Tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập: Mục lục
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Danh mục các bảng biểu
Số hiệu
Tên bảng
Trang
2.1
Số lượng doanh nghiệp và lao động năm 1995-2002
35
2.2
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư.
36
2.3
Tốc độ tăng vốn của các doanh nghiệp
36
2.4
So sánh một số chi phí sản xuất tại một số thành phố trong khu vực và Việt Nam.
42
2.5
So sánh chi phí bưu chính viễn thông giữa Việt Nam và một số nước trong khu vực.
42
Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Qua hơn 15 năm kể từ khi có Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam năm 1987, các doanh nghiệp có vốn FDI đã hình thành và không ngừng phát triển mạnh mẽ, có mặt trên khắp các tỉnh thành trong cả nước, hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế...
110 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1131 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Danh mục các bảng biểu
Số hiệu
Tên bảng
Trang
2.1
Số lượng doanh nghiệp và lao động năm 1995-2002
35
2.2
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư.
36
2.3
Tốc độ tăng vốn của các doanh nghiệp
36
2.4
So sánh một số chi phí sản xuất tại một số thành phố trong khu vực và Việt Nam.
42
2.5
So sánh chi phí bưu chính viễn thông giữa Việt Nam và một số nước trong khu vực.
42
Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Qua hơn 15 năm kể từ khi có Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam năm 1987, các doanh nghiệp có vốn FDI đã hình thành và không ngừng phát triển mạnh mẽ, có mặt trên khắp các tỉnh thành trong cả nước, hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp có vốn FDI được coi là nhân tố quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh cho thị trường trong nước, làm nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển đất nước, tạo điều kiện cho Việt nam hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Cùng với quá trình phát triển đó, cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI đã hình thành và từng bước được cải thiện, có tác động tích cực đến quá trình phát triển của các doanh nghiệp có vốn FDI. Tuy nhiên, thực tế còn phát sinh nhiều bất cập trong công tác quản lý nói chung, quản lý tài chính nói riêng làm hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn FDI. Hiện tại môi trường đầu tư ở nước ta còn chưa thực sự hấp dẫn, môi trường kinh tế và pháp lý đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ. Cơ cấu về đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có mặt bất hợp lý và hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội mà các doanh nghiệp có vốn FDI mang lại chưa cao, Việt nam đang cam kết mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng. Sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp có vốn FDI sẽ tạo động lực tốt thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác, nhằm đổi mới công nghệ mới, tăng năng suất lao động, tăng năng lực quản lý điều hành, tạo thế cạnh tranh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đây là một vấn đề thực tế đặt ra hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có một cơ chế quản lý nhà nước về tài chính cho các doanh nghiệp có vốn FDI, nhờ cơ chế tài chính để từ đó tổ chức quản lý, định hướng, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp này.
Với ý nghĩa đó, tác giả tập trung nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập", góp phần giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn nêu trên.
Mục đích nghiên cứu
- Góp phần làm rõ lý luận về vị trí vai trò của các doanh nghiệp có vốn FDI trong nền kinh tế thị trường tính cạnh tranh cao và trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới;
- Phân tích, làm rõ lý luận về cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có vốn FDI riêng;
- Đánh giá thực trạng tình hình các doanh nghiệp có vốn FDI, cơ chế tài chính các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam trong thời gian qua và khái quát những bài học kinh nghiệm về quản lý tài chính các doanh nghiệp có vốn FDI của một số nước, từ đó góp phần cho việc đề xuất các định hướng, các quan điểm đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính để phát triển các doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng chính của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của cơ chế tài chính và các giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Cơ chế tài chính là một vấn đề rộng lớn, bao quát nhiều lĩnh vực, nhiều khâu trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu cơ chế tài chính doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam, đó là: cơ chế huy động và tạo lập vốn, cơ chế quản lý sử dụng vốn, cơ chế phân phối kết quả kinh doanh, cơ chế giám sát tài chính, cơ chế cho việc sáp nhập, giải thể, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Tập trung nghiên cứu tình hình của Việt Nam, có nghiên cứu kinh nghiệm một số nước ở châu á và các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế tài chính các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Phương pháp cơ bản và chủ yếu được vận dụng để nghiên cứu đề tài này là phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời kết hợp với các phương pháp cụ thể khác như: thống kê so sánh, tổng hợp phân tích các dữ liệu thực tế. Ngoài ra còn vận dụng các quan điểm lý luận của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế trong sự nghiệp đổi mới.
ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
- Hệ thống hoá một số vấn đề về các doanh nghiệp có vốn FDI và cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI.
- Khẳng định vai trò quan trọng của các doanh nghiệp có vốn FDI trong mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và khẳng định vai trò quan trọng của cơ chế tài chính nhằm phát triển các doanh nghiệp có vốn FDI.
- Phân tích đánh giá thực trạng về cơ chế tài chính các doanh nghiệp có vốn FDI trong thời gian qua, tạo tiền đề cho các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt nam.
- Đề xuất một số quan điểm định hướng phát triển các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt nam khi hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế tài chính các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Doanh nghiệp có vốn FDI và cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Chương 2: Thực trạng cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt nam và kinh nghiệm một số nước trên thế giới.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Chương 1
Doanh nghiệp có vốn FDI và cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập
1.1. vai trò Đầu tư trực tiếp nước ngoài và những vấn đề chung về doanh nghiệp có vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ra đời và phát triển là một tất yếu của quá trình quốc tế hoá kinh tế - xã hội và phân công lao động quốc tế. FDI là loại đầu tư mà các nhà tư bản nước ngoài bỏ vốn đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý điều hành, tổ chức sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận và hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về vốn và kết quả kinh doanh. Loại hình đầu tư này đã xuất hiện vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản– thời kỳ mà các nước tư bản có thuộc địa ngoài phạm vi lãnh thổ của mình.
Từ những năm cuối thập niên 80 thế kỷ 20 đến nay, sự vận động và các điều kiện của thế giới có những chuyển biến cơ bản, sâu sắc (sự cách biệt giữa hai hệ thống xã hội đã giảm, kinh tế của hầu hết các nước đều theo thể chế thị trường, xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế đang trở thành phổ biến và diễn ra với tốc độ nhanh, khoa học, kỹ thuật, công nghệ đạt tới trình độ phát triển cao, …), FDI không những được sử dụng như một trong những hình thức hợp tác kinh tế, như phương tiện thực hiện phân công lao động Quốc tế, mà còn được xem là điều kiện quyết định sự phát triển của kinh tế thế giới.
Theo Hiệp hội luật Quốc tế (1996): FDI là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ. Theo Luật ĐTNN tại Việt nam: ĐTNN là việc các tổ chức và cá nhân trực tiếp nước ngoài đưa vào Việt nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Từ các góc độ nhìn nhận khác nhau về FDI, ta có thể rút ra các đặc trưng chung về FDI như sau: Đó là sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác; vốn được huy động vào các mục đích thực hiện các hoạt động kinh tế và kinh doanh.
Quan hệ kinh tế quốc tế đã hình thành nên các dòng lưu chuyển vốn: dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển, dòng vốn lưu chuyển trong nội bộ các nước phát triển… Sự lưu chuyển của các dòng vốn diễn ra dưới nhiều hình thức như: tài trợ phát triển chính thức (gồm viện trợ phát triển chính thức – ODA và các hình thức khác), nguồn vay tư nhân (tín dụng từ các ngân hàng thương mại) và FDI. Mỗi nguồn vốn có đặc điểm riêng của nó:
- Nguồn tài trợ phát triển chính thức là nguồn vốn do các tổ chức quốc tế, chính phủ (hoặc đại diện chính phủ) cung cấp. Loại vốn này có đặc điểm là có sự ưu đãi nhất định về lãi suất, khối lượng cho vay lớn, thời hạn vay tương đối dài.
- Nguồn vay tư nhân: Đây là nguồn vốn thường không có những điều kiện ràng buộc như ODA, tuy nhiên thủ tục vay loại vốn này rất khắt khe, lãi suất cao, thời hạn trả nợ nghiêm ngặt.
Nhìn chung sử dụng hai loại nguồn vốn này đều để lại cho nền kinh tế của nước đi vay gánh nặng nợ nần – một trong những yếu tố chứa đựng tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến khủng hoảng, nhất là khủng hoảng tài chính tiền tệ.
- Nguồn vốn FDI: Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, FDI là loại vốn có nhiều ưu điểm hơn so với các loại vốn kể trên, nhất là đối với các nước đang phát triển, khi khả năng tổ chức sản xuất đạt hiệu quả thấp thì ưu điểm đó càng rõ rệt.
Về bản chất, FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và một bên khác là nước nhận đầu tư.
Đối với nhà đầu tư, thông qua FDI để duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất của chủ đầu tư (vốn, kỹ thuật, sản phẩm,…), khai thác các nguồn nhân lực và xâm nhập thị trường của nước nhận đầu tư, tranh thủ tận dụng chính sách khuyến khích của nước nhận đầu tư, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thực hiện các ý đồ kinh tế (hoặc phi kinh tế) mà các hoạt động khác không thực hiện được.
Đối với nước nhận đầu tư, trước hết đó là những nước đang có một số lợi thế mà họ chưa có điều kiện khai thác hoặc các nhà đầu tư không có, đó là các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu công nghệ tiên tiến và ít có khả năng tổ chức … số này phần lớn là các nước đang phát triển.
FDI được đánh giá như là lối thoát cho các nước nghèo, với lý thuyết “cái vòng luẩn quẩn” và “cú hích” từ bên ngoài, P.A.Samuelson nhấn mạnh rằng: đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp, chỉ đủ sống ở mức tối thiểu, do khả năng tích luỹ rất hạn chế. Để tự thân vận động thì các nước nghèo rất khó khăn để thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ.
1.1.2. Vai trò của FDI
Mặc dù còn nhiều tranh luận, còn nhiều ý kiến khác nhau về vai trò, về mặt tích cực, tiêu cực… của FDI đối với nước nhận đầu tư, nhưng chỉ điểm qua nhu cầu, qua trào lưu cạnh tranh thu hút cũng đủ cho ta khẳng định rằng FDI hiện nay đối với các nước nhận đầu tư, có tác dụng tích cực là chủ yếu, đa phần các dự án FDI khi thực hiện đều đưa lại lợi ích cho nước nhận đầu tư. Đối với nhiều nước, FDI thực sự đóng vai trò là điều kiện, là cơ hội, là cửa ngõ giúp thoát khỏi tình trạng của một nước nghèo, bước vào quĩ đạo của sự phát triển chung trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò của FDI được thể hiện qua các điểm sau:
- FDI có khả năng giải quyết có hiệu quả những khó khăn về vốn cho nền kinh tế. Đối với nước nghèo, vốn được xem là yếu tố cơ bản, là điều kiện khởi đầu quan trọng để phát triển kinh tế, trong khi đó các nguồn vốn khác từ bên ngoài (ODA, vay thương mại ) bị ràng bởi nhiều điều kiện khó khăn (như đã phân tích ở trên).
- Thông qua các dự án FDI, nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp nhận những kỹ thuật mới, những công nghệ tiên tiến, góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung, từ đó củng cố năng suất chung của toàn nền kinh tế, đồng thời tạo ra các điều kiện kinh tế – kỹ thuật cho việc thực hiện việc cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ…
- Các dự án FDI có thể thu hút một lượng lớn lao động trực tiếp và tạo ra nhiều việc làm cho các dịch vụ tương ứng. Thông qua thực hiện các dự án FDI có thể làm cho đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu trưởng thành hơn về năng lực quản lý phù hợp với nền sản xuất hiện đại, hình thành một lực lượng công nhân lành nghề…
- FDI có các điều kiện cần thiết cho việc tạo lập một hệ thống thị trường phù hợp với một nền sản xuất hiện đại, tiếp cận thị trường mới, tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế…Hình thành được những khu công nghiệp, khu chế xuất…
FDI có vai trò rất lớn trong quá trình công nghiệp hoá của các nước đang phát triển. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ thành công khi thực hiện công nghiệp hoá của các nước đang phát triển hiện nay, trong đó có 4 yếu tố cơ bản nhất được xem là điều kiện quyết định khả năng thực hiện công nghiệp hoá là công nghệ, kỹ thuật, nguồn nhân lực, cải cách thể chế (thị trường, hội nhập,…). FDI là loại hình hoạt động kinh tế hội tụ tương đối đầy đủ tiềm năng của 4 yếu tố trên.
1.1.3. Những vấn đề chung về doanh nghiệp có vốn FDI
1.1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp có vốn FDI
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh với mục đích sinh lời (hoặc công ích).
Doanh nghiệp có đặc điểm là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân, mục đích hoạt động kinh doanh là thu lợi nhuận (hoặc công ích). Các doanh nghiệp ở Việt nam được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật ĐTNN tại Việt nam, Luật hợp tác xã.
