Tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta: Mục lục
Trang
Lời mở đầu
3
Chương I
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
5
1.1. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
5
1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD:
5
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế:
7
1.2. Nội dung của công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD:
9
1.2.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD:
10
1.2.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD:
11
1.2.3. Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp:
16
1.3. Mục đích của cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD:
17
Chương II
Thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
19
2.1. Quy trình quản lý doanh thu chi phí DNNQD hiện nay:
19
2.1.1 Đối với các doanh nghiệp:
19
2.1.2. Đối với hộ kinh doanh
29
2.2. Đánh giá, thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí DNNQD
31
2.2.1 Quản lý doanh thu
31
2.2.2. Quản lý chi phí
36
2.3. Đánh giá...
62 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1084 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
3
Chương I
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
5
1.1. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
5
1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD:
5
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế:
7
1.2. Nội dung của công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD:
9
1.2.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD:
10
1.2.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD:
11
1.2.3. Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp:
16
1.3. Mục đích của cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD:
17
Chương II
Thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
19
2.1. Quy trình quản lý doanh thu chi phí DNNQD hiện nay:
19
2.1.1 Đối với các doanh nghiệp:
19
2.1.2. Đối với hộ kinh doanh
29
2.2. Đánh giá, thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí DNNQD
31
2.2.1 Quản lý doanh thu
31
2.2.2. Quản lý chi phí
36
2.3. Đánh giá nhận xét về những nguyên nhân cơ bản của những yếu kém còn tồn tại
43
Chương III
Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
48
3.1. Nâng cao hiệu quả xác định doanh thu, chi phí chịu thuế
48
a) Đối với doanh nghiệp NQD
48
b) Đối với hộ kinh doanh cá thể
49
3.2. Về quy trình quản lý doanh thu chi phí
51
3.3. Tập trung chỉ đạo tốt việc quản lý những ngành nghề và lĩnh vực mang tính đặc thù
53
3.4. Hoàn thiện chế độ quản lý hoá đơn chứng từ
56
3.5. Tăng cường công tác kế toán kiểm toán
57
3.6. Các giải pháp hỗ trợ khác
58
Kết luận
60
Danh mục tham khảo
61
Lời mở đầu
Quản lý doanh thu chi phí là một trong những khâu quản lý quan trọng và chính yếu nhất của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Trên giác độ quản lý Nhà nước, quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong gần hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và nhà nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta đã và đang có những bước phát triển rất lớn cả về lượng và chất. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã ra đời và phát triển, trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế, huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, cơ chế quản lý doanh thu chi phí DNNQD ở nước ta hiện nay vẫn bộc lộ nhiều nhược điểm cần khắc phục, đó là nạn thất thu thuế, hiện tượng khai gian, khai giảm hoá đơn diễn ra tương đối phổ biến, nạn buôn bán hoá đơn, và những vi phạm khác về công tác kế toán, kiểm toán doanh thu chi phí trong doanh nghiệp v.v Những hiện tượng đó đang diễn ra từng ngày, cản trở sự phát triển lành mạnh vững chắc của nền kinh tế nước ta nói chung cũng như của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, đi ngược lại với ý muốn và lợi ích của đa phần các doanh nghiệp và cá nhân làm ăn chân chính và có ước nguyện làm giàu chính đáng.
Xuất phát từ thực tế đó, để góp phần làm lành mạnh hoá công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD, để chống lại nạn thất thu thuế ngoài quốc doanh và tăng ngân sách nhà nước, em đã chọn nghiên cứu đề tài :
"Hoàn thiện cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta"
Trong phạm vi của đề tài này em tập trung ngh0iên cứu về cơ chế quản lý doanh thu chi phí hiện nay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mà cụ thể là đối với hai thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ bao gồm các DNNQD thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp.
Luận văn được kết cấu như sau:
Chương I: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Chương II: Thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, tiến sỹ Vũ Duy Hào người đã đóng góp ý kiến và hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Tuy nhiên, do kiến thức còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm thực tiễn còn yếu và thiếu, đề tài không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em kính mong các thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện và có giá trị thực tiễn cao hơn.
Chương I
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD:
Thời kì quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là một thời kì dài trong lịch sử. Trong thời kì đó vẫn tồn tại các thành phần kinh tế phi XHCN cạnh tranh gay gắt với các thành phần kinh tế XHCN. Vậy quá độ đi lên CNXH bỏ qua phát triển TBCN như ở nước ta không thể không dẫn đến sự tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế của các doanh nghiệp NQD. Đặc biệt, nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế yếu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, trình độ quản lý kinh tế thấp kém lại vừa qua khỏi chiến tranh. Mâu thuẫn giữa nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với khả năng của sức sản xuất đang trở nên gay gắt. Vì vậy chúng ta đương nhiên phải chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần trong đó có những thành phần phi CNXH với sự góp mặt của các doanh nghiệp NQD. Như vậy, sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay đã được khẳng định và tiếp tục phát triển trong cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp NQD xét dưới giác độ sở hữu bao gồm tất cả các đơn vị hay tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của một người hay một nhóm người. Quyền sở hữu này được xác định dựa trên quá trình huy động hình thành nên nguồn vốn hoạt động cho đơn vị kinh tế đó và được pháp luật thừa nhận. Điều này khác cơ bản với các doanh nghiệp quốc doanh, hay doanh nghiệp nhà nước (DNNN), khi mà nguồn vốn hình thành nên các DNNN được ngân sách nhà nước cấp, nghĩa là từ sự đóng góp của toàn dân (nguồn thu từ thuế). Tất nhiên, doanh nghiệp NQD cũng không bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, một số định kiến xã hội đối với khu vực kinh tế NQD còn khá nặng nề. Khuôn khổ pháp luật để phát triển kinh tế NQD đang được xây dựng, chưa hoàn chỉnh. Song từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành và có hiệu lực (2000) thì môi trường kinh đoanh đã bước đầu được cải thiện.
Theo luật doanh nghiệp, doanh nghiệp NQD được hiểu là đơn vị kinh tế tồn tại dưới các hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (DNTN), do một hay nhiều người đứng ra làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình (hữu hạn hay vô hạn) về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Tất nhiên cũng phải kể đến các hộ kinh doanh cá thể với mức vốn pháp định thấp hơn vốn pháp định của doanh nghiệp tư nhân.
Như vây doanh nghiệp NQD bao gồm :
*Công ty trách nhiệm hữu hạn:
- Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân số lượng thành viên không quá 50 và không được quyền phát hành cổ phiếu.
- Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn của doanh nghiệp và cũng không được quyền phát hành cổ phiếu.
*Công ty cổ phần
- Doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành cổ phần, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng.
*Công ty hợp danh
- Là loại doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn, thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của công ty (trách nhiệm vô hạn). Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trên lượng vốn góp của mình vào doanh nghiệp. Công ty hợp danh không được phát hành chứng khoán.
*Doanh nghiệp tư nhân
- Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
*Hộ kinh doanh cá thể
-Là các hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh, chịu trách nhiệm toàn bộ bằng tài sản của mình và có mức vốn pháp định nhỏ hơn mức vốn pháp định của doanh nghiệp tư nhân.
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế:
Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khu vưc kinh tế NQD có những đặc điểm thuận lợi cho quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như: đây là khu vực thu hút nhiều lao động, đối tượng hoạt động rộng tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế ở mọi nơi trong nước, rút ngắn khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, đồng thời góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế như tài nguyên, sức lao động, thị trường... mà vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất linh hoạt, nhạy bén trong sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận cao nhất nên khu vực này có khả năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường. Vậy khu vực kinh tế NQD là khu vực có vai trò hết sức quan trọng đồng thời là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do Nhà nước đề ra.
Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Nước ta dân số hơn 80 triệu dân, do đó lực lượng lao động là rất lớn. Nạn thất nghiệp là một vấn đề kinh tế xã hội rất cần được giải quyết. Trong khi khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi lao động phải có văn hoá, trình độ kỹ thuật tương đối cao dẫn đến một khối lượng lớn lao động đang ở độ tuổi lao động không thể làm việc trong hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là so với 2 khu vực trên thì khu vực kinh tế NQD có vai trò thu hút nhiều thành phân lao động, từ những lao động có trình độ văn hoá đến những lao động thủ công, từ hợp đồng ngắn hạn đến dài hạn, theo mùa vụ hoặc thời gian nhất định... Do đó khu vực kinh tế này đóng vai trò tích cực góp phần giải quyết thất nghiệp và tạo sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Trước hết, phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế NQD mới đúng bản chât "thuế". Vì khác với các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước không phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà nước thu thuế của khu vực này mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Nguồn thu từ khu vực kinh tế NQD là rất lớn, ngày càng tăng và được dùng chủ yếu để đầu tư vào các ngành nghề kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ sỏ hạ tầng, hỗ trợ các ngành kinh tế yếu kém... Vậy khu vực kinh tế NQD có vai trò điều hoà thu nhập và đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
Ngoài những vai trò trực tiếp trên, khu vực kinh tế NQD tồn tài và phát triển còn có tác dụng trên nhiều mặt sau:
+ Thoả mãn nhu cầu tiêu dùng xã hội, giúp cho Nhà nươc trong điều kiện vốn còn hạn hep, có thể tập trung đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn, có tác dụng trên toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội, tránh đầu tư phân tán, dàn trải.
+ Thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo sự cạnh tranh sống động trên thị trường, thúc đẩy kinh tế nhà nước tăng cường hạch toán kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
+ Khu vực kinh tế NQD hình thành và phát triển tác động cả vào cơ chế quản lý làm thay đổi phương thức sản xuất kinh doanh, thay đổi tác phong, lề lối làm việc của cán bộ công chức nhà nước, của người lao động.
1.2. Nội dung của công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD:
Doanh thu và chí phí là hai mặt của một quá trình, đó là quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là hai chỉ tiêu tối quan trọng phản ánh tình hình lãi lỗ của doanh nghiệp và được thể hiện trên báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Doanh thu và chi phí liên quan trực tiếp đến thu nhập doanh nghiệp, các sắc thuế và các quyền và nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp.
1.2.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD:
Doanh thu là chỉ tiêu tài chính phản ánh tổng giá trị được tính bằng tiền của hàng hoá và dịch vụ đã tiêu thụ trong một thời gian nhất định. Doanh thu của một doanh nghiệp gồm doanh thu từ hoạt động kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ các hoạt động bất thường khác.
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền bán hàng, cung ứng dịch vụ trong kỳ được ghi nhận từ khi khách hàng chấp nhận trả tiền. Doanh thu gộp tức là doanh thu bao gồm cả các khoản giảm trừ. Doanh thu thuần hay doanh thu ròng là hiệu số của doanh thu gộp và các khoản giảm trừ, như hàng hoá bị trả lại, giảm giá hàng bán, chiết khấu bán hàng.
Ngoài ra doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm:
+ Các khoản chi phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có), trợ giá, phụ thu theo quy định của Nhà nước mà doanh nghiệp được hưởng đối với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ trong kỳ
+ Giá trị các sản phẩm hàng hoá đem biếu tặng, trao đổi hoặc tiêu dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp.
Doanh thu từ hoạt động tài chính là doanh thu phát sinh do việc cho các bên khác sử dụng, thuê tài sản của công ty, lãi phát sinh từ việc đầu tư vào các tài sản tài chính, lãi tiền gửi, trái phiếu, mua bán các loại chứng khoán và từ việc đầu tư vào các dự án và công ty khác. Ngoài ra, doanh thu từ hoạt động tài chính còn bao gồm: Từ hoạt động nhượng bán ngoại tệ hoặc thu nhập về chênh lệch tỷ giá nghiệp vụ ngoại tệ theo quy định của chế độ tài chính; Hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoán; Tiền cho thuê tài sản đối với doanh nghiệp cho thuê tài sản không phải là hoạt động kinh doanh thường xuyên.
