Tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thành lập và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: Lời nói đầu
Nền kinh tế thế giới đã bước sang thế kỷ 21 với những thành tựu và tốc độ phát triển đầy ấn tượng. Với xu hướng khu vực hoá và dần dần tiến tới toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay đã và đang đặt ra cho kinh tế nước ta nhiều thử thách cũng như nhiều triển vọng tốt đẹp cho quá trình hội nhập.
Với đặc điểm của một nước đang phát triển, chúng ta cần phải huy động được một nguồn vốn nước đáp ứng cho tiến trình phát triển của đất nước, mà cụ thể là đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Với cơ cấu doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 90% doanh nghiệp cả nước nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp này ngày càng tăng do nhu cầu đầu tư, đổi mới thiết bị, máy móc, công nghệ và còn do số lượng ngày càng lớn của các doanh nghiệp mới được thành lập. Nhận thức được nhu cầu cấp thiết này, từ năm 1995 chúng ta đã lựa chọn loại hình tín dụng thu mua (cho thuê tài chính) như một lối thoát cho cơn khát vốn đang trói buộc các doanh nghiệp. Với những ưu điểm của mình, CTTC tỏ ra đặc biệt thích hợp với n...
74 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thành lập và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Nền kinh tế thế giới đã bước sang thế kỷ 21 với những thành tựu và tốc độ phát triển đầy ấn tượng. Với xu hướng khu vực hoá và dần dần tiến tới toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay đã và đang đặt ra cho kinh tế nước ta nhiều thử thách cũng như nhiều triển vọng tốt đẹp cho quá trình hội nhập.
Với đặc điểm của một nước đang phát triển, chúng ta cần phải huy động được một nguồn vốn nước đáp ứng cho tiến trình phát triển của đất nước, mà cụ thể là đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Với cơ cấu doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 90% doanh nghiệp cả nước nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp này ngày càng tăng do nhu cầu đầu tư, đổi mới thiết bị, máy móc, công nghệ và còn do số lượng ngày càng lớn của các doanh nghiệp mới được thành lập. Nhận thức được nhu cầu cấp thiết này, từ năm 1995 chúng ta đã lựa chọn loại hình tín dụng thu mua (cho thuê tài chính) như một lối thoát cho cơn khát vốn đang trói buộc các doanh nghiệp. Với những ưu điểm của mình, CTTC tỏ ra đặc biệt thích hợp với những doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền sản xuất, và trên thực tế CTTC cũng đã mang lại cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội thuận lợi để tìm kiếm nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh v.v... Tuy vậy qua thực tiễn vài năm hoạt động nghiệp vụ cho thuê tài chính đã gặp phải một số khó khăn nhất định, mà khó khăn lớn nhất cần phải tháo gỡ ngay là những tồn tại của môi trường pháp lý đối với nghiệp vụ này.
Qua thời gian thực tập tại Công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam em chọn đề tài “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thành lập và hoạt động của Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”. Với đề tài này, em muốn trình bày những tồn tại của môi trường pháp lý đối với hoạt động cho thuê tài chính và từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi phát triển thị trường cho thuê tài chính ở nước ta, góp phần thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và quá trình hội nhập với tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
Nội dung đề tài được chia thành 3 chương:
Chương I - Những vấn đề pháp lý cơ bản về hoạt động cho thuê tài chính
Chương II- Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương III - Hoàn thiện cơ chế pháp lý để phát triển thị trường CTTC ở nước ta.
Chương I
Những vấn đề pháp lý cơ bản về hoạt động cho thuê tài chính.
I-/ Khái quát về hoạt động cho thuê tài chính (CTTC).
1-/ Lịch sử phát triển của hoạt động CTTC.
a, ở các nước.
Cho thuê tài sản là một hoạt động được sáng tạo ra từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Các giao dịch thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2.800 trước Công nguyên tại thành phố Sumerian của người UR (là một thành phố phía Nam của thành phố Mesopotania - gần vịnh Ba tư, là một phần Iraq ngày nay). Trong các giao dịch đó, người cho thuê là các thầy tu, còn các nông dân tự do là người đi thuê. Tài sản thuê ở đây là các công cụ sản xuất nông nghiệp như súc vật kéo, nhà cửa, ruộng đất...
Những bộ luật quy định về cho thuê tài sản cũng ra đời từ rất sớm. Vào những năm 1700 trước Công nguyên, vua Babilon là Hamunarabi đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo ra một bộ luật lớn trong đó có đưa ra những quy định về cho thuê tài sản.
Trong các nền văn minh cổ đại như Hy lạp - La mã, Ai cập cũng xuất hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Các giao dịch thuê mua dưới thời kỳ này thuộc loại thuê mua truyền thống (Traditional Lease), với phương thức giao dịch tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay.
Cho đến những năm 50 của thế kỷ 19, ở Mỹ xuất hiện hình thức tín dụng thuê mua thuần (Net Lease) do Công ty United States Leasing Corporation sáng tạo ra. Từ khi xuất hiện nghiệp vụ này hoạt động CTTC đã có một bước phát triển nhảy vọt, đã tạo ra một sự thay đổi về chất của hoạt động CTTC. Theo nghiệp vụ này thì các Công ty CTTC có thể cho thuê một tài sản như một nhà máy hoàn chỉnh theo kiểu chìa khoá trao tay. Về chủng loại tài sản cho thuê rất phong phú đáp ứng được hầu hết các nhu cầu thuê tài sản. Tài sản thuê có thể là máy móc, thiết bị, dụng cụ văn phòng và cả những toà nhà lớn, thậm chí cả tổ hợp nguyên tử...
Năm 1960 nghiệp vụ CTTC được phát triển sang Châu Âu, đánh dấu cho sự kiện này là việc nghiệp vụ CTTC được ghi vào Luật thuê mua của hai cường quốc kinh tế mạnh nhất Châu Âu là Anh và Pháp.
Trong những năm gần đây hoạt động CTTC đang phát triển rất nhanh ở các nước đang phát triển ở Châu á, Châu Phi. Năm 1994 giá trị máy móc thiết bị thông qua hoạt động CTTC lên tới 44 tỷ USD, tăng gần 3 lần so với năm 1988. Riêng ở Hàn quốc là một trong những nước mà hoạt động CTTC đạt được những bước tăng trưởng đầy ấn tượng. Năm 1994 nước này đã trở thành thị trường CTTC đứng thứ 5 trên thế giới.
Như vậy, hoạt động CTTC đã có nguồn gốc ra đời từ rất sớm và kể từ những năm 50 của thế kỷ 19 hoạt động này đã được sử dụng như một nghiệp vụ tài chính chuyên sâu và có hiệu quả trên phạm vi toàn cầu với sự ra đời của hàng loạt các Công ty CTTC độc lập, các Công ty này đã tạo ra những lợi ích kinh tế đáng kể cho nền kinh tế các nước.
b, ở Việt nam.
Sau 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá ổn định so với các nước trong khu vực Đông nam á. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên kết quả đó chính là chính sách đầu tư phát triển kinh tế đã được cởi mở. Các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh: Bên cạnh các nguồn vốn đầu tư từ bên gnoài như ODA, WB, ADB, vốn liên doanh v.v... các doanh nghiệp còn được các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước cho vay hàng chục ngàn tỷ đồng để đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là vốn trung và dài hạn để trang bị, đổi mới máy móc trang thiết bị và công nghệ còn nhiều khó khăn, trở ngại. Do vậy, các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc đầu tư máy móc, thiết bị sản xuất ra sản phẩm mới với số lượng, chất lượng và giá cả để cạnh tranh với hàng nhập khẩu và vươn tới xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhận thức được vấn đề cấp bách này, từ năm 1995 chính phủ đã có Nghị định 64 - CP ngày 9/ 10/ 1995, Ban hành quy chế tổ chức và điều hành của Công ty CTTC Việt nam. Với mục đích tạo ra một kênh tín dụng mới để hỗ trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tính đến cuối năm 1997, sau 2 năm Nghị định 64 có hiệu lực cả nước đã ra đời 7 Công ty CTTC. Các Công ty này được thành lập theo loại hình Công ty trực thuộc các ngân hàng thương mại quốc doanh hoặc các Công ty liên doanh. Ngoài ra cho đến nay đã xuất hiện trên 5 Công ty có hoạt động cho thuê máy móc thiết bị. Đến năm 1998 Ngân hàng Ngoại thương Việt nam thành lập Công ty CTTC nâng tổng số Công ty CTTC trong cả nước lên 8 Công ty, cùng với một thị trường gồm hơn 6000 doanh nghiệp Nhà nước và hàng chục ngàn doanh nghiệp cổ phần, trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã... đang đói vốn trầm trọng để đầu tư đổi mới công nghệ.
2-/ Khái niệm, đặc điểm của hoạt động cho thuê tài chính.
a, Một số khái niệm về hoạt động CTTC.
* Khái niệm cho thuê tài chính và đặc điểm của hoạt động CTTC.
Cho thuê tài chính là hoạt động còn hết sức mới mẻ ở Việt nam; vì vây vẫn còn nhiều người chưa hiểu được rõ khái niệm và các tiêu chuẩn để một giao dịch được coi là CTTC dẫn đến chưa có sự phân biệt giữa CTTC và các hình thức tín dụng khác. Việc làm rõ khái niệm này có ý nghĩa quan trọng.
Hiện nay trên thế giới, ở mỗi quốc gia khác nhau có khái niệm khác nhau về CTTC. Tuy nhiên để một giao dịch được coi là CTTC thì giao dịch đó phải thoả mãn 1 trong 4 điều kiện sau đây của Uỷ ban tiêu chuẩn Kế toán quốc tế (IASC):
- Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao khi kết thúc hợp đồng.
- Hợp đồng quy định quyền chọn mua tài sản thuê với giá tượng trưng tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.
- Thời hạn của hợp đồng chiếm phần lớn thời hạn hữu dụng của tài sản.
- Hiện giá của toàn bộ các khoản tiền thuê do người thuê trả tương đương hoặc lớn hơn giá thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
Dựa trên những cơ sở đó, tại mỗi quốc gia có hoạt động CTTC lại đưa ra những tiêu chuẩn phù hợp với môi trường kinh doanh của đất nước mình. ở nước ta trong Luật các tổ chức tín dụng (12/ 12/ 1997) và Nghị định 64 CP (9/ 10/ 1995) đều đưa ra khái niệm CTTC. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng thì “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng’.
Theo điều 3 Nghị định 64 CP ngày 9/ 10/ 1995 của chính phủ ban hành Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam, một giao dịch CTTC phải thoả mãn một trong các điều kiện sau:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.
- Nội dung hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo gia danh nghĩa thấp hơn giá thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản.
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
Như vậy về cơ bản những quy định của Nghị định 64 CP về tiêu chuẩn để một giao dịch được gọi là CTTC đã phù hợp với những điều kiện của Uỷ ban tiêu chuẩn Kế toán quốc tế (IASC)
* Khái niệm bên cho thuê:
Bên cho thuê là người nắm quyến sở hữu đối với tài sản cho thuê trong suốt thời hạn của hợp đồng. Theo quy định của pháp luật Việt nam thì bên cho thuê là Công ty CTTC có tư cách pháp nhân được cấp giấy phép hoạt động.
* Khái niệm bên thuê:
Trong một giao dịch CTTC thì bên đi thuê là khách hàng của các Công ty CTTC. Theo quy định của pháp luật Việt nam thì bên đi thuê chỉ có thể là các doanh nghiệp được cơ quan Nhà nước thành lập. Việc sử dụng tài sản thuê của bên thuê phải tuân theo những thoả thuận trong hợp đồng, không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không được bên cho thuê đồng ý bằng văn bản. Do đặc trưng của hoạt động CTTC là bên đi thuê không được quyền sở hữu tài sản thuê, nên bên thuê không được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp hoặc để đảm bảo cho bất kỳ nghiệp vụ tài chính nào khác. Tuy nhiên bên thuê cũng phải có trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê và chịu mọi rủi ro đối với tài sản thuê và mọi rủi ro do tài sản thuê gây ra cho cá nhân tổ chức khác trong thời hạn thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê bên đi thuê có quyền mua lại tài sản hoặc thoả thuận tiếp tục thuê tài sản đó với bên cho thuê.
* Khái niệm tài sản thuê:
Tài sản thuê là đối tượng của giao dịch CTTC. Theo nghị định 64 CP thì tài sản thuê là máy móc thiết bị và các động sản khác đạt tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, có giá trị sử dụng hữu ích trên một năm, được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu.
* Khái niệm thời hạn cho thuê:
Thời hạn cho thuê là thời gian bên thuê sử dụng tài sản thuê và trả tiền thuê, được bên cho thuê và bên thuê thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong hoạt động CTTC, thời hạn thuê có thể chia làm hai giai đoạn theo sự thoả thuận của hai bên:
+ Thời hạn thuê cơ bản: là thời hạn các bên không được quyền huỷ ngang hợp đồng nếu không có sự chấp thuận của bên kia. Trong suốt thời gian này, người cho thuê thường kỳ vọng thu hồi đủ vốn cộng với số tiền lãi trên số tiền vốn đã tài trợ.
+ Thời hạn gia hạn tuỳ chọn: là thời hạn người thuê có thể tiếp tục thuê thiết bị tuỳ theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai đoạn này thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn cơ bản, thường chiếm tỷ lệ 1- 2% tổng số tiền thuê ban đầu.
* Khái niệm tiền thuê:
Tiền thuê là khoản tiền bên đi thuê phải thanh toán cho bên cho thuê theo thoả thuận trong hợp đồng. Tổng số tiền thuê ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản thuê trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng. Mức tiền thuê tuỳ thuộc vào thời hạn và phương thức của hợp đồng.
b, Phân biệt hoạt động CTTC với các hoạt động tín dụng khác.
* Sự khác biệt giữa CTTC và cho thuê vận hành.
Thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản có từ lâu đời, nó còn được gọi là cho thuê hoạt động hay cho thuê kiểu truyền thống. Giữa CTTC và cho thuê vận hành có sự khác biệt như sau:
- Đối với hoạt động CTTC thì không được huỷ ngang hợp đồng còn cho thuê vận hành các bên có thể huỷ ngang hợp đồng.
