Tài liệu Đề tài Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà: Mục lục
Lời nói đầu
Sau hơn 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước đạt được sự tăng trưởng kinh tế một cách hết sức khó khăn. Thực tế cho thấy muốn có một kết quả kinh tế tăng trưởng cao, một mặt các doanh nghiệp phải huy động các nguồn lực mới, mặt khác phải sử dụng chúng hết sức tiếp kiệm, theo một quy hoạch cơ cấu mang tính dài hạn, tổng thể và có chiến lược. Công việc kinh doanh ngày nay không chỉ còn giới hạn trong nước, mà ngày càng có quan hệ với các khu vực và quốc tế. Do vậy, câu hỏi đặt ra đối với các doanh nghiệp Nhà nước là làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của mình cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Với trình độ còn thấp, tiềm lực của các doanh nghiệp còn yếu hầu như trên tất cả các mặt thì việc nâng cao hiệu quả đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các doanh nghiệp. Làm thế nào để có đủ vốn, để sử dụng có hiệu quả về vốn và các nguồn lực khác, để đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng, để thoát khỏi nguy cơ phá sản và để chiến thắng trên thị ...
75 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời nói đầu
Sau hơn 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước đạt được sự tăng trưởng kinh tế một cách hết sức khó khăn. Thực tế cho thấy muốn có một kết quả kinh tế tăng trưởng cao, một mặt các doanh nghiệp phải huy động các nguồn lực mới, mặt khác phải sử dụng chúng hết sức tiếp kiệm, theo một quy hoạch cơ cấu mang tính dài hạn, tổng thể và có chiến lược. Công việc kinh doanh ngày nay không chỉ còn giới hạn trong nước, mà ngày càng có quan hệ với các khu vực và quốc tế. Do vậy, câu hỏi đặt ra đối với các doanh nghiệp Nhà nước là làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của mình cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Với trình độ còn thấp, tiềm lực của các doanh nghiệp còn yếu hầu như trên tất cả các mặt thì việc nâng cao hiệu quả đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các doanh nghiệp. Làm thế nào để có đủ vốn, để sử dụng có hiệu quả về vốn và các nguồn lực khác, để đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng, để thoát khỏi nguy cơ phá sản và để chiến thắng trên thị trường cạnh tranh đang là bài toán khó với tất cả các doanh nghiệp .
Công ty Bánh kẹo Hải Hà đang ở trong hoàn cảnh đó và mục tiêu nóng bỏng nhất là làm sao để nâng cao hiệu quả kinh doanh lên nữa, để Công ty ngày càng phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu.
Trong thời gian thực tập ở Công ty, tôi nhận thấy đây là vấn đề thời sự đang được quan tâm không chỉ ở Ban Giám đốc mà tất cả cán bộ công nhân viên trong Công ty. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà ” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm rộng, liên quan tới nhiều yếu tố trong quá trình sản xuất. Do thời gian thực tập có hạn nên tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề chính dựa trên phân tích kết quả kinh doanh và những tồn tại của Công ty trong những năm qua để đưa ra biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Luận văn tốt nghiệp có 3 chương gồm:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Chương 2: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà .
Chương 3: Một số biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà .
Chương 1
Một số vấn đề chung về hiệu quả sản xuấtkinh doanh của doanh nghiệp
I. Khái niệm hiệu quả kinh doanh và sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh:
Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc thực hiện tất cả các công đoạn của qúa trình từ đầu tư sản xuất đến tiêu thụ hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Các doanh nghiệp quan tâm nhất chính là vấn đề hiệu quả sản xuất. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với phạm trù lợi nhuận, là hiệu số giữa kết quả thu về với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và quản lý của mỗi doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, gắn với cơ chế thị trường, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh như: lao động, vốn, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,... nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả. Khi đề cập đến hiệu quả kinh doanh các nhà kinh tế dựa vào từng góc độ xem xét để đưa ra các định nghĩa khác nhau[1,2,3].
Ta có thể rút ra khái niệm về hiệu quả như sau: “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự tập trung của phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí chi phí nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh ”. Hiệu quả kinh doanh ngày nay càng trở nên quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, cần hiểu hiệu quả kinh doanh một cách toàn diện trên cả hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế có mối quan hệ khăng khít nhưng cũng có mâu thuẫn. Vì vậy, vấn đề ở đây là tạo sự thống nhất giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của toàn xã hội.
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn, điều đòi hỏi đặt ra ở đây cho doanh nghiệp là không được vì lợi ích trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được đặt trong mối quan hệ mật thiết chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, có thể nói doanh nghiệp là một tế bào, một bộ phận cấu thành của nền kinh tế.
Lợi ích của toàn xã hội, của doanh nghiệp bao giờ cũng phải phù hợp nhau. Thực tế cho thấy có những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lợi cho mình nhưng lại không cần thiết cho xã hội, cũng có thể gây tác hại cho xã hội như ô nhiễm môi trường, thất nghiệp, các tệ nạn,... Mâu thuẫn này cho thấy sự không trùng hợp giữa tiêu chuẩn hiệu quả xã hội với hiệu quả của doanh nghiệp.
2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh.
Bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội, nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Song nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm các yếu tố đầu vào, nguồn nhân lực xã hội. Tiêu chuẩn hoá hiệu quả đặt ra là tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa trên nguồn lực sẵn có.
Ngoài ra, chúng ta cần phải phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh và kết quả kinh doanh.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một qúa trình kinh doanh nhất định. Trong kinh doanh thì kết quả cần đạt được bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả được phản ánh bằng chỉ tiêu định tính như số lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận,... và cũng có thể phản ánh bằng chỉ tiêu định lượng như uy tín, chất lượng sản phẩm.
Về hình thức hiệu quả kinh doanh luôn là phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Kết quả chỉ là cái cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả, muốn đánh giá được hiệu quả kinh doanh phải dựa trên các kết quả đạt được của từng lĩnh vực. Vì vậy, hai khái niệm này độc lập và khác nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau.
3. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh .
Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập và tất cả các tổ chức kinh tế đều bình đẳng cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần trên thị trường. Tăng khả năng cạnh tranh, đứng vững trong cơ chế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả. Hiệu quả càng cao thì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp càng lớn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, làm ăn không có lãi thì doanh nghiệp chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ bị chính thị trường đào thải.
Hơn nữa, nâng cao hiệu quả kinh doanh là yêu cầu thiết yếu của quy luật tiết kiệm. Việc tiết kiệm và hiệu quả kinh doanh có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là hai mặt của vấn đề. Ngược lại, việc tiết kiệm càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện quy luật đó.
Nói tóm lại, đánh giá và phân tích hiệu quả được coi là một trong những công cụ để các nhà quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh không những cho biết việc sản xuất đạt được ở trình độ nào, mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích và đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
3.2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Đối với nền kinh tế quốc dân: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế quan trọng, phản ánh yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, trình độ sản xuất và mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất trong cơ chế thị trường. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng cao, quan hệ sản xuất càng hoàn thiện, càng nâng cao hiệu quả. Càng nâng cao hiệu quả thì càng hoàn thiện quan hệ sản xuất và trình độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất càng cao yêu cầu của quy luật kinh tế ngày càng thoả mãn và điều kiện quản lý kinh tế cơ bản ngày càng được phát huy đầy đủ hơn vai trò và tác dụng của nó. Tóm lại, càng nâng cao hiệu quả kinh doanh đem lại cho quốc gia sự phân bố, sử dụng các nguồn lực càng hợp lý và ngược lại sử dụng các nguồn lực càng hợp lý thì càng hiệu quả.
Đối với bản thân doanh nghiệp: Hiệu quả kinh doanh xét về mặt tuyệt đối chính là lợi nhuận thu được. Nó là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên. Đối với mỗi doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp bảo toàn và phát triển về vốn, qua đó doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường, vừa giải quyết tốt đời sống người lao động, vừa đầu tư mở rộng, cải tạo, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh. Do vậy, hiệu quả chính là căn cứ quan trọng và chính xác để doanh nghiệp đánh giá các hoạt động của mình. Nhận thức đúng đắn về hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.
Đối với người lao động: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là động lực thúc đẩy, kích thích người lao động hăng say sản xuất, luôn quan tâm tới kết quả lao động của mình. Nâng cao hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống người lao động trong doanh nghiệp. Nâng cao đời sống sẽ tạo động lực trong sản xuất, làm tăng năng suất lao động, tăng năng suất lao động sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh :
Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó liên quan tới các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó, chỉ tiêu về doanh số bán hàng và tổng chi phí ảnh hưởng mạnh và trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh. Các nhân tố đó có thể tác động đến hai chỉ tiêu một cách tích cực hoặc tiêu cực hoặc tác động có tính hai mặt tuỳ từng thời điểm. Vì vậy, các doanh nghiệp cần nghiên cứu nhân tố này để phát huy hay hạn chế sự tác động của nó đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ đó làm cơ sở để đề ra các đường lối, chính sách thích hợp.
1. Nhân tố khách quan:
1.1.Giá cả và các mặt hàng cạnh tranh.
Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp cùng ngành và cùng sản xuất một ngành hàng hoặc một nhóm hàng có thể trở thành bạn hàng của nhau trong kinh doanh, giúp nhau về vốn, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm. Nhưng ngược lại, các doanh nghiệp này cũng có thể trở thành đối thủ của nhau trên thị trường đầu vào và đầu ra.
Đối với thị trường đầu vào: Doanh nghiệp muốn tăng lợi nhuận, đồng nghĩa với việc tăng hiệu quả buộc doanh nghiệp phải tìm mọi giải pháp để giảm chi phi, nhất là chi phí vật tư, nguyên vật liệu bằng cách mua chúng trực tiếp từ người sản xuất, tránh nhập qua nhiều khâu trung gian và thực hiện việc so sánh giá cả cũng như chất lượng từ các nhà cung cấp để có quyết định đúng đắn.
Đối với thị trường đầu ra: Trong nền kinh tế thị trường, giá cả sản phẩm thuộc nhân tố khách quan, nó phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng. Do đó, các doanh nghiệp phải xây dựng các chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt, thúc đẩy doanh số bán hàng, chiếm lĩnh thị trường và tăng hiệu quả. Nếu doanh nghiệp định giá cao hơn thị trường tất yếu sức mua hàng hoá đó sẽ giảm vì còn vô số kẻ cạnh tranh với doanh nghiệp đang bán những sản phẩm tương tự , có chất lượng tương đương hoặc kém hơn một chút và cũng có thể là tốt hơn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp định giá quá thấp, hiệu quả kinh doanh sẽ ảnh hưởng.
1.2. Nhân tố sức mua và cấu thành sức mua
Nhân tố này chịu sự tác động của: giá cả, chất lượng sản phẩm, thu nhập, thói quen và thị hiếu của người tiêu dùng. Nhưng bản thân nhân tố sức mua và cấu thành sức mua chịu ảnh hưởng của nhân tố số lượng và cơ cấu mặt hàng sản xuất. Mỗi một sản phẩm của doanh nghiệp có hiệu quả riêng nên nhân tố sức mua và cấu thành sức mua cũng khác nhau, làm cho hiệu quả chung của doanh nghiệp cũng thay đổi. Nếu sản xuất kinh doanh các mặt hàng phù hợp với nhu cầu, có hiệu quả cao, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ mặt hàng của doanh nghiệp thì hiệu quả của doanh nghiệp cũng tăng lên. Do vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải ngiên cứu kỹ nhân tố này để có kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất.
1.3.Nhân tố thời vụ
Trong sản xuất và tiêu dùng luôn có nhân tố thời vụ. Thời vụ sản xuất và thời vụ tiêu dùng có khi phù hợp nhau nhưng có khi lại mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này ảnh hưởng tới thời gian dự trữ, ảnh hưởng tới chi phí dự trữ, từ đó tác động đến hiệu quả. Nhân tố này quyết định cơ cấu mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ do đó ảnh hưởng tới công tác tổ chức sản xuất kinh doanh. Nhưng nhân tố này rất phức tạp, không phải thời vụ sản xuất và tiêu dùng cứ phù hợp nhau là giảm được thời gian dự trữ mà hiệu quả kinh doanh tăng.
1.4. Nhân tố tài nguyên môi trường
Tài nguyên môi trường cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh rất lớn đối với nền kinh tế. Nếu như nguồn tài nguyên dồi dào sẽ làm cho giá nguyên vật liệu rẻ, chi phí sản xuất giảm dẫn đến giá thành sản phẩm giảm và làm tăng lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn. Bên cạnh những thuận lợi về tài nguyên môi trường mang lại cũng có lúc nó lại ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí khắc phục hậu quả thiên tai, chi phí an toàn lao động, giá nguyên vật liệu tăng do tài nguyên thiên nhiên khan hiếm cũng làm cho hiệu quả kém đi.
1.5. Nhân tố kinh tế vĩ mô và các chế độ, chính sách của Nhà nước
Từ khi Nhà nước thay đổi cơ chế, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, phát triển đất nước theo định hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá bộ mặt nền kinh tế có nhiều thay đổi. Các doanh nghiệp trong nước có thể liên doanh, liên kết với nước ngoài mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, các chính sách đầu tư thông thoáng hơn. Mục tiêu phát triển của doanh nghiệp phải xuất phát từ định hướng phát triển của đất nước. Lợi ích của doanh nghiệp gắn chặt với lợi ích kinh tế - xã hội của đất nước.
Một trong những công cụ chính của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế là các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, luật pháp. Đó là hệ thống các nhân tố tác động trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu chính sách lãi suất tín dụng quy định mức lãi suất quá cao sẽ gây cản trở cho việc vay vốn của doanh nghiệp và làm tăng chi phí vốn, lợi nhuận giảm và hiệu quả kinh doanh cũng sẽ giảm.
2. Nhân tố chủ quan.
2.1.Nhân tố quản trị trong doanh nghiệp.
Quản trị kinh doanh ở các doanh nghiệp công nghiệp là việc tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất sao cho hợp lý.
Nhân tố quản trị liên quan trực tiếp đến việc lập kế hoạch kinh doanh, tổ chức thực hiện kinh doanh hay nói cách khác là liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp muốn có bộ máy quản trị tốt phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn cao, không những nắm vững kiến thức về tổ chức quản lý và kinh doanh mà còn phải nắm bắt được xu hướng biến động về nhu cầu tiêu dùng, thích ứng với cơ chế thị trường, phải có khả năng nhìn xa trông rộng, khả năng tiên đoán, phân tích các tình huống để hoạch định cho mình một bước đi trong tương lai.