Trong nền KTTT các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng và bao gồm rất nhiều loại, trong đó có doanh nghiệp có vốn FDI.
Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm doanh nghiệp có vốn FDI:
- Doanh nghiệp có vốn FDI là những loại hình doanh nghiệp có vốn của bên nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài. Doanh nghiệp này hoạt động theo luật pháp của nước sở tại để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích cho tất cả các bên.
- Doanh nghiệp có vốn FDI là những tổ chức quốc tế có tư cách pháp nhân, có vốn của bên nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích.
- Doanh nghiệp có vốn FDI là những pháp nhân mới được thành lập tại nước nhận đầu tư. Trong đó, các đối tác có quốc tịch khác nhau và bên nước ngoài có tỷ lệ góp vốn tối thiểu để trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp.
Tóm lại: Doanh nghiệp có vốn FDI là một thuật ngữ chỉ tất cả các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân tại nước tiếp nhận đầu tư, bên nước ngoài có tỷ lệ góp vốn tối thiểu đủ để tham gia quản lý trực tiếp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thu được lợi ích cho tất cả các bên đầu tư.
1.1.3.2. Các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp có vốn FDI
Doanh nghiệp có vốn FDI là một phạm trù chỉ tất cả các loại hình doanh nghiệp có vốn bên nước ngoài ở nước tiếp nhận đầu tư. Tuy doanh nghiệp có vốn FDI bao gồm nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau nhưng chúng đều có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Doanh nghiệp có vốn FDI là những tổ chức kinh doanh quốc tế và là những pháp nhân của nước nhận đầu tư, hoạt động theo luật pháp nước nhận đầu tư, các hiệp định và các điều ước quốc tế.
- Các doanh nghiệp có vốn FDI không chỉ gắn liền với việc di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, tạo thị trường mới cho cả hai bên đầu tư và nhận đầu tư.
- Quá trình thành lập và điều hành doanh nghiệp là trách nhiệm của các bên. Hoạt động của doanh nghiệp có vốn FDI thường gắn liền với hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia. Trong các doanh nghiệp có vốn FDI có sự quản lý trực tiếp của nước ngoài. Quyền quản lý của các bên phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn. Các nhà đầu tư phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu theo qui định của từng quốc gia. Luật ĐTNN tại Việt nam qui định nhà ĐTNN phải góp vốn tối thiểu bằng 30% vốn pháp định của dự án.
- Lợi nhuận của các nhà đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được phân chia cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ góp vốn sau khi nộp thuế và trả cổ tức cổ phần.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp có vốn FDI mà các doanh nghiệp trong nước không có. Nhờ các đặc điểm này mà chúng ta có thể nhận diện được doanh nghiệp có vốn FDI dù chúng hoạt động ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
1.1.3.3. Phân loại doanh nghiệp có vốn FDI.
Doanh nghiệp có vốn FDI bao gồm rất nhiều loại doanh nghiệp, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có các đối tác khác nhau, quy mô khác nhau, hình thức khác nhau... Để tiện cho việc nghiên cứu và quản lý các doanh nghiệp này, cần phải tiến hành phân loại chúng.
Thứ nhất, căn cứ vào loại hình pháp lý của doanh nghiệp có vốn FDI: có thể chia các doanh nghiệp có vốn FDI làm 3 loại:
Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI: là một loại hình công ty đối vốn, gồm các thành viên liên kết với nhau để kinh doanh trên cơ sở bản điều lệ công ty, trong đó các thành viên thoả thuận hình thức góp vốn, phân chia kết quả kinh doanh và quyền quản lý giữa các thành viên.
Công ty đối vốn là công ty trong đó các thành viên cùng góp vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh và mỗi thành viên chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn của mình đối các khoản nợ của công ty, tức là chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI có đặc điểm giống với công ty trách nhiệm hữu hạn nói chung như: nguồn vốn của công ty là do các thành viên đóng góp một cách tự nguyện và phần của mỗi thành viên không nhất thiết phải bằng nhau. Các thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI phải có quốc tịch khác nhau. Các thành viên có thể góp vốn bằng tiền, bất động sản hoặc công nghệ... Phần góp vốn của tất cả các thành viên phải được góp đủ ngay khi thành lập công ty và được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty chỉ chịu trách nhiệm trên phần vốn mà các thành viên đã đóng góp và không cho phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn giữa các thành viên diễn ra tự do, nhưng nếu một thành viên muốn chuyển nhượng vốn cho một người bên ngoài công ty thì ít nhất phải có số thành viên đại diện cho 3/4 vốn điều lệ của công ty chấp nhận. Công ty có thể tăng vốn điều lệ bằng cách gọi thêm vốn góp trong các thành viên, kết nạp thêm thành viên mới hay tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại theo quyết định của HĐQT.
Hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ thích hợp với giai đoạn đầu trong hoạt động doanh nghiệp và thường được áp dụng ở những nước thiếu vốn và ít kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh.
Công ty cổ phần có vốn FDI: Là một loại công ty đối vốn, trong đó các thành viên (cổ đông) có cổ phiếu và chỉ chịu trách nhiệm đến hết giá trị những cổ phần mà mình nắm giữ.
Theo Nghị định của Chính phủ số 38/2003/NĐ-CP, ngày 15/4/2003, Công ty cổ phần có vốn FDI là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là “cổ phần”; trong đó các cổ đông sáng lập nước ngoài nắm giữ ít nhất 30% vốn điều lệ.
Công ty cổ phần có vốn FDI có các đặc điểm cơ bản giống với công ty cổ phần nói chung: vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cổ phần được trao đổi trên thị trường chứng khoán gọi là cổ phiếu. Công ty cổ phần được phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu. Số cổ phiếu tối thiểu mà các thành viên HĐQT phải có không được chuyển nhượng trong suốt thời gian tại chức và trong thời hạn 2 năm kể từ ngày thôi giữ chức thành viên HĐQT. Đại hội đồng là cơ quan quyết định cao nhất của công ty.
Công ty sở hữu hoàn toàn và công ty sở hữu chung: Công ty sở hữu hoàn toàn là công ty có trên 95% vốn thuộc quyền sở hữu của một thành viên nào đó. Còn ngược lại thì được coi là công ty sở hữu chung.
Thứ hai, căn cứ vào tỷ trọng vốn góp của bên nước ngoài vào vốn pháp định, doanh nghiệp có vốn FDI được chia ra làm hai loại cơ bản:
Doanh nghiệp liên doanh (DNLD):
Một số quan điểm về cách tiếp cận DNLD:
- Quan điểm 1: Luật kinh doanh của Hoa Kỳ định nghĩa như sau: “Liên doanh là một quan hệ bạn hàng trong đó hai hoặc nhiều chủ thể cùng đóng góp lao động và tài sản để thực hiện một mục tiêu đặt ra và cùng chia sẻ các khoản lợi nhuận và rủi ro ngang nhau hoặc do các bên thoả thuận”. Quan điểm này chưa chỉ ra tính chất pháp lý và tính chất quốc tế của DNLD.
- Quan điểm 2: “Liên doanh là một tổ chức kinh doanh hợp nhất hoặc liên kết, được thành lập ở nước sở tại và hoạt động theo luật pháp nước sở tại, trong đó các bên tham gia có quốc tịch khác nhau (OECD). Quan điểm này chưa chỉ ra được bản chất kinh doanh của DNLD.
- Quan điểm 3: Theo Luật ĐTNN tại Việt Nam, DNLD là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh, hoặc hiệp định ký giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà ĐTNN trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Khái niệm này nhấn mạnh khía cạnh pháp lý của liên doanh và các trường hợp thành lập liên doanh nước ngoài mà chưa chỉ rõ bản chất kinh doanh của các liên doanh.
Từ các phân tích trên đây, trên giác độ chung, có thể định nghĩa như sau: DNLD là một tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng kinh doanh, nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ DNLD phù hợp với khuôn khổ luật pháp nước sở tại.
Nói cách khác, DNLD là một pháp nhân của nước sở tại, một tổ chức kinh doanh trong đó các bên đối tác có quốc tịch khác nhau, cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng quản lý và cùng chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp tương ứng với phần góp vốn của bên mình vào doanh nghiệp, nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ DNLD phù hợp với khuôn khổ pháp luật của nước sở tại.
DNLD có một số đặc điểm cơ bản như sau:
- Về pháp lý: DNLD là một pháp nhân của nước nhận đầu tư. Do đó, doanh nghiệp này phải hoạt động theo luật pháp nước nhận đầu tư. Hình thức của DNLD là do các bên thoả thuận phù hợp với các qui định của pháp luật nước nhận đầu tư, như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm vô hạn, các hiệp hội góp vốn... Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được ghi trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của DNLD.
- Về tổ chức: HĐQT doanh nghiệp là mô hình tổ chức chung cho mọi DNLD không kể quy mô nào, lĩnh vực nào, ngành nghề nào. Đây là cơ quan lãnh đạo cao nhất của DNLD.
- Về kinh tế: luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa các bên trong liên doanh. DNLD luôn phải giải quyết việc phân phối lợi ích giữa các bên trong liên doanh và cả các bên đứng ở phía sau các liên doanh. Đây là vấn đề hết sức phức tạp.
- Về điều hành SXKD: quyết định SXKD dựa vào các qui định pháp lý của nước nhận đầu tư về việc vận dụng nguyên tắc nhất trí hay quá bán.
Trên đây là một số đặc điểm của DNLD, tuy nhiên tuỳ vào từng loại DNLD mà sự thể hiện cụ thể của các đặc điểm này cũng khác nhau.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu hoàn toàn của nhà ĐTNN được thành lập và hoạt động ở nước sở tại, do nhà ĐTNN trực tiếp bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân, trong đó các nhà ĐTNN góp 100% vốn pháp định, tự quản lý doanh nghiệp và tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Luật ĐTNN tại Việt Nam định nghĩa: “Doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN” là doanh nghiệp do nhà ĐTNN đầu tư 100% vốn tại Việt Nam”.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có các đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là pháp nhân của nước nhận đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài. Hoạt động SXKD theo hệ thống pháp luật của nước nhận đầu tư và điều lệ doanh nghiệp. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là do nhà ĐTNN lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật. Quyền quản lý doanh nghiệp do nhà ĐTNN hoàn toàn chịu trách nhiệm.
- Mô hình tổ chức của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là do nhà ĐTNN tự lựa chọn. Nhà ĐTNN tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là thuộc sở hữu hợp pháp của nhà ĐTNN.
- Nhà ĐTNN tự quyết định các vấn đề trong doanh nghiệp và các vấn đề liên quan để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNLD và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài bị tác động rất lớn bởi các yếu tố của môi trường kinh doanh ở nước nhận đầu tư, như trình độ nền kinh tế nơi doanh nghiệp đang hoạt động, mức độ cạnh tranh trong ngành hàng (lĩnh vực) mà doanh nghiệp đang tiến hành các hoạt động kinh doanh, thị trường lao động, các yếu tố văn hoá trong kinh doanh.
Trên đây là các cách phân loại chính, làm cơ sở để phân tích các nội dung về cơ chế tài chính doanh nghiệp có vốn FDI, ngoài ra còn có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại các doanh nghiệp có vốn FDI như:
Căn cứ lĩnh vực đầu tư, các doanh nghiệp có vốn FDI chia thành các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Căn cứ vào tính chất của SXKD, các doanh nghiệp có vốn FDI chia thành doanh nghiệp có vốn FDI chuyên khai thác; doanh nghiệp có vốn FDI chuyên hoạt động chế biến và doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động phục vụ.
Căn cứ vào địa giới hành chính: các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như Hà nội, TP. Hồ Chính Minh…, các doanh nghiệp có vốn FDI ở tỉnh Bình dương, Thanh hoá,...
1.1.3.4. Phân biệt doanh nghiệp có vốn FDI với nhau và với các doanh nghiệp trong nước
Phân biệt DNLD và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Tuy cả hai loại hình doanh nghiệp này đều là các doanh nghiệp có vốn FDI nhưng giữa chúng có nhiều điểm khác biệt. Sau đây là các điểm khác biệt chủ yếu:
- Về cơ sở pháp lý: Hợp đồng liên doanh và điều lệ DNLD là hai văn bản pháp lý quan trọng nhất của DNLD, trong khi doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo điều lệ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Về mức độ sở hữu doanh nghiệp: các bên chỉ sở hữu một phần, tương ứng với tỷ lệ góp vốn vào vốn điều lệ DNLD, trong khi nhà đầu tư nước ngoài sở hữu toàn bộ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vì họ đầu tư toàn bộ vốn pháp định của doanh nghiệp.
