Tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Qua hơn 18 năm kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hình thành và không ngừng phát triển mạnh mẽ, có mặt trên khắp các tỉnh thành trong cả nước, hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (từ đây về sau gọi tắt là doanh nghiệp FDI) được coi là nhân tố quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh cho thị trường trong nước, làm nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển đất nước, tạo điều kiện cho Việt nam hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, cùng với việc mở cửa, đẩy mạnh môi trường đầu tư, nhà nước đã có những chính sách thuế và ưu đãi nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thông qua quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều ưu điểm, và có tính khả thi cao. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình mới như đẩy mạnh công nghiệp h...
124 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Qua hơn 18 năm kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hình thành và không ngừng phát triển mạnh mẽ, có mặt trên khắp các tỉnh thành trong cả nước, hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (từ đây về sau gọi tắt là doanh nghiệp FDI) được coi là nhân tố quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh cho thị trường trong nước, làm nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển đất nước, tạo điều kiện cho Việt nam hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, cùng với việc mở cửa, đẩy mạnh môi trường đầu tư, nhà nước đã có những chính sách thuế và ưu đãi nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thông qua quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều ưu điểm, và có tính khả thi cao. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình mới như đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập ngày càng sâu rộng, yêu cầu thu hút đầu tư nước ngoài đòi hỏi chính sách thuế cần phải đổi mới và hoàn thiện. Thực tế, chính sách thuế đã bộc lộ nhiều nhược điểm như: vấn đề ưu đãi đầu tư (theo ngành, theo vùng), sự phân biệt doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, sự nhất quán và hiệu quả thực hiện của chính sách thuế, cũng như tính minh bạch của từng chính sách, đặc biệt là một trong những nguyên tắc hội nhập quốc tế là sự bình đẳng, không phân biệt. Vì vậy, hoàn thiện chính sách thuế là đề tài mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa thời sự.
Với ý nghĩa đó, tác giả tập trung nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam", góp phần giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn nêu trên.
Mục đích nghiên cứu
- Góp phần làm rõ lý luận về vị trí vai trò của hoạt động FDI trong nền kinh tế thị trường tính cạnh tranh cao và trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời nêu lên sự tác động của chính sách thuế của nước sở tại đối với hoạt động đầu tư này;
- Hệ thống hoá và phân tích một số chính sách thuế như chính sách thuế nhập khẩu và các chính sách thuế nội địa, cũng như các hình thức ưu đãi thường được sử dụng trong chính sách thuế đối với hoạt động FDI;
- Nêu những tồn tại và nguyên nhân trong hệ thống chính sách thuế nói chung ở nước ta. Kết hợp với các quan điểm hoàn thiện chính sách thuế của nhiều chuyên gia nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu và các chính sách thuế nội địa khác, từ đó góp phần cho việc đề xuất các định hướng, các quan điểm đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế phù hợp với quan điểm và mục tiêu về đầu tư nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng chính của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính sách thuế và các giải pháp hoàn thiện các chính sách này đối với hoạt động FDI ở Việt Nam phù hợp với quan điểm và mục tiêu về đầu tư nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
Chính sách thuế là một công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế của một quốc gia, bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội. Chính sách thuế là chính sách chung đối với tất cả các loại doanh nghiệp, tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu chính sách thuế đối với hoạt động FDI tại Việt nam, đó là: Nêu tác động của thuế đối với doanh nghiệp FDI; hệ thống hoá và phân tích các chính sách thuế hiện hành của nhà nước; phân tích những hạn chế còn tồn tại trong chính sách thuế nói chung, làm sáng tỏ và đánh giá đúng nguyên nhân của những hạn chế đó; nêu quan điểm hoàn thiện chính sách thuế và các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách này đối với hoạt động FDI ở Việt Nam.
Phương pháp cơ bản và chủ yếu được vận dụng để nghiên cứu đề tài này là phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời kết hợp với các phương pháp cụ thể khác như: thống kê so sánh, tổng hợp phân tích các dữ liệu thực tế. Ngoài ra còn vận dụng các quan điểm lý luận của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế trong sự nghiệp đổi mới.
ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
- Hệ thống hoá một số vấn đề về các doanh nghiệp FDI và tác động của thuế đối với các doanh nghiệp FDI.
- Khẳng định vai trò quan trọng của các doanh nghiệp FDI trong mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách thuế hiện hành đối với doanh nghiệp FDI trong thời gian qua, làm sáng tỏ và đánh giá những nguyên nhân còn tồn tại trong hệ thống các chính sách đó, nâng cao mức độ ảnh hưởng của của hệ thống chính sách thuế, tạo tiền đề cho các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế đối với hoạt động FDI ở Việt nam.
- Một số đề xuất góp ý và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống các chính sách thuế đối với hoạt động FDI ở Việt nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài và chính sách thuế đối với hoạt động đó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;
Chương 2: Thực trạng chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam;
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động FDI tại Việt Nam phù hợp với quan điểm, mục tiêu về đầu tư nước ngoài và mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010.
Chương 1: Một số vấn đề về hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài và chính sách thuế đối với hoạt động đó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Một số vấn đề về hoạt động ĐầU TƯ TRựC TIếP của NƯớC NGOàI TạI VIệT NAM
Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh trong đó vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh lời.
Trong đầu tư quốc tế thường có hai hay nhiều bên có quyết định khác nhau cùng phối hợp với nhau để triển khai một dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Khác với hoạt động thương mại quốc tế có thể chỉ diễn ra theo từng vụ việc, đầu tư quốc tế là một quá trình được kéo dài, có trường hợp 30 năm, 50 năm, hoặc lâu hơn nữa. Vốn đầu tư quốc tế có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như bằng các loại tiền mặt hoặc giấy tờ có giá trị, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, quyền sử dụng đất, các sáng chế phát minh, bí mật công nghệ, nhãn hiệu hàng hoá,… Lợi ích do hoạt động đầu tư mang lại thường là lợi ích kinh tế, đồng thời còn có cả lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá xã hội, lợi ích về bảo vệ môi trường sinh thái,…
Vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính: Đầu tư của tư nhân và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế.
- Đầu tư của tư nhân: Được thể hiện dưới 3 hình thức:
Đầu tư trực tiếp: Chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hoặc phần lớn vốn vào các dự án nhằm dành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại.
Đầu tư gián tiếp: Chủ đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các công ty ở nước sở tại (ở mức nhất định) để thu lợi nhuận, không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Tín dụng thương mại: Cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay, phát hành trái phiếu.
- Hỗ trợ phát triển chính thức ODA:
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại (cho vay dài hạn với một thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của Chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (như Ngân hàng thế giới - WB, Ngân hàng phát triển Châu á - ADB, Qũy tiền tệ quốc tế - IMF,…) dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ phát triển trên được gọi là đối tác viện trợ nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức của đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đầu tư lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh với mục đích sinh lời (hoặc công ích).
Doanh nghiệp có đặc điểm là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân, mục đích kinh doanh là thu lợi nhuận (hoặc công ích). Tại Việt Nam, các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật ĐTNN tại Việt Nam, Luật hợp tác xã.
Trong nền KTTT các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng và bao gồm rất nhiều loại, trong đó có doanh nghiệp FDI.
Doanh nghiệp FDI là những loại hình doanh nghiệp có vốn của bên nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài. Doanh nghiệp này hoạt động theo pháp luật của nước sở tại để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích cho các bên. Trong đó, các đối tác có quốc tịch khác nhau và bên nước ngoài có tỷ lệ góp vốn tối thiểu để trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp.
Đặc điểm của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phạm trù chỉ tất cả các loại hình doanh nghiệp có vốn bên nước ngoài ở nước tiếp nhận đầu tư. Doanh nghiệp FDI bao gồm nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau nhưng chúng đều có các đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp FDI là những tổ chức kinh doanh quốc tế và là những pháp nhân của nước nhận đầu tư, hoạt động theo luật pháp nước nhận đầu tư, các hiệp định và các điều ước quốc tế.
- Các doanh nghiệp FDI không chỉ gắn liền với việc di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, tại thị trường mới cho cả hai bên đầu tư và nhận đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tùy theo quy định của luật đầu tư của từng nước, ví dụ như Luật đầu tư của Việt Nam quy định “số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án”. Hay Luật đầu tư của nước Nam Tư trước đây quy định “phần của bên đối tác nước ngoài đóng góp không dưới 5% tổng số vốn đầu tư”. Trong khi đó ở Hàn Quốc Luật quy định tối đa bên phía nước ngoài góp 40% vốn pháp định.
- Quyền điều hành doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Nếu góp vốn 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận mà các chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của doanh nghiệp và được phân chia cho các nhà đầu tư sau khi nộp thuế và chi trả cổ tức.
- Các hình thức biểu hiện của doanh nghiệp FDI như sau:
Đóng góp vốn để xây dựng xí nghiệp mới;
Mua lại toàn bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang hoạt động;
Mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp FDI mà các doanh nghiệp khác trong nước không có. Nhờ các đặc điểm này mà chúng ta có thể nhận diện được doanh nghiệp FDI dù chúng hoạt động ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Các hình thức đầu tư FDI cơ bản tại Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nay đã trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất, lưu thông và được tăng cường mạnh mẽ. Có thể nói trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại không cần đến FDI, và coi đó là nguồn lực quốc tế cần khai thác để từng bước hội nhập quốc tế. ở Việt Nam, các dự án đầu tư nước ngoài hiện đã chiếm tới 35% giá trị sản lượng công nghiệp và tồn tại dưới các hình thức đầu tư khác nhau, cụ thể như sau:
Thứ nhất: căn cứ vào tỷ trọng vốn góp của bên nước ngoài vào vốn pháp định, doanh nghiệp FDI được chia ra làm hai loại cơ bản:
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân, trong đó các nhà ĐTNN góp 100% vốn pháp định, tự quản lý doanh nghiệp và tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập ở Việt Nam đã được hợp tác với nhau và / hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới ở Việt Nam.
- Hình thức tổ chức hoạt động: Là công ty TNHH pháp nhân Việt Nam
- Vấn đề vốn đầu tư, vốn pháp định và quản trị doanh nghiệp được quy định trong Luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.
Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Theo Luật kinh doanh của Hoa Kỳ thì: “Liên doanh là một quan hệ bạn hàng trong đó hai hoặc nhiều chủ thể cùng đóng góp lao động và tài sản để thực hiện một mục tiêu đặt ra và cùng chia sẻ các khoản lợi nhuận và rủi ro ngang nhau hoặc do các bên thoả thuận”.
Theo một quan điểm khác: “Doanh nghiệp liên doanh là một tổ chức kinh doanh hợp nhất hoặc liên kết, được thành lập ở nước sở tại và hoạt động theo luật pháp nước sở tại, trong đó các bên tham gia có quốc tịch khác nhau (OECD).
Cũng theo một quan điểm khác: Liên doanh là một tổ chức kinh doanh hợp nhất hoặc liên kết, được thành lập ở nước sở tại và hoạt động theo luật pháp nước sở tại, trong đó các bên tham gia có quốc tịch khác nhau (OECD).
Quan điểm này chưa chỉ ra được bản chất kinh doanh của DNLD.
- Theo Luật ĐTNN tại Việt Nam, thi DNLD là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh, hoặc hiệp định ký giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà ĐTNN trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Khái niệm này nhấn mạnh khía cạnh pháp lý của liên doanh và các trường hợp thành lập liên doanh nước ngoài mà chưa chỉ rõ bản chất kinh doanh của các liên doanh.
- Các cách thức hình thành doanh nghiệp liên doanh:
o Doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp hoặc cá nhân nước ngoài (có thể nhiều bên).
o Doanh nghiệp Việt Nam đã được thành lập ở Việt Nam với:
Nhà đầu tư nước ngoài;
Cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học hoặc đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định;
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
Doanh nghiệp liên doanh;
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập trên cơ sở một Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước khác.
- Hình thức tổ chức hoạt động của doanh nghiệp liên doanh:
o Công ty TNHH pháp nhân Việt Nam
o Công ty Cổ phần pháp nhân Việt Nam
- Vấn đề góp vốn liên doanh và quản trị doanh nghiệp được quy định cụ thể trong Luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.
