Đề tài Hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở huyện An Nhơn tỉnh Bình Định

Tài liệu Đề tài Hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở huyện An Nhơn tỉnh Bình Định: LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Đường Minh Thế LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này tôi được sự giúp đỡ tận tình của rất nhiều thầy cô giáo, các cơ quan và các địa phương. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới tất cả các thầy cô giáo, các cơ quan và các địa phương đã quan tâm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành bản luận văn này. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng Mạnh Quân, Phó hiệu Trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Kinh Tế Huế, Phòng Quản lý khoa học – Đối ngoại và Đào tạo sau đại học, các khoa, phòng ban chức năng và toàn thể thầy giáo, cô giáo Trường Đại học ...

doc139 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở huyện An Nhơn tỉnh Bình Định, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Đường Minh Thế LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này tôi được sự giúp đỡ tận tình của rất nhiều thầy cô giáo, các cơ quan và các địa phương. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới tất cả các thầy cô giáo, các cơ quan và các địa phương đã quan tâm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành bản luận văn này. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng Mạnh Quân, Phó hiệu Trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Kinh Tế Huế, Phòng Quản lý khoa học – Đối ngoại và Đào tạo sau đại học, các khoa, phòng ban chức năng và toàn thể thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Kinh Tế Huế và Trường Đại học Kinh Tế Quốc dân Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi nhiều mặt trong quá trình học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi vô cùng cảm ơn lãnh đạo và các hộ gia đình ở các xã được điều tra đã nhiệt tình cộng tác và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn lãnh đạo Trường Trung Học Kinh Tế Kỹ Thuật Bình Định, Trung Tâm Khuyến Nông, Chi cục thống kê tỉnh Bình Định, Ủy ban nhân dân huyện An Nhơn, phòng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn, Phòng Thống Kê huyện An Nhơn cùng các cơ quan chuyên môn trong huyện An Nhơn và tỉnh Bình Định đã cung cấp số liệu thực tế và thông tin cần thiết cho quá trình nghiên cứu của tôi. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các anh, chị em đồng nghiệp, bạn bè thân thiết và người thân đã động viên, giúp đỡ tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn. Huế, tháng 5 năm 2008 Tác giả Đường Minh Thế DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BQ Bình quân CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CCKT Cơ cấu kinh tế CCKTNN Cơ cấu kinh tế nông nghiệp DT Diện tích ĐVT Đơn vị tính GO Giá trị tổng sản xuất HQKT Hiệu quả kinh tế HQMT Hiệu quả môi trường HQXH Hiệu quả xã hội HQĐT Hiệu quả đầu tư HQLĐ Hiệu quả lao động HQNK Hiệu quả nhân khẩu IC Chi phí trung gian MI Thu nhập hỗn hợp NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn Trđ Triệu đồng TSCĐ Tài sản cố định UBND Ủy ban nhân dân VA Giá trị gia tăng 1000đ/lđ Ngàn đồng/ lao động 1000đ/kh Ngàn đồng/ nhân khẩu 1000đ/th Ngàn đồng/tháng DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất huyện An Nhơn 2005 – 2007 35 Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP của huyện An Nhơn thời kỳ 2003 – 2007, theo giá cố định 37 Bảng 2.3: Cơ cấu tổng sản phẩm của huyện An Nhơn qua các năm, giá hiện hành 38 Bảng 2.4: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp huyện An Nhơn qua các năm 39 Bảng 2.5: Dân số và lao động huyện An Nhơn (2005 - 2007) 41 Bảng 2.6: Một số thông tin cơ bản về điểm nghiên cứu 45 Bảng 2.7: Số lượng mẫu nghiên cứu (Hộ) 47 Bảng 3.1: Số lượng và tốc độ tăng đàn bò của huyện An Nhơn (2003- 2007) 60 Bảng 3.2: Cơ cấu đàn và cơ cấu giống bò của huyện năm 2007 62 Bảng 3.3: Diện tích một số cây trồng có phụ phẩm làm thức ăn nuôi bò ở An Nhơn 63 Bảng 3.4: Số lượng và tốc độ tăng đàn bò ở các xã điều tra giai đoạn 2003 – 2007 66 Bảng 3.5: Tình hình lao động ở các hộ điều tra năm 2007(n=241) 68 Bảng 3.6: Diện tích canh tác và cơ cấu một số cây trồng chính ở các hộ điều tra 70 Bảng 3.7: Quy mô nuôi bò của các nông hộ điều tra 72 Bảng 3.8: Tình hình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò của huyện An Nhơn giai đoạn 2003 – 2007 74 Bảng 3.9: Tình hình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò năm 2007 ở các hộ điều tra (n = 120 hộ) 76 Bảng 3.10: Chi phí sản xuất trung gian một số cây trồng chính ở các hộ có trồng cỏ để nuôi bò 80 Bảng 3.11: Chi phí trung gian chăn nuôi bò của hộ có và không trồng cỏ 81 Bảng 3.12: Kết quả và hiệu quả kinh tế nuôi bò của hộ có và không trồng cỏ 83 Bảng 3.13: So sánh kết quả và hiệu quả kinh tế trồng cỏ với cây trồng khác trên đất chuyển đổi ở nông hộ được điều tra (n = 120 hộ) 86 Bảng 3.14: Kết quả ước lượng hàm sản xuất 91 Bảng 3.15: Ảnh hưởng của trồng cỏ đến các chỉ tiêu xã hội ở các hộ điều tra 94 Bảng 3.16: Ảnh hưởng của trồng