- Về mức độ trách nhiệm của các bên trong quá trình hoạt động: trong DNLD mức độ cộng đồng của các bên cao hơn vì kết quả kinh doanh của DNLD được chia cho các bên tương ứng với tỷ lệ góp vốn của các bên vào vốn pháp định của DNLD. Còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, nhà ĐTNN tự chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vấn đề ra quyết định quản lý: Trong DNLD phải có sự bàn bạc thảo luận của các bên để ra quyết định quản lý. Ngược lại, trong doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì nhà ĐTNN tự quyết định toàn bộ.
Trong quản lý và điều hành, DNLD có mức độ phức tạp cao hơn rất nhiều sơ với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Phân biệt doanh nghiệp có vốn FDI với các doanh nghiệp trong nước.
Giữa hai loại doanh nghiệp này có sự khác nhau ở một số khía cạnh chính sau đây:
- Về nguồn vốn: Một loại doanh nghiệp chỉ có vốn trong nước, không có vốn của nước ngoài còn loại doanh nghiệp kia lại có vốn của bên nước ngoài và do bên nước ngoài trực tiếp quản lý doanh nghiệp.
- Về cơ sở pháp lý: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hoạt động theo khuôn khổ pháp luật trong nước. Còn doanh nghiệp có vốn FDI vừa phải tuân thủ luật pháp trong nước vừa phải tuân thủ luật pháp nước chủ nhà và luật pháp quốc tế.
- Về quan hệ lợi ích trong doanh nghiệp: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đại diện cho lợi ích của một quốc gia. Còn doanh nghiệp có vốn FDI đại diện cho lợi ích của đa quốc gia.
- Về mức độ phức tạp trong quan hệ của doanh nghiệp: Do sự khác biệt về trình độ quản lý, nền văn hoá xuất thân của các đối tác trong các doanh nghiệp có vốn FDI nên mức độ phức tạp trong quan hệ của các doanh nghiệp này cao hơn rất nhiều so với trong các doanh nghiệp có vốn trong nước.
Ngoài những sự khác biệt trên đây, giữa doanh nghiệp có vốn FDI với các doanh nghiệp trong nước còn có sự khác biệt về các mặt thuận lợi và bất lợi trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh. Các nhà quản lý dù ở cương vị nào cũng cần nhận thức rõ sự khác biệt này để có các giải pháp phù hợp trong quá trình quản lý các loại hình doanh nghiệp khác nhau trong cùng một quốc gia.
1.1.4. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn FDI.
Doanh nghiệp có vốn FDI là đối tượng quản lý của Nhà nước. Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn FDI nói riêng là chặt chẽ và hết sức quan trọng. Nhà nước có ảnh hưởng quyết định tới cách thức hoạt động của các doanh nghiệp trong một quốc gia và ngược lại, tình trạng và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp lại quyết định tới sức mạnh của Nhà nước và ảnh hưởng lớn đến các vấn đề xã hội. Do đó, thực hiện quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn FDI là tất yếu đối với mọi quốc gia.
Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế đối với các doanh nghiệp có vốn FDI thể hiện: Chính phủ phải duy trì sự ổn định của kinh tế vĩ mô, tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng, khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong nền KTTT phải tôn trọng các qui luật kinh doanh khách quan trong nền KTTT. Và điều đó có nghĩa là Chính phủ cũng phải tôn trọng kỷ cương thị trường song song với kỷ cương của Nhà nước. Các chính sách và biện pháp mà Chính phủ áp dụng nhất định phải tôn trọng các qui luật kinh tế khách quan trong nền KTTT.
Để thực hiện được vai trò của Nhà nước như trình bày ở trên, cần phải thực hiện chức năng cơ bản của quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn FDI: định hướng và hướng dẫn hoạt động các doanh nghiệp có vốn FDI; quy định cơ quan đầu mối quản lý hoạt động của doanh nghiệp có vốn FDI; kiểm tra, thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI…
Nội dung quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, bao gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển các doanh nghiệp có vốn FDI, ban hành các văn bản pháp luật về hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI. Cấp, thu hồi, điều chỉnh GPĐT. Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt động và thực hiện việc kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI…
Những vấn đề quản lý Nhà nước liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI gồm rất nhiều lĩnh vực: vốn đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu, tiền thuê đất, khấu hao, kế toán, kiểm toán, ngoại tệ, vay vốn và trả nợ nước ngoài, xuất nhập cảnh, tranh chấp, thanh lý tài sản, phá sản, xử lý quyền sử dụng đất, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, công nghệ kỹ thuật, môi trường...
Doanh nghiệp có vốn FDI bao gồm nhiều loại hình có đặc điểm khác nhau, trong công tác quản lý Nhà nước phải nghiên cứu và vận dụng các chính sách phù hợp thì hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI mới có thể phát triển mang lại hiệu quả mong muốn.
1.2. Cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
1.2.1. Nhận thức chung về cơ chế tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính và là khâu cơ sở, gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có các quan hệ tài chính doanh nghiệp đa dạng (quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, quan hệ thanh toán giữa các chủ thể kinh doanh khác, với người lao động. . .).
Hoạt động SXKD của doanh nghiệp nếu xét về mặt giá trị là quá trình tuần hoàn chu chuyển vốn kinh doanh: từ hình thái tiền tệ ban đầu, vốn kinh doanh lần lượt chuyển qua các giai đoạn dự trữ sản xuất, sản xuất, lưu thông và sau cùng trở lại hình thái ban đầu là vốn tiền tệ với qui mô lớn hơn trước, hay nói cách khác sự vận động của vốn kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố vật tư và lao động, ngoài phần tạo lập ban đầu chúng còn được bổ sung từ kết quả kinh doanh; sự vận động của vốn kinh doanh vì mục tiêu doanh lợi.
Từ đó ta có thể khái quát tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp trở nên hết sức quan trọng, đặc biệt trong nền KTTT cạnh tranh cao.
Trong quản lý kinh tế nói chung việc tạo lập một cơ chế quản lý được xem là công việc quan trọng hàng đầu nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển của các bộ phận cấu thành trong nền kinh tế quốc dân qua các giai đoạn khác nhau. Chính sách và cơ chế tài chính là bộ phận không thể tách rời của cơ chế quản lý kinh tế, nó có quan hệ mật thiết và tác động tương hỗ đối với các yếu tố cấu thành cũng như đối với toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế. Với ý nghĩa là những vấn đề tổ chức bên trong của tài chính, cơ chế quản lý tài chính có mối quan hệ hữu cơ với việc thực hiện có kết quả chính sách tài chính.
Quản lý tài chính doanh nghiệp được thực hiện thông qua sự tác động của các nhà quản lý tài chính tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhà quản lý tài chính phải tạo lập và duy trì một cơ chế tài chính phù hợp với những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
Vậy, Cơ chế tài chính doanh nghiệp là hệ thống các nguyên tắc, phương pháp và định chế quản lý chi phối và định hướng các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt các mục tiêu nhất định.
Các hoạt động tài chính của các doanh nghiệp nói chung, của doanh nghiệp có vốn FDI nói riêng - hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế trong đó có sự vận động hoặc sự biểu hiện của tiền tệ thông qua các quan hệ tiền tệ. Cốt lõi của các quan hệ đó là quan hệ về giá trị được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau. Do đó cơ chế tài chính trong các doanh nghiệp là hết sức đa dạng, linh động, phụ thuộc vào nhiều nhân tố.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cơ chế tài chính doanh nghiệp: căn cứ pháp lý tổ chức doanh nghiệp; môi trường kinh doanh của doanh nghiệp; đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh.
Cơ chế tài chính doanh nghiệp có các đặc điểm sau:
- Tính đồng bộ, hệ thống: Cơ chế tài chính là sự kết hợp hữu cơ giữa các công cụ trong một chỉnh thể mang tính hệ thống. Trong hệ thống các công cụ, có công cụ vừa phát huy tác dụng điều tiết, có công cụ đóng vai trò là đòn bẩy khuyến khích doanh nghiệp đi theo định hướng của Nhà nước, của nền kinh tế.
- Tính năng động: Cơ chế tài chính là một sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý - Nhà nước, mặt khác cơ chế quản lý phải tuân thủ các qui luật kinh tế khách quan của nền kinh tế, nhất là trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới và các qui luật kinh tế đó có tác động trở lại đối với cơ chế quản lý kinh tế. Do vậy tuỳ theo đường lối phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ mà cơ chế tài chính cũng thay đổi cho phù hợp.
- Tính mục đích: Cơ chế quản lý là một hệ thống và nó nhằm một mục đích nhất định. Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, cơ chế tài chính doanh nghiệp chỉ đơn thuần là quan hệ cấp phát và giao nộp, Nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình hình thành và sử dụng các quĩ tiền tệ cũng như sự vận động của các luồng tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp không có quyền tự chủ. Ngược lại trong nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước, cơ chế quản lý tài chính chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp, doanh nghiệp hoàn toàn có quyền tự chủ trong mọi hoạt động SXKD của mình.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp hết sức đa dạng. Các hoạt động tài chính doanh nghiệp bao gồm nhiều nhóm khác nhau, như: huy động vốn, quản lý tài sản, sử dụng vốn, phân phối lợi nhuận, kiểm soát tài chính…Như vậy cơ chế tài chính doanh nghiệp bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành và có liên quan mật thiết với nhau.
Đối với các doanh nghiệp, cơ chế tài chính bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Cơ chế huy động và tạo lập vốn kinh doanh
Cơ chế quản lý sử dụng vốn kinh doanh
Cơ chế phân phối kết quả kinh doanh
Cơ chế kiểm tra giám sát tài chính doanh nghiệp
Cơ chế tài chính cho việc giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp.
Cơ chế tài chính trong một doanh nghiệp không thể tách rời đặc điểm, điều kiện hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp đó. Đây là mối quan hệ khách quan, mang tính tất nhiên, các doanh nghiệp có vốn FDI không nằm ngoài qui luật đó. Như vậy nội dung cơ bản của cơ chế tài chính trong các doanh nghiệp cơ bản giống nhau, trong những loại hình doanh nghiệp khác nhau thì cơ chế tài chính có sự khác nhau ở mức độ nào đó, điều đó phụ thuộc vào các yếu tố như: quan hệ sở hữu, ngành nghề kỹ thuật, qui mô kinh doanh…
Trong các doanh nghiệp có vốn FDI, với các đặc điểm khác biệt với các doanh nghiệp khác trong nước (như đã phân tích ở mục 1.1.3.4.), do đó cơ chế tài chính có nội dung đặc điểm đáng chú ý là cơ chế huy động tạo lập vốn, cơ chế quản lý sử dụng vốn kinh doanh, cơ chế phân chia kết quả kinh doanh.
1.2.2. Nội dung cơ bản của cơ chế tài chính doanh nghiệp có vốn FDI
1.2.2.1. Cơ chế huy động và tạo lập vốn kinh doanh
Việc huy động tạo lập vốn kinh doanh giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì khả năng tài chính của doanh nghiệp trước hết phụ thuộc vào các nguồn vốn huy động được. Cơ chế huy động vốn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động tài chính doanh nghiệp trong ngắn hạn mà còn đối với cả sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong dài hạn. Với tư cách là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính, cơ chế huy động vốn của doanh nghiệp có vốn FDI chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế xã hội và phản ánh cơ chế quản lý kinh tế qua từng thời kỳ khác nhau.
Chế độ sở hữu là một yếu tố nền tảng, có ảnh hưởng quyết định đối với cơ chế tài chính cũng như đối với cơ chế huy động vốn của doanh nghiệp, các phương thức và công cụ tài chính để huy động vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào hình thức sở hữu. Trong chính sách và cơ chế huy động vốn đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, Nhà nước chủ yếu tạo lập môi trường pháp lý, môi trường đầu tư, kêu gọi và khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào các lĩnh vực, các vùng hoặc những ngành nghề mà trong nước chưa đáp ứng được…
Luật ĐTNN tại Việt nam qui định các hình thức góp vốn, tỷ lệ góp vốn, quyền chuyển nhượng vốn góp, quyền quản lý sử dụng tài sản, qui định lĩnh vực ngành nghề khuyến khích đầu tư, ưu đãi đầu tư, cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động được phép tái đầu tư và được hoàn thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, hoặc liên doanh thành lập các công ty liên doanh mới, quy định hướng dẫn về bảo đảm vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đối với doanh nghiệp có vốn FDI nhằm tạo thuận lợi để doanh nghiệp có vốn FDI vay tín dụng tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài.
Trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập, việc huy động vốn hoàn toàn dựa vào các động lực kinh tế và cung cầu về vốn trên thị trường, không những thị trường trong phạm vi một quốc gia mà diễn ra trên toàn cầu với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của các nhà đầu tư, từ đó các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc huy động vốn kinh doanh.
Vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn FDI là mức vốn phải có để thành lập doanh nghiệp được ghi trong điều lệ doanh nghiệp. Phần vốn góp là phần vốn của mỗi bên góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Phần vốn góp của các bên liên doanh, phương thức và tiến độ góp vốn được qui định trong hợp đồng liên doanh. Vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn FDI ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp. Trong trường hợp đặc biệt, tỷ lệ này có thể thấp hơn 30%, nhưng phải được cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN chấp thuận. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có vốn FDI không được giảm vốn pháp định. Việc tăng vốn pháp định, vốn đầu tư hay thay đổi tỷ lệ vốn góp của các bên liên doanh do doanh nghiệp quyết định và phải được cơ quan cấp GPĐT chấp thuận.
Bên nước ngoài tham gia DNLD góp vốn pháp định bằng:
Tiền nước ngoài, tiền Việt Nam có nguồn gốc từ đầu tư tại Việt Nam;
Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác;
Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
Bên Việt Nam tham gia DNLD góp vốn pháp định bằng:
Tiền Việt Nam, tiền nước ngoài;
Giá trị quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật về đất đai;
Các nguồn tài nguyên, giá trị quyền sử dụng mặt nước, mặt biển theo qui định của pháp luật;
Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác;
Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
Việc các bên góp vốn bằng các hình thức khác phải được Chính phủ chấp thuận. Phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định của DNLD không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các bên, nhưng không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định. Đối với DNLD nhiều bên, tỷ lệ góp vốn tối thiểu của mỗi bên Việt Nam do Chính phủ quy định. Đối với cơ sở kinh tế quan trọng do Chính phủ quyết định, các bên thoả thuận tăng dần tỷ trọng góp vốn của bên Việt Nam trong vốn pháp định của DNLD. Giá trị phần vốn của mỗi bên trong DNLD được xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm góp vốn. Các bên góp vốn phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác đối với phần giá trị vốn góp của mình. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN có thể chỉ định tổ chức giám định để giám định lại giá trị các khoản vốn góp của các bên.
Đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, mức vốn pháp định cũng được qui định giống như đối với DNLD.
Trong quá trình hoạt động, Doanh nghiệp có vốn FDI có thể cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định khi có những thay đổi về mục tiêu, quy mô dự án, đối tác, phương thức góp vốn và các trường hợp khác. Việc cơ cấu lại vốn không được làm giảm tỷ lệ vốn pháp định xuống dưới mức qui định của Luật ĐTNN tại Việt nam. Việc cơ cấu lại vốn, thay đổi tỷ lệ góp vốn của các bên liên doanh do HĐQT doanh nghiệp quyết định và được cơ quan cấp GPĐT chuẩn y.
Doanh nghiệp có vốn FDI được chính phủ Việt nam cho thuê đất. Khung giá thuê đất thực hiện theo qui định của Nhà nước. UBND tỉnh được quyền ban hành giá thuê đất trên địa bàn trong khung qui định của Nhà nước. Ngoài một số quyền khác, doanh nghiệp có vốn FDI thuê đất tại Việt Nam được quyền: thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đai gắn liền với tài sản thuộc sở hữu của mình đã đầu tư và xây dựng trên đất đó tại Ngân hàng Việt Nam trong thời gian thuê đất theo quy định của pháp luật Việt Nam. Cho thuê lại đất nếu đầu tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng tại các khu chế xuất, khu công nghiệp. Tổ chức và cá nhân Việt Nam được phép dùng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh với đối tác nước ngoài.
Ngoài nguồn vốn góp của các bên tham gia đầu tư, doanh nghiệp có vốn FDI có thể được tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ, vay vốn tín dụng hoặc huy động trên thị trường chứng khoán.
Tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo lập nguồn vốn phổ biến của các tập đoàn kinh doanh trên thế giới, nhờ đó các doanh nghiệp phát huy được nguồn lực từ chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, nhất là khi có sự bất ổn về thị trường tài chính. Nhiều doanh nghiệp coi trọng biện pháp tái đầu tư từ lợi nhuận để lại. Thông thường hàng năm HĐQT công ty quyết định mức lợi nhuận tái đầu tư căn cứ vào kế hoạch đầu tư sản xuất kinh doanh năm tới và lợi nhuận luỹ kế… Tuy nhiên đối với DNLD việc để lại lợi nhuận để tái đầu tư có liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Việc dùng lợi nhuận để tái đầu tư tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia cho các bên liên doanh, trong đó có phía Việt nam. Các bên không được nhận lợi nhuận nhiều hơn nhưng bù lại các bên đều có quyền sở hữu số vốn tăng lên của doanh nghiệp. Trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập mạnh mẽ, việc sử dụng nguồn vốn nội bộ của các doanh nghiệp có vốn FDI là hết sức cần thiết, duy trì sự ổn định và tăng trưởng của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tín dụng là một nguồn vốn rất quan trọng trong SXKD của doanh nghiệp có vốn FDI. Trong nền KTTT, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, các doanh nghiệp có vốn FDI có thể khai thác được những nguồn vốn tín dụng đa dạng như: Vốn vay từ các ngân hàng thương mại, nợ thương mại (nợ giữa các doanh nghiệp trong SXKD), vốn vay của các tổ chức phi ngân hàng (công ty tài chính, tín dụng thuê mua,…)… Vốn tín dụng giữ vị trí rất quan trọng, đáp ứng được như cầu vốn rộng rãi, giao dịch thuận lợi, chi phí thấp hơn so với vay vốn của các tổ chức khác, mặt khác tính an toàn, hiệu quả cũng cao hơn. Đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, cơ chế quản lý tín dụng bao gồm một số nội dung chủ yếu như: cơ chế kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp có vốn FDI đối với quá trình huy động vốn tín dụng; các qui trình thủ tục cụ thể đối với việc vay vốn (xây dựng luận chứng, vay vốn và sử dụng vốn,…); phương thức kiểm soát đối với các quan hệ tín dụng của Nhà nước…
Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp trong nền KTTT. Thị trường chứng khoán phát triển tạo điều kiện cho các công ty cổ phần, trong đó có công ty cổ phần có vốn FDI phát hành chứng khoán rộng rãi để huy động vốn đầu tư dài hạn, mở rộng đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, thông qua thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp đảm bảo hoạt động hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh. Hầu hết các quốc gia trên thế giới theo cơ chế thị trường đều có thị trường chứng khoán, kể cả quốc gia đang phát triển, đang chuyển đổi cơ chế kinh tế như Việt Nam.
1.2.2.2. Cơ chế quản lý sử dụng vốn kinh doanh
Do tính chất về sở hữu vốn và tài sản quyết định đến quyền quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có vốn FDI, việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh hoàn toàn do doanh nghiệp quyết định. Chính phủ đưa ra các qui định hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện phù hợp luật pháp hiện hành và các thông lệ quốc tế.
Doanh nghiệp có vốn FDI là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân, vì thế có quyền tự chủ quản lý, sử dụng vốn kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả nhất, phù hợp với mục tiêu, phạm vi được qui định trong GPĐT. HĐQT là cơ quan lãnh đạo của DNLD gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác. Các thành viên trong HĐQT là đại diện của các bên tham gia liên doanh. Các bên liên doanh cử người của mình tham gia vào HĐQT tương ứng với tỷ lệ vốn góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Nhiệm kỳ Hội đồng quản trị do các bên liên doanh thoả thuận, nhưng không quá 5 năm. Chủ tịch HĐQT do các bên liên doanh cử ra và giữ vai trò chủ chốt trong việc giám sát đôn đốc thực hiện các nghị quyết của HĐQT. HĐQT thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền theo hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. Tổng Giám đốc, phó Tổng giám đốc do HĐQT bổ nhiệm, miễn nhiệm, chịu trách nhiệm trước HĐQT và pháp luật Việt nam về việc quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có vốn FDI có thể sử dụng vốn kinh doanh cho các hoạt động đầu tư dài hạn hoặc cho các hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp. Trong đầu tư dài hạn, các doanh nghiệp có thể sử dụng vốn kinh doanh để nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư cho việc thực hiện dự án đầu tư, nhưng các thiết bị máy móc đó phải được giám định giá trị, chất lượng bởi các cơ quan chức năng trước khi nhập khẩu hoặc lắp đặt. Doanh nghiệp có vốn FDI phải thực hiện qui chế đấu thầu, sau khi công trình xây dựng cơ bản hoàn thành, doanh nghiệp phải nghiệm thu quyết toán công trình, có xác nhận của tổ chức giám định. Nhà nước Việt nam khuyến khích và ưu đãi đối với các hoạt động đầu tư chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến và nghiêm cấm chuyển giao công nghệ có ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái, an toàn lao động.
Trong trường hợp sử dụng vốn cho các hoạt động kinh doanh thường xuyên, doanh nghiệp có vốn FDI hoàn toàn có quyền tự chủ quản lý và sử dụng vốn theo kế hoạch SXKD của doanh nghiệp sao cho có hiệu quả nhất. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn FDI sử dụng hiệu quả vốn của mình như: ngoài nhiệm vụ SXKD chính, được thực hiện các hoạt động gia công hoặc gia công lại sản phẩm được qui định trong GPĐT; được tự do tuyển dụng lao động Việt nam; doanh nghiệp chủ yếu sản xuất hàng xuất khẩu được phép mở kho bảo thuế; doanh nghiệp có vốn FDI tự đảm bảo nhu cầu ngoại tệ, Chính phủ Việt nam đảm bảo hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho những dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu hay các dự án đặc biệt được Chính phủ phê duyệt; được mở tài khoản tiền Việt nam, ngoại tệ tại các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng được phép hoạt động tại Việt nam; một số trường hợp có thể được vay vốn ở các ngân hàng ở nước ngoài nhưng phải được Ngân hàng Nhà nước Việt nam chấp thuận…
1.2.2.3. Cơ chế phân phối kết quả kinh doanh
Cơ chế phân phối kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn FDI được thực hiện chủ yếu thông qua công cụ thuế và phân phối lợi nhuận trích lập các quĩ của doanh nghiệp. Sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác, doanh nghiệp có vốn FDI được trích lợi nhuận còn lại để lập các quỹ dự phòng, quỹ phúc lợi, quỹ mở rộng sản xuất, các quỹ khác và chia lợi nhuận cho các bên liên doanh theo quyết định của doanh nghiệp.
Trong việc phân phối kết quả kinh doanh, Nhà nước với chức năng quản lý kinh tế có thể khuyến khích hoặc hạn chế các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh bằng các cơ chế, chính sách tài chính phù hợp mà chính sách thuế là một công cụ tài chính vĩ mô có tác dụng điều tiết và tác động trực tiếp đến khả năng đầu tư mở rộng của doanh nghiệp.
Động cơ để các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh là lợi nhuận, các quyết định đầu tư đều dựa trên cơ sở dự tính các khoản thu nhập trong tương lai do đầu tư mang lại. Thuế - đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp – là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp. Nếu chính sách thuế phù hợp sẽ có tác dụng khuyến khích được các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, một chính chính sách thuế không phù hợp sẽ kìm hãm hoặc thu hẹp hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
Nhà nước có thể tạo ra động lực hấp dẫn nhà đầu tư, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, giảm rủi ro cho nhà đầu tư, nâng cao khả năng mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp có vốn FDI không ngừng mở rộng đầu tư, như: việc miễn thuế, giảm thuế, chuyển lỗ cho các doanh nghiệp có vốn FDI mới thành lập hoặc dùng lợi nhuận để tái đầu tư…
1.2.2.4. Cơ chế kiểm tra giám sát tài chính doanh nghiệp
Vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI là nhằm hỗ trợ tháo gỡ khó khăn vướng mắc, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Đây là một công việc nhằm không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư, đảm bảo tuân thủ luật pháp Việt nam và các thông lệ quốc tế.
Nhà nước thực hiện việc kiểm tra giám sát đối với các doanh nghiệp có vốn FDI theo các nội dung chủ yếu như giám sát việc thực hiện góp vốn, thực hiện các qui định của GPĐT; giám sát việc thực hiện các qui định về nghĩa vụ tài chính, quan hệ lao động tiền lương, bảo vệ môi trường sinh thái...
Việc thanh tra, kiểm tra tài chính của Doanh nghiệp có vốn FDI phải bảo đảm thực hiện đúng chức năng, đúng thẩm quyền và tuân thủ qui định của pháp luật về ĐTNN và pháp luật về thanh tra, kiểm tra. Các cơ quan có chức năng về thanh tra, kiểm tra có trách nhiệm lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất có liên quan để phối hợp thực hiện việc thanh tra, kiểm tra.
Việc kiểm tra định kỳ, kiểm tra chuyên ngành được thực hiện không quá một lần trong một năm đối với một doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
Nhà ĐTNN, Doanh nghiệp có vốn FDI có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với các quyết định và hành vi trái pháp luật, gây khó khăn, phiền hà của viên chức, cơ quan Nhà nước. Việc khiếu nại, khởi kiện và việc giải quyết khiếu nại, khởi kiện được thực hiện theo qui định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
1.2.2.5. Cơ chế tài chính cho việc giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền KTTT, tất yếu sẽ dẫn đến sự tăng trưởng, phát triển của một số doanh nghiệp này và sự suy thoái, phá sản của một số doanh nghiệp khác.