Hình thức Hợp đồng Hợp tác kinh doanh (BCC)
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký giữa ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Nghĩa vụ nộp thuế của các bên hợp doanh
o Bên hợp doanh nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo Luật đầu tư nước ngoài; Bên hợp doanh Việt Nam thực thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của Pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước.
o Thuế TNDN và các nghĩa vụ tài chính khác của các Bên hợp doanh (gồm cả tiền thuê đất, thuế tài nguyên…) có thể được tính gộp vào phần sản phẩm được chia cho Bên hợp doanh Việt Nam và Bên hợp doanh Việt Nam có trách nhiệm nộp cho Nhà nước.
- Vấn đề điều hành hoạt động, hợp tác kinh doanh, thành lập văn phòng ban điều hành được quy định cụ thể trong Luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNLD và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài bị tác động rất lớn bởi các yếu tố của môi trường kinh doanh ở nước nhận đầu tư, như trình độ nền kinh tế nơi doanh nghiệp đang hoạt động, mức độ cạnh tranh trong ngành hàng (lĩnh vực) mà doanh nghiệp đang tiến hành các hoạt động kinh doanh, thị trường lao động, các yếu tố văn hoá trong kinh doanh.
Thứ hai: căn cứ vào loại hìnhh pháp lý của doanh nghiệp FDI: Có thể chia các doanh nghiệp này thành 3 loại chính:
Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI: Là một loại hình công ty đối vốn, gồm các thành viên liên kết với nhau để kinh doanh trên cơ sở bản điều lệ công ty, trong đó các thành viên thoả thuận hình thức góp vốn, phân chia kết quả kinh doanh và quyền quản lý doanh nghiệp giữa các thành viên.
Công ty đối vốn là công ty trong đó các thành viên cùng góp vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh và mỗi thành viên chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn góp của mình đối với các khoản nợ của công ty, tức là chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn.
Công ty TNHH có vốn FDI có đặc điểm giống với công ty TNHH như các vấn đề về ghóp vốn, chuyển nhượng vốn,… được quy định giống như quy định đối với công ty TNHH nói chung.
Hình thức công ty TNHH chỉ thích hợp với gai đoạn đầu trong hoạt động doanh nghiệp và thường được áp dụng ở những nước thiếu vốn và ít kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh.
Công ty cổ phần có vốn FDI: Là một loại công ty đối vốn, trong đó các thành viên (cổ đông) có cổ phiếu và chỉ chịu trách nhiệm đến hết giá trị những cổ phần mà mình nắm giữ.
Theo Nghị định số 38/2003/NĐ-CP ngày 15/04/2003 của Chính phủ thì công ty cổ phần có vốn FDI là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là “cổ phần”; trong đó các cổ đông sáng lập nước ngoài nắm giữ ít nhất 30% vốn điều lệ.
Công ty cổ phần có vốn FDI có các đặc điểm cơ bản giống công ty cổ phần nói chung: vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cổ phần được trao đổi trên thị trường chứng khoán được gọi là cổ phiếu. Công ty cổ phần được phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu. Số cổ phiếu tối thiểu mà cá thành viên HĐQT phải có không được chuyển nhượng trong suốt thời gian tại chức và trong thời gian 2 năm kể từ ngày thôi giữ chức thành viên HĐQT. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty.
Công ty sở hữu hoàn toàn và công ty sở hữu chung: Công ty sở hữu hoàn toàn là công ty có trên 95% vốn thuộc quyền sở hữu của một thành viên nào đó. Còn ngược lại thì được coi là công ty sở hữu chung.
Ngoài ra còn có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại các doanh nghiệp FDI như:
Căn cứ lĩnh vực đầu tư, các doanh nghiệp FDI chia thành các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Căn cứ vào tính chất của SXKD, các doanh nghiệp FDI chia thành doanh nghiệp FDI chuyên khai thác; doanh nghiệp FDI chuyên hoạt động chế biến và doanh nghiệp FDI hoạt động phục vụ.
Căn cứ vào địa giới hành chính: các doanh nghiệp FDI hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như Hà Nội, TP. Hồ Chính Minh…, các doanh nghiệp FDI ở tỉnh Bình Dương, Thanh Hoá,...
Qua phân tích các đặc điểm và bản chất của hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài, ta có thể rút ra những ưu điểm, những nhược điểm của hình thức này như sau:
Ưu điểm của hình thức FDI:
- Về phía chủ đầu tư:
Khai thác những lợi thế của nước chủ nhà về: Tài nguyên, lao động, thị trường,… để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Đối với các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia thì việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp họ thực hiện bành trướng, mở rộng thị phần và tối ưu hoá hạch toán doanh thu, chi phí, lợi nhuận,…thông qua hoạt động chuyển giá.
Giảm chi phí kinh doanh khi đặt cơ sở sản xuất, dịch vụ gần vùng nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ.
Tránh được hàng rào bảo vệ mậu dịch ngày càng tinh vi, vì xây dựng được cơ sở kinh doanh nằm “trong lòng” các nước thực thi chính sách bảo vệ mậu dịch.
FDI cho phép chủ đầu tư tham gia trực tiếp kiểm soát và điều hành doanh nghiệp mà họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho chủ đầu tư.
Thông qua FDI, các nhà đầu tư nước ngoài tham dự vào quá trình giám sát và đóng góp việc thực thi các chính sách mở cửa kinh tế theo cam kết thương mại và đầu tư song phương và đa phương của nước chủ nhà.
- Về phía nước tiếp nhận đầu tư:
Giúp tăng cường khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà.
Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài.
Nhờ có vốn đầu tư nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất, mặt nước,…
Sự canh tranh, ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước ngoài tạo động lực kích thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp và đây là nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao.
Các dự án FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao mức sống của người lao động.
Nhược điểm của hình thứcFDI:
Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị thì chủ đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn.
Nước chủ nhà nếu không có một quy hoạch thu hút vốn FDI, đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì hiện nay ở các nước tư bản phát triển thực hiện sự kiểm soát gay gắt những dự án gây ô nhiễm môi trường, nên xu thế nhiều nhà tư bản nước ngoài đã và đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nước kém phát triển.
Phân biệt doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp khác
Giữa hai loại doanh nghiệp này có sự khác nhau ở một số khía cạnh chính sau đây:
- Về nguồn vốn: Một loại doanh nghiệp chỉ có vốn trong nước, không có vốn của nước ngoài còn loại doanh nghiệp kia lại có vốn của bên nước ngoài và do bên nước ngoài trực tiếp quản lý doanh nghiệp.
- Về cơ sở pháp lý: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hoạt động theo khuôn khổ pháp luật trong nước. Còn doanh nghiệp FDI vừa phải tuân thủ luật pháp trong nước vừa phải tuân thủ luật pháp nước chủ nhà và luật pháp quốc tế.
- Về quan hệ lợi ích trong doanh nghiệp: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đại diện cho lợi ích của một quốc gia. Còn doanh nghiệp FDI đại diện cho lợi ích của đa quốc gia.
- Chính sách của nhà nước đối với các doanh nghiệp này cũng khác nhau, như: chính sách ưu đãi đầu tư, một số chính sách thuế, chính sách quản lý ngoại hối,…
- Các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam có Thông tư hướng dẫn riêng thực hiện các vấn đề về nghĩa vụ thuế với nhà nước.
- Về mức độ phức tạp trong quan hệ của doanh nghiệp: Do sự khác biệt về trình độ quản lý, nền văn hoá xuất thân của các đối tác trong các doanh nghiệp FDI nên mức độ phức tạp trong quan hệ của các doanh nghiệp này cao hơn rất nhiều so với trong các doanh nghiệp có vốn trong nước.
Ngoài những sự khác biệt trên đây, giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước còn có sự khác biệt về các mặt thuận lợi và bất lợi trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh. Các nhà quản lý dù ở cương vị nào cũng cần nhận thức rõ sự khác biệt này để có các giải pháp phù hợp trong quá trình quản lý các loại hình doanh nghiệp khác nhau trong cùng một quốc gia.
VAI TRò Và Sự ĐóNG GóP CủA HOạT ĐộNG ĐầU TƯ TRựC TIếP NƯớC NGOàI ĐốI VớI CÔNG CUộC PHáT TRIểN KINH Tế ở VIệT NAM
Đầu tư nước ngoài trên thế giới vấn tiếp tục gia tăng ở mức độ cao hơn mức độ gia tăng thương mại quốc tế (trên 10%) với những thay đổi đáng kể trong cơ cấu chủ đầu tư, cơ cấu lĩnh vực đầu tư cũng như tính đa phương và đa chiều, đa hình thức của hoạt động đầu tư quốc tế. Sự thành công của các nước tiếp nhận đầu tư phản ánh các dòng vốn ồ ạt đổ vào các thị trường đầu tư mới nổi lên trong những năm gần đây, đồng thời cũng thể hiện quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang hệ thống tài chính toàn cầu thông thoáng hơn. Tuy nhiên, các quốc gia trước hết là các nước đang phát triển, cũng cần phải thận trọng hơn trước sự tiếp nhận với quy mô ngày càng lớn các dòng vốn nói trên vì bản thân sự vận động của chúng rất dễ bị tổn thương do sự nhạy cảm của thị trường vốn quốc tế, vì những ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển bền vững cũng như những hậu quả tiêu cực khác có thể xẩy ra trong hoạt động đầu tư quốc tế.
FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư quốc gia, mà nguồn vốn trong nước xét tổng thể có ý nghĩa nhất định, FDI không thay thế được các nguồn đầu tư khác nhưng có thế mạnh riêng của nó. Trong những năm trước khi nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI chiếm vị trí quan trọng góp phần cải tiến dần cơ cấu kinh tế quốc dân. FDI là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Rõ ràng, FDI khác với ODA là không gây ra tình trạng nợ nần cho các thế hệ mai sau, khi bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam chủ đầu tư buộc phải quan tâm làm cho tiền trở thành tư bản. Trong quan hệ kinh doanh với các đối tác nước ngoài, Việt Nam thực hiện nguyên tắc “được cùng ăn, thua cùng chịu” theo tỷ lệ vốn góp.
Cho nên vai trò tích cực của FDI được phát huy đến mức nào tuỳ thuộc chủ yếu vào những điều kiện bên trong của đất nước, đòi hỏi những cố gắng chủ quan của chúng ta trong quản lý nhà nước cũng như trong SXKD, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư cho FDI, nhằm tăng cường thu hút và sử dụng vốn FDI với hiệu quả cao nhất.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tính đến nay đã có hiệu lực gần 18 năm, kể từ tháng 12 năm 1997 hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế và cả xã hội được thể hiện qua các mặt:
Doanh nghiệp FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế.
Tính đến tháng 3 năm 2004 Chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép cho hơn 5.400 dự án đầu tư nước ngoài, trừ các dự án hết thời hạn hoạt động hoặc bị giải thể, hiện còn 4.376 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 4,1 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư này tạo ra một lực mạnh mẽ cho nền kinh tế: Các dự án đầu tư FDI hiện chiếm 35% giá trị sản lượng công nghiệp của Việt Nam, cụ thể: Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 100% các dự án khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ôtô, sản xuất máy giặt, tủ lạnh máy điều hoà, thiết bị văn phòng, máy vi tính. Các dự án FDI chiếm tới 60% sản lượng thép cán, 55% sản xuất sợi các lợi phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may; 4% sản lượng sản xuất ra da và giầy dép; 76% dụng cụ y tế chính xác; 35% về sản xuất máy móc thiết bị điện; 28% trong tổng sản lượng xi măng; 25% về thực phẩm đồ uống;…
Theo Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong Qúy 1 năm 2005 đã đạt hơn 1,56 tỷ USD, gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ năm 2004, trong đó tổng vốn đầu tư của các dự án mới đạt hơn 1,2 tỷ USD. Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong 2 tháng đầu năm 2005, khu vực đầu tư FDI ước xuất khẩu được 2,401 tỷ USD (gồm cả dầu thô), tăng 27,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu không tính dầu thô doanh nghiệp FDI xuất khẩu đạt 1,384 tỷ USD trong 2 tháng đầu năm 2004. Trong khi đó, xuất khẩu của kinh tế trong nước ước đạt 1,677 tỷ USD, chỉ tăng 6,9% so với 2 tháng đầu năm 2004.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Thời kỳ 1991-1995 vốn FDI chiếm 25% tổng vốn đầu tư xã hội
Thời kỳ 1996-2000 tăng 1,8 lần so với giai đoạn trước đó chiếm 24% tổng vốn xã hội.