cỏ đến các chỉ tiêu về môi trường 96 DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ VÀ BIỂU ĐỒ Trang Đồ thị 3.1: Tốc độ tăng đàn bò huyện An Nhơn giai đoạn 2003 – 2007 (%) 61 Đồ thị 3.2: Tốc độ tăng đàn bò của toàn huyện và các xã điều tra (%) 67 Biểu đồ 3.1: Cơ cấu cây trồng của các hộ điều tra 71 Biểu đồ 3.2: Cơ cấu đàn bò của hộ điều tra 73 Biểu đồ 3.3: Tình hình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở An Nhơn 75 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Danh mục các chữ viết tắt iii Danh mục các bảng iv Danh mục các biểu đồ, đồ thị v PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục tiêu nghiên cứu 2 2 2.1. Mục tiêu chung 2 2 2.2. Mục tiêu cụ thể 2 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 3.1. Đối tượng nghiên cứu 3 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3 3.2.1. Về nội dung 3 3.2.2. Về thời gian 3 3.2.3. Về không gian 3 4. Kết cấu của luận văn 3 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5 1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường 4 1.1.1. Các khái niệm cơ bản 4 1.1.1.1.Cơ cấu kinh tế 4 1.1.1.2.Cơ cấu kinh tế nông nghiệp 4 1.1.2. Nội dung cơ cấu kinh tế nông nghiệp 5 1.1.2.1.Cơ cấu các ngành trong nông nghiệp 5 1.1.2.2.Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng 6 1.1.2.3.Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo thành phần kinh tế 7 1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 8 1.1.3.1. Khái niệm 8 1.1.3.2. Những tiền đề khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 8 1.1.3.3. Quan hệ biện chứng giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với phát triển sản xuất hàng hóa 11 1.2. Hiệu quả và phương pháp xác định hiệu quả 13 1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả 13 1.2.2. Hiệu quả kinh tế và phương pháp xác định hiệu quả kinh tế ở nông hộ 14 1.2.2.1.Hiệu quả kinh tế 14 1.2.2.2.Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế 16 1.2.2.3.Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế của việc chuyển đổi ở nông hộ 19 1.2.3. Hiệu quả xã hội và phương pháp xác định hiệu quả xã hội 19 1.2.3.1.Hiệu quả xã hội 19 1.2.3.2.Phương pháp xác định hiệu quả xã hội 21 1.2.4. Hiệu quả môi trường và phương pháp xác định hiệu quả môi trường 21 1.2.4.1.Hiệu quả môi trường 21 1.2.4.2.Phương pháp xác định hiệu quả môi trường 22 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ để chăn nuôi bò 23 1.3.1. Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên 23 1.3.2. Nhóm yếu tố kinh tế - xã hội 24 1.3.3. Nhóm yếu tố kỹ thuật 24 1.4. Sự cần thiết phải chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ chăn nuôi bò 25 1.4.1. Hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp 25 1.4.2. Do yêu cầu của CNH, HĐH 25 1.4.3. Nhiều địa phương trên cả nước đã thực hiện chuyển đổi có hiệu quả 26 1.4.4. Xuất phát từ vai trò của việc chuyển đổi để phát triển nông nghiệp bền vững 26 1.5. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số nước trên thế giới và khu vực 27 1.5.1. Thái Lan 27 1.5.2. Malaysia 27 1.5.3. Trung Quốc 28 1.5.4. Philippin 29 1.5.5. Ấn Độ 30 1.5.6. Bài học rút ra cho Việt Nam 30 1.6. Tình hình nghiên cứu hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ chăn nuôi bò ở Việt Nam 31 1.7. Một số nhận xét rút ra từ nghiên cứu tổng quan 33 CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 34 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 34 2.1.1.1. Vị trí địa lý 34 2.1.1.2. Địa hình và đất đai 34 2.1.1.3. Khí hậu thời tiết 36 2.1.1.4. Nguồn nước và thuỷ văn 36 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 37 2.1.2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 37 2.1.2.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp huyện An Nhơn 39 2.1.2.3. Tình hình dân số và lao động 40 2.1.2.4. Cơ sở hạ tầng 42 2.1.3. Đánh giá chung về sự tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến việc chuyển đổi từ đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở huyện An Nhơn 42 2.2. Nội dung nghiên cứu 44 2.3. Phương pháp nghiên cứu 44 2.3.1. Phương pháp điều tra, thu thập số liệu 44 2.3.1.1. Chọn địa điểm nghiên cứu 44 2.3.1.2. Thu thập số liệu 45 2.3.2. Xử lý và phân tích số liệu 50 2.3.3. Phương pháp phân tích 50 2.3.3.1.Phương pháp thống kê kinh tế 50 2.3.3.2.Phương pháp chuyên gia 51 2.3.3.3.Phương pháp toán kinh tế 51 2.4. Nội dung các chỉ tiêu dùng để phân tích 51 2.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình chung về chăn nuôi bò ở cấp huyện 51 2.4.2. Chỉ tiêu tình hình về chăn nuôi bò ở cấp hộ 52 2.4.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư của hộ 53 2.4.4. Nhóm các chỉ tiêu về kết quả sản xuất của hộ 53 2.4.5. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất của hộ 55 2.4.6. Cách xác định mô hình toán kinh tế 57 2.4.7. Các chỉ tiêu về xã hội và môi trường 58 CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 59 3.1. Tình hình chăn nuôi bò ở huyện An Nhơn 59 3.1.1. Số lượng và tốc độ tăng đàn bò của huyện An Nhơn 59 3.1.2. Cơ cấu đàn và cơ cấu giống bò của huyện An Nhơn 61 3.1.3. Tình hình giải quyết thức ăn cho bò ở huyện An Nhơn 63 3.1.4. Tình hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trồng cỏ làm thức ăn cho bò 65 3.2. Số lượng và tốc độ tăng đàn bò ở các xã điều tra 66 3.3. Tình hình sản xuất nông nghiệp ở các hộ điều tra 68 3.3.1. Quy mô lao động và đất đai ở các hộ điều tra 68 3.3.2. Tình hình sản xuất ngành trồng trọt của các hộ điều tra 69 3.3.3. Quy mô chăn nuôi bò tại các hộ điều tra 72 3.4. Tình hình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò 73 3.4.1. Tình hình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò của huyện An Nhơn 73 3.4.2. Tình hình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở các hộ điều tra 76 3.5. Kết quả và hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở các hộ điều tra 78 3.5.1. Kết quả và hiệu quả kinh tế của việc chuyển đổi 78 3.5.1.1. Chi phí sản xuất trung gian của hộ 78 3.5.1.2. Kết quả và hiệu quả kinh tế của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở các hộ điều tra 82 3.5.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hỗn hợp của hộ từ chăn nuôi bò có trồng cỏ 87 3.5.2. Hiệu quả xã hội của việc trồng cỏ nuôi bò 94 3.5.3. Hiệu quả về môi trường của việc trồng cỏ nuôi bò 96 3.6. Một số khó khăn trong chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở huyện An Nhơn 97 CHƯƠNG IV: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHUYỂN ĐỔI ĐẤT TRỒNG TRỌT SANG TRỒNG CỎ CHĂN NUÔI BÒ Ở HUYỆN AN NHƠN 100 4.1. Quan điểm, định hướng và mục tiêu nâng cao hiệu quả chuyển đổi 100 4.1.1. Những quan điểm vận dụng vào quá trình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò 100 4.1.2. Căn cứ để xây dựng định hướng 100 4.1.3. Phương hướng chủ yếu 101 4.1.4. Mục tiêu phát triển 102 4.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chuyển đổi trong thời gian tới ở nông hộ 103 4.2.1. Rà soát quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội của huyện, bổ sung quy hoạch ngành nông nghiệp nông thôn và quy hoạch sử dụng đất trồng cỏ và cây con chủ yếu 103 4.2.2. Giải pháp về thị trường 105 4.2.3. Giải pháp vốn đầu tư 106 4.2.4. Hoàn thiện về chính sách ruộng đất 107 4.2.5. Đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò 107 4.2.6. Giải pháp về phát triển kinh tế trang trại nuôi bò có trồng cỏ 107 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 109 A. KẾT LUẬN 109 B. ĐỀ NGHỊ 110 I. Đối với chính quyền địa phương 110 II. Đối với nông hộ 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO 112 PHẦN PHỤ LỤC 116 Phụ lục I: Các phụ biểu 117 Phục lục II: Kết quả chạy hàm hồi quy 120 Phụ lục III: Phiếu điều tra 122 PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Chăn nuôi bò là một trong những ngành sản xuất có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn, cũng là ngành sản xuất cho phép khai thác những lợi thế về điều kiện tự nhiên của địa phương để phát triển kinh tế và góp phần làm giàu cho xã hội. Đặc biệt ở các tỉnh miền Trung, lâu nay bò được xác định là con vật chiếm nhiều ưu thế để phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại, góp phần tích cực trong việc tăng thu nhập và giải quyết việc làm cho nông hộ. Tuy nhiên, để phát triển chăn nuôi bò có hiệu quả, một trong những vấn đề cơ bản cần phải giải quyết đó là nguồn thức ăn xanh cho bò. Thực tế trong những năm qua, nhiều địa phương trong cả nước nói chung, An Nhơn nói riêng đã và đang đối mặt với khó khăn trong việc giải quyết nguồn thức ăn xanh cho bò. Trở ngại lớn nhất hiện nay là diện tích chăn thả tự nhiên ngày càng bị thu hẹp do chính sách giao đất, khoán rừng cho nông hộ, chủ trương tận dụng đất hoang hoá để phát triển sản xuất, nhiều nơi đã lấy đất để xây dựng khu công nghiệp và đô thị hoá nông thôn, nhiều địa phương đã cấm chăn dắt bò trong những vùng đất canh tác. Thêm vào đó, áp lực dân số ngày càng tăng trong khi diện tích đất đai lại không thay đổi. Thực tiễn này đã cản trở không ít đến sự phát triển chăn nuôi bò của hộ nông dân, dẫn đến một số nơi khó duy trì được đàn bò của địa phương, số lượng và chất lượng đàn bò không tăng do thiếu thức ăn và bãi chăn thả. Trong khi đó, chăn nuôi bò lại cần phải được duy trì và phát triển để đáp ứng các nhu cầu về thịt, sức kéo, phân bón… cho sản xuất nông nghiệp, cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Chính vì vậy, phương thức chăn nuôi bò truyền thống theo kiểu chăn dắt và chăn thả tự do trên bãi cỏ tự nhiên như lâu nay không còn phù hợp đối với huyện An Nhơn nói riêng cũng như ở những vùng đất chật người đông nói chung. Để giải quyết mâu thuẫn này, nhiều hộ nông dân đã tự phát chuyển đổi một số diện tích đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò. Quá trình chuyển đổi này đã diễn ra ở huyện An Nhơn cách đây 3 - 6 năm. Tuy nhiên, hiệu quả cụ thể như thế nào thì chưa được biết, chưa có một cơ sở khoa học chắc chắn để thực hiện việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò đảm bảo có hiệu quả ổn định, bền vững và tránh được rủi ro trong sản xuất. Chính vì lẽ đó, thực tiễn đã đặt ra những vấn đề bức xúc trong quá trình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở An Nhơn cần phải được quan tâm nghiên cứu nhằm làm cơ sở cho việc chuyển đổi, đó là: 1) Thực trạng của việc chuyển đổi đang diễn ra ở An Nhơn như thế nào? 2) Kết quả và hiệu quả kinh tế của việc chuyển đổi ra sao? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trồng cỏ nuôi bò? 3) Việc chuyển đổi này tạo ra hiệu quả xã hội gì? 4) Quá trình chuyển đổi đã tác động như thế nào đến môi trường? 5) Những giải pháp khả thi nào để nâng cao hiệu quả chuyển đổi trong thời gian tới? Thế nhưng, cho đến nay ở Bình Định chưa có một nghiên cứu nào về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ để nuôi bò theo phương thức bán thâm canh. Do vậy, các vấn đề bức xúc mà thực tiễn đặt ra ở trên chưa được giải quyết, cũng chưa có cơ sở vững chắc để đề xuất và khuyến cáo hộ nông dân chuyển đổi như thế nào là mang lại hiệu quả cao nhất. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra như đã trình bày ở trên, đề tài “Hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở huyện An Nhơn tỉnh Bình Định” được chúng tôi lựa chọn, nghiên cứu khi thực hiện luận văn thạc sĩ của mình. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu chung Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò tại hộ nông dân nhằm phát triển sản xuất, góp phần nâng cao thu nhập và xóa đói giảm nghèo ở nông thôn huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. 2.2. Mục tiêu cụ thể Để đạt mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu theo 3 mục tiêu cụ thể sau: - Góp phần hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường. - Đánh giá thực trạng và hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở huyện An Nhơn. Rút ra những ưu điểm, chỉ ra những tồn tại của việc chuyển đổi, xác định các nhân tố ảnh hưởng và tác động của nó trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường ở địa phương. - Đề xuất định hướng và các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò trên địa bàn huyện An Nhơn đến năm 2015. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò với đối tượng là các hộ nông dân có trồng cỏ để nuôi bò. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Về nội dung - Thực trạng của việc chuyển đổi và hiệu quả (kinh tế, xã hội và môi trường) của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ để nuôi bò ở huyện An Nhơn. - Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của việc chuyển đổi. - Các giải pháp chủ yếu nhằm chuyển đổi có hiệu quả trong thời gian tới. 3.2.2. Về thời gian Đề tài tập trung nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2007, trong đó các số liệu khảo sát ở cấp hộ được tiền hành chủ yếu vào năm 2007. 3.2.3. Về không gian Địa điểm nghiên cứu được tiến hành tại huyện An Nhơn, trong đó tập trung nghiên cứu ở 3 xã đại diện cho huyện, đó là: Xã Nhơn Lộc, Xã Nhơn Phúc và Xã Nhơn Khánh. Đây là 3 xã nằm trong chủ trương chuyển đổi một phần đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò của huyện, là nơi phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết để chuyển đổi có hiệu quả. 4. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các bảng và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 4 chương: Chương I : Tổng quan tài liệu. Chương II : Đặc điểm địa bàn nghiên cứu, nội dung và phương pháp nghiên cứu. Chương III : Kết quả nghiên cứu và thảo luận. Chương IV : Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả chuyển đổi trong thời gian tới ở huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. CHƯƠNG I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế Xét về mặt triết học, cơ cấu là một phạm trù triết học biểu thị cấu trúc bên trong, mối liên hệ, liên kết của các bộ phận hợp thành các sự vật, hiện tượng trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể. Cơ cấu cụ thể của một sự vật hay một hiện tượng luôn thay đổi để phù hợp với những điều kiện khách quan nhất định [6]. Xét về mặt kinh tế, cơ cấu kinh tế (CCKT) là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ tỷ lệ về lượng và chất giữa các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế và các bộ phận hợp thành khác trong một tổng thể kinh tế có tính hệ thống, mỗi bộ phận cấu thành trong hệ thống đều được biểu hiện qua các chỉ tiêu định tính và định lượng. Các-Mác cho rằng: “Cơ cấu là sự phân chia về lượng, chất và là tỷ lệ về lượng của quá trình sản xuất xã hội”. CCKT phát triển gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt nó có mối liên hệ với một quan hệ sản xuất nhất định. Như vậy, CCKT hợp lý phải là cơ cấu phản ánh đầy đủ sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan, phản ánh được quy luật của sự vận động, phát triển của quan hệ sản xuất trong mối quan hệ với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất [19]. 1.1.1.