- Trong hoạt động CTTC, những rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản thuê thì do bên thuê chịu, còn trong hoạt động cho thuê vận hành thì bên đi thuê không phải chịu những rủi ro ấy khi những thiệt hại đối với tài sản không phải do lỗi của bên thuê.
- Đối với hoạt động CTTC, tài sản thuê trước khi ký hợp đồng có thể không thuộc sở hữu của người cho thuê mà do người đi thuê tìm, lựa chọn nhà cung cấp và yêu cầu các Công ty CTTC mua để cho bên thuê thuê tài sản đó. Còn đối với hoạt động cho thuê vận hành thì tài sản trước khi ký hợp đồng phải thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê.
- Bên CTTC chấp nhận chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên thuê khi hết hạn hợp đồng, còn bên cho thuê vận hành thì không có ý định đó.
- Thời hạn cho thuê trong CTTC chiếm phần lớn thời gian hữu ích của tài sản, trong khi đó thời gian cho thuê vận hành thường rất ngắn.
- Tổng số tiền mà bên đi thuê phải trả trong CTTC rất lớn, còn trong cho thuê vận hành thì số tiền này rất nhỏ so với giá trị tài sản lúc ký kết hợp đồng.
Phân biệt giữa hoạt động CTTC với hình thức mua trả góp.
- Trong CTTC bên cho thuê là các Công ty CTTC còn trong hoạt động mua trả góp thì bên cho thuê có thể là nhà cung cấp hoặc Công ty CTTC.
- Bên đi thuê trong giao dịch CTTC là các pháp nhân còn trong mua bán trả góp thì bên đi thuê là các pháp nhân hoặc cá nhân.
- Thời hạn của hợp đồng trong CTTC từ 1 đến 20 năm hoặc dài hơn, trong giao dịch mua trả góp có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Giá trị còn lại của tài sản trong CTTC có thể chuyển giao cho bên thuê khi hết hạn hợp đồng. Còn trong mua bán trả góp thì giá trị còn lại của tài sản chuyển giao cho người thuê khi hết hạn hợp đồng.
- Quyền sở hữu trong giao dịch CTTC thuộc về bên thuê khi kết thúc hợp đồng nếu 2 bên có thoả thuận. Trong giao dịch mua trả góp thì quyền sở hữu tài sản đương nhiên thuộc về bên thuê khi kết thúc hợp đồng.
* Sự khác biệt giữa CTTC với hình thức cho vay bằng tiền.
- Tín dụng ngân hàng là hình thức cho vay bằng tiền dưới hình thức cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. CTTC cũng là hình thức cho vay nhưng là cho vay bằng tài sản. Chính vì vậy sau khi ký kết hợp đồng thì bên thuê là các doanh nghiệp đi thuê sẽ được bổ xung tài sản cố định như máy móc thiết bị... Còn đối với tín dụng ngân hàng doanh nghiệp sẽ được bổ xung vốn lưu động bằng tiền.
- Phí CTTC thường cao hơn lãi suất tín dụng trung và dài hạn trong tín dụng ngân hàng vì phí trong hoạt động CTTC được tính trên cơ sở lãi suất trung, dài hạn và phí quản lý Công ty CTTC.
- Hoạt động CTTC, bên cho thuê nắm giữ quyền sở hữu tài sản,bên đi thuê chỉ có quyền sử dụng, khai thác công dụng của tài sản, vì vậy bên cho thuê vẫn có quyền kiểm tra tài sản trong quá trình sử dụng của bên thuê. Trong tín dụng ngân hàng các tổ chức tín dụng chỉ cấp tiền cho bên đi vay, vì vậy nếu doanh nghiệp dùng tiền đó đầu tư vào tài sản thì họ có quyền sở hữu tài sản và khi doanh nghiệp đó bị phá sản thì bên đi vay tiền mặc nhiên thu hồi tài sản của mình còn trong CTTC thì quyền đó thuộc về các Công ty CTTC. Chính vì vậy tín dụng thông qua CTTC có mức độ an toàn cao hơn tín dụng vay bằng tiền.
- Trong hoạt động CTTC, bên đi thuê không phải thế chấp tài sản còn trong tín dụng ngân hàng bên đi vay bắt buộc phải có tài sản thế chấp khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng.
3-/ Lợi ích của CTTC đối với nền kinh tế thị trường.
Kể từ khi ra đời cho đến nay, hoạt động CTTC đã phát triển hết sức mạnh mẽ ở nhiều quốc gia. Sở dĩ các quốc gia lựa chọn hình thức tín dụng này là do lợi ích to lớn mà nó mang lại cho nền kt nói chung và các chủ thể tham gia vào hoạt động CTTC.
a, Lợi ích đối với nền kinh tế.
* CTTC góp phần thu hút đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế.
Do tính chất của CTTC có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình thức tín dụng khác nên CTTC có thể huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư. Hơn nữa CTTC không làm tăng nợ nước ngoài, do đó thông qua hình thức tín dụng này các quốc gia vừa thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng các thiết bị máy móc, công nghệ, kinh nghiệm quản lý.. vừa tạo môi trường thuận lợi cho việc tiếp nhận vốn ODA. Đặc biệt đối với các nước kinh tế đang phát triển như nước ta thì CTTC đã và đang phát huy vai trò mạnh mẽ, bởi vì các nước đang phát triển việc tích luỹ vốn thường rất khó khăn, không đáp ứng được nhu cầu đổi mới thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ có CTTC mới khắc phục được khó khăn này vì nó có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn quốc tế, hiện đại hoá sản xuất, tăng hiệu quả, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
* CTTC góp phần thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
Về mặt lý luận, CTTC là hoạt động tài trợ tín dụng trung, dài hạn, do đó có thể coi thị trường CTTC là một bộ phận cấu thành của thị trường vốn. Khi thị trường này phát triển sẽ tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng từ đó thúc đẩy các hình thức tín dụng mới ra đời nâng cao hiệu quả hoạt động của các hình thức tín dụng hiện có.
* CTTC góp phần thúc đẩy đổi mới thiết bị công nghệ, cải tiến khoa học kỹ thuật.
Thông qua hoạt động CTTC, các loại máy móc thiết bị, công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến được ứng dụng, nâng cao trình độ sản xuất trong điều kiện thiếu vốn đầu tư. Trên cơ sở đó trình độ khoa học kỹ thuật của một quốc gia được phát triển.
b, Lợi ích đối với bên cho thuê.
* CTTC là một hoạt động kinh doanh tín dụng có mức độ an toàn cao.
Là hình thức tài trợ vốn trung, dài hạn thông qua việc cho thuê các máy móc thiết bị và công nghệ , do đó CTTC là một hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao đối với bên cho thuê vì:
Thứ nhất, quyền sở hữu tài sản cho thuê thuộc người cho thuê, người cho thuê có quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Nếu có những dấu hiệu không an toàn, người cho thuê có thể thu hồi tài sản ngay, hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Thứ hai, tài trợ thông qua CTTC sẽ đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích, nhờ vậy đảm bảo khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của người cho thuê và khả ngăng trả nợ của họ.
Thứ ba, tài trợ bằng hoạt động CTTC giúp người cho thuê không bị khó khăn về khả năng thanh khoản do tiền thuê và vốn được thu hồi dưạ trên hiệu quả hoạt động của tài sản.
* Hoạt động CTTC giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh :
+ Trong thời gian diễn ra giao dịch cho thuê, nguồn vốn tài trợ được thu hồi dần, cho phép người cho thuê có thể tái đầu tư.
+ Người cho thuê chỉ tập trung vào lĩnh vực hẹp nên có điều kiện đầu tư theo chiều sâu cả về kiến thức kinh tế kỹ thuật và kỹ năng nghiệp vụ tín dụng. Như vậy ngày càng có khả năng nâng cao hiệu quả kinh doanh.
c, Lợi ích đối với người đi thuê.
* Người thuê có khả năng tăng năng lực sản xuất khi không có khả năng về nguồn vốn để đầu tư.
Trong quá trình hoạt động sản xuất, mục đích tối cao của doanh nghiệp là lợi nhuận cao. Muốn vậy sản phẩm của mình phải có vị trí trên thị trường thông qua chất lượng sản phẩm, gia cả hợp lý và hợp thị hiếu người tiêu dùng. Trong kinh tế thị trường, luôn có nhiều đối thủ cạnh tranh, luôn có sự thay đổi về công nghệ. Vì vậy, doanh nghiệp phải luôn có sự thích ứng với môi trường kinh doanh, đảm bảo sản phẩm không bị lạc hậu so với đối thủ cạnh tranh. Nhưng trên thực tế, vốn của doanh nghiệp rất hạn chế, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường gặp khó khăn về vốn trung và dài hạn. Các doanh nghiệp này có thể đi vay vốn ở các tổ chức tài chính nhưng với điều kiện họ phải có tài sản để thế chấp, hoặc phải có một pháp nhân đứng ra bảo lãnh, mà điều này lại quá khó khăn đối với doanh nghiệp đang đói vốn. Tuy nhiên, bằng con đường thuê tài chính, bên đi thuê không phải có tài sản thế chấp mà vẫn có máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến nếu họ có uy tín và dự án kinh doanh khả thi.
* Hoạt động CTTC có thể giúp cho doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn vào tài sản cố định.
Mặc dù, trên thực tế nếu các doanh nghiệp có khả năng tài chính để tự tài trợ để đổi mới máy móc thiết bị, nhưng để đáp ứng vốn lưu động trong các hoạt động khác. Các doanh nghiệp lựa chọn con đường đi thuê tài chính để có tài sản cố định mà nguồn vốn lưu động vẫn được đảm bảo.
* CTTC cho phép người đi thuê tiết kiệm được chi phí từ việc giảm thuế.
Trong hạch toán cuối năm của mỗi doanh nghiệp, các khoản tiền thuê phải trả được tính vào chi phí hợp lệ, hợp lý do đó chúng làm giảm thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Vì vậy tiết kiệm được một khoản tiền đáng kể do giảm được thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
d, Lợi ích đối với người cung cấp tài sản thuê.
Hoạt động CTTC phát triển, tạo cho các bên đi thuê dễ dàng trong việc đổi mới máy móc, thiết bị vì vậy sẽ tạo ra một thị trường tiêu thụ máy móc thiết bị rộng lớn cho các nhà sản xuất, các nhà cung cấp. Hơn nữa trong CTTC các Công ty CTTC đóng vai trò là trung gian giữa người đi thuê (bên cầu) và người sản xuất, cung cấp máy móc, thiết bị công nghệ (bên cung) nên các Công ty CTTC đã trở thành một mạng lưới phân phối sản phẩm với số lượng lớn và có hiệu quả.
II-/ Cơ chế pháp lý trong việc thành lập và hoạt động của các Công ty CTTC tại Việt nam.
1-/ Quy chế thành lập của Công ty CTTC tại Việt nam.
a, Các loại Công ty CTTC được phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
Theo quy định tại Thông tư số 03/ TT - NH5 hướng dẫn thự hiện Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam. Các loại Công ty CTTC bao gồm:
- Công ty CTTC của Việt nam gồm:
+ Công ty CTTC do ngân hàng, Công ty tài chính của Việt nam thành lập.
+ Công ty CTTC do ngân hàng , Công ty tài chính cùng với các doanh nghiệp khác của Việt nam thành lập.
Các loại Công ty CTTC trên được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp Nhà nước, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, có quyền hạch toán kinh doanh độc lập và tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình.
- Các Công ty có yếu tố vốn nước ngoài bao gồm:
+ Công ty liên doanh giữa bên Việt nam là một hoặc nhiều ngân hàng, Công ty tài chính, doanh nghiệp (nhưng ít nhất phải có một ngân hàng hoặc một Công ty tài chính tham gia) với bên nước ngoài là một hoặc nhiều ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty CTTC và tổ chức tài chính quốc tế trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
+ Công ty 100% Vốn nước ngoài do các ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty CTTC nước ngoài thành lập tại Việt nam bằng 100% vốn 100% vốn của bên nước ngoài.
b, Điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các Công ty CTTC.
Để đảm bảo điều kiện tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật và cũng để đảm bảo việc cấp giấy phép cho đúng đối tượng có khả năng kinh doanh. Nhà nước đưa ra các điều kiện cầu thiết, chỉ khi có đủ các điều kiện đó các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới cấp (và phải cấp) giấy phép thành lập và hoạt động cho các tổ chức tín dụng (Công ty CTTC). Theo luật các tổ chức tín dụng thì các chủ thể thành lập phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
1. Có nhu cầu hoạt động trên địa bàn.
Nói cách khác người xin cấp giấy phép hoạt động CTTC phải xác định được thị trường khách hàng của mình, hoạt động CTTC phải là hoạt động đang được sự quan tâm của các doanh nghiệp và cũng phải phù hợp với các chính sách phát triển kinh tế đất nước.
2. Có mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật.
Đối với hoạt động CTTC - một hoạt động mới mẻ - là một hoạt động tín dụng, mà muốn hoạt động được bắt buộc các tổ chức tín dụng phải có một số vốn nhất định. Số vốn này cũng là yếu tố đảm bảo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng trong quan hệ với khách hàng, với bên cung cấp tài sản thuê. Theo quy định tại Nghị định 82/ 1998/ NĐ-CP ngày 03/ 10/ 1998 của chính phủ ban hành danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng. Mức vốn pháp định đối với các Công ty CTTC (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) như sau:
- Đối với Công ty CTTC Việt nam mức vốn pháp định là 50 tỷ đồng Việt nam.
- Đối với Công ty CTTC liên doanh và Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài mức vốn pháp định là 5.000.000 USD.
3. Thành viên sáng lập phải có uy tín và năng lực tài chính.
Đối với Công ty CTTC Việt nam thì thành viên sáng lập phải là một hoặc nhiều ngân hàng, Công ty tài chính thành lập Công ty CTTC trực thuộc hoặc có thể cùng với các doanh nghiệp khác thành lập Công ty CTTC dưới hình thức Công ty TNHH, Công ty cổ phần.
Đối với Công ty CTTC liên doanh thì bên Việt nam bắt buộc phải có ít nhất một ngân hàng, Công ty tài chính tham gia và bên nước ngoài có thể là ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty CTTC hoặc tổ chức tài chính quốc tế.
Đối với Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài thì chủ thể thành lập là các ngân hàng, Công ty tài chính hoặc các Công ty CTTC nước ngoài.