“ Số liệu lấy từ trang Web của bộ khoa học và đầu tư: www.mpi.gov.vn”
Ngay khi Chính phủ thực hiện chính sách mở cửa: Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu đến 30% vốn cổ phần trong các công ty Việt Nam, cổ phần của các thương hiệu mạnh trên sàn giao dịch được các nhà đầu tư nước ngoài, các qũy đầu tư tài chính kể cả ngân hàng nước ngoài tìm mua gần hết. Các nhà đầu tư nước ngoài rất muốn được nắm giữ cổ phần trong các công ty Việt Nam có thương hiệu nổi tiếng trong nước và nước ngoài, họ hy vọng Chính phủ sẽ nới rộng tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với các nhà đầu tư nước ngoài từ 30% lên 49% và thậm chí là 100% ở những kinh doanh không quan trọng. Rõ ràng thị trường đầu tư cổ phần đang là một kênh huy động vốn FDI hiệu quả.
Bảng 1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư (1988-2003)
(Tính đến ngày 31/12/2003 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: US Dollar.
Hình thức đầu tư
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
Vốn đầu tư thực hiện
BOT
6
1.370.125.000
411.385.000
912.897.119
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
158
3.873.452.177
3.289.410.174
5.243.381.069
100% vốn nước ngoài
3.007
17.285.639.504
7.710.901.629
8.395.422.590
Liên doanh
1.153
18.265.637.941
7.141.465.000
10.049.488.040
Tổng số
4.324
40.794.854.622
18.553.161.803
24.601.188.818
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bảng 1.2 Tốc độ tăng vốn của các doanh nghiệp
có đến 1/7/2002 so với 1/7/1995
Đơn vị: %
So với 1995
Bình quân năm
So với 2001
Tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp
Doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp FDI
324,2
249,5
982,0
480,8
22,9
19,6
40,5
28,6
14,5
9,0
42,4
14,0
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt nam ngày 20/01/2003.
Các dự án FDI ngoài góp phần tăng thu ngân sách, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia.
Hàng ngàn dự án đang hoạt động, đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng GDP của Việt Nam.
Năm 1993 dự án FDI chiếm 3.3% GDP.
Năm 1995 dự án FDI chiếm 6.3% GDP
Năm 1999 dự án FDI chiếm 10.1% GDP
Năm 2000-2004 dự án FDI chiếm 13% GDP.
Giai đoạn 1996-2000 thu từ khu vực FDI chiếm tới 6-7% nguồn thu ngân sách quốc gia. Như vậy các dự án FDI đóng góp đáng kể nguồn thu ngân thu ngân sách quốc gia.
Bảng 1.3: Đóng góp của các dự án FDI đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam
FDI
89-90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
2000
2001
2002
Tỷ trọng trong GDP (%)
1.0
1.5
2.0
3.6
6.1
6.3
7.4
9.1
10
12.2
13.2
13.5
13.8
Tốc độ tăng cụng nghiệp
45.6
40.4
13.6
12.8
8.8
21.7
23.2
24.4
20
23
12.1
14
Tỷ trọng trong cụng nghiệp
22.4
26.2
26.2
26.2
28.1
26.2
28.9
32
34.4
36
35.4
35
Nguồn: www.oneconomy.com.vn/statistic
Ngoài ra với hoạt động xuất khẩu các dự án đầu tư FDI góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam: Không kể dầu khí thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài thời kì 1991-1995 đạt trên 1.2 tỷ USD.
Thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10.6 tỷ USD.
Năm 2001 đạt 3.67 tỷ USD.
Năm 2002 đạt 4.5 tỷ USD.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng do các dự án FDI thực hiện như:
- Xuất khẩu dầu thô chiếm 100%
- Dầy dép 42%
- Hàng dệt may 25%
- Hàng điện tử máy vi tính và linh kiện 84%
Tỷ trọng trị giá hàng xuất khẩu so với doanh thu của các dự án FDI tăng nhanh 30% ở thời kỳ1991-1995 chiếm 48% thời kỳ 1996-2000 và đạt 50% năm 2002, trên 50% năm 2003.
Bảng 1.4: Kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI
FDI
91
92
93
94
95
96
97
98
99
2000
2001
2002
Xuất khẩu
52
112
260
352
336
788
1790
1982
2547
3300
3670
4500
Xuất khẩu so với doanh thu %
34.4
49.1
53.3
34.3
16.3
28.7
46.9
50.7
55.4
53.5
48.1
50.0
Nguồn: www.vneconomy.com.vn/sta
Xuất khẩu không kể dầu thô.
Các dự án FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
ở những năm 1988 - 1995, FDI chủ yếu thực hiện trong các ngành kinh doanh bất động sản, xây dựng khách sạn, khu nghỉ mát, khu chế xuất, văn phòng cho thuê. Sang thời kỳ 1996 - 2003, FDI thực hiện nhiều hơn vào các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ: chiếm 53% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện; các dự án đầu tư vào dịch vụ bưu chính viễn thông, dụng cụ kỹ thuật tăng 1,4 lần ở thời kỳ này (Nguồn: www.mpi.gov.vn). Hiện đầu tư nước ngoài chiếm 35% sản lượng công nghiệp ở Việt Nam với tốc độ tăng trưởng hàng năm trến 20%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu chế xuất và khu công nghiệp ở Việt Nam, và góp phần đáng kể trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Các dự án FDI đóng góp quan trọng trong việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam.
Về lý thuyết, cùng với dòng vốn FDI vào Việt Nam, các doanh nghiệp FDI sẽ là một nguồn chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý cho người lao động Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam làm việc trong môi trường có sự tương tác với các doanh nghiệp, nhà quản lý nước ngoài. Thông qua tiếp nhận công nghệ chuyển giao từ FDI, quốc gia sở tại có thế nâng cao được năng lực công nghệ địa phương để cải thiện triển vọng tăng trưởng lâu dài của nền kinh tế. Mức độ của ảnh hưởng của chuyển giao công nghệ là yếu tố quyết định lợi ích lâu dài và bền vững của FDI đối với nền kinh tế nước sở tại. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng chuyển giao công nghệ mạnh hay yếu lại phụ thuộc rất nhiều vào môi trường chính sách và năng lực công nghệ địa phương. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy ảnh hưởng chuyển giao công nghệ sẽ được thực hiện hoá nếu nền kinh tế nước sở tại có mức độ phát triển công nghệ trung bình và có những biện pháp ưu đãi thoả đáng đối với các doanh nghiệp FDI tích cực thực hiện chuyển giao công nghệ.
Thông qua các dự án FDI, nhiều công nghệ mới, hiện đại đã đưa vào sử dụng tại Việt Nam trong các ngành tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, ngành bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hoá chất, sản xuất ô tô, thiết kế các phần mềm tin học. Những dự án này đóng góp đáng kể để tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc sử dụng công nghệ tiến tiến hiện đại ở các dự án FDI cũng tạo ra sự kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu tư đổi mới cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị trường nội địa và xuất khẩu.
Các mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới tư duy quản lý kinh doanh và công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh.
FDI góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thị trường ở Việt Nam đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới.
Tác động quan trọng nhất của FDI là góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội của nước ta, như tăng năng suất lao động xã hội - một yếu tố mang tính quyết định trong cạnh tranh của các doanh nghiệp; cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; hình thành các định chế tiền tệ, tín dụng dần đáp ứng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước khác.
Ngoài ra các doanh nghiệp FDI ở nước ta có đặc điểm khác các nước khác là đối tác tham gia DNLD: đối tác phía Việt Nam tham gia DNLD tuyệt đại bộ phận là các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm tới 92% tổng dự án liên doanh), trong khi ở các nước thì đối tác trong nước tham gia vào các doanh nghiệp FDI lại tuyệt đại bộ phận là các doanh nghiệp tư nhân.
Trong những năm đầu mới thu hút FDI, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít được các nhà đầu tư lựa chọn. Trong những năm gần đây, khi hình thức DNLD gặp nhiều khó khăn trong vận hành, các nhà đầu tư bắt đầu ưa chuộng hình thức 100% vốn nước ngoài hơn. Hiện nay hình thức 100% vốn nước ngoài tuy đã tăng vọt về số lượng so với trước đây (3007 dự án/4160 dự án, xem số liệu bảng 1.1), nhưng hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ và là các chi nhánh của công ty đa quốc gia. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài những thành tựu các doanh nghiệp FDI đã mang lại, trong thực tế vẫn còn một số hạn chế như: nhận thức quan điểm về ĐTNN còn chưa nhất quán, hình thức đầu tư chưa được mở rộng, môi trường đầu tư thiếu tính ổn định, công tác qui hoạch còn chậm, công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI còn yếu kém, buông lỏng, nguyên nhân rất lớn là công tác cán bộ là yếu tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất.
Cho đến hết năm 2003, đã có 74 quốc gia và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam trong đó có trên 80 công ty xuyên quốc gia nằm trong 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, chính dự án này có tác động không nhỏ tới thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế, chúng tác động đến xoá bỏ sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam gia nhập ASEAN, ký kết trên 100 hiệp định song phương và đa phương trong đó có Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
Ngoài ra, trên 50% trị giá sản phẩm của các dự án đầu tư nước ngoài được xuất khẩu ra thị trường thế giới góp phần nâng cao thị phần sản phẩm và uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
FDI góp phần giải quyết công ăn việc làm đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao mức sống cho người lao động.
Số lao động làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng, một số lượng đáng kể các nhà quản lý kinh doanh và người lao động được đào tạo trong và ngoài nước góp phần làm cho chất lượng lao động tăng lên, đây là nhân tố quan trọng góp phần làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh.
Các dự án FDI thông qua lương mang lai thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện đời sống. Theo thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư năm 2003: lương bình quân của công nhân Việt Nam trong các dự án đầu tư nước ngoài là 76-80 USD/tháng; của kỹ sư 220-250 USD/ tháng, của cán bộ quản lý khoảng từ 490-510 USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động của các dự án FDI hàng năm trên 500 triệu USD, đây cũng là các nhân tố làm tăng sức mua cho thị trường và xã hội.
Doanh nghiệp FDI và những lợi ích thu được đã góp phần đáng kể vào việc đổi mới và cải thiện các chính sách và môi trường kinh doanh tại Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế.
HOạT ĐộNG ĐầU TƯ TRựC TIếP NƯớC NGOàI VớI TIếN TRìNH HộI NHậP KINH Tế quốc tế
Sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Hiện nay vấn đề lớn nhất của Việt Nam là dù nhận thức được đúng đắn về những tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh tế, nhưng khả năng hoạch định và thực hiện các chính sách cụ thể trong điều kiện cụ thể vẫn là một hạn chế lớn cản trở quá trình hội nhập. ở vị trí trung tâm của khu vực phát triển năng động Đông á, mặc dù sự thận trọng trong nhiều trường hợp đã hạn chế khả năng tận dụng cơ hội của Việt Nam nhưng Việt Nam vẫn còn rất nhiều cơ hội. Có thể nói thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong thời gian qua là nhờ sự năng động của khu vực tư nhân trong và ngoài nước, cùng với những chính sách hỗ trợ phù hợp và viện trợ đáng kể từ bên ngoài. Khả năng có thể đạt được những kết quả tích cực như vậy trong thời gian tới phụ thuộc vào việc đổi mới hệ thống thể chế chính sách. Trong điều kiện này, sự đóng góp về mặt tri thức từ bên ngoài lại càng quan trọng hơn đối với quá trình hội nhập của Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, khi phân công lao động trở thành phổ biến, và những lợi ích to lớn mà tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế mang lại đem lại đang là sức ép đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế đối với Chính phủ các nước đang phát triển. Sức ép này được hình thành từ cả hai phía - phía các công ty đa quốc gia và từ phía chính phủ các nước đang phát triển. Một sức ép đáng kể khác xuất phát từ phía các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu cũng như người tiêu dùng của các nước đang phát triển. Phân công lao động quốc tế (thông qua FDI) theo hướng phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất đang tạo ra một sự phụ thuộc lẫn nhau cao nhất trong lịch sử giữa các quốc gia. Các doanh nghiệp trong mỗi quốc gia trở thành một bộ phận (một mắt xích) trong hệ thống sản xuất toàn cầu của các tập đoàn lớn. Các linh kiện, chi tiết cho một sản phẩm hoàn thành cuối cùng có thể được sản xuất tại nhiều điểm khác nhau trên thế giới. Do vậy có thể xẩy ra sự phụ thuộc dây chuyền mà sự phụ thuộc này làm cho các quyết định kinh tế của các nước luôn mang yếu tố quốc tế. Hội nhập kinh tế là một xu hướng tất yếu không thể đảo ngược, thị trường trong nước là một phần gắn bó không thể tách rời của thị trường thế giới.
Quá trình toàn cầu hoá đem lại không ít thách thức và rủi ro như xáo trộn kinh tế xã hội, nguy cơ gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Qúa trình toàn cầu hoá thậm chí đã làm thay đổi cả những lý thuyết về lợi thế cạnh tranh nhằm thu hút vốn đầu tư. Hội nhập kinh tế chỉ có thể phát huy hết những lợi ích của nó nếu như hệ thống các thể chế và môi trường kinh doanh được cải thiện sâu sắc, năng lực và tinh thần kinh doanh của các doanh nghiệp được nâng cao.
Hội nhập kinh tế tác động thuận lợi đến đầu tư FDI
Quy mô thị trường thuận lợi lớn hơn nhờ đó mà tăng sức hút của các nguồn vốn FDI: Ví dụ trước đây khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu là nhắm đến thị trường Việt Nam, thì nay Việt Nam đang ở giai đoạn cuối thực hiện các chương trình hội nhập khu vực ASEAN, thuế nhập khẩu khi thực hiện thương mại giữa các nước khu vực giảm mà các nhà đầu tư khu vực đang hoạt động tại Việt Nam có thể dễ dàng đưa hàng hoá vào ASEAN.
Môi trường đầu tư được cải thiện theo hướng bình đẳng, thủ tục đơn giản, công khai và mang những chuẩn mực quốc tế.
Hệ thống pháp lý đầy đủ và hoàn chỉnh hơn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư hoạt động.
Cạnh tranh quyết kiệt hơn là nhân tố tạo ra động lực cải tiến và hoàn thiện:
Cạnh tranh giữa các nước nhằm thu hút vốn đầu tư FDI, buộc Chính phủ phải quan tâm mạnh mẽ và thường xuyên hoàn thiện môi trường đầu tư.
Cạnh tranh giữa các nhà đầu tư có vốn nước ngoài với nhau và với các nhà đầu tư nội địa kích thích sự ganh đua trong hoàn thịên sản phẩm, giảm giá thành... tạo ra hàng hoá tốt hơn đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là nhân tố quan trộng nâng cao hiệu quả hoạt động FDI:
Tạo ra các nhà quản lý doanh nghiệp có tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn đáp ứng yêu cầu thị trường được mở rộng, mang tính cạnh tranh cao.
Tạo ra các nhà chuyên gia giỏi đáp ứng yêu cầu kinh doanh sản phẩm và mang chuẩn mực quốc tế.
Kích thích đội ngũ công nhân nâng cao tay nghề để duy trì chỗ làm việc của mình trong môi trường cạnh tranh cao.
Ngoài ra toàn cầu hoá trong thị trừờng hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn, chất lượng cao hơn đáp ứng yêu cầu của người lao động tốt hơn, nhờ vậy mức sống được nâng cao, thể lực, trí tuệ, văn hoá của người lao động có điều kiện phát triển tốt hơn. Và như vây nguồn nhân lực thoả mãn tốt hơn yêu cầu của hoạt động đầu tư FDI.
Hội nhập kinh tế quốc tế hỗ trợ các nhà đầu tư FDI bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình tốt hơn, nhờ đó tạo sự yên tâm trong hoạt động đầu tư ở nước ngoài:
Có môi trường pháp lý mang những chuẩn mực quốc tế để hoạt động.
Thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp được bảo hộ (đây là điểm mà nhà đầu tư có vốn nước ngoài đặc biệt quan tâm khi đầu tư vào các nước có nền kinh tế chuyển đổi).
Bảo vệ quyền lợi của mình thuận lợi hơn khi có tranh chấp.
Hội nhập kinh tế tác động không thuận lợi của quá trình hội nhập đối với hoạt động FDI
Thị trường đầu tư thuận lợi, rộng mở và nước nào có môi trường cạnh tranh kém hơn sẽ khó khăn hơn trong thu hút vốn đầu tư FDI. Thật vậy, khi chưa thực hiện mở cửa nền kinh tế, thì các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một thị trường, dù thị trường ấy tính cạnh tranh chưa cao, nhưng đầu tư như là một cách thức vượt hàng rào mậu dịch cao. Thì nay với sự hội nhập khu vực và quốc tế hàng rào ấy không còn nữa thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chỉ quan tâm đầu tư vào những thị trường hấp dẫn mang tính cạnh tranh cao nhất, sau đó bằng con đường thương mại đưa hàng hoá vào các nước khác có môi trường cạnh tranh kém hơn.
Liên kết kinh tế khu vực có thể dẫn tới sự phá vỡ quy hoạch và chiến lược thu hút vốn FDI của một quốc gia, nếu như quy hoạch và chiến lược ấy đã được xây dựng mà chưa tính đến sự thay đổi về quy mô; về quy hoạch ... do tiến trình hội nhập mang lại.
Một số nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động sẽ gặp khó khăn, nếu như mục tiêu đầu tư trước khi mở cửa kinh tế là lợi dụng chính sách bảo hộ mậu dịch lớn của các nước tiếp nhận đầu tư để tồn tại và phát triển. Ví dụ các doanh nghiệp FDI sản xuất đường ăn, sắt thép, xi măng...... trước đây hoạt động thuận lợi do chính sách bảo hộ mậu dịch của Nhà Nước Việt Nam, nay cùng với tiến trình hội nhập: thuế nhập khẩu giảm, giấy phép nhập khẩu dần bị loại bỏ thì với chi phí sản xuất cao như hiện nay rất khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN khác.
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại cơ hội và thách thức cao cho các quốc gia tham gia vào quá trình này. Để nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư thì Chính phủ cần chủ động đề xuất các giải pháp để tận dụng phát triển cơ hội và hạn chế các thách thức nguy cơ do hội nhập mang lại.
Một số luận cứ khoa học xây dựng chính sách thuế trong tiến trình hội nhập.
Tác động ảnh hưởng của chính sách bảo hộ bằng thuế quan.
Thuế quan là một công cụ của chính thương mại quốc tế, là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc gia. Như vậy thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu.
Theo quan điểm của Adam Smith thương mại quốc tế được dựa trên lợi thế tuyệt đối của từng nước, tức là mỗi quốc gia nên tập trung vào nguồn lực của mình để sản xuất loại hàng hoá mà nước mình có chi phí sản xuất thấp nhất, sau đó trao đổi hàng hoá của mình với các nước khác những hàng hoá mà mình không có lợi thế tuyệt đối. Điều đó không những tiết kiệm chi phí sản xuất trong nước mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từng nước. Và David Recardo đã bổ sung lý thuyết của Adam Smith, ông cho rằng trong trao đổi thương mại giữa một nước có lợi thế tuyệt đối và một nước khác không có lợi thế tuyệt đối vẫn có thể được tiến hành một cách hiệu qủa nhờ trên “lợi thế só sánh” của mỗi nước. Các nước tham gia thương mại trong điều kiện đó vẫn có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất khi mỗi nước đều tập trung nguồn lực vào sản xuất các ngành hàng mà họ có chi phí tương đối thấp.
Ngày nay, một số nhà kinh tế hiện đại đã đưa ra những lập luận mà lập luận của họ nhằm bác bỏ lý thuyết lợi thế so sánh. Tiêu biểu là hai nhà kinh tế học Raul Prebisch và Hans Singer, họ cho rằng: Nếu nền kinh tế thế giới chuyên môn hoá lợi thế so sánh thì về lâu dài lợi ích kinh tế của các nước đang phát triển sẽ giảm dần và có thể sẽ bằng không. Quan điểm hiện đại này đã được chứng minh bằng thực tế rằng các nước đang phát triển đang tập trung nguồn lực của mình để phát triển ngành công nghiệp trong nước với sự trợ giúp của công cụ thuế quan. Đây là lý thuyết cho sự ra đời của chiến lược công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu. Đối với những ngành công nghiệp có tiềm năng nhưng chưa có đủ điều kiện phát triển trước tiên sẽ được lựa chọn để áp dụng chế độ thuế quan bảo hộ cao trong một thời gian dài, khi ngành công nghiệp này đã khẳng định được năng lực cạnh tranh thì Chính phủ sẽ tiến hành cắt bỏ hàng rào thuế quan bảo hộ.
Như đã trình bầy ở trên thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu:
Thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá nhập khẩu, theo đó người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lứon hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được. Chính nội dung kinh tế thực tế này sẽ gây nên tác động của thuế nhập khẩu đối với hoạt động trao đổi thương mại quốc tế. Bên cạnh thuế nhập khẩu còn có thuế xuất khẩu. Thuế xuất khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều tác động tới giá cả hàng hoá có liên quan. Nhưng thuế xuất khẩu khác thuế nhập khẩu ở hai điểm: Một là, thuế xuất khẩu áp dụng cho hàng xuất khẩu chứ không phải hàng nhập khẩu. Hai là, thuế xuất khẩu làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt giá cả trong nước (chứ không phải ngược lại) hay nói một cách khác, nó làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế (điều này phù hợp với thực tiền thương mại của các nước nhỏ). ở nhiều nước phát triển, người ta không sử dụng thuế xuất khẩu cho nên khi nói tới mức thuế quan tức là đồng nhất nó với thuế nhập khẩu. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, người ta vẫn sử dụng khá phổ biến thuế xuất khẩu, đặc biệt là để đánh vào các sản phẩm truyền thống nhằm tăng thêm lưọi ích cho quốc gia. Ví dụ, nước Zambia đã đánh thuế xuất khẩu đồng của mình theo nhiều mức thuế khác nhau, hoặc Brazin đánh thuế xuất khẩu mặt hàng Café. Vào những năm 1974 và 1979 các nước Tổ chức OPEC tăng mạnh giá dầu mỏ xuất khẩu mà thực chất là đánh thuế xuất khẩu dầu mỏ (mặc dù nó không được gọi như vậy) và đây chính là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại của OPEC. Nhìn chung nhiều nước kém phát triển đánh thuế các mặt hàng khoáng sản và nông sản, các mặt hàng truyền thống của họ đưa vào xuất khẩu.
- Thuế quan có thể được tính với nhiều hình thức khác nhau. Ch ẳng hạn với thuế quan nhập khẩu có thể được tính như sau:
Thuế tính theo đơn vị vật chất của hàng hoá nhập khẩu. Đây là hình thức đơn giản nhất, dễ tính toán vì nó không phụ thuộc vào giá cả của hành hoá thường có biến động:
Nếu Po là giá nhập khẩu
Ts là thuế tính theo đơn vị hàng hoá
P1 là giá cả hàng hoá sau khi nhập khẩu
Thì: P1 = Po + Ts
Thuế quan tính theo giá trị hàng hoá là mức thuế tính theo tỷ lệ phần trăm (%) của mức giá hàng hoá trả cho nhà xuất khẩu ngoại quốc, thì:
P1 = Po (1 + t)
Trong đó: t là tỷ lệ % thuế đánh vào gía trị hàng hoá nhập khẩu.
Thuế quan hoà hợp là thuế vừa tính theo một tỷ lệ % so với gía trị hàng hoá vừa cộng với mức thuế tính theo đơn vị vật chất của hàng hoá. Có trường hợp thuế quan tính theo tỷ lệ phần trăm của mức giá hàng hoá được bán ở thị trường trong nước (tức là giá P1), chứ không phải tính theo giá P0. Có thể dùng phép tính số học để chuyển hoá giữa hai hình thức thuế quan nói trên.