Hơn nữa, việc lựa chọn bộ máy quản trị phù hợp với từng doanh nghiệp, từng loại hình kinh doanh, đảm bảo nguyên tắc gọn nhẹ, thống nhất, linh hoạt sẽ giúp cho quá trình sản xuất trôi chảy, có thể kết hợp các nguồn lực đầu vào tối ưu nhất, từ đó nâng cao hiệu quả.
2.2.Lao động
Lao động là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Mọi nỗ lực đưa khoa học kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại vào sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh doanh đều do con người tạo ra và thực hiện chúng. Song để đạt được điều đó đội ngũ nhân viên lao động cũng cần phải có một lượng kiến thức chuyên môn ngành nghề cao, góp phần vào ứng dụng trong sản xuất tốt, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trên thị trường mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.
2.3.Vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh cũng là một yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh lớn, nó sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Vốn là nền tảng, là cơ sở cho doanh nghiệp hoạt động, góp phần đa dạng hoá phương thức kinh doanh, đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá mặt hàng, xác định đúng chiến lược thị trường. Ngoài ra, vốn còn giúp cho doanh nghiệp đảm bảo độ cạnh tranh cao và giữ ưu thế lâu dài trên thị trường.
2.4.Trang thiết bị kỹ thuật
Ngày nay, có lẽ công nghệ là nguồn thay đổi năng động nhất trong tương lai. Sự thay đổi này mang lại những thách thức cũng như những đe doạ đối với các nhà doanh nghiệp. Một số ý kiến cho rằng nó là: “sự phá huỷ của sáng tạo” nhờ đó những sản phẩm mới thay thế các sản phẩm cũ rất thường xuyên. Nhưng cũng nhờ nó mà con người được giải phóng sức lao động, năng suất tăng lên rất nhiều lần trong cùng một thời gian, dẫn tới tăng hiệu quả. Mặt khác, trang thiết bị kỹ thuật không những đáp ứng cho khách hàng sản phẩm tốt, hình dáng đẹp, không xâm hại đến sức khoẻ mà còn thoả mãn những nhóm khách hàng đòi hỏi sản phẩm có thuộc tính đặc biệt.
III. Phương pháp và hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1. Một số quan điểm trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
Trong cơ chế thị trường hầu hết các doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh đều chú trọng đến hiệu quả, để quá trình sản xuất diễn liên tục đòi hỏi hiệu quả của nó phải cân đối với các mối quan hệ khác. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh phải dựa vào các quan điểm sau đây:
-Đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
-Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.
- Bảo đảm tính toàn diện và tính hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
-Bảo đảm tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
-Căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
2. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần nghiên cứu và nhận thức đúng các phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh. Có một số phương pháp phân tích hiệu quả kinh doanh chủ yếu sau:
2.1.Phương pháp chi tiết
Mọi kết quả kinh doanh đều cần thiết và có thể chi tiết theo những hướng khác nhau. Thông thường trong phân tích, phương pháp chi tiết được thực hiện theo những hướng:
Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu: Mọi kết quả kinh doanh biểu hiện các chỉ tiêu đều bao gồm nhiều bộ phận. Chi tiết các chỉ tiêu theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về lượng của các bộ phận đó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc đánh giá chính xác kết quả đạt được. Với ý nghĩa đó, phương pháp chi tiết theo bộ phận cấu thành được sử dụng rộng rãi trong phân tích mọi mặt kết quả kinh doanh. Ví dụ: trong phân tích giá thành, chỉ tiêu đơn giá đơn vị sản phẩm hoặc mức chi phí thường được chi tiết theo các khoản mục giá thành.
Chi tiết theo thời gian: kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một quá trình. Do nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan, tiến độ thực hiện quá trình đó trong từng đơn vị thời gian xác định thường không đồng đều. Chi tiết theo thời gian sẽ làm cho việc đánh giá kết quả kinh doanh được sát, đúng và tìm các giải pháp có hiệu quả cao cho công việc kinh doanh. Tuỳ theo đặc tính của quá trình kinh doanh, tuỳ nội dung kinh tế của chỉ tiêu phân tích và tuỳ mục đích phân tích khác nhau có thể lựa chọn khoản thời gian và chỉ tiêu chi tiết cho phù hợp.
Chi tiết theo địa điểm: Phương pháp này nhằm đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của từng bộ phận, phạm vi và địa điểm khác nhau, nhằm khai thác mặt mạnh và khắc phục mặt yếu kém của bộ phận và phạm vi hoạt động khác nhau.
2.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng rộng rãi nhất trong phân tích hiệu quả kinh doanh với mục đích đánh giá hiệu quả, đánh giá vị trí và xu hướng biến động của đối tượng phân tích.
Các chỉ tiêu phân tích có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phân tích. Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích, người ta thường tiến hành so sánh bằng hai cách: so sánh bằng số tuyệt đối, so sánh bằng số tương đối. Các chỉ tiêu đưa ra so sánh cần phải thống nhất với nhau:
- Đảm bảo tính thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu.
- Đảm bảo tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu.
- Đảm bảo tính thống nhất về đơn vị tính của các chỉ tiêu cả về số lượng, thời gian và giá trị.
2.2.1. Phương pháp so sánh tuyệt đối:
Phương pháp này cho ta biết được khối lượng, quy mô tăng giảm của doanh nghiệp qua các thời kỳ phân tích hoặc giữa các doanh nghiệp với nhau.
= -
Mức tăng giảm trên chỉ phản ánh về lượng, thực chất của việc tăng giảm trên không nói là có hiệu quả, tiết kiệm hay lãng phí. Phương pháp này được dùng kèm với các phương pháp khác khi đánh giá hiệu quả giữa các kỳ
2.1.2. Phương pháp so sánh tương đối
Phương pháp này cho ta biết mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp này có ba dạng:
Dạng giản đơn:
Tỷ lệ so sánh =
Trong đó: Gi: Trị số chỉ tiêu kỳ phân tích
Go:Trị số chỉ tiêu kỳ gốc
Nếu kết quả lớn hơn 100% thì doanh nghiệp làm ăn có lãi và ngược lại
Dạng có liên hệ:
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối quan hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ phận...do vậy phương pháp giản đơn không phản ánh được toàn diện hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà chỉ phản ánh được một khía cạnh đơn thuần.
Tỷ lệ so sánh=
Trong đó :Gli: Trị số chỉ tiêu cần liên hệ kỳ phân tích
Glo: Trị số chỉ tiêu cần liên hệ kỳ gốc
Phương pháp này chỉ ra hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với mối liên hệ với các nhân tố ảnh hưởng khác. Dùng phương pháp này giúp cho doanh nghiệp đánh giá đúng về thực chất hiệu quả kinh doanh của mình, xem xét hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có mang lại hiệu quả hay không.
Dạng kết hợp:
Mức tăng giảm tương đối=
Phương pháp này cho ta biết kết cấu, quan hệ, tốc độ phát triển của các chỉ tiêu. Trong phân tích thường kết hợp cả hai phương pháp so sánh tuyệt đối và tương đối để đánh giá toàn diện các chỉ tiêu so sánh.
2.3 Phương pháp loại trừ
Loại trừ là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến hiệu quả kinh doanh bằng các loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác. Phương pháp loại trừ có hai loại:
Phương pháp thay thế liên hoàn:
Là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhóm nhân tố đến sự biến động của các chỉ tiêu phân tích.
Phương pháp này được sử dụng trong phân tích hiẹu quả kinh doanh nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới đối tượng phân tích bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác tác động tới đối tượng phân tích.
Phương pháp số chênh lệch:
Phương pháp số chênh lệch là một dạng đặc biệt của phương pháp thay thế liên hoàn nhằm phân tích các nhân tố thuận lợi ảnh hưởng tới sự biến động của các chỉ tiêu kinh tế.
Phương pháp này chỉ áp dụng đối với trong trường hợp nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu bằng tích số và cũng có thể áp dụng trong trường hợp các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu bằng thương số.
3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một ván đề phức tạp, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh. Do đó để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu bộ phận
3.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp.
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động, toàn bộ các khâu của quá trình kinh doanh trong doanh nghiệp.
Nhóm chỉ tiêu tổng hợp chia làm hai loại:
3.1.1 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng
- Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh: được tính bằng cách lấy lợi nhuận so với vốn kinh doanh đã bỏ ra (vốn cố định và vốn lưu động)
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn kinh doanh bỏ ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó có tác dụng khuyến khích việc quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm đồng vốn trong mỗi khâu của quá trình kinh doanh, chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh =
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn tự có: được tính băng cách lấy tổng số lợi nhuận so với vốn tự có của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết 1đồng vốn tự có của doanh nghiệp sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn tự có =
Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu: Chỉ tiêu này được so sánh giữa phần lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được và doanh thu tiêu thụ. Nó cho biết cứ một đồng doanh thu đạt được thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỉ suất lợi nhuận càng cao thì hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt.
Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu =
- Doanh lời: là chỉ tiêu phản ánh sức sinh lời, khả năng sinh lời của các doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được tính toán dựa vào phần lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được so với tổng chi phí bỏ ra.
Tỷ suất lợi nhuận =
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp thường dùng. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
3.1.2 Các chỉ tiêu phản ánh số lượng
Gồm các chỉ tiêu: -Tổng lợi nhuận
-Tổng doanh thu
-Tổng chi phí
3.2 Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận
Bên cạnh các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất trong một thời kì nhất định, thì người ta còn sử dụng các chỉ tiêu bộ phận để phân tích hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động, từng yếu tố cụ thể.
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận đảm nhận hai chức năng sau:
+ Phân tích có tính chất bổ xung cho chỉ tiêu tổng hợp để trong một số trường hợp kiểm tra và khẳng định rõ kết luận được rút ra từ các chỉ tiêu tổng hợp.
+ Phân tích hiệu quả của từng mặt hoạt động, hiệu quả sử dụng của từng yếu tố sản xuất kinh doanh nhằm tìm biện pháp tối đa hoá chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp. Đây là chức năng chủ yếu của hệ thống chỉ tiêu này.
Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp và chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận không phải là mối quan hệ cùng chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì có thể những chỉ tiêu bộ phận tăng, giảm hoặc không đổi.
3.2.1 Hiệu quả sử dụng vốn
Để có các yếu tố đầu vào doanh nghiệp cần có một lượng vốn kinh doanh nhất định, nếu thiếu vốn hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ bị ngừng trệ hoặc kém hiệu quả. Đánh giá hiệu sử dụng vốn kinh doanh sẽ thấy được chất lượng quản lý, vạch ra khả năng tiềm tàng để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này được xác định thông qua công thức doanh lợi so với toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng để thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng vốn ta phải đi sâu vào đánh giá từng bộ phận cấu thành vốn đó là hiệu quả sử dụng vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
- Số vòng quay toàn bộ vốn (SVv)
Trong đó : SVV là số vòng quay của vốn.
TR: là doanh thu.
VKD: là vốn kinh doanh bình quân trong kì.
và vốn kinh doanh được tính theo công thức
V1 ... Vn số vốn sản xuất kinh doanh tại thời điểm thống kê.
n là số thời điểm thống kê.
Chỉ tiêu này phản ánh sức sản xuất kinh doanh của toàn bộ số vốn, số vòng quay của vốn càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định
+ Sức sản xuất của vốn cố định =
Chỉ tiêu này cho thấy năng suất của vốn cố định, cứ một đồng vốn cố định bỏ ra thu được bao nhiêu đồng doanh thu.
+ Sức sinh lời của vốn cố định =
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng lớn.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Vốn lưu động là giá trị ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu thông cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghệp. Nó tham gia toàn bộ, trực tếp vào quá trình sản xuất kinh doanh và thường chiếm tỉ trọng rất lớn. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động thường được xác định bằng các chỉ tiêu cơ bản sau:
+ Sức sản xuất của vốn lưu động =
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kì nhất định vốn lưu động luân chuyển được bao nhiêu vòng hay một đồng vốn lưu động tham gia vào quả trình sản xuất kinh doanh sẽ tạo được bao nhiêu đồng doanh thu. Nó có thể được dùng để so sánh giữa các thời kì của một đơn vị hoặc giữa các đơn vị cùng qui mô trong một thời kì.
Sức sinh lời của vốn lưu động =
Lợi nhuận
Vốn lưu động bình quân
Nó phản ánh chất lượng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra sẽ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kì. Chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong kì càng cao.
3.2.2 Hiệu quả sử dụng lao động
Trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, lao động của con người có tính chất quyết định nhất. Sử dụng lao động có hiệu quả sẽ làm tăng khối lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu sau để đánh giá xem doanh nghiệp đã sử dụng lao động có hiệu quả hay không.
Năng suất lao động bình quân trong kỳ
Trong đó: W: năng suất lao động bình quân trong kỳ
Q: Giá trị( số lượng) sản phẩm tạo ra trong kỳ
L: Tổng lao động bình quân sử dụng trong kỳ
+ Mức thu nhập hoặc lợi nhuận đạt được trên một lao động
Trong đó:
HLĐ : Mức thu nhập bình quân ( lợi nhuận) trên một lao động
P: Lợi nhuận đạt được trong kì
Hai chỉ tiêu phản ánh đầy đủ về hiệu quả sử dụng lao động trong kì của doanh nghiệp cả về mặt số lượng và chất lượng. Tuy nhiên để đánh giá toàn diện hơn về hiệu quả sử dụng lao động, người ta con sử dụng một số chỉ tiêu như hiệu suất sử dụng lao động hoặc hiệu suất sử dụng thời gian lao động. Các chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá hiệu quả sử dụng lao động và sử dụng số lượng thời gian lao động hiện có, giảm số lượng lao động dư thừa, nâng cao hiệu suất sử dụng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công thức xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh trên được tổng hợp qua bảng sau:
Chỉ tiêu Công thức xác định
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn kinh doanh trong kỳ
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh bộ phận
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Sức sinh lời của vốn lưu động
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn lưu động bình quân
Sức sản xuất của vốn lưu động
Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Sức sinh lời của vốn cố định
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn cố định bình quân
Sức sản xuất của vốn cố định
Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Vốn cố định bình quân
Hiệu quả sử dụng lao động
Năng suất lao động
Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Tổng số lao động bình quân trong kỳ
Lợi nhuận bình quân tính cho một lao động
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng số lao động bình quân trong kỳ
Trên đây là một số vấn đề chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở vận dụng các vấn đề lý thuyết chung đã đề cập. Em đã vận dụng để tìm hiểu thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà để phân tích các hiệu quả kinh doanh mà Công ty đã đạt được. Đồng thời vạch rõ những khó khăn, vướng mắc, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Chương 2
Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanhcủa Công ty bánh kẹo Hải Hà
I. Giới thiệu chung về công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty:
Công ty Bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc bộ Công nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh các mặt hàng bánh kẹo phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân.