Doanh thu khác phát sinh là do các khoản thu từ các hoạt động xảy ra không thường xuyên như: thu từ bán vật tư, hàng hoá, tài sản dôi thừa; các khoản phải trả nhưng không trả được vì nguyên nhân từ phía chủ nợ, thu chuyển nhượng, thanh lý tài sản, nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu hồi được, hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi đã trích vào chi phí của năm trước, hoàn nhập số dư chi phí trích trước về bảo hành hàng hoá, sản phẩm, công trình và hạng mục công trình khi hết thời hạn bảo hành, chi phí trích trước về sửa chữa TSCĐ lớn hơn số thực chi; thu về cho sử dụng hoặc chuyển quyền sử dụng sở hữu trí tuệ, thu về tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, thu về chiết khấu thanh toán, thu về chiết khấu thanh toán, các khoản thuế phải nộp (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp) được Nhà nước giảm.
Chú ý rằng doanh thu thực được ghi nhận khi hàng hoá, dịch vụ được xác định là thực hiện nghĩa là đã giao hàng, đã thanh toán hoặc khách hàng chấp nhận trả tiền. Đây là một cơ sở quan trọng để xác định doanh thu trong doanh nghiệp.
1.2.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD:
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các yếu tố tiêu hao phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ xác định. Về bản chất, chỉ tiêu chi phí phản ánh sự tiêu hao, sự phí tổn các yếu tố hữu hình và vô hình dưới hình thức tiêu hao lao động sống và lao động quá khứ trong một thời kỳ nhất định.
Trong cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp, cần chú trọng hoàn thiện các quy định, các nguyên tắc hạch toán chi phí. Số liệu và thông tin báo cáo sai lệch có thể dẫn đến những quyết định sai. Một trong những nguyên nhân thường gây ra sai sót trong kế toán chi phí, đó là sự lẫn lộn giữa chi phí phát sinh và khoản tiền chi ra của doanh nghiệp trong kỳ kế toán. Ngoài ra, doanh nghiệp được hạch toán chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế phát sinh có chứng từ hợp pháp, hợp lệ, hợp lý. Cơ chế tài chính còn phải phân biệt rõ sự khác nhau giữa chi phí sản xuất kinh doanh thực tế phát sinh và chi phí được thừa nhận để xác định lợi nhuận chịu thuế. Nói cách khác, cơ chế phải làm rõ sự khác biệt giữa nguyên tắc quản lý tài chính doanh nghiệp và các quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sẽ trình bày rõ hơn ở phần sau). Các chi phí của doanh nghiệp bao gồm các loại chính sau:
a) Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm:
Chi phí hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp sản xuất là các chi phí về vật tư, chi phí về hao mòn máy móc thiết bị và các tài sản cố định khác, chi phí về tiền lương và tiền công cho người lao động và các chi phí khác bằng tiền.
* Chi phí hoạt động kinh doanh có thể được phân loại theo nội dụng kinh tế như sau:
+ Chi phí nguyên, nhiên vật liệu (chi phí vật tư)
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là số khấu hao tài sản cố định trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
+ Chi phí tiền lương: là toàn bộ tiền lương, tiền công chi phí có tính chất lương doanh nghiệp phải trả.
+ Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài là các chi phí trả cho tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiêp như vận chuyển, điện nước, điện thoại, sửa chữa tài sản cố định, tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, bảo hiểm tài sản, đại lý, môi giới, uỷ thác xuất nhập và các dịch vụ khác.
+ Chi phí bằng tiền khác.
* Theo công dụng và địa điểm phát sinh, chi phí kinh doanh được chia thành:
+ Chi phí vật tư trực tiếp.
+ Chi phí nhân công trực tiếp.
+ Chi phí sản xuất chung.
+ Chi phí bán hàng.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp.
* Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh và khối lượng hàng hoá bán ra hoặc doanh thu tiêu thụ, chi phí kinh doanh được chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi (còn gọi là định phí, biến phí)
+ Chi phí bằng tiền khác.
* Theo công dụng và địa điểm phát sinh, chi phí kinh doanh được chia thành:
+ Chi phí vật tư trực tiếp.
+ Chi phí nhân công trực tiếp.
+ Chi phí sản xuất chung.
+ Chi phí bán hàng.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp.
* Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh và khối lượng hàng hoá bán ra hoặc doanh thu tiêu thụ, chi phí kinh doanh được chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi (còn gọi là định phí, biến phí)
Chi phí cố định là những chi phí không bị biến động trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng hàng bán hoặc doanh thu tiêu thụ, bao gồm:
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định.
+ Chi phí bảo hiểm.
+ Tiền lương trả cho các nhà quản lý, chuyên gia.
+ Thuế môn bài.
+ Chi phí quảng cáo.
+ Thuê tài chính hay thuê bất động sản.
+ Chi phí bảo hiểm rủi ro...
Chi phí biến đổi là những chi phí biến động trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng hàng bán hay doanh thu tiêu thụ, bao gồm các loại chi phí như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, tiền hoa hồng bán hàng...
b) Chi phí hoạt động tài chính của doanh nghiệp: là các khoản chi phí đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí hoạt động tài chính gồm các loại chính sau:
+ Chi phí phát sinh liên quan đến các hoạt động liên doanh, liên kết.
+ Chi phí cho thuê tài sản.
+ Chi phí mua bán trái phiếu, cổ phiếu, kể cả khoản tổn thất trong đầu tư nếu có.
+ Dự phòng giảm giá chứng khoán.
+ Giá trị ngoại tệ bán ra, chênh lệch tỷ giá ngoại tệ theo chế độ tài chính hiện hành (không bao gồm chênh lệch tỷ giá ngoại tệ thuộc vốn vay để đầu tư xây dựng cơ bản khi công trình chưa đưa vào sử dụng hoặc vốn vay bằng ngoại tệ để góp vốn liên doanh).
+ Chi phí về số lãi phải trả để huy động vốn sử dụng trong kỳ.
+ Chi phí triết khấu thanh toán cho người mua hàng hoá dịch vụ khi thanh toán tiền trước thời hạn.
+ Chi phí khác liên quan đến hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp.
c) Chi phí bất thường là cáckhoản chi phí xảy ra không thường xuyên, gồm các loại chính sau:
+ Chi phí nhượng bán, thanh lý TSCĐ (bao gồm cả giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý và nhượng bán).
+ Giá trị tổn thất thực tế sau khi đã giảm trừ tiền đền bù của người phạm lỗi và tổ chức bảo hiểm, trị giá phế liệu thu hồi (nếu có) và số đã được bù đẵp bằng các quỹ dự phòng tài chính.
+ Chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ phải thu khó đòi đã xoá sổ kế toán.
+ Chi phí vê tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế.
+ Chi phí để thu tiền phạt.
+ Các khoản chi phí bất thường khác.
d) Chi phí hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp thương nghiệp:
Đây là điểm đáng chú ý vì doanh nghiệp thương nghiệp có những đặc điểm khác nhất định so với các doanh nghiệp sản xuất. Chi phí kinhdoanh trong doanh nghiệp thương nghiệp là giá trị mua vào của lượng hàng hoá bán ra và chi phí lưu thông hàng hoá.
Chi phí lưu thông hàng hoá thường gồm:
+ Chi phí khâu mua và dự trữ hàng hoá.
+ Chi phí bán hàng.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí lưu thông phân bổ cho lượng hàng hoá xuất bán trong kỳ được tính theo công thức sau:
Chi phí lưu thông phân bổ cho lượng hàng hoá xuất bán trong kỳ
=
CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ đầu kỳ
+
Tổng CPLT phát sinh trong kỳ
-
CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ
CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ
=
CPLT phân bổ cho hàng dự trữ đầu kỳ
+
Các khoản CPLT phát sinh ở khâu mua hàng và dự trữ hàng hoá
X
Trị giá hàng hoá dự trữ cuối kỳ
Trị giá hàng hoá dự trữ đầu kỳ
+
Trị giá hàng hoá mua vào trong kỳ
Quản lý chi phí được thực hiện trên cơ sở các chi phí thực phát sinh của doanh nghiệp và các quy định của bộ tài chính về chi phí của doanh nghiệp. Đồng thời, tất cả các chi phí của doanh nghiệp đều phải có chứng từ hợp lệ theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.3. Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp:
a) Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành toàn bộ của sản phẩm sản xuất hoặc tiêu thụ.
Giá thành sản xuât bao gồm những khoản chi phí của doanh nghiệp phải bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm:
- Chi phí vật tư trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí sản xuất chung.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá dịch vụ bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành việc sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm, được xác định theo công thức sau:
Giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ
=
Giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ
+
Chi phí bán hàng
+
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Giữa giá thành sản xuất và chi phí sản xuất có sự giống và khác nhau. Giá thành sản xuất biểu hiện lượng chi phí để hoàn thành việc sản xuất một đơn vị hay một khối lượng sản phẩm nhất định; còn chi phí sản xuất thể hiện lượng chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất trong một thời kỳ nhất định.
1.3. Mục đích của cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD:
Quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD là một công tác quan trọng then chốt trong quản lý tài chính doanh nghiệp và nhằm những mục đích chủ yếu sau:
- Mục tiêu về thuế đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), làm lợi cho ngân sách. Chống tình trạng thất thu thuế kéo dài đã và đang diễn ra trong thời gian qua. Để quản lý tốt và thực hiện thu thuế có hiệu quả chúng ta không còn cách nào khác là phải kiểm soát được doanh thu chi phí trong các doanh nghiệp, đó chính là nguyên nhân tạo ra thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Đối với DNNQD công tác trên càng trở nên quan trọng với đặc điểm là quy mô nhỏ, dễ tham gia rút khỏi thị trường, số lượng lớn, DNNQD đóng góp tỷ lệ ngày một cao cho ngân sách nhà nước, song khu vực này cũng đặt ra rất nhiều thách thức đối với công tác quản lý.
- Mục tiêu khuyến khích phát triển DNNQD, nhằm cụ thể hoá đường lối đa dạng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật, tận dụng tối đa các nguồn lực trong nước để phát triển kinh tế, DNNQD đóng một vai trò quan trọng. Quản lý doanh thu chi phí nghĩa là quản lý hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, như vậy có thể biết và có những định hướng về quy hoạch ngành kinh tế tối đa hoá tiềm năng phát triển kinh tế của khu vực này. Đồng thời đưa ra giải pháp hỗ trợ đối với những ngành nghề khu vực còn gặp nhiều khó khăn, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho khu vực kinh tế NQD phát triển.
- Đảm bảo an ninh kinh tế trong nước, quản lý doanh thu chi phí DNNQD có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định kinh tế chính trị trong nước. Phát hiện và xử lý kịp thời các hành vị làm ăn phi pháp như gian lận thương mại, buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền v.v.
Chương II
Thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay:
2.1. Quy trình quản lý doanh thu chi phí DNNQD hiện nay:
2.1.1 Đối với các doanh nghiệp:
Hiện nay, cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD là ngành thuế đứng đầu là Tổng cục thuế bên dưới là hệ thống các chi cục, cục và các phòng ban chức năng khác. Theo những quy định hiện hành thì chậm nhất là ngày 25 tháng 1 hàng năm, các cơ sở kinh doanh mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp NQD ( trừ hộ kinh doanh cá thể ) phải hoàn thành và nộp lên cơ quan thuế trực tiếp quản lý bộ hồ sơ bao gồm. : Tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp (mẫu 1a); Quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp (mẫu 2a) và Tờ kê khai chi tiết doanh thu, chi phí (mẫu 2b). Căn cứ để kê khai là kết quả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của năm trước và khả năng kinh doanh của năm tiếp theo. Mục đích của việc lập và nộp những hồ sơ trên chính là để làm rõ các khoản mục sau:
a) Doanh thu;
b) Chi phí hợp lý;
c) Thu nhập chịu thuế;
d) Số thuế thu nhập phải nộp;
đ) Số thuế thu nhập đã tạm nộp trong năm;
e) Số thuế thu nhập đã nộp ở nước ngoài cho các khoản thu nhập nhận được từ nước ngoài;
g) Số thuế thu nhập nộp thiếu hoặc nộp thừa
Nếu trong tờ khai, cơ sở kinh doanh không kê khai hoặc kê khai không rõ các căn cứ để xác định số thuế tạm nộp cả năm như doanh thu, chi phí hợp lý hợp lệ thì cơ quan thuế có quyền yêu cầu cơ sở kinh doanh giải trình lại các chỉ tiêu đó. Trường hợp cơ sở kinh doanh không giải trình hoặc không chứng minh được các chỉ tiêu đã ghi trong hồ sơ theo yêu cầu của cơ quan thuế thì cơ quan thuế có quyền ấn định số thuế tạm nộp cả năm.