Quy định này làm nâng cao tính pháp lý của Công ty CTTC trong việc thành lập cũng như hoạt động. Vì các chủ thể thành lập hoặc tham gia thành lập Công ty CTTC chủ yếu là các ngân hàng, các Công ty tài chính... Đó là các chủ thể có uy tín và năng lực tài chính cũng như kinh nghiệm và nghiệp vụ hoạt động CTTC .
4. Người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ chuyên môn phù hợp.
Tổng giám đốc (giám đốc) Công ty CTTC phải là người có năng lực lãnh đạo, am hiểu kỹ thuật nghiệp vụ về kinh doanh tiền tệ; tốt nghiệp đại học về kinh tế, tài chính hoặc ngân hàng trở lên hoặc có trình độ tương đương; có thời gian công tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng từ 5 năm trở lên.
5. Có điều lệ tổ chức, hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật.
Bao gồm những nội dung sau: Tên và nơi đặt trụ sở chính; Nội dung và phạm vi hoạt động; thời hạn hoạt động; Vốn điều lẹ và phương thức góp vốn; nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT , Tổng giám đốc và ban kiểm soát; Thể thức bầu và bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên HĐQT, ban GĐ ban kiểm soát; Quyền và nghĩa vụ của cổ đông; Các nguyên tắc tài chính’ kế toán kiểm toán nội bộ; các trường hợp giải thể và thủ tục giải thể; Thủ tục sửa đổi điều lệ.
6. Có phương án kinh doanh khả thi
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Không có lợi nhuận thì không những doanh nghiệp không thể tồn tại mà cũng không đóng góp được gì cho nền kinh tế. Đối với các Công ty CTTC cũng vậy, ngay từ khi bắt đầu hoạt động người kinh doanh phải dự định được khả năng thu lợi nhuận của mình dựa trên cơ sở thực lực và phương án kinh doanh khả thi. Trong hoạt động tín dụng, nếu doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị giải thể hoặc phá sản, sẽ kéo theo nhiều hệ quả xấu cho kinh tế - xã hội. Quy định người kinh doanh phải có phương án kinh doanh khả thi không chỉ có tác dụng hạn chế tính kém hiệu quả trong hoạt động tín dụng mà còn có tác dụng làm ổn định quá trình phát triển kinh tế đất nước.
c, Thủ tục thành lập Công ty CTTC.
Khi xét thấy có đủ các điều kiện nêu trên, các chủ thể thành lập Công ty CTTC phải tiến hành làm các thủ tục thành lập Công ty theo những quy định cụ thể của pháp luật.
Đối với Công ty CTTC do ngân hàng, Công ty tài chính hoặc ngân hàng, Công ty tài chính cùng với các doanh nghiệp khác của Việt nam thành lập.
Việc thành lập phải tuân theo Quyết đinh số 05/ NH5-QĐ ngày 7/ 1/ 1991 của Thống đốc NHNN về việc “Ban hành quy chế cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng Việt nam” và Thông tư số 09-NH/ TT ngày 07/ 01/ 1991 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Quyết định 05/ NH5-QĐ.
Theo quy định tại hai văn bản này thì để được cấp giấy phép hoạt động, các chủ thể thành lập Công ty CTTC phải làm đơn kèm theo các văn bản sau đây gửi Ngân hàng Nhà nước:
+ Phương án hoạt động của Công ty CTTC, trong đó xác định rõ những nội dung chủ yếu sau: Luận cứ về sự cần thiết thành lập, tổ chức và triển vọng phát triển hoạt động kinh doanh; mục tiêu và địa bàn hoạt động; nội dung kinh doanh; mức vốn điều lệ và vốn tự có tăng trưởng hàng năm; đồng thời Công ty cũng phải xác định phương án kinh doanh cụ thể và lập được “Bảng kế hoạch cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn” 3 năm đầu, chia ra từng năm.
+ Điều lệ của Công ty CTTC theo mẫu của Ngân hàng Nhà nước và đã được đại hội cổ đông thông qua.
+ Biên bản đại hội cổ đông bầu hội đồng quản trị và quyết định của HĐQT bổ nhiệm người điều hành.
+ Lý lịch tóm tắt của Chủ tịch và các thành viên khác của hội đồng và người điều hành.
+ Bản kê khai vốn điều lệ và tài sản hiện có.
+ Giấy chứng nhận của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước về việc Công ty đã mở tài khoản phong toả và số vốn cổ phần đã gửi vào tài khoản đó.
+ Văn bản chấp thuận của chính quyền nơi Công ty đặt trụ sở.
+ Một số tài liệu khác nhằm làm rõ các vấn đề có liên quan đến hồ sơ nói trên.
* Mẫu đơn xin cấp giấy phép hoạt động:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
....., ngày..... tháng..... năm.
Kính gửi:
Đơn xin cấp giấy phép hoạt động
Tại đại hội cổ đông ngày ..... đã thông qua điều lệ và bầu Hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng có tên là: .....
Nay Hội đồng quản trị thay mặt cho cổ đông đề nghị Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động cho tổ chức tín dụng:
1. Tên của tổ chức tín dụng:
- Bằng tiếng Việt: (gọi tắt là).
- Bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp (nếu có) (gọi tắt là).
2. Trụ sở chính tại:
Trụ sở của các chi nhánh:
3. Địa bàn hoạt động.
4. Nội dung hoạt động.
5. Thời hạn hoạt động.
6. Vốn điều lệ:
- Đã có:
- Số còn thiếu phải nột tiếp.
7. Tài khoản phong toả đã mở tại Ngân hàng Nhà nước:
- Số hiệu:
- Số vốn đã gửi:
8. Giá trị bất động sản và các phương tiện hoạt động khác đã có:
Sau khi đã được cấp giấy phép hoạt động, chúng tôi sẽ thực hiện đủ các điều kiện còn thiếu, tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký ngày khai trương trong thời hạn quy định.
Chúng tôi cam kết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước và điều lệ tổ chức; nếu vi phạm xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thay mặt Hội đồng quản trị.
Hồ sơ gửi kèm.
-
-
-
* Thời hạn Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động.
Theo điều 5 Quyết định 05/ NH-QĐ. Trong thời hạn 3 tháng kể từ khi nhận được đơn xin cấp giấy phép hoạt động và các văn bản kèm theo như trên, Ngân hàng Nhà nước phải thẩm tra, xem xét để quyết định cấp hoặc từ chối cấp giấy phép hoạt động và báo cho tổ chức tín dụng biết. Nếu quyết định cấp giấy phép hoạt động thì phải tuân theo mẫu giấy phép hoạt động sau đây:
Ngân hàng Nhà nước
Việt nam
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Giấy phép hoạt động.........
(ghi rõ loại hình tổ chức tín dụng)
Số: NH/ GP
Ngày tháng năm .
Cấp tại:
Đơn vị cấp:
Ngân hàng Nhà nước
Việt nam
Số: NH/ GP
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Ngày tháng năm
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Căn cứ điều 2 Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 24/ 5/ 1990.
- Xét đơn xin cấp giấy phép hoạt động và hồ sơ kèm theo.
Nay cấp giấy phép hoạt động cho tổ chức tín dụng sau đây:
1. Tên tổ chức tín dụng:
2. Trụ sở chính tại:
Trụ sở các chi nhánh:
3. Nhân sự:
- Chủ tịch HĐQT.
- Các thành viên khác của HĐQT.
- Người điều hành.
4. Vốn điều lệ:
Vốn điều lệ đã có:
5. Tài khoản phong toả đã mở tại Ngân hàng Nhà nước.
- Số hiệu:
- Số vốn đã gửi:
6. Giá trị bất động sản và các phương tiện hoạt động đã có.
7. Địa bàn hoạt động.
8. Nội dung hoạt động.
9. Thời hạn hoạt động.
Điều kiện còn thiếu, phải được thực hiện đủ trước khi khai trương:
- Vốn điều lệ còn thiếu.
- Điều kiện khác.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Đối với Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài, Công ty CTTC liên doanh.
Thủ tục xin cấp giấy phép hoạt động phải tuân thủ theo Thông tư 03/ TT-NH5 hướng dẫn thực hiện “Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam” bao gồm hai bước sau:
Bước 1: Thủ tục xin giấy chấp thuận nguyên tắc.
Hồ sơ và thủ tục xin giấy chấp thuận nguyên tắc bao gồm:
1. Đơn xin cấp giấy chấp thuận nguyên tắc.
2. Các văn bản kèm theo đơn bao gồm:
- Dự thảo điều lệ Công ty liên doanh, Công ty 100% vốn nước ngoài.
- Phương án hoạt động kinh doanh tại Việt nam trong đó xác định kế hoạch 3 năm đầu.
- Bảng tóm tắt quá trình hợp tác giữa Ngân hàng, Công ty nguyên xứ với Ngân hàng và các doanh nghiệp Việt nam khác.
- Bản ghi nhớ về việc thành lập Công ty CTTC liên doanh (nếu có), dự thảo hợp đồng liên doanh giữa bên Việt nam với bên nước ngoài.
- Trong trường hợp cần thiết, Thống đốc NHNN yêu cầu bổ sung những tài liệu khác có liên quan.
Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định cấp hoặc từ chối cấp giấy chấp thuận nguyên tắc cho phép thành lập Công ty CTTC liên doanh và Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài.
Nếu được cấp giấy chấp thuận nguyên tắc thì trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp. Công ty CTTC phải hoàn tất hồ sơ gửi Ngân hàng Nhà nước xin cấp giấy phép hoạt động theo thủ tục sau:
Bước 2: Thủ tục xin cấp giấy phép hoạt động.
Hồ sơ và thủ tục xin cấp giấy phép hoạt động gồm:
1. Đơn xin cấp giấy phép hoạt động Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài.
2. Văn bản kèm theo đơn gồm:
+ Các văn bản pháp lý về quyền sở hữu hoặc quyền được sử dụng trụ sở của Công ty CTTC tại Việt nam.
+ Các văn bản pháp lý về việc bổ nhiệm các chức danh thành viên HĐQT, Kiểm soát viên và Ban giám đốc Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn đầu tư nước ngoài.
+ Lý lịch thành viên HĐQT, Kiểm soát viên, Ban giám đốc và các văn bằng của họ.
+ Điều lệ Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn đầu tư nước ngoài.
+ Danh sách những người nước ngoài và số lượng người Việt nam.
Ngoài những văn bản trên đối với Công ty CTTC liên doanh phải nộp cho Ngân hàng Nhà nước Việt nam Hợp đồng liên doanh chính thức.
Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày Công ty CTTC nộp đủ và đúng các yêu cầu văn bản nêu trên. Ngân hàng Nhà nước phải cấp hoặc từ chối cấp giấy phép hoạt động cho Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài.
d, Thủ tục đăng ký kinh doanh và khai trương hoạt động.
Theo quy định tại Thông tư 03/ TT-NH5; trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động, Công ty CTTC phải hoàn tất các thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký khai trương và tiến hành khai trương hoạt động.
Đăng ký kinh doanh là hoạt động của người kinh doanh nhằm khai trình với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính) và giới kinh doanh về hoạt động của mình. Công ty CTTC chỉ có tư cách pháp nhân và chỉ được khai trương hoạt động khi đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trước khi tiến hành khai trương hoạt động ít nhất 30 ngày, Công ty CTTC phải đăng báo địa phương nơi đặt trụ sở chính và báo hàng ngày của trung ương trong 5 số liên tiếp các nội dung chủ yếu sau đây để công chúng biết:
- Tên đầy đủ và tên viết tắt của Công ty CTTC.
- Địa chỉ trụ sở chính, số điện thoại, số fax.
- Địa bàn hoạt động.
- Nội dung hoạt động.
- Họ tên, quốc tịch của Chủ tịch và thành viên HĐQT, Kiểm soát viên, Tổng giám đốc (giám đốc) điều hành.
- Vốn điều lệ.
- Số và ngày cấp phép hoạt động do NHNN cấp
- Số và ngày của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tên cơ quan cấp.
- Các đặc điểm khác nếu thấy cần thiết.
- Ngày khai trương hoạt động.
e, Điều kiện và thủ tục để Công ty CTTC mở chi nhánh.
Điều kiện.
Công ty CTTC hoạt động tại Việt nam chỉ được mở chi nhánh nếu được NHNN cho phép, khi có đầy đủ các điều kiện sau:
+ Đã hoạt động được ít nhất 36 tháng kể từ ngày khai trương hoạt động, nếu chưa đủ 36 tháng thì phải do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.
+ Hoạt động kinh doanh có hiệu quả và có lãi.
+ Không vi phạm quy định của Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Khi hội tụ đầy đủ các điều kiện trên Công ty CTTC muốn thành lập chi nhánh phải tiến hành các thủ tục sau:
Thủ tục và hồ sơ xin mở chi nhánh bao gồm:
+ Tờ trình xin mở chi nhánh phải nêu rõ: Lý do, địa điểm và tóm tắt năng lực của người điều hành chi nhánh.
+ Báo cáo tình hình hoạt động của Công ty đến thời điểm gần nhất.
+ Phương án hoạt động của chi nhánh.
+ Bản sao Giấy phép hoạt động và Giấy đăng ký kinh doanh.
+ Văn bản chấp thuận của Uỷ ban nhân dân nơi đặt trụ sở của chi nhánh.
+ Quyết định bổ nhiệm và sơ yếu lý lịch của người điều hành chi nhánh.
Công ty CTTC chỉ được phép hoạt động khi được cấp Giấy chấp thuận cho mở chi nhánh và Giấy đăng ký kinh doanh.
2-/ Quy chế hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam.
Sau khi đã làm đầy đủ các thủ tục về thành lập, đăng ký kinh doanh, khai trương hoạt động. Công ty CTTC được phép hoạt động kinh doanh theo những nội dung được phép hoạt động ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, và những quy định khác của pháp luật.
a, Về các nội dung được phép hoạt động.
Theo điều 16 Nghị định 64/ CP ngày 9/10/ 1995 Công ty CTTC được thực hiện các nghiệp vụ sau đây:
- Cho thuê tài chính.
- Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những nghiệp vụ có liên quan đến nghiệp vụ CTTC.
