa được. Việc so sánh các tỷ số tài chính của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác trong ngành và với các tiêu chuẩn của ngành cũng cho phép người phân tích rút ra những nhận định rất có ý nghĩa về vị thế của Công ty trên thị trường, sức mạnh tài chính của Công ty so với các đối thủ cạnh tranh,…Trên cơ sở đó các nhà quản trị có thể đề ra những quyết định phù hợp với khả năng của Công ty. - So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. 1.2.3.2.Phương pháp tỷ lệ Phương pháp tỷ lệ là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Phương pháp này có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất: nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải thiện và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp; thứ hai: việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số; thứ ba: phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt các tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân tích bao gồm bốn nhóm chính sau: - Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán - Nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động - Nhóm tỷ lệ về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn - Nhóm tỷ lệ về khă năng sinh lãi Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Tuỳ theo từng hoạt động phân tích, người ta sẽ lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.2.3.3.Phương pháp Dupont Phương pháp phân tích Dupont là một phương pháp sử dụng các mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các tỷ số tài chính. Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng phương pháp này để phân tích tài chính của Công ty, vì vậy phương pháp được gọi là phương pháp phân tích Dupont. Phương pháp phân tích Dupont xem xét mối quan hệ tương tác giữa hệ số sinh lời doanh thu với hiệu suất sử dụng tài sản, tỷ lệ sinh lãi vốn chủ sở hữu. Phương pháp này thiết lập ra các hàm số giữa các tỷ lệ tài chính để xem xét ảnh hưởng của các yếu tố khác đến một chỉ tiêu tổng hợp như thế nào? Đó là mối quan hệ hàm số giữa doanh lợi vốn, vòng quay toàn bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ. Phân tích các hàm này sẽ thấy được sự tác động giữa các chỉ tiêu tài chính để từ đó đưa ra giải pháp nhằm tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí hay xác định tỷ lệ nợ hợp lý. 1.2.4.Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.4.1.Phân tích sự biến động và cơ cấu phân bổ vốn Tổng số vốn của doanh nghiệp bao gồm 2 loại: vốn đầu tư vào tài sản cố định, vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn nhiều hay ít, tăng hay giảm, phân bổ cho từng khâu, từng giai đoạn hợp lý hay không sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích sự biến động và tình hình phân bổ vốn là để đánh giá tình hình tăng hay giảm vốn, tình hình phân bổ vốn như thế nào từ đó đánh giá việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý hay không. Để phân tích người ta tiến hành những nội dung sau: Thứ nhất: xem xét sự biến động của tổng tài sản cũng như từng loại tài sản thông qua việc so sánh giữa cuối kỳ với đầu năm cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối của tổng tài sản cũng như chi tiết đối với từng loại tài sản. Qua đó thấy được sự biến động về quy mô kinh doanh, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai: xem xét cơ cấu vốn có hợp lý hay không? Cơ cấu vốn đó tác động như thế nào đến quá trình sản xuất kinh doanh? Thông qua việc xác định tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản đồng thời so sánh tỷ trọng từng loại giữa cuối kỳ với đầu năm để thấy sự biến động của cơ cấu vốn. Điều này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi để ý đến tính chất và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, xem xét tác động của từng loại tài sản đến quá trình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh đạt được trong kỳ. Có như vậy mới đưa được quyết định hợp lý về việc phân bỏ vốn cho từng giai đoạn, từng loại tài sản của doanh nghiệp. Thực hiện hai nội dung trên ta lập bảng phân tích sự biến động và tình hình phân bổ vốn theo mẫu sau: Bảng 4: Phân tích sự biến động và tình hình phân bổ vốn Chỉ tiêu Đầu kỳ Cuối kỳ So sánh (tăng, giảm) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Tỷ trọng (%) 1.2.4.2.Phân tích cơ cấu và sự biến động nguồn vốn Phân tích cơ cấu và sự biến động của nguồn vốn để khái quát đánh giá khă năng tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp, xác định mức độ độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh hoặc những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn. Phương pháp phân tích là so sánh từng loại nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu năm cả về số tuyệt đối lẫn tương đối, xác định và so sánh giữa cuối kỳ với đầu năm về tỷ trọng từng loại nguồn vốn trong tổng số để xác định chênh lệch cả về số tiền, tỷ lệ và tỷ trọng. Nếu nguồn vốn của chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng thì điều đó cho thấy khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp là cao, mức độ phụ thuộc về mặt tài chính đối với các chủ nợ thấp và ngược lại. Tuy nhiên, khi xem xét cần để ý đến chính sách tài trợ của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp đạt được, những thuận lợi và khó khăn trong tương lai việc kinh doanh có thể gặp phải. Để phân tích người ta cũng lập bảng phân tích cơ cấu và sự biến động của nguồn vốn theo mẫu như sau: Bảng 5: Phân tích cơ cấu và sự biến động nguồn vốn Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ So sánh (tăng, giảm) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Tỷ trọng (%) 1.2.4.3.Phân tích tình hình sử dụng vốn trong năm Để xem xét trong năm doanh nghiệp đã có những khoản đầu tư nào? Làm cách nào doanh nghiệp mua sắm được tài sản? Doanh nghiệp đang gặp khó khăn hay đang phát triển? Người ta tiến hành phân tích tình hình khai thác và sử dụng nguồn tài trợ trong năm. Để phân tích, trước hết cần liệt kê sự thay đổi các chỉ tiêu trên bảng cân đối giữa năm nay với năm kế trước, có thể theo mẫu sau: Bảng 6: Liệt kê sự biến động của tài sản và nguồn vốn Tăng Giảm Tài sản 1… Nguồn vốn 1… Sau đó lập bảng phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ trong năm (bảng này được kết cấu thành 2 phần: phần “nguồn tài trợ” và phần “sử dụng vốn”, mỗi phần được chia thành 2 cột: “số tiền” và “tỷ trọng”) theo tiêu thức: - Nếu tăng phần tài sản, giảm phần nguồn vốn ghi vào phần sử dụng vốn - Nếu tăng phần nguồn vốn, giảm phần tài sản thì ghi vào phần nguồn tài trợ, cụ thể: Bảng 7: Phân tích nguồn tài trợ Nguồn tài trợ Số tiền Tỷ trọng (%) - Các loại nguồn vốn tăng - Các loại tài sản giảm Sử dụng vốn Số tiền Tỷ trọng (%) - Các loại tài sản tăng - Các loại nguồn vốn giảm 1.2.4.4.Phân tích các nhóm tỷ số tài chính cơ bản 1.2.4.4.1.Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh chất lượng của công tác tài chính. Khi nguồn bù đắp cho tài sản dự trữ thiếu, doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn và ngược lại. Tuy nhiên trong trường hợp nguồn vốn cân bằng với tài sản dự trữ vẫn có thể sảy ra hiện tượng đi chiếm dụng và bị chiếm dụng có thể phát sinh từ việc mua bán chịu hàng hoá, các khoản thuế, lệ phí, các khoản lương, thưởng, kinh phí hoặc tạm ứng,…Tuy nhiên sự thiếu hụt của doanh nghiệp về khả năng thanh toán có thể đưa doanh nghiệp tới chỗ không thể hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đúng hạn và có thể phải ngừng hoạt động. a.Hệ số thanh toán hiện hành Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán hiện hành = Hệ số thanh toán hiện hành còn gọi là hệ thống thanh toán ngắn hạn, tỷ số thanh toán chung hay tỷ số luân chuyển tài sản lưu động, đo lường khả năng các tài sản lưu động có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả nợ ngắn hạn. Nếu tỷ số này >=1 nghĩa là doanh nghiệp có khả năng bù đắp cho sự giảm giá trị tài sản lưu động, điều đó thể hiện ở tiềm năng thanh toán so với nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Thông thường tỷ lệ này bằng 2 được coi là hợp lý, được đa số các chủ nợ chấp nhận. b.Hệ số thanh toán nhanh Tài sản lưu động-hàng tồn kho Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh = Đây là một tiêu chuẩn khắt khe hơn về khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn so với hệ số thanh toán hiện hành. Chỉ tiêu này còn được gọi là chỉ số thanh toán tương đối, thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong ngắn hạn, không phụ thuộc vào việc bán hàng hoá dự trữ, tồn kho. Hệ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào tiền bán tài sản tồn kho. Nếu hệ số này >=1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp tưong đối khả quan, còn nếu hệ số này <1 thì doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong vấn đề thanh toán. c.Hệ số thanh toán tức thời Tiền Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán tức thời = Hệ số thanh toán tức thời thể hiện khả năng thanh toán tất cả các khoản nợ của doanh nghiệp ngay lập tức. Tùy thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nhưng thực tế cho thấy nếu hệ số này >=0,5 thì khả năng thanh toán tương đối khả quan, còn <0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao lại phản ánh một tình hình không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, gây cản trở cho sự phát triển doanh nghiệp. 