Việc điều chỉnh số thuế thu nhập tạm nộp hàng quý và cả năm chỉ trong trường hợp có sự thay đổi lớn về thu nhập chịu thuế qua thực tế sản xuất, kinh doanh 6 tháng đầu năm. Cơ sở kinh doanh phải làm đầy đủ hồ sơ đề nghị xin điều chỉnh số thuế tạm nộp cả năm và hàng quý như sau:
- Công văn đề nghị điều chỉnh số thuế tạm nộp cả năm trong đó: nêu rõ lý do xin điều chỉnh; số thuế đã tạm nộp trong 6 tháng đầu năm và số thuế sẽ tạm nộp trong 6 tháng cuối năm theo số điều chỉnh.
- Báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm bao gồm: bảng cân đối kế toán; kết quả hoạt động kinh doanh; lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Sau khi xem xét đề nghị của cơ sơ sản xuất, kinh doanh, cơ quan thuế trực tiếp quản lý có thông báo cho cơ sở sản xuất kinh doanh số thuế tạm nộp cả năm (điều chỉnh) và số thuế còn phải nộp trong hai quý cuối năm.
Đối với cơ sở kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ, đúng chế độ kế toán nhưng đã thực hiện bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ có hoá đơn, chứng từ phải kê khai doanh thu theo quy định.
Đối với hộ kinh doanh chưa thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ mua, bán hàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu để tính thu nhập chịu thuế.
Việc ấn định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế phải bảo đảm đúng quy trình, công khai, dân chủ.
Mẫu số 1a Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tổng cục thuế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Tờ khai thuếthu nhập doanh nghiệp
(Năm....)
Tên cơ sở kinh doanh:....................... Mã số thuế....................
Địa chỉ:....................................................................................
Đơn vị tính:
Chỉ tiêu:
Thực hiện năm trước
Dự kiến năm nay
Thực hiện 9 tháng
ước quý IV
ước cả năm
1. Tổng doanh thu
2. Các khoản giảm trừ
+ Chiết khấu bán hàng
+ Giảm giá bán hàng
+ Giá trị hàng hoá bán bị trả lại
3. Doanh thu thuần (1-2)
4. Chi phí SX, KD hợp lý.
Trong đó:
- Khấu hao TSCĐ
- Chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, vật liện.
- Chi phí tiền lương, tiền công, ăn ca
- Các khoản chi phí khác...
5. Thu nhập chịu thuế từ hoạt động SX, KD (3-4)
6. Thu nhập khác:
+ Chênh lệch mua, bán chứng khoán
+ Thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản
+ Thu nhập từ chuyển nhượng, thanh lý tài sản
+ Lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, lãi bán hàng trả chậm
+ Chênh lệch do bán ngoại tệ
+ Kết dư các khoản trích trước chi không hết, các khoản dự phòng
+ Thu các khoản thu khó đòi nay đòi được
+ Thu về tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế
+ Thu các khoản nợ phải trả không còn chủ
+ Các khoản thu nhập bỏ sót từ những năm trước
+ Các khoản thu nhập nhận được từ nước ngoài
+ Các khoản thu nhập không tính vào doanh thu
+ Các khoản thu nhập khác
7. Lỗ năm trước chuyển sang
8. Tổng thu nhập chịu thuế (5+6+7)
9. Thuế suất cơ bản
10. Thuế thu nhập (8 x 9)
11. Thu nhập chịu thuế thu nhập bổ sung
Trong đó:
Thu nhập từ góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết kinh tế
12. Thuế suất thuế bổ sung
13. Thuế bổ sung (11 x 12)
14. Tổng số thuế (10 + 13)
Phần thuyết minh của cơ sở kinh doanh về các chỉ tiêu nêu trên. Nguyên nhân tăng, giảm so với năm trước.
Người lập biểu
Kế toán trưởng
Giám đốc
(Ký và ghi rõ họ tên)
(Ký và ghi rõ họ tên)
( Ký; ghi rõ họ tên; đóng dấu )
Ngày ... tháng ... năm
Nơi gửi tờ khai:
- Cơ quan thuế:
- Địa chỉ:
Cơ quan thuế nhận tờ khai:
- Ngày nhận: - Người nhận (ký và ghi rõ họ tên)
Mẫu 2a Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tổng cục thuế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp
Năm 199...
- Tên cơ sở kinh doanh:............... Mã số thuế.....
- Địa chỉ:............................................
- Tel, Fax..............
- Năm quyết toán từ ngày... tháng... năm... đến ngày... tháng... năm...
Đơn vị tính
Chỉ tiêu Tổng số tiền Ghi chú
1. Tổng doanh thu tính thu nhập chịu thuế
2. Chi phí SX, KD hợp lý
3. Thu nhập từ hoạt động SX, KD (1 - 2)
4. Thu nhập khác
5. Lỗ năm trước chuyển sang
6. Tổng thu nhập chịu thuế (3 + 4 - 5)
7. Thuế suất
8. Thuế thu nhập (6x7)
9. Thu nhập tính thuế bổ sung
10. Thuế suất bổ sung
11. Thuế thu nhập bổ sung
12. Tổng thuế thu nhập phải nộp (8 + 11)
13. Thanh toán thuế
- Năm trước chuyển sang
[nộp thiếu (+), nộp thừa (-)]
- Phải nộp năm nay
- Đã tạm nộp trong năm
- Trừ thuế đã nộp ở nước ngoài
- Số còn phải nộp
Các số liệu trên đây bảo đảm chính xác, trung thực. Nếu cơ quan thuế kiểm tra phát hiện không đúng thực tế, cơ sở sẽ chịu xử phạt vi phạm theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
...., ngày....tháng...năm 199...
Người lập biểu Kế toán trưởng Giám đốc
(Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên
đóng dấu)
Mẫu 2b Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tổng cục thuế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Tờ kê khai chi tiết doanh thu, chi phí,thu nhập năm 199...
(Kèm theo quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm.....của cơ sở kinh doanh
Đơn vị tính:
Chỉ tiêu Tổng số tiền Ghi chú
1. Doanh thu
a. Doanh thu bán hàng
b. Doanh thu bán thành phẩm
c. Doanh thu cung cấp dịch vụ
2. Các khoản giảm trừ
a. Chiết khấu bán hàng
- Chiết khấu hàng hoá
- Chiết khấu thành phẩm
- Chiết khấu dịch vụ
b. Giảm giá bán hàng
c. Hàng bán bị trả lại
3. Chi phí sản xuất kinh doanh hợp lý
- Khấu hao TSCĐ
- NVL
- Tiền lương
- Chi phí khác
Trong đó:
+ Lãi tiền vay
+ Trích các khoản dự phòng
+ Chi phí quảng cáo
+ Chi phí khác
4. Tổng thu nhập từ SX, KD (1-2-3)
5. Thu nhập khác
- Chênh lệch mua bán chứng khoán
- Thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản
- Thu nhập từ chuyển nhượng, thanh lý tài sản
- Lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, lãi bán hàng trả chậm
- Chênh lệch do bán ngoại tệ
- Kết dư các khoản trích trước chi không hết, các khoản dự phòng
- Thu về tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế
- Thu các khoản thu khó đòi nay đòi được
- Thu các khoản nợ phải trả không còn chủ
- Các khoản thu nhập bỏ sót từ những năm trước
- Các khoản thu nhập nhận được từ nước ngoài
- Các khoản thu nhập không tính vào doanh thu
- Các khoản thu nhập khác
6. Lỗ năm trước chuyển sang
7. Tổng thu nhập chịu thuế (4+5-6)
8. Thu nhập chịu thuế thu nhập bổ sung
Trong đó: Thu nhập từ góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết kinh tế
Các số liệu trên đây bảo đảm chính xác, trung thực. Nếu cơ quan thuế kiểm tra phát hiện không đúng thực tế, cơ sở sẽ chịu xử phạt vi phạm theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
..., ngày... tháng... năm 199...
Người lập biểu Kế toán trưởng Giám đốc
(Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên
đóng dấu)
Như vậy, công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD được lồng ghép và thực hiện song song với công tác quản lý thuế, là một bộ phận trong công tác quản lý thuế ở nước ta. Đây là một thực tế được chấp nhận và phù hợp vì chúng ta đều biết mối quan hệ khăng khít, nhân quả giữa doanh thu chi phí và Thuế thu nhập doanh nghiệp. Hơn nữa, các cơ quan ngành thuế theo thẩm quyền được phép yêu cầu cơ sở kinh doanh cung cấp sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và hồ sơ tài liệu có liên quan đến việc hình thành các khoản doanh thu chi phí; yêu cầu các tổ chức tín dụng, ngân hàng và tổ chức, cá nhân có liên quan khác cung cấp các tài liệu có liên quan, có quyền lữu giữ và sử dụng số liệu, tài liệu mà cơ sở kinh doanh và đối tượng khác cung cấp theo chế độ quy định. Nói cách khác, ngành thuế cũng kiêm nhiệm luôn chức năng thanh tra, kiểm soát đảm bảo tính trung thực phản ánh đúng và đẩy đủ các khoản doanh thu chi phí trong các bản kê khai của các DNNQD.
2.1.2. Đối với hộ kinh doanh:
Hộ kinh doanh được hiểu là tất cả các hộ kinh doanh chưa đủ điều kiện lập doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực: sản xuất công nghiệp, nông lâm nghiệp, xây dựng, vận tải, khai thác tài nguyên, nuôi trồng thuỷ sản, kinh doanh thương nghiệp, ăn uống, phục vụ và dịch vụ khác như nhà khách, văn hoá, du lịch đào tạo, giáo dục, khám chữa bệnh, tư vấn, sửa chữa, vui chơi, giải trí... Đối với các hộ kinh doanh, đa phần chưa có một hệ thống hoá đơn chứng từ đầy đủ nhưng trong công tác kế toán cũng phải đảm bảo những nội dung chủ yếu sau:
- Số lượng và giá trị tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ và lao động dùng trong sản xuất kinh doanh.
- Số lượng và giá trị vật tư, hàng hoá mua vào, bán ra.
- Chi phí sản xuất, kinh doanh như chi phí về vật liệu, khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền công và các chi phí khác.
- Số lượng và giá trị sản phẩm, công tác lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành, đã cung cấp.
- Kết quả sản xuất kinh doanh, các khoản nộp cho Nhà nước và phân phối kết quả.
Cuối tháng, cuối quý, cuối năm phải cộng sổ, tính doanh thu hàng hoá sản phẩm bán ra và lao vụ dịch vụ đã cung cấp, đối chiếu số liệu giữa các sổ kế toán; đối chiếu số liệu kế toán với số thực tế về tiền mặt trong quỹ và vật tư, sản phẩm, hàng hoá trong khỏ, ở quầy, trên dây chuyển sản xuất.