- Thực hiện các nghiệp vụ khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Trong quá trình hoạt động, nếu có nhu cầu mở rộng phạm vi hoạt động, Công ty CTTC có thể làm đơn đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét để cho bổ sung.
b, Về thời hạn hoạt động.
Thời hạn hoạt động cuả Công ty CTTC tại Việt nam được quy định trong Giấy phép hoạt động, nhưng tối đa không quá 70 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép hoạt động. Việc gia hạn thời hạn hoạt động phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản. Mỗi lần gia hạn không được quá thời hạn của Giấy phép hoạt động được cấp lần đầu.
c, Về nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn.
Vốn là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Không có vốn thì doanh nghiệp không thể hoạt động được. Vốn được ví như “dòng máu” đảm bảo cho doanh nghiệp “sống và hoạt động” có hiệu quả.
Do tầm quan trọng như vậy nên việc doanh nghiệp tạo lập và sử dụng vốn phải tuân theo những quy định cụ thể đối với từng nghiệp vụ kinh doanh, từng loại hình doanh nghiệp.Đối với nghiệp vụ CTTC, việc huy động, tạo lập và sử dụng nguồn vốn được quy định tại Nghị định 64/ CP và Thông tư 03 như sau:
Nguồn vốn của Công ty CTTC bao gồm vốn tự có và vốn vay.
+ Vốn tự có gồm vốn điều lệ và các quỹ, lợi nhuận chưa phân phối. Vốn điều lệ là khoản vốn góp của các chủ thể khi thành lập và được ghi vào điều lệ của Công ty. Vốn điều lệ phải được góp đầy đủ ngay từ khi thành lập và số vốn này phải được đảm bảo không được ít hơn số pháp định theo quy định đối với từng loại Công ty CTTC.
Các bên tham gia thành lập Công ty CTTC có thể góp vốn bằng tiền Việt nam, ngoại tệ hoặc bằng tài sản. Nếu góp vốn bằng tài sản thì giá trị của tài sản đó cũng không được vượt quá 25% tổng vốn pháp định.
+ Vốn vay: Trong quá trình hoạt động, ngoài vốn điều lệ do các thành viên góp, Công ty CTTC có thể tăng nguồn vốn của mình bằng cách đi vay, nguồn vốn vay có thể là vay từ các tổ chức tín dụng, tài chính trong và ngoài nước hoặc do phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Pháp luật cũng quy định các Công ty CTTC tuyệt đối không được nhận tiền gửi dưới mọi hình thức. Vì nhận tiền gửi là một nghiệp vụ ngân hàng, mà Công ty CTTC là một loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng nên không được hoạt động ngân hàng.
Tổng nguồn vốn mà Công ty CTTC vay từ các nguồn không được vượt quá 20 lần vốn tự có.
Tổng giá trị tài sản cho thuê đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có, trường hợp vượt quá thì phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Tuy nhiên nếu có tài sản có giá trị lớn hơn 30% vốn tự có của Công ty CTTC thì Công ty CTTC có thể áp dụng phương thức cho thuê hợp tác với một hoặc nhiều Công ty CTTC khác hoặc yêu cầu khách hàng (bên thuê) đóng góp một phần vốn để mua sắm tài sản đó.
Nếu doanh nghiệp dùng nguồn vốn để mua sắm tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh thì cũng không được sử dụng quá 25% vốn điều lệ để mua sắm tài sản cố định.
d, Những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên đối với tài sản thuê.
+ Theo quy định tại Nghị định 64/ CP điều 22.2 có quy định “ Bên cho thuê có quyền sở hữu và đính ký hiệu tài sản thuê trong suốt thời hạn cho thuê” và tài sản đó có thể được chuyển quyền sở hữu cho bên đi thuê nếu hai bên thoả thuận. Như vậy, trong trường hợp này cả bên cho thuê và bên thuê có nghĩa vụ phải nộp một khoản phí trước bạ để xác định quyền sở hữu đối với tài sản thuê.
+ Theo điều 1 Nghị định 64/ CP quy định “ CTTC là hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác”. Như vậy, tài sản thuê chỉ có thể là động sản mà không được là bất động sản như nhà xưởng, văn phòng... những yếu tố phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Thời hạn cho thuê đối với một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
+ Bên cho thuê có nghĩa vụ phải mua bảo hiểm, làm thủ tục nhập khẩu (đối với tài sản phải nhập khẩu), đối với tài sản thuê, nhưng mọi chi phí lại do bên thuê chịu.
+ Xử lý tài sản thuê: Về nguyên tắc, khi bên thuê không thực hiện đúng các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng. Bên cho thuê có quyền thu hồi tài sản thuê để bán hay tiếp tiếp tục cho thuê.
3-/ Hợp đồng CTTC.
a, Khái niệm và đặc điểm.
Theo điều 18 Nghị định 64/ CP thì hợp đồng CTTC là một loại hợp đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế được định nghĩa tại điều 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/ 9/ 1989 như sau “Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận được ghi bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết có liên quan đến hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình”.
Theo định nghĩa trên thì một hợp đồng kinh tế phải thoả mãn ba điều kiện sau:
+ Về hình thức, phải được lập thành văn bản;
+ Về chủ thể của hợp đồng, phải có ít nhất một bên là pháp nhân;
+ Về mục đích của các bên khi ký kết hợp đồng là kinh doanh.
Như vậy, một hợp đồng CTTC trước tiên phải thoả mãn các điều kiện của một hợp đồng kinh tế, nếu thiếu một trong ba điều kiện trên thì hợp đồng đó không phải là hợp đồng kinh tế và cũng không phải là hợp đồng CTTC.
Theo nghị định 64/ CP thì hợp đồng CTTC là một loại hợp đồng kinh tế được ký kết giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê một hoặc một số máy móc thiết bị, động sản khác trong thời gian nhất định (thời hạn cho thuê). Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
Một hợp đồng CTTC phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
- Được lập thành văn bản.
- Đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước và cơ quan quản lý hợp đồng nơi Công ty CTTC đóng trụ sở theo quy định của pháp luật.
- Không được huỷ bỏ trước thời hạn (huỷ ngang) thời hạn cho thuê đã thoả thuận trong hợp đồng.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp các bên có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn đã thoả thuận:
- Bên cho thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nếu:
+ Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định của hợp đồng.
+ Bên thuê vi phạm một trong những điều khoản của hợp đồng.
+ Bên thuê mất khả năng thanh toán, phá sản, giải thể.
- Bên thuê cũng có thể chấm dứt hợp đồng nếu:
+ Tài sản cho thuê không được giao đúng hạn do lỗi của Công ty CTTC.
+ Bên cho thuê vi phạm các điều khoản của hợp đồng.
Hợp đồng CTTC cũng đương nhiên được kết thúc khi tài sản thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa.
b, Những nội dung cơ bản của một hợp đồng CTTC :
Ngoài những đặc điểm ở trên, hợp đồng CTTC cũng phải đảm bảo đầy đủ về mặt nội dung chủ yếu và hình thức theo mẫu sau:
Hợp đồng cho thuê tài chính.
Số..................../ CTTC
- Căn cứ Luật tổ chức tín dụng ngày 12/ 12/ 1997.
- Căn cứ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/ 9/ 1989 của Hội đồng bộ trưởng.
- Căn cứ Nghị định 64/ CP ngày 9/ 10/ 1995 của chính phủ ban hành Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam.
- Căn cứ Thông tư số 03/ TT-NH5 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Nghị định 64/ CP ngày 9/ 10/ 1995 của chính phủ.
..................................................
Xét đơn xin thuê tài chính của ...........................
Hôm nay ngày ......... tháng ...........năm .............
Tại..............
Chúng tôi gồm.................
Bên cho thuê (bên A): Công ty CTTC ................
Địa chỉ:..................
Điện thoại:................./ Fax................
Tài khoản ngoại tệ số:.....................
Tài khoản đồng Việt nam số:......................, mở tại Ngân hàng................
Do ông (bà)................. Chức vụ: ..............làm đại diện.
Bên thuê (bên B):.........................
Địa chỉ:...................
Điện thoại:....................../ Fax..................
Tài khoản ngoại tệ số:..............................
Tài khoản đồng Việt nam số:......................., mở tại Ngân hàng...............
Do ông (bà).................. Chức vụ................. làm đại diện.
Cùng thống nhất thoả thuận ký hợp đồng và cam kết thực hiện đúng theo các điều khoản quy định dưới đây:
Điều 1: Tài sản cho thuê.
Điều 2: Mục đích sử dụng.
Điều 3: Tên địa chỉ người cung ứng.
Điều 4: Giá mua tài sản thuê.
Điều 5: Thời hạn thuê.
Điều 6: Thanh toán tiền thuê.
Điều 7: Tài sản thế chấp, cầm cố.
Điều 8: Sở hữu tài sản.
Điều 9: Bảo hiểm tài sản.
Điều 10: Quyền và trách nhiệm của bên A.
Điều 11: Quyền và trách nhiệm của bên B.
Điều 12: Điều khoản thi hành.
Đại diện bên A.
Đại diện bên B.
Chương II
Thực trạng hoạt động Cho Thuê Tài Chính tại công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
I-/ Giới thiệu về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
1-/ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, được thành lập theo Nghị định số 115/CP ngày 30/12/1962, thành lập ngày 01/04/1963 với:
Tên Tiếng Anh: BANK FOR FOREIGN TRADE OF VIETNAM.
Tên gọi tắt là VietCombank.
Là Ngân hàng Thương mại Quốc doanh, có chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Kể từ khi được thành lập VietCombank luôn được biết đến như một ngân hàng thương mại Việt Nam có uy tín nhất, được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Châu á và uỷ ban buôn bán Việt - úc.
Với phương châm “Luôn luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt” Ngân hàng Ngoại thương trong những năm qua đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, đáp ứng kịp thời những yêu cầu của thị trường, phát triển mạng lưới chi nhánh tại tất cả các thành phố chính, các hải cảng quan trọng và các trung tâm thương mại phát triển. Tham gia cổ phần với 15 đơn vị, trong đó có 3 đơn vị liên doanh với nước ngoài. Ngoài ra còn có một công ty tài chính tại Hồng Kông và 3 văn phòng đại diện tại nước ngoài. Đến nay Ngân hàng Ngoại thương đã có quan hệ đại lý với hơn 1200 ngân hàng thương mại và các chi nhánh tại 85 nước trên thế giới.
Do đảm bảo được chất lượng phục vụ khách hàng, duy trì được chữ tín trong kinh doanh, Ngân hàng Ngoại thương đã thu hút được nguồn vốn lớn từ các khách hàng, góp phần đưa tổng nguồn vốn lên 35.096 tỷ đồng tại thời điểm đầu năm 1999. Năm 1999 doanh số kinh doanh trên thị trường trong nước là 6.096 triệu USD, trên thị trường quốc tế là 3.627 triệu USD. Do vậy dã đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng và còn dư thừa ngoại tệ bán cho NHNN 28 triệu USD.
Đáp ứng nhu cầu phát triển không ngừng, Ngân hàng Ngoại thương luôn đi đầu trong lĩnh vực công nghệ, với hệ thống máy tính hiện đại trong ngành Ngân hàng, nối mạng SWIFT, mạng thẻ tín dụng quốc tế (VISA, Master Card, Amex...), trang bị máy rút tiền tự động (ATM) đầu tiên tại Việt Nam... Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với đội ngũ cán bộ, nhân viên được đào tạo lành nghề và có nhiệt tình công tác, cùng với máy móc, trong thiết bị hiện đại có khả năng cung cấp cho khách hàng tất cả các loại sản phẩm dịch vụ ngành Ngân hàng với chất lượng cao nhất, tạo được uy tín đối với khách hàng cũng như các đối tác khác trong và ngoài nước.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thực hiện các nghiệp vụ chính sau đây:
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và bằng ngoại tệ.
- Chuyền tiền nhanh trong và ngoài nước.
- Nhận gửi tiết kiệm đồng Việt Nam và ngoại tệ.
- Phát hành kỳ phiếu.
- Thanh toán nhập khẩu (L/C, D/P, D/A).
- Nhận mua bán ngay, có kỳ hạn và hoán đổi các loại ngoại tệ mạnh.
- Bảo lãnh và tái bảo lãnh.
- Thực hiện nghiệp vụ hối đoái.
- Phát hành thẻ thanh toán VietCombank - Visacard, VietCombank - Mastercard (sử dụng trong và ngoài nước).
- Làm đại lý thanh toán cho các loại thẻ tín dụng Quốc tế như Visa, MasterCard, JCB, American Express.
- Tham gia hệ thống thanh toán toàn cầu qua hệ thống SWIFT, Money Gram...
- Thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Riêng đối với nghiệp vụ cho thuê tài chính, được Ngân hàng Ngoại thương thực hiện như một hoạt động độc lập kể từ năm 1994, thông qua việc thành lập Công ty thuê mua và đầu tư (LINCO) giải thể. Sau đó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thành lập 2 công ty: Công ty đầu tư và khai thác tài sản và Công ty CTTC, thực hiện tiếp chức năng của Công ty LINCO va đảm bảo cho hoạt động CTTC theo Nghị định 64/CP của Chính phù ngày 9/10/1995 và Thông tư 03/TT - NH5 của Thống đốc NHNN ngày 9/2/1996.
2-/ Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập theo quyết định số 108/1998/QĐ/NHNN5 ngày 25/3/1998 của NHNN Việt Nam, sau khi Công ty thuê mua và đầu tư LINCO giải thể.
Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực CTTC theo luật doanh nghiệp Nhà nước, pháp luật về CTTC và các quy định khác của pháp luật, là một doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, được công nhận là một pháp nhân Việt Nam, có con dấu riêng, có cơ cấu tổ chức và có quyền độc lập trong hoạt động kinh doanh.
Sau khi được Thống đốc NHNN Việt Nam cấp giấy phép thành lập, Công ty đã tiến hành đăng ký kinh doanh để chính thức đi vào hoạt động và được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 112437 ngày 20/6/1998 với:
Tên gọi bằng tiếng Việt: Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Tên gọi bằng tiếng Anh: FINANCIAL LEASING COMPANY
Tên gọi tắt: VCB - LEA.CO
Trụ sở chính: số 10 - Thiền Quang - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Số điện thoại: 84.48221681.
Số FAX: 84 - 482221644.