Giải thể doanh nghiệp là việc xoá tên doanh nghiệp và chấm dứt hoạt động SXKD do nhiều nguyên nhân. Doanh nghiệp có vốn FDI chấm dứt hoạt động trong những trường hợp sau đây: hết thời hạn hoạt động ghi trong GPĐT; theo các điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ doanh nghiệp hoặc thoả thuận của các bên; theo quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN do vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc qui định của GPĐT; do bị tuyên bố phá sản.
Khi chấm dứt hoạt động trong trường hợp như trên (trừ lý do bị tuyên bố phá sản), doanh nghiệp có vốn FDI phải tiến hành thanh lý tài sản doanh nghiệp, thanh lý hợp đồng. Trong quá trình thanh lý tài sản doanh nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì việc giải quyết phá sản của doanh nghiệp được thực hiện theo thủ tục quy định trong pháp luật về phá sản doanh nghiệp. Việc giải quyết phá sản doanh nghiệp có vốn FDI được thực hiện theo qui định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp. Trong trường hợp bên Việt Nam tham gia DNLD, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản thì giá trị còn lại của quyền sử dụng đất đã góp vốn thuộc tài sản thanh lý của doanh nghiệp.
Việc chấm dứt hoạt động, thanh lý, giải thể doanh nghiệp có vốn FDI được thực hiện theo trình tự: cơ quan cấp GPĐT ra quyết định chấm dứt hoạt động của Doanh nghiệp có vốn FDI; doanh nghiệp có vốn FDI có trách nhiệm thành lập ban thanh lý để thanh lý tài sản doanh nghiệp; sau khi kết thúc thanh lý, doanh nghiệp có vốn FDI lập báo cáo và gửi hồ sơ thanh lý trình cơ quan cấp GPĐT xem xét, ra quyết định giải thể doanh nghiệp.
Phá sản là tình trạng doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ kéo dài trong kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Về mặt tài chính, nội dung chủ yếu trong quyết định phá sản doanh nghiệp là phương án phân chia tài sản doanh nghiệp. Thông thường giá trị còn lại của doanh nghiệp bị phá sản ưu tiên dùng để trang trải các chi phí cho việc giải quyết phá sản doanh nghiệp (quản lý, tổ chức bán tài sản, thu hồi công nợ…), sau đó dành để hoàn trả các khoản nợ của doanh nghiệp như: thuế phải nộp Nhà nước, tiền lương, bảo hiểm nợ người lao động, các khoản nợ đối với các pháp nhân và thể nhân khác… cuối cùng mới đến hoàn trả vốn góp cho các bên liên doanh trong doanh nghiệp.
Tổ chức lại doanh nghiệp là việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức đầu tư.
Chia doanh nghiệp là việc chia toàn bộ vốn bằng tiền và tài sản của một doanh nghiệp có vốn FDI để thành lập hai hoặc một số doanh nghiệp mới.
Tách doanh nghiệp là việc chuyển một phần vốn bằng tiền và tài sản của doanh nghiệp có vốn FDI để thành lập thêm một hoặc một số doanh nghiệp mới.
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hay một số doanh nghiệp có vốn FDI chuyển toàn bộ vốn bằng tiền và tài sản của mình để sáp nhập vào một doanh nghiệp có vốn FDI khác.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hay một số doanh nghiệp có vốn FDI mang toàn bộ vốn bằng tiền và tài sản của mình để hợp nhất với nhau chuyển thành một doanh nghiệp có vốn FDI mới.
Chuyển đổi hình thức đầu tư là việc dự án đã được cấp GPĐT theo một hình thức của Luật ĐTNN chuyển đổi sang một hình thức đầu tư khác của Luật ĐTNN.
Việc tổ chức lại doanh nghiệp phải được sự đồng ý của HĐQT (đối với DNLD), hoặc chủ ĐTNN (đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) và được cơ quan Nhà nước quản lý về ĐTNN chuẩn y.
1.2.3. Vai trò của cơ chế tài chính đối với việc phát triển doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Cơ chế tài chính luôn giữ một vị trí trọng yếu trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và cạnh tranh đang diễn ra gay gắt trên toàn cầu thì cơ chế tài chính càng trở nên cực kỳ quan trọng. Bất kỳ nhà ĐTNN nào muốn đầu tư vào doanh nghiệp dưới mọi hình thức đều có cơ hội thu được lợi nhuận nếu như quản lý tài chính doanh nghiệp có hiệu quả, ngược lại họ sẽ bị lỗ, thậm chí mất vốn đầu tư khi quản lý tài chính kém hiệu quả hoặc không có hiệu quả. Vai trò của cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp nói chung và với các doanh nghiệp có vốn FDI được thể hiện:
- Cơ chế tài chính góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp có vốn FDI: cơ chế huy động vốn, cơ chế sử dụng vốn… phù hợp sẽ tạo môi trường thuận lợi cho mọi hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Giống như các loại hình doanh nghiệp khác, để tạo lập và mở rộng các doanh nghiệp có vốn FDI, trước hết cần vốn. Nhưng xuất phát từ đặc tính đa sở hữu của loại hình doanh nghiệp này nên cơ chế huy động vốn cũng có những đặc điểm riêng để khai thác các tiềm năng trong xã hội nhằm phát triển chúng. Mặt khác các doanh nghiệp có vốn FDI không thể hoạt động chỉ bằng nguồn vốn chủ sở hữu, nó cần tới sự đa dạng của nguồn vốn đầu tư thông qua hoạt động đi vay hay tham gia thị trường chứng khoán… để phục vụ cho quá trình SXKD nếu có một cơ chế tài chính phù hợp thì sẽ giải quyết tốt vấn đề này.
- Cơ chế tài chính góp phần tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng, thông thoáng và minh bạch. Điều này không những mang lại niềm tin cho các doanh nghiệp có vốn FDI trong SXKD, mà còn giải phóng được tiềm lực từ chính họ. Các doanh nghiệp có vốn FDI với lợi thế kinh nghiệm về tiếp thị thị trường quốc tế, sử dụng các phương pháp quản lý, marketing hiện đại… chỉ có thể thu được hiệu quả khi cơ chế tài chính tạo một sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp tham gia không những chỉ trong nước mà cả ở phạm vi khu vực và thế giới.
- Cơ chế tài chính phù hợp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn FDI tăng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh một cách thực sự và qua đó doanh nghiệp mới có những hoạch định cụ thể trong mở rộng đầu tư, tận dụng lợi thế cạnh tranh và việc hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế trở nên chủ động hơn.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế ĐTNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. ĐTNN tại Việt nam được khuyến khích thu hút mạnh mẽ, các doanh nghiệp có vốn FDI được hình thành, ngày càng phát triển và giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý kinh tế khác nhau, trong đó cơ chế tài chính có vai trò rất quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này. Cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn FDI nói riêng có tính đồng bộ, hệ thống, tính mục đích và tính năng động rất cao. Nội dung chủ yếu cơ chế tài chính doanh nghiệp có vốn FDI bao gồm cơ chế huy động và tạo lập vốn, cơ chế quản lý sử dụng vốn, cơ chế phân phối kết quả kinh doanh, cơ chế giám sát tài chính, cơ chế cho việc sáp nhập, giải thể, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Để thúc đẩy doanh nghiệp có vốn FDI phát triển, cơ chế tài chính phải luôn được bổ sung, hoàn thiện. Sau khi phân tích lý luận về doanh nghiệp có vốn FDI và cơ chế tài chính đối với các các doanh nghiệp có vốn FDI, việc nghiên cứu thực trạng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam là rất cần thiết, để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế tài chính doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Chương 2
Thực trạng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam và kinh nghiệm một số nước trên thế giới
2.1. Thực trạng doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam
2.1.1. Tổng quan FDI tại Việt nam
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH, đặc biệt quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Đại hội VII (tháng 6/1991) Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đảng ta khẳng định: “ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII (tháng 6/1996) Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại”. Đến Đại hội IX (tháng 4/2001) Đảng cộng sản Việt Nam chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể, kinh tế tư bản Nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến và có vai trò tích cực trong nền kinh tế.
Những điểm mới trong đường lối, chính sách phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế ở nước ta được cụ thể hoá bởi các văn bản Pháp luật. Luật ĐTNN tại Việt Nam ban hành lần đầu tiên vào năm 1987, đến nay đã qua 4 lần sửa đổi bổ sung (năm 1990, năm 1992, năm 1996 và năm 2000). Qua thực tế, FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ 1988 đến 1990 là 3 năm khởi đầu, FDI chưa có tác dụng rõ rệt đến tình hình kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Tổng cộng có hơn 1,5 tỷ USD vốn đăng ký; vốn thực hiện không đáng kể. Vì các doanh nghiệp có vốn FDI sau khi được cấp GPĐT phải làm rất nhiều thủ tục qui định của Nhà nước mới đưa được vốn vào Việt Nam.
Từ 1991 đến 1997 là thời kỳ doanh nghiệp FDI tăng trưởng nhanh và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước. Trong kế hoạch 5 năm 1991-1995, đã thu hút 16 tỷ USD vốn đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm rất cao, vốn đăng ký 1991 là 1,275 tỷ USD thì năm 1995 là 6,6 tỷ USD, gấp 5,3 lần. Vốn thực hiện trong 5 năm là 7,153 tỷ USD, bằng 32% vốn đầu tư cả nước. Hai năm tiếp theo 1996-1997, FDI tiếp tục tăng trưởng mạnh: thêm 15 tỷ USD vốn đăng ký và 6,06 tỷ USD vốn thực hiện.
Từ năm 1998 đến 2000 là thời kỳ suy thoái của FDI. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1998 và giảm rất mạnh trong 2 năm tiếp theo. Vốn đăng ký năm 1998 là 3,897 tỷ USD thì năm 1999 chỉ bằng 40,2%, còn 1,568 tỷ USD; năm 2000 là 1,973 USD. Sau khi đạt kỷ lục về vốn thực hiện năm 1997 với gần 3,2 tỷ USD, thì 3 năm sau đó giảm rõ rệt: 1998 là 2,4 tỷ USD, 1999 và 2000 mỗi năm 2,2 tỷ USD,
Từ năm 2001 đến nay là thời kỳ phục hồi hoạt động của FDI. Vốn đăng ký năm 2001 là 2 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2000. Vốn thực hiện là 2,3 tỷ USD tăng 3% so với năm trước. Năm 2002 vốn đăng ký gần 1,4 tỷ USD và vốn thực hiện là 2,35 tỷ USD. [11, tr. 12]
Năm 2003, cả nước cả nước đã thu hút được 3,1 tỷ USD vốn FDI, trong đó vốn cấp mới đạt trên 1,9 tỷ USD cho 752 dự án. Phần lớn các dự án mới tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (chiếm 70,6% về dự án và 70,8% về vốn). Nông - lâm – ngư – nghiệp chiếm 13,2% số dự án và 9,2% số vốn. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 16,2% số dự án và 20% vốn đầu tư. Năm 2003 đã có 374 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn lên trên 1,15 tỷ USD. Như vậy trong 2 năm liên tiếp (2002, 2003), vốn đầu tư bổ sung bằng khoảng 2/3 vốn đăng ký cấp mới, đạt mức cao nhất kể từ sau khi diễn ra khủng hoảng tài chính khu vực.
2.1.2. Đánh giá chung về thực trạng doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam.
Hiện nay, doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam bao gồm 2 loại: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngày 15/04/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/2003/NĐ-CP, về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn FDI sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, đến nay vẫn đang trong quá trình lựa chọn các doanh nghiệp có vốn FDI đáp ứng đủ các điều kiện chuyển đổi (các doanh nghiệp có vốn FDI đã góp đủ vốn pháp định; đã chính thức hoạt động ít nhất 3 năm, trong đó năm cuối cùng trước khi chuyển đổi phải có lãi; có hồ sơ đề nghị chuyển đổi).
Vai trò và những thành tựu doanh nghiệp có vốn FDI đã đạt được trong những năm qua thể hiện qua các đánh giá sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp có vốn FDI tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, tất cả các ngành kinh tế, lĩnh vực kinh doanh đều có mặt của các doanh nghiệp có vốn FDI. FDI trở thành nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển, đóng góp ngày càng tăng cho ngân sách Nhà nước, góp phần khai thác, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tăng sức mạnh cho nền kinh tế.
Bức tranh chung của các doanh nghiệp (bảng 2.1 ; phụ lục số 4) cho thấy số lượng doanh nghiệp có vốn FDI không ngừng tăng lên, năm 2002 tăng 191,0% so với năm 1995, lao động năm 2002 tăng 509,2% so với năm 1995 (trong khi doanh nghiệp Nhà nước chỉ tăng 3,9%). Các doanh nghiệp có vốn FDI ngày càng lớn mạnh và trở thành bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu nền kinh tế Việt nam.