Nếu các hộ kinh doanh ghi chép, phản ánh số liệu kế toán không chính xác, trung thực cơ quan thuế có quyền không chấp nhận số liệu trên sổ kế toán để tính thuế mà căn cứ vào tài liệu điều tra, cơ quan thuế sẽ ấn định mức doanh thu tính thuế và lợi tức chịu thuế. Nếu chủ hộ kinh doanh không chấp thuận mức doanh thu tính thuế và lợi tức chịu thuế thì có quyền gửi khiếu nại đến cơ quan thuế cấp trên để xem xét giải quyết. Trong thời gian chờ giải quyết, chủ hộ kinh doanh phải nộp thuế theo doanh thu và lợi tức chịu thuế ấn định. Sau khi có ý kiến chính thức của cơ quan thuế cấp trên sẽ điều chỉnh lại số thuế đã nộp.
Hộ kinh doanh cũng phải đảm bảo thực hiện việc ghi chép phản ánh và báo cáo dựa trên một số hoá đơn bắt buộc sau:
1 Hoá đơn bán hàng (dịch vụ)
2 Hoá đơn cước vận chuyển
3 Hoá đơn bán vàng bạc đá quý
4 Hoá đơn khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành
5 Hoá đơn cho thuê nhà
6 Phiếu kê bán hàng
7 Các loại vé (vé tàu, vé xe, vé vui chơi giải trí...)
8 Bảng chấm công
9 Phiếu nhập kho
10 Phiếu xuất kho
11 Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ
12 Phiếu nhận hàng đại lý ký gửi
13 Bảng thanh toán hàng đại lý, ký gửi
Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với các ngành có liên quan ở địa phương giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố hướng dẫn kiểm tra các hộ kinh doanh trong việc thực hiện chế độ kế toán này. Cơ quan thuế căn cứ vào số liệu, tài liệu kế toán của các hộ kinh doanh làm căn cứ tính số thuế phải thu. Chủ hộ kinh doanh phải chấp hành lệnh kiểm tra kế toán của cơ quan có thẩm quyền và có trách nhiệm cung cấp đầy đủ số liệu, tài liệu cần thiết cho công tác kiểm tra kế toán tiến hành thuận lợi. Nếu xét thấy các hộ kinh doanh không thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định của chế độ kế toán hộ kinh doanh, cơ quan thuế có quyền ấn định mức doanh thu tính thuế và lợi tức chịu thuế, đồng thời tiến hành xử phạt hành chính về vi phạm chế độ kế toán và xử phạt về hành vi trốn lậu thuế theo luật định.
2.2. Đánh giá, thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí DNNQD:
2.2.1 Quản lý doanh thu:
Theo cuộc điều tra thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ và du lịch ngoài quốc doanh năm 2000, do liên bộ tổ chức chúng ta có bảng số liệu sau
Bảng 1: Doanh thu bình quân một hộ kinh doanh thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, du lịch và dịch vụ cá thể tháng 7/2000 phân theo ngành hoạt động
Nghìn đồng
Theo tính thuế
Theo chủ hộ kê khai
Theo điều tra viên
Tổng số
10199
10708
15585
Thương nghiệp sửa chữa xe có động cơ, mô tô
13483
13810
20236
Bán bảo dưỡng và sửa chữa xe có động cơ
18063
20418
29077
Bán xe có động cơ
77244
89144
131501
Bảo dưỡng và sửa chữa xe có động cơ
3892
4430
6976
Bán phụ tùng và các bộ phận phụ trợ của xe có động cơ
24404
22705
34370
Bán bảo dưỡng và sửa chữa mô tô xe máy, phụ tùng
13693
14949
20813
Bán lẻ nhiên liệu động cơ
24301
31991
49229
Bán buôn, bán đại lý (Trừ xe có động cơ và mô tô)
50096
51803
71003
Bán đại lý, môi giới, đấu giá
6453
9062
13164
Bán buôn nông,lâm sản, lương thực thực phẩm
61924
67832
89729
Bán buôn đồ dùng cá nhân và gia đình
91190
72469
110149
Bán buôn nguyên liệu, vật liệu phi nông nghiệp, phế liệu
17375
19408
31737
Bán buôn máy móc thiết bị và phụ tùng
108936
104622
125267
Bán buôn khác
18232
21576
27707
Bán lẻ(Trừ xe có động cơ, xe máy, sửa chữa đồ dùng cá nhân và gia đình)
10150
10526
15688
Bán lẻ trong các cửa hàng không chuyên doanh
5807
6878
9610
Bán lẻ hàng LT-TP, đồ uống thuốc lá
5626
7196
10882
Bán lẻ hàng hoá khác trong các cửa hàng
14648
14042
21995
Bán lẻ đồ cũ trong các cửa hàng
4800
6015
9830
Bán lẻ ngoài cửa hàng
4414
4216
8193
Dịch vụ
Sửa chữa vật phẩm tiêu dùng
1360
1912
2765
Dịch vụ phục vụ cá nhân và gia đình
1892
2503
3698
Khách sạn nhà hàng và du lịch
3361
4459
6518
Khách sạn và nhà hàng
3361
4459
6521
Khách sạn nhà trọ, nhà khách, và các dịch vụ nghỉ trọ ngắn ngày
3271
3961
5005
Nhà hàng, Bar, căng tin
3334
4483
6643
Du lịch
3237
4057
5083
Bảng 2: Tỷ lệ doanh thu bình quân một hộ kinh doanh thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng,du lịch và dịch vụ cá thể tháng 7/2000 theo tính thuế so với doanh thu bình quân theo chủ hộ kê khai và so với doanh thu theo điều tra viên thực hiện phân theo ngành
%
Theo tính thuế so với chủ hộ kê khai
Theo tính thuế so với điều tra viên
Tổng số
95,2
65,4
Thương nghiệp sửa chữa xe có động cơ, mô tô
97,6
66,6
Bán bảo dưỡng và sửa chữa xe có động cơ
88,5
62,1
Bán xe có động cơ
86,7
58,7
Bảo dưỡng và sửa chữa xe có động cơ
87,9
55,8
Bán phụ tùng và các bộ phận phụ trợ của xe có động cơ
107,5
71,0
Bán bảo dưỡng và sửa chữa mô tô xe máy, phụ tùng
91,6
65,8
Bán lẻ nhiên liệu động cơ
76,0
49,4
Bán buôn, bán đại lý (Trừ xe có động cơ và mô tô)
96,7
70,6
Bán đại lý, môi giới, đấu giá
71,2
49,0
Bán buôn nông,lâm sản, lương thực thực phẩm
91,3
69,0
Bán buôn đồ dùng cá nhân và gia đình
125,8
82,8
Bán buôn nguyên liệu, vật liệu phi nông nghiệp, phế liệu
89,5
54,7
Bán buôn máy móc thiết bị và phụ tùng
104,1
87,0
Bán buôn khác
84,5
65,8
Bán lẻ(Trừ xe có động cơ, xe máy, sửa chữa đồ dùng cá nhân và gia đình)
96,4
64,7
Bán lẻ trong các cửa hàng không chuyên doanh
84,4
60,4
Bán lẻ hàng LT-TP, đồ uống thuốc lá
78,2
51,7
Bán lẻ hàng hoá khác trong các cửa hàng
104,3
68,7
Bán lẻ đồ cũ trong các cửa hàng
79,8
48,8
Bán lẻ ngoài cửa hàng
104,7
53,9
Dịch vụ
Sửa chữa vật phẩm tiêu dùng
71,1
49,2
Dịch vụ phục vụ cá nhân và gia đình
45,6
51,2
Khách sạn nhà hàng và du lịch
75,4
51,6
Khách sạn và nhà hàng
75,4
51,4
Khách sạn nhà trọ, nhà khách, và các dịch vụ nghỉ trọ ngắn ngày
82,6
65,4
Nhà hàng, Bar, căng tin
74,4
50,2
Du lịch
79,8
63,7
Những số liệu trên đây chỉ tính cho các hộ kinh doanh trong lĩnh vực thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, du lịch và dịch vụ nghĩa là chưa phản ánh toàn bộ khu vực kinh tế NQD. Tuy nhiên, qua đó chúng ta cũng có thể thấy phần nào bức tranh về công tác quản lý doanh thu đối với DNNQD nói chung. Không cần có những phân tích định lượng quá kĩ lưỡng chúng ta đã có thể nhận biết được vấn đề nổi bật trong các bảng số liệu trên chính là tình trạng khai thiếu doanh thu phổ biến trong các ngành nghề. Tỷ lệ tổng quát cho doanh thu bình quân một hộ kinh doanh trong lĩnh vực trên theo tính thuế so với doanh thu bình quân theo chủ hộ kê khai là 95,2% và so với doanh thu các điều tra viên tính toán là 65,4%. Điều này chứng tỏ có một phần trăm lớn doanh thu đã nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan thuế, cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD. Tình trạng trở nên đặc biệt nghiêm trọng tại một số ngành nghề như bán lẻ nhiên liệu động cơ khi các tỷ lệ này chỉ là 76,0% và 49,4%, bán đại lý, môi giới, đấu giá tương ứng là 71,2% và 49% ... . Các hộ khi kê khai doanh thu đã không kê khai một cách đầy đủ trung thực và đúng với các quyđịnh của Bộ tài chính cũng như Tổng cục thuế ban hành. Chất lượng các bản kê khai quá thấp so với yêu cầu như: kê khai không đủ các nội dung trong bản khai, ghi các chỉ tiêu, mã số không đúng với yêu cầu của từng nội dung, các số liệu kê khai chưa sát với thực tế kinh đoanh của cơ sở, đặc biệt là các chỉ tiêu về vốn, doanh thu, lao động, thu nhập của các hộ kinh doanh kê khai đều rất thấp, không cơ sở thực tế, nhiều trường hợp chỉ tiêu doanh thu khai thấp hơn mức doanh thu tính thuế đã nộp trong năm, thậm chí còn ít hơn cả số thuế đã nộp và chi phí, đây là điều không thể chấp nhận Trung bình một hộ kinh doanh có thu nhập theo các điều tra viên là 15,585 triệu đồng trong khi đó doanh thu theo chủ hộ kê khai chỉ là 10,708 triệu đồng nghĩa là đã có tới gần 4,8 triệu đồng các chủ hộ kinh doanh không thực hiện kê khai. Trong khi đó ở nước ta, con số hộ kinh doanh cá thể đã lên đến hàng triệu, và trên đây mới chỉ là lương kê khai trong một tháng. Hiện trạng trên chắc chắn gây nên những thất thoát rất lớn cho ngân sách nhà nước trong nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và là một minh chứng cho khả năng quản lý nhà nước về vấn đề doanh thu chi phí còn nhiều yếu kém ở nước ta.
2.2.2. Quản lý chi phí:
Nhìn chung, công tác quản lý doanh thu chi phí đối với doanh nghiệp NQD đều được thực hiện qua việc kê khai các bộ hồ sơ theo mẫu do Tổng cục thuế ban hành và phát đến các doanh nghiệp. Nhưng khi phát bản khai còn bỏ sót nhiều đối tượng thuộc điện phải kê khai, đặc biệt là các cá nhân kinh doanh (theo Nghị định số 66-HĐBT) ở những địa điểm kinh doanh tạm thời, nơi hẻo lánh, trong các khu tập thể dân cư; xóm ngõ và các hộ kinh tế gia đình (theo Nghị định số 29-HĐBT) nhất là ở các vùng có những ngành nghề phụ, truyền thống như sản xuất, chế biến, làm hàng thủ công.
Theo cơ chế hiện hành các doanh nghiệp tự quyết định các khoản chi phí khi tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp tư nhân, nhà nước chỉ chấp thuận các khoản chi phí hợp lý có liên quan đến thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế của doanh nghiệp. Do đó, bên cạnh những ưu điểm, cơ chế này cũng bộc lộ những hạn chế và kẽ hở cần khắc phục kịp thời nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp cũng như lợi ích của nhà nước.
Về chi phí khấu hao tài sản cố định: Thông tư 99 ngày 14/7/1998 của Bộ tài chính về hướng dẫn thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp quy định: Khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp trong kỳ, Nhà nước chỉ chấp nhận "mức chi phí khấu hao hợp lệ" -Đó là mức khấu hao được xác định theo chế độ quản lý sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định ban hành kèm theo Quyết định 1062-TC/QĐ/TSTC ngày 14/11/1996 (từ ngày 1/1/2000 được thay thế bằng Quyết định 166/QĐ-BTC ngày 30/12/1999) của Bộ trưởng Bộ tài chính. Theo đó mức khấu hao hàng năm của các TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xác định theo mức khấu hao bình quân hằng năm.