Địa bàn hoạt động: các tỉnh, thành phố trong cả nước, thời gian hoạt động của Công ty là 70 năm kể từ khi được NHNN cấp giấy phép hoạt động. Do là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nên Công ty chịu sự quản lý toàn diện của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Về chiến lược phát triển, về quản lý và nhân sự, nội dung và phạm vi hoạt động. Chịu sự quản lý của Nhà nước của NHNN Việt Nam.
* Chức năng của Công ty.
Cũng như các Công ty CTTC khác, Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập với nhiệm vụ là tạo ra kênh tín dụng mới để hỗ trợ vốn trung hạn, dài hạn cho các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) nhằm giúp các doanh nghiệp này đổi mới máy móc, thiết bị đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với chức năng đó Công ty CTTC được tiến hành các hoạt động sau:
1. Cho thuê tài chính các tài sản là máy móc, thiết bị và các động sản khác với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
2. Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những dịch vụ có liên quan đến nghiệp vụ CTTC.
3. Thực hiện các nghiệp vụ khác khi được NHNN và cơ quan có thẩm quyền cho phép.
* Cơ cấu tổ chức của Công ty.
Với chức năng và các hoạt động như nêu trên, Công ty cũng phải có một cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp, cơ cấu tổ chức quản lý này có vai trò quyết định giúp cho Công ty thực hiện tốt chức năng của mình.
Do mới thành lập nên Công ty mới chỉ có 12 cán bộ, nhân viên với 4 phòng chức năng: Phòng Giám đốc, phòng kế toán, phòng tổng hợp, phòng kinh doanh.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
phòng giám đốc
Phòng kinh doanh
Phòng kế toán
Phòng tổng hợp
Người đứng đầu Công ty, trực tiếp điều hành mọi hoạt động kinh doanh là Giám đốc Công ty, Giám đốc là đại diện pháp nhân của Công ty và là người chịu trách nhiệm trước Hội đồng Quản trị và Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về mọi hoạt động của Công ty.
Các trưởng phòng ban, trong công ty, kế toán trưởng do Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật sau khi được Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chấp nhận.
Việc tổ chức và hoạt động củ Công ty chịu sự kiểm soát của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, chịu sự thanh tra của NHNN Việt Nam, của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra Công ty cũng có tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ dưới sự chỉ đạo của Giám đốc Công ty thực hiện việc kiểm tra, kiểm toán hoạt động của Công ty nhằm đảm bảo quy trình nghiệp vụ kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình hoạt động Công ty cũng có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
* Quyền của Công ty:
- Quyền đối với bên thuê.
Đối với khách hàng (bên thuê) Công ty có các quyền sau đây:
1. Có quyền yêu cầu bên thuê cung cấp đầy đủ, toàn bộ báo cáo quý, năm về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh và các vấn đề liên quan đến tài sản thuê.
2. Có quyền yêu cầu bên thuê bồi thường thiệt hại phát sinh do bên thuê không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm ghi trong hợp đồng về bảo quản, sửa chữa, thanh toán tiền bảo hiểm tài sản thuê trong thời hạn thuê.
3. Có quyền yêu cầu bên thuê đặt tiền ký quỹ bảo đảm cho hợp đồng hoặc yêu cầu có người bảo lãnh đối với bên thuê, hoặc các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
4. Được quyền chuyển nhượng các quyền của mình trong hợp đồng cho một Công ty CTTC khác mà không cần sự đồng ý của bên thuê. Nhưng phải thông báo trước bằng văn bản cho bên thuê.
5. Có quyền từ chối cho thuê tài sản nếu dự án không có hiệu quả, trái pháp luật hoặc không có khả năng trả nợ đúng hạn.
6. Có quyền chấm dứt hợp đồng cho thuê trước thời hạn nếu bên thuê vi phạm hợp đồng và Công ty cũng có quyền thu hồi ngay tài sản cho thuê mà không cần đưa việc này ra bất kỳ cơ quan tư pháp hay toà án nào.
7. Có quyền sở hữu và đính ký hiệu sở hữu trên tài sản thuê trong suốt thời hạn cho thuê. Quyền sở hữu của Công ty không bị ảnh hưởng trong trường hợp bên thuê bị phá sản, giải thể, mất khả năng thanh toán. Tài sản thuê không được coi là tài sản của bên thuê khi xử lý tài sản để trả nợ cho các chủ nợ khác, hoặc để đảm bảo thi hành án.
8. Có quyền khởi kiện các tranh chấp kinh tế, dân sự và đề nghị khởi tố các vụ án hình sự liên quan đến hoạt động của Công ty.
- Quyền tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh:
1. Công ty có quyền tổ chức bộ máy quản lý, kinh doanh phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ được giao.
2. Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy trình nghiệp vụ cần thiết trong phạm vi hoạt động của Công ty.
3. Trên cơ sở chỉ tiêu lao động và đơn giá tiền lương được Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phê duyệt, Công ty được tuyển chọn lao động, lựa chọn hình thức trả lương, thưởng căn cứ vào kết quả kinh doanh hàng năm.
4. Có quyền đặt chi nhánh, văn phòng đại diện khi cần tại các khu vực khi được Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đồng ý và được NHNN chấp thuận bằng văn bản.
- Quyền quản lý tài chính:
1. Công ty CTTC là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, tự chủ về mặt tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và những cam kết của mình.
2. Trích lập và sử dụng các quỹ theo quy định hiện hành của Nhà nước.
3. Sử dụng phần lợi nhuận còn lại sau khi đã làm đủ nghĩa vụ với Nhà nước theo quy chế tài chính của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
4. Hưởng các chế độ trợ cấp ưu đãi về vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
5. Xác định tỷ lệ hoa hồng, lệ phí thưởng trên cơ sở đóng góp có hiệu quả vào kết quả kinh doanh của Công ty phù hợp với chế độ tài chính hiện hành.
* Cùng với các quyền cơ bản trên, Công ty cũng phải đảm bảo những nghĩa vụ sau đây:
1. Thực hiện các quy định của pháp luật về nội dung và phạm vi hoạt động, về hệ số an toàn trong kinh doanh tiền tệ.
2. Bảo toàn sử dụng vốn được giao có hiệu quả, không ngừng tích luỹ vốn để đầu tư phát triển và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của Công ty.
3. Nộp các loại thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật (49/CP).
4. Thực hiện đầy đủ các cam kết tài chính khác ghi trong hợp đồng với các đối tác và các nghĩa vụ có liên quan theo quy định của pháp luật hiện hành.
5. Hoàn trả các khoản tín dụng đã vay trong và ngoài nước.
6. Đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng ngành nghề đã được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
7. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với người lao động theo quy định của Bộ Luật lao động. Đảm bảo cho người lao động được tham gia quản lý Công ty.
8. Thực hiện các quy định của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên, môi trường quốc phòng và an ninh quốc gia.
9. Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán theo quy định của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và NHNN Việt Nam.
II-/ Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
1-/ Các hoạt động của Công ty.
Như đã trình bày ở trên, với phạm vi hoạt động trên toàn quốc Công ty CTTC được phép thực hiện các nghiệp vụ sau:
- Cho thuê tài chính các tài sản là máy móc thiết bị và các động sản khác đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những dịch vụ có liên quan đến hoạt động CTTC.
- Thực hiện các nghiệp vụ khác khi được NHNN và cơ quan chức năng Nhà nước cho phép.
Những nghiệp vụ trên được quy định trong điều lệ của Công ty CTTC, cũng phù hợp với Nghị định 04/CP. Trong 3 nghiệp vụ đó thì cho đến nay ở Công ty CTTC thuộc Ngân hàng Ngoại thương, cũng như hầu hết các Công ty CTTC khác, mới chỉ thực hiện một nghiệp vụ quan trọng nhất, mang tính “bản chất” của hoạt động CTTC đó là “Cho thuê tài chính các tài sản và máy móc, thiết bị và các động sản khác đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”. Đối với hai nghiệp vụ sau, cho đến nay NHNN và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể mà chỉ quy định chung mang tính “mở”. Bởi lẽ, hoạt động CTTC là hoạt động mới mẻ đang trong giai đoạn “xâm nhập thị trường” nên các Công ty cần tập trung vào việc phát triển hoạt động CTTC. Đến khi có đủ điều kiện và được khách hàng chấp nhận, coi CTTC là một hình thức tài trợ hiệu quả thì khi đó NHNN phải có ý kiến chỉ đạo để các Công ty CTTC có thể thực hiện nốt hai nghiệp vụ còn lại, vừa tạo điều kiện mở rộng nội dung hoạt động của các Công ty cho thuê, vừa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về hoạt động CTTC và các dịch vụ có liên quan.
2-/ Các bước tiến hành một hợp đồng CTTC tại Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Quy trình nghiệp vụ CTTC đòi hỏi phải có một sự tuân thủ chặt chẽ về thủ tục tiến hành. Tại mỗi giai đoạn trong quá trình giải quyết công việc, các chủ thể thực hiện đều phải ghi ý kiến, kết luận rõ ràng và chịu trách nhiệm về các ý kiến kết luận đó. Các công việc tiến hành trong một quy trình CTTC có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của một giao dịch CTTC.
Quy trình bắt buộc của một giao dịch CTTC tại Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được khái quát theo sơ đồ sau (Theo Quyết định số 51/CTTC/QĐ ngày 15/5/2000 của Giám đốc Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Ban hành Quy trình nghiệp vụ CTTC):
Sơ đồ quy trình nghiệp vụ CTTC.
Khách hàng
Cán bộ cho thuê
Trưởng phòng kinh doanh
Tái thẩm định
Hội đồng tín dụng
Giám đốc
(1)
(2)
(3)
(4)
(4)
(4)
(3)
(5)
(Nguồn: Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam).
Sơ đồ trên được giải thích như sau:
(1) Khách hàng có nhu cầu thuê tài chính tiếp xúc với cán bộ cho thuê và /hoặc Trưởng phòng kinh doanh, hoặc cán bộ cho thuê tìm kiếm khách hàng sau đó báo cáo với Trưởng phòng kinh doanh. Trưởng phòng kinh doanh phân công cán bộ trực tiếp làm việc (có thể là cán bộ tiếp xúc hoặc cán bộ khác)
Với khách hàng sau đó, cán bộ được phân công sẽ thu thập thông tin, lập tờ trình thẩm định và tập hợp các hồ sơ và thực hiện các công việc có liên quan.
(2) Cán bộ cho thuê hoàn chính tờ trình thẩm định ghi nhận xét của mình để trình Trưởng phòng kinh doanh. Trưởng phòng kinh doanh xem xét tờ trình và có ý kiến để trình Giám đốc quyết định.
(3) Trường hợp cần đưa ra Hội đồng tín dụng, Giám đốc sẽ chuyển hồ sơ cho bộ phận tái thẩm định. Bộ phận tái thẩm định sẽ phối hợp với phòng kinh doanh trong những mặt cần thiết để lập hồ sơ tái thẩm định.
(4) Trường hợp cần đưa ra Hội đồng tín dụng, Giám đốc (hoặc theo đề xuất của bộ phận Tái thẩm định) sẽ đưa vấn đề ra xem xét tại Hội đồng tín dụng (thực hiện theo quy chế hoạt động của Hội đồng tín dụng). Hội đồng tín dụng có thể phối hợp với Bộ phận tái thẩm định để có quyết định cuối cùng.
(5) Sau khi có quyết định cho thuê, toàn bộ hồ sơ sẽ được chuyển về phòng kinh doanh để Trưởng phòng kinh doanh chỉ đạo cán bộ cho thuê hoàn tất các thủ tục còn lại.
Để tiến hành một Hợp đồng CTTC giữa bên cho thuê - Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với bên cho thuê (các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế). Đối với bên cho thuê, thường thực hiện các công việc này qua các bước sau:
a, Bước 1: Thẩm định dự án.
Thẩm định dự án trước khi ký hợp đồng là khâu hết sức quan trọng trong quy trình tiến hành một hợp đồng CTTC, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Hay nói cách khác, nếu như trong quá trình nhận hồ sơ, kiểm tra xét duyệt dự án được cẩn thận, tuân thủ theo đúng các quy định về an toàn khi tài trợ thì có thể loại bỏ ngay được những phương án, dự án sản xuất kinh doanh không có tính khả thi, kém hiệu quả và mang tính rủi ro cao. Giai đoạn này bên cho thuê phải thực hiện các công việc sau:
* Thu nhận và kiểm tra hồ sơ xin tài trợ theo đúng đối tượng, nguyên tắc điều kiện và thủ tục.
* Thẩm định tính khả thi hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ và lập tờ trình thẩm định dự án.
a1: Nhận và kiểm tra hồ sơ:
Bộ hồ sơ của khách hàng bao gồm:
- Hồ sơ pháp lý của khách hàng: Đối với những khách hàng mới, cán bộ thẩm định thu nhận các văn bản, tài liệu có liên quan đến địa vị pháp lý của khách hàng như: Quyết định thành lập doanh nghiệp, nghị quyết của Hội đồng quản trị về việc xin thuê, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng ... và điều lệ Công ty.
- Hồ sơ kinh tế của khách hàng: Các tài liệu về tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đi thuê như: Báo cáo tài chính theo định kỳ, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo luân chuyển tiền mặt... những tài liệu đó là cơ sở để đánh giá năng lực tài chính của bên thuê.
- Hồ sơ xin thuê của khách hàng:
Bao gồm đơn xin thuê, phương án sản xuất kinh doanh do bên thuê lập, tính toán được hiệu quả kinh tế và phương án trả nợ, hợp đồng CTTC theo mẫu... Đơn xin thuê tài chính theo mẫu sau:
Đơn yêu cầu thuê tài chính máy móc - thiết bị.
Kính gửi: Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Người gửi:
1. Chúng tôi đề nghị Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đặt mua máy móc - thiết bị dưới đây:
2. Chúng tôi thoả thuận ký hợp đồng CTTC với quý Công ty và thực hiện các khoản ghi trong hợp đồng.
3. Các chi tiết yêu cầu:
a, Máy móc, thiết bị: Tên, mô tả sơ lược.
b, Nhà cung ứng: Tên, địa chỉ.
c, Ngày mua.
d, Giá mua lại .... ; Khoảng .........