1.2.4.4.2.Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động Các tỷ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các tài sản khác nhau. Các chỉ tiêu này được thiết lập dựa trên doanh thu và nhằm mục đích xác định tốc độ quay vòng của một số đại lượng cần thiết cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các tỷ lệ này cho ta thấy những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài chính và khả năng thanh khoản của doanh nghiệp. a.Vòng quay hàng tồn kho Doanh thu thuần Hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho = Đây là chỉ số phản ánh trình độ quản lý, dự trữ của doanh nghiệp. Nó thể hiện mối quan hệ giữa hàng hoá đã bán và vật tư hàng hoá của doanh nghiệp. Vòng quay hàng tồn kho phụ thuộc vào từng ngành khác nhau thậm chí từng bộ phận trong doanh nghiệp cũng có thể rất khác nhau. Thông thường chỉ số này có giá trị cao sẽ củng cố lòng tin của khách hàng vào khả năng thanh toán của doanh nghiệp. b.Kỳ thu tiền bình quân Các khoản phải thu *360 Doanh thu thuần Kỳ thu tiền bình quân = Kỳ thu tiền bình quân cho biết những thông tin về khả năng thu hồi vốn trong thanh toán đặc biệt là thu hồi vốn từ bán chịu hàng hoá, nó chịu tác động của nhiều yếu tố. Chỉ tiêu này có giá trị cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã bị chiếm dụng vốn, gây ứ dọng vốn trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi vốn trong thanh toán chậm. Tuy nhiên trong tình hình cạnh tranh như hiện nay có thể đây là một chính sách của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho những mục tiêu chiến lược như chính sách mở rộng, thâm nhập thị trường. c.Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động Doanh thu thuần Tài sản lưu động Vòng quay tài sản lưu động = Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản lưu động làm ra được mấy đồng doanh thu thuần hay lãi gộp trong kỳ, tài sản lưu động quay được bao nhiêu vòng trong kỳ. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình sản xuất. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của tài sản lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Hệ số này thấp có thể do tiêu thụ hàng hoá chậm hoặc do vật tư hàng hoá tồn kho nhiều, tiền mặt sử dụng không hiệu quả, tồn quỹ nhiều hoặc doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn lớn. d.Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Doanh thu thuần Tài sản cố định Vòng quay tài sản cố định = Hiệu suất sử dụng tài sản cố định cho chúng ta biết một đồng tài sản cố định tạo ra mấy đồng doanh thu trong một năm, chỉ số này càng cao chứng tỏ hiệu suất sử dụng tài sản cố định càng tốt. Doanh thu thuần Tổng tài sản e.Hiệu suất sử dụng tổng tài sản Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản trong kỳ, nó cho biết một đồng tài sản được huy động vào sản xuất kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó cũng thể hiện số vòng quay trung bình toàn bộ tài sản của doanh nghiệp trong thời kỳ báo cáo. Hệ số này đã làm rõ khả năng tận dụng tài sản triệt để vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng chỉ số này sẽ góp phần quan trọng trong việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp từ đó sẽ tăng khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. 1.2.4.4.3.Nhóm tỷ số về cơ cấu vốn Nhóm tỷ số này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng vay nợ của doanh nghiệp. Chúng được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ các chủ nợ nhìn vào số vốn của các chủ sở hữu Công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn trong các món nợ. a.Hệ số nợ Tổng nợ Tổng tài sản Hệ số nợ = Hệ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích một hệ số nợ vừa phải vì hệ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong điều kiện kinh doanh bình thường, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, EBIT (thu nhập trước thuế và lãi vay) đạt được của doanh nghiệp lớn hơn lãi vay phải trả thì việc tăng thêm hệ số nợ của doanh nghiệp là cần thiết và có lợi cho doanh nghiệp bởi vì doanh nghiệp chỉ bỏ ra một lượng vốn ít nhưng lại được sử dụng một lượng tài sản lớn, hơn nữa sau khi trả lãi ở mức cố định, lợi nhuận trước thuế để được dành cho chủ sở hữu. Ngược lại trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả thì doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng bị giảm sút nhanh chóng, bởi vì khi đó doanh nghiệp phải sử dụng một phần lợi nhuận làm ra để bù đắp lãi vay phải trả. Khi hệ số nợ cao thì doanh nghiệp có lợi vì được sử dụng một lượng tài sản lớn mà chỉ đầu tư một lượng nhỏ và các nhà tài chính sử dụng nó như một chính sách để gia tăng lợi nhuận. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao thì mức độ an toàn trong kinh doanh lại kém vì chỉ cần một khoản nợ tới hạn không trả được sẽ rất dễ làm cho doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, từ đó xuất hiện nguy cơ phá sản. Hệ số nợ cao thể hiện sự bất lợi đối với các chủ nợ nhưng lại có lợi cho các chủ sở hữu nếu đồng vốn vay được sử dụng đem lại hiệu quả cao. Về mặt lý thuyết tỷ số này biến động từ 0 đến dưới 1, nhưng thông thường nó dao động quanh giá trị 0,5; bởi lẽ nó bị tự điều chỉnh từ hai phía: chủ nợ và con nợ. Nếu chỉ số này càng cao, chủ nợ sẽ rất chặt chẽ khi cho vay thêm. Mặt khác về phía con nợ, nếu vay quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến quyền kiểm soát, đồng thời phải chia phần lợi nhuận quá nhiều cho vốn vay và rất dễ phá sản. b.Hệ số tự tài trợ Vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn Hệ số tự tài trợ = = 1- Hệ số nợ Chỉ tiêu này cho ta biết mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp đối với vốn kinh doanh của mình. Tỷ suất tự tài trợ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, có tính độc lập cao với các chủ nợ, do đó không bị ràng buộc hoặc bị sức ép của các khoản nợ vay. Các chủ nợ thường thích tỷ suất tự tài trợ càng cao càng tốt. Các chủ nợ thường nhìn vào hệ số tự tài trợ để thấy một sự đảm bảo cho các món nợ vay được hoàn trả đúng hạn. 1.2.4.4.4.Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận càng cao doanh nghiệp càng tự khẳng định được vị trí của mình trên thương trường. Nhưng nếu chỉ thông qua số lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong kỳ để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là tốt hay xấu thì có thể đưa ta đi tới những kết luận sai bởi lẽ số lợi nhuận này không tương xứng với những chi phí đã bỏ ra và số lượng tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng. Để khắc phục khiếm khuyết này, các nhà phân tích thường bổ sung thêm những chỉ tiêu tương đối để đánh giá về mức doanh lợi của doanh nghiệp. Khả năng sinh lời có thể được đánh giá theo một số chỉ số sau: Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần a.Hệ số sinh lời doanh thu Hệ số sinh lời doanh thu = Hệ số sinh lời doanh thu phản ánh cứ một đồng doanh thu thuần thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nói cách khác nó là thước đo chỉ rõ năng lực của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận. Sự biến động về hệ số này phản ánh sự biến động về hiệu quả nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu chỉ số này ở mức thấp, điều đó chứng tỏ lợi nhuận mang lại từ một đồng doanh thu quá thấp. Nguyên nhân có thể do chi phí quá cao , hiệu suất sử dụng tài sản thấp. Nếu tiếp tục tình trạng này, sớm hay muộn doanh nghiệp cũng sẽ rơi vào tình trạng vô cùng khó khăn về tài chính. Do đó đòi hỏi các nhà quản trị trong trường hợp này phải đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tỷ số doanh lợi doanh thu càng cao thì càng tốt, nó phản ánh xu hướng kinh doanh rất tốt của doanh nghiệp. Trong điều kiện này doanh nghiệp có khả năng mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh đồng thời các nhà đầu tư luôn tìm kiếm các doanh nghiệp làm ăn có lãi để đầu tư đồng vốn của mình. Thông thường chỉ số này được đánh giá là tốt nếu đạt 5% trở lên. b.Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) = Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu còn được gọi là hệ số hoàn vốn đầu tư: cho biết khi doanh nghiệp bỏ ra một đồng vốn tự có vào kinh doanh thì sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Các nhà đầu tư quan tâm đến chỉ số này bởi nó thể hiện khả năng thu nhập mà họ có thể nhận được nếu họ quyết định đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Tỷ lệ về khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu cao giúp doanh nghiệp tìm được nguồn vốn mới trên thị trường tài chính để tài trợ cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp mình. Ngược lại nếu tỷ lệ này thấp và dưới mức của tỷ lệ sinh lời cần thiết trên thị trường thì doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư. Tỷ lệ sinh lời vốn chủ sở hữu thay đổi theo ngành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên tỷ lệ cao không phải lúc nào cũng thuận lợi như trong trường hợp vốn chủ sở hữu quá nhỏ, vì khi đó mức độ mạo hiểm càng cao. Chính vì vậy khi phân tích cần phải chú ý xem xét các chế độ, chính sách tài chính mà doanh nghiệp đang áp dụng để tránh hiện tượng sai lệch về thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. EBIT Tổng tài sản c.Doanh lợi tài sản (ROA) Hệ số sinh lời tổng tài sản (ROA) = Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất phản ánh mức sinh lời của cả vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Hệ số này còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư, cho biết khả năng của ban quản lý trong việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tạo ra thu nhập. So sánh kết quả kinh doanh với vốn đầu tư, chỉ tiêu này giúp ta so sánh hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp với các hình thức sử dụng vốn khác ở bên ngoài cũng như mức độ mạo hiểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nhà phân tích có thể từ đó định lượng sự hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh, năng lực thu hút các phương tiện tài trợ mới và dự kiến trước lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai. d.Hệ số doanh lợi tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản Hệ số doanh lợi tổng tài sản = Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của một đồng tài sản được đầu tư hay còn gọi là khả năng sinh lời của chủ đầu tư. Đây là một chỉ tiêu bổ sung cho chỉ tiêu mức sinh lời của tổng tài sản. 1.3.Những yêu cầu trong phân tích tài chính doanh nghiệp 1.3.1.Tính đồng bộ khi phân tích các tỷ số tài chính Mặc dù mỗi tỷ số tài chính được tính toán và đánh giá dựa trên những giá trị riêng của nó, song việc phân tích tỷ số tài chính chỉ có hiệu lực cao nhất khi tất cả các tỷ số cùng được sử dụng để tạo ra một bức tranh rõ ràng nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Khi sử dụng đồng bộ các chỉ tiêu để phân tích thì nhà quản trị sẽ dễ dàng thấy được từng điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp và từ đó có chiến lược phát triển trong tương lai. Nói tóm lại trong phân tích tài chính doanh nghiệp việc sử dụng đồng bộ các tỷ số tài chính là vô cùng quan trọng, nó quyết định tính chính xác của kết quả phân tích tài chính. 1.3.2.Tính thận trọng khi phân tích các tỷ số tài chính Trong thực tế, các khoản mục của bảng cân đối tài sản có thể chịu ảnh hưởng của các tính toán mang nặng tính hình thức kế toán. Cách tính toán này có thể che đậy những giá trị thực của các tỷ số tài chính. Một trở ngại khác gây cản trở việc thể hiện chính xác các tỷ số tài chính là sự khác biệt giữa giá trị theo sổ sách kế toán và giá trị của các loại tài sản. Cần phải hết sức cẩn thận đối với những khác biệt này và phải so sánh các kết quả của các tỷ số về mặt thời gian và với cả các doanh nghiệp khác trong ngành. Nhìn chung, giá trị trung bình ngành và sự phân bố của tỷ số có thể cũng chỉ là một tiêu chuẩn để tham khảo ngay cả trong trường hợp sự tính toán thực sự khách quan và không có sự chênh lệch giữa giá trị theo sổ sách kế toán và thị giá. Các giá trị của ngành không được coi là những giá trị mà doanh nghiệp phải cố gắng đạt tới. Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng về cơ cấu đầu tư, công nghệ, chất lượng sản phẩm và khác nhau về giá trị kỳ vọng đối với các tỷ số. Bởi vậy không có gì là sai lầm khi một doanh nghiệp thực hiện một chiến lược bán hàng giá thấp và thu lợi nhuận cận biên thấp để hướng tới đạt mức doanh thu thuần cao. Do đó vị thế tài chính mạnh không nhất thiết đòi hỏi doanh nghiệp phải đạt trên trung bình tất cả các tỷ số. Mặt khác những quan niệm thận trọng này không có nghĩa là sự so sánh các chỉ số tài chính không có ý nghĩa, mà rõ ràng là cần phải có những tiêu chuẩn cụ thể cho từng ngành để sử dụng làm chuẩn mực chung cho ngành. Tóm lại, khi thiết lập một cách chính xác, khách quan, các tỷ số tài chính sẽ dẫn đường cho các nhà quản trị nhận định về khuynh hướng tương lai của doanh nghiệp. 1.4.những yếu tố ảnh hưởng tới công tác phân tích tài chính doanh nghiệp 1.4.1.ảnh hưởng của yếu tố nội tại Đây là các yếu tố tồn tại bên trong doanh nghiệp, nó chi phối, ảnh hưởng tới chất lượng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Các yếu tố nội tại bao gồm: 1.4.1.1.Chất lượng thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp Thông tin là một vấn đề hết sức cần thiết trong tất cả các lĩnh vực nói chung và trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp nói riêng. Thông tin vô cùng quan trọng và mang tính bắt buộc vì nếu không có thông tin hoặc thiếu thông tin thì không thể thực hiện được hoạt động phân tích tài chính. Mặt khác nếu chất lượng nguồn thông tin không tốt sẽ làm giảm chất lượng phân tích, vì khi đó các chỉ tiêu phân tích sẽ không chính xác và trở nên không có giá trị đối với mọi đối tượng. 1.4.1.2.Lựa chọn phương pháp phân tích trong doanh nghiệp Với nguồn thông tin đã thu thập được, cán bộ phân tích tài chính sẽ phải lựa chọn một phương pháp phân tích phù hợp nhất với doanh nghiệp của mình. Việc lựa chọn phương pháp phân tích hợp lý sẽ dẫn tới chất lượng công tác phân tích đạt hiệu quả cao và ngược lại nếu không lựa chọn được phương pháp phân tích hợp lý thì chất lượng công tác phân tích sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn. Ngày nay với sự phát triển của công nghệ tin học thì các phương pháp phân tích tài chính cũng ngày hoàn thiện hơn. Việc áp dụng công nghệ tin học vào phân tích tài chính đã góp phần nâng cao chất lượng công tác phân tích: kết quả phân tích chính xác, toàn diện, tốn ít thời gian, công sức và tiền của. 1.4.1.3.Trình độ cán bộ thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp Ngày nay hoạt động phân tích tài chính ngày càng phát triển với việc ứng dụng của công nghệ tin học vào phân tích, từ đó đòi hỏi trình độ cán bộ phân tích ngày càng phải nâng cao hơn nữa. Có như vậy thì mới đáp ứng được công việc đề ra. Trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp cán bộ phân tích là người trực tiếp thu thập thông tin và đưa ra phương pháp phân tích, vì vậy yếu tố trình độ của cán bộ phân tích là vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng tới tất cả các khâu trong quá trình phân tích. Nếu cán bộ phân tích có trình độ và năng lực cao thì công tác phân tích trong doanh nghiệp sẽ đạt chất lượng cao, ngược lại với đội ngũ cán bộ phân tích có trình độ thấp thì công việc phân tích tài chính trong doanh nghiệp không thể có chất lượng tốt. 1.4.1.4.Tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp có nhiều công đoạn khác nhau và mỗi công đoạn được thực hiện bởi một nhóm cán bộ phân tích nhất định. Việc bố trí sắp xếp hợp lý các công đoạn trong công tác phân tích là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của quá trình phân tích. Ngoài ra mỗi nhóm cán bộ phân tích có một khả năng chuyên môn cao trong một công đoạn nào đó, vì vậy việc bố trí họ vào những công đoạn phù hợp với trình độ chuyên môn của họ sẽ làm công tác phân tích tài chính đạt hiệu quả nhất. Như vậy yếu tố tổ chức công tác phân tích cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.4.1.5.Đặc điểm, đặc thù của doanh nghiệp Tất cả những doanh nghiệp đều có những đặc điểm riêng, tạo ra sự độc nhất, vô nhị của chúng. Các đặc điểm này thể hiện trong đầu tư, công nghệ, rủi ro, đa dạng hoá sản phẩm và nhiều lĩnh vực khác. Do đó mỗi doanh nghiệp cần thiết lập một tiêu chuẩn cho chính nó sau khi đã đưa các yếu tố này vào xem xét. Vì vậy chuẩn mực để đánh giá các doanh nghiệp trong những ngành kinh doanh khác nhau là hoàn toàn khác nhau, bởi thật khó thể so sánh các tiêu chuẩn về trình độ công nghệ giữa các ngành kinh doanh có công nghệ khác nhau. Như vậy phân tích tài chính ở các doanh nghiệp khác nhau ít nhiều cũng có sự khác nhau. 1.4.2.ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài 1.4.2.1.Hệ thống pháp lý Hệ thống pháp lý có tác động trực tiếp hay gián tiếp lên công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, khuyến khích hay hạn chế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống pháp lý ổn định sẽ tạo điều kiện cho các nhà phân tích có thể lựa chọn phương pháp phân tích tài chính phù hợp. Ngược lại nếu hệ thống pháp lý mà không ổn định, thống nhất sẽ làm cho quá trình phân tích, dự báo bị sai lệch, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình phân tích. 1.4.2.2.Hệ số chỉ tiêu trung bình ngành Hệ số chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu quan trọng khi tiến hành phân tích tài chính. Dựa vào hệ số chỉ tiêu trung bình ngành ta có thể khẳng định được các tỷ số tài chính của doanh nghiệp là tốt hay xấu, là cao hay thấp, qua đó nhận thấy những điểm mạnh hay những điểm yếu của doanh nghiệp để từ đó vạch ra được chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong thời gian tới. Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Những yếu tố được trình bày trên đây là một số những yếu tố có ảnh hưởng tương đối quan trọng đối với công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng. 2.1.Khái quát về Công ty Xây dựng Ngân Hàng 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Công ty Xây dựng Ngân Hàng là doanh nghiệp nhà nước được thành lập vào năm 1971 theo quyết định 218/QĐ-NH do Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký ,với nhiệm vụ chính là sửa chữa và xây dựng những kho tàng nhà cửa trong ngành ngân hàng.Trụ sở chính của công ty đóng tại Xã Thanh Trì - Huyện Thanh Trì - Thành phố Hà Nội. Khi mới thành lập tên gọi của Công ty là Ban xây dựng Ngân Hàng trực thuộc cục tài chính của Ngân hàng Trung ương. Ngay từ khi thành lập Ban Xây dựng Ngân Hàng dã có tới 38 nhân viên và công nhân với một phòng tài vụ dưới sự lãnh đạo của cục phó và một trưởng ban. Ban Xây dựng Ngân Hàng có nhiệm vụ đi xây dựng các trụ sở, kho tàng và hầm chứa tiền và kim khí quý của ngành ngân hàng ở các tỉnh, huyện được NHTƯ giao việc, xây dựng theo mẫu của các ngân hàng. Do sự bí mật mà các công ty khác không thể đảm nhiệm được mặt này, đây là những bí mật của ngành mà không thể tiết lộ rộng rãi cho mọi người biết được. Các công trình này chỉ một hoặc một số người được biết để đảm bảo bí mật cho ngành mà những người này cũng phải được chọn lọc do ngành ngân hàng hoặc Chính Phủ cho phép hoặc yêu cầu và những người bắt buộc có liên quan đến công trình. Những người được biết về công trình phải chịu trách nhiệm về sự bí mật của công trình đó, có những công trình khi làm xong thì những người được biết về công trình được đưa đến một nơi khác để tránh tiết lộ bí mật. Vì vậy công ty Xây dựng Ngân Hàng mới có thể tồn tại. Từ năm 1971-1977, cùng với sự phát triển của cả ngành, Ban Xây dựng Ngân Hàng có khoảng 50 nhân viên. Cơ cấu tổ chức của Ban bao gồm: 1 trưởng ban, 1 phó ban, đội nề, đội mộc, phòng vật tư, phòng tổ chức. Mỗi đội, mỗi phòng đều có một đội trưởng hoặc trưởng phòng. Đến năm 1978, theo quyết định số 114/QĐ-NH ngày 9-10-1978 do thống đốc Ngân hàng Nhà Nước ký thành lập “Xí nghiệp Xây lắp Ngân hàng” từ Ban Xây dựng Ngân Hàng. Ban lãnh đạo của Xí nghiệp xây lắp Ngân hàng lúc đó bao gồm 1 chủ nhiệm, 2 phó chủ nhiệm, các phòng ban gồm có : phòng kỹ thuật, phòng tổ chức hành chính, phòng vật tư, phòng tài vụ, 1 đội xe, 2 đội nề, 1 đội mộc. Tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty lúc đó là 84 người. Nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp Xây lắp Ngân hàng vẫn là xây dựng và sửa chữa kho tàng nhà xưởng trong ngành ngân hàng nhưng có quy mô to lớn hơn trước. Những công trình mà công ty thi công do Ngân hàng Trung Ương chỉ định thầu. Năm 1993, Công ty Xây dựng Ngân Hàng được thành lập theo quyết định số 03/QĐ-NH15 ngày 20/1/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước từ Xí nghiệp xây lắp ngân hàng. Công ty Xây dựng Ngân Hàng là một đơn vị hạch toán độc lập, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Công ty được bổ sung một số nhiệm vụ như :cải tạo và trang trí nội, ngoại thất các công trình; kinh doanh vật liệu xây dựng. Khách hàng chủ yếu của Công ty là các chi nhánh ngân hàng, sản phẩm của Công ty là các trụ sở giao dịch, nhà kho, nhà xe, hệ thống điện. Năm 1999 Công ty thành lập một chi nhánh tại Miền Nam nhằm mục đích đại diện cho Công ty giao dịch với các chủ thầu ở khu vực Miền Nam. Với nỗ lực vượt bậc,trải qua hơn 30 năm cho đến nay Công ty xây Xây dựng Ngân Hàng đang dần khẳng định được vị trí của mình trên thị trường xây dựng. Từ khi thành lập đến nay Công ty không ngừng phát triển, với đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ và máy móc thiết bị hiện đại, Công ty luôn luôn hoàn thành các chỉ tiêu mà nhà nước đã giao cho. 2.1.2.Cơ cấu tổ chức của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng bao gồm: - Ban giám đốc: gồm 1 Giám đốc và 3 phó giám đốc. - Các phòng chức năng gồm 4 phòng: +Phòng Tổ chức hành chính: gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng, 1 tổ bảo vệ và các nhân viên được giao nhiệm vụ cụ thể. +Phòng Kế toán tài vụ: gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và một số nhân viên kế toán. Trưởng phòng là kế toán trưởng của Công ty do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của giám đốc Công ty. +Phòng Kế hoạch kỹ thuật: gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và một số cán bộ chuyên môn. Trưởng phòng, phó phòng và các cán bộ chuyên môn do Giám đốc Công ty đề bạt, khen thưởng, nâng lương, kỷ luật, và các chế độ khác. +Phòng Kiểm soát: gồm 1 trưởng phòng, 1phó phòng và một số nhân viên chuyên môn. Trưởng phòng, phó phòng và các cán bộ chuyên môn do Giám đốc Công ty đề bạt, khen thưởng, nâng lương, kỷ luật, và các chế độ khác. - Các đơn vị sản xuất: gồm 6 Xí nghiệp thi công xây lắp, 1 Xí nghiệp tư vấn đầu tư và kinh doanh thiết bị tổng hợp, 7 đội thi công, 4 ban chủ nhiệm công trình và một cửa hàng kinh doanh thiết bị và vật liệu xây dựng. Do mở rộng phân quyền cho cấp dưới là đặc thù của Công ty nên Công ty tổ chức sắp xếp tạo điều kiện cho một số chị em công nhân không thể đi các công trình ở xa trong khoảng thời gian dài nên đã bố trí công tác phù hợp ở các đơn vị, cán bộ sức khoẻ yếu để làm công tác bảo vệ tại trụ sở nhằm ổn định được cuộc sống cũng như giải quyết các chính sách chế độ hợp tình hợp lý đối với một số cán bộ nghỉ hưu và những cán bộ lâu năm công tác về hưu trước tuổi. Đến 31/12/2003 tổng số cán bộ công nhân viên trong Công ty là 180 người, trong đó: Nam 121 người, Nữ 59 người. Trình độ đại học: 72 người. Trình độ Trung cấp: 40 người. Nhân viên và lao động: 68 người. 2.1.3.Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty Xây dựng Ngân Hàng 2.1.3.1.Đặc điểm thị trường của Công ty Thị trường chủ yếu của Công ty Xây dựng Ngân Hàng trong khoảng 5 năm về trước là các công trình thuộc ngân hàng Nhà nước ở các tỉnh miền Bắc. Nhưng trong những năm gần đây Công ty đã mở rộng thị trường hoạt động của mình, không chỉ bó hẹp ở các công trình thuộc ngân hàng Nhà nước mà Công ty đã mở rộng sang Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển khắp cả nước từ Điện Biên, Sơn La, Lào Cai đến An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre. Công ty đang có kế hoạch năm 2004 sẽ mở rộng thị trường kinh doanh sang các ngân hàng thương mại. 2.1.3.2.Đặc điểm về công nghệ và máy móc thiết bị của Công ty a.Đặc điểm về công nghệ Không giống như các ngành sản xuất khác là có một dây chuyền sản xuất cụ thể và cố định. Trong xây dựng, quy trình công nghiệp sản xuất bao gồm nhiều công đoạn phức tạp khác nhau, trong mỗi công đoạn lại có sự đòi hỏi phức tạp riêng của nó và phải tiến hành thực hiện như thế nào để tạo ra một sản phẩm, một hạng mục đáp ứng với yêu cầu kết cấu chung của toàn bộ công trình. Nhìn chung mỗi công trình Công ty tham gia xây dựng dều có quy trình công nghiệp chung như sau: Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ sản xuất Giải phóng mặt bằng Đào móng đóng cọc Đổ bê tông xây móng Bàn giao nhiệm thu Hoàn thiện công trình Xây thô công trình b.Đặc điểm về máy móc thiết bị Do đặc điểm và nhiệm vụ của Công ty là ngành xây dựng cơ bản, chủ yếu là tham gia thi công xây dựng sửa chữa và thầu các công trình vừa và nhỏ nên máy móc thiết bị của Công ty tương đối đa dạng, phong phú cả về chủng loại, chất lượng và số lượng. Hiện nay Công ty đang quản lý tài sản máy móc thiết bị bao gồm ôtô, máy cẩu, các loại máy chuyên dụng để phục vụ sản xuất thi công,… Trình độ trang bị kỹ thuật của Công ty là sự kết hợp giữa đầu tư đổi mới, cải tiến từng bộ phận, nhiều máy móc lạc hậu đã khấu hao hết mà vẫn còn sử dụng. Đặc điểm này ảnh hưởng đến một số chỉ số tài chính như: hệ số sinh lợi tài sản, hệ số sử dụng tài sản cố định, hệ số sử dụng tổng tài sản. Vì đầu tư quá nhiều hay quá ít sẽ gây ra sự chênh lệch trong tỷ trọng tổng tài sản hay đầu tư quá nhiều vào tài sản cố định thì các máy móc thiết bị này chưa thể phát huy hết công suất trong năm đầu tư nên làm giảm hiệu suất sử dụng tài sản cố định, doanh lợi doanh thu,…Trong những năm tới việc đầu tư các phương tiện, máy móc thiết bị hiện đại sẽ được Công ty cố gắng tăng cường hơn nữa để phục vụ cho quá trình thi công xây dựng nhằm tăng năng suất chất lượng và tiến độ công trình rút ngắn thời gian thi công và tiết kiệm chi phí nhân công, thuê máy móc,… Máy móc thiết bị phục vụ trong xây dựng hiện có của Công ty là tương đối tốt và còn khá mới, có đủ khả năng tập trung để đáp ứng nhu cầu sản xuất cao. Hệ số sử dụng bình quân của các loại máy móc trong Công ty là khoản 80%, số lượng vừa phải và được phân chia cho các đội quản lý và sử dụng. Căn cứ vào tiến độ thi công, khi cần có thể huy động toàn bộ đến chân công trình. Đối với các loại máy móc thiết bị đặc biệt ít sử dụng đến hoặc có giá trị lớn như: máy đóng cọc, máy khoan cọc, cầu trục cáp, … thì khi cần sử dụng Công ty sẽ đi thuê của các đơn vị khác như vậy sẽ kinh tế và phù hợp hơn là tự trang bị. 2.2.Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 2.2.1.Tổ chức & quy trình thực hiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 2.2.1.1.Tổ chức công tác phân tích tài chính Cũng như hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, tổ chức công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng cũng chưa được chú trọng đúng mức. Do vậy công tác phân tích tài chính chưa đem lại hiệu quả cao. Công tác tổ chức phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng chưa được tổ chức thành một phòng ban riêng mà nó được phòng Kế toán Tài vụ kiêm nhiệm. Chính từ việc công tác tổ chức phân tích tài chính chưa được chuyên môn hoá như vậy dẫn tới hiệu quả công tác phân tích tài chính chưa cao. Tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng hiện nay việc tổ chức phân tích tài chính cũng không diễn ra thường xuyên và định kỳ, nó chỉ được thực hiện mỗi khi Công ty cần lập một kế hoạch hay chiến lược phát triển kinh doanh nào đó. Hiện nay giám đốc Công ty giao việc tổ chức công tác phân tích tài chính cho kế toán trưởng Công ty đảm nhiệm. Kế toán trưởng có nhiệm vụ chỉ đạo và tổ chức hướng dẫn thực hiện việc phân tích. Kế toán trưởng của Công ty là người đưa ra kết luận cuối cùng trong hoạt động phân tích tài chính và từ đó tham mưu cho ban giám đốc về phương hướng chiến lược phát triển Công ty trong thời gian tới. Dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng thì bộ phận kế toán tổng hợp sẽ thực hiện việc tổng hợp các số liệu từ các báo cáo tài chính để tiến hành phân tích tài chính. Mặc dù công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty được tổ chức tại phòng kế toán tài vụ là chưa phù hợp với chức năng của phòng và trình độ chuyên môn của các nhân viên kế toán Công ty nhưng nó cũng có nhiều mặt thuận lợi, bởi vì phòng Kế toán Tài vụ là phòng trực tiếp thu thập và xử lý những thông tin kế toán tài chính Công ty. Với việc hiểu rõ nguồn gốc của những thông tin kế toán thì các nhân viên kế toán của phòng tiến hành phân tích cũng dễ dàng thuận lợi hơn. 2.2.1.2.Quy trình thực hiện phân tích tài chính tại Công ty Hiện nay Công ty Xây dựng Ngân Hàng đang thực hiện phân tích tài chính theo quy trình như sau: Sơ đồ 3: Quy trình phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng Thu thập thông tin Xử lý thông tin Phân tích và ra quyết định Đây là quy trình phân tích khá phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Việc thực hiện đúng và đầy đủ quy trình phân tích sẽ đem lại kết quả phân tích chính xác. Như vậy quy trình phân tích là một yếu tố quan trọng trong hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Hiện nay Công ty đang thực hiện khá tốt quy trình này, do đó kết quả phân tích tài chính của Công ty là tương đối chính xác. Tuy nhiên trong quy trình phân tích tài chính tại Công ty còn bỏ qua rất nhiều giai đoạn, rất nhiều công việc đặc biệt là việc thu thập thông tin chưa đầy đủ. Khi phân tích tài chính kế toán trưởng Công ty chỉ chú ý đến những thông tin trong nội bộ doanh nghiệp là các báo cáo tài chính chứ chưa chú ý đến những thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp như: thông tin thị trường, thông tin về các chính sách, thông tin về chỉ số trung bình ngành, … 2.2.2.Thông tin sử dụng trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng Hiện nay công tác phân tích tài chính tại Công ty chủ yếu sử dụng nguồn thông tin từ nội bộ doanh nghiệp, đó là các báo cáo tài chính của Công ty. Đặc biệt quan trọng là Bảng cân đối kế toán & Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty. Hai báo cáo này được lập hàng năm thông qua số liệu tổng hợp của từng tháng, quý. Bảng 8: Bảng cân đối kế toán Đơn vị: Đồng Tài sản Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 A.TSLĐ & ĐT ngắn hạn 41.383.882.752 56.772.923.966 88.964.435.847 I.Tiền 6.090.736.822 3.795.604.808 7.917.269.386 1.Tiền mặt tại quỹ 2.053.118.636 1.328.186.309 1.006.661.905 2.Tiền gửi ngân hàng 4.037.618.186 2.467.418.499 6.910.607.481 II.Khoản phải thu 24.471.752.587 24.945.325.789 35.980.907.285 1.Phải thu khách hàng 17.334.882.070 10.892.947.386 9.589.459.331 2.Trả trước cho người bán 628.356.650 1.172.002.676 621.084.726 3.Thuế VAT được khấu trừ 166.033.894 45.756.543 87.276.170 4.Phải thu nội bộ 1.333.604.738 12.826.775.005 25.419.977.249 5.Các khoản phải thu khác 5.008.875.235 57.844.179 263.109.809 6.Dự phòng khoản phải thu 0 (50.000.000) 0 III.Hàng tồn kho 6.509.002.901 19.497.396.541 35.313.692.896 1.NL, vật liệu tồn kho 493.428 493.428 2.Công cụ, dụng cụ 59.218.921 13.845.392 7.859.318 3.Chi phí sản xuất, kd dở dang 6.449.290.552 19.133.454.474 34.768.522.499 4.Hàng hoá tồn kho 0 349.603.247 537.311.079 IV.TSLĐ khác 4.312.390.442 8.534.596.828 9.752.566.280 1.Tạm ứng 4.047.687.032 8.330.360.998 9.413.505.312 2.Chi phí trả trước 264.703.410 204.235.830 339.060.968 B.TSCĐ & ĐT dài hạn 1.406.344.044 1.866.566.886 1.505.805.845 I.TSCĐ 1.018.283.751 1.420.931.034 1.470.843.845 TSCĐ hữu hình 1.018.283.751 1.420.931.034 1.470.843.845 _Nguyên giá 2.071.906.478 2.827.077.450 3.111.439.953 _Gía trị hao mòn luỹ kế (1.053.622.727) (1.406.146.416) (1.640.596.108) II.Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 388.060.293 445.635.852 34.962.000 Tổng tài sản 42.790.226.796 58.639.490.852 90.470.241.692 Nguồn vốn Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 A.Nợ phải trả 37.261.505.817 52.251.219.415 83.340.704.653 I.Nợ ngắn hạn 36.000.440.187 50.797.682.424 82.259.477.653 1.Vay ngắn hạn 11.464.487.689 19.265.751.544 21.909.341.099 2.Phải trả người bán 11.662.978.784 12.911.975.979 15.527.550.597 3.Người mua trả trước 2.401.785.202 3.060.425.365 14.263.590.800 4.Thuế & khoản thuế phải nộp nhà nước 487.141.821 (582.435.106) (740.329.544) 5.Phải trả công nhân viên 25.424.400 2.793.402 60.485.502 6.Phải trả cho các đơn vị 1.852.830.366 12.771.531.706 25.400.340.249 7.Khoản phải trả phải nộp khác 8.105.791.925 3.367.639.534 5.838.498.950 II.Nợ khác 1.261.065.630 1.453.536.991 1.081.227.000 Chi phí phải trả 1.261.065.630 1.453.536.991 1.081.227.000 B.Nguồn vốn chủ sở hữu 5.528.720.979 6.388.271.437 7.129.537.039 I.Nguồn vốn, quỹ 5.528.720.979 5.833.861.297 6.430.501.438 1.Nguồn vốn kinh doanh 2.773.332.791 3.974.139.615 4.171.940.266 2.Quỹ đầu tư phát triển 1.251.374.462 656.760.711 1.140.846.922 3.Quỹ dự phòng tài chính 254.973.674 254.973.674 254.836.674 4.Lợi nhuận chưa phân phối 854.217.894 947.957.297 862.877.576 II.Nguồn kinh phí, quỹ khác 394.822.158 554.410.140 699.035.601 1.Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm 122.226.632 170.016.239 212.204.339 2.Quỹ khen thưởng phúc lợi 272.595.526 384.393.901 486.831.262 Tổng nguồn vốn 42.790.226.796 58.639.490.852 90.470.241.692 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) Bảng 9: Báo cáo kết quả kinh doanh Đơn vị: Đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Tổng danh thu 49.839.837.638 57.635.516.140 67.239.109.391 1.Doanh thu thuần 49.839.837.638 57.635.516.140 67.239.109.391 2.Giá vốn hàng bán 46.921.534.844 54.202.438.323 63.508.120.703 3.Lợi nhuận gộp 2.918.302.794 3.433.077.817 3.730.988.688 4.Chi phí quản lý doanh nghiệp 1.601.578.461 1.892.117.140 2.289.612.523 5.Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 1.316.724.333 1.540.960.677 1.735.333.455 6.Thu nhập hoạt động tài chính 207.495.788 347.394.785 442.730.877 7.Chi phí hoạt động tài chính 94.041.138 110.704.992 148.773.587 8.Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính 113.454.650 236.689.793 293.957.290 9.Các khoản thu nhập bất thường 911.360 4.843.723 184.000.000 10.Chi phí bất thường 0 182.521 102.438.987 11.Lợi nhuận bất thường 911.360 4.661.202 81.561.013 12.Tổng lợi nhuận trước thuế 1.431.090.343 1.782.311.672 1.816.894.468 13.Thuế thu nhập doanh nghiệp 377.150.052 570.339.735 581.406.230 14.Lợi nhuận sau thuế 1.053.940.291 1.211.971.937 1.235.488.238 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) 2.2.3.Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp áp dụng tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng Hiện nay Công ty Xây dựng Ngân Hàng đang áp dụng hai phương pháp phân tích tài chính đó là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ. Đây là hai phương pháp phân tích tài chính rất phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Trong quá trình phân tích tài chính hai phương pháp này được áp dụng xen kẽ bổ sung cho nhau. Chính vì vậy nó đã góp phần làm cho công tác phân tích tài chính tại Công ty đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên sự kết hợp giữa hai phương pháp này vẫn còn đơn điệu, cứng nhắc và chưa đạt tới hiệu quả tối ưu của công tác phân tích. Sau khi tiến hành phân tích kế toán trưởng Công ty sẽ đưa ra bảng tổng hợp các chỉ tiêu thực hiện kế hoạch của năm và tham mưu cho ban giám đốc về chiến lược phát triển của Công ty trong thời gian tới. 2.2.4.Thực trạng nội dung phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng Công ty Xây dựng Ngân Hàng là một công ty thuộc ngành xây dựng nên ít nhiều nội dung phân tích tài chính tại Công ty cũng có ít nhiều khác với việc phân tích tại các doanh nghiệp khác. Tuy vậy qua xem xét, nghiên cứu một số bảng phân tích tài chính của Công ty em nhận thấy rằng nội dung phân tích tại Công ty vẫn còn chưa đầy đủ, và qua đó chưa thể đánh giá tình hình tài chính của Công ty một cách chính xác. Cụ thể nội dung phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng bao gồm những nội dung sau: - Phân tích khái quát hoạt động sản xuất kinh doanh - Phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ vốn trong năm - Phân tích một số chỉ tiêu tài chính cơ bản đánh giá tình hình tài chính 2.2.4.1.Phân tích khái quát hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Công ty Xây dựng Ngân Hàng tiến hành phân tích khái quát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở những chỉ tiêu thu thập trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh được lập hàng năm tại Công ty. Bảng 10: Một số chỉ tiêu khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong ba năm 2001, 2003, 2004 Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2002/2001 Năm 2003/2002 Chênh lệch (%) Chênh lệch (%) 1.Nguồn vốn kinh doanh 2.773.332.791 3.974.139.615 4.171.940.266 1.200.806.824 43,30 197.800.651 4,98 2.Tổng doanh thu 49.839.837.638 57.635.516.140 67.239.109.391 7.795.678.502 15,64 9.603.593.251 16,66 3.Lợi nhuận trước thuế 1.431.090.343 1.782.311.672 1.816.894.468 351.221.329 24,54 34.582.796 1,94 4.Lợi nhuận sau thuế 1.053.940.291 1.211.971.937 1.235.488.238 158.031.646 15,00 23.516.301 1,94 5.Thu nhập bình quân/tháng 1.020.000 1.118.000 1.330.000 98.000 9,61 212.000 18,96 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) Nhìn vào bảng 10 ta thấy nguồn vốn kinh doanh của Công ty Xây dựng Ngân Hàng qua các năm đều tăng lên. Năm 2002 tăng 1.200.806.824 đồng so với năm 2001, tỷ lệ tăng 43,30%. Năm 2003 tăng 197.800.651 đồng so với năm 2002, tỷ lệ tăng 4,98%. Điều đó cho thấy Công ty ngày càng phát triển với quy mô ngày càng lớn hơn. Nhưng ta thấy rõ ràng tốc độ tăng của năm 2003 là thấp hơn rất nhiều so với năm 2002. Tổng doanh thu qua các năm đều tăng lên, năm 2002 tăng 7.795.678.502 đồng so với 2001, tỷ lệ tăng 15,64%; năm 2003 so với 2002 tăng 9.603.593.251đồng, tỷ lệ tăng 16,66%. Lợi nhuận sau thuế qua các năm đều tăng lên. Cụ thể năm 2002 tăng 158.031.646 đồng so với 2001, tỷ lệ tăng 15,00%; năm 2003 tăng 23.516.301 đồng so với 2002, tỷ lệ tăng 1,94%. Rõ ràng trong năm 2003 tỷ lệ tăng lợi nhuận sau thuế của Công ty là rất thấp so với năm 2002. Công ty cần phải xem xét lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy vậy do tổng doanh thu và lợi nhuận sau thuế qua các năm đều tăng lên dẫn tới thu nhập bình quân đầu người của cán bộ công nhân viên trong Công ty hàng năm đều tăng lên; năm 2002 tăng 98.000 đồng so với 2001, tỷ lệ tăng 9,61%; năm 2003 tăng 212.000 đồng so với 2002, tỷ lệ tăng 18,96%. Thu nhập bình quân đầu người tăng hàng năm, đây là một tín hiệu rất đáng mừng cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. Như vậy hoạt động của Công ty là có hiệu quả, nó đã góp phần làm phát triển nền kinh tế của đất nước và cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên trong Công ty. 2.2.4.2.Phân tích tình hình sử dụng vốn trong năm Để đánh giá khả năng tìm kiếm nguồn tài trợ cho các sử dụng trong năm Công ty Xây dựng Ngân Hàng tiến hành lập bảng kê sự biến động của các loại tài sản và nguồn vốn giữa năm 2003 và 2002. Việc tiến hành phân tích và lập bảng kê này nhằm mục đích phân tích, xem xét quá trình biến đổi của nguồn vốn và sử dụng vốn trong năm. Từ đó lập bảng phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ như sau: Bảng 11: Phân tích tình hình sử dụng vốn trong năm 2003 Nguồn tài trợ Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) 1.Các loại tài sản giảm - Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 2.Các loại nguồn vốn tăng - Nợ ngắn hạn - Nguồn vốn kinh doanh, quỹ - Nguồn kinh phí, quỹ khác 410.673.852 410.673.852 32.203.060.831 31.461.795.229 596.640.141 144.625.461 1,26 1,26 98,74 96,47 1,83 0,44 Cộng nguồn tài trợ 32.613.734.683 100 Sử dụng vốn Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) 1.Các loại tài sản tăng - Tiền - Khoản phải thu - Hàng tồn kho - Tài sản lưu động khác - Tài sản cố định 2.Các loại nguồn vốn giảm - Nợ khác 32.241.424.692 4.121.664.578 11.035.581.496 15.816.296.355 1.217.969.452 49.912.811 372.309.991 372.309.991 98,86 12,64 33,84 48,50 3,72 0,16 1,14 1,14 Cộng sử dụng vốn 32.613.734.683 100 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) Từ bảng phân tích trên cho thấy trong năm 2003 Công ty Xây dựng Ngân Hàng đã mua sắm và sử dụng 32.613.734.683 đồng chủ yếu bằng cách tăng nợ ngắn hạn, tăng vốn kinh doanh và quỹ, nguồn kinh phí khác. Tổng các nguồn vốn tăng là 32.203.060.831 đồng chiếm 98,74% tỷ trọng nguồn tài trợ. Trong đó nợ ngắn hạn tăng lên chủ yếu 31.461.795.229 đồng chiếm 96,47% trong tổng số nguồn tài trợ. Các loại tài sản giảm nhưng không đáng kể 410.673.852 đồng, chiếm 1,26% trong tổng số nguồn tài trợ. Qua đây ta thấy nguồn tài trợ chủ yếu của Công ty Xây dựng Ngân Hàng là Nợ ngắn hạn. Tổng cộng sử dụng vốn trong năm 2003 của Công ty Xây dựng Ngân Hàng là 32.613.734.683 đồng, chủ yếu do tài sản tăng lên 32.241.424.692 đồng chiếm 98,86% trong tổng số sử dụng vốn. Trong đó chủ yếu khoản phải thu và hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Khoản phải thu tăng lên 11.035.581.496 đồng chiếm 33,84% trong tổng số sử dụng vốn; hàng tồn kho tăng 15.816.296.355 đồng chiếm 48,50% trong tổng số sử dụng vốn. Ngoài ra Công ty còn sử dụng vốn vào mục đích mua sắm thêm tài sản cố định và tài sản lưu động khác. Như vậy chính sách sử dụng vốn tại Công ty cũng cần nên xem xét lại, Công ty nên tận dụng tác động của đòn bẩy tài chính hơn nữa. 2.2.4.3.Phân tích một số tỷ số tài chính cơ bản của Công ty Theo lý thuyết, để có thể đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách chính xác nhất thì trong nội dung phân tích này các doanh nghiệp phải tiến hành phân tích bốn nhóm tỷ số tài chính cơ bản là: 1. Phân tích nhóm tỷ số về khả năng thanh toán 2. Phân tích nhóm tỷ số về khả năng hoạt động 3. Phân tích nhóm tỷ số về cơ cấu vốn 4. Phân tích nhóm tỷ số về khả năng sinh lời Tuy vậy, do điều kiện và khả năng còn hạn chế trong công tác phân tích tài chính nên hiện nay tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng chưa tiến hành phân tích đầy đủ bốn nhóm chỉ tiêu này. Trong nội dung phân tích các tỷ số tài chính cơ bản Công ty chỉ tiến hành phân tích hai nhóm tỷ số là : - Nhóm tỷ số về cơ cấu vốn - Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời Trong nội dung phân tích hai nhóm chỉ tiêu này Công ty cũng phân tích rất sơ sài và chung chung, chưa thể đánh giá hết tình hình tài chính hiện nay của Công ty. Cụ thể nội dung phân tích hai nhóm tỷ số này như sau: 2.2.4.3.1.Phân tích nhóm tỷ số về cơ cấu vốn Nhóm tỷ số về cơ cấu vốn phản ánh mức độ ổn định, tự chủ về tài chính cũng như khả năng sử dụng vay nợ của doanh nghiệp. Xem xét cơ cấu vốn hợp lý, bảo đảm an toàn cho các chủ nợ hay không? tốc độ tăng của vốn vay có đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp hay không? Điều này là rất cần thiết với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Sau đây là nhóm tỷ số về cơ cấu vốn của Công ty trong ba năm 2001, 2002, 2003: Bảng 12: Nhóm tỷ số về cơ cấu vốn của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2002/2001 Năm 2003/2002 Chênh lệch (%) Chênh lệch (%) 1.Hệ số nợ 0,870 0,896 0,921 0,026 2,988 0,025 2,790 2.Hệ số tự tài trợ 0,130 0,104 0,079 -0,026 -20 -0,025 -24,038 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) Qua bảng trên ta thấy hệ số nợ qua các năm 2001, 2002, 2003 chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản. Năm 2001 hệ số nợ là 0,870; năm 2002 là 0,896; năm 2003 là 0,921. Điều này có thể làm cho các chủ nợ không hài lòng vì tỷ số nợ cao, hệ số an toàn càng cao và món nợ của họ không được đảm bảo, họ sẽ không có cơ sở để tin tưởng vào việc trả nợ của Công ty. Năm 2002 hệ số nợ tăng so với năm 2001 (tăng 2,988%); năm 2003 hệ số nợ tăng 2,790% từ 0,896 lần năm 2002 lên 0,921 lần năm 2003. Hiện tượng tăng của hệ số nợ qua các năm chủ yếu do vay nợ ngắn hạn của Công ty tăng lên cao. Điều này chứng tỏ Công ty đã thực hiện việc vay nợ khá nhiều. Công ty cần thận trọng trong việc vay nợ hơn nữa. Do hệ số tăng cao nên hệ số tự tài trợ của Công ty giảm dần. Thông thường các nhà tài chính thường cho rằng tỷ lệ này hợp lý là 50% nhưng năm 2001 hệ số tự tài trợ của Công ty là 0,130; còn năm 2002 là 0,104 (giảm 20%); năm 2003 hệ số tự tài trợ là 0,079 (giảm 24,038%). Điều này cho thấy mức độ tự chủ về tài chính của Công ty là chưa cao, phần tài sản tài trợ bằng vốn đi vay lớn hơn phần tài sản tài trợ bằng vốn tự có. Tuy nhiên trong thực tế kinh doanh hiện nay đây là mức phổ biến ở các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh doanh, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước bởi vì nếu doanh nghiệp không tích cực đi vay để kinh doanh mà chỉ dựa vào vốn chủ sở hữu thì không có doanh nghiệp nào đủ vốn. 2.2.4.3.2.Phân tích nhóm tỷ số về khả năng sinh lời Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Công ty Xây dựng Ngân Hàng tiến hành phân tích hệ số sinh lời tổng tài sản và hệ số doanh lợi vốn. Bảng 13: Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2002/2001 Năm 2003/2002 Chênh lệch (%) Chênh lệch (%) 1.Doanh lợi tài sản (ROA) 0,033 0,030 0,027 -0,003 -9,091 -0,003 -10 2.Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) 0,190 0,189 0,173 -0,001 -0,526 -0,016 -8,465 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) Hệ số sinh lời tài sản phản ánh khả năng sinh lời của tài sản. Qua bảng 13 ta thấy hệ số doanh lợi tài sản qua các năm giảm xuống chút ít. Năm 2002 hệ số doanh lợi tài sản giảm 9,091% so với năm 2001 do tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế chậm hơn tốc độ tăng của tổng tài sản. Sang năm 2003 hệ số doanh lợi tài sản lại tiếp tục giảm 10% so với 2002 do tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế vẫn chậm hơn tốc độ tăng của tổng tài sản. Điều này chứng tỏ Công ty sử dụng chưa có hiệu quả tài sản. Khi thi công các công trình ở tỉnh khác thì Công ty không nên mua tài sản mà nên đi thuê các doanh nghiệp khác trong ngành thì có hiệu quả hơn rất nhiều. Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi quyết định bỏ vốn vào kinh doanh. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một trong số các mục tiêu quan trọng của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Tuy vậy qua bảng 13 ta thấy hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu của Công ty Xây dựng Ngân Hàng giảm qua các năm. Năm 2002 giảm 0,536% so với năm 2001; sang năm 2003 giảm với tỷ lệ cao hơn nữa là giảm 8,465% so với 2002. Qua đây ta thấy Công ty phải có những những biện pháp hữu hiệu hơn nữa trong việc sử dụng vốn chủ sở hữu. Trên đây là toàn bộ thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng. Như vậy qua tìm hiểu nghiên cứu ta thấy thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty có những ưu điểm, nhưng nó vẫn còn tồn tại rất nhiều mặt hạn chế. Dưới đây là một số đánh giá về thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty. 2.3.Đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 2.3.1.Những kết quả đạt được 2.3.1.1.Công tác quản lý Tài chính – Kế toán - Chế độ báo cáo tài chính Trong năm công tác báo cáo tài chính của Công ty đúng và đầy đủ theo quy định của nhà nước. Tổng hợp doanh thu năm chính xác kịp thời. Kiểm tra xác định được dư Nợ khả năng thanh toán của các đơn vị sản xuất trong Công ty. - Công tác cung cấp vốn Đáp ứng vốn kịp thời cho các đơn vị thi công, điều này giúp công ty hoàn thành đúng kế hoạch những công trình thi công và bàn giao đúng thời hạn cho khách hàng. - Công tác thống kê Công tác thống kê của Công ty kịp thời đầy đủ theo đánh giá của Chi cục thống kê Hà Nội. 2.3.1.2.Tổ chức bộ máy phân tích tài chính Dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng, bộ máy tổ chức công tác phân tích tài chính tại công ty Xây dựng Ngân Hàng hoạt động khá linh hoạt. Trong tổ chức công tác phân tích đã có sự phân công tách biệt giữa kế toán tổng hợp và các nhân viên thực hiện công tác phân tích tài chính. Do hiểu rõ trình độ chuyên môn của các nhân viên trong phòng Kế toán – Tài vụ nên kế toán trưởng đã phân công các giai đoạn trong quá trình phân tích cho từng người rất hợp lý. Điều đó đã góp phần làm cho công tác phân tích tài chính tại Công ty đạt hiệu quả cao hơn. Mặt khác những cán bộ nhân viên trong phòng kế toán là những người trực tiếp thu thập và xử lý các thông tin kế toán nên trong quá trình phân tích tài chính họ nắm bắt rõ được bản chất của vấn đề, điều đó rất thuận lợi cho việc phân tích tài chính tại Công ty. 2.3.1.3.Thông tin sử dụng trong công tác phân tích Nhìn chung những thông tin được sử dụng trong quá trình phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng là hoàn toàn chính xác. Những thông tin này chủ yếu trong nội bộ doanh nghiệp, đó là những bảng báo cáo tài chính mà chính nhân viên phòng Kế toán – Tài vụ đã lập ra. Chính từ nguồn thông tin chính xác kịp thời này mà công tác phân tích tài chính tại Công ty có rất nhiều thuận lợi. Kết quả phân tích được là hoàn toàn đáng tin cậy. Kế toán trưởng Công ty đã từ những kết quả phân tích đó mà tham mưu cho ban giám đốc về kế hoạch và chiến lược phát triển của Công ty. 2.3.1.4.Phương pháp phân tích tài chính tại Công ty Trong quá trình phân tích Công ty đã sử dụng hai phương pháp phân tích phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang sử dụng là phương pháp tỷ lệ và phương pháp so sánh. Việc kết hợp nhuần nhuyễn, đan xen giữa hai phương pháp này trong quá trình phân tích đã đem lại hiệu quả phân tích. Việc lựa chọn hai phương pháp tỷ lệ và so sánh cũng hoàn toàn phù hợp với Công ty bởi vì việc phân tích tại Công ty do phòng kế toán đảm nhiệm, như vậy trình độ chuyên môn của các cán bộ phân tích có phần nào bị hạn chế bởi họ thực chất là những nhân viên kế toán. Hai phương pháp tỷ lệ và so sánh là hai phương pháp tương đối đơn giản nên việc thực hiện nó không mấy khó khăn. Và trên thực tế Công ty đã sử dụng tốt hai phương pháp phân tích này trong nhiều năm vừa qua. 2.3.2.Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1.Tổ chức công tác phân tích tài chính Công tác tổ chức phân tích tài chính tại Công ty là chưa chuyên môn hoá. Việc tổ chức phân tích được giao cho phòng kế toán kiêm nhiệm. Như vậy những nhân viên kế toán đồng thời là những nhân viên phân tích tài chính. Rõ ràng một bộ phận mà đảm nhiệm hai chức năng đều rất quan trọng đối với Công ty thì chất lượng công việc sẽ không được đảm bảo. Điều đó có nghĩa là chất lượng phân tích tài chính tại Công ty không thể đạt được hiệu quả tốt nhất. Nhìn chung Công ty vẫn chưa chú trọng tới công tác tổ chức bộ máy phân tích tài chính. Điều này vẫn thường thấy ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. 2.3.2.2.Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Hiện nay, nguồn thông tin mà Công ty sử dụng trong quá trình phân tích tài chính chỉ là bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh được lập hàng năm tại Công ty. Trên thực tế chỉ dựa vào hai nguồn thông tin này thì chưa thể đánh giá hết được tình hình tài chính của Công ty một cách chính xác. Trong quá trình phân tích Công ty không sử dụng nguồn thông tin từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu Công ty sử dụng cả hai nguồn thông tin này nữa thì chắc chắn hiệu quả phân tích sẽ được nâng lên một cách đáng kể. Ngoài ra trong phân tích tài chính Công ty còn ít chú trọng tới các thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp như: các chính sách của nhà nước, các thông tin giá về thị trường, và nguồn thông tin trong ngành. Chính điều này đã làm giảm chất lượng phân tích tại Công ty. 2.3.2.3.Phương pháp phân tích tài chính Hiện nay tại Công ty việc áp dụng hai phương pháp tỷ lệ và so sánh trong quá trình phân tích tài chính là chưa linh hoạt. Hai phương pháp này tuy dễ thực hiện nhưng những kết quả mà nó đưa ra vẫn chưa chi tiết cụ thể. Hiện nay chỉ có phương pháp phân tích Dupont là đưa ra được kết quả phân tích chi tiết và cụ thể nhất nhưng tại Công ty hiện nay vẫn chưa quan tâm đến phương pháp này. Tuy vậy phương pháp này tương đối phức tạp và đòi hỏi cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao. Với việc chỉ áp dụng hai phương pháp phân tích truyền thống thì kết quả phân tích của Công ty cũng không thể cao hơn những doanh nghiệp cũng đang sử dụng hai phương pháp này. Vì vậy muốn nâng vị thế của doanh nghiệp lên một tầm cao mới đòi hỏi Công ty phải có những quan tâm nhất định trong việc lựa chọn phương pháp phân tích. 2.3.2.4.Nội dung phân tích tài chính tại Công ty Ngoài những hạn chế trên công tác phân tích tài chính tại Công ty còn một hạn chế khác nữa là: nội dung phân tích chưa được thực hiện đầy đủ, Công ty chủ yếu phân tích những chỉ tiêu tĩnh mà chưa quan tâm tới các chỉ tiêu động,…Nguyên nhân của việc thực hiện không đầy đủ nội dung phân tích là do hiện nay Công ty không chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố cạnh tranh. Hiện nay chỉ xây dựng những công trình trong ngành ngân hàng. Công ty được Ngân hàng Nhà nước chỉ định thầu các công trình trong ngành ngân hàng, chính vì không chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố cạnh tranh mà Công ty chưa thực hiện đầy đủ các nội dung phân tích tài chính. Trên đây là một số mặt hạn chế trong công tác phân tích tài chính và những nguyên nhân của nó. Tuy đây không phải là tất cả những mặt hạn chế trong công tác phân tích tại Công ty nhưng những hạn chế này là những hạn chế nổi bật nhất ảnh hưởng tới chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công ty. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 3.1.Định hướng phát triển của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Năm 2004 là năm Công ty chuẩn bị triển khai một số chủ trương lớn của Đảng bộ Ngân hàng TƯ và ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà Nước. Năm 2004 là năm Công ty có nhiều thuận lợi: một số công trình chuyển tiếp của năm 2003 đang gấp rút đi vào hoàn thiện ngay sáu tháng đầu năm. Một số công trình sẽ triển khai trong năm 2004. Về chủ quan: uy tín của Công ty đang ngày được củng cố. Công tác l ngày càng chấn chỉnh chặt chẽ hơn, lực lượng cán bộ ngày một có kinh nghiệm năng động hơn. Nhiệm vụ kế hoạch năm 2004 - Làm việc với Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước để xin được tiếp tục chỉ định thầu các công trình xây dựng trong ngành. - Tiếp tục tổ chức thực hiện triển khai mạnh mẽ ngành nghề kinh doanh mà Công ty đã được bổ sung mở rộng. - Phân công trong Ban Giám đốc, trưởng các đơn vị và các cán bộ có khả năng liên hệ các đối tác để tìm kiếm công việc liên tục cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. - Củng cố tăng cường công tác đấu thầu. - Đầu tư xây dựng văn phòng làm việc với diện tích khoảng 3000m2 sàn để cho Ngân hàng Nhà nước thuê trong thời gian Ngân hàng Nhà nước cải tạo khu 49 Lý Thái Tổ. - Tiến hành thực hiện phương án sắp xếp lại doanh nghiệp - Thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2004 là: 76 tỷ đồng Doanh thu: 72 tỷ đồng Lợi nhuận: 2 tỷ đồng Thu nhập bình quân trên 1.500.000 đồng/người/tháng Các biện pháp thực hiện - Để khắc phục những khó khăn của năm 2003 và các năm tiếp theo, Công ty cần đề nghị Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước quan tâm ủng hộ giúp đỡ Công ty, thuê văn phòng làm việc của Công ty Xây dựng Ngân Hàng (nhằm phục vụ cho cán bộ công nhân viên Ngân hàng Nhà nước khi giải phóng mặt bằng xây dựng công trình cao tầng tại 49 Lý Thái Tổ trong thời gian 2 đến 3 năm. - Khai thác mở rộng các thị trường hiện có và các thị trường tiềm năng như Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Ngoại thương, Công ty bảo hiểm tiền gửi, Quỹ tín dụng nhân dân TƯ,… đặc biệt là Ngân hàng chính sách Xã hội. - Phối hợp chủ đầu tư hoàn thành nhanh thủ tục xây dựng cơ bản các dự án để triển khai thi công. - Mở rộng các đầu mối để trực tiếp chỉ đạo giảm khâu trung gian, tăng cường củng cố chất lượng, số lượng cán bộ cho từng đơn vị. - Tạo các nguồn vốn tập trung cho đầu tư thiết bị phục vụ thi công. Nâng cao năng lực cạnh tranh. - Củng cố bộ máy đấu thầu (tăng cường mở rộng tiếp thị) để thắng thầu. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, có biện pháp xử lý kịp thời với đơn vị có công trình chậm tiến độ, chất lượng chưa cao, công tác đảm bảo an toàn lao động, kiểm tra việc chấp hành sử dụng vốn, quản lý vốn, quản lý lao động nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành, tăng lợi nhuận, giảm chi phí bất hợp lý, tăng tỷ suất lợi nhuận. - Xây dựng chế độ trả lương, thưởng cho từng đơn vị sản xuất, từng phòng nhằm kích thích khả năng lao động. - Tạo điều kiện cho cán bộ kỹ thuật tập huấn về công tác tư vấn, công tác đầu tư xây dựng, kinh doanh nhà ở, nâng cao nghiệp vụ. - Từng đơn vị phân công nhiệm vụ của từng thành việc trong phòng, trong đơn vị sản xuất. Căn cứ vào quy chế, vào tổ chức hoạt động của phòng và của đơn vị sản xuất. - Từ kế hoạch của Công ty từng đơn vị sản xuất lập chương trình, kế hoạch của từng phòng, từng đơn vị sản xuất năm 2004 đề ra các chỉ tiêu thực hiện. - Từng đơn vị phải mở rộng ngành nghề, thị trường mới nhằm tăng các nguồn thu - Quản lý, sử dụng hiệu quả nhân lực, thết bị, tiền vốn, chỉ tiêu hợp lý tránh phô trương, xa hoa lãng phí. - Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng. Sản xuất kinh doanh trên những quy định của luật pháp. - Mở rộng đào tạo cán bộ có đủ trình độ kỹ thuật, quản lý, tư vấn, giám sát, đầu tư dự án, tạo điều kiện khuyến khích cán bộ học tập, nâng cao trình độ nhằm đáp ứng nhiệm vụ trong những năm tới. - Củng cố bộ máy tổ chức cho các đơn vị hiện có đủ số lượng, chất lượng Trên đây là những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của năm 2004 để Công ty phấn đấu thực hiện nhằm xây dựng Công ty ngày càng phát triển toàn diện hơn. Yêu cầu mọi thành viên trong Công ty, dù ở vị trí công tác nào đều phải nghiêm túc nỗ lực thực hiện xuất phát từ quan điểm là xây dựng Công ty ngày một phát triển lớn mạnh hơn. 3.2.Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 3.2.1.Đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng cán bộ phân tích tài chính Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh gay gắt. Để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp. Điều này khẳng định trong mọi hoạt động, nhân tố con người không thể thiếu được. Và ngày nay cho dù máy móc có hiện đại đến đâu đi chăng nữa thì sự thiếu sự điều khiển của con người, chúng đều trở nên vô nghĩa. Trong hoạt động quản trị tài chính nói chung và phân tích tài chính nói riêng vai trò của con người lại càng cần thiết hơn bởi đây là lĩnh vực vô cùng phức tạp, việc xem xét và phân tích chúng nhiều khi thoát ra khỏi những đánh giá đơn thuần về mặt kỹ thuật phân tích mà đạt tới trình độ nghệ thuật. Do đó mặc dù hoạt động này được hỗ trợ bởi công nghệ máy tính với những phần mềm chuyên dụng song chúng chỉ là những công cụ phân tích giúp ta nắm được vấn đề và ra quyết định chức không thể thay thế ta tìm ra giải pháp xử lý. Như vậy năng lực và trình độ của cán bộ phân tích tài chính là một yếu tố quan trọng góp phần dưa ra các nhận định về tình hình tài chính của Công ty và tìm cách để cải thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty. Với nhận thức hiện đại, tầm quan trọng của phân tích tài chính ngày càng được khẳng định và nó đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ phân tích tài chính giỏi về chuyên môn, hiểu biết sâu rộng về đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, về môi trường kinh tế vĩ mô như: chính sách tài chính của Nhà nước, chính sách thuế, những xu thế biến động của nền kinh tế trong nước và quốc tế. Một thực tế hiện nay của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và Công ty Xây dựng Ngân Hàng nói riêng là chưa có cán bộ phân tích tài chính chuyên sâu thông thạo nghiệp vụ, công việc này thường do cán bộ của phòng kế toán – tài vụ của Công ty đảm nhiệm. Việc phân tích để đánh giá tình hình tài chính của Công ty còn rất sơ bộ, mới chỉ dừng lại ở việc tính toán so sánh một số chỉ tiêu ở kỳ này so với kỳ trước chứ chưa hình thành một sự phân tích tổng hợp các vấn đề tài chính của Công ty. Vấn đề đặt ra là Công ty cần phải có sự đầu tư thích đáng, có sự bồi dưỡng phù hợp cho các cán bộ phòng kế toán – tài vụ khi họ kiêm nhiệm cả hoạt động phân tích tài chính. Trước mắt Công ty nên thực hiện việc tuyển dụng thêm cán bộ trẻ được đào tạo quy củ về tài chính doanh nghiệp để đảm nhiệm việc phân tích tài chính. Việc chú trọng đến chất lượng của đội ngũ cán bộ phân tích tài chính là điều cần thiết để cải thiện công tác phân tích tài chính hiện nay ở Công ty. Công ty sẽ có một đội ngũ nhân viên phục vụ cho hoạt động này một cách đồng bộ với chất lượng cao, đảm bảo cho quá trình phân tích tài chính của Công ty được thông suốt. Việc Công ty quan tâm tới đào tạo con người, tới việc thực hiện đúng nội dung công tác phân tích tài chính, mở rộng hoạt động kinh doanh cho Công ty chắc chắn sẽ làm thay đổi chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24691.DOC
Tài liệu liên quan