Bảng 2.1. Số lượng doanh nghiệp và lao động năm 1995-2002
Số lượng doanh nghiệp
Số lượng lao động
1995
2002
Tăng/giảm
1995
2002
Tăng/giảm
Tổng số
24 925
56 737
127,6%
2 305 703
3 840 142
66,5%
DN Nhà nước
7 090
5 231
-26,2%
1 777 759
1 846 209
3,9%
DN ngoài quốc doanh
17 143
49 492
188,7%
430 112
1 397 917
225,0%
DN có vốn FDI
692
2 014
191,0%
97 832
596 016
509,2%
Nguồn: Tính toán từ kết quả sơ bộ điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2002, Tổng cục Thống kê.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần qua các năm: Nếu như năm 1992 đạt 2%, năm 1993 tỷ lệ này chỉ đạt 3,6% GDP thì đến năm 1999 đã đạt 11,8%, năm 2000 đạt 12,7%, năm 2001 đạt 13,1%. Năm 2000 các doanh nghiệp có vốn FDI đã chiếm tỷ trọng 13,1% GDP nói chung và 19,5% GDP trừ khu vực hộ gia đình; chiếm tỷ trọng 35,5% tổng sản lượng công nghiệp và 18,6% tổng vốn đầu tư xã hội.
Tuy phần lớn các doanh nghiệp có vốn FDI đang trong thời kỳ hưởng ưu đãi về thuế TNDN, nhưng nguồn thu NSNN từ khu vực ĐTNN liên tục tăng từ 128 triệu USD năm 1994, đến năm 1998 đã đạt 317 triệu USD, chiếm 7% nguồn thu ngân sách, năm 1999 đạt 7,5%, năm 2000 đạt 8,5%, năm 2001 đạt 7,8%, năm 2002 đạt 8,6%. Thu ngân sách từ khu vực ĐTNN giai đoạn 1996-2000 đạt gần 1,45 tỷ USD gấp 4,5 lần giai đoạn 1990-1995; tính bình quân chiếm 6-7% thu ngân sách.
Sau hơn 15 năm thực hiện Luật ĐTNN, đến 31/12/2003 cả nước có 64 quốc gia vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt nam, trong đó vực Châu á có số vốn đầu tư lớn nhất. Chỉ tính riêng 5 nước và vùng lãnh thổ là Xingapore, Đài loan, Nhật bản, Hàn quốc và Hồng kông đã chiếm tới 61% tổng vốn đầu tư đăng ký (phụ lục số 1). Hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước có các dự án đầu tư nước ngoài (phụ lục số 3).
Bảng 2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư (1988-2003)
(Tính đến ngày 31/12/2003 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: US Dollar.
Hình thức đầu tư
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
Vốn đầu tư thực hiện
BOT
6
1.370.125.000
411.385.000
912.897.119
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
158
3.873.452.177
3.289.410.174
5.243.381.069
100% vốn nước ngoài
3.007
17.285.639.504
7.710.901.629
8.395.422.590
Liên doanh
1.153
18.265.637.941
7.141.465.000
10.049.488.040
Tổng số
4.324
40.794.854.622
18.553.161.803
24.601.188.818
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bảng 2.3 Tốc độ tăng vốn của các doanh nghiệp
có đến 1/7/2002 so với 1/7/1995
Đơn vị: %
So với 1995
Bình quân năm
So với 2001
Tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp
Doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp có vốn FDI
324,2
249,5
982,0
480,8
22,9
19,6
40,5
28,6
14,5
9,0
42,4
14,0
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt nam ngày 20/01/2003.
Theo kết quả số liệu bảng 2.2, đến 31/12/2003 số dự án có vốn FDI còn hiệu lực là 4324 dự án, với tổng vốn 40,79 tỷ USD. Trong đó, công nghiệp và xây dựng có vốn FDI có 2885 dự án với tổng vốn 23,21 tỷ USD, chiếm 66,6% về số dự án và 56,8% về số vốn đăng ký. Dịch vụ có 843 dự án với tổng vốn 14,68 tỷ USD. Nông–Lâm–Ngư nghiệp có 596 dự án với tổng vốn 2,89 tỷ USD. Các dự án theo hình thức liên doanh 45% tổng vốn; dự án 100% vốn nước ngoài 42%, số còn lại theo hình thức BOT (xem phụ lục số 2).
Nhìn chung, các doanh nghiệp có vốn FDI có tốc độ tăng vốn khá nhanh (bảng 2.3), tỷ trọng lớn, thể hiện tính hơn hẳn về năng lực tài chính, công nghệ so với các doanh nghiệp trong nước.
Thứ hai: Doanh nghiệp có vốn FDI đã góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển và tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế thế giới, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam.
Các doanh nghiệp có vốn FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá cho thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu hàng hoá thiết yếu, góp phần bình ổn thị trường, nâng cao đời sống xã hội.
Xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu vực ĐTNN tăng nhanh: Năm 1996 đạt 786 triệu USD, năm 1998 đạt 1.982 triệu USD, năm 1999 là 2 200 triệu USD, năm 2000 là 3320 triệu USD, năm 2001 là 3 600 triệu USD chiếm 24,1 %kim ngạch xuất khẩu cả nước, góp phần mở rộng thị trường, lành mạnh hoá cán cân thương mại.
Thứ ba: Doanh nghiệp có vốn FDI đã phục vụ đắc lực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
ĐTNN tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp và hiện nay chiếm gần 35% giá trị sản lượng công nghiệp, tốc độ tăng trưởng cao, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng công nghiệp cả nước. Các doanh nghiệp có vốn FDI đã góp phần nâng cao năng lực công nghiệp của nền kinh tế. Với công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại kết hợp trình độ quản lý cao… các doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo ra một mũi nhọn trong phát triển kinh tế ở nước ta. Thông qua các nguồn vốn FDI đã hình thành các hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Thứ tư: Doanh nghiệp có vốn FDI đã góp phần tăng cường năng lực công nghệ quốc gia, giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực
Đến nay khu vực ĐTNN đã thu hút hàng vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Một số đáng kể người lao động đã được đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Qua hợp tác đầu tư người lao động được nâng cáo tay nghề, tiếp thu kỹ năng, công nghệ tiên tiến, rèn luyện tác phong lao động công nghiệp.
Thứ năm: Doanh nghiệp có vốn FDI đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và thúc đẩy tiến trình hội nhập của nước ta với khu vực và thế giới.
Tác động quan trọng nhất của FDI là góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội của nước ta, như tăng năng suất lao động xã hội – một yếu tố mang tính quyết định trong cạnh tranh của các doanh nghiệp; cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; hình thành các định chế tiền tệ, tín dụng dần đáp ứng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước khác.
Ngoài ra các doanh nghiệp có vốn FDI ở nước ta có đặc điểm khác các nước khác là đối tác tham gia DNLD: đối tác phía Việt Nam tham gia DNLD tuyệt đại bộ phận là các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm tới 92% tổng dự án liên doanh), trong khi ở các nước thì đối tác trong nước tham gia vào các doanh nghiệp có vốn FDI lại tuyệt đại bộ phận là các doanh nghiệp tư nhân.
Trong những năm đầu mới thu hút FDI, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít được các nhà đầu tư lựa chọn. Trong những năm gần đây, khi hình thức DNLD gặp nhiều khó khăn trong vận hành, các nhà đầu tư bắt đầu ưa chuộng hình thức 100% vốn nước ngoài hơn. Cho đến nay, hình thức 100% vốn nước ngoài tuy đã tăng vọt về số lượng so với so với trước đây (3007dự án/4160 dự án, xem số liệu bảng 2.2), nhưng hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ và là các chi nhánh của công ty đa quốc gia. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài những thành tựu các doanh nghiệp có vốn FDI đã mang lại, trong thực tế vẫn còn một số hạn chế như: nhận thức quan điểm về ĐTNN còn chưa nhất quán, hình thức đầu tư chưa được mở rộng, môi trường đầu tư thiếu tính ổn định, công tác qui hoạch còn chậm, công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI còn yếu kém, buông lỏng, nguyên nhân rất lớn là công tác cán bộ là yếu tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất. Các hạn chế về cơ chế tài chính được trình bày tại mục 2.2.2.
Doanh nghiệp có vốn FDI và những lợi ích thu được đã góp phần đáng kể vào việc đổi mới và cải thiện các chính sách và môi trường kinh doanh tại Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế.
2.2. Đánh giá Thực trạng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam.
2.2.1. Thực trạng cơ chế tài chính doanh nghiệp có vốn FDI.
Luật ĐTNN tại Việt Nam được các nhà đầu tư trên thế giới đón nhận và đánh giá là một bộ luật thông thoáng và có sự hấp dẫn, thể hiện trên các mặt: Bảo đảm đầu tư, hình thức đầu tư, hình thức góp vốn, ưu đãi về thuế, cơ chế quản lý doanh nghiệp... Chính sách thông thoáng của Nhà nước Việt Nam thể hiện qua bộ Luật ĐTNN chứng tỏ chúng ta đã nhận thức đúng vị trí, vai trò quan trọng của ĐTNN, coi nó là một bộ phận quan trọng trong hoạt động đầu tư và phát triển kinh tế quốc dân. Nhà nước đã rất quan tâm cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà ĐTNN đầu tư vào Việt Nam. Sau đây là những điểm chủ yếu về thực trạng cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam.
2.2.1.1. Thực trạng cơ chế huy động vốn, tạo lập vốn kinh doanh
Nhìn chung, tỷ lệ góp vốn bên Việt Nam trong các DNLD là rất thấp, chỉ chiếm khoảng 11.30%, còn lại là phía nước ngoài chiếm 88,70% vốn đầu tư thực hiện (kết quả tính toán từ số liệu phụ lục số 4). Điều này quyết định và ảnh hưởng rất lớn đến phần lợi nhuận được chia và hạn chế quyền tham gia điều hành DNLD của bên Việt Nam. Điều này cũng thể hiện việc đón nhận vốn FDI của Việt Nam chưa đủ mạnh về vốn đối ứng bên trong, nhất là các dự án qui mô lớn, Việt Nam lại càng khó khăn hơn về vốn góp.
Việc góp vốn pháp định của bên Việt Nam chủ yếu là góp bằng giá trị quyền sử dụng đất (mặt nước, mặt biển), chiếm hơn 70% tổng vốn đầu tư do bên Việt Nam đóng góp, vốn góp bằng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, thiết bị hiện có chiếm khoảng 20%; phần còn lại khoảng 10% góp bằng tiền Việt Nam hoặc tiền nước ngoài hoặc các phương tiện khác như: nguyên vật liệu, dịch vụ kỹ thuật… Nguyên nhân chủ yếu là do các đối tác Việt Nam trong liên doanh (chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước) thiếu vốn tự có, thị trường vốn ở Việt Nam mới được hình thành, chưa phát triển, hệ thống tài chính - tiền tệ chưa hoàn thiện dẫn đến việc góp vốn của bên Việt Nam trong liên doanh là quá nhỏ bé so với vốn đầu tư của dự án, không có cơ chế huy động các nguồn lực khác để góp vốn.
Nhà ĐTNN với thế mạnh về công nghệ, máy móc thiết bị, trình độ điều hành quản lý công ty, chiến lược marketing hiện đại và có khả năng tài chính mạnh, giữ vai trò chủ yếu trong việc góp vốn pháp định: chiếm gần 70% và phần vốn góp của họ chủ yếu bằng máy móc thiết bị. Thực tế rằng nếu nhà ĐTNN không đảm bảo được khả năng tài chính theo cam kết, thì tất yếu dự án đầu tư đó sẽ thất bại.
Một trong những vấn đề nổi lên trong những năm qua là việc góp vốn của các bên và xác định phần vốn góp không phải là tiền tệ. Việc đánh giá các tài sản không phải là tiền do các bên đưa vào góp vốn liên doanh được thực hiện theo nguyên tắc sau: Giá trị phần vốn góp được thoả thuận trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm góp vốn. Cơ quan quản lý ĐTNN có quyền xem xét và yêu cầu các bên liên doanh thẩm định lại giá trị các khoản vốn góp trong trường hợp thấy cần thiết. Đồng tiền đánh giá vốn góp có thể là tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi. Tỷ giá ngoại tệ áp dụng để qui đổi là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, do ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm được xác định là góp vốn.