Mức khấu hao hàng năm của TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ
Thời gian sử dụng
Thời gian sử dụng của TSCĐ do doanh nghiệp tự xác định trên cơ sở dựa vào khung thời gian sử dụng TSCĐ (tối thiểu tối đa) do Nhà nước quy định đối với từng nhóm tài sản cố định. Nếu doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định khác với khung thời gian do Nhà nươc quy định thì phải giải trình cụ thể để cơ quan thẩm quyền xét duyệt. Việc quy định khung thời gian sử dụng của tài sản cố định về thực chất là cho phép doanh nghiệp được phát huy quyền tự chủ trong việc trích khấu hao TSCĐ cho phù hợp với yêu cầu thu hồi vốn đầu tư và khả năng chịu đựng của giá bán sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc quy định áp dụng phương pháp khấu hao tuyến tính cố định với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp là chưa thật hợp lý. Bên cạnh các ưu điểm: mức khấu hao phân bổ vào giá thành sản phẩm hàng năm đều đặn, giúp doanh nghiệp có điều kiện bình ổn giá thành, duy trì mức lợi nhuận hằng năm tương đối ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm sát chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; thì phương pháp khấu hao này đã bộc lộ những nhược điểm lớn: đó là khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm, khó tránh khỏi bị mất vốn do hao mòn vô hình, đặc biệt đối với những loại tài sản cố định trong doanh nghiệp chịu sự tác động lớn của tiến bộ khoa học kỹ thuật như: các thiết bị tính toán, thiết bị điện tử, máy móc thiết bị sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất v.v Vì thế, nhà nước nên có những quy định về việc cho phép khấu hao nhanh đối với một số loại tài sản mang tính chất đặc thù. Mặc dù, áp dụng phương pháp này có thể ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách từ thuế thu nhập doanh nghiệp trong ngắn hạn do những năm đầu mức khấu hao chuyển vào chi phí sản xuất kinh doanh cao, thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp giảm nhưng nếu xét trên toàn bộ quá trình sử dụng tài sản cố định thì nguồn thu này không thay đổi, bởi càng về sau, số khấu hao giảm dần kéo theo việc hạ giá thành làm thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập nộp ngân sách của doanh nghiệp lại tăng lên. Đấy là chưa kể đến những lợi ích có được từ việc khấu hao nhanh cho phép doanh nghiệp nhanh chóng tiếp nhận các công nghệ mới, tích cực đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, mang lại nguồn thu cho bản thân doanh nghiệp cũng như các nguồn thu cho ngân sách.
Về chi phí nhân công, đối với các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh, việc xác định chi phí tiền lương, tiền công để xác định thu nhập chịu thuế được căn cứ vào hợp đồng thoả thuận giữa người lao động với cơ sở sản xuất kinh doanh và phù hợp với đơn giá tiền lương, tiền công đã đăng ký với cơ quan thuế. Trường hợp phát hiện lương thực trả thấp hơn tiền lương theo hợp đồng đã hạch toán vào chi phí thì chỉ tính vào chi phí theo lương thực trả. Trường hợp đơn vị không có hợp đồng thoả thuận, không đăng ký tiền lương với cơ quan thuế thì tiền lương, tiền công tính trong chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế căn cứ theo định mức tiền lương, tiền công do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định.
Các doanh nghiệp không thực hiện đẩy đủ các nghĩa vụ theo luật lao động đối với người lao động như đóng BHXH, trích phụ cấp ngoài giờ, chế độ nghỉ ... Nhất là vấn đề trích BHXH, cần điều chỉnh lại tỷ lệ trích BHXH cho phù hợp hơn theo hướng không tăng gánh nặng cho doanh nghiệp về vấn đề người lao động, giải quyết tốt mâu thuẫn giữa việc làm và BHXH, tránh tình trạng các doanh nghiệp hạn chế thuê mướn lao động thậm chí sa thải vì không đủ khả năng trích BHXH, và những vi phạm nghiêm trọng luật lao động như không lập hợp đồng lao động, không trả lương làm thêm, không thực hiện quy định về thời gian và chế độ làm việc v.v. Người sử dụng lao động và Nhà nước sẽ cùng phải chia sẻ trách nhiệm tài chính trong việc giải quyết mâu thuẫn này. Chính sách tiền lương ở các doanh nghiệp tư nhân hiện nay chưa thực sự thống nhất và công bằng. Tất cả những vấn đề này tựu trung lại chỉ là vấn đề chi phí nhân công. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn tận dụng những điểm thiếu chặt chẽ trong cơ chế tuyển mộ và sử dụng lao động hiện nay để hạn chế chi phí nhân công, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh mà không quan tâm nhiều đến quyền lợi của người lao động.
Về chi phí vật tư, nguyên vật liệu: Theo các quy định hiện hành, khi tính thu nhập chịu thuế, các doanh nghiệp được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hoá liên quan đến doanh thu và thu nhập chịu thuế trong kỳ. Mức chi phí được xác định dựa vào định mức tiêu hao vật tư hợp lý và giá thực tế vật tư xuất kho. Một vấn đề nan giải là việc kiểm soát giá vật tư, nguyên liệu đầu vào của sản phẩm do đó Nhà nước cần sớm ban hành Luật Chống bán phá giá, Luật chống độc quyền đi đôi với hoàn thiện Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa và các chi phí gia công chế biến, vận chuyển, bốc xếp, bảo quản, thu mua phải có hóa đơn chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính. Trường hợp mua vật tư, hàng hóa là sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản hoặc dịch vụ nhỏ lẻ của người không kinh doanh, cơ sở sản xuất kinh doanh phải lập bảng kê ghi rõ họ, tên, địa chỉ người bán, số lượng hàng hóa, đơn giá, thành tiền, giá dịch vụ cung ứng; giám đốc cơ sở sản xuất kinh doanh duyệt chi và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trường hợp cơ sở kinh doanh kê khai giá mua hàng hóa trên bảng kê cao hơn giá thị trường tại thời điểm mua thì cơ quan thuế ấn định mức giá để xác định chi phí tính thuế thu nhập.
Đối với vật tư hàng hóa được khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ (%) trên cơ sở hóa đơn bán hàng và bảng kê mua hàng thì cơ sở kinh doanh chỉ được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh để tính thu nhập doanh nghiệp bằng doanh số mua, trừ (-) số đã được khấu trừ thuế.
Về chi phí quảng cáo, tiếp thị khuyến mại: Chi phí quảng cáo, tiếp thị khuyến mại là một trong những nội dung của chi phí tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, là một bộ phần cấu thành chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp nhất là trong môi trường cạnh tranh như hiện nay. Theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản chi khác được khống chế tối đa không quá 7% tổng số chi phí (riêng đối với doanh nghiệp thương mại, tổng số chi phí để xác định mức khống chế không bao gồm giá mua vào của hàng hóa bán ra).
Vấn đề tiếp theo được đề cập trong đề tài liên quan đến việc hình thành và phân bổ các khoản doanh thu chi phí trong doanh nghiệp là vấn đề về thuế trong đó bao gồm thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế tiêu thụ đặc biệt và một số loại thuế khác. Thuế GTGT thay thế thuế doanh thu được áp dụng trên toàn quốc kể từ ngày 01/01/1999. Quá trình thực hiện thuế GTGT đối với khu vực KTNQD hiện đang gặp phải những vướng mắc nhất định. Phần lớn các hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện chế độ sổ sách và chứng từ kế toán nên chưa được áp dụng tính thuế gia tăng theo phương pháp khấu trừ mà thường áp dụng tính thuế GTGT trực tiếp. Việc này đôi khi là nguyên nhân dẫn đến những gian lận, nhập nhèm và những sự không công bằng khi tính để nộp thuế giữa các DNNQD. Trước đây, các cơ sở sản xuất kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được nhà nước cho phép trừ khống một khoản thuế đầu vào là 2% hoặc 3% nhằm mục đích hỗ trợ cho các đối tượng nộp thuế theo phuơng pháp khấu trừ. Tuy nhiên trên thực tế, một số doanh nghiệp đã lợi dụng chính quy định này để chiếm đoạt thuế của Nhà nước thông qua việc kê khai tăng số thuế đầu vào để được khấu trừ hoặc hoàn thuế khống. Đến nay, khi Chính phủ đang lãnh đạo Bộ tài chính, Tổng cục thuế và các bộ ban ngành hữu quan khác tiến hành cải cách hệ thống và các chính sách thuế, các doanh nghiệp đã không được hoàn thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp nữa, việc này đã khiến cho những gian lận và thất thu thuế giảm đi nhưng lại gây ra những khó khăn cho một bộ phận doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản và một số ngành thủ công mĩ nghệ khác. Trong những ngành nghề hoạt động này, do chưa có một hệ thống hoá đơn chứng từ thống nhất và có giá trị pháp luật, đồng thời với phương pháp mua bán kinh doanh lâu đời lạc hậu từ xưa đến nay, việc chuyển sang thực hiện tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ gặp rất nhiều khó khăn. Và cuối cùng, bà con nông dân, những người nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản và những thợ thủ công lại là những người chịu thiệt thòi.
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cũng là một vấn đề cần được nghiên cứu vì nó liên quan đến chi phí nhân công trong doanh nghiệp. Thực ra, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chưa được áp dụng đối với các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân mà chỉ điều chỉnh đối với người làm công ăn lương, hành nghề tự do có thu nhập cao. Loại thuế này hiện nay đang có mức điều tiết rất cao, bậc thuế chưa phù hợp, lại áp dụng 2 biểu thuế cho người Việt Nam và người nước ngoài nên đã dẫn đến tình trạng các DNNQD đặc biệt là một số doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài không muốn trả lương cao hay đề bạt người Việt Nam có năng lực vào các vị trí quản lý. Điều đó, vừa gây thiệt hại cho chính người lao động Việt Nam (vì các doanh nghiệp này đi thuê chuyên gia nước ngoài) vừa làm giảm thu ngân sách vì biểu thuế cho người nước ngoài có biểu thuế cao hơn với mức điều chỉnh t Tiếp theo là một số loại thuế liên quan đến các chi phí khác trong doanh nghiệp như chi phí thành lập, chi phí tài nguyên và các chi phí khác. Có thể kể ra đó là các loại thuế như thuế môn bài, thuế tài nguyên và các chính sách thu ngân sách khác. Các văn bản pháp luật liên quan đến các khoản thu này đều không phân biệt đối tượng nộp thuế thuộc khu vực nhà nước hay tư nhân. Ngoài ra, Chính phủ và Bộ tài chính đã có các văn bản pháp quy hướng dẫn chi tiết cụ thể hoá chính sách thuế đối với khu vực KTTN với mục đích khuyến khích sự phát triển của khu vực này. Qua khảo sát thực tế, có thể thấy những khó khăn chung trong thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của KTTN bao gồm: 1) Do đặc điểm về quan hệ sở hữu của khu vực này, toàn bộ vốn, tài sản, thu nhập thường là thuộc sở hữu của khu vực tư nhân. Chủ sở hữu chịu trách nhiệm toàn bộ về kết quả kinh doanh, do đó, nhiều cơ sở luôn tìm mọi cách để có thể đạt được lợi nhuận cao, kể cả trốn lậu thuế; 2) Số đối tượng nộp thuế rất lớn (nhất là hộ kinh hấp hơn. doanh cá thể), kinh doanh ở rất nhiều ngành nghề, từ chế biến, sản xuất đến dịch vụ... lại trải trên diện rộng ở khắp các địa bàn trong cả nước làm cho việc quản lý đối tượng thêm khó khăn phức tạp; 3) Nhận thức về pháp luật và chấp hành pháp luật trong kinh doanh chưa cao. Tình trạng kinh doanh không có giấy phép còn tương đối phổ biến, nhiều doanh nghiệp tư nhân vi phạm chế độ sử dụng lao động như không đăng kí, không làm hợp đồng lao động, đóng BHXH... 4) Bên cạnh đó, lại có những doanh nghiệp xin thành lập nhưng không hoạt động, tình trạng lập sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ không đúng thực tế nhằm mục đích trốn lậu thuế diễn ra khá phổ biến.