......Ngày......tháng.....năm
Ký tên
a2: Thẩm định tính khả thi, hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của bên đi thuê:
- Điều tra thực tế: Tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để thu thập những thông tin thực tế về bản thân khách hàng như năng lực quản lý, điều hành, sự thống nhất, đoàn kết trong nội bộ ban lãnh đạo, yêu cầu giải đáp những điều chưa rõ trong hồ sơ pháp lý... Tiếp xúc với dự án để làm rõ tính thực tế của số liệu trong Luận chứng kinh tế kỹ thuật của bên đi thuê.
- Tiếp đến là phân tích năng lực điều hành và khả năng tài chính của bên đi thuê thông qua một số các chỉ tiêu sau:
+ Hệ số thanh toán nhanh (Rq)
Rq =
Hệ số này càng lớn thì tính thanh khoản của khách hàng càng lớn và điều đó đảm bảo hạn chế rủi ro đối với bên cho thuê.
+ Hệ số luân chuyển tài sản lưu động (RC)
RC =
Đây cũng là biện pháp đo lường tình hình tài chính của bên thuê, hệ số này càng lớn thì tính thanh quản của bên đi thuê càng lớn, tình hình tài chính lành mạnh.
+ Hệ số lợi nhuận/doanh thu (RI)
RI =
Hệ số này phản ánh mức độ hiệu quả trong hoạt động của bên đi thuê. Hệ số này càng lớn càng tốt.
+ Tỷ số nợ/vốn tự có (RD)
RD =
Tỷ số này phản ánh mức độ lành mạnh trong tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tỷ số này càng cao chứng tỏ mức độ an toàn về tài chính của bên đi thuê càng thấp, mức độ rủi ro cho bên cho thuê càng cao.
+ Tỷ số lợi nhuận/vốn tự có (RIC)
RIC =
Đây là tỷ số phản ánh mức độ hiệu quả trong kinh doanh của bên đi thuê. Tỷ số này càng lớn càng tốt.
+ Tỷ số luân chuyển tài sản của doanh nghiệp (RLCTS)
RLCTS =
+ Tỷ số luân chuyển tài sản cố định của doanh nghiệp.
RLCTCĐ =
Hai tỷ số trên cho biết mức độ luân chuyển vốn của bên đi thuê. Tỷ số đó càng lớn thì khả năng thanh toán càng cao, chu kỳ kinh doanh càng nhỏ và việc sử dụng tài sản thuê có hiệu quả.
Việc phân tích các chỉ số ở trên có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định cho thuê, nếu như những hệ số đó được đánh giá là tốt, thì cũng có nghĩa là dự án đó có thể tài trợ. Bên cạnh đó cán bộ thẩm định cũng phải có những kinh nghiệm, kết hợp với những chỉ số trên để đưa ra những quyết định đúng đắn, có lợi cho Công ty nhất.
- Phân tích tính toán, kiểm tra hiệu quả kinh tế của dự án mà bên đi thuê đưa ra: khi phân tích, kiểm tra cán bộ thẩm định sử dụng chỉ số NPV (Net Present Value - Giá trị hiện tại ròng) và IRR (Internal Rate of Return - tỷ lệ hoàn vốn nội tại).
Nếu dùng NPV, cán bộ thẩm định có thể kiểm tra tính chính xác của tổng chi phí, tổng doanh thu, dòng lưu kim và từ đó tính toán kiểm tra giá trị hiện tại ròng của dự án đó. Nếu NPV > 0 thì dự án có tính khả thi, có lợi nhuận và bên cho thuê có thể tài trợ. Ngược lại NPV < 0 thì không tiến hành tài trợ.
Theo chỉ số IRR, thì cán bộ thẩm định tính toán, kiểm tra tính chính xác của IRR và so sánh nó với mức phí thuê (r). Nếu IRR ³ r, thì mức sinh lời của dự án cao, bên thuê có khả năng thanh toán tiền thuê vì vậy có thể tài trợ. Nếu IRR < r thì mức sinh lời của dự án thấp thậm chí không có lãi, Công ty cho thuê không nên tài trợ cho dự án này.
b, Bước 2: Ký hợp đồng và tiến hành tài trợ:
Sau khi đã hoàn thành bước thẩm định dự án và đạt được những thoả thuận giữa bên thuê và bên cho thuê thì hợp đồng CTTC được ký kết và bên cho thuê tiến hành tài trợ cho dự án. Hợp đồng CTTC theo mẫu của Công ty CTTC có kết cấu như sau:
Hợp đồng cho thuê tài chính
Số ...../CTTC.
- Căn cứ Luật Tổ chức tín dụng ngày 12 tháng 12 năm 1997.
- Căn cứ Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25 tháng 9 năm 1989 của HĐBT.
- Căn cứ Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ ban hành Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt Nam.
- Căn cứ thông tư số 03/TT - NH5 của NHNN hướng dẫn thực hiện Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995.
- Căn cứ Quyết định số 108/NHNT ngày 23/7/1996 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về việc ban hàng Quy định nghiệp vụ CTTC của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam;
- Xét đơn xin thuê tài chính của
Hôm nay ngày........ tháng ......... năm ........., tại
Chúng tôi gồm:
Bên cho thuê (Bên A): Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Địa chỉ : số 10 Thiền Quang - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Điện thoại : (04) 822654 - 8223864/ FAX: (04) 8223862
Tài khoản ngoại tệ số : 224100370950
Tài khoản đồng VN số 223100.00.0950 mở tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Do ông : Đàm Đức Long.
Chức vụ : Giám đốc Công ty - làm đại diện
Bên thuê (Bên B) :
Địa chỉ :
Điện thoại : /FAX:
Tài khoản ngoại tệ số:
Tài khoản đồng VN số mở tại ngân hàng
Do Ông/bà :
Chức vụ: : làm đại diện.
Cùng thống nhất thoả thuận ký hợp đồng và cam kết thực hiện đúng theo các điều khoản quy định dưới đây:
Điều 1: Tài sản cho thuê.
Điều 2: Mục đích sử dụng.
Điều 3: Thời hạn cho thuê.
Điều 4: Tên và địa chỉ nhà cung cấp.
Điều 5: Thanh toán tiền thuê.
Điều 6: Tài sản cầm cố, thế chấp.
Điều 7: Sở hữu tài sản
Điều 8: Bảo hiểm tài sản.
Điều 9: Quyền và trách nhiệm của bên A.
Điều 10: Quyền và trách nhiệm của bên B.
Điều 11: Điều khoản thi hành.
Đại diện bên A Đại diện bên B
c, Bước 3: Giám sát, kiểm tra và thực hiện thu tiền thuê.
Đây là giai đoạn bên cho thuê (Công ty CTTC) tiến hành thu tiền thuê từ khách hàng (bên thuê) đồng thời thường xuyên kiểm tra xem người thuê có sử dụng tài sản đúng mục đích ghi trong hợp đồng hay không. Duy trì việc kiểm tra trong tình trạng tài sản thuê, tài sản thế chấp, cầm cố, chủ động và kịp thời phát hiện các trường hợp sử dụng tài sản thuê sai mục đích, hoặc có nguy cơ gây mất vốn v.v... Để có kiến nghị giải quyết kịp thời. Xem xét xử lý các khó khăn vướng mắc, như gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, bổ sung và hoàn chỉnh hồ sơ cho thuê, đôn đốc thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn.
Các công việc trong giai đoạn này gồm:
- Vào ngày 30 hàng tháng, cán bộ cho thuê đối chiếu số liệu trên hợp đồng CTTC với số liệu kế toán cho thuê và số liệu của khách hàng về: số tiền thuê, số tiền đã trả, dư nợ gốc và lãi (chú ý lãi hoặc phí chưa thu) kịp thời phát hiện chênh lệch, sai sót để khắc phục đảm bảo khớp đúng số liệu giữa phòng kinh doanh, kế toán và khách hàng.
- Kiểm tra tình trạng tài sản cho thuê, tài sản cầm cố, thế chấp. Khi kiểm tra phải có biên bản với nội dung sau:
+ Mô tả tình trạng tài sản thuê, tài sản thế chấp, cầm cố xem có gì thay đổi so với khi ký kết hợp đồng.
+ Tình hình quản lý, sử dụng và bảo quản.
+ Tăng (giảm) giá trị (nếu có)
+ Xử lý các trường hợp vi phạm theo chế độ hiện hành.
- Đôn đốc thu hồi nợ gốc, và lãi khi đến hạn:
ít nhất 10 ngày trước khi đến hạn trả nợ, cán bộ cho thuê nhắc nhở khách hàng trả nợ gốc và lãi (thông báo bằng điện thoại hoặc văn bản). Đối với khách hàng thường trả nợ chậm hoặc có nợ quá hạn, cán bộ cho thuê gửi cho khách hàng giấy thông báo nhắc nhở khách hàng trả nợ với nội dung:
Số, ngày của hợp đồng CTTC, số tiền cho thuê, số tiền đã trả, số tiền phải trả kỳ này...
Trong trường hợp đã quá hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ và cũng không có đơn xin gia hạn nợ, cán bộ cho thuê phải xuống làm việc trực tiếp với khách hàng tìm hiểu nguyên nhân và làm yêu cầu thanh toán nợ. Nếu sau 10 ngày khách hàng vẫn không thanh toán nợ và không có văn bản trả lời thì cán bộ cho thuê gửi thông báo nhắc nợ đến khách hàng. Nếu khách hàng trây ỳ thì phải lập tức báo cáo trưởng phòng trình giám đốc có biện pháp xử lý. Trong trường hợp cần thiết, có thể thu hồi tài sản cho thuê hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan pháp luật nhờ giải quyết thu hồi nợ.
- Định kỳ lập bảng phân tích, đánh giá tổng hợp và toàn diện về khách hàng:
Theo định kỳ thời gian (có thể hàng tháng, quý hoặc 6 tháng) cán bộ cho thuê căn cứ vào các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh của khách hàng và các nguồn thông tin khác thu nhận được tiến hành phân tích và đánh giá khách hàng về: tình hình sử dụng tài sản thuê, năng lực tài chính, trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh... Từ đó phân loại khách hàng, áp dụng những chính sách phù hợp và phục vụ công tác kiểm định các dự án cho thuê sau.
d, Bước 4: Kết thúc hợp đồng CTTC.
Một hợp đồng CTTC kết thúc trong các trường hợp sau:
* Kết thúc hợp đồng theo thời hạn thoả thuận:
Hợp đồng CTTC giữa bên thuê và bên cho thuê (Công ty CTTC) sẽ được kết thúc khi hết thời hạn ghi trong hợp đồng và không có sự vi phạm nào của các bên tham gia cũng như không có thoả thuận nào khác của hai bên. Sau khi kết thúc hợp đồng các bên thực hiện nốt các cam kết như: Bên thuê mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản theo một hợp đồng mới.
* Kết thúc hợp đồng trước thời hạn:
+ Trường hợp 1: Bên cho thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nếu:
- Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp đồng;
- Bên thuê vi phạm một trong các điều khoản khác của hợp đồng;
- Bên thuê mất khả năng thanh toán, phá sản, giải thể;
- Khi bên thuê phải có người bảo lãnh, nhưng người bảo lãnh mất khả năng thanh toán, phá sản, giải thể mà bên thuê không tìm được người bảo lãnh khác thay thế được bên cho thuê chấp nhận.
Trong trường hợp này bên thuê phải thanh toán ngay toàn bộ số tiền thuê phải trả cho hợp đồng CTTC. Công ty CTTC thu hồi ngay lập tức tài sản cho thuê mà không cần đưa việc này ra bất kỳ một toà án hoặc một cơ quan tài phán nào.
+ Trường hợp 2: Bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nếu:
- Tài sản cho thuê không được giao đúng thời hạn do lỗi của bên cho thuê
- Bên cho thuê vi phạm các điều khoản trong hợp đồng.
Trong trường hợp này Công ty CTTC phải bồi thường mọi thiệt hại cho bên thuê
+ Trường hợp 3: Hợp đồng CTTC bị chấm dứt trước thời hạn khi tài sản thuê bị mất, hỏng mà không thể thay thế, phục hồi, sửa chữa. Trong trường hợp này bên thuê phải trả ngay lập tức và toàn bộ số tiền thuê phải trả theo hợp đồng. Nếu trong hợp đồng không quy định việc bên thuê được sở hữu tài sản thuê thì bên thuê phải trả giá trị còn lại của tài sản cho bên cho thuê. Đồng thời Công ty CTTC tiến hành lập hồ sơ để nhận sự đền bù của Công ty bảo hiểm dưới sự trợ giúp của bên thuê, sau đó Công ty CTTC phải chịu trách nhiệm hoàn trả toàn bộ số tiền bảo hiểm cho bên thuê nếu bên thuê đã trả đủ tiền cho bên cho thuê.