Trụ sở của Công ty đặt tại:
Số 25 Trương Định- Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội
Tên giao dịch: Haiha Confectionery Company
Viết tắt: HaiHaCo
Sau đây là những chặng đường Công ty đã trải qua:
Giai đoạn từ 1959 – 1961:
Miền Bắc nước ta sau ba năm khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh (1955 – 1957) đã có nhiều tiến bộ. Để thực hiện công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, Đảng ta đã đề ra kế hoạch ba năm (1958-1960) cải tạo và phát triển kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó, tháng 1-1959 Tổng công ty Nông thổ sản miền Bắc (thuộc Bộ Nội thương) đã xây dựng một cơ sở thử nghiệm nghiên cứu hạt trân châu với chín cán bộ công nhân viên của Tổng công ty gửi sang. Giữa năm 1959, nhà máy chuyển sang ngiên cứu sản xuất miến. Tháng 4-1960 công trình thử nghiệm đã đem lại kết quả ngày 25-12-1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời đánh dấu bước ngoặt đầu tiên cho cho quá trình phát triển của nhà máy sau này.
Giai đoạn từ 1962-1967:
Đến năm 1962, xưởng miến Hoàng Mai thuộc Bộ Công nghiệp Nhẹ quản lý. Tuy khó khăn về trình độ chuyên môn nhưng năm nào doanh nghiệp cũng hoàn thành kế hoạch. Năm 1965 xí nghiệp đã hoàn thành kế hoạch với tổng giá trị sản lượng 2999,815 nghìn đồng . Bên cạnh đó, xí nghiệp Hoàng Mai đã có nhiều tiến bộ trong công tác tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn, nâng cao tay nghề công nhân và cải thiện đời sống của người lao động trong xí nghiệp.
Năm 1966 nhiệm vụ của nhà máy đã có sự chuyển hướng để phù hợp với tình hình mới. Thực hiện chủ trương của Bộ công nghiệp nhẹ, Bộ thực phẩm đã lấy nơi đây làm công tác các đề tài thực phẩm. Từ đây nhà máy mang tên gọi mới: Nhà máy thực nghiệm thực phẩm Hải Hà.
Giai đoạn từ 1961-1991
Tháng 6-1970 thực hiện chủ trương của Bộ lương thực thực phẩm, nhà máy đã chính thức tiếp nhận phân xưởng kẹo của nhà máy bánh kẹo Hải Châu bàn giao sang với công suất 900 tấn/ năm vơí nhiệm vụ chính là sản xuất kẹo nha, giấy tinh bột.
Đến tháng 12-1976 nhà máy phê chuẩn thiết kế mở rộng nhà máy với công suất 6000 tấn/năm.
Đến 1980 nhà máy chính thức có hai tầng với tổng diện tích sử dụng 2500 m2.
Năm 1981-1985 là thời gian ghi nhận bước chuyển biến của nhà máy từ giai đoạn sản xuất thủ công sang cơ giới hoá. Bắt đầu từ năm 1981, nhà máy lại được chuyển sang Bộ công nghiệp thực phẩm quản lý nhưng vẫn với tên gọi: Nhà máy thực phẩm Hải Hà.
Năm 1988, do việc sát nhập các nhà máy trực thuộc Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm quản lý. Thời kì này nhà máy mở rộng và phát triển thêm nhiều dây chuyền sản xuất mới, dần thực hiện luận chứng kinh tế. Sản phẩm của nhà máy được tiêu thụ rộng rãi trong cả nước và xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Một lần nữa nhà máy đổi tên thành Nhà máy xuất kẹo Hải Hà. Tốc độ tăng sản lưọng hàng năm từ 1%-15%, sản xuất từ chỗ thủ công đã dần tiến tới cơ giới hoá 70%-80% với số vốn Nhà nước giao từ 1-1-1992 là 5454 triệu đồng.
Giai đoạn từ 1992 đến nay
Tháng 1-1992, nhà máy chuyển về trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ quản lý. Trước tình hình biến động của thị trường nhiều doanh nghiệp đã phá sản nhưng Hải Hà vẫn đứng vững và vươn lên.
Tháng 7-1992 Nhà máy xuất khẩu kẹo Hải Hà được quyết định đổi tên thành Công ty bánh kẹo Hải Hà, với tên giao dịch là HAIHACO trực thuộc Bộ công nghiệp quản lý. Mặt hàng sản xuất chính là bánh kẹo như: kẹo sữa dừa, kẹo hoa quả, kẹo sôcôla, bánh biscuit, bánh kem..
Tháng 5-1992 Hải Hà chính thức liên doanh với Nhật Bản và Hàn Quốc thành lập công ty liên doanh HaiHa- Kotubuki và Haiha- Kameda, HaiHa- Miwon nhưng đến nay chỉ còn Haiha-kotubuki và Haiha-Miwon.
Trải qua hơn một phần tư thế kỉ, Hải Hà mang nhiều tên gọi khác nhau, qua nhiều bộ phận quản lý, đánh dấu sự thay đổi từng loại hình sản xuất và phản ánh xu thế phát triển của Nhà máy. Công ty bánh kẹo Haỉ Hà bằng tiềm lực sẵn có với nỗ lực không ngừng vươn lên đã tự khẳng định mình và tiếp tục thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn. Tính đến nay, Công ty đã có 5 xí nghiệp thành viên và 2 công ty liên doanh.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty
Nhiệm vụ của công ty bánh kẹo Hải Hà được qui định như sau:
- Sản xuất và kinh doanh các loại bánh kẹo để cung cấp cho thị trường.
- Xuất khẩu các sản phẩm của công ty và công ty liên doanh, nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất của công ty và thị trường.
- Ngoài sản xuất bánh kẹo là chính công ty còn kinh doanh các mặt hàng khác để không ngừng nâng cao đời sống và thúc đẩy sự phát triển của công ty ngày càng lớn mạnh.
Ngoài ra, công ty còn có nhiệm vụ sau:
+ Bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao.
+ Thực hiện các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
+ Thực hiện phân phối theo lao động: chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho CBCNVC, nâng cao trình độ chuyên môn.
Như vậy, mục tiêu chung của công ty là đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước, đồng thời không ngừng phát triển qui mô doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân trong công ty.
3. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty Bánh kẹo Hải Hà
3.1. Đặc điểm bộ máy tổ chức của công ty
Qua sơ đồ ta thấy bộ máy tổ chức của Công ty được bố trí theo cơ cấu trực tuyến – chức năng. Cơ cấu tổ chức quản lý và cơ cấu sản xuất của công ty có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau tạo động lực phát huy hiệu quả trong công việc. Thông tin của lãnh đạo cấp cao nhanh chóng được truyền đạt cho cán bộ cấp dưới và có được nhanh thông tin phản hồi, thông tin có tính nhất quán và tính chính xác cao.
* Cơ cấu quản trị:
Đứng đầu bộ máy quản trị là tổng giám đốc, người quản trị công ty theo chế độ 1 thủ trưởng, có quyết định điều hành hoạt động sản xuất của công ty theo đúng kế hoạch, chính sách pháp luật của nhà nước và chịu trách nhiệm trước tập thể lao động về kết quả sản xuất, kinh doanh của Công ty. Tổng giám đốc là người đại diện cho công ty trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phó tổng giám đốc tài chính có chức năng tham mưu cho tổng giám đốc về công tác quản trị tài chính.
Trực thuộc Phó tổng giám đốc tài chính gồm 2 phòng: Tài vụ và Kế toán.
Phòng Tài vụ có chức năng huy động vốn cho sản xuất, thanh toán các khoản nợ, vay và trả (nội bộ và đối ngoại)
Phòng Kế toán có chức năng tính giá thành sản phẩm, xác định kết quả sản xuất kinh doanh (lãi hay lỗ).
Phó tổng giám đốc kỹ thuật có chức năng chỉ đạo, kiểm tra chất lượng sản phẩm, tham mưu cho tổng giám đốc về kỹ thuật khi công ty có nhu cầu đầu tư dây chuyền sản xuất.
Trực thuộc phó tổng giám đốc kỹ thuật gồm 2 phòng: Kỹ thuật và KCS có chức năng theo dõi việc thực hiện các quá trình công nghệ, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, nghiên cứu và chế thử sản phẩm mới.
Phó tổng giám đốc kinh doanh chịu trách nhiệm về quản trị nguyên vật liệu và tiêu th sản phẩm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của công ty luôn nhịp nhàng đều đặn.
Phó tổng giám đốc kinh doanh giám sát hoạt động của phòng Kinh doanh.
Phòng Kinh doanh có chức năng lập kế hoạch sản xuất kinh doanh (ngắn hạn và dài hạn), cân đối kế hoạch, điều độ sản suất và chỉ đạo kế hoạch cung ứng vật tư sản xuất, ký hợp đồng và theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, thu mua vật tư thiết bị tiêu thụ sản phẩm, tổ chức hoạt động Marketing từ qúa trình sản xuất đến tiêu thụ, thăm dò và mở rộng thị trường, lập ra các chiến lược tiếp thị quảng cáo, lập phương án phát triển cho Công ty.
Các nhóm thuộc phòng kinh doanh là hệ thuộc các cửa hàng, nhóm Marketing, nhóm cung ứng vật tư, nhóm xây dựng cơ bản, nhóm điều hành sản xuất, nhóm vận tải, nhóm bốc vác, kho tàng.
Văn phòng có chức năng lập định mức thời gian cho các loại sản phẩm, xác định mức tiền lương, tiền thưởng cho toàn bộ công nhân viên của công ty, tuyển dụng lao động, phụ trách vấn đề bảo hiểm an toàn lao động vệ sinh công nghiệp, phục vụ và tiếp khách.
* Cơ cấu sản xuất:
Cơ cấu sản xuất của công ty được chuyên môn hoá tới từng xí nghiệp, mỗi xí nghiệp được phân công chế biến những sản phẩm nhất định và tổ chức sản xuất theo phương pháp dây chuyền liên tục. Sự mạnh dạn đổi mới mô hình cơ cấu tổ chức sản xuất được công ty thực hiện năm 1995:
-Tập trung 3 phân xưởng sản xuất kẹo thành xí nghiệp kẹo.
-Tập trung 2 phân xưởng sản xuất bánh thành xí nghiệp bánh.
-Tập trung các bộ phận in hộp, cắt giấy, nề mộc, cơ điện ... thành xí nghiệp phụ trợ.
-Sát nhập Nhà máy thực phẩm Việt Trì vào công ty.
-Sát nhập Nhà máy bột dinh dưỡng vào công ty.
3.2. Đặc điểm về lao động.
Đặc điểm sản xuất của Công ty là lao động nhẹ nhàng, đòi hỏi sự khéo léo của người lao động nên lao động nữ chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%.
Trong những năm qua lực lượng lao động của Công ty không ngừng lớn mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng. Từ một Công ty chỉ có 1000 lao động đến nay con số này lên tới gần 2000 lao động. Điều này cho thấy trong những năm qua Công ty hoạt động rất có hiệu quả, từ đó dẫn tới mở rộng hoạt động sản xuất. Số lượng cán bộ công nhân viên được bố trí như sau:
Bảng 2: Số lượng và cơ cấu lao động của Công ty
Stt
Nội dung
Tổng số
Hành chính
XN Kẹo
XN Bánh
XN Phụ trợ
XN Việt Trì
XN Nam Định
1
Lao động dài hạn
1048
109
365
90
41
387
56
2
Lao động 1-3 năm
608
43
170
172
5
203
15
3
Lao động thời vụ
314
5
47
51
0
211
0
4
Tổng số
1970
157
582
313
46
801
71
5
Lao động gián tiếp
259
157
14
13
7
40
28
-Nghiệp vụ kinh tế
189
132
8
8
1
25
15
-Nghiệp vụ kỹ thuật
56
25
5
5
5
9
7
-Phục vụ, vệ sinh
20
3
2
2
1
6
66
6
Lao động trực tiếp
1711
0
568
300
39
761
43
(Nguồn :Phòng tổ chức)
Với tổng số công nhân viên là 1970 người (năm 2000), trong đó 1656 người làm việc thường xuyên tại Công ty, còn 314 người làm theo thời vụ (ví dụ vào những dịp lễ, tết..) đã tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của Công ty. Ban giám đốc không chỉ quan tâm đến số lượng lao động mà còn chú trọng đến chất lượng lao động. Công ty thường xuyên mở các lớp đào tạo tại doanh nghiệp, cử người đi học nước ngoài về quản lý kinh tế và tổ chức các cuộc thi tay nghề lên bậc thợ cho công nhân.
Hiện nay, Công ty có 164 người có trình độ đại học, 37 người đạt trình độ cao đẳng và 44 người đạt trình độ trung cấp, bậc thợ bình quân toàn Công ty là 4/7. Nếu đem so sánh các Công ty sản xuất bánh kẹo nói chung thì Công ty Bánh kẹo Hải Hà có trình độ đại học và trình độ chuyên môn vào loại khá, điều này, góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh của Công ty trên thị trường.
Bảng 3: Cơ cấu lao động theo trình độ.
ĐVT: người
Chỉ tiêu lao động
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Công nhân
kỹ thuật
1.Cán bộ kỹ thuật
35
15
6
2.Cán bộ quản lý
129
22
38
3.Công nhân bậc 6-7
305
4.Công nhân bậc 4-5
507
5.Công nhân bậc 3
722
Tổng số
164
37
44
1534
Số lượng cán bộ làm công tác lãnh đạo quản lý, làm công tác khoa học kỹ thuật là 245 người, chiếm 15% trong tổng số lao động. Trong đó, trình độ đại học chiếm 9,9%, cao đẳng chiếm 2,23% và trình độ trung cấp chiếm 2,87%. Đối với đặc điểm của ngành sản xuất bánh kẹo thì đây là một tỷ lệ khá cao, thể hiện số cán bộ có trình độ quản lý có trình độ cao, tạo điều kiện tốt cho Công ty trong việc điều hành sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
3.3. Đặc điểm về công nghệ, thiết bị sản xuất.