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp Kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết, đan xen tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp (CCKTNN) theo nghĩa chung nhất là mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền nông nghiệp của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Trong tổng thể các mối quan hệ phản ánh CCKTNN, đáng chú ý nhất là quan hệ giữa các ngành sản xuất, giữa các vùng sinh thái và các thành phần kinh tế. Các mối quan hệ này được xác định theo các yếu tố sản xuất và kết quả sản xuất [22],[23]. Đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển, nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu trong cơ cấu kinh tế nông thôn và nó có những nét đặc thù là : - Nhân công phục vụ trong ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao hơn so với các ngành công nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực khác. - Nền kinh tế nông nghiệp được nói đến là nền nông nghiệp truyền thống, chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản. - Kết quả của sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đất trồng, khí hậu và nguồn nước sẵn có. Vì vậy, các yếu tố trên ở mỗi vùng khác nhau thì kết quả sản xuất cũng khác nhau. - Hầu hết các nước đều phải dựa vào nông nghiệp để sản xuất lương thực phục vụ tiêu dùng. Những nét đặc thù đó cho thấy, CCKTNN trong cơ cấu kinh tế nông thôn mang tính lịch sử, xã hội nhất định. Cơ cấu các ngành sản xuất không thể đồng nhất giữa các vùng, mọi sự chuyển dịch phụ thuộc và chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội nhất định; chủ quan, nóng vội, làm trái quy luật thì không thể có cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển nhanh, bền vững và ngược lại [7], [24]. 1.1.2. Nội dung cơ cấu kinh tế nông nghiệp Nội dung CCKTNN được xét theo 2 phương diện: cơ cấu về mặt vật chất kỹ thuật và cơ cấu về mặt kinh tế - xã hội. - Thứ nhất, xét cơ cấu về mặt vật chất kỹ thuật: Cơ cấu các ngành sản xuất, các lĩnh vực sản xuất phản ánh quan hệ tỷ lệ về lượng, vai trò và vị trí của từng ngành trong cơ cấu chung. Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông nghiệp truyền thống, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Nông nghịêp truyền thống bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp. Trong đó bao gồm cả trình độ công nghệ và kỹ thuật phản ánh trong các bộ phận đó [2]; [7]. - Thứ hai, xét về mặt kinh tế - xã hội: Cơ cấu theo thành phần kinh tế (nhà nước, tập thể, tư nhân...) phản ánh khả năng khai thác các năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh của các thành phần đó. Cơ cấu theo trình độ phát triển các mối quan hệ trao đổi hàng hoá, tiền tệ, dịch vụ phản ánh khả năng giải quyết mối quan hệ giữa các bộ phận nông nghiệp. 1.1.2.1. Cơ cấu các ngành trong nông nghiệp Kinh tế nông nghiệp bao gồm các ngành: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Trong từng ngành cụ thể lại được phân ngành theo sản phẩm như ngành sản xuất cây lương thực, thực phẩm,... Chuyên môn hoá càng cao và phân công lao cộng càng sâu thì việc phân ngành càng chi tiết hơn, đa dạng hơn. Sự hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng quốc gia, từng địa phương và nó được thể hiện trong nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương trong từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, việc xác định và phát triển đúng hướng các ngành chuyên môn hoá trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp của từng địa phương là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế của địa phương và của từng vùng [19]. Các nhân tố làm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành: - Mức thu nhập bình quân đầu người: thu nhập tăng làm cho nhu cầu tăng và dẫn đến cung tăng, thương mại và kỹ thuật cũng thay đổi theo. - Các yếu tố đầu vào: đất đai, vốn, lao động và các nguồn lực khác thay đổi dẫn đến cơ cấu sản xuất thay đổi theo hướng có hiệu quả hơn. - Khoa học công nghệ phát triển dẫn đến năng suất lao động trong nông nghiệp cao hơn, cơ cấu lao động trong nông nghiệp thay đổi, vốn được sử dụng nhiều hơn, hợp lý và có hiệu quả hơn. - Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới dẫn đến sự thay đổi cơ cấu sản xuất các ngành trong nông nghiệp. Xét trên xu thế thay đổi cơ cấu nhu cầu thì nhu cầu tiêu dùng thực phẩm, thịt, đường, sữa, rau, hoa quả cao cấp tăng. Xét trên xu thế thay đổi thu nhập thì thu nhập tăng dẫn đến đầu tư tăng, đối với sản xuất thì đòi hỏi công nghệ mới, kỹ thuật mới, đối với tiêu dùng đòi hỏi sản phẩm sạch, sản phẩm chế biến đa dạng, mẫu mã phù hợp [16]. 1.1.2.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng biểu hiện sự phân công lao động theo lãnh thổ trên phạm vi cả nước, từng địa phương. Sự phân công lao động theo ngành kết hợp với sự chuyên môn hoá, kéo theo sự phân công lao động theo vùng lãnh thổ. Đây là hai mặt gắn bó hữu cơ, khăng khít với nhau trong quá trình phân công lao động. Việc bố trí trồng cây gì? nuôi con gì? tổ chức sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? đều phải được thực hiện trong những không gian nhất định, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của nó [19]. Hình thành cơ cấu vùng nhằm tạo ra khối lượng hàng hoá lớn tập trung, có hiệu quả kinh tế, đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu là xu thế chung hiện nay. Vì vậy, phải xác định được tính đặc thù của từng vùng và lợi thế so sánh: đất đai, khí hậu, giao thông, thông tin liên lạc và gần các thị trường