2.3. Đánh giá nhận xét về những nguyên nhân cơ bản của những yếu kém còn tồn tại:
Trước hết chúng ta phải ghi nhận những cố gắng nỗ lực cũng như những thành tựu nhất định trong công tác quản lý doanh thu chi phí DNNQD của các cán bộ ngành thuế trong thời gian qua. Trong những điều kiện khó khăn cả về chủ quan và khách quan, ngành thuế đứng đầu là Tổng cục thuế, cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD, vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, có nhiều đơn vị đã được phong tặng huân huy chương lao động, trở thành tấm gương điển hình trong công tác thu thuế nói chung và quản lý doanh thu chi phí nói riêng. Nhờ vậy, thu ngân sách từ thuế thu nhập và phần đóng góp của DNNQD không ngừng nâng lên trong thời gian qua. Những vướng mắc trong công tác hạch toán, kế toán và kê khai doanh thu chi phí, những khó khăn khi trích lập các khoản doanh thu chi phí của doanh nghiệp đã được các cơ quan ngành thuế giải đáp thoả đáng, đúng với trình tự thủ tục pháp luật. Những sáng kiến sáng tạo trong công tác quản lý doanh thu chi phí như phân khu phân vùng, cải cách bộ máy hành chính ngành thuế v.v đã được các cán bộ ngành thuế tích cực triển khai và đã đem lại những kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Nhìn chung, phải thừa nhận công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD từ khi nước ta thực hiện đổi mới nền kinh tế đã có những bước tiến đáng kể.
Tuy nhiên, cũng như phần trên đã trình bày, công tác quản lý doanh thu chi phí DNNQD hiện nay ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém hạn chế cần được tháo gỡ trong thời gian tới. Và những yếu kém đó là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Do bản thân đặc điểm tính chất của khu vực kinh tế NQD ở nước ta hiện nay. Đây là khu vực kinh tế mới hình thành, thời gian phát triển chưa được bao nhiêu, vốn, kỹ thuật, công nghệ và trình độ quản lý nhìn chung vẫn còn ở mức độ thấp. Do vậy khả năng ý thức về pháp luật, về những lợi ích từ việc tuân thủ những quy định của nhà nước trong lĩnh vực quản lý doanh thu chi phí nói chung chưa được đầy đủ và đúng đắn. Nhiều doanh nghiệp và nhất là hộ kinh doanh cá thể không thực hiện chế độ mua bán xuất nhập hàng hoá dịch vụ theo hoá đơn chứng từ, coi công việc kế toán sản xuất kinh doanh là công việc lãng phí, không cần thiết. Việc tiến hành mua bán một cách tuỳ tiện, không tuân thủ đúng quy định của pháp luật, đến khi kê khai, hay đối phó với sự kiểm tra giám sát của các nhà chức trách lại luôn tìm cách tránh né, trốn lậu, thực sự đã gây nên rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý doanh thu chi phí đối với các doanh nghiệp cũng như hộ kinh doanh cá thể.
Nguyên nhân xuất phát từ việc tổ chức thực hiện công tác quản lý giám sát doanh thu chi phí từ phía các cơ quan nhà nước. Đã đành rằng, doanh thu chi phí, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh có liên quan mật thiết đến thuế thu nhập nên công tác này do ngành thuế chịu trách nhiệm chính là điều đúng đắn, phù hợp với các mối quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, để thực hiện tốt đạt hiệu quả cao trong công việc này, chúng ta không thể thiếu sự hỗ trợ của các cơ quan, các bộ ngành chức năng khác mà cụ thể là Bộ tài chính, Sở Tài chính vật giá các tỉnh thành phố. Đây là những cơ quan có thẩm quyền có chuyên môn và chức năng mà nếu được kết hợp, tận dụng tốt sẽ đem lại hiệu quả rất lớn.
Đặc biệt hiện nay, công tác thanh tra kiểm tra, hậu kiểm doanh thu chi phí đối với DNNQD nhất là đối với hộ kinh doanh cá thể hầu như bị bỏ ngỏ. Trên lý thuyết, ngành thuế và các đơn vị thanh tra kinh tế là người được giao trọng trách này. Nhưng trên thực tế, do số lượng các DNNQD đặc biệt là các hộ kinh doanh cá thể là quá lớn, địa bàn trải rộng, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, thiếu tập trung, do đó với những điều kiện hạn chế về nhân lực vật lực, các cơ quan trên không thể thực hiện kiểm tra kiểm soát doanh thu đối với tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh này. Bằng chứng của tình trạng trên chính là việc ấn định doanh thu chịu thuế cho các hộ kinh doanh cá thể hiện nay thường xa rời thực tế, không xác thực. Nhiều khi một hộ kinh doanh có doanh thu thực tế hàng trăm triệu đồng một tháng lại được ấn định mức doanh thu chịu thuế tương đương với một hộ kinh doanh chỉ có doanh thu vài hay vài trục triệu đồng một tháng.
Nguyên nhân do công tác kế toán tài chính trong DNNQD chưa phát triển và chưa được coi trọng đúng mức. Nhiều cán bộ kế toán làm không dúng chuyên ngành được đào tạo, phần lớn là lao động có tính tạm thời, có thể làm một hay hai ngày trong một tuần hoặc vài ngày cuối tháng, lại có thể kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác trong doanh nghiệp. Việc quyết toán giữa cơ quan thuế với doanh nghiệp diễn ra chậm, nhiều doanh nghiệp tính đến tháng 6/2002 vẫn chưa quyết toán thuế năm 2000. Tuy nhiên có những doanh nghiệp đã nộp báo cáo trước hạn quy định là 28/2 nhưng đến tháng 5 vẫn chưa được quyết toán. Việc tổ chức thực hiện công tác kế toán doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chưa đúng quy định và thiếu chính xác. Sổ sách theo dõi, phản ánh nhiều loại thông tin chưa được mở và ghi chép. Quy trình hạch toán trên sổ cũng có nhiều điểm chưa hợp lý, chẳng hạn có doanh nghiệp lựa chọn và thực hiện hình thức sổ "Chứng từ - Ghi sổ" nhưng lại không xác định được hướng lập "Chứng từ - Ghi sổ".
Nguyên nhân do những bất cập trong chế độ hoá đơn chứng từ hiện nay đối với DNNQD. Về mặt pháp lý, các quy định về chế độ quản lý hoá đơn trước nay chỉ tồn tại dưới dạng quyết định của Bộ tài chính, trong khi đó vi phạm hoá đơn cũng như vi phạm cụ thể các loại thuế đều nằm trong luật, pháp lệnh, hay ít ra cũng ở cấp nghị định, do vậy các chế độ hoá đơn theo quyết định của Bộ tài chính chưa có giá trị pháp lý cần thiết, đủ mạnh như luật hay pháp lệnh. Việc chỉ xử lý vi phạm chế độ hoá đơn chứng từ tại những đơn vị có kê khai nộp thuế khiến những cá nhân đơn vị không là đối tượng nộp thuế vẫn còn vi phạm và tất nhiên dẫn đến nạn sử dụng hoá đơn giả. Ví dụ: Do bán xăng lẻ cho người mua không xuất hoá đơn nên DN có thể ghi khống lượng xăng trên một hoá đơn thực cho một DN khác để làm tăng chi phí đầu vào nếu DN này có yêu cầu mà không vượt lượng xuất của DN. Tuy nhiên, nếu áp dụng hoá đơn chứng từ cả đối với những cá nhân, đơn vị không là đối tượng kê khai nộp thuế thì cơ quan thuế các cấp lại không thuộc thẩm quyền và phạm vi xử lý nên việc đối chiếu xử lý lại càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó, việc xử lý và điều chỉnh hoá đơn chủ yếu là về phía người bán. Người bán tuy là người chủ động xuất ra các loại hoá đơn vi phạm nhưng động cơ và các khoản lợi thu từ vi phạm đó không chỉ nằm ở người bán, vì vậy những giải pháp đã đề ra cũng chỉ xử lý được phần ngọn, chưa giải quyết được triệt để tận gốc, do đó các hiện tượng vi phạm hoá đơn chưa có những chuyển biến thực sự tích cực và mang tính đột phá. Những hình thức cơ bản của việc vi phạm chế độ sử dụng hoá đơn có thể kể ra bao gồm:
+ In phát hành hoá đơn giả mẫu hoá đơn của Bộ tài chính, hoặc giả mẫu hoá đơn đặc thù của các DN đã đăng ký và được Bộ tài chính cho phép phát hành.
+ Phát hành hoá đơn tự in không đúng nội dung quy định và không đăng ký với các cơ quan thẩm quyền theo quy định.
+ Mua bán hoá đơn trái pháp luật.
+ Bán hàng, cung cấp dịch vụ, xuất hoá đơn hợp pháp không đúng với thực tế bán hàng hay dịch vụ cung cấp.
+ Dùng hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ khống về những nội dung không thực sự phát sinh để được khấu trừ, hoàn thuế hay miễn thuế bằng nhiều cách.
Chương III
Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
3.1. Nâng cao hiệu quả xác định doanh thu, chi phí chịu thuế:
a) Đối với doanh nghiệp NQD:
Tiếp tục đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán kiểm toán đối với các doanh nghiệp NQD đặc biệt đối với doanh nghiệp mới thành lập, đảm bảo 100% doanh nghiệp đều thực hiện chế độ kế toán kiểm toán, hoá đơn chứng từ và kê khai doanh thu chi phí theo quy định.
Kết hợp chặt chẽ việc kiểm tra kê khai nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế với quản lý giám sát doanh thu chi phí. Đẩy mạnh việc thực hiện kiểm tra việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán kiểm toán, hoá đơn chứng từ những doanh nghiệp khai khống giá mua hàng, bán hàng không lập hoá đơn, chứng từ hoặc lập hoá đơn chứng từ với giá thấp hơn giá thực tế khi thanh toán.
Khẩn trương kiểm tra báo cáo quyết toán thuế của các doanh nghiệp, qua kiểm tra nếu phát hiện những sai sót trong quá trình kê khai doanh thu chi phí hay thuế thu nhập doanh nghiệp cần phải có biện pháp điều chỉnh truy thu ngay.
Đối với các doanh nghiệp, Cục thuế đã phân cấp cho chi cục thuế quản lý, yêu cầu các Chi cục thuế phải trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ và kê khai nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Nghiêm cấm việc áp dụng ấn định mức doanh thu khoán không theo quy định của pháp luật.
b) Đối với hộ kinh doanh cá thể:
Đối với hộ kinh doanh lớn:
Yêu cầu Tổng cục thuế chỉ đạo các Chi cục thuế phải thống kê, phân loại và triển khai chế độ kế toán bắt buộc với tất cả các hộ kinh doanh lớn theo đúng chỉ thị số 03/2000/CT-BTC ngày 10/4/2000 của Bộ trưởng Bộ tài chính về đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán áp dụng đối với hộ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh. Quyết định số 169/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng Bộ tài chính về ban hành chế độ kế toán hộ kinh doanh và công văn số 1210 TCT/NV6 ngày 11/4/2001 của Tổng cục thuế về tăng cường thực hiện chế độ kế toán hộ kinh doanh.