3.3.1 Đặc điểm về trang thiết bị.
Trước đây máy móc thiết bị của Công ty phần lớn là lạc hậu cũ kỹ, năng suất thấp. Nhưng từ năm 1990 trở lại đây, Công ty đã nhập các thiết bị của các nước công nghiệp tiên tiến như: Đức, Italia, Đan Mạch, Nhật Bản. Tuy nhiên, các thiết bị có công suất nhỏ và vừa, đây là chiến lược dài hạn đúng đắn của Công ty do nhận định về thị trường Việt Nam tương đối bình ổn về nhu cầu bánh kẹo trong tương lai, môi trường cạnh tranh khốc liệt và tỷ lệ hao mòn vô hình về tài sản tăng nhanh.
Bảng 4: Thiết bị công nghệ sản xuất của Công ty
Tên thiết bị sản xuất
Nước sản xuất
Năm sử dụng
Công suất (Kg/giờ)
Thiết bị sản xuất kẹo
Nồi nấu kẹo chân không.
Máy gói kẹo cứng.
Máy gói kẹo mềm, kiểu gấp xoắn.
Máy gói kẹo mềm kiểu gói gối.
Dây chuyền kẹo Jelly đổ khuôn.
Dây chuyền kẹo Jelly cốc.
Dây chuyền kẹo Carmen béo.
Đài loan
Italia
Đức
Hà Lan
Australia
Inđônêxia
Đan Mạch
1990
1993
1995
1996
1996
1997
1998
300
500
600
1000
2000
120
200
2.Thiết bị sản xuất bánh.
-Dây chuyền sản xuất bánh qui.
-Dây chuyền phủ sôcôla.
-Dây chuyền sản xuất đóng gói bánh.
Đan Mạch
Đan Mạch
Nhật Bản
1993
1993
1995
300
200
300
Như vậy, trình độ trang thiết bị sản xuất bánh kẹo của Công ty Bánh kẹo Hải Hà đã có sự đầu tư hợp lý. Bên cạnh các trang thiết bị hiện đại tự động hoá Công ty còn kết hợp sử dụng kỹ thuật thủ công truyền thống. Việc đầu tư thêm máy móc thiết bị không chỉ làm tăng qui mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn góp phần đa dạng hoá sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm và phát triển sản phẩm của Công ty
3.3.2 Đặc điểm về qui trình công nghệ
Hầu hết các qui trình công nghệ sản ở Công ty rất đơn giản, chu kỳ ngắn, qúa trình chế biến sản phẩm nằm gọn trong một phân xưởng nên công tác tổ chức và quản lý chất lượng sản phẩm tương đối thuận tiện. Các dây chuyền sản xuất nửa tự động, nửa thủ công hoặc một vài khâu trong dây chuyền là tự động, một vài khâu thủ công. Sau đây là các sơ đồ qui trình công nghệ sản xuất của ba chủng loại sản phẩm chính là kẹo mềm, kẹo cứng và bánh các loại.
Shortening, Magarin
Đánh trộn bông xốp
Bổ xung glucô, lecithin
Đường xay, bột mì, hương liệu
Đánh trộn
Máy dập hình
Nướng bánh
Băng tải nguội
Đóng túi
Xếp hộp thành phẩm
Sơ đồ 2:Qui trình công nghệ sản xuất bánh Biscuit
Đường kính, mật, tinh bột
Hoà tan
Lọc
Đánh trộn
Làm nguội
Nấu kẹo
Quật keo
Phụ liệu hương liệu
Cán kẹo
Sắt kẹo
Sàng kẹo
Gói tay
Chặt miếng
Lăn côn
Vuốt kẹo
Gói máy
Sơ đồ 3: Qui trình sản xuất kẹo mềm
Đường kính, glucô
Hoà, lọc đường
Thùng chứa
Nấu tại nồi nấu liên tục
Phòng làm lạnh
Thành hình
Sàng, làm nguội
Hương liệu Bơm dịch nhân
Tạo dịch nhân
Lựa chọn
Bao gói
Đóng thành phẩm
Nhập kho
(Nếu kẹo có nhân)
Sơ đồ 4: Qui trình sản xuất kẹo cứng
Cả ba qui trình công nghệ trên tuy không phức tạp nhưng mỗi bước đều phải tuân theo các chỉ tiêu kỹ thuật. Nếu một trong các chỉ tiêu kỹ thuật bị vi phạm như vệ sinh, thừa thiếu nguyên vật liệu, già lửa, non lửa…sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm. Chẳng hạn nhiệt độ quá cao hoặc áp suất quá cao sẽ gây ra hiện tượng già lửa, kẹo cứng, ăn khó nhai. Nếu nấu ở áp suất thấp gây ra non lửa, kẹo thường hay bị chảy nước, khó bảo quản.
Biện pháp để tránh sai sót trong quá trình sản xuất là Công ty phải luôn nâng cao tay nghề cho công nhân và phổ biến thường xuyên về các chỉ tiêu kỹ thuật cần đạt được. Đồng thời, kết hợp hài hoà giữa máy móc và thủ công, đưa nguyên vật liệu vào sản xuất phải kịp thời phù hợp với qui trình công nghệ cả về số lượng và chất lượng.
3.4. Đặc điểm về vốn
Vốn là một trong những yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong thực tế, có rất nhiều Công ty phải ngừng hoạt động vì thiếu vốn nhưng Công ty bánh kẹo Hải Hà lại có năng lực khá mạnh về vốn so vơí các doanh nghiệp Nhà nước khác. Do hoạt động kinh doanh của Công ty trong nhiều năm qua có hiệu quả, kết hợp với khả năng huy động từ nhiều nguồn khác. Với tiềm lực đó Công ty có rất nhiều thuận lợi trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như khả năng mở rộng thị phần được khẳng định là có triển vọng.
Bảng 5: Cơ cấu vốn của Công ty
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
I. Cơ cấu vốn
1. Vốn lưu động
47,22
37,28
46,89
38,31
47,1
38
2. Vốn cố định
79,44
62,77
75,5
61,69
76,65
62
Tổng số
126,66
100
122,39
100
123,75
100
II. Nguồn vốn
1. Vốn chủ sở hữu
45,6
36
48,05
39,29
50,738
41,00
2.Vay ngắn hạn
74,95
59,1
64,68
52,84
56,75
45,85
3. Vay từ nguồn khác
6,11
4,9
9,66
7,9
16,262
13,15
Tổng số
126,66
100
122,39
100
123,75
100
3.5. Đặc điểm sản phẩm
Công ty Bánh kẹo Hải Hà qua nhiều năm hoạt động, sản phẩm cùng với tên gọi của Công ty đã khẳng định được thế mạnh trên thị trường. Ngày nay, với thiết bị hiện đại như Italia, Đức, Đan mạch, Australia, Nhật Bản… sản phẩm của Hải Hà đã được người tiêu dùng ưa thích, xứng đáng với danh hiệu Hàng Việt Nam chất lưọng cao.
Thành phần chủ yếu của bánh kẹo bao gồm: đường, nha, bột mì, sữa, hương liệu… với tỷ lệ nhất định cho mỗi loại sản phẩm. Bánh kẹo là những sản phẩm thuộc đồ ăn ngọt phục vụ chủ yếu cho các dịp lễ, tết do đó tình hình sản xuất của Công ty mang tính thời vụ. Thành phần chủ yếu là các nguyên liệu hữu cơ, dễ bị vi sinh phá huỷ, nên thời hạn bảo hành ngắn, thông thường là 60 ngày, riêng kẹo càphê là 180 ngày, tỷ lệ hao hụt tương đối lớn và yêu cầu vệ sinh cao. Khác với sản phẩm thông thường, quá trình để hoàn thành sản phẩm bánh kẹo ngắn chỉ trong ba giờ, vì vậy không có sản phẩm dở dang.
Sản phẩm của Công ty được chia thành các loại chính như sau:
Tên sản phẩm
Công suất sản xuất
Bánh
Ngọt
7 Tấn/ ngày
Mặn
5 Tấn/ ngày
Kẹo
Cứng
10 Tấn/ ngày
Mềm
8 Tấn/ ngày
Dẻo
12 Tấn/ ngày
Kẹo cứng là mặt hàng truyền thống của Công ty, bao gồm: Kẹo Caramen béo, hoa quả, Wandisney, kẹo tây du ký…Mỗi loại sản phẩm kẹo cứng có hương vị khác nhau như dứa, Socola, Ô mai, dừa, Cốm, Me. Kẹo cứng có nhân lần đầu tiên sản xuất ở Việt Nam tại Công ty bánh kẹo Hải Hà với dây truyền sản xuất nhập từ Ba Lan. Nó có đặc trưng về mùi thơm, dòn, dễ ăn, hương vị hài hoà. Tuy nhiên, trong Công ty thì sản kẹo mềm và kẹo dẻo chiếm ưu thế hơn cả về số lượng và chất lượng do nhu cầu hiện nay trên thị trường về kẹo thì kẹo mềm và kẹo dẻo vẫn được nhiều người yêu thích hơn. Kẹo dẻo của Công ty gồm: Jelly chíp chíp, Gôm, mè xửng, Jelly đổ khuôn. Kẹo mềm gồm: kẹo bắp bắp, mơ, sữa dừa, cốm…
Về sản phẩm bánh, Công ty đã kịp thời nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại tiên tiến của Italia, Đan Mạch… để cho ra xưởng các loại bánh Biscuit, bánh Craker, bánh kem xốp… phục vụ cho nhu cầu sở thích của từng đối tượng tiêu dùng.
3.6. Đặc điểm thị trường bánh kẹo ở nước ta hiện nay và các đối thủ cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Hà.
Ngay sau khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, thị trường bánh kẹo ở nước ta trở nên hết sức sôi động. Nó có sự góp mặt của hàng trăm đơn vị cung cấp bánh kẹo trong nước như Công ty đường Biên Hoà, Công ty đường Quảng Ngãi, Công ty Vinabico, Tràng An, Hải Châu, Kinh Đô…Bên cạnh đó, còn có các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống như: Kẹo dừa bến tre, Bánh đậu xanh Rồng Vàng, Bánh Cốm, Bánh kẹo nhập khẩu từ biên giới Việt Nam – Campuchia, Việt Nam - Trung Quốc, rồi bánh kẹo nhập lậu, nguồn sản xuất bất hợp pháp, hàng nhái nhãn hiệu, không bảo đảm vệ sinh thực phẩm. Do đó, trong những năm gần đây sản phẩm trên thị trường nước ta tăng về số lượng, đa dạng về chủng loại, ta có thể thấy rõ qua bảng dưới đây:
Bảng 7: Tình hình sản xuất bánh kẹo trong toàn quốc.
Khu vực cung cấp
1998
1999
2000
Sản lượng(tấn)
%
Sản lượng(tấn)
%
Sản lượng(tấn)
%
DN Nhà nước
60.606.08
42,72
61.500
41,55
63.720
42,29
Công ty Liên doanh
20.345
14,34
22.000
14,86
19.865
13,18
Các thành phần kinh tế khác
47.620
33,57
49.500
33,46
50.100
33,25
Nhập Khẩu
13.286
9,37
15.000
10,13
17.000
11,28
Tổng cộng
141.849
100
148.000
100
150.685
100
So với năm trước
104,33
101,81
Qua bảng trên ta thấy sản xuất kinh doanh trong một môi trường cạnh tranh như vậy Công ty bánh kẹo Hải Hà phải chịu một sức ép rất lớn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
* Đối thủ cạnh tranh trong nước
Sản phẩm cuả Hải Hà có mặt ở cả ba vùng Bắc, Trung, Nam. Trong đó, thị trường miền Bắc là thị trường chính của Công ty và chiếm tỷ trọng tiêu thụ lớn nhất. Miền Trung cũng đã tiêu thụ một phần nhưng ở miền Nam lượng tiêu thụ rất ít so với Miền Bắc và miền Trung mặc dù dân cư rất đông. Nguyên nhân chủ yếu của sự khác biệt về khả năng tiêu thụ là thị hiếu tiêu dùng của từng vùng là khác nhau.
ở thị trường miền Bắc mà cụ thể là tại Hà Nội, Hải Hà có một đối thủ cạnh tranh lớn là Công ty bánh kẹo Hải Châu. Hải Châu cũng sản xuất một số sản phẩm tương tự như của Hải Hà nhưng giá cả lại thấp hơn. Đây là một khó khăn lớn của Hải Hà. Ngoài ra cũng ngay tại thị trường Hà Nội, Hải Hà còn chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của các Công ty khác như Công ty bánh kẹo Tràng An , đặc biệt kẹo cốm Tràng An chất lượng cao, mùi vị đặc trưng của cốm đã có uy tín với người tiêu dùng, bánh kẹo của Công ty sữa Vinamilk như bánh Petibeur, sản phẩm của nhà máy 19-5, bánh kẹo Thiên Hương, Hữu Nghị…
Thị trường miền Trung và miền Nam thì các đối thủ chủ yếu của Hải Hà là các Công ty đường như: Quảng Ngãi, Lam Sơn, Biên Hoà. Các đối thủ cạnh tranh này có một lợi thế rất lớn đó là nguyên liệu đường tự sản xuất được, một nguyên liệu chủ yếu của bánh kẹo nên chi phí đầu vào thấp hơn hẳn so với Hải Hà. Mặt khác, họ lại không phải chịu thuế với các sản phẩm đường nên gía thành thấp hơn hẳn so với Hải Hà và trạng thái đó là cạnh tranh không cùng trên một mặt bằng.
Ngoài ra, Hải Hà còn chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của Công ty liên doanh Perfetti , kẹo cao su có nhân Bloop, kẹo sữa Apenliebe và Công ty chế biến thực phẩm Kinh Đô với sản phẩm bánh các loại đặc biệt là Snack Bim Bim.
* Các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
Bên cạnh các đối thủ cạnh tranh trong nước. Hải Hà còn phải chịu sự cạnh tranh của các đối thủ nước ngôài như các nước ASEAN và Trung Quốc . Các sản phẩm bánh kẹo của các nước ASEAN có chất lượng cao nhưng giá lại đắt , nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng có thu nhập cao, đây là các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của Doanh nghiệp. Còn đối với bánh kẹo của Trung quốc có giá rất rẻ, chất lượng đa dạng, phong phú và thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nhóm khách hàng có thu nhập thấp. Đây là đối thủ trực tiếp nguy hiểm của Công ty. Từ những đánh giá và nhận định thực tiễn ở trên về các đối thủ cạnh tranh công ty cần đề ra những sách lược và đối lược phù hợp, thích ứng với từng đối thủ.
II. Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Hà.
1. Tình hình kinh doanh và khả năng chiếm lĩnh thị trường của Công ty.
1.1. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty một số năm gần đây.
Trước năm 1986, Công ty bánh kẹo Hải Hà sản xuất và kinh doanh theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp của nhà nước. Mọi chỉ thị, chỉ tiêu kế hoạch do nhà nước giao Công ty đều cố gắng hoàn thành và vượt mức kế hoạch được giao. Sau năm 1986, với chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà Nước ta , Hải Hà nói riêng và các doanh nghiệp trong cả nước nói chung như được thổi luồng sinh khí mới. Đó là việc nhà Nước ta xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà nước. Chính tại thời điểm này, Công ty đã khẳng định mình hơn bao giờ hết trong sự nghiệp xây dựng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Tốc độ tăng sản lượng hàng năm từ 10-15%. Từ sản xuất thủ công là chính Công ty đã chuyển sang cơ giới và bán tự động hoá và lợi nhuận không ngừng tăng từ số vốn của Nhà nước giao cho.
Cùng với sự hội nhập và phát triển của nền kinh tế thế giới, với tư duy nhạy bén và tầm nhìn chiến lược của thời đại. Tháng 5 năm 1992 Công ty đã liên doanh với Nhật Bản tạo ra hình thức hợp tác đầu tư 2 bên cùng có lợi. Cũng trong giai đoạn này, Hải Hà có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ nhất từ 30-35%/ năm. Sản phẩm của Công ty được xuất khẩu sang một số thị trường nước ngoài như Đông Âu , ASEAN… Đối với thị trường trong nước, sản phẩm của Công ty có mặt hầu hết 61 tỉnh thành trong cả nước. Sinh ra trong chiến tranh, trưởng thành và phát triển trong sản xuất và xây dựng. Công ty bánh kẹo Hải Hà đã không ngừng phát triển, sản phẩm của Công ty ngày càng thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng, đáp ứng lòng mến mộ và tin yêu của nhân dân, xứng đáng một trong những doanh nghiệp hàng đầu sản xuất bánh kẹo trong cả nước.
Với gần 40 năm xây dựng và phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Hải Hà đã không ngừng đổi mơí và phát triển. Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm và đầu tư thiết bị máy móc hiện đại để cho ra đời nhưng sản phẩm mới có chất lượng cao, đa dạng, phong phú về chủng loại, màu sắc, giá cả đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Do vậy mà trong một số năm qua Công ty dẫn đầu về doanh số bán và năm 1999 được bình chọn vào “Top Ten” – Hàng Việt Nam chất lượng cao. Hiện nay với công suất hơn 11.000 tấn/ năm, doanh số bán trung bình đạt 164 tỷ đồng/ năm, Công ty được coi là một trong những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả. Kết quả kinh doanh của Công ty trong những năm gầm đây được phản ánh như sau: ( xem bảng 8).
Bảng 8: Kết quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Hà
từ năm 1997-2000.
Stt
Chỉ tiêu
Đ. vị tính
1997
1998
1999
2000
1
Giá trị tổng sản phẩm
Tỷ đồng
133,35
135,5
132,8
138
2
Doanh thu
Tỷ đồng
153,38
161,5
162,5
168
3
Chi phí bán hàng
Tỷ đồng
2,01
1,953
1,987
2,125
4
Chi phí quản lý
Tỷ đồng
12,795
13,144
15,058
15,732
5
Nộp ngân sách
Tỷ đồng
16,017
16,17
18,2
20,45
6
Lợi nhuận
Tỷ đồng
0,325
0,2
0,3
0,38
7
Sản Lượng
Tấn
10.694
10700
9.840
10.850
8
Thu nhập bình quân
Ng.đồng
700
730
750
900
9
Tổng vốn
Tỷ đồng
110,750
126,66
122,39
123,75
-Vốn lưu động
Tỷ đồng
40,350
47,22
46,89
47,1
- Vốn cố định
Tỷ đồng
70,4
79,44
75,5
76,65
10
Số công nhân viên
Người
1921
1832
1962
1970
( Nguồn: Phòng tài vụ và phòng hành chính)
1.2. Tình hình kinh doanh các mặt hàng:
Hiện nay, Công ty sản xuất gần 100 chủng loại bánh kẹo. Do đặc tính của sản phẩm không phải đầu tư theo chiều sâu mà chủ yếu bằng đa dạng hoá sản phẩm, nên Công ty luôn cố gắng, nghiên cứu, tìm kiếm các sản phẩm mới. Việc nhập thêm một số dây chuyền sản xuất kẹo Jelly, Caramen đã giúp cho Công ty có những sản phẩm đặc trưng. Tình hình tiêu thụ của các nhóm mặt hàng trong một số năm gần dây được thể hiện qua bảng 9.
Bảng 9: Cơ cấu kinh doanh các nhóm hàng chính của Công ty
Đơn vị tính: Tấn
Tên
1998
1999
2000
99/98
20/99
Bánh
Ngọt
Kem xốp các loại, qui kem, xốp dừa, cẩm chướng, bông hồng vàng…
2100
1890
2137
90
113,06
Mặn
Violét, dạ lan hương, thuỷ tiên, phomát…
1020
1090
1270
106,86
116,5
Kẹo
Cứng
Dưa xoài, dâu, Socola, hoa quả, tây du ky
2900
2150
2820
74,13
131,16
Mềm
Cốm, sữa dừa, càphê, bắp bắp, mơ
3700
3520
3423
95,13
97,24
Dẻo
Jelly chip chip, gôm, mè xửng
980
1080
1200
110,2
111,11
Tổng số
10.700
9.840
10.850
91,96
110,26
Qua số liệu ở bảng trên ta thấy năm 1999 sản lượng tiêu thụ giảm 860 tấn (9.840 - 10.700) ứng với tỷ lệ giảm 8,04% (91,96 - 100). Năm 2000 so với năm 1999 sản lượng tiêu thụ tăng 1.010 tấn (10.850 - 9.840) tăng 10,26% (110,26 -100). Như vậy năm 1999 Công ty đã không hoàn thành kế hoạch tiêu thụ, còn năm 2000 Công ty đã hoàn thành vượt mức kế hoạch.
Năm 1999, hầu hết các mặt hàng duy chỉ có bánh mặn tăng 6,86%, kẹo dẻo tăng 110,2 % còn bánh ngọt giảm 10% , kẹo cứng giảm 25,87% , kẹo mềm giảm 4,87%. Điều này là do ảnh hưởng của các nhân tố:
Mặc dù Công ty đã mở rộng gần 100 chủng loại sản phẩm nhưng chịu sự ảnh hưởng của bão lụt miền Trung, chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các Công ty Bánh Kẹo trong nước và nước ngoài. Do vậy, thị phần của Công ty có xu hướng giảm xuống. Một số sản phẩm mới đưa ra chưa có chỗ đứng trên thị trường, hơn nữa giá còn cao so với chủng loại của các Công ty khác dẫn tới sản lượng tiêu thụ giảm.
Một số chính sách thuế quan, bảo hộ hàng trong nước đã gây khó khăn cho Công ty.
Sang năm 2000 sản lượng tiêu thụ của Công ty tăng lên do Công ty mở rộng hệ thống đại lý trên toàn quốc, các sản phẩm của Công ty đã được người tiêu dùng ưa thích. Hơn nữa, trong năm 2000 Công ty đã tăng chi phí cho các hoạt động hỗ trợ bán hàng như dành 4% doanh thu quảng cáo, khuyến mại, hàng quí thưởng cho 20 đại lý có sản phẩm tiêu thụ cao nhất.
Tình hình các mặt hàng tiêu thụ còn được thể hiện qua bảng số 10
Bảng 10: Tình hình tiêu thụ một số mặt hàng.
(ĐVT: tấn)
stt
Mặt hàng
1999
2000
Sản xuất
Tiêu thụ
Tỷ trọng %
Sản xuất
Tiêu thụ
Tỷ trọng %
1
Kẹo Jelly các loại
835
800
95,8
1050
989
94,2
2
Kẹo cứng nhân
681,2
684,95
100,55
760,64
720
94,65
3
Kẹo tây du ký
375,8
509,1
135,47
525,8
530
100,8
4
Kẹo bắp bắp
97,83
90,62
92,63
96,8
97,5
100,7
5
Kẹo cốm
512,4
528,9
133,22
530,5
503,67
94,94
6
Kẹo socola
563,8
627,5
95,98
630
625,8
99,33
7
Bánh kem xốp
700
689,25
98,46
725,3
730,6
100,7
8
Bánh qui các loại
1300
1486
114,30
1568
1538
98,08
9
Bánh cẩm chướng
746,8
768,9
102,96
795,2
786,4
98,9
10
Bánh Layơn
3,834
3,026
78,92
3,65
3,45
94,52
Bảng trên phản ánh tình hình tiêu thụ các mặt hàng chủ yếu đại diện cho gần 100 chủng loại sản phẩm. Hầu hết khối lượng các mặt hàng tiêu thụ đều sát với khối lượng sản suất của Công ty. Điều này chứng tỏ công tác điều hành sản xuất của Công ty là rất tốt, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng, không xảy ra tình trạng thiếu sản phẩm cung cấp cho thị trường.
Mặt khác, trong năm 2000 hầu hết các mặt hàng trên đều tăng khối lượng tiêu thụ. Cụ thể, kẹo Jelly tăng 89 tấn ( 898 - 800) , kẹo cứng nhân tăng 35,05 tấn (720 - 684,95), kẹo tây du ký tăng 20,9 tấn ( 530 - 509,1), kẹo bắp bắp tăng 6,88 tấn (97,5 - 90,62), bánh kem xốp tăng 41,35 tấn (730,6 - 689,25), bánh qui tăng 52 tấn (1538 - 1468), bánh cẩm chướng tăng 17,5 tấn (768,4 - 786,9), bánh Lay ơn tăng 0,424 tấn (3,45 - 3,026). Duy chỉ có kẹo cốm và kẹo Socola giảm với một lượng không lớn, đối với kẹo cốm giảm 25,23 tấn (503,67 - 528,9), kẹo Socola giảm 1,7 tấn.
Sở dĩ có sự thay đổi về tinh hình tiêu thụ là do:
Lượng tiêu thụ kẹo Socola, kẹo Cốm giảm là do trong năm 1998, 1999 Công ty chưa đưa ra sản phẩm mới, có chất lượng cao có thể thay thế được kẹo Socola, kẹo Cốm là sản phẩm truyền thống được nhiều Công ty bánh kẹo khác sản xuất.
Trong tương lai, Công ty có kế hoạch sản xuất một số loại sản phẩm và thúc đẩy tiêu thụ. Bánh cẩm chướng có hiệu quả kinh doanh thấp nhưng lại có sản lượng tiêu thụ mạnh do đó Công ty chưa có ý định tìm sản phẩm thay thế mà trước mắt cố gắng giảm giá thành. Đối với loại bánh Lay ơn có hiệu quả cao nhưng khối lượng tiêu thụ là rất thấp do giá thành cao kéo theo gía bán cao tương ứng 58.000 đ/kg. Hiện nay, Công ty vẫn duy trì sản xuất loại bánh này vào các dịp lễ, tết . Nói chung, tỷ lệ lãi của bánh kẹo là rất thấp do trênh lệch giữa giá thành và giá bán là rất nhỏ. Do vậy, để nâng cao hiệu quả, Công ty cố gắng tìm những biện pháp để hạ giá thành sản phẩm.
1.3. Khả năng chiếm lĩnh thị trường của Công ty.
Tình hình khai thác thị trường của Công ty trong cả nước được thể hiện ở sản lượng tiêu thụ. Do giá của sản phẩm còn cao và thu nhập của mỗi vùng là khác nhau. Do vậy sức tiêu thụ ở mỗi vùng cũng khác nhau. Điều này được thể hiện ở trong bảng 11.
Tình hình chiếm lĩnh thị trường từng tỉnh thành thể hiện tình hình tiêu thụ ở thị trường đó. Theo số liệu của bảng, sản phẩm của Công ty bánh kẹo Hải Hà tiêu thụ ở Hà Nội là lớn nhất chiếm khoảng 30% tổng sản lượng tiêu thụ. So với các Công ty bánh kẹo khác tiêu thụ tại thị trường Hà Nội như: Hải Châu, Tràng An, Hữu Nghị, 19-5, thì sản phẩm tiêu thụ của Hải Hà nhiều hơn cả chiếm 40 % thị phần. Tuy nhiên, việc chiếm lĩnh thị trường Hà Nội đang giảm dần ưu thế do quá nhiều đối thủ cạnh tranh đặc biệt là hàng ngoại nhập. Trước tình trạng cạnh tranh gay gắt trên thị trường, việc tiến triển của Công ty bánh kẹo Hải Hà được tiến hành theo hai phương hướng :
-Khai thác mở rộng thị trường ngay trên thị trường truyền thống ( thị trường Miền Bắc) . Đây là hướng chủ yếu của Công ty.
-Phát triển các thị trường mới vào các vùng sâu, vùng xa và các tỉnh phía Nam có khả năng phát triển.