3-/ Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty quý I/2000.
a, Tỷ trọng dư nợ cho thuê tài chính của Công ty so với một số Công ty CTTC khác:
Để biết được “vị thế” của Công ty trong thị trường CTTC ở nước ta, sau đây ta hãy so sánh tổng dư nợ của Công ty với một số Công ty CTTC thuộc các ngân hàng thương mại Quốc doanh. Tổng số dư nợ cho thuê tài chính của Công ty kể từ khi đi vào hoạt động (1/8/1998) đến cuối quý I năm 2000 là 13,738 tỷ đồng Việt Nam. So sánh với bốn Công ty CTTC khác thì tỷ trọng như sau:
Bảng 1 - Tổng dư nợ CTTC của các Công ty CTTC thuộc một số Ngân hàng thương mại Quốc doanh
Đơn vị: Tỷ đồng VN
TT
Tên Công ty
31/12/1999
31/3/2000
Tăng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
1
Công ty CTTC - NHNTVN
10,318
19,24
13,738
22,04
33,115
2
Công ty CTTC - NHCTVN
11,8
22,0
16
25,67
35,59
3
Công ty CTTC - NHĐTPT VN
25,6
47,74
26,3
42,2
2,73
4
Công ty CTTC số 1, 2 NHNN&PTNT VN
5,9
11
6,28
10,07
6,44
Tổng
53,618
100
62,318
100
Nguồn: Thời báo kinh tế, Báo Đầu tư, Báo Lao động
Theo bảng 1 ta thấy mức dư nợ CTTC của Công ty so với các Công ty CTTC khác thuộc Ngân hàng thương mại Quốc doanh chiếm 19,24% tại thời điểm đầu quý I/2000. Đây là tỷ lệ không cao so với các Công ty CTTC khác (Công ty CTTC thuộc Ngân hàng công thương chiếm 20% và Công ty CTTC khác thuộc Ngân hàng Đầu tư và phát triển chiếm 47,74%) nhưng nếu ta xét đến các yếu tố khác như tổng nguồn vốn hoạt động, thời gian hoạt động ... thì đây là một con số khá lý tưởng đối với Công ty. Đến thời điểm cuối quý I/2000 tổng dư nợ của Công ty đạt 13,738 tỷ đồng tăng 33,145% so với đầu quý (10,318 tỷ đồng) và tỷ trọng dư nợ so với các Công ty khác tăng lên 22,04% sở dĩ Công ty có sự tăng trưởng như trên là vì Công ty được sự quan tâm triệt để của ngân hàng “mẹ” - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong việc hướng dẫn, chỉ đạo cũng như hỗ trợ vốn. Kết quả trên cũng phản ánh được những định hướng, chiến lược kinh doanh đúng đắn và tính hiệu quả làm việc của cán bộ nhân viên công ty.
b, Tỷ trọng hoạt động CTTC so với các hoạt động tín dụng khác của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Nếu xét trên phạm vi toàn ngành thì có sự không thích hợp về “mặt bằng” thời gian. Bởi vì lịch sử phát triển 37 năm của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với hoạt động cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong khi đó hoạt động CTTC ở nước ta mới bắt đầu từ năm 1995 và hoạt động CTTC của Công ty - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam bắt đầu từ tháng 8/1998. Tuy việc so sánh sẽ giúp ta thấy được vai trò của hoạt động này ở hiện tại và xu hướng phát triển của nó trong tương lai. Từ đó giúp tìm ra nguyên nhân và đưa ra các giải pháp để tạo cho hoạt động CTTC ở nước ta có một “sân chơi bình đẳng” so với các hoạt động tín dụng khác:
Bảng 2 - Kết cấu dư nợ CTTC trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Đơn vị: Tỷ đồng VN
Loại hình tín dụng
31/12/1999
31/3/2000
Tăng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Cho vay ngắn hạn
6.872
72,39
7.030
69,15
2,3
Cho vay trung hạn, dài hạn
2.610
27,49
3.122
30,71
19,6
Cho thuê tài chính
10,318
0,108
13,738
0,135
33,145
Tổng
9.492,318
100
10.165,738
100
Nguồn: Hội Nghị tổng kết công tác năm 1999 và báo cáo hoạt động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Qua bảng 2 cho thấy tỷ trọng CTTC so với các hoạt động tín dụng khác là quá nhỏ (chỉ đạt 0,108% tổng dư nợ hoạt động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương vào thời điểm 31/12/1999). Tuy nhiên trong một khoảng thời gian ngắn (3 tháng) tỷ trọng này đã tăng từ 0,108% lên 0,135% vào thời điểm 31/3/2000 hay tổng dư nợ CTTC tăng từ 10,318 lên 13,738 tỷ đồng.
c, Kết cấu dư nợ CTTC theo loại hình doanh nghiệp.
Bảng 3 - Kết cấu dư nợ CTTC theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: Tỷ đồng VN
Loại hình doanh nghiệp
31/12/1999
31/3/2000
Tăng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Doanh nghiệp Nhà nước
0,538
5,21
0,538
3,91
0,00
Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh
9,78
94,79
13,2
96,09
34,96
Tổng
10,318
100
13,738
100
Nguồn: Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Theo bảng 3 cho thấy mặc dù định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước ta là khu vực kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên đối với hoạt động CTTC thì khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn, chỉ 5,21% hay 0,538 tỷ đồng tại thời điểm 31/12/1999 và cuối quý I/2000 con số này cũng không có sự thay đổi. Trong khi đó dư nợ đối với khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới 94,79% hay 9,78 tỷ (31/12/1999) và 13,2 tỷ vào cuối quý I/2000. Sở dĩ có sự chênh lệch tỷ trọng dư nợ như trên là vì đối tượng khách hàng chủ yếu đối với Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng như các Công ty CTTC khác trên cả nước là các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà các doanh nghiệp này chủ yếu là loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh - những doanh nghiệp đang trong cơn khát vốn để đổi mới máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, và họ đã lựa chọn CTTC như một giải pháp vốn hữu hiệu nhất.
d, Tỷ trọng CTTC giữa các ngành sản xuất.
Bảng 4 - Kết cấu dư nợ CTTC phân theo ngành kinh tế.
Đơn vị: Tỷ đồng VN
Ngành sản xuất
31/12/1999
31/3/2000
Tăng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Xây dựng
8
77,53
11
80,06
37,5
Giao thông vận tải
2,115
20,49
2,535
18,45
19,85
Nông nghiệp
0
0
0
0
0,00
Dịch vụ
0,203
1,96
0,203
1,47
0,00
Tổng
10,318
100
13,738
100
Nguồn: Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Như vậy CTTC đối với ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất 77,53% hay đạt 8 tỷ đồng Việt Nam vào thời điểm 31/12/1999 và trong quý I/2000 đã tăng lên 11 tỷ đồng Việt Nam đạt tỷ trọng 80,06%, tăng trong quý 37,5%. Ngành giao thông vận tải đạt 2,115 tỷ (22,49%) và tăng không đáng kể trong quý I/2000, đến 31/3/2000 đạt 2,535 tỷ (18,45%). Đây là những con số đáng mừng, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước là đến năm 2020 chúng ta thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Ngành dịch vụ chiếm 1,96% đạt 0,203 tỷ đồng, cho đến cuối quý I/2000 dư nợ đối với ngành này không có sự thay đổi làm cho tỷ trọng giảm xuống còn 1,47%. Cho đến nay Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn chưa thực hiện cho thuê với khách hàng nào trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo như quy định mới đây của Chính phủ về mô hình kinh tế trang trại thì việc cho thuê đối với các hộ gia đình làm nông nghiệp theo mô hình kinh tế trang trại sẽ là một triển vọng cho hoạt động CTTC, tạo điều kiện cho Công ty mở rộng thị phần CTTC, góp phần cơ khí hoá ngành nông nghiệp.
e, Thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước (nộp các loại thuế)
Bất kỳ một doanh nghiệp khi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải thực hiện phần nghĩa vụ với Nhà nước - đóng các khoản thuế như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp... theo quy định của pháp luật đối với từng loại hình doanh nghiệp, từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Đối với hoạt động CTTC theo Nghị định 64/CP và Thông tư số 49/1999/TT - BTC ngày 6/05/1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động CTTC thì hai loại thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với tài sản thuê đều do bên đi thuê trả. Vì vậy các Công ty CTTC chỉ phải nộp 2 khoản thuế là thuế thu nhập doanh nghiệp và về mặt lý thuyết thì các Công ty này cũng phải nộp thuế sử dụng vốn cách tính thuế và số tiền thuế đã nộp hàng tháng của Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong quý I/2000 như sau:
Dư nợ đầu quý (31/12/1999) là 10,318 tỷ đồng. Lãi suất cho thuê bằng đồng Việt Nam là 0,85%. Kết quả kinh doanh và số tiền thuế đã nộp hàng tháng theo bảng sau:
Đơn vị: Triệu đồng
1
Tiền lãi thu hàng tháng
10.318 x 0,85% = 87,7 triệu đ
2
Chi phí quản lý/doanh thu
87,7 x 20% = 17,54
3
Thu nhập trước thuế
87,7 - 17,54 = 70,16
4
Thuế thu nhập doanh nghiệp (32%)
70,16 x 32% = 22,45
5
Lãi sau thuế
70,16 - 22,45 = 47,71
6
Chi phí sử dụng vốn (6%/năm)
10.318 x 0,5 = 51,59
7
Lỗ 1 tháng
47,71 - 51,59 = - 3,88
Nguồn: Công ty CTTC-Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Quý I/2000)
Như vậy, trong 3 tháng của quý I/2000 tổng số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp cho Nhà nước là 22,45 x 3 = 67,35 triệu đồng. Còn đối với khoản thuế sử dụng vốn, nếu theo quy định của NHNN thì hàng tháng Công ty phải nộp một số tiền thuế là:
10.318 x 0,5% = 51,59 triệu đồng (Thuế suất sử dụng vốn 6% 1 năm à thuế suất hàng tháng là )
Như vậy với mức lãi suất sử dụng vốn là 6%/năm (0,5% tháng0 thì chi phí sử dụng vốn mà đáng ra Công ty phải trả luôn luôn lớn hơn lợi nhuận sau thuế và mỗi tháng Công ty sẽ bị lỗ một khoản:
47,71 - 51,59 = - 3,88 triệu đồng.
3 tháng lỗ = - 3,88 x 3 = - 11,04 triệu đồng.
Đây là khó khăn lớn nhất không chỉ đối với Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mà nó còn là khó khăn cho tất cả các công ty CTTC 100% vốn Việt Nam khác (đều phải chịu chi phí sử dụng vốn 6%/năm). Kinh doanh luôn nhìn thấy một khoản lỗ trước mắt thì không Công ty nào dám hoạt động. Sở dĩ Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn có thể hoạt động được là do Ngân hàng “mẹ” - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hỗ trợ bằng cách hoãn chưa bắt nộp khoản phí sử dụng vốn nêu trên. Tuy nhiên các ngân hàng “mẹ” cũng không thể “bao cấp” mãi được vì vậy NHNN nên có những quy định hợp lý hơn về các khoản thuế phải nộp đối với các Công ty CTTC.
Trên đây là thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, mặc dù mới đi vào hoạt động nhưng Công ty đã thực hiện cho thuê đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau với mức dư nợ vào cuối quý I/2000 là 13,738 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng khá khả quan trong quý là 33,14% với kết quả này, Công ty đã góp phần giải quyết một phần nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy sự phát triển của thị trường CTTC nói riêng và thị trường vốn Việt Nam nói chung.
Chương III
Hoàn thiện cơ chế pháp lý để phát triển thị trường cho thuê tài chính ở nước ta.
I-/ Đánh giá tổng quát về hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta thời gian qua.
1-/ Những thành tựu.
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam từ Đại hội Đảng lần VI (1986) đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế. Một thay đổi quan trọng mà chúng ta đã thực hiện được là việc công nhận một nền kinh tế có nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Kể từ khi có định hướng đúng đắn đó các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập với một tốc độ nhanh chóng và cho đến nay số lượng các doanh nghiệp loại này đã chiếm 90% số lượng các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đây là dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới cũng như công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước thì các doanh nghiệp này cần phải luôn luôn đổi mới, đầu tư thêm trang thiết bị công nghệ...Nhưng để làm được việc này thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn, mà hầu hết các doanh nghiệp đều không có vốn tự có để mua sắm trang thiết bị còn đi vay ở các tổ chức tín dụng thì lại gặp nhiều khó khăn về các điều kiện thế chấp, về thủ tục rườm rà...Vì vậy các doanh nghiệp bị rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng đang rất khát vốn để phục vụ mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị hiện đại...
Nhận thức được nhu cầu cấp bách này từ năm 1995 chúng ta đã lựa chọn loại hình tín dụng thuê mua (CTTC) làm giải pháp tối ưu nhất cho vấn đề nan giải trên.
Kể từ đó, trên phạm vi toàn quốc, chúng ta đã có 8 công ty CTTC đi vào hoạt động và những thành tựu mà các Công ty này đạt được không phải là nhỏ, với tốc độ tăng trưởng bình quân 7%/ năm, số lượng các doanh nghiệp được các công ty CTTC tài trợ bằng tài sản mỗi năm một tăng, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chỉ xét trong quý I năm 2000, mức tăng dư nợ của một số công ty thuộc các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh ta sẽ thấy tốc độ tăng trưởng đáng khâm phục của các CTTC. ở thời điểm 31/ 12/ 1999 tổng mức dư nợ CTTC của công ty CTTC thuộc NHNTVN là 10,318 tỷ đồng; của công ty CTTC - NH Công thương là 11,8; công ty CTTC - Ngân hàng Đầu tư và phát triển là 25,6 và của công ty CTTC số 1 và 2 ; Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn là 5,9. Đến 31/ 03/ 2000 những con số tương ứng là 13,738; 16; 26,3 và 6,28 tỷ đồng. Đối với các doanh nghiệp đi thuê, thì mỗi tỷ đồng dư nợ của các công ty CTTC là 1 tỷ đồng giá trị máy móc, thiết bị được trang bị thêm. Và những trang thiết bị, những máy móc, những dây chuyền công nghệ này lại phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đi thuê, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm , dịch vụ cho xã hội thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Đạt dược những kết quả đó là hoạt động CTTC có đựoc những điều kiện thuận lợi nhất định. Đó là một môi trường chính trị ổn định với các chính sách kinh tế cởi mở, CTTC có một thị trường khách hàng rộng lớn - đó là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang có nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị. CTTC cũng đã có lợi thế hơn so với các loại hình tín dụng khác khi nó khắc phục được những khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải khi đi vay vốn bằng tiền ở các tổ chức tín dụng. Và đặc biệt là các công ty CTTC được sự quan tâm, giúp đỡ trực tiếp của các Ngân hàng “mẹ” của các định chế tài chính - các chủ thể thành lập công ty CTTC.
Bên cạnh đó, qua thực tế vài năm thành lập và hoạt động, các công ty CTTC cũng gặp phải một số khó khăn nhất định. Đó là những khó khăn cề nguồn vốn - các công ty CTTC hiện nay có vô số vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh còn ít hơn rất nhiều so với nhu cầu của nền kinh tế, là khó khăn của một loạt hình tín dụng mới mẻ nên chưa được thị trường chấp nhận rộng rãi...Và một khó khăn lớn nhất - khó khăn từ môi trường pháp lý. Không chỉ thiếu các văn bản điều chỉnh mà còn có nhiều điểm bất cập ngay trong chính những quy định về hoạt động CTTC.
2-/ Một số khó khăn từ môi trường pháp lý đối với hoạt động CTTC ở nước ta.