lớn (thành phố, khu công nghiệp ...) để hình thành CCKTNN hợp lý cho mỗi vùng. Điều đó đòi hỏi phải thận trọng nghiên cứu xem xét mục tiêu, kế hoạch chuyển dịch CCKTNN theo vùng. Đồng thời, chủ động sáng tạo, phát huy nội lực, tranh thủ thời gian và viện trợ bên ngoài về vốn và kỹ thuật để đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được xác định [24]. Sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đã thu được nhiều thành tựu và kinh nghiệm quý báu trong nông nghiệp. Lợi thế đó là cơ sở để xây dựng cơ cấu vùng kinh tế nông nghiệp hợp lý. Tuy nhiên, để xây dựng một cơ cấu kinh tế vùng nông nghiệp hợp lý, chúng ta không chỉ đánh giá lợi thế và các điều kiện cụ thể trong vùng một cách tỉ mỉ, khách quan mà phải đặt trong sự tác động qua lại giữa các vùng trong một địa phương, một quốc gia và trong tương quan cả khu vực và thế giới, trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay và dự báo cho cả tương lai. Điều đó tránh được một CCKTNN biệt lập, manh mún, tự cung tự cấp, không có hiệu quả. 1.1.2.3. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo thành phần kinh tế Cơ cấu thành phần kinh tế là nội dung quan trọng trong CCKTNN. Trong một thời gian dài chúng ta đã xây dựng một nền kinh tế tập trung dựa vào hai thành phần kinh tế chủ yếu là: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Từ đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đại hội đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã coi trọng các thành phần kinh tế với đầy đủ đặc trưng của nó, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. - Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều hộ nông dân đã vượt lên làm giàu hình thành nên kinh tế trang trại; hiện nay kinh tế trang trại ngày càng phát triển, tham gia các loại hình hợp tác xã, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước bằng nhiều hình thức. - Nông, lâm trường quốc doanh, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến và dịch vụ. Bộ phận này trong những năm gần đây được rà soát, sắp xếp lại và đang có xu hướng giảm về số lượng, thay đổi bổ sung nhiệm vụ nhằm làm cho nó ngày càng phát triển để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. - Hợp tác xã nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp, đã và đang tiến hành đổi mới theo Luật hợp tác xã. Làm tốt vai trò liên kết hộ gia đình với nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học theo mô hình 4 nhà để thúc đẩy sản xuất phát triển. - Kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động ở những ngành mà pháp luật cho phép. Xu thế cơ cấu thành phần kinh tế trong thập kỷ tới, chuyển dịch theo hướng thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế với hình thức kinh doanh đa dạng [24]. 1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 1.1.3.1. Khái niệm Cơ cấu kinh tế nói chung và CCKTNN luôn luôn vận động, biến đổi theo thời gian. Đó là quá trình thay đổi cấu trúc và các mối quan hệ của nền kinh tế và kinh tế nông nghiệp dưới sự tác động của các quy luật khách quan và các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội [6]. Chuyển dịch CCKTNN là sự vận dụng các quy luật khách quan, nhằm biến đổi nền nông nghiệp theo một hướng chủ đích nhất định. Đó là quá trình làm thay đổi các mối quan hệ chủ yếu về chất và lượng tương đối ổn định của các bộ phận hợp thành nền nông nghiệp; là quá trình làm thay đổi các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp để hướng tới một mục tiêu nhất định với những điều kiện kinh tế, xã hội trong một thời kỳ nhất định [7]. Hiện nay nước ta đang tiến hành chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các địa phương trong nước tiến hành chuyển dịch CCKTNN theo hướng sản xuất hàng hoá nông sản, khai thác tối đa thế mạnh của vùng, địa phương, từng bước phát triển một nền nông nghiệp hiện đại. 1.1.3.2. Những tiền đề khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Kinh tế nông nghiệp trong thời kỳ sản xuất tự túc tự cấp luôn lạc hậu ở mọi lĩnh vực, đặt nền kinh tế trong vòng luẩn quẩn không lối ra, đó là: đói, nghèo dẫn đến không có vốn tích lũy, do đó không thể công nghiệp hóa, vì vậy kinh tế kém phát triển và kết quả lại là đói nghèo… Thực tiễn cho thấy các mô hình phát triển nông nghiệp trên Thế giới cũng như trong nước, để khắc phục sự trì trệ lạc hậu cần phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tác dụng của nó coi như một "cú hích" để phá vở "sức ỳ" lâu đời của CCKTNN và cơ cấu kinh tế kinh tế nông thôn. Cơ cấu kinh tế có ảnh hưởng mạnh và trực tiếp đối với quy mô và nhịp độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp. Hai phạm trù chuyển dịch CCKTNN và nhịp độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp thay nhau mang tính chất nguyên nhân và kết quả. Chuyển dịch CCKTNN sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, mặt khác nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ thúc đẩy nhanh chóng chuyển dịch CCKTNN [6]. Nhưng bản thân sự chuyển dịch CCKTNN không phải là sự áp đặt chủ quan duy ý chí, nó được hình thành trên cơ sở những tiền đề khách quan sau đây : a) Sự phát triển