Tốc độ phát triển thị trường của Công ty rất mạnh và có chiều hướng tăng liên tục ở hầu hết các thị trường. Hiện nay, Công ty đang từng bước xây dựng cả thị trường trong nước và ngoài nước ( xem bảng 11)
Bảng 11: Tình hình tiêu thụ kẹo tại các thị trường địa phương của Công ty bánh kẹo Hải Hà từ năm 1997-2000
ĐVT: tấn
Thị trường
Sản lượng(tấn)
Mức chênh lệch(%)
1998
1999
2000
99/98
2000/99
Hà Nội
3011
2902
3032
96,38
104,48
Hà Tây
289
291
320
100,69
110
Hải Phòng
338
338
412
100
121,9
Thái Bình
301
341
358
113,29
105
Nam Hà
330
346
383
104,85
110,7
Hà Bắc
277
277
285
100
102,89
Vĩnh Phú
275
281
313
102,18
111,38
Hoà Bình
178
181
196
101,69
108,29
Hải Hưng
148
145
158
97,97
109
Thái Nguyên
106
105
109
99,06
103,8
Yên Bái
269
284
287
105,57
101,05
Phú Yên
20
5
20
25
400
Thanh Hoá
985
801
998
81,32
124,6
Nghệ An
993
910
1050
96,38
114,29
Hà Tĩnh
260
191
268
73,46
140,3
Sơn la
128
133
139
103,9
104,5
Cần Thơ
10
8
12
80
150
Lai Châu
80
77
89
96,25
115,58
Lâm Đồng
32
15
38
46,875
253,33
Sơn la
27
25
34
92,59
136
Gia Lai
20
10
15
50
150
Đắc lắc
491
400
483
81,47
120,75
Đà Nẵng
175
125
205
71,43
164
T.P. HCM
425
355
437
83,53
123
T.T. Huế
93
55
95
59,14
172,7
Qui nhơn
180
131
181
70,05
138,16
Tuyên quang
106
110
136
103,77
123,6
Quảng ninh
277
298
311
107,58
104,36
Ninh bình
213
217
231
101,88
106,45
Quảng Ngãi
184
104
176
56,52
169,23
Khánh Hoà
69
37
69
53,62
186,48
Xuất khẩu
410
350
0
85,36
Tổng số
10.700
9.840
10.850
1.4. Chỉ tiêu doanh thu
Thực trạng doanh thu của Công ty bánh kẹo Hải Hà từ năm 1997 đến nay được thể hiện qua bảng 12 sau:
Bảng 12: Tình hình doanh thu của Công ty từ năm 1997- 2000
Năm
ồ doanh thu
Tốc độ tăng doanh thu
Chênh lệch(tỷ đồng)
% so với năm trước
1997
153,38
1998
161,5
8,12
105,29
1999
162,5
1
100,62
2000
168
5,5
103,38
Nguồn : Phòng kinh doanh
Qua số liệu trên ta thấy, từ năm 1997 đến năm 2000 doanh thu liên tục tăng. Năm 1998 so với năm 1997 tăng 8,12 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 5,29%. Nhưng đến năm 1999 doanh thu có tăng hơn so với năm 1998 là 1 tỷ đồng nên tốc độ tăng là 0,62 %. Đến năm 2000 doanh thu so với năm 1999 tăng vọt lên 5,5 tỷ đồng , đạt 103,38%. Nguyên nhân của việc tăng doanh thu này là do:
-Cuối năm 1997 đầu năm 1998 Công ty đưa vào sản xuất kẹo Jelly và kẹo Caramen béo- một loại kẹo có chất lượng cao. Đồng thời, Công ty sản xuất tăng thêm gần 20 chủng loại bánh kẹo khác .
-Năm 1999 do ảnh hưởng của cơn bão lụt Miền Trung và sự giải thể của Công ty liên doanh Cameda làm cho doanh thu tăng chậm lại. Mặc dù tổng sản lượng tiêu thụ giảm nhưng một số hàng có giá bán cao có sản lượng tiêu thu tăng lên, nên doanh thu năm 1999 vẫn tăng.
-Sang năm 2000, danh mục sản phẩm của Công ty mở ra gần 100 chủng loại. Các sản phẩm ra đời đã dần khẳng định trên thị trường cả về chất lượng và giá cả, thị phần tăng lên kéo theo doanh thu tăng 5,5 tỷ đồng so với năm 1999.
Để so sánh doanh thu giữa các năm với nhau ta có thể biểu hiện qua biểu đồ sau:
1.5. Chỉ tiêu lợi nhuận và nộp ngân sách
1.5.1 Lợi nhuận
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của kết quả kinh doanh đó là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí.
Tình hình thể hiện lợi nhuận của được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng 13: Kết quả kinh doanh của Công ty từ 1998- 2000
Đơn vị tính: Tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
1
Tổng doanh thu
161,5
162,5
168
2
Các khoản giảm trừ
10,703
12,355
15,5
3
Doanh thu thuần
150,797
150,145
152,5
4
Giá vốn hàng bán
135,5
132,8
134,263
5
Lợi tức gộp
15,297
17,345
18,237
6
Chi phí bán hàng
1,953
1,987
2,125
7
Chi phí quản lý doanh nghiệp
13,144
15,058
15,732
8
Lợi nhuận
0,2
0,3
0,38
Bảng 14: Sự tăng giảm các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
STT
Chỉ tiêu
1999/1998
2000/1999
1
Tổng doanh thu
1
5,5
2
Các khoản giảm trừ
1,625
3,145
3
Doanh thu thuần
-0,652
2,355
4
Giá vốn hàng bán
-2,7
1,463
5
Lợi tức gộp
2,048
0,829
6
Chi phí bán hàng
0,034
0,138
7
Chi phí quản lý
1,914
0,674
8
Lợi nhuận
0,1
0,08
Lợi nhuận phụ thuộc vào các khoản làm tăng lợi nhuận như doanh thu và các khoản làm giảm lợi nhuận như giá vốn hàng bán, chi phí.
Qua bảng phân tích trên cho thấy, lợi nhuận của Công ty từ năm 1997 - 2000 đều tăng. So với năm 1998, lợi nhuận năm 1999 tăng 100 triệu đồng và lợi nhuận năm 2000 so với năm 1999 tăng 80 triệu đồng. Tốc độ tăng lợi nhuận của năm 1999/1998 lớn hơn tốc độ tăng của năm 2000/1999 là 23,33%. Điều này là do ảnh hưởng của các nhân tố sau:
-Tổng doanh thu bán hàng thay đổi: Doanh thu thường có mối quan hệ cùng chiều với lợi nhuận, khi doanh thu tăng thì lợi nhuận cũng tăng và ngược lại.
Doanh thu năm 1999 so với năm 1998 tăng 1tỷ đồng kéo theo lợi nhuận tăng tương ứng 1tỷ đồng vào năm 1999.
Doanh thu năm 2000 so với năm 1999 tăng 5,5 tỷ đồng làm cho lợi nhuận tăng tương ứng 5,5 tỷ đồng.
-Do các khoản giảm trừ bao gồm: chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, thuế tiêu thụ thay đổi. Năm 1999 so với năm 1998 tăng 1,625 tỷ đồng làm cho lợi nhuận năm 1999 giảm tương ứng 1,625 tỷ đồng. Năm 2000 so với năm 1999 tăng 3,145 tỷ đồng làm cho lợi nhuận giảm tương ứng 3,145 tỷ đồng.
-Do giá vốn hàng bán thay đổi: đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới lợi nhuận.
Năm 1999 so với năm 1998 giá vốn hàng bán giảm 2,7 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ giảm là 0,44% ( 99,56 - 100) đây là một nhân tố tốt phản ánh sự nỗ lực của bản thân Công ty dẫn tới lợi nhuận tăng tương ứng 2,7 tỷ đồng. Nguyên nhân giá vốn giảm do giá nguyên vật liệu đường giảm - nguyên vật liệu chủ yếu để sản xuất bánh kẹo, hơn nữa tỷ giá hối đoái ổn định rất thuận lợi cho Công ty trong việc nhập khẩu nguyên vật liệu hơn năm 1998 - năm diễn ra khủng hoảng tiền tệ ở khu vực Châu á.
Đến năm 2000, giá vốn hàng bán so với năm 1999 tăng 1,463 tỷ đồng làm cho lợi nhuận của Công ty giảm 1,463 tỷ đồng.
- Do chi phí bán hàng thay đổi: chi phí bán hàng là toàn bộ các chi phí có liên quan đến hoạt động tiêu thụ. Chi phí bán hàng càng tăng thì lợi nhuận càng giảm. Năm 1999 so với năm 1998 giảm tương ứng 0,034 tỷ đồng, tương tự lợi nhuận năm 2000 so với năm 1999 giảm tương ứng 0,138 tỷ đồng. Nguyên nhân của việc tăng chi phí bán hàng là do Công ty mở thêm một số đại lý, các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm để tiếp tục củng cố và phát triển thị phần. Hiện nay, Công ty có gần 200 đại lý ở 35 tỉnh thành trong cả nước.
- Do ảnh hưởng của chi phí quản lý: Năm 1999 và năm 2000 Công ty tiếp tục tuyển thêm lao động hơn nữa, tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên được cải thiện rõ rệt do vậy chi phí quản lý ngày càng tăng, làm cho lợi nhuận giảm. Năm 1999 so với năm 1998, lợi nhuận giảm tương ứng 1,914 tỷ đồng, năm 2000 lợi nhuận giảm so với năm 1999 là 0,674 tỷ đồng.
Tổng hợp các yếu tố trên ta có lợi nhuận tăng giảm qua các năm:
Năm 1999 so với năm 1998:
1 - 1,652 + 2,7 - 0,034 - 1,914 = 0,1 tỷ đồng
Năm 2000 so với năm 1999:
5,5 - 3,145 - 1,463 - 0,138 - 0,674 = 0,08 tỷ đồng
Trong ba năm 1998, 1999, 2000 công ty đều làm ăn có hiệu quả, tuy nhiên hiệu quả đạt được còn chưa cao.
1.5.2 Nộp ngân sách
Trong bảng 15 thể hiện tình hình nộp ngân sách của Công ty từ 1997 -2000
Bảng 15: Tình hình nộp ngân sách của Công ty từ năm 1997- 2000
Năm
Nộp ngân sách
Tốc độ tăng
Chênh lệch( tỷ đồng)
1997
16,017
1998
16,17
0,153
100,96
1999
18,2
2,03
112,55
2000
20,45
2,25
112,36
Công ty bánh kẹo Hải Hà nộp ngân sách thông qua thuế doanh thu 6% đến cuối năm 1998, và nộp thuế VAT 10% thay cho thuế doanh thu bắt đầu từ năm 1999 và thuế thu nhập doanh nghiệp 32% của phần lợi nhuận còn lại sau khi trừ tất cả các loại chi phí. Mức nộp ngân sách của Công ty ngày càng tăng từ năm 1997 đến năm 2000 do doanh thu của các năm tăng lên. Các khoản nộp ngân sách năm 1998 so với năm 1997 tăng 0,157 tỷ đồng, tỷ lệ tăng tương ứng 0,96%. Năm 1999 so với năm 1998 tăng 2,03 tỷ đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 12,55%. Tuy nhiên, sang năm 2000 mức độ nộp ngân sách so với năm 1999 vẫn tăng nhưng tốc độ tăng vẫn nhỏ hơn năm 1999 so với năm 1998 là 0,19%.
Nguyên nhân của sự tăng giảm không đồng đều này là do:
-Doanh thu của năm 1998 so vớinăm 1997 tăng 8,12 tỷ đồng tuy nhiên lợi nhuận giảm 0,125 tỷ đồng nên các khoản nộp ngân sách tăng không nhiều.
-Năm 1999 và năm 2000, do áp dụng thuế VAT thay cho thuế doanh thu 6% nên mặc dù doanh thu của năm 1999 so với năm 1998 tăng 1 tỷ đồng nhưng nộp ngân sách tăng 2,03 tỷ đồng do doanh thu tăng 5,5 tỷ.
Qua các chỉ tiêu phân tích ở trên ta thấy trong các năm qua, Công ty luôn cố gắng hoành thành nghĩa vụ đối với Nhà Nước về các khoản nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước.
1.6. Chỉ tiêu chi phí
Thực trạng chi phí của Công ty được biểu hiện qua các biểu sau đây:
Bảng 6: Tình hình chi phí của Công ty từ năm 1997-2000
Năm
Tổng chi phí
Mức thay đổi chi phí
Chênh lệch
Tỷ lệ % so với năm trước
1997
153,055
1998
161,3
8,245
105,39
1999
162,2
0,9
100,56
2000
167,62
5,24
103,34
Qua bảng số liệu trên ta thấy từ năm 1997 đến năm 2000 tổng chi phí đều tăng lên. Năm 1999 tốc độ tăng chi phí là 105,39 % so với năm 1997, lớn hơn tốc độ tăng doanh thu 0,1%(105,39 - 105,29) mặc dù doanh thu năm 1998so với năm 1997 tăng lên 8,12 tỷ đồng nên năm 1998 Công ty vẫn chưa nâng cao được hiệu quả knh doanh.
Đến năm 1999 tốc độ tăng chi phí so với năm 1998 nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí của năm 1998/ 1997 là 4,83% (105,39 - 100,56), trong khi đó tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí là 0,04%(103,38 - 103,34) dẫn đến lợi nhuận tăng 0,1 tỷ đồng.
Như vậy, trong năm 1999 và năm 2000 hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Hà đã được nâng lên.
Thực trạng doanh thu và chi phí bỏ ra của Công ty bánh kẹo Hải Hà được phản ánh thông biểu đồ 2 dưới đây:
Biểu đồ 2: Mối quan hệ giữa doanh thu và tổng chi phí từ 1997-2000
Qua biểu đồ 2 ta thấy doanh thu tăng thì chi phí cũng tăng. Tốc độ tăng doanh thu chỉ lớn hơn tốc độ tăng chi phí không đáng kể. Duy chỉ có năm 1998 so với năm 1997 tốc độ tăng chi phí của nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu. Đây là mối quan tâm của Công ty, bởi vì mục tiêu của Công ty là tăng tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất này phải so sánh một cách tương đối với tổng chi phí bỏ ra.
2. Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của công ty.
Qua kết quả phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh Kẹo Hải Hà ở trên ta thấy quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng được rộng. Cùng với sự đầu tư trang thiết bị kỹ thuật có chiều sâu và sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàn, đa dạng hoá sản phẩm đã góp phần thúc đẩy tăng doanh thu, lợi nhuận, thị phần từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty lên một tầm mới. Để đánh giá một cách chính xác, toàn diện về tình hình sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu qủa kinh doanh nói riêng, ta phải đi sâu vào phân tích một số chỉ tiêu tài chính sau:
2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp.
Các chỉ tiêu đánh giá này cho ta nhận định khái quát về hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu như : tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỉ suất lợi nhuận trên chi phí, tỉ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh…
Dưới đây là bảng chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Bảng 17 : Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
Giá trị
%
Giá trị
%
1. Doanh thu
161,5
162,5
100,6
168
103,38
2.Lợi nhuận
0,2
0,3
150
0,38
126,67
3.Tổng chi phí
161,3
162,2
100,56
167,62
103,34
4.Vốn kinh doanh bình quân
122,66
122,39
96,62
123,75
101,1
5.Tỷ suất lợi nhuận/Doanh thu:(2/1)
0,001238
0,001846
149,11
0,002261
122,53
6.Tỷ suất lợi nhuận/Chi phí(2/3)
0,001239
0,001849
149,23
0,002267
122,60
7.Tỷ suất lợi nhuận/vốn kinh doanh(2/4)
0,001578
0,002451
153,32
0,003070
125,25
Nhìn vào bảng trên ta thấy tình hình sản xuất kinh doanh chung của Công ty và những kết quả đạt được về các chỉ tiêu doanh lợi đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, mặc dù các chỉ tiêu này còn thấp so với các doanh nghiệp khác
*.Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận/ doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = lợi nhuận/ doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận năm 1998, tỷ suất doanh lợi / doanh thu đạt 0,001238 , năm 1999 tăng lên 0,001846 , tốc độ tăng trưởng là 49,11%, và năm 2000 đạt 0,002261, tỷ lệ tăng tương ứng 22,53%. Năm 1999 là năm có tốc độ tăng nhanh nhất, điều này chủ yếu là do tốc độ tăng lợi nhuận năm 1999 khá cao 50% so với năm 1998.