Tổ chức kiểm tra việc ghi chép sổ kế toán, phát hiện kịp thời những vướng mắc để hướng dẫn, giúp đỡ hộ kinh doanh yên tâm thực hiện chế độ kế toán và hạch toán trung thực chính xác. Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện hướng dẫn nhưng cố tình vi phạm, không thực hiện, cố tình hạch toán, lập hoá đơn chứng từ giả mạo, sai thực tế phải xử phạt hành chính nghiêm minh theo các quy định của pháp luật. Nếu trong trường hợp tái phạm, Cục thuế được quyền ấn định doanh thu, thu nhập chịu thuế cao hơn so với mức bình quân của hộ kinh doanh đó, coi đó như một hình thức phạt, một mặt tăng thu ngân sách, bù lại phần tổn thất do những vi phạm trước đây gây ra, mặt kháckhuyến khích các hộ khác thực hiện đúng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ theo luật định.
Tổ chức kiểm tra chặt chẽ tờ khai nộp thuế và các báo cáo doanh thu chi phí, tờ khai chi tiết của các hộ kinh doanh. Đối với những hộ phát sinh nghi vấn, cần phải tổ chức thanh tra để xác minh tính xác thực của các số liệu trong tờ khai, phát hiện xử lý ngay nếu hộ kinh doanh vi phạm, không để hộ kinh doanh lợi dụng triển khai chế độ kế toán để gây nên thất thu thuế nhiều hơn.
Đối với hộ thu khoán:
Tổng cục đã chỉ đạo các Cục thuế phải xác định lại doanh thu đối với các hộ khoán 6 tháng cuối năm. Đề nghị cục Thuế kiểm tra các Chi cục. Đối với những Chi cục chưa làm hoặc đã làm nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phải xác định lại cho phù hợp với mức độ tăng trưởng kinh tế và phát triển sản xuất kinh doanh.
Quá trình điều tra, xác định lại doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán phải làm đúng quy trình, thực hiện công khai và không được điều chỉnh đồng loạt theo kiểu bình quân chủ nghĩa.
Ngoài ra cần thực hiện những điều chỉnh về các quy định quản lý doanh thu chi phí để công tác xác định doanh thu chi phí trong doanh nghiệp được minh bạch rõ ràng. Trước hết là việc trích khấu hao TSCĐ, theo quyết định 166/1999/ QĐ-BTC, mọi tài sản cố định của doanh nghiệp phải tính khấu hao theo đường thẳng. Thời gian khấu hao được xác định theo khung thời gian sử dụng quy định cho 8 nhóm TSCĐ, bao gồm 47 loại TSCĐ với khung thời gian từ 2 đến 50 năm. Nếu doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng khác với khung đó thì phải trình và được sự phê duyệt băng văn bản của Bộ tài chính. Tuy nhiên, như vậy sẽ hạn chế việc khấu hao nhanh, đây là thiệt thòi cho các doanh nghiệp khi khoa học công nghệ như vũ bão, các DNNQD lại là các doanh nghiệp nhỏ vốn đầu tư ít, luôn thayđổi theo nhu cầu thị trường, nếu chế độ trích khấu hao quá cứng nhắc sẽ gây nên những tổn thất cho doanh nghiệp.
Vấn đề về chi phí tiền lương tiền công, đối với các DNNQD, doanh nghiệp tư nhân, theo quy định hiện hành thì tiền lương tiền công của chủ doanh nghiệp không được tính vào chi phí nhân công của doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng có điều bất công là nếu là công ty TNHH thì tiền lương tiền công của người góp vốn và tham gia quản lý điều hành công ty lại được tính vào chi phí nhân công của doanh nghiệp. Về bản chất hai hình thức thu nhập này là như nhau vì thế chúng ta nên cho phép hạch toán khoản tiền này vào chi phí nhân công của doanh nghiệp trong mọi trường hợp nhưng nên ấn định mức khống chế tuỳ theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh quy mô và loại hình của doanh nghiệp.
Về chi phí quảng cáo tiếp thị, hiện nay nhóm chi phí này được khống chế theo tỷ lệ phần trăm của 10 khoản chi phí kế trước nó trong thông tư 18/2002/TT-BTC, đối với ngành sản xuất xây dựng và vận tải tỷ lệ này là 5%, đối với ngành thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ là 7%. Đã đành rằng Nhà nước cần khống chế mức chi phí này nhưng tiêu thức trên là chưa thực sự phù hợp. Nhiều khi doanh nghiệp tung ra thị trường sản phẩm mới họ có thể tiết kiệm và giảm thiểu chi phí khác như chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu, nhưng lại muốn chi nhiều hơn cho quảng cáo tiếp thị để có thể nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, trong trường hợp này tiêu thức khống chế tỉ lệ chi phí quảng cáo như trên là không phù hợp và cần điều chỉnh.
3.2. Về quy trình quản lý doanh thu chi phí:
Chỉ đạo các cơ quan ban ngành chức năng tiếp tục thực hiện nghiêm túc quy trình quản lý đã đề ra: như quá trình quản lý doanh thu đối với hộ khoán, quy trình quản lý doanh nghiệp tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ (hiện nay đang được bãi bỏ dần), quy trình thanh tra, kiểm tra quyết toán doanh thu chi phí, kiểm tra việc lập và sử dụng hoá đơn trong các nghiệp vụ mua bán, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp lập hoá đơn thấp hơn giá thực tế thanh toán đối với một số ngành nghề, mặt hàng, xử phạt các cơ sở kinh doanh vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ... quy trình nộp hồ sơ chứng từ và các tờ khai theo luật định.
Tiếp tục rà soát các văn bản pháp luật hiện hành để có những bổ xung, điều chỉnh trong phần hướng dẫn thủ tục kê khai doanh thu chi phí. Trong quy trình quản lý doanh thu chi phí hiện nay, ngành thuế phải thực hiện một khối lượng công việc tương đối lớn, từ việc thu thuế xét duyệt báo cáo doanh thu chi phí, ấn định các mức doanh thu cho cơ sở sản xuất kinh doanh và kiêm luôn nhiệm vụ thanh tra kiểm soát. Có nhiều công việc không đúng với chuyên môn nghiệp vụ, gặp nhiều khó khăn thậm chí đôi khi phản tác dụng. Hướng khắc phục trong thời gian tới là giao chuyên trách thanh tra kiểm soát thanh tra báo cáo kết quản sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh cho các cơ quan thuộc khối ngành kiểm toán, kiểm toán nhà nước và các công ty kiểm toán tư nhân, nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Chính phủ nên yêu cầu các DNNQD khi nộp bảng kê khai chi tiết doanh thu chi phí cho cơ quan thuế cần có xác nhận của cơ quản kiểm toán có đủ thẩm quyền. Làm như vậy vừa tận dụng được chuyên môn nghiệp vụ của ngành kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Thuế tập trung thực hiện các chức năng chính khác, khiến cho việc thống kê, kiểm tra kiểm soát được khách quan hơn tránh được những tiêu cực không đáng có. Tuy nhiên, để giao chức năng thanh tra kiểm soát doanh thu chi phí DNNQD cho ngành kiểm toán, chúng ta cần giải quyết rất nhiều khó khăn trong đó là: Hệ thống kiểm toán ở nước ta chưa thực sự phát triển, chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu kiểm toán cho toàn bộ các doanh nghiệp trong nền kinh tế, chi phí kiểm toán hiện nay tương đối cao, vấn đề về nhân sự, và một số vấn đề khác liên quan đến luật và chuẩn mực kiểm toán. Tuy nhiên, hướng phát triển trong thời gian sắp tới sẽ là đẩy mạnh việc phát triển các công ty kiểm toán, có một bộ phận kiểm toán dành riêng cho các DNNQD với quy mô vừa và nhỏ, hoạt động trong một môi trường thể chế pháp lý phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất.
Do số lượng DNNQD rất lớn đặc biệt là số lượng của các hộ kinh doanh cá thể, địa bàn phân bố rộng rải rác, nhiều khi rất khó quản lý, vì thế để công tác quản lý doanh thu chi phí nói riêng cũng như công tác quản lý tài chính nói riêng đối với DNNQD được thống nhất và hiệu quả, cần phân vùng và phân cấp quản lý thật rạch ròi cụ thể. Công tác quy hoach địa bàn, số lượng doanh nghiệp nằm trong tầm quản lý của các cơ quan phải được thực hiện nghiêm túc và mang tính phù hợp cao. Có thể kết hợp sự trợ giúp của hệ thống các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương, như UBND các cấp hay công an địa phương v.v Các cơ quan này có khả năng phát hiện và báo cáo kịp thời những biểu hiện bất hợp lý trong quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế tư nhân trên địa bàn và thực hiện công tác quản lý ở mức độ nhất định. Việc phối hợp chức năng nhiệm vụ của các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực xã hội là một điều có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với mỗi công tác quản lý nhà nước nói riêng.
3.3. Tập trung chỉ đạo tốt việc quản lý những ngành nghề và lĩnh vực mang tính đặc thù:
Đối với những hộ kinh doanh xe gắn máy, đồ điện tử, điện lạnh... tăng cường kiểm tra xác minh đối chiếu hoá đơn, chứng từ đối với các cơ sở kinh doanh các mặt hàng này vì đang bị lợi dụng lập hoá đơn không đúng với giá thanh toán. Phối hợp với cơ quan Quản lý thị trường kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, nếu kiểm tra phát hiện thu tiền nhưng không lập hoá đơn hoặc hoá đơn không đúng giá thanh toán thì căn cứ vào giá niêm yết để ấn định doanh thu, đối với những cơ sở không niêm yết giá tuỳ theo đặc điểm cụ thể, cục Thuế kết hợp với các ngành xây dựng bảng giá tối thiểu làm căn cứ để cơ quan thuế áp giá tính chi phí, doanh thu...Đồng thời kết hợp nghiêm khắc với việc xử phạt nghiêm khắc theo các quy định của pháp luật thậm chí có thể xử phạt theo tội danh gian lận thương mại.
Đối với hoạt động giao thông vận tải: các cơ quan chức năng ngành thuế phối hợp với các cơ quan khác tại địa bàn thực hiện công tác rà soát nắm địa bàn, đồng thời kết hợp với cảnh sát giao thông, Cơ quan đăng ký để rà soát nắm số lượng phương tiện có hoạt động kinh doanh, đối chiếu với số phương tiện đã kê khai của cơ sở sản xuất kinh doanh, nếu phát hiện có những phương tiện đang thực hiện kinh doanh nhưng không kê khai cần phải đưa vào dạng quản lý và thực hiện phạt doanh thu từ khi bắt đầu kinh doanh. Bên cạnh đó, phải kiểm tra chặt chẽ phương thức quản lý, phương thức hạch toán kế toán, kiểm tra việc đăng ký, sử dụng vé, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp thu tiền của khách hàng nhưng không xuất vé. Đối với HTX dịch vụ vận tải: Nếu có cung ứng dịch vụ cho xã viên thì phải kê khai doanh thu dịch vụ do HTX thu về. Các xã viên nhận khoán phải kê khai cụ thể doanh thu nhận khoán, để thuận lợi HTX đứng ra quản lý và kê khai đại diện cho các cơ quan ngành thuế.
+ Đối với các doanh nghiệp vận tải có mở các đại diện ở các địa phương khác, cần phải phối hợp với các cơ quan Thuế nơi mở đại diện để cùng kiểm tra giám sát tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Xem xét lại doanh thu, mức doanh thu chịu thuế ấn định đối với các phương tiện vận tải tư nhân, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các hộ kinh doanh vận tải tư nhân với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải.
Đối với hoạt động xây dựng tư nhân: Yêu cầu ngành thuế phối hợp chặt chẽ vơi hội đồng tư vấn, Thanh tra xây dựng kiểm tra báo cáo đầy đủ các công trình đang xây dựng thên địa bàn để phối hợp với các Chi cục thuế và các phòng quản lý chức năng khác thực hiện các chức năng quản lý doanh thu chi phí như kê khai, ước tính, định mức v.v. Để phân biệt công trình xây dựng tự làm với công trình xây dựng phải thuê thi công, căn cứ điều lệ quản lý xây dựng cơ bản Chính phủ đã ban hành đề nghị cục Thuế phối hợp sở Xây dựng hướng dẫn cụ thể loại công trình dân tự làm để cơ quan Thuế làm căn cứ không thu thuế. Nguyên tắc chung là mọi công trình từ cấp 1 đến cấp 3 đều phải do tổ chức, cá nhân có nghề xây dựng thi công, chỉ có nhà cấp 4 mới được tự tổ chức thi công.