Việc đánh giá chính xác giá trị các tài sản dùng để góp vốn là hết sức quan trọng, dễ dẫn đến sai lệch, có thể dẫn ra một số trường hợp như: tính không đúng, không đủ các tài sản hữu hình để góp vốn do trước đây loại tài sản này được hình thành phần lớn theo giá bao cấp Nhà nước, chứ không phải giá thị trường, hậu quả là giảm phần vốn của bên Việt Nam. Mặt khác, phía nước ngoài lợi dụng trình độ yếu kém về thị trường, nghiệp vụ, thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm… của đối tác Việt Nam để khai tăng giá máy móc, thiết bị nhập khẩu hoặc nhập các loại máy móc thiết bị đã cũ, lạc hậu, thậm chí đã qua sử dụng… tính vào vốn góp của DNLD.
Nếu doanh nghiệp có vốn FDI vay vốn nước ngoài để đầu tư thì phải thực hiện theo đúng các qui định về vay và trả nợ nước ngoài đã được chính phủ ban hành trong Nghị định 58/CP ngày 30/08/1993 và phải chuyển về tài khoản của mình tại ngân hàng thương mại được phép hoạt động tại Việt Nam, nếu người cho vay yêu cầu mở tài khoản ở nước ngoài thì phải được ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng ý.
2.2.1.2. Thực trạng cơ chế quản lý sử dụng vốn kinh doanh
Trong nền KTTT cạnh tranh ngày càng gay gắt quyết liệt, các doanh nghiệp là một thể nhân trong nền kinh tế hiện đại, vừa độc lập vừa phụ thuộc lẫn nhau, không thể đứng ngoài quá trình hội nhập kinh tế. Vấn đề luôn được quan tâm đối với các doanh nghiệp là chi phí, doanh thu, lợi nhuận, thuế vì nó đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thực tế hiện nay, chi phí SXKD trong các doanh nghiệp có vốn FDI thường cao hơn các doanh nghiệp trong nước, vì một số lý do như:
- Các doanh nghiệp có vốn FDI thường sử dụng các máy móc thiết bị sản xuất hiện đại, giá trị lớn, dẫn đến mức khấu hao hàng năm thường cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp có vốn FDI thực hiện việc trích khấu hao tài sản cố định giống như qui định đối với các doanh nghiệp nhà nước.
- Chi phí trước hoạt động như: các nhà đầu tư thực hiện công việc nghiên cứu, điều tra thị trường, tìm đối tác liên doanh, môi trường kinh doanh, thuê công ty tư vấn, công ty luật,… các hoạt động này cần khoản chi phí lớn và thường được phân bổ cho các năm hoạt động đầu tiên của dự án. Do vậy thông thường các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong những năm đầu tiên bị thua lỗ hoặc lãi rất thấp.
- Để chiếm lĩnh thị trường mới, các doanh nghiệp có vốn FDI thường phải khuyếch trương quảng cáo sản phẩm của mình ra dân chúng, đặc biệt là những sản phẩm lần đầu tiên có mặt trên thị trường Việt Nam dân chúng còn chưa biết tới, các doanh nghiệp có vốn FDI thường sử dụng các phương pháp marketing hiện đại, chính sách khuyến mại, hội nghị, tài trợ các hoạt động văn hoá thể thao… các chi phí này là rất lớn và không phải phát huy ngay tác dụng trong năm tài chính.
- Các doanh nghiệp có vốn FDI phải chịu các chi phí dịch vụ công cộng với mức giá cao hơn, do chính sách hai giá ở Việt Nam đến nay vẫn chưa xoá bỏ được, như: chi phí đi lại, cước viễn thông, thuê văn phòng, điện… Chi phí cho hoạt động khác như an toàn sản xuất, vệ sinh công nghiệp, môi trường… được quan tâm đúng mức và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong chi phí hoạt động SXKD.
Bảng 2.4: So sánh một số chi phí sản xuất tại một số thành phố
trong khu vực và Việt Nam
Tên nước
Giá điện sản xuất
Giá nước
Giá xăng A92
<22KV
22-110KV
>110KV
USD/m3
USD/lít
Việt Nam (HN-TPHCM)
7,18
6,73
6,27
0,20
0,37
Trung quốc (Bắc kinh)
4,40
0,13
Thái lan (Băng kốc)
4,50
4,20
3,60
0,43
0,34
Malaixia (Kualalumpur)
6,80
5,50
5,20
0,31
0,28
Indinesia (Jakarta)
1,6-2
1,80-2,20
1,82
0,21-0,66
0,24
Philipine (Manila)
9,0-11,0
0,09-0,13
0,35-0,36
Singapore
9,78
7,44
7,48
0,87
0,63
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bảng 2.5: So sánh chi phí bưu chính viễn thông giữa Việt Nam
và một số nước trong khu vực
Tên nước
Giá lắp đặt điện thoại (US$)
Giá thuê bao cố định hàng tháng (US$)
Cước ĐTQT đi Tokyo-NBản (US$/phút)
Cước ĐTQT đi Wasington Mỹ US$/phút)
Cước ĐTQT đi Pari (US$/phút)
Việt Nam (HN,TP.HCM)
96.22
2.06
2.3
2.2
2.5
Trung Quốc (Bắc Kinh)
120.5
5.2
4.3
-
-
Thái Lan (Bangkok)
88
2.5
1.91
0.71
1.08
Malaysia (KualaLumpur)
131.6
9.21
0.87
0.79
1.18
Indonesia (Jakarta)
133
4.5
0.98
0.86
1.1
Philippines (Manila)
103.6
30
1.2-1.5
1.2-1.4
1.7-1.8
Singapore
46.3
5
0.51
0.22
0.57
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Qua số liệu được thể hiện qua bảng 2.4 và bảng 2.5 sau đây, ta thấy giá cả một số dịch vụ công cộng tại Việt nam cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực.
- Các doanh nghiệp có vốn FDI có sử dụng lao động nước ngoài với tiền công cao hơn rất nhiều so với lao động trong nước. Lao động là người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI nhận được tiền công cao hơn, thậm chí rất cao so với cùng công việc đó nếu làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. Việt Nam được đánh giá là có thị trường lao động rẻ trong khu vực, nhưng nhìn chung trình độ lao động còn thấp, nhất là trong các ngành, lĩnh vực công nghệ hiện đại cần một số lượng lao động có tay nghề cao, đồng đều… rất khó tuyển dụng. Nhiều doanh nghiệp có vốn FDI tự đào tạo lấy công nhân. Chi phí này làm giá thành sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp có vốn FDI ngoài việc phải chịu chi phí tiền công cao còn phải gánh chịu thêm chi phí đào tạo lao động.
Từ những lý do trên, hầu hết các doanh nghiệp có vốn FDI trong những năm đầu tiên hoạt động thường có lãi rất ít hoặc không có lãi thậm chí lỗ rất lớn. Thuế TNDN phải nộp không đáng kể.
Các hoạt động SXKD của doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam chịu sự chi phối bởi công ty mẹ rất mạnh mẽ bằng các chiến lược, sách lược phát triển từng thời kỳ và ý đồ của người đứng đầu tập đoàn nước ngoài. Nhà ĐTNN hầu như nắm độc quyền về cung ứng nguyên vật liệu, thiết bị công nghệ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của DNLD. Do khống chế đầu vào lẫn đầu ra nên giá cả đầu vào và cả đầu ra phía Việt Nam không thể nắm được, từ đó khó có thể đánh giá được chi phí, doanh thu, kết quả hoạt động SXKD thực tế. Tình trạng lỗ ở DNLD nhưng lãi ở công ty mẹ trở thành phổ biến, có những DNLD cán bộ được phía Việt Nam cử sang để giữ các chức vụ trong HĐQT hoặc Ban giám đốc không thực sự có năng lực, thiếu nhiều kinh nghiệm, chịu sự chi phối hoàn toàn của phía nước ngoài trong liên doanh. Nhiều DNLD không thể tiếp tục hoạt động vì lỗ nặng, hết vốn, giải thể (phụ lục số 4), lúc này phía đối tác nước ngoài dễ dàng thôn tính, biến thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hình thức DNLD luôn được ưu tiên nhiều nhất, nhưng chính hình thức này có tỷ lệ lỗ và bị giải thể nhiều nhất, mâu thuẫn giữa các bên trong liên doanh là phổ biến. Công suất huy động của một số doanh nghiệp có vốn FDI đạt tỷ lệ rất thấp, như ôtô chỉ đạt 5%; xe máy, máy giặt, tủ lạnh, tủ lạnh tên 30%; mía đường, xi măng, khách sạn dưới 40%… dẫn đến chênh lệch cung cầu, tạo sức ép lớn đối với một số sản phẩm hoặc dịch vụ trong nước. Ngoài ra giá phí sử dụng cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp cao đã triệt tiêu lợi thế về giá thuê đất rẻ trong các khu công nghiệp.
Về cân đối ngoại tệ và quản lý ngoại hối, theo Luật sửa đổi Luật ĐTNN năm 2000 đã bỏ nguyên tắc doanh nghiệp có vốn FDI ngoài phải tự cân đối ngoại tệ và cho phép các doanh nghiệp được tự do tiếp cận với các nguồn ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ. Nhìn chung, các qui định về quản lý ngoại hối và cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp ở Việt Nam chặt chẽ so với các nước trong khu vực.
2.2.1.3. Thực trạng cơ chế phân phối kết quả kinh doanh
Theo cơ chế hiện hành, sau khi nộp thuế TNDN và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác, các doanh nghiệp có vốn FDI được trích lợi nhuận còn lại để lập các quỹ dự phòng, quỹ phúc lợi, quỹ mở rộng sản xuất, các quỹ khác và chia lợi nhuận cho các bên liên doanh theo quyết định của doanh nghiệp. So với trước đây là thông thoáng hơn nhiều (trước đây sau khi nộp thuế lợi tức các doanh nghiệp có vốn FDI phải trích 5% lợi nhuận còn lại để lập quĩ dự phòng và được giới hạn ở mức 10% vốn pháp định của doanh nghiệp). Theo cơ chế này quyền tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp được tôn trọng.
Để khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp có vốn FDI đã dùng một phần lợi nhuận sau thuế để trích lập các quĩ của doanh nghiệp, như quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi. Quĩ mở rộng sản xuất ít được thành lập vì các nhà ĐTNN thường dùng hình thức tái đầu tư, tức là dùng lợi nhuận sau thuế được chia để tái đầu tư nhằm mục đích hoàn thuế TNDN đối với phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư.
Việc phân chia lãi, lỗ cho các bên liên doanh, theo cơ chế hiện hành, các bên tham gia liên doanh chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp thực hiện của mỗi bên. Thông thường tỷ lệ phân chia lợi nhuận được hai bên qui định trong điều lệ công ty liên doanh, một số trường hợp đặc biệt được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn y trong GPĐT. Việc quyết định chia hay không chia lợi nhuận sau khi kết thúc năm tài chính hoàn toàn do doanh nghiệp quyết định.
Nhà nước điều tiết thu nhập của các doanh nghiệp có vốn FDI chủ yếu thông qua các luật thuế. Để thu hút FDI, Nhà nước Việt Nam tạo nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Có nhiều tiêu chí khác nhau để xác định dự án được ưu tiên và mức độ ưu tiên trong chính sách thuế của Việt Nam đối với các doanh nghiệp có vốn FDI. Có thể tổng hợp chúng thành các nhóm như: sản xuất hàng xuất khẩu; các ngành nghề được khuyến khích đầu tư; địa bàn đầu tư; hàm lượng nội địa hoá, sử dụng các nguyên vật liệu trong nước; loại hình đầu tư: BTO, hình thức đầu tư khác.
Thể hiện mức độ ưu đãi của chính sách thuế của Việt Nam đối với các doanh nghiệp có vốn FDI trong từng sắc thuế cụ thể:
Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trước năm 2004, thuế suất thuế TNDN đối với các doanh nghiệp có vốn FDI là 25%, các hình thức ưu đãi đầu tư gồm: ưu đãi về thuế suất: 20%,15%,10%; ưu đãi về thời gian được hưởng thuế suất thấp (5năm, 10 năm, 15 năm, hoặc cả đời dự án); miễn giảm thuế (trong thời gian hoạt động ban đầu của các dự án, mức tối đa là miễn thuế 8 năm kể từ khi bắt đầu hoạt động); hoàn thuế TNDN trong trường hợp sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư.
Trong quá trình SXKD, nếu doanh nghiệp có vốn FDI không đạt các tiêu chuẩn để hưởng thuế suất ưu đãi và miễn giảm thuế theo qui định, cơ quan cấp GPĐT sẽ quyết định điều chỉnh lại thuế suất cũng như việc miễn giảm thuế. Trong các trường hợp khó khăn do thiên tai, hoả hoạn và các điều kiện bất khả kháng khác, Bộ Tài chính sẽ quyết định việc miễn, giảm thuế theo qui định hiện hành.
Từ 01/01/2004 áp dụng thống nhất thuế suất thuế TNDN là 28% cho tất cả các loại doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Hoàn thuế TNDN trong trường hợp tái đầu tư.