Mặc dù CTTC là một loại hình tín dụng mới ra đời nhưng đã có những cơ chế pháp lý nhất định, góp phần tạo điều kiện cho việc quản lý và thúc đẩy hoạt động này phát triển. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi cho công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng như các công ty CTTC khác hoạt động trong một khung pháp lý giành riêng cho lĩnh vực CTTC. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế luôn biến đổi, hơn nữa CTTC là hoạt động còn mới mẻ cho nên qua thực tiễn hoạt động của công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các công ty khác, hệ thống những chính sách, những quy định về CTTC ở nước ta đã bộc lộ một số điểm chưa phù hợp sau:
1. Về nguồn vốn hoạt động.
Theo các quy định hiện hành thì trong tương lai tất cả các công ty CTTC đều thiếu vốn trung và dài hạn để hoạt động. Vì cho đến nay chúng ta chưa có một văn bản nào của Ngân hàng Nhà nước cho phép các công ty CTTC được vay vốn trung và dài hạn của Ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng, chưa nói đến việc vay ưu đãi.
Hơn nữa do công ty CTTC theo quy định của pháp luật thuộc loại hình tổ chức tín dụng phi Ngân hàng nên không được phép thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng như : huy động tiền gửi, tiết kiệm, làm nghiệp vụ thanh toán và kinh doanh tiền tệ. Như vậy các công ty CTTC chỉ có thể tiến hành một nghiệp vụ duy nhất mang tính chất “độc canh” là CTTC mà không được phép kinh doanh bất kỳ nghiệp vụ nào khác. Nguồn vốn để thực hiện CTTC là vốn tự có, vốn vay (vay trong nước và vay nước ngoài). Vốn tự có thì không đáng kể, còn vốn vay trong nước thì chưa có cơ chế như nêu trên. Trong khi đó vì hiện nay các Ngân hàng đang thừa vốn nên luôn luôn hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Một minh chứng là vừa qua các Tổng giám đốc các Ngân hàng thương mại quốc doanh đã gặp nhau để thống nhất không lôi kéo khách hàng và đưa ra một mức lãi suất trần ngoại tệ là 7,5%/ năm và lãi suất sàn bằng đồng Việt Nam là 0,75%/ tháng. Với mức lãi suất này thì hoạt động CTTC không thể cạnh tranh được với hoạt động cho vay bằng tiền của các Ngân hàng Thương mại.
Mặt khác, vừa qua Chính phủ có Nghị định 178/ 1999/ NĐ - CP ngày 29/ 12/ 1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, đã đưa ra những quy định mới về đảm bảo tiền vay, cho phép các Ngân hàng có quyền cho vay tín chấp, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Do vậy CTTC cũng mất đi lợi thế cạnh tranh so với cho vay bằng tiền.
2. Về lệ phí trước bạ khi chuyển quyền sở hữu tài sản thuê.
Vì đặc điểm của hoạt động CTTC là trong thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản đó thuộc về phía công ty CTTC và khi kết thúc thời hạn thì bên thuê có quyền mua lại tài sản với giá danh nghĩa. Để xác định quyền sở hữu ban đầu sau khi mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê, tổ chức tín dụng (công ty CTTC) phải nộp lệ phí trước bạ dựa trên giá trị tài sản và sau khi hết thời hạn thuê nếu bên thuê mua lại tài sản đó với giá danh nghĩa, bên thuê cũng phải nộp lệ phí trước bạ để xác nhận quyền sở hữu của mình đối với tài sản. Như vậy, đối với tài sản được hình thành từ hoạt động CTTC bắt buộc phải nộp lệ phí trước bạ ít nhất 2 lần. Do vậy chi phí cho tài sản CTTC lớn hơn rất nhiều so với tài sản hình thành từ nguồn vốn vay. Điều này đã làm cho hoạt động CTTC gặp nhiều khó khăn so với hoạt động cho vay bằng tiền vì chủ thể kinh doanh nào cũng chọn phương án kinh doanh với chi phí thấp nhất.
3.Về thủ tục xuất nhập khẩu máy móc thiết bị.
Theo Nghị định 64/ CP và về lý thuyết thì các công ty CTTC được phép nhập khẩu thiết bị để cho thuê. Nhưng trong thực tế, vấn đề này gặp không ít khó khăn. Suốt một thời gian dài Bộ Thương mại không cho phép các công ty CTTC được nhập khẩu trực tiếp vì công ty CTTC là một tổ chức tín dụng, mà cho phép một tổ chức tín dụng nhập khẩu thì chưa có tiền lệ. Đến khi việc đăng ký mã số xuất nhập khẩu ra đời thay cho việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp thì các công ty CTTC lại gặp khó khăn về thủ tục hải quan, mà lý do cũng tương tự như các lý do mà Bộ Thương mại đưa ra trước đây.
4. Về thuế nhập khẩu.
Trong hầu hết các trường hợp, nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị, nếu máy móc thiết bị đó được đưa vào làm tài sản cố định của dự án theo giấy phép đầu tư. Kể cả trong trường hợp các chủ đầu tư vay vốn từ các Ngân hàng Thương mại để nhập khẩu máy móc thiết bị thì họ cũng được miễn thuế nhập khẩu. Ngược lại, nhà đầu tư gặp khó khăn khi họ chọn hình thức đầu tư máy móc thông qua đi thuê tài chính, vì máy móc thiết bị nhập khẩu dưới tên của các công ty CTTC phải chịu thuế nhập khẩu, mà khoản thuế này được tính vào giá trị cho thuê và bên đi thuê phải chịu. Vì vậy, chi phí của CTTC cao hơn so với vay vốn từ ngân hàng để nhập khẩu máy móc thiết bị.
5. Thu tiền bằng ngoại tệ:
Như đã trình bày ở trên, các công ty CTTC đã gặp nhiều khó khăn khi nhập khẩu máy móc thiết bị, và công ty cũng phải dùng ngoại tệ để thanh toán trên nhập khẩu tài sản đó cho bên nước ngoài. Điều bất hợp lý là ở chỗ, công ty CTTC phải dùng ngoại tệ để chi trả, thanh toán cho người bán nhưng lại không được phép thu tiền bằng ngoại tệ do bên đi thuê thanh toán.
Ngoại tệ, dù là vốn tự có của các công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài hay là vốn vay của các công ty CTTC nói chung, phải dược bảo toàn thì hoạt động CTTC mới có lãi và nước ngoài mới đầu tư. Nếu chỉ được phép thu tiền bằng đồng Việt Nam, đến một lúc nào đó công ty sẽ bị lỗ lớn vì không thể bù đắp được phần chênh lệch tỷ giá và cũng không còn đủ số ngoại tệ cần thiết để quay vòng. Điều này là không công bằng so với các Ngân hàng Thương mại vì cho vay ngoại tệ, các Ngân hàng Thương mại được thu nợ bằng ngoại tệ. Lợi thế kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại là hơn hẳn vì vừa được kinh doanh đa dạng vừa được thu nợ bằng ngoại tệ.
6. Về giấy phép lưu hành đối với tài sản thuê là phương tiện giao thông.
Theo quy định hiện hành, giấy phép lưu hành cho các phương tiện giao thông chỉ được cấp cho chủ phương tiện có chức năng kinh doanh phương tiện đó. Do vậy bên thuê (không phải là chủ sở hữu) thì không được cấp giấy phép lưu hành tài sản thuê. Còn các công ty CTTC có tư cách là chủ sở hữu tài sản thì lại không có chức năng kinh doanh. cho đến nay Bộ giao thông - vận tải vẫn chưa có văn bản quy định cụ thể về vấn đề này, cho nên các doanh nghiệp đi thuê các phương tiện phục vụ kinh doanh như: xe tải, xe khách, tàu thuyền...gặp khó khăn trong việc làm thủ tục xin giấy phép kinh doanh, có trường hợp do cách hiểu và vận dụng của các cơ quan quản lý cấp dưới theo các văn bản quy định chuyên ngành nên bên đi thuê trở thành người sử dụng tài sản không hợp lệ...
7. Hệ thống tài chính - kế toán.
Cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa có hướng dẫn hạch toán kế toán đối với nghiệp vụ CTTC. Theo quy định, các công ty CTTC phải hạch toán theo hệ thống kế toán của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, vì vậy các CTTC đã tuân thủ theo hệ thống kế toán, số tài khoản của Ngân hàng Nhà nước nhưng chưa được hướng dẫn hạch toán kế toán một cách cụ thể.
Bộ Tài chính là nghành chủ quản xét duyệt là việc hoàn thành nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp, lại mới chỉ có hướng dẫn hạch toán kế toán đối với các công ty đi thuê, còn các công ty cho thuê thì Bộ Tài chính không có trách nhiệm hướng dẫn vì cho rằng các công ty CTTC là các tổ chức tín dụng nên sẽ được Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn. Do các văn bản quy định thiếu sự đồng bộ và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý như vậy, nên cho đến nay có công ty (như VILC) không biết hạch toán kế toán ra sao đối với một số tài khoản như:
- Tài sản thu hồi về để cho thuê tiếp.
- Quỹ dự phòng chưa sử dụng cuối năm phải xuất toán khỏi chi phí. Nộp thuế xong, đầu năm sau lại trích lại, gây lỗ giả tạo cho công ty.
- Dư nợ công ty cho thuê lại không được tính những khoản đã chi ứng trước để nhập hàng, để chi phí làm thủ tục...Do đó tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh không đúng sự thật.
8. Về thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động CTTC.
Trong thông tư số 49/ 1999/ TT - BTC ngày 06/ 05/ 1999 của Bộ Tài chính ban hành về việc áp dụng thuế giá trị gia tăng trong hoạt động CTTC. Theo thông tư này thì bên cho thuê tài chính là đối tượng không phải chịu thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ CTTC. Tài sản mua vào hoặc nhập khẩu dùng để CTTC đã được nộp thuế giá trị gia tăng sẽ được bên thuê trả dần hàng tháng cho bên thuê (khấu trừ dần). Đây là một bất lợi đối với hoạt động CTTC, bởi vì nếu doanh nghiệp vay được vốn từ Ngân hàng và dùng số tiền đó để mua tài sản thì họ sẽ được khấu trừ thuế ngay trong kỳ sản xuất kinh doanh, còn nếu như họ đi thuê tài chính thì thuế trên tài sản thuê sẽ được khấu trừ dần theo tiền thuê tiền thuê mỗi kỳ mà họ phải trả. Như vậy bên đi thuê sẽ phải chịu một khoản phí do lãi suất tính trên tiền thuế giá trị gia tăng chưa được khấu trừ, mà lẽ ra họ không phải chịu nếu như họ vay tiền từ Ngân hàng để mua tài sản đó.
Ví dụ sau đây cho ta thấy rõ hơn vấn đề này:
Doanh nghiệp A muốn có một thiết bị trị giá 1 tỷ đồng để phục vụ sản xuất. Để có được tài sản đó, doanh nghiệp A có 3 phương án lựa chọn sau đây: Với các giả thiết:
- Tổng số vốn cần có = 1 tỷ đồng.
- Thuế suất thuế giá trị gia tăng = 10%/ nguyên giá tài sản.
- Lãi suất cho vay trung hạn là 1,1%/ tháng.
- Lãi suất cho vay ngắn hạn 1%/ tháng.
- Lãi suất tiền gửi ngắn hạn là 0,8%/ tháng.
Phương án 1: Doanh nghiệp A vay vốn trung hạn của Ngân hàng 1 tỷ đồng để mua thiết bị đó ị Số thuế giá trị gia tăng phải nộp là:
X = 1 tỷ x 10% = 100 triệu.
Để có tiền trả thuế giá trị gia tăng, Doanh nghiệp A đi vay ngắn hạn Ngân hàng 100 triệu và ngay trong tháng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và đem số tiền đó để trả nợ vay ngắn hạn Ngân hàng với mức lãi phải trả là:
100 x 1% = 1 triệu đồng
Phương án 2:
Doanh nghiệp A đi thuê tài chính tài sản đó trong hai năm và trả tiền thuế theo phương án các khoản tiền bằng nhau thời hạn trả nợ là 6 tháng (khấu trừ dần). Như vậy, doanh nghiệp sẽ phải trả số tiền thuế giá trị gia tăng làm 4 lần, mỗi lần 25 triệu đồng. Khi đó số tiền lãi tính trên thuế giá trị gia tăng mà doanh nghiệp phải chịu sẽ là:
Y = 100 x 6 1,1% + 75 x 6 x 1,1% + 50 x 6 x 1,1% + 25 x 6 x 1,1
= ( 100 + 75 + 50 + 25) x 6 x 1,1%
= 250 x 6 x 1,1% = 16,5 triệu
Phương án 3: Doanh nghiệp A bỏ vốn đầu tư có thể mua tài sản đó, đồng thời tự trả tiền thuế giá trị gia tăng là 100 triệu. Khi đó chi phí cơ hội cho việc không dùng số tiền đó để gửi Ngân hàng sẽ là:
Z = 100 triệu x 0,8% = 0,8 triệu.
Như vậy, trong 3 phương án thì đi thuê tài chính, doanh nghiệp A sẽ phải chịu chi phí lớn nhất là Y = 16,5 triệu.
9. Về đăng ký tài sản thuê.
Theo quy định tại Nghị định 64/ CP và thông tư số 03/ TT - NH 5 ngày 9/ 2/ 1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, sau khi mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê, bên cho thuê phải làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu (nếu tài sản đó thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu) tại cơ quan có thẩm quyền địa phương. Các văn bản cũng quy định rõ công ty CTTC phải đăng ký tại địa phương nơi đóng trụ sở chính.
Vấn đề là ở chỗ khách hàng với tư cách là bên thuê nằm rải rác ở rất nhiều địa phương khác nhau trên phạm vi toàn quốc, theo định kỳ phải di chuyển tài sản thuê về nơi đăng ký để kiểm tra ( đặc biệt là phương tiện vận chuyển). Quy định này gây khó khăn cho cả bên thuê và bên cho thuê và nếu cứ thực hiện theo đúng quy định thì chi phí cho tài sản quá lớn, không đem lại hiệu quả kinh doanh. Ví dụ như công ty CTTC Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cho công ty xây dựng đóng tại Sóc Trăng thuê một số ôtô, cần cẩu phục vụ cho hoạt động của công ty. Lô hàng này được sử dụng tại Kiên Giang, việc kiểm tra tại Hà Nội ( vì công ty CTTC - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trụ sở tại Hà Nội) đối với những phương tiện đó là rất khó khăn và gần như không thực hiện được do khoảng cách về địa lý quá lớn.
Còn trong trường hợp để tiêt kiệm chi phí, tài sản thuê không chuyển về n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 18039.DOC