Doanh thu tính thuế được xác định và quản lý theo hợp đồng xây dựng, trường hợp không có hợp đồng xây dựng thì căn cứ vào giá xây do Nhà nước ban hành đối với từng loại nhà để làm căn cứ ấn định giá tính thuế.
Đối với hoạt động kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ cục Thuế phối hợp với các ngành đề nghị khách sạn nhà nghỉ phải lập và cung cấp hồ sơ về sơ đồ phòng nghỉ, phải quản lý được số phòng hoạt động và lượng khách theo chế độ hoá đơn, hồ sơ phù hợp.
Cục thuế phối hợp với các cơ quan chức năng khác tổ chức kiểm tra khách nghỉ thực tế đối chiếu với việc kê khai phản ánh trên các báo cáo xem mức độ phù hợp để có những điều chỉnh hợp lý.
Trường hợp kiểm tra thực tế không phát hiện nhưng nghi vấn những khách sạn, nhà nghỉ kê khai công suất sử dụng phòng thấp, chi phí điện nước tăng thì phải cử cán bộ thanh tra, giám sát ngay để phát hiện kịp thời.
Đối với hoạt động nhà hàng, vũ trường: Phải bố trí cán bộ thuế phối hợp hội đồng tư vấn kiểm tra ngoài giờ để có căn cứ xác định đúng doanh thu thực tế.
Hiện nay, Bộ văn hoá đang chỉ đạo tổ chức kiểm tra sắp xếp lại các hoạt động vũ trường, các địa phương cần phối hợp đề nghị Uỷ ban nhân dân ban hành quy định cho các vũ trường phải thực hiện chế độ kế toán, lập hoá đơn chứng từ theo quy định, đồng thời thực hiện tổ chức kiểm tra thực hiện và xử lý nghiêm minh các vũ trường vi phạm chế độ kế toán, dùng vé tự in để thu tiền v.v
3.4. Hoàn thiện chế độ quản lý hoá đơn chứng từ:
Xét cho cùng, việc quản lý doanh thu chi phí đối với các doanh nghiệp nói chung cũng như DNNQD nói riêng chỉ có thể thực hiện hiệu quả thông qua hệ thống hoá đơn chứng từ. Công tác hoàn thiện quản lý hoá đơn chứng từ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD.
Do tính pháp lý của văn bản quy định chế độ sử dụng hoá đơn thấp hơn các văn bản pháp luật khác đã ban hành, nên chăng cần đưa nội dung sử dụng hoá đơn vào như một nội dung của Luật thương mại để chi phối toàn bộ các hành vi sử dụng hoá đơn trên diện rộng. Giao trách nhiệm điều tra, đối chiếu và xử phạt cho thanh tra viên tài chính mà cụ thể là thanh tra ngành thuế đối với các trường hợp cố tình vi phạm chế độ hoá đơn chứng từ.
Đối với việc phát hành và in hoá đơn, hiện nay theo những con số thống kê chưa đầy đủ với 29.000 công ty TNHH, hơn 3.000 DNTN và khoảng hơn 1.200.000 hộ tư nhân, sẽ là bất khả thi nếu để cho các cơ sở kinh doanh tự in và phát hành hoá đơn vì như vậy chúng ta không thể quản lý nổi, đâu là hoá đơn thật, giả, hóa đơn nào đã được Bộ tài chính cho phép lưu hành, chỉ riêng việc cấp phép in và sử dụng hoá đơn thôi đã tốn rất nhiều nhân lực vật lực. Chúng ta vẫn phải tiếp tục thực hiện theo hướng Bộ tài chính in và phát hành hoá đơn chứng từ thống nhất cho các cơ sở kinh doanh phân biệt theo các ngành nghề và các đặc điểm đặc biệt của từng loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên cần sớm đánh giá lại tình trạng sử dụng hoá đơn tự in hiện nay để có hướng xử lý phù hợp.
Phải đảm bảo quy định cho mọi trường hợp bán hàng, cung cấp dịch vụ đều phải có hoá đơn, muốn vậy cần quy định một loại hoá đơn đơn giản dùng cho tất cả các đối tượng bán hàng hoá và dịch vụ không đăng kí kinh doanh để họ có thể tiêu thụ sản phẩm . Loại hoá đơn này do người mua phát hành và do người mua ghi, người bán chỉ xác nhận những thông tin ghi trên hoá đơn. Đồng thời, cần chấn chỉnh lại hoá đơn bán hàng dùng cho những người nộp GTGT theo phương pháp trực tiếp. Các doanh nghiệp khi mua hoá đơn phải đóng dấu xác nhận quyền sử dụng của mình trên hoá đơn. Các yêu cầu về tự in và phát hành hoá đơn có thể được chấp nhận nhưng phải được quản lý chặt chẽ bằng pháp luật.
Xử lý nghiêm khắc những trường hợp cố tình vi phạm chế độ hoá đơn đã ban hành để trốn lậu thuế, chiếm đoạt tài sản cũng như gian lận kinh tế.
3.5. Tăng cường công tác kế toán kiểm toán:
Thực hiện nghiêm túc chế độ lập và báo cáo tài chính theo hướng tăng số lần báo cáo trong năm tài chính tối thiểu là 2 lần trong một năm tài chính. Cần có cơ quan chuyên trách về công tác kiểm toán các báo cáo tài chính cho DNNQD và thậm chí là các hộ kinh doanh cá thể tuy nhiên mức độ và mô hình tổ chức có thẻ thay đổi linh hoạt phù hợp với từng loại hình kinh tế.
Về phía nhà nước, ngay sau khi doanh nghiệp được thành lập, cần hướng dẫn cụ thể những vấn đề quản lý tài chính, kế toán mà doanh nghiệp đăng ký thực hiện (có thể hướng dẫn bằng văn bản hoặc qua cơ quan đăng ký kinh doanh). Nâng cao toàn diện chất lượng công tác thanh tra tài chính, thanh tra thuế, tránh thanh tra hình thức và xử phạt nghiêm minh các trường hợp mua bán hoá đơn chứng từ. Triển khai rộng rãi việc cung cấp hoá đơn bán lẻ không thu tiền cho các cá nhân không đăng ký kinh doanh khi họ cung cấp hàng hoá dịch vụ của mình cho các doanh nghiệp. Tiếp tục khắc phục các kẽ hở trong việc hoàn thuế giá trị gia tăng, thu thuế TNDN.
Thực hiện việc hoàn thiện Luật kế toán phải thống nhất phù hợp với các bộ luật khác, chẳng hạn luật doanh nghiệp, vì hiện nay Luật doanh nghiệp quy định các doanh nghiệp phải báo cáo tình hình tài chính vơi cơ quan đăng ký kinh doanh trong khi Pháp lệnh Kế toán-Thống kê không quy định vấn đề này
Tăng cường hướng dẫn bồi dưỡng về nghiệp vụ tài chính kế toán, kiểm toán cho các doanh nghiệp để hướng các DNNQD hạch toán chính xác kết quả sản xuất kinh doanh, nhằm tạo ra một nền tài chính lành mạnh vững chắc trong các doanh nghiệp, thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh về kế toán thống kê của nhà nước.
3.6. Các giải pháp hỗ trợ khác:
Sửa đổi bổ sung một số điểm còn sơ hở trong các quy định của luật doanh nghiêp đang bị một số doanh nghiệp và cá nhân lợi dụng, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp và cá nhân khác cũng như gây nên những khó khăn cho công tác quản lý doanh thu chi phí. Ví dụ như quy định về địa điểm kinh doanh hay địa điểm đặt trụ sở cần chặt chẽ hơn, tránh tình trạng như hiện nay, doanh nghiệp không có hiện diện tại địa điểm quản lý đăng ký kinh doanh quá nhiều, hoặc khai không đúng địa điểm kinh doanh dẫn đến các cơ quan chức năng rất khó quản lý.
Tăng cường công tác quản lý tiền mặt, quản lý thanh toán, yêu cầu tất cả các tổ chức và cá nhân kinh doanh đều phải mở tài khoản tại Ngân hàng, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, có như vậy mới quản lý đầy đủ doanh thu, chi phí, và phát huy chức năng thủ quỹ của doanh nghiệp của ngân hàng.
Sớm ban hành Luật kế toán để nâng cao tính pháp lý của các đối tượng kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải chấp hành nghiêm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ.
Nâng cao công nghệ quản lý doanh thu chi phí cho các cơ quan chức năng của Nhà nước, ứng dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý doanh thu chi phí.
Tất nhiên để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên chúng ta cũng cần duy trì được sự ổn định kinh tế xã hội trong nước, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.
Bên cạnh đó là công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác quản lý doanh thu chi phí.
Cải tiến và nâng cấp hệ thống ngân hàng để có thể đáp ứng được nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt của nền kinh tế.
Kết luận
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới, kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã phát huy mạnh mẽ theo đường lối, chiến lược của Đảng và Nhà nước. Đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà nước, trong đó vẫn khẳng định vai trò trụ cột, quan trọng nhất của kinh tế Nhà nước. Bên cạnh đó, khu vực kinh tế NQD là khu vực kinh tế có tiềm năng phát triển rất lớn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là rất phù hợp và mang tính tât yếu khách quan trong điều kiện nền kinh tế đang chuyển đổi ở nước ta hiện nay. Khu vực kinh tế NQD đã và đang có những đóng góp to lớn vào ngân sách nhà nước cũng như thành quả tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, nạn thất thu thuế và những khó khăn bất cập trong cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế này vẫn còn tồn tại và cần được khắc phục trong thời gian tới.
Trong đề tài này, bằng phương pháp diễn giải, tổng hợp logic, em đã cố gắng trình bày một cách hợp lý về cơ sở lý luận cũng như hiện trạng cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế NQD ở nước ta hiện nay. Từ đó, đề xuất và kiến nghị một số giải pháp nhất định. Hi vọng rằng những gì đề tài của em đã thực hiện sẽ có ích trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý doanh thu chi phí DNNQD, làm cơ sở để đẩy lùi nạn thất thu thuế và những tiêu cực khác trong khu vực kinh tế NQD.
Do những hạn chế khách quan và chủ quan, kiến thức bản thân chưa thấu đáo, thời gian và phạm vi hạn hẹp, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy em xin được ghi nhận và tiếp thu những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo:
- "Báo cáo kinh tế Việt Nam 1998", Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng,3-1999
- "Báo cáo một số nét về thực trạng hiện nay của khu vực kinh tế t nhân ở Việt Nam" , Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng,1-1999
- Tổng cục thống kê: Chỉ tiêu kinh tế xã hội ở Việt Nam 1990-1995, Nxb. Thống kê, Hà nội, 1-1997.
- Báo cáo kinh tế của Ban kinh tế Trung ơng:"Về kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế t nhân...", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội,5-1999
- Tổng cục Thống kê:"Kinh tế xã hội Việt Nam - thực trạng xu thế và giải pháp", Nxb.Thống kê, Hà Nội, 1996, tr 225
- Báo cáo của Ban kinh tế Trung ơng:"Một số chỉ tiêu cơ bản của 5 thành phần kinh tế", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 5-1999
- Báo cáo: Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế t nhân và định hớng doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010, Hà Nội,3-1999.
- Các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần V,VI,VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1982,1987, và 1994 (các năm tơng ứng).
- Các Tạp chí tài chính 7/2002, 5/2002, 12/2002
- Tạp chí tài chính doanh nghiệp ( Tạp chí chuyên ngành do Bộ tài chính phát hành) các số 9/2000, 10/2000, 4/2001
Và một số các tạp chí và tài liệu có liên quan khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT112.docx