Nhà ĐTNN dùng lợi nhuận và các khoản thu hợp pháp khác từ hoạt động đầu tư ở Việt Nam để tái đầu tư vào dự án đang thực hiện hoặc đầu tư vào dự án mới theo Luật ĐTNN được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ số thuế TNDN đã nộp của số lợi nhuận tái đầu tư, nếu đáp ứng các điều kiện sau: tái đầu tư vào những dự án được hưởng các ưu đãi về thuế TNDN nêu tại Điều 46 của Nghị định số 24/2000/NĐ-CP, ngày 31/07/2000 qui định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam; vốn tái đầu tư được sử dụng từ 3 năm trở lên; đã góp đủ vốn pháp định, vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh ghi trong GPĐT.
Mức hoàn thuế TNDN đối với số lợi nhuận tái đầu tư tại Việt Nam được quy định như sau: 100% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế TNDN 10%; 75% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế TNDN 15%; 50% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế TNDN 20%. Khi có yêu cầu sử dụng lợi nhuận tái đầu tư, nhà ĐTNN lập hồ sơ gửi Bộ Tài chính để được xem xét hoàn thuế TNDN.
Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Lợi nhuận mà nhà ĐTNN thu được do đầu tư tại Việt Nam (kể cả thuế TNDN được hoàn lại do tái đầu tư và lợi nhuận thu được do chuyển nhượng vốn), nếu chuyển về nước phải chịu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài áp dụng các mức 3%, 5%, 7% lợi nhuận chuyển ra. Thuế chuyển lợi nhuận được thu theo từng lần chuyển lợi nhuận. Trường hợp nhà ĐTNN đã nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhưng sau đó không chuyển ra nước ngoài, thì số thuế đã nộp sẽ được hoàn lại. Điều này có tác dụng khuyến khích tái đầu tư nhưng gây tâm lý có quá nhiều khoản thuế trên thu nhập của họ.
Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài được bãi bỏ từ 01/01/2004.
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Thuế thu nhập đối với người Việt nam có thu nhập cao nhìn chung rất cao, trong khi mức thu nhập khởi điểm đánh thuế lại thấp. Thuế suất cao nhất của thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài thường trú trên 6 tháng là 50% với mức khởi điểm đánh thuế là 8 triệu đồng Việt Nam. Mức thuế suất này hiện nay là quá cao so với mức trung bình của Châu á (Trung Quốc 45%; Thailad 37%; Malaysia 30%; Indonesia 30%; Philippines 32%; Singapore 28%).
Thuế chuyển nhượng vốn.
Việc chuyển nhượng vốn thực hiện theo điều 34 của Luật ĐTNN tại Việt Nam Và trong trường hợp chuyển nhượng vốn có phát sinh lợi nhuận thì bên chuyển nhượng nộp thuế TNDN. Lợi nhuận chịu thuế bằng giá trị chuyển nhượng trừ đi phần giá trị ban đầu của phần chuyển nhượng, trừ chi phí chuyển nhượng (nếu có).
Thuế nhập khẩu.
Các doanh nghiệp có vốn FDI được miễn thuế nhập khẩu cho các thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dụng nằm trong dây chuyền công nghệ nhập khẩu vào Việt Nam để tạo tài sản cố định, thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh, mở rộng quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu chuyên dùng để đưa đón công nhân.
2.2.1.4. Thực trạng cơ chế kiểm tra giám sát tài chính doanh nghiệp
Theo qui định hiện hành, từ ngày 01/01/2001, các doanh nghiệp có vốn FDI phải chuyển sang áp dụng chế độ kế toán Việt Nam. Báo cáo tài chính doanh nghiệp phải được kiểm toán bởi Công ty kiểm toán độc lập được phép hoạt động tại Việt Nam trước khi gửi tới cơ quan quản lý Nhà nước và đại diện các liên doanh. Tuy nhiên, trên thực tế báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các doanh nghiệp có vốn FDI không được coi là căn cứ chính xác trong việc xác định số thuế phải nộp trong năm tài chính được kiểm toán đó. Số thuế mà doanh nghiệp có vốn FDI phải nộp được xác định thông qua biên bản quyết toán thuế hàng năm sau khi doanh nghiệp được cơ quan thuế kiểm tra xác nhận, điều này gây tốn nhiều thời gian cho doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp, nhất là người nước ngoài.
Hàng năm các doanh nghiệp có vốn FDI đều lập báo cáo về tình hình góp vốn, vay vốn, lao động, doanh thu, chi phí, lãi, lỗ, ngoại tệ, chuyển lợi nhuận, xuất nhập khẩu của doanh nghiệp gửi cho các cơ quan chức năng quản lý về ĐTNN tại Việt Nam, cơ quan thống kê, cơ quan quản lý ngành đang hoạt động… trên cơ sở các báo cáo, cơ quan quản lý về ĐTNN có thể giám sát tình hình SXKD của doanh nghiệp, tình hình tuân thủ các điều khoản cam kết trong GPĐT. Điều này đặc biệt rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong diện được hưởng các ưu đãi về thuế
2.2.1.5. Thực trạng cơ chế tài chính cho việc giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp
Khi kết thúc hợp đồng hay thanh lý tài sản của doanh nghiệp do kết thúc thời hạn hoạt động hoặc vì lý do nào đó doanh nghiệp bị giải thể trước thời hạn, thì chủ đầu tư được phép chuyển về nước giá trị vốn đã chuyển vào trước đó mà không phải nộp thuế. Nếu số tiền chuyển ra nước ngoài cao hơn vốn ban đầu và vốn tái đầu tư thì chênh lệch đó chỉ được chuyển ra nước ngoài khi được cơ quan cấp GPĐT chuẩn y. Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp thanh lý, phá sản được thực hiện theo thứ tự ưu tiên của pháp luật.
Cơ chế này vừa đảm báo lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và các nhà đầu tư, tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể hoá được các thủ tục, trình tự cũng như phương thức xử lý tài sản của DNLD khi thanh lý, phá sản. Tuy nhiên, về quyền lợi và trách nhiệm của các bên chưa thực sự tương xứng nhau, khi mà trách nhiệm của các bên đối với khoản nợ của DNLD dựa vào tỷ lệ vốn góp theo cam kết về vốn pháp định, còn việc phân chia lợi nhuận lại dựa vào tỷ lệ vốn thực góp.
2.2.2. Đánh giá thực trạng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam.
Sau 15 năm thực hiện Luật ĐTNN tại Việt Nam, cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI luôn được bổ sung, hoàn thiện. Sau khi phân tích thực trạng về cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, rút ra một số ý kiến đánh giá như sau:
Thứ nhất: Về cơ chế góp vốn, tạo vốn kinh doanh:
- Phía Việt Nam trong các DNLD góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất phát sinh một số điểm bất cập: khi cần thiết khuyến khích đầu tư thì giảm giá tiền thuê đất, hoặc do lợi ích cục bộ trong thu hút vốn đầu tư (thời gian gần đây nổi cộm lên việc khuyếch trương thu hút đầu tư ở khắp nơi trong nước) tạo ra bất lợi cho phía Việt Nam trong liên doanh, nhất là đối với những DNLD đã và đang hoạt động bị tính lại tiền thuê đất theo giá thấp hơn thời điểm được cấp GPĐT. Chính sách ưu đãi miễn giảm tiền thuê đất chưa phát huy được tác dụng tích cực. Luật ĐTNN năm 2000 và Nghị định 24/2000-NĐ-CP hướng dẫn thực hiện đều đã có qui định chi tiết và có các mức ưu đãi rất lớn cho các dự án đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn do Chính phủ qui định nhưng không mấy hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở hạ tầng tại các địa bàn này kém phát triển.
- Tình trạng chuyển giao công nghệ lạc hậu, hoặc đã qua sử dụng vẫn tồn tại, công tác thẩm định giá trị tài sản góp vốn thực hiện không triệt để.
- Nước ta chưa có được một thị trường chứng khoán phát triển đủ để tạo ra khả năng huy động vốn cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Hiện nay cũng đang dừng lại ở việc cho phép một số doanh nghiệp có vốn FDI được chuyển sang hình thức công ty cổ phần.
- Vấn đề huy động vốn vay của các doanh nghiệp có vốn FDI: các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam làm ăn thua lỗ chiếm một tỷ lệ lớn, hoạt động SXKD phụ thuộc rất lớn vào công ty mẹ ở nước ngoài. Trong hoạt động cho vay tín dụng, các tổ chức tín dụng có thể xem xét thẩm định về pháp lý, tài sản đảm bảo của doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam nhưng khó có điều kiện thẩm định tình hình tài chính của công ty mẹ. Các doanh nghiệp có vốn FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong các khu chế xuất, các tổ chức tín dụng không nắm được thông tin từ thị trường nước ngoài, không nắm được dòng lưu chuyển tiền tệ của các doanh nghiệp có vốn FDI, do thanh toán chủ yếu tại các ngân hàng nước ngoài, do đó không thể cho vay không có tài sản đảm bảo.
Một nguyên nhân khác, các ngân hàng trong nước chưa chủ động tiếp cận với các doanh nghiệp có vốn FDI, chưa nắm bắt được nhu cầu vốn tín dụng của các doanh nghiệp có vốn FDI và chưa có bộ phận hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp trong việc thiết lập quan hệ tín dụng ngân hàng.
Các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp có vốn FDI phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam chưa được nhận thế chấp cho vay bằng quyền sử dụng đất,…Nhìn chung các qui định liên quan đến vay vốn nước ngoài, huy động vốn trong nước của các doanh nghiệp có vốn FDI không được cởi mở, thông thoáng.
Thứ hai: Về chí phí và lợi nhuận của các doanh nghiệp có vốn FDI:
Mặc dù có nhiều ưu điểm trong các chính sách về ưu đãi thuế đối với hoạt động FDI, nhưng các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn do chi phí SXKD cao hơn các doanh nghiệp có vốn trong nước và còn ở mức cao so với các nước trong khu vực (như đã phân tích trong mục 2.2.1.2). Chính vì vậy Việt nam làm mất đi một số lợi thế và không còn là địa điểm hấp dẫn đầu tư so với các quốc gia khác. Có rất nhiều doanh nghiệp có vốn FDI vẫn trong tình trạng thua lỗ hoặc không còn vốn để hoạt động. Tỷ lệ các doanh nghiệp có vốn FDI sản xuất kinh doanh lãi là 42,84% và lỗ là 54,09% (nguồn: tính toán từ kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp 1/4/2001, Tổng cục Thống kê).
Đây là vấn đề cần xem xét nghiêm túc và đầy đủ, vì mục tiêu của các nhà đầu tư là lợi nhuận và không có sự tuyên truyền, quảng cáo nào tốt hơn là việc các nhà đầu tư tại Việt Nam giới thiệu môi trường, vị trí đầu tư cho các nhà đầu tư bạn bè trên thế giới.
Thứ ba: Các ưu đãi về thuế không phải là yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà ĐTNN, mà vấn đề chính là môi trường đầu tư kinh doanh, các điều kiện cơ sở hạ tầng tốt… mới là yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI và thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI.
Việc ưu đãi đầu tư ở Việt Nam trong những nam qua quá tràn lan, thậm chí ngay trên cùng một lĩnh vực hay cùng một địa phương sự ưu đãi cũng có sự khác nhau. Không ít các ưu đãi như vậy trên thực tế đã không đáp ứng được các mục tiêu ưu tiên, mà tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng và phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp. Khung pháp lý hiện nay xây dựng việc ưu đãi dựa vào chủ thể đầu tư chứ không dựa trên lĩnh vực đầu tư.
Thứ tư: Môi trường đầu tư kinh doanh vẫn còn thiếu tính ổn định, thiếu tính hấp dẫn các nhà đầu tư.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến ĐTNN nhìn chung đều phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật và tập quán quốc tế. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là khi các doanh nghiệp có vốn FDI đi vào hoạt động không chỉ bị điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật về ĐTNN, mà còn bị điều chỉnh bởi toàn bộ khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam như về đất đai, quản lý ngoại hối, công nghệ môi trường, lao động, xuất nhập cảnh… Tính không ổn định trong chính sách cũng gây nên những hạn chế nhất định cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI, như sự thiếu ổn định trong chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tiền tệ (nhất là ngoại tệ)… ảnh hưởng không nhỏ tới doanh nghiệp có vốn FDI.
Các yếu tố cấu thành nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ, chưa phát huy hiệu quả. Nền kinh tế tăng trưởng, nhưng sức mua của thị trường hàng hoá, dịch vụ không tăng làm cho nhiều doanh nghiệp có vốn FDI gặp sai lầm khi dự báo các thị trường. Mặt khác, Việt nam chủ trương khuyến khích đầu tư hướng xuất khẩu, nhiều dự án yêu cầu xuất khẩu 80% sản phẩm,… nên các doanh nghiệp có vốn FDI rất khó đảm bảo thực hiện.
Thị trường hàng hoá, dịch vụ tuy phát triển nhưng d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12066.DOC