của khoa học - công nghệ Sự phát triển khoa học - công nghệ buộc cơ cấu kinh tế nói chung và CCKTNN phải có sự thay đổi phù hợp, nhưng sự chuyển dịch CCKTNN lại có tác dụng mở đường cho việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật. Trong nông nghiệp, khoa học kỹ thuật đã có những tác động mạnh mẽ. Từ đó hàng loạt giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao và hiệu quả kinh tế lớn, từng bước được đưa vào sản xuất. Chính điều này đặt ra yêu cầu hàng loạt ngành nghề, dịch vụ, công nghiệp nông thôn xuất hiện. Do đó, chuyển dịch CCKTNN là kết quả tất yếu của quá trình phát triển khoa học - công nghệ. Đến lượt nó, xác định một cơ cấu hợp lý sẽ tạo điều kiện phát triển khoa học - công nghệ, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp [46]. Vấn đề là ở chỗ, đối với các nước kém phát triển làm sao đưa được tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông thôn, trong khi hầu hết nông dân đều có trình độ văn hóa thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, thiếu vốn, tập quán canh tác lạc hậu. Lời giải không phải chỉ riêng ở người nông dân, mà cả cộng đồng xã hội, trước hết là vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế của chính quyền các cấp. b) Quá trình phân công lao động, chuyên môn hóa Xuất phát từ sự ứng dụng tiến bộ kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất, năng suất lao động nông nghiệp tăng lên không ngừng, khi đảm bảo đủ nhu cầu lương thực cho xã hội thì có sự phân công giữa những người sản xuất lương thực với những người chăn nuôi, sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp... tạo nên sự phân công lao động giữa những người làm nông nghiệp và những người làm nghề khác. Phân công lao động có tác dụng to lớn, CCKTNN là hệ quả trực tiếp của sự phân công lao động xã hội trong nông thôn. Từ sản xuất để nuôi sống bản thân gia đình, người nông dân đã chuyển sang sản xuất hàng hóa. Vì mục đích lợi nhuận, họ phải suy nghĩ, nghiên cứu từng loại giống cây trồng vật nuôi, kỹ thuật canh tác, lợi dụng các điều kiện thuận lợi và né tránh sự khắc nghiệt, bất lợi của thiên nhiên [8]. c) Tác động của cơ chế thị trường và sự mở rộng thị trường Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Với lượng dân cư lớn sống ở vùng nông thôn đã tạo ra một thị trường sôi động và rộng lớn. Nếu mức thu nhập của nhân dân cao, sức mua lớn thì thị trường nông thôn là cơ sở bảo đảm chắc chắn để công nghiệp và dịch vụ tiếp tục có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao [14]. - Phát triển thị trường nông thôn sẽ tạo điều kiện tiêu thụ nông sản phẩm với tốc độ nhanh, thúc đẩy chuyển dịch CCKTNN theo hướng CNH và HĐH. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, người sản xuất chỉ sản xuất và đem ra thị trường trao đổi những sản phẩm đem lại lợi nhuận thỏa đáng. Thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường mà giá cả là thước đo để thúc đẩy hay ngăn cản người sản xuất tham gia hay không tham gia vào thị trường. Do đó trên thị trường xuất hiện nhiều loại hàng hóa nông sản phẩm có quy mô và cơ cấu sản phẩm khác nhau, phản ánh cơ cấu kinh tế ở từng vùng, từng địa phương [34] . - Phát triển thị trường sẽ khuyến khích phát triển các cơ sở chế biến nông sản gắn với các vùng nguyên liệu, đẩy mạnh phát triển và phân bố các điểm công nghiệp đều khắp các vùng sản xuất. Đó chính là cơ sở để thúc đẩy chuyển dịch CCKTNN phát triển. - Phát triển thị trường gắn liền với kế hoạch phát triển sản xuất, với hiệu quả kinh tế và các chính sách để khuyến khích nông dân sản xuất các loại sản phẩm phù hợp. Đây là cơ sở để nhà nước đánh giá thực trạng sản xuất một cách chính xác, từ đó đưa ra các dự báo và các chủ trương để điều tiết thị trường, điều tiết sản xuất, hỗ trợ người sản xuất tránh được các rủi ro nhằm khuyến khích sản xuất phát triển, làm thay đổi bộ mặt nông thôn [34]. Tóm lại, từ xa xưa đã có thị trường nông thôn, song thị trường đó chỉ có tác dụng điều tiết sản xuất ở quy mô nhỏ và mang tính tự cung, tự cấp. Quá trình chuyển dịch CCKTNN đã thay đổi đời sống của đa số nhân dân lao động, làm cho CCKTNN ngày một khởi sắc. Thị trường là nhân tố và động lực chính quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn phát triển. d) Định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước Bất kỳ Nhà nước nào đều có chức năng kinh tế, tuy nhiên vai trò của Nhà nước đối với kinh tế trong các chế độ xã hội khác nhau và các thời kỳ khác nhau thì hoàn toàn khác nhau. Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước trở thành trung tâm hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế phát triển theo những mục tiêu xác định. Để thực hiện các chức năng kinh tế, Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ bao gồm: pháp luật, kế hoạch hóa, chính sách kinh tế và thực lực kinh tế của Nhà nước. Chính vì vậy, định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước có vai trò to lớn thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCKTNN [14]. e) Điều kiện kinh tế xã hội: địa lý, dân cư, truyền thống, tập quán Điều kiện kinh tế xã hội là một tiền đề quan trọng hình thành CCKTNN. Trước hết, về mặt địa lý đây là điều kiện tự nhiên vốn có để hình thành cơ cấu ngành: Vùng nông thôn ven các đô thị có điều kiện thuận lợi để hình thành các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, vùng sản xuất rau quả, chế biến nông sản, thương mại, sản xuất công nghiệp hoặc làm vệ tinh cho các nhà máy công nghiệp; Vùng nông thôn ven biển thụận lợi để phát triển thủy sản; Vùng trung du và miền núi thuận lợi để phát triển các vùng cây công nghiệp, lâm nghiệp, du lịch sinh thái, phát triển loại hình kinh tế trang trại [7]. 