*.Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên chi phí.
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí = lợi nhuận/ tổng chi phí.
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí từ năm 1998 đến năm 2000 tăng dần đều.
Năm 1998 là 0,001239 tức một đồng chi phí mang lại 0,001239đồng. Song năm 2000 chỉ tiêu này là 0,002267. Nguyên nhân chủ yếu là do năm 1998 Công ty chủ yếu nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài nên giá thành cao, sang năm 1999 do thuế XNK tăng lên Công ty chuyển sang nhập NVL từ một số Công ty trong nước, do vậy chi phí về nguyên vật liệu giảm.
*.Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh = lợi nhuận/ Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tỷ suất doanh lợi so với vốn kinh doanh tăng nhanh nhất vào năm 1999, tăng 55,32% so với năm 1998 đạt 0,0002451 và năm 2000 đạt 0,003070 tăng 25,25% so với năm 1999.
Qua bảng số liệu trên cho thấy các chỉ tiêu phản ánh doanh lợi của Công ty đạt mức tăng trưởng khá cao chủ yếu là do lợi nhuận đạt được từ hoạt động kinh doanh của Công ty tăng nhanh chứ không phải do ảnh hưởng của doanh thu, vốn kinh doanh, chi phí…với chủ trương đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, củng cố và mở rộng thị phần, bổ sung lợi nhuận hàng năm vào vốn kinh doanh. Điều này cho thấy Công ty có nhiều nỗ lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh để ngày càng nâng cao hiệu quả kinh doanh và tính hiệu quả của việc mở rộng qui mô kinh doanh của Công ty .
2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh bộ phận.
Do việc đánh giá hiệu quả kinh doanh không chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu tổng hợp về doanh lợi, doanh thu mà đòi hỏi phải đánh giá chính xác chi tiết từng mặt hiệu quả kinh doanh của Công ty thông qua các chỉ tiêu bộ phận như hiệu quả sử dụng lao động, hiệu quả sử dụng vốn lưu động, vốn cố định. Từ đó mới có thể rút ra nhận xét chính xác nhất về hiệu quả kinh doanh của Công ty.
2.2.1. Hiệu quả sử dụng lao động
Thực trạng hiệu quả sử dụng lao động ở Công ty bánh kẹo Hải Hà được thể hiện qua các chỉ tiêu về năng suất lao động, mức sinh lời bình quân một lao động, qua bảng sau đây:
Bảng 18: Hiệu quả sử dụng lao động của Công ty từ năn 1997-2000.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1997
1998
1999
2000
1. Tổng sản lượng
Triệu đồng
133.350
135.500
132.800
138.000
2. Lợi nhuận
Triệu đồng
325
200
300
380
3. Số lao động
Người
1.921
1.832
1.962
1.970
4.Thu nhập bình quân
1000đ/Người
700
730
750
900
5. Năng suất lđộng(1/3)
Tr.đ/người
69,42
73,96
67,69
70,05
6.Mức sinh lợi bình quân1 lđộng
Tr.đ/người
0,169
0,109
0,153
0,192
Qua bảng số liệu trên cho thấy năng suất lao động bình quân đầu người từ 1997 đến năm 2000 như sau:
Năm 1997 năng suất lao động đạt 69,42 triệu đồng/ người.
Năm 1998 năng suất lao động cao nhất, do giá trị tổng sản lượng sản xuất tăng và có số công nhân viên ít nhất. Năng suất lao động bình quân của năm 1998 hơn năm 1997 là 4,54 triệu đ/người và đạt 106,54%.
Năm 1999, năng suất lao động giảm. Đây là năm Công ty có năng suất lao động thấp nhất do giá trị tổng sản lượng giảm nhưng số lượng công nhân viên tăng tới 1962 người. Do đó, năng suất lao động của năm 1999 giảm xuống 6,27 triệu/ người(67,69 - 73,96) so với năm 1998 và đạt 91,52%.
Sang năm 2000, năng suất lao động tăng lên đạt 70,05 triệu đồng/ người, tương ứng với tỷ lệ tăng là 103,48% so với năm 1999. Năng suất lao động năm 2000 tăng chủ yếu do giá trị tổng sản lượng tăng 5.200 triệu đồng.
Tuy nhiên, mức sinh lời bình quân một lao động khá thấp, lại tăng giảm không đồng đều từ năm 1997-2000. Điều này phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của Công ty bánh kẹo Hải Hà vẫn chưa cao.
Mức lời bình quân do một lao động tạo ra từng năm như sau:
-Năm 1997 là 0,169 triệu đồng/ người.
- Năm 1998 là 0,109 triệu đồng/ người, giảm 0,645 lần so với năm 1997.
-Năm 1999 là 0,153 triệu đồng/ người, tăng 1,404 lần so với năm 1998.
-Năm 2000 là 0,192 triệu đồng/ người, tăng 1,255 lần so với năm 1999.
Nguyên nhân của sự tăng, giảm này chủ yếu là do tốc độ tăng lợi nhuận không đồng đều giữa các năm.
Mặc dù, mức sinh lời bình quân một lao động còn chưa cao nhưng Công ty bánh kẹo Hải Hà luôn cố gắng phấn đấu tăng tiền lương cho người lao động. Thu nhập bình quân tăng 10,8%/năm thể hiện đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao.
Các chỉ tiêu trên cho thấy, doanh thu trong 4 năm từ 1997-2000 rất lớn, trung bình đạt khoảng 164 tỷ/ năm nhưng mức sinh lời bình quân một lao động lại rất thấp, điều này làm ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty trong những năm vừa qua. Việc doanh thu tăng nhưng mức sinh lợi bình quân một lao động thấp do Công ty có bộ máy lao động còn cồng kềnh, chưa xác định được cơ cấu lao động tối ưu: Một số bộ phận thì thừa lao động, một số khác lại thiếu lao động, việc tuyển người vẫn chưa đáp ứng tốt các yêu cầu đòi hỏi của công việc. Chính việc sử dụng hiệu quả lao động thấp đã dẫn đến hiệu quả kinh doanh của Công ty còn chưa cao trong một số năm gần đây.
2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn.
Có vốn mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để đạt được mục đích kinh doanh. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa tiếp theo là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động. Sử dụng vốn có hiệu quả trước hết là điều kiện để doanh nghiệp đảm bảo đạt lợi ích cho các nhà đầu tư , của người lao động, của Nhà Nước về mặt thu nhập và đảm bảo sự tồn tại phát triển của bản thân. Mặt khác, nó cũng chính là cơ sở để doanh nghiệp có thể huy động vốn được dễ dàng trên thị trường tài chính để mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh. Sau đây là bảng đánh giá thực trạng sử dụng vốn lưu động, vốn cố định của Công ty bánh kẹo Hải Hà:
Bảng 19: Thực trạng sử dụng VLĐ, VCĐ của Công ty bánh kẹo Hải Hà.
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
1.Doanh thu
161,5
162,5
168
2. Lợi nhuận
0,2
0,3
0,38
3. Tổng nguồn vốn
126,66
122,39
123,75
4. Vốn lưu động
47,22
46,89
47,1
5. Vốn cố định
79,44
75,5
76,65
6. số vòng quay của vốn KD(1/3)
1,28
1,33
1,36
7. Số vòng quay của vốn lưu động(1/4)
3,42
3,47
3,57
8. Số vòng quay của vốn cố định(1/5)
2,03
2,15
2,19
9. Sức sinh lời của vốn lưu động(2/4)
0,0042
0,0064
0,008
10.Sức sinh lời của vốn cố định (2/5)
0,0025
0,004
0,005
11.Số ngày của một vòng quay vốn lưu động.
105,26
103,88
100,93
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
- Số vòng quay của vốn kinh doanh còn thấp: Trung bình mỗi năm vốn kinh doanh chỉ quay được 1,32 vòng ( 1,28+1,33+1,36/3). Mặc dù vòng quay của vốn kinh doanh có xu hướng tăng lên từ 1,28 -1,33 - 1,36. Điều này phản ánh Công ty Bánh kẹo Hải Hà đang cố gắng nỗ lực trong việc quản lý và sử dụng vốn.
Số vòng quay của vốn lưu động đạt được trong các năm qua là:
+. Năm 1998: 3,42 vòng.
+. Năm 1999: 3,47 vòng, tăng 1,015 lần với năm 1998.
+.Năm 2000: 3,57 vòng, tăng 1,029 lần so với năm 1999.
Số vòng quay của vốn lưu động trong các năm qua có xu hướng tăng lên từ 3,42 vòng lên 3,57 vòng/năm nhưng so với các doanh nghiệp khác số vòng quay vốn lưu động của Công ty Bánh kẹo Hải Hà còn thấp. Nếu vốn lưu động có số vòng quay lớn sẽ tạo thuận lợi cho Công ty trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Từ năm 1998 đến năm 2000 số vòng quay của vốn cố định cũng với xu hướng tăng lên, tuy nhiên số vòng quay vốn cố định của Công ty còn thấp trung bình 2,12 vòng / năm(2,03+2,15+2,19/3) đã làm ảnh hưởng tới số vòng quay vốn kinh doanh của Công ty.
-Lợi nhuận được tạo ra từ một đồng vốn lưu động là:
+. Năm 1998 là 0,0042 đồng.
+. Năm 1999 là 0,0064 đồng, tăng 0,0022 đồng so với năm 1998.
+. Năm 2000 là 0,008 đồng, tăng 0,0016 đồng so với năm 1999.
Số lợi nhuận tạo ra từ vốn lưu động của năm 1998 là thấp nhất, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động năm 1998 là thấp nhất.
-Lợi nhuận tạo ra từ một đồng vốn cố định.
Cũng giống như vốn lưu động, vốn cố định của năm 1998 được sử dụng có hiệu quả thấp nhất chỉ đạt 0,0025 đồng, trong khi đó vào năm 1999 đạt 0,004 đồng, tăng 0,0015 đồng(0,004-0,0025) so với năm 1998. Đến năm 2000, lợi nhuận tạo ra từ một đồng vốn cố định là: 0,005 đồng tăng so với năm 1999 là 0,001 đồng.
Việc sử dụng có hiệu quả TSCĐ sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Năm 2000 Công ty sử dụng TSCĐ có hiệu quả nhất , do vậy vào năm này hiệu quả kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất, và năm 1998 hiệu quả sử dụng TSCĐ thấp nhất trong mấy năm qua.
Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty là việc quay vòng vốn kinh doanh chậm, khấu hao TSCĐ chậm, ảnh hưởng tới việc rút vốn vào sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, đầu tư vào TSCĐ chủ yếu dựa và các nguồn vay nên hàng năm phải trả một khoản lãi rất cao. Thiếu vốn kinh doanh, Công ty phải khắc phục bằng cách đi vay, vay thì phải trả lãi suất, nếu sử dụng vốn không có hiệu quả thì sẽ tạo thành cái vòng luẩn quẩn, hạn chế nâng cao hiệu quả của Công ty.
Để nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn thì việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho Công ty . Khi tăng tốc độ chu chuyển VLĐ có thể làm giảm được VLĐ mà vẫn đảm bảo được khối lượng công việc, công tác, phục vụ và kinh doanh như cũ. Việc tăng số vòng quay VLĐ không những tiết kiệm được VLĐ mà góp phần làm giảm chi phí như : Chi phí bán hàng, trả tiền lãi…
2.2.3 Phân tích khả năng thanh toán của Công ty .
Quan hệ thanh toán nảy sinh trong hoạt động kinh doanh là vấn đề tất yếu nếu như không muốn nói là cần thiết. Nếu hoạt động tài chính tốt, donh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại, nếu hoạt động tài chính kém doanh nghiệp sẽ dẫn đến tình trạng công nợ kéo dài, đi chiếm dụng vốn lẫn nhau. Do đó, để phân tích rõ nét tình hình tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp ta phải xem xét một số chỉ tiêu dưới đây :
Tỷ suất tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng số nguồn vốn.
Chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ mức độ độc lập tài chính của doanh nghiệp.
Tỷ suất thanh toán
hiện hành ( ngắn hạn)
=
Tổng số tài sản lưu động
Tổng số nợ ngắn hạn
Tỷ suất này cho biết khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ là1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường và khả quan.
Tỷ suất thanh toán
của vốn lưu động
=
Tổng số vốn bằng tiền
Tổng tài sản lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của TSLĐ, nếu chỉ tiêu này tính ra lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều không tốt.
Tỷ suất thanh toánTức thời
=
Tổng số vốn bằng tiền
Tổng số nợ ngắn hạn
Tỷ suất này > 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, còn nếu <0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán công nợ.
Sau đây là tình hình thanh toán của Công ty bánh kẹo Hải Hà:
Bảng 20: Tình hình thanh toán của Công ty từ năm 1998 – 2000
Đvt: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
1.Nguồn vốn chủ sở hữu
45,6
48,05
50,738
2.Tổng nguồn vốn
126,66
122,39
123,75
3.Tổng số TSLĐ
47,22
46,89
47,1
4.Tổng nợ ngắn hạn
74,95
64,68
56,75
5.vốn bằng tiền
4,2
4,346
4,945
6.Khoản phải thu
10,5
12,742
12,5
7.Tỷ suất tài trợ (1/2)
0,36
0,393
0,41
8.Tỷ suất thanh toán ngắn hạn(3/4)
0,63
0,72
0,83
9.Tỷ suất thanh toán của VLĐ(5/3)
0,089
0,093
0,105
10.Tỷ suất thanh toán tức thời(5/4)
0,056
0,067
0,087
- Tỷ suất tài trợ: năm 1998 là 0,36 (45,6/126,66), năm 1999 là 0,393 (48,05/122,39), tăng so với năm 1998 là 108,89%, năm 2000 là 0,41 (50,783/123,75) , tăng so với năm 1999 là 104,595. Sở dĩ tỷ suất tài trợ tăng lên là do: tốc độ tăng vốn chủ sở hữu (99/98: 105,37%; 2000/99: 105,59) lớn hơn tốc độ tăng công nợ phải trả ( 99/98: 99,3%; 2000/99: 100,48%)
- Tỷ suất thanh toán hiện hành (ngắn hạn): năm 1998 là 0,69 ( 47,22/74,95), năm 1999 là 0,72( 46,89/64,68), năm 2000 là 0,83 (47,1/56,75), cho thấy Công ty hoàn toàn không có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh. Mặc dù tỷ suất thanh toán hiện hành của Công ty bánh kẹo Hải Hà có xu hướng đang tăng lên và dần tới 1. Đây là dấu hiệu khả quan.