Thuế quan là một công cụ cân đối nhất của chính sách thương mại quốc tế và là một phương tiện truyền thống để làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Không những thế thuế quan còn có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ mới được hình thành chưa có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vào cuối thế kỷ 19, Mỹ và Đức đều dùng thuế nhập khẩu đánh vào các hàng hoá công nghiệp nước ngoài để bảo hộ các ngành công nghiệp mới của họ. Rất nhiều quốc gia như Nhật Bản và Tây Âu cũng dùng thuế nhập khẩu để bảo hộ ngành nông nghiệp chịu những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, trong khi cần giữ vững sự an toàn cho thị trường lương thực và thực phẩm nội địa.
Như vậy thuế quan nhập khẩu tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Chính vì vậy thuế quan nhập khẩu được áp dụng phổ biến ở mọi nước tuy rằng mức thuế là khác nhau. Tuy nhiên kết quả kinh tế của thuế nhập khẩu là nó làm cho giá trị hàng hoá trong nước cao vượt hơn mức giá nhập khẩu và chính người tiêu dùng trong nước phải trang trải cho gánh nặng thuế quan này. Điều đó đưa đến tình trạng giảm mức cầu của người tiêu dùng đối với hàng nhập khẩu và làm cho hạn chế mức nhập khẩu. Đây chính là một khía cạnh trong mục tiên của chính sách thương mại nhưng đối khi việc thực hiện mục tiêu này lại đi qua mức cần thiết, đưa đến những hạn chế cho quá trình trao đổi thương mại quốc tế. Bởi vậy việc quy định thuế nhập khẩu luôn là một đề tài được quan tâm từ nhiều phương diện.
Thuế quan nhập khẩu cũng làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nhưng nó làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế cao hơn mức giá trong nước. Tuy nhiên tác động của thuế quan nhập khẩu nhiều khi lại trực tiếp đưa đến bất lợi cho khả năng xuất khẩu. Do quy mô xuất khẩu của một nước, thường là nhỏ đối với dung lượng của thị trường thế giới cho nên thuế xuất khẩu sẽ làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống xo với mức giá cả quốc tế. Điều đó sẽ làm cho số lượng trong nước của mặt hàng xuất khẩu sẽ giảm đi và sản xuất trong nước sẽ thay đổi bất lợi cho những mặt hàng này. Trong một số trường hợp việc đánh thuế xuất khẩu không làm cho khối lượng xuất khẩu giảm đi nhiều và vẫn có lợi nhiều cho nước xuất khẩu, nếu như họ có thể tác động đáng kể đến mức giá quốc tế (thí dụ có sự độc quyền, như việc sản xuất sâm của Triều Tiên). Một mức thuế xuất cao và duy trì quá lâu có thể làm lợi cho các đối thủ cạnh tranh (trường hợp xuất khẩu ca cao của Ghana) chính vì vậy mà các nước công nghiệp phát triển hiện nay hầu như không áp dụng thế xuất khẩu.
Như vậy cả thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều sẽ làm giảm “lượng cầu quá mức” trong nước đối với mặt hàng có thể xuất khẩu, đồng thời chúng sẽ tác động đên các điều kiện thương mại khác cũng như phân phối các loại lợi ích, điều này đòi hỏi phải phân tích kỹ hơn qua các mô hình.
Ngày nay, mức thuế quan bình quân ngày càng thấp, tuy răng mức thuế quan mặt hàng nông phẩm ở một số nước vẫn cao. Xu hướng hiện nay là các quốc gia chuyển dần từ hình thức thuế quan sang hình thức phi thuế quan mang tính mềm dẻo và tế nhị hơn để bảo hộ sản xuất trong nước.
Đối với một ngành và một nước nhỏ khi đánh thuế xuất khẩu sẽ không làm ảnh hưởng đến giá cả thế giới, sự phân tích cân bằng cục bộ của thuế quan nhập khẩu chỉ ra rằng:
Thông thường thuế quan nhập khẩu dẫn đến giá nội địa của hàng nhập khẩu cao lên, làm cho mức tiêu dùng nội địa giảm đi, sản xuất trong nước có điều kiện tăng lên do khối lượng hàng nhập khẩu bị giảm bớt.
Chính phủ là người nhận nguồn thu về thuế
Có sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa (vì phải mua hàng với mức giá cao hơn),sang người sản xuất trong nước (vì nhận đước một mức giá cao hơn), đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa của một quốc gia sang các nhân tố khan hiếm của quốc gia đó.
Thuế quan nhập khẩu dẫn đến sự kém hiệu quả vì gây ra những tổn thất hay còn gọi là chi phí bảo hộ.
Trên giác độ quan hệ giữa các quốc gia, khi một quốc gia đánh thuế sẽ làm cho các bạn hàng ở vào vị trí bất lợi vì tỷ lệ mậu dich của họ bị giảm đi. Kết quả là, đến lượt mình các quốc gia bạn hàng sẽ đánh thuế trừng phạt quốc gia kia, sau đó quốc gia này lại tiếp tục trả ( khác) đũa. Quá trình này cứ tiếp tục và cuối cùng các quốc gia mất đi lợi ích từ thương mại. Ngay cả trường hợp một quốc gia bị đánh thuế theo mức tối ưu để làm cực đại lợi ích của họ thì quốc gia đó vẫn bị thiệt hại, vì lợi ích từ thương mại lớn hơn lợi ích thu được nhờ thuế quan.
Qua những phân tích trên, có thể rút ra những kết luận như sau:
Thuế quan không đem lại lợi ích cho thế giới nói chung, nó làm cho nước đánh thuế phải chịu chi phí sản xuất và chi phí tiêu dùng cao hơn mặc dù nước này vẫn có thể có lợi trên cơ sở mức thiệt hại của phàn còn lại của thế giới.
Việc đánh thuế cải thiện được điều kiện trao đổi của một nước nếu nước này đủ khả năng ảnh hưởng đến giá cả quốc tế. Nếu không, nước đó rơi vào tình trạng trao đổi ít đi và bị thua thiệt.
Thuế quan thường bảo hộ các ngành công nghiệp sử dụng nhiều yếu tố khan hiếm, do vậy nước thu hút các nhân tố sản xuất ấy vào ngành này.
Thuế quan làm tăng thu nhập thực tế của những nhân tố khan hiếm của một nước và làm giảm thu nhập thực tế của những nhân tố tương đối dư thừa.
Thuế quan làm tăng thu nhập của đất nước và làm giảm thu nhập của nước ngoài bằng việc dịch chuyển cầu từ hàng hoá ngoại quốc sang hàng nội địa.
Thuế quan làm thay đổi cán cân thương mại của một nước.
Thuế xuất khẩu và hạn mức (Quota) đều có thể đem lại kết quả như nhập khảu.
Việc bảo hộ bằng thuế quan đối với các ngành công nghiệp tiềm năng trong nước thực tế lại mang lại những ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế, đó là khả năng cạnh tranh.của các ngành này thấp, chất lượng sản phẩm không cao và làm ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước. Như vậy, hệ thống thuế quan bảo hộ không đúng hướng đã/ sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Đó cũng là cơ sở để ra đời chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu.
Lý thuyết tác động của giảm thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu, một yếu tố cấu thành vào giá cả của hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, mà dẫn đến người mua trong nước phải chi trả cho khoản thuế nhập khẩu đó. Trong trường hợp cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giá cả hàng hoá nhập khẩu giảm đi kéo theo việc tăng cung hàng nhập khẩu, và đồng thời tác động gián tiếp đến sức cạnh tranh của các hàng hoá, dịch vụ cùng loại trong nước. Trong nhiều trường hợp mức cung của sản phẩm sản xuất trong nước giảm đi. Đây là tác động của ảnh hưởng mang tính trực tiếp làm giảm sản lượng sản xuất trong nước.
Sự tác động ảnh hưởng có tính lan truyền của việc cắt giảm thuế quan sẽ ảnh hưởng đến các lĩnh vực như sau:
- Làm tăng tiêu dùng các sản phẩm khác cho người tiêu dùng tiết kiệm được một khoản từ thuế.
- Làm thay đổi cơ cấu sản xuất, nguồn lực của xã hội dịch chuyển từ những ngành sản xuất kém hiệu quả sang những ngành sản xuất hiệu quả hơn.
- Thuế nhập khẩu giảm làm tăng lượng hàng nhập khẩu, cầu về ngoại tệ tăng. Hoạt động ngoại thương mở rộng tạo ra nền kinh tế mở. Tác động này được hiểu trên phạm vi rộng, không chỉ hoạt động ngoại thương phát triển khi nước nhập khẩu cắt giảm thuế nhập khẩu mà còn được mở rộng khi xuất khẩu dành cho hành vi giảm thuế của các nước thành viên kia.
- Thuế quan tái phân phối thu nhập từ người sản xuất trong nước sang người tiêu dùng. Một mặt thu nhập của người sản xuất trong nước gọi là giảm sút thặng dư sản xuất và thu nhập đó được chuyển sang cho người tiêu dùng làm tăng thặng dư tiêu dùng. Tác động này của thuế quan đã ảnh hưởng đến quá trình phân phối lại thu nhập của xã hội, từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất và tiêu dùng xã hội.
- ảnh hưởng đến Ngân sách nhà nước: Việc giảm thuế nhập khẩu làm cho Ngân sách nhà nước mất một khoản thu. Tuy nhiên sự tác động trực tiếp này không chỉ dừng lại ở đó mà cón diễn ra nhiều ảnh hưởng gián tiếp và các ảnh hưởng động.
Các các doanh nghiệp FDI có thể được phân loại thành 2 khu vực: Khu vực thay thế nhập khẩu và khu vực định hướng xuất khẩu. Thực tế tại Việt Nam cho thấy trong khi các doanh nghiệp FDI định hướng xuất khẩu đều tập trung vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh, tạo ra nhiều công ăn việc làm thì những doanh nghiệp FDI thay thế nhập khẩu chủ yếu tập trung vào những khu vực mà Việt Nam sẽ có lợi hơn nếu nhập khẩu từ nước ngoài. Sự tồn tại của những hàng rào bảo hộ có thể coi là một yếu tố quyết định sự tập trung của nhiều doanh nghiệp FDI thay thế nhập khẩu vào một số ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập và tự do hóa thương mại, đang có nhiều bằng chứng cho thấy sự lúng túng, thiếu đồng bộ trong việc xử lý giữa yêu cầu tự do hóa và lợi ích của các doanh nghiệp trong những ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu.
Dù phát triển các công ty trong nước hay thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp phụ trội thì cũng vẫn phải bảo hộ ở một mức độ nhất định. Những chính sách như thế sẽ làm giá phụ tùng và sản phẩm trung gian tăng. Thị trường trong nước càng nhỏ thì chi phí này càng cao. Trong hầu hết các trường hợp, giá cả sản xuất các phụ tùng, sản phẩm trung gian trong nước dưới các hàng rào bảo hộ cao hơn nhiều so với chi phí nhập khẩu từ nước ngoài.
Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực thay thế nhập khẩu hỗ trợ các công ty nước ngoài nhưng mang lại gánh nặng cho người tiêu dùng và cho doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp. Vì thế không nên kéo dài việc hỗ trợ khu vực thay thế nhập khẩu một cách liên tục hoặc không có giới hạn. Chỉ có thể thay nhập khẩu thành công khi kết nối một cách có hiệu quả lịch trình tự do hoá với đào tại nguồn nhân lực, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế , hoàn thiện môi trường chính sách.
TáC ĐộNG CủA THUế ĐốI VớI DOANh NGHIệP FDI
Chính sách thuế và đầu tư.
Một chính sách thuế hợp lý, ổn định rõ ràng và công bằng sẽ thúc đẩy đầu tư phát triển. Là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế tài chính, chính sách thuế với những sắc thuế và những quy định cụ thể về thuế suất, ưu đãi miễn giảm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, thu nhập của nhà đầu tư. Suy cho cùng mục tiêu của mọi hoạt động đầu tư là giành được hiệu quả trong tương lai, đó là thu nhập ròng hay còn gọi là phần giá trị gia tăng sau khi đã hoàn đủ vốn ban đầu đã bỏ ra. Thu nhập ròng càng lớn thì sức thu hút đầu tư càng mạnh. Do đó, chính sách thuế có tác dụng rất quan trọng trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển.
Về mặt lý thuyết, có thể thông qua tác động của thuế đến nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp theo hai cách:
Thứ nhất: Thuế làm giảm thu nhập của mọi người, từ đó làm giảm cầu về hàng hoá và dịch vụ, ảnh hưởng tiêu cực đến doanh thu của doanh nghiệp, sẽ làm giảm đầu tư.
Thứ hai: Thuế tác động đến giá cả hàng hoá và các yếu tố sản xuất, dẫn đến chi phí sản xuất và giá thành tăng, do đó ảnh hưởng đến khuyến khích đầu tư. Có thể thấy rõ điều này qua lý luận của Paul A. Samuelson: khi chính phủ đánh thuế cao sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó cầu về đầu tư sẽ giảm xuống.
Và cũng có thể thấy ảnh hưởng của thuế đến chi phí sản xuất, giá thành của doanh nghiệp như sau: trước khi đánh thuế, doanh nghiệp có giá là Po và chi phí cận biên MC. Nếu chính phủ đánh thuế với mức t trên mỗi đơn vị sản phẩm của doanh nghiệp, thì chi phí sản xuất của 1 đơn vị sản phẩm bây giờ là MC’ = MC + t. Đó chính là chi phí sản xuất cận biên cộng thuế. Do đó doanh nghiệp sẽ giảm sản lượng xuống Qo’. Nhưng khi tất cả các doanh nghiệp đều giảm sản lượng thì giá sẽ tăng lên, cân bằng mới gồm cả giá P1 và sản lượng Q1.
Lãi suất thị trường
S2
S1
S’
S
I
I’
E’1
E1
E2
Tiết kiệm, đầu tư
Hình 1.1: ảnh hưởng của thuế đến đầu tư
Trong đó: Đường I là đầu tư trước miễn thuế
Đường I’ đầu tư sau miễn thuế
Đường S là tiết kiệm trước thuế
Đường S’ là tiết kiệm sau thuế
Có thể thấy ảnh hưởng của khuyến khích đầu tư thông qua miễn thuế; theo lý luận của Joseph E. Stightz: việc đánh thuế thu nhập trên tiền lãi tiết kiệm sẽ làm giảm cung tiết kiệm ở tại mỗi mức lãi suất tư S1 xuống S2, do đó điểm cân bằng mới sẽ là E2.
Nếu như chính phủ miễn thuế đầu tư thì sẽ làm dịch chuyển đường đầu tư từ I sang I’. Sự miễn thuế đầu tư đủ lớn sẽ làm dịch chuyển đường đầu tư về mức ban đầu của nó là S1. Tại điểm cân bằng mới này (E1’), phần đầu tư sau thuế sẽ được khôi phục như ban đầu.
Lý luận trên cho thấy rằng chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô đầu tư của doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để hoạch định và sử dụng chính sách thuế nhằm thúc đẩy và khuyến khích đầu tư phát triển, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh.
Tác động của thuế đối với doanh nghiệp FDI
Thuế là phạm trù kinh tế khách quan, xuất hiện và tồn tại trong mọi xã hội có nhà nước. Thuế có 2 chức năng quan trọng:
Một là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước để phục vụ các nhu cầu chung của xã hội, thuế là hình thức đóng góp cho nhà nước theo nghĩa vụ do luật định đối với các tổ chức và mọi công dân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ, là hình thức phân phối lại một phần của cải của xã hội và không mang tính hoàn trả trực tiếp.
Hai là, thuế ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá, làm thay đổi cung - cầu, từ đó góp phần điều tiết sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng.
Chính sách thuế phản ánh cách thức nhà nước sử dụng công cụ thuế để tác động vào nền kinh tế, tác động tới các quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng của các tầng lớp dân cư phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách thuế biểu hiện ở thuế suất, sự ưu đãi miễn giảm về thuế, phạm vi áp dụng, đối tượng nộp thuế, cách tính thuế, cách thức tổ chức đóng thuế.
Trong nền kinh tế thị trường, thuế được coi là công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thuế không những là nguồn thu quan trọng, chủ yếu của ngân sách nhà nước, mà còn ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế. Thuế góp phần thúc đẩy tích luỹ tư bản; là công cụ phân phối lại, góp phần điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội; là một trong những biện pháp chế ngự lạm phát. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, khi bỏ vốn đầu tư họ luôn quan tâm đến mức độ an toàn của vốn và phần lợi nhuận thu được so với vốn bỏ ra. Nhưng trong thời gian tới vấn đề an toàn vốn không còn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư, cho nên vai trò của thuế có tác động lớn đến FDI vì thuế ảnh hưởng quan trọng đến tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư, khi một nhà đầu tư dự định đầu tư vào một dự án nào đó họ sẽ quan tâm trước hết đến lợi nhuận; thuế tác động đến lợi nhuận và do đó ảnh hưởng đến quyết định đầu tư; thuế đóng vai trò bảo vệ sản xuất trong nước (thuế quan nhập khẩu) sẽ kích thích đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế nội địa, thông thường một mặt hàng nào đó đánh thuế nhập khẩu cao (như ô tô du lịch, xe máy, điện tử,…) thì các nhà đầu tư sẽ nghĩ đến việc đầu tư sản xuất ở Việt Nam. Để tránh hàng rào thuế quan, thuế tạo ra thị trường đủ lớn cho các nhà đầu tư sản xuất vào một ngành nào đó. Trong kinh tế có một khái niệm: Hiệu quả của quy mô sản xuất, theo khái niệm này thì quy mô sản xuất phải đủ lớn tới một mức độ nhất định thì mới đạt tới được hiệu quả kinh tế tối đa. Vì vậy các chủ đầu tư thường chỉ đầu tư vào sản xuất ở một nước nào đó có dung lượng thị trường đủ lớn. Thông qua việc tác động đến giá cả hàng hoá và sức mua của người tiêu dùng, thuế sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu có hiệu lực, tức là ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hay suy cho cùng thuế ảnh hưởng tới quyết định đầu tư.
Mặt khác thuế là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư.
Điều này được thể hiện:
Thuế có ảnh hưởng quyết định đến việc chi tiêu ngân sách. Ngân sách càng có nguồn thu lớn thì càng tạo ra môi trường tốt để khuyến khích đầu tư. Thuế thu đủ cho chi tiên ngân sách góp phần hạn chế lạm phát. Điều đó tạo ra môi trường tài chính thuận lợi cho hoạt động đầu tư; nguồn thu thuế càng ngày càng tăng tạo điều kiện vật chất cho nhà nước đầu tư vào lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp thời gian thu hồi vốn dài như cơ sở hạ tâng y tế, giáo dục ở nông thôn, miền núi và do đó tạo ra môi trường cần thiết để hấp dẫn FDI.
Thuế là biện pháp quan trọng trong chính sách ưu đãi đầu tư, hướng đầu tư vào các dự án thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Các ưu đãi đầu tư về thuế là sự khuyến khích quan trọng về mặt tài chính để thu hút các nhà đầu tư vào một quốc gia hay một lĩnh vực kinh tế nhất định.
Chương 2: THựC TRạNG CHíNH SáCH THUế ĐốI VớI HOạT ĐộNG ĐầU TƯ TRựC TIếP của NƯớC NGOàI TạI VIệT NAM
CHíNH SáCH ƯU ĐãI Về THUế Và CáC HìNH THứC ƯU ĐãI THƯờNG ĐƯợC Sử DụNG TRONG CHíNH SáCH THUế ĐốI VớI HOạT ĐộNG FDI TạI VIệT NAM
Ưu đãi đầu tư là một công cụ chính sách nhằm thu hút đầu tư hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định, đang được áp dụng tương đối phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Các ưu đãi thuế là hình thức cho người nộp thuế được hưởng những điều kiện thuận lợi khi nộp thuế. Tác động kích thích của các ưu đãi thuế vừa mang tính chất như giảm nhẹ gánh nặng thuế, vừa mang tính chất áp dụng các mức thuế suất phân biệt. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý, nhà nước có thể tăng hoặc giảm quy mô và mức độ của các ưu đãi thuế để kích thích tăng tích lũy và tích tụ trong các doanh nghiệp. Điều đó, cho phép nhà nước linh hoạt điều chỉnh nền kinh tế tuỳ thuộc vào cục diện thị trường.
Các hình thức ưu đãi thuế rất đa dạng. Có thể phân chia ưu đãi thuế thành một số hình thức sau: quy định mức thu nhập tối thiểu không phải nộp thuế; cho phép loại trừ một số khoản chi phí trong thu nhập chịu thuế; miền giảm một phần hay toàn bộ số thuế phải nộp; cho hoãn nộp thuế; cấp tín dụng thuế đầu tư.
Tùy theo phạm vi sử dụng rộng hay hẹp, có thể chia các loại ưu đãi thuế thành hai nhóm khác nhau: mang tính chất ngành và mang tính chất cá biệt. Việc cấp ưu đãi thuế mang tính chất cá biệt được áp dụng với phạm vi hẹp, gắn liền với lợi ích của từng chủ thể kinh doanh. Tuy có những ưu điểm nhất định nhưng ưu đãi thuế mang tính cá biệt cũng tạo ra những điều kiện không công bằng trong sản xuất kinh doanh, làm xói mòn tính cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tể, gây nên hậu quả tâm lý xấu đối với người nộp thuế và tạo ra những tiền để trốn thuế, từ đó làm mất tính chất trung lập của thuế.
Ưu đãi thuế theo ngành thường là những ưu đãi thuế mang tính mục đích nên đảm bảo tính công bằng hơn so với ưu đãi thuế cá biệt. Tuy nhiên, nếu áp dụng quá rộng rãi ưu đãi thuế theo ngành thì, bản chất của chúng lại chẳng khác gì so với thay đổi gánh nặng thuế.
CƠ CHế QUảN Lý THUế ĐốI VớI DOANH NGHIệP FDI ĐANG HOạT ĐộNG TạI VIệT NAM
Công tác xây dựng luật pháp, chính sách
Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài đã được cải thiện theo hướng tạo môi trường ngày càng thông thoáng, thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Riêng từ năm 2000, sau khi Quốc hội thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 07 năm 2000 quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ngày 19 tháng 03 năm 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định 27/2003/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 24/2000/NĐ-CP theo hướng: Mở rộng lĩnh vực khuyến khích đầu tư nước ngoài; xoá bỏ tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với môt số sản phẩm công nghiệp cũng như những hạn chế về tỷ lệ vốn góp bằng chuyển giao công nghệ và về tuyển dụng lao động; quy định cụ thể minh bạch hơn các tiêu chi áp dụng ưu đãi đầu tư. Nghị định 38/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 04 năm 2003 của Chính phủ về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần để tạo cơ sở pháp lý nhằm đa dạng hoá hình thưc đầu tư nước ngoài, mở thêm kênh mới để thu hút nguồn vốn này.
Ngoài ra Thủ tướng Chính phủ cũng đã có Quyết định số 146/2003/QT-TTg ngày 11 tháng 03 năm 2003 về việc góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam. Quyết định số 53/2004/QĐ-TTg ngày 5 tháng 4 năm 2004 về một số chính sách khuyến khích đầu tư tại khu công nghệ cao. ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã thông qua pháp lệnh sửa đổi thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2004 theo hướng giảm thuế đối với người có thu nhập cao.
Hệ thống các văn bản có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài cũng tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện với việc Quốc hội thông qua các Luật thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2004 đã quy định danh mục lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư cũng như thuế suất và các mức ưu đãi thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời bổ sung một số tiêu chí áp dụng ưu đãi mới nhằm khuyến khích các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao và sử dụng nhiều lao động. Ngoài một số hạn chế cần được nghiên cứu giải quyết trong thời gian tới, việc ban hành các văn bản nói trên là bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tại kỳ họp thứ 4, tháng 11 năm 2003 Quốc hội đã thông qua Chương trình xây dựng pháp luật năm 2004, trong đó có việc chuẩn bị Luật đầu tư chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp và các Bộ, Ngành hữu quan nghiên cứu xây dựng dự án Luật doanh nghiệp áp dụng chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Khung pháp lý song phương và đa phương về đầu tư tiếp tục được hoàn thiện:
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001 mở ra cơ hội cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường Hoa Kỳ và tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực có lợi thế xuất khẩu vào thị trường này. Mặt khác, những cam kết trong khuôn khổ Hiệp định này cũng tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài. Nhiều cam kết đã được thực thi ngay khi Hiệp định có hiệu lực (xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa người tiêu dùng trong nước và nước ngoài về giá, phí một số hàng hoá, dịch vụ; giảm dần những hạn chế về chuyển giao công nghệ, quản lý ngoại hối, sử dụng đất đai).
Cùng với việc triển khai thực hiện BTA, chính phủ Việt Nam đã lý hiệp định song phương về đầu tư với một số đối tác đầu tư hàng đầu tại Việt Nam (Vương Quốc Anh, Hàn Quốc,…). Trong tháng 11 năm 2003, Hiệp định về tự do hoá, khuyến khích và bảo vệ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản đã được ký kết với những cam kết mạnh mẽ của hai bên trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, ổn định và bình đẳng cho các nhà đầu tư.
Tháng 12 năm 2003, sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã được công bố với các nhóm giải pháp cơ bản gồm: hoàn thiện khung pháp luật về đầu tư nước ngoài; nâng cao năng lực của các cơ quan chính phủ; cải tiến thủ tục đầu tư; phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.
Cơ chế pháp lý đa phương về đầu tư cũng tiếp tục được củng cố, mở rộng với việc Chính phủ Việt Nam ký kết Nghị định thư sửa đổi hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN, tham gia hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc về các hiệp định tương tự với Nhật Bản, ấn Độ, đồng thời tích cực triển khai chương trình hành động về tự do hoá đầu tư và xúc tiến đầu tư trong khuôn APEC, ASEAN. Việc thực hiện các cam kết, thoả thuận song phương và đa phương về đầu tư tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận rộng rãi hơn với thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam đồng thời góp phần thiết lập một khung pháp lý hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Chính phủ đã ban hành nghị định số 61/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Kế họach và Đầu tư, trong đó có việc thành lập Cục Đầu tư nước ngoài tạo điều kiện để thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.
Trong năm 2005 và các năm tiếp theo cần tập trung xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp áp dụng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Khi Luật đầu tư chung được Quốc hội thông qua, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần chủ động rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các nội dung không còn phù hợp. Việc ban hành các chính sách về đầu tư nước ngoài phải bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và dự đoán trước được; các chính sách ban hành sau phải bảo đảm nguyên tắc kế thừa, không hồi tố và phải hấp dẫn hơn trước.
Các chính sách thuế hiện hành đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như sau:
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Theo Thông tư 13/2001/TT-BTC ngày 8 tháng 3 năm 2001của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì: Tất cả các hàng hoá mà doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp doanh được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường Việt Nam bán cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và hàng hoá cuả các doanh nghiệp trong khu chế xuất bán vào thị trường Việt Nam, đều là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và phải nộp thuế theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Cho đến thời điểm 31/3/2005, khu vực FDI chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật có liên quan và ảnh hưởng đến thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu như sau:
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được quốc hội khoá 9, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12/11/1996 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam số 18/2000/QH10 ngày 9/6/2000.
Luật thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu ngày 26/12/1991 và các luật sửa đổi, bổ sung luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 5/7/01993, số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998.
Thông tư 87/2004/TT-BTC ngày 31/8/2004 của Bộ Tài chính.
Thông tư 13/2001/TT-BTC ngày 8 tháng 3 năm 2001của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thông tư số 40/2000/TT-BTC ngày15/5/2000 của Bộ Tài chính.
Các mức thuế suất được xác định cho các mặt hàng cụ thể quy định tại các biểu thuế suất ưu đãi.
Quyết định số 16/2005/QĐ-BTC ngày 28/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về điều chỉnh doanh mục hàng hoá và thuế suất thuế nhập khẩu để áp dụng hạn ngạch thuế quan.
Các Quyết định khác của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 12 tháng 11 năm 1996 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam số 18/2000/QH10 ngày 09/06/2000 thì:
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được áp dụng theo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được miễn giảm thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định gồm:
Thiết bị, máy móc;
Phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và phương tiện vận chuyển dùng để đưa đón công nhân;
Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ tùng đi kèm với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng quy định tại điểm b Điều 47 của Luật đầu tư nước ngoài này;
Nguyên liệu, vật tư dùng để chế tạo thiết bị, máy móc trong dây chuyền công nghệ hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm với thiết bị, máy móc;
Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được.
- Đồng thời Chính phủ cũng quy định trong luật này là miễn, giảm, thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu đối với các hàng hoá đặc biệt cần khuyến khích đầu tư.
Đối tượng chịu thuế XNK:
1. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của các tổ chức kinh tế Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế được phép mua bán, trao đổi, vay nợ với nước ngoài.
2. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của các tổ chức kinh tế nước ngoài, của các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
3. Hàng hoá nêu trên được phép xuất khẩu vào các khu chế xuất tại Việt Nam và hàng hoá của các xí nghiệp trong khu chế xuất được phép nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.
4. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu để làm hàng mẫu, quảng cáo, dự hội chợ triển lãm.
5. Hàng viện trợ hoàn lại và không hoàn lại.
6. Hàng hoá vượt quá tiêu chuẩn hành lý được miễn thuế mang theo người của cá nhân người Việt Nam và người nước ngoài khi xuất nhập cảnh qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
7. Hàng là quà biếu, quà tặng vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hoặc gửi về cho các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam và ngược lại.
8. Hàng hoá xuất nhập khẩu vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam và của các cá nhân người nước ngoài làm việc tại các tổ chức nói trên hoặc tại các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
9. Hàng là tài sản di chuyển vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ chức, cá nhân nước ngoài xuất khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam do hết thời hạn cư trú và làm việc tại Việt Nam và của cá nhân người Việt Nam được Chính phủ Việt Nam cho phép xuất cảnh để định cư ở nước ngoài. (Xem Điều 1 Nghị định 54/CP ngày 28 tháng 8 năm 1993 của Chính phủ).
Đối tượng nộp thuế: Tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế là đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. (Xem Điểm 2 Mục I Phần A Thông tư 87/2004/TT-BTC ngày 31 tháng 8 năm 2004 của Bộ Tài chính)
Cụng thức tớnh thuế:
Số thuế xuất khẩu/nhập khẩu phải nộp
=
Số lượng hàng hoỏ xuất/nhập khẩu
x
đơn giỏ tớnh thuế
x
Thuế suất thuế xuất khẩu/thuế nhập khẩu
=
Trị giỏ tớnh thuế
X
Thuế suất thuế nhập khẩu/xuất khẩu
Thuế suất: Cơ quan quản lý và ban hành thuế suất: Bộ Tài chính - Vụ Chính sách thuế
Thuế suất ưu đãi: Thuế suất ưu đãi là thuế suất áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Mức thuế suất ưu đãi được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế thuế nhập khẩu ưu đãi.
Điều kiện để được áp dụng thuế suất ưu đãi:
- Hàng hóa nhập khẩu phải có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) từ nước hoặc khối nước đã có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Nước hoặc khối nước đó phải nằm trong danh sách các nước hoặc khối nước do Bộ Thương mại thông báo đã có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam;
- Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) phải phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
Các mức thuế suất được xác định cho các mặt hàng cụ thể quy định tại các biểu thuế suất ưu đãi.
Thuế suất ưu đãi đặc biệt:
Là thuế suất được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước mà Việt Nam và nước hoặc khối nước đó đã có thoả thuận ưu đại đặc biệt về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuân lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác. Thuế suất ưu đại đặc biệt được áp dụng cụ thể cho từng mặt hàng theo quy định trong thoả thuận.
Các mức thuế suất đặc biệt được ban hành các biểu riêng cho từng nước, nhóm nước, áp dụng cho từng mặt hàng, nhóm hàng cụ thể. Những mặt hàng không quy định trong các biểu thuế suất ưu đãi đặc biệt thì áp dụng mức thuế suất ưu đại.
Danh mục các nước được hưởng mức thuế suất ưu đãi đặc biệt:
Các nước trong hiệp hội ASEAN
Các nước trong liên minh Châu Âu EU.
Các biểu thuế suất ưu đãi đặc biệt:
Đối với hàng hoá các nước thuộc ASEAN: biểu thuế suất của Việt Nam để thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho các năm 2003 - 2006 ban hành kèm theo nghị định 78/2003/NĐ-CP ngày 01/7/2003 của chính phủ.
Đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước Lào, mức thuế suất được hưởng bằng 50% mức thuế suất ưu đãi hiện hành. Xem Thông tư liên tịch Bộ Tài chính- Bộ Thương mại số 54/2003/TTCT-BTC-BTM ngày 3/6/2003.
Đối với hàng hoá nhập khẩu từ EU:
Biểu thuế suất nhập khẩu để thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo hiệp định buôn bàn hàng dệt, may ký giữa Việt Nam và cộng đồng Châu Âu (EU) cho giai đoạn 2003-2005 ban hành kèm theo quyết định số 197/2003/QĐ-BTC ngày 25/11/2003 của Bộ Tài chính.
Thuế suất thuế nhập khẩu đối với mặt hàng rượu, xe máy nhập khẩu có nguồn gốc từ EU ban hành theo quyết định 17/2004/QĐ-BTC ngày 12/02/2004 của Bộ Tài chính.
Thuế suất thông thường:
Thuế suất thông thường là thuế suất được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước mà Việt Nam không có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc hoặc không có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu.
Thuế suất thông thường cao hơn 50% (năm mươi %) với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng quy định tại biểu thức nhập khẩu ưu đãi và được tính như sau:
Thuế suất thông thường = thuế suất ưu đãi + thuế suất ưu đãi x 50%
Giá tính thuế:
1. Đối với hàng hoá xuất khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương:
Giá tính thuế là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu xuất (giá FOB), không bao gồm phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tải (F).
2. Đối với hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương:
a) Hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư số 118/2003/TT/BTC ngày 8 tháng 12 năm 2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại thì giá tính thuế được xác định theo hướng dẫn tại Thông tư số 118/2003/TT/BTC nêu trên. (Xem phần Trị giá hải quan).
b) Hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá nhưng không thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư số 118/2003/TT/BTC ngày 8 tháng 12 năm 2003 của Bộ Tài chính thì giá tính thuế là giá thực tế phải thanh toán mà người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán về hàng hoá nhập khẩu.
Tổng cục Hải quan hướng dẫn cụ thể việc xác định giá tính thuế nêu tại điểm này.
3. Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương:
Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu không theo hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc hợp đồng không phù hợp theo quy định tại Luật Thương mại thì giá tính thuế xuất khẩu, nhập khẩu do Cục Hải quan địa phương qui định, Tổng cục Hải quan hướng dẫn cụ thể.
4. Các trường hợp đặc biệt:
a) Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải đi thuê thì giá tính thuế nhập khẩu là giá thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải thực phải trả theo hợp đồng đã ký với nước ngoài phù hợp với các chứng từ hợp pháp, hợp lệ có liên quan đến việc đi thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải.
b) Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải đưa ra nước ngoài để sửa chữa thì giá tính thuế khi nhập khẩu trở lại Việt Nam là chi phí sửa chữa thực phải trả theo hợp đồng đã ký với nước ngoài phù hợp với các chứng từ hợp pháp, hợp lệ có liên quan đến việc sửa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải.
Giá thuê thực phải trả hoặc chi phí sửa chữa thực phải trả nêu trên nếu chưa bao gồm chi phí vận tải (F) và phí bảo hiểm (I) thì phải cộng chi phí vận tải và phí bảo hiểm để xác định giá tính thuế nhập khẩu.
Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam cung cấp dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hoá thì giá tính thuế nhập khẩu không bao gồm khoản thuế giá trị gia tăng đối với phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tải (F).
c) Hàng hoá nhập khẩu có bao gồm hàng hoá bảo hành theo hợp đồng mua bán hàng hoá (kể cả trường hợp hàng hoá gửi sau) nhưng giá ghi trên hợp đồng mua bán hàng hoá không tính thanh toán riêng đối với số hàng hoá bảo hành thì giá tính thuế là giá bao gồm cả trị giá hàng hoá bảo hành.
d) Hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng được miễn thuế, tạm miễn thuế, đã đưa vào sử dụng tại Việt Nam nhưng sau đó được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển nhượng hoặc thay đổi mục đích được miễn thuế, tạm miễn thuế trước đây, phải nộp thuế, thì giá tính thuế nhập khẩu được xác định trên cơ sở giá trị còn lại của hàng hoá tính theo thời gian sử dụng và lưu lại tại Việt Nam (tính từ thời điểm nhập khẩu đến thời điểm tính thuế).
5. Đồng tiền nộp thuế: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được nộp bằng đồng Việt Nam. Trường hợp đối tượng nộp thuế muốn nộp thuế bằng ngoại tệ thì phải nộp bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố.
6. Tỷ giá tính thuế: Tỷ giá làm cơ sở để xác định giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố được đăng trên báo Nhân dân hàng ngày. Trường hợp vào các ngày không phát hành báo Nhân dân hàng ngày (hoặc có phát hành nhưng không thông báo tỷ giá) hoặc thông tin không đến được cửa khẩu trong ngày thì tỷ giá tính thuế của ngày hôm đó được áp dụng theo tỷ giá tính thuế của ngày liền kề trước đó. Đối với các đồng ngoại tệ không có giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng thì xác định theo nguyên tắc tỷ giá tính chéo giữa tỷ giá đồng đô la Mỹ (USD) với đồng Việt Nam giao dịch bình quân trên thị trường liên Ngân hàng và tỷ giá giữa đồng đô la Mỹ với các ngoại tệ khác trên thị trường Quốc tế do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố.
Ngoài ra Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn quy định chi tiết về kê khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; về thời điểm tính thuế; thời hạn thông báo thuế.
Các sắc thuế nội địa
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 09/2003/ QH11 được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17/6/2003 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 03/1997/QH9 ngày 10/5/1997. Nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và động viên một phần thu nhập vào Ngân sách nhà nước; bảo đảm sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập. Theo tinh thần của luật này thì:
- Đối tương nộp thuế:
Những đối tượng có yếu tố nước ngoài sau đây chịu sự điều tiết của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú tại Việt Nam;
Cơ sở thường trú là cơ sở kinh doanh mà thông qua cơ sở này công ty ở nước ngoài thực hiện một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam mang lại thu nhập. Cơ sở thường trú của công ty ở nước ngoài chủ yếu bao gồm các hình thức:
Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, xưởng sản xuất, kho giao nhận hàng hoá, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu hoặc khí đốt, địa điểm thăm dò hoặc tài nguyên thiên nhiên hay các thiết bị phương tiện phục vụ cho việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên;
Địa điểm xây dựng; công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; các hoạt động giám sát xây dựng, công trình xây dựng;
Cơ sở cung cấp các dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công cho mình hay một đối tượng khác;
Đại lý cho công ty nước ngoài;
Đại diện ở Việt Nam trong các trường hợp: Có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty ở nước ngoài; và không có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoá cung cấp dịch vụ tại Việt Nam.
Trong trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết có quy định khác về cơ sở thường trú thì thực hiện theo quy định của hiệp định đó.
- Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp:
Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 28%. Riêng đối với các doanh nghiệp tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm khác thì thuế suất này từ 28% đến 50% phù hợp với từng dự án. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được quy định cụ thể trong giấy phép đầu tư. Trường hợp giấy phép đầu tư không quy định thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thì áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 28%.
Số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong năm tính thuế =
= Thu nhập chịu thuế x Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Luật này cũng quy định ở chương IV - Miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất ưu đãi 10%; 15%; 20%.
Tính đến thời điểm 31/03/2005, khu vực đầu tư nước ngoài, chịu sự điều chỉnh của các Luật và văn bản pháp quy có liên quan và ảnh hưởng đến thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp như sau:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 09/2003/QH11 ngày 17/6/2003
Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thông tư 128/2003/TT-BTC ngày 22 tháng 12 năm 2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ.
Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 22 tháng 12 năm 2003 của Bộ Tài chính về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định.
Thông tư số 55/2002/TT-BTC ngày 26 tháng 6 năm 2002 của Bộ Tài chính về hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam áp dụng cho doanh nghiệp, tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Các chuẩn mực kế toán và các thông tư hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực kế toán đã được ban hành.
Thông tư 13/2001/TT-BTC ngày 8 tháng 3 năm 2001của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Các văn bản pháp lý có liên quan khác.
Thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT thu trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng nên đã bao quát hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ, thu cả ở k hâu nhập khẩu, tạo nguồn thu lớn, ổn định và kịp thời cho NSNN. Thuế GTGT khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu nên đã có tác dụng kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư và xuất khẩu, tăng cường quản lý và hạch toán kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế.
Để phù hợp hơn nữa với sự phát triển của thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của lộ tình hội nhập, nhiều nội dung của Luật thuế GTGT đã được sửa đổi và bổ sung như:
- Sửa đổi và bổ sung vào Danh mục đối tượng chịu thuế, không chịu thuế và thuế GTGT đối với một số hàng hoá và dịch vụ.
- Để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, mở rộng giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới, Nhà nước mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% cho một số mặt hàng , và dịch vụ cần khuyến khích xuất khẩu như:
+ Bổ sung xuất khẩu phần mềm máy tính; sửa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải cho nước ngoài; dịch vụ xuất khẩu lao động vào đối tượng chịu thuế và áp dụng thuế suất 0% để doanh nghiệp được khấu trừ hoặc hoàn thuế đầu vào. Đây là những hàng hoá, dịch vụ cần khuyến khích xuất khẩu, do vậy áp dụng thuế suất 0% sẽ góp phần hạ thấp giá thành sản phẩm, dịch vụ tăng khả năng cạnh trạnh của nhóm hàng hoá này ra thị trường quốc tế.
+ Bổ sung than đá xuất khẩu vào đối tượng chịu thuế GTGT để áp dụng thuế suất 0% cho mặt hàng than đá, doanh nghiệp được khấu trừ hoặc hoàn thuế đầu vào nhằm giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp khai thác than xuất khẩu, giải quyết các vấn đề xã hội, việc làm cho hàng ngàn công nhân lao động ở các mỏ than.
Thuế GTGT thu trên trị giá gia tăng thêm của hàng hoá hoặc dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng ở Việt Nam, kể cả của các nhà đầu tư nước ngoài đều chịu sự điều tiết chung của các văn bản luật và văn bản dưới luật về thuế giá trị gia tăng sau đây:
Luật thuế giá trị gia tăng số 02/1997/QH9 ngày 10/05/1997.
Luật thuế sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế giá trị gia tăng số 07/2003/QH11 ngày 17/06/2003.
Nghị định 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của chính phủ quy định chi tiết thi hành luật thuế giá trị giá tăng và luật sửa đổi, bổ sung mốt số điều của Luật thuế giá trị gia tăng.
Thông tư số 120/2003/TT-BTC ngày 12/02/2003 hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế giá trị gia tăng.
Một số Công văn của Tổng cục thuế hướng dẫn, giải đáp các vấn đề của doanh nghiệp.
Thuế tiêu thụ đặc biệt
Luật thuế TTĐB đã được sửa đổi, bổ sung đã được thực hiện gần hai năm, trong khoảng thời gian này một số mặt hàng sản xuất trong nước như lắp ráp ôtô, bia tươi, bia hơi, thuốc lá,… vẫn vẫn được bảo hộ. Tuy nhiên ngay khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO thì buộc phải thực hiện ngay một mức thuế thống nhất giữa mặt hàng sản xuất trong nước và mặt hàng nhập khẩu.
Nội dung điều chỉnh quan trọng nhất của Luật thuế TTĐB là điều chỉnh giảm thuế suất của một nhóm hàng hoá, dịch vụ có thuế suất 20% xuống nhóm 10%, một số hàng hoá, dịch vụ từ nhóm thuế suất 10% xuống còn 5%. Dịch vụ này bao gồm chủ yếu là các sản phẩm thuộc tư liệu sản xuất phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo để sản xuất ra sản phẩm khác và mọt số sản phẩm tiêu dùng mang tính cần thiết như phương tiện cho người tàn tật, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp hạ giá thành sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong quá trình hội nhập.
Thuế TTĐB là một loại thuế gián thu, thay thế cho thuế hàng hoá trước đây, áp dụng cho một số sản phẩm hàng hoá ở khâu sản xuất của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thuế TTĐB có tác dụng hướng dẫn và điều tiết sản xuất và tiêu dùng theo định hướng của nhà nước, góp phần tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Luật thuế TTĐB còn thể hiện chính sách khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ và thực hiện một số chính sách khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ và thực hiện một số chính sách xã hội khác thông qua chế độ miễn giảm thuế.
Cho đến thời điểm 31/3/2005, khu vực FDI chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật có liên quan và ảnh hưởng đến thuế TT ĐB như sau:
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 05/1998/QH10 ngày 20 tháng 5 năm 1998;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 08/2003/QH11 ngày 17 tháng 6 năm 2003;
Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 04/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt;
Thông tư số 119/2003/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 12 tháng 12 năm 2003 về hướng dẫn thi hành Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 04/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt;
Thông tư số 18/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 8 tháng 3 năm 2005 về sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 119/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ Tài chính;
Các văn bản pháp lý có liên quan khác.
Khi mới ban hành Luật thuế TTĐB, đối tượng chịu thuế bao gồm 6 mặt hàng : Thuốc lá, rượu bia , pháo, bài lá, vàng mã của các cơ sở sản xuất bán ra. Đến năm 1993, Luật được sửa đổi thu hẹp còn 4 mặt hàng thuốc lá điếu, rượu, bia pháo và không thu thuế TTĐB các mặt hàng trên nếu xuất khẩu và các mặt hàng thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB ở khâu nhập khẩu.
Bảng 2.1 - Danh mục thuế suất các mặt hàng chịu thuế TTĐB
Mặt hàng
Luật ban hành năm 1990
Luật sửa đổi năm 1993
Thuốc lỏ điếu
20%-40%
32%-70%
Rượu phõn biệt theo độ cồn
55%-65%
15%-90%
Bia
50%
75%-90%
Phỏo, bài lỏ, vàng mó
70%
100%
Thuế suất phân theo từng mặt hàng và có xu hướng tăng đối với những mặt hàng nhà nước không khuyến khích sản xuất và tiêu dùng như thuốc lá điếu, rượu , bài lá, vàng mã:
Để đảm bảo thực hiện đồng bộ với Luật thuế GTGT (có hiệu lực từ 1-1-1999), luật thuế TTĐB đã có nhiều bổ sung và sửa đổi quan trọng. Trong bối cảnh nước ta đang từng bước thực hiện những cam kết về cắt giảm thuế quan theo lộ trình gia nhập AFTA, nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu sẽ bị giảm đi đáng kể. Vì vậy, mở rộng danh mục đối tượng các mặt hàng, dịch vụ thuế TTĐB, để bù đắp một phần sự thiếu hụt cho NSNN là sự cần thiết khách quan, đồng thời đảm bảo sự đồng bộ với các luật thuế khác và phù hợp hơn với các nguyên tắc đã được cam kết với các tổ chức quốc tế.
Nội dung của Luật thuế TTĐB sửa đổi được tập trung vào việc mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB bao gồm 8 mặt hàng ( thay vì 6 mặt hàng như Luật sửa đổi, bổ sung năm 1995, có hiệu lực thi hành năm 1996) như : bổ sung thêm mặt hàng ô tô sản xuất trong nước dưới 24 chỗ ngồi , mặt hàng bài lá, vàng mã, hàng mã và máy điều hòa nhiệt độ công xuất từ 90.000 BTU trở xuống, bổ sung các dịch vụ kinh doanh vũ trường, karaokê, casino, trò chơi máy Jacket, kinh doanh bán thẻ hội viên, vé chơi golf và cá cược đua ngựa, đua xe.
Thuế TTĐB áp dụng thống nhất đối với hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá sản xuất trong nước. Không thu thuế TTĐB đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Đây là một bước tiến của hệ thống thuế nước ta trong việc thực hiện nguyên tắc đối sử quốc gia đã cam kết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế. Thuế suất được điều chỉnh giảm so với trước đây để Phù hợp và đồng bộ với Luật thuế GTGT và Luật thuế XNK khi thực hiện chương trình cắt giảm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12935.DOC