1.1.3.3. Quan hệ biện chứng giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với phát triển sản xuất hàng hóa a) Quan hệ hàng hóa - tiền tệ là hình thức thực hiện CCKTNN Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa có nghĩa là sản xuất sản phẩm để bán chứ không phải là để tiêu dùng cho bản thân và gia đình họ. Mặt khác để sản xuất ra loại hàng hóa gì? Số lượng bao nhiêu? Cơ cấu chủng loại thế nào? Điều đó lại không thuộc người sản xuất mà chủ yếu phụ thuộc vào mức độ và khả năng tiêu thụ của thị trường. Đó là mối quan hệ: Thị trường - Sản xuất hàng hóa - Thị trường. Thị trường quyết định hai vấn đề quan trọng : + Sản xuất kinh doanh cái gì? Cho ai? Và sản xuất như thế nào? + Cung cấp các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh như lao động, tiền vốn, vật tư, thị trường đầu ra. Đến lượt nó lại quyết định cho hiệu quả của quá trình sản xuất, sản phẩm phải được tiêu thụ và phải có lãi [30]. Như vậy, thị trường đầu ra và đầu vào có quan hệ chặt chẽ với cơ cấu kinh tế trong một hệ thống, mối quan hệ này càng hoàn hảo bao nhiêu thì cơ cấu kinh tế càng hợp lý bấy nhiêu. Vì vậy, xác lập và chuyển dịch CCKTNN theo hướng sản xuất hàng hóa trước hết phải từ thị trường và vì thị trường, lấy thị trường làm căn cứ và xuất phát điểm. Xem đây là giải pháp hàng đầu chuyển dịch CCKTNN. b) Mâu thuẫn và thống nhất giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển sản xuất hàng hóa Phát triển sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao động xã hội nông thôn thay đổi, đến một mức độ nhất định nếu cơ cấu kinh tế không thay đổi, sẽ dẫn đến trì trệ, cản trở sự phát triển hàng hóa. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết khi phá bỏ cơ cấu kinh tế cũ lạc hậu, xác lập cơ cấu kinh tế mới tiên tiến phù hợp. Một khi cơ cấu kinh tế nông thôn được xác lập hợp qui luật, sẽ mở đường cho phát triển sản xuất hàng hóa. Có thể nói, không thể đẩy mạnh sản xuất hàng hóa mà không biến đổi cơ cấu sản xuất và ngược lại, nếu không biến đổi cơ cấu sản xuất thì cũng không có, hoặc có rất ít hàng hóa để cung ứng ra thị trường. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa phải được xem là vấn đề cốt lõi để phát huy thế mạnh tiềm năng của địa phương mình [46]. c) Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với mở rộng thị trường Xu hướng có tính tất yếu mà nhiều nước phát triển trên thế giới đã trải qua trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là tỷ trọng nông nghiệp (theo nghĩa hẹp) ngày càng giảm, các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Trong nông nghiệp, chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi, thủy sản, rau quả; giảm tỷ trọng lương thực. Trên cơ sở đó, về mặt lao động sẽ chuyển dịch từ trồng trọt sang chăn nuôi, từ sản xuất nông nghiệp sang làm dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và chuyển dịch lao động thủ công sang lao động cơ khí trên đồng ruộng, trong chuồng trại và trong các xí nghiệp chế biến nông sản [20]. Việc chuyển dịch giữa các ngành trong sản xuất theo cơ chế thị trường. Thị trường có nhu cầu ngành nào cao, CCKTNN phải thay đổi cho phù hợp với thị trường, có như vậy sản xuất mới có hiệu quả, đời sống nhân dân mới được cải thiện. Thị trường trong nền kinh tế mở được xem là một giải pháp cực kỳ quan trọng trong quá trình chuyển dịch CCKTNN, phải luôn gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế của đất nước theo hướng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường [20]. 1.2. HIỆU QUẢ VÀ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH HIỆU QUẢ Để nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò; ngoài việc nghiên cứu, hệ thống hoá các vấn đề lý luận về CCKTNN và chuyển dịch CCKTNN, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. 1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả Hiệu quả là một thuật ngữ dùng để chỉ các mối quan hệ giữa kết quả thực hiện với các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Một cách chung nhất, hiệu quả chính là kết quả mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu của mình càng lớn hơn so với chi phí đã bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Do đó, hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án sản xuất [18]. Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau và hình thành nên các khái niệm khác nhau như: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường. Ngoài ra còn có hiệu quả tổng hợp, hiệu quả trực tiếp, hiệu quả gián tiếp, hiệu quả tuyệt đối, hiệu quả tương đối… 1.2.2. Hiệu quả kinh tế và