- Tỷ suất thanh toán của vốn lưu động: năm 1998 là 0,089, năm 1999 là 0,093, năm 2000 là 0,105.Hai năm 1998,1999 cho thấy Công ty không đủ tiền để thanh toán, tuy nhiên, nếu tính cả khoản thu thì chỉ tiêu này năm 1998 là 0,31 ( 4,2+10,5/47,2) và năm 1999 là 0,36(4,346+12,742/6,89). Điều này cho thấy trong 3 năm 1998 – 2000 Công ty có thể đảm bảo được khả năng thanh toán.
- Đối với tỷ suất thanh toán tức thời của Công ty năm 1998 là 0,056 năm 1999 là:0,067 năm 2000 là: 0,087. Kết hợp với chỉ tiêu tỷ suất thanh toán của vốn lưu động cho thấy dù Công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng 1năm, song lại khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ hiện hành( đến hạn, quá hạn) do lượng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng đều quá ít. Vì thế, Công ty phải có biện pháp thu hồi các khoản nợ phải thu sao cho nhanh nhất nhằm đáp ứng khả năng thanh toán ngay.
3. Đánh giá tổng quát về hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của công ty trong những năm qua, kết hợp với việc xem xét kỹ các đặc điểm về kỹ thuật cho thấy công ty có những ưu điểm và tồn taị sau :
3.1 Ưu điểm
ã Trong các năm 1998-2000 Công ty đều làm ăn có hiệu quả biểu hiện tổng doanh thu lớn hơn tổng chi phí.
ã Thu nhập bình quân của công nhân viên ngày càng cao. Từ 700.000 đ/người lên tới 900.000 đồng/người vào năm 2000.
ã Công ty đã chú trọng tới nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng nên lựa chọn được hình thức phân phối phù hợp với đặc điểm của sản phẩm và nhu cầu của người tiêu dùng , giúp cho công ty mở rông được thị trường tiêu thụ.
ã Trong những năm gần đây đặc biệt là năm 1998, công ty đã tiến hành máy móc thiết bị công nghệ hiện đại. Sự đổi mới này phù hợp với các nguồn năng lực của công ty hiện có và nó đã mang lại hiệu quả thiết thực như đưa năng suất nhảy vọt lên 11000 tấn/năm.
ã Nhờ áp dụng chính sách đa dạng hoá sản phẩm, chú trọng đến chất lượng, giá cả, mẫu mã, bao bì mà các sản phẩm của công ty đã đáp ứng được nhu cầu trong nước. Đặc biệt trong năm 1999, công ty đã được chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao.
ã Trình độ cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao. Công ty đã tổ chức khoá đào tạo, các cuộc thi thợ giỏi, nâng cao tay nghề, ý thức trách nhiệm và tạo tinh thần đoàn kết giữa các thanh viên.
ã Những nỗ lực cố gắng trên đã mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn, doanh thu tăng dần qua các năm và công ty đã mở rộng từ 80 đại lý cho đến nay đã có gần 200 đại lý trên cả nước.
3.2. Những điểm yếu
ã Tổng chi phí của công ty còn ở mức cao, hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, khả năng sinh lời của vốn còn chưa cao và cũng giống như các doanh nghiệp khác, Công ty bánh kẹo Hải Hà đang ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng.
ã So với một số công ty sản xuất bánh kẹo khác như Công ty bánh kẹo Hải Châu, Công ty Biên Hoà… thì giá bán sản phẩm của công ty còn cao, gây khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm.
ã Trang thiết bị máy móc của Công ty mặc dù đã được đổi mới nhưng vẫn chưa đồng bộ, ngoài những dây chuyền được đầu tư mấy năm gần đây còn một số máy móc thiết bị còn quá cũ, lạc hậu về kỹ thuật, điều này đã ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm và việc tiết kiệm nguyên vật liệu.
ã Hiệu suất sử dụng lao động chưa cao, mức sinh lời lao động bình quân còn quá thấp, đây là một yếu tố làm giảm mạnh hiệu quả kinh doanh kinh doanh của công ty trong các năm vừa qua.
ã Do còn phải nhập NVL từ nước ngoài nên chi phí NVL còn cao và chi phí dự trữ chiếm tỷ lệ khá lớn.
ã Những tồn tại trên làm ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Hiện nay, sản phẩm của công ty chưa thực sự có sức cạnh tranh mạnh, một số sản phẩm còn chưa có chỗ đứng trên thị trường. Trong khi đó, một số sản phẩm của Công ty khác như Hải Châu, Biên Hoà, Quảng Ngãi…luôn được nâng cao chất lượng và mẫu mã để cạnh tranh với sản phẩm của Hải Hà.
3.3. Nguyên nhân.
Hiệu quả kinh doanh của công ty còn thấp và chưa ổn định, chưa khai thác tốt tiềm năng của mình để nâng cao hiệu quả kinh doanh, nguyên nhân của nó là:
ã Với quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh lớn cả về thị trường và mặt hàng mà Công ty chưa thành lập được phòng Marketing . Hơn nữa, lực lượng cán bộ làm Marketing của Công ty chủ yếu là cán bộ trẻ tuổi vừa tốt nghiệp nên Công ty khó theo sát được thị trường.
ã Doanh thu trung bình hàng năm là 164 tỷ đồng , so với số lao động toàn Công ty là 1970 người, có thể nói việc tổ chức nhân sự của Công ty còn khá cồng kềnh kém hiệu quả. Đặc biệt số lao động nữ có tuổi nghề chưa cao chiếm tỷ lệ khá lớn ở phân xưởng kẹo đã làm cho năng suất lao động giảm đi và chi phí về nhân công tăng.
ã Công ty thiếu vốn trầm trọng dẫn tới chậm đổi mới máy móc thiết bị, chưa chủ động trong việc sản xuất kinh doanh.
Phát hiện ra những nguyên nhân trên sẽ làm cơ sở để giúp em xây dựng các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty đồng thời là kết qủa của việc tìm hiểu về Công ty trong suốt thời gian thực tập.
Chương 3
Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty bánh kẹo Hải Hà
I. Phương hướng phát triển của công ty đến năm 2005.
1. Phương hướng chung của ngành
Hiện nay, ngành bánh kẹo nước ta đang phát triển nhanh với tốc độ 10-15% mỗi năm. Một số sản phẩm đã được người tiêu dùng trong nước đánh giá cao, không thua kém gì hàng ngoại. Chính những thuận lợi này đã giúp các nhà sản xuất bánh kẹo thêm tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai.
Theo dự đoán về thị trường bánh kẹo trong nước đến năm 2005 cho thấy Việt Nam có nhiều thuận lợi trong lĩnh vực phát triển sản xuất ngành bánh kẹo. Cụ thể là:
-Nguồn nguyên liệu phong phú nước ta là một nước nông nghiệp vùng nhiệt đới nên sản lượng hoa quả, các loại củ, bột, đường thuận lợi cho việc sản xuất.
-Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đẩy mạnh nội lực; hợp tác và phát triển với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Việt Nam là một trong những thành viên của khối ASEAN do đó rất thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành bánh kẹo nói riêng.
-Dân số tăng nhanh theo số liệu của Tổng cục thống kê dự đoán đến năm 2005 dân số nước ta sẽ có khoảng 86 triệu người; Mức sinh hoạt sẽ phấn đấu trên 2200 Kcalo/ người, trong đó Protein chiếm 11%, lipit 12%, gluco 77% (theo số liệu Bộ y tế )
Như vậy, theo dự đoán mức tiêu thụ bánh kẹo bình quân 3kg/ người; đến năm 2005 nước ta có nhu cầu sản xuất khoảng 26000 tấn đến 300000 tấn một năm. Dự đoán tổng doanh thu thị trường là 8000 tỷ đồng, tỷ lệ xuất khẩu 10- 20%.
Qua đó chiến lược của ngành bánh kẹo đến năm 2005 được đặt ra là:
-Đảm bảo sản xuất và cung cấp đầy đủ số lượng, chủng loại, chất lượng, giá cả phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng hạn chế tới mức tối đa nhập bánh kẹo ngoại, đồng thời tiến tới xuất khẩu sang thị trường Đông Âu và các nước trong khu vực.
-Đổi mới công nghệ thiết bị, tiến tới cơ giới hoá, tự động hoá, đồng bộ hoá các dây chuyền sản xuất kẹo cứng, kẹo mềm sôcôla, cao su, bánh biscuit.. Hoàn chỉnh các phương tiện vận chuyển(các hệ thống vận chuyển bằng băng chuyền giữa các khâu sản xuất từ thành phẩm đến nhập kho.)
-Đảm bảo tự túc phần nguyên vật liệu đường, glucoza, sữa tinh bột,dầu thực vật để sản xuất bánh kẹo. Không nhập khẩu bột mì, sử dụng bột mì xay nghiền trong nước. Tự túc in trong nước một số phụ liệu như giấy nhôm, giấy sáp, băng dán, nhãn túi, hộp sắt…
-Đa dạng hoá sản phẩm: sản xuất các sản phẩm bánh kẹo đường, không đường, có chất béo hoặc không và các sản phẩm nâng cao thể lực.
Tổng số đầu tư phát triển ngành bánh kẹo dự tính từ đây đến năm 2005 là 440 tỷ đồng Việt Nam (tương đương với gần33.846.000 USD)
2. Phương hướng phát triển của Công ty Bánh kẹo Hải Hà từ đây đến năm 2005
Với 40 năm tồn tại và phát triển, Công ty bánh kẹo Hải Hà đã từng bước trưởng thành và mở rộng hơn về qui mô. Mục tiêu của Công ty là đến năm 2005, Công ty Bánh Kẹo Hải Hà thực sự trở thành doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất Việt Nam, Với trang thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến và có đủ khả năng cạnh tranh với bánh kẹo của cả nước và trên thế giới. Đây là mục tiêu to lớn phản ánh quyết tâm của toàn cán bộ công nhân viên toàn Công ty. Để đạt được mục tiêu trên Công ty đã đề ra một số phương hướng sau:
-Năng lực sản xuất của Công ty theo thiết kế đạt 20.000 tấn /năm. Hiện nay, Công ty mới chỉ khai thác được 60%. Vì vậy, một trong những biện pháp quan trọng là nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị đã đầu tư.
-Thường xuyên thay đổi mặt hàng, cải tiến mẫu mã , bao bì, nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất.
-Nghiên cứu, sử dụng nguyên vật liệu trong nước, thay thế hàng nhập khẩu nhằm hạ giá thành sản phẩm, hạn chế được sự biến động của ngoại tệ.
-ổn định và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại thị trường cũ, mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường phía Nam và thị trường xuất khẩu, ưu tiên khôi phục lại thị trường Đông Âu từng bước thâm nhập thị trường ASEAN và hướng tới thị trường Châu Mĩ và Bắc Mỹ.
-Nghiên cứu, mở rộng phạm vi khoán cho các đơn vị xí nghiệp thành viên từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sao cho sâu sát, hợp lý và chặt chẽ.
-Nâng cao chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của sản phẩm bánh kẹo do Công ty sản xuất. Phấn đấu đạt qui trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002.
II. Biện pháp cơ bản nhằm nâng cao Hiệu quả kinh doanh của Công ty Bánh Kẹo Hải Hà.
Với những thành công đã có, Công ty bánh kẹo Hải Hà tự hào là một trong các doanh nghiệp Nhà nước đi đầu trong hoạt động sản xuất tự chủ và có hiệu quả trong kinh doanh. Không ai phủ nhận thành tích mà Hải Hà đã đạt được. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, khi mà hiện tại chưa bắt đầu, tương lai đang đối đầu và thách thức, nếu tự bằng lòng với những gì mình đạt được rất có thể Công ty sẽ gặp khó khăn trong những năm tiếp theo. Qua thời gian thực tập tại Công Ty và từ kết quả đánh giá về hiệu quả kinh doanh cũng như nêu ra những điểm yếu và nguyên nhân, em mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Hải Hà trong tương lai.
1. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường.
Hiện nay, vấn đề quan tâm nhất của Công Ty là tăng sản lượng tiêu thụ và giảm thiểu hàng tồn kho vì bánh kẹo có tỷ số doanh lợi thấp, nếu lượng hàng tồn kho lớn sẽ làm cho Công ty hoạt động không có hiệu quả. Muốn được khối lượng tiêu thụ thì sản phẩm sản xuất ra phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Do vậy Công ty phải có một lực lượng cán bộ nghiên cứu thị trường đủ mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng.
Hiện nay Công ty chưa có phòng Maketing; công việc nghiên cứu thị trường do phòng Kinh doanh đảm nhiệm nên hiệu quả đạt được chưa cao. Cán bộ nghiên cứu thị trường gồm có 14 người mà công ty có gần 200 đại lý đặt tại 35 tỉnh, thành; trung bình một cán bộ nghiên cứu thị trường phải phụ trách 14,29 đại lý đặt tại 2,5 tỉnh thành. Nếu như tính thời gian theo dõi một tháng thì cán bộ phải đến kiểm tra các đại lý chỉ có đủ 1,54 ngày kể cả thời gian di chuyển. Điều này dẫn đến các cán bộ phụ trách các thị trường ngoại tỉnh không nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng, các chính sách bán hàng của các đối thủ cạnh tranh từ đó gây khó khăn cho Công ty trong việc hoạch định các chính sách phân phối.
Hơn nữa, Công ty không có phòng Marketing nên thu thập thông tin thường rời rạc, khó tổng hợp để nghiên cứu. Việc thành lập phòng Marketing là xuất phát từ yêu cầu của công việc, đòi hỏi Công ty phải có hệ thống thu thập và xử lý thông tin khép kín.
Từ thực trạng trên, Công ty có thể thành lập phòng Marketing chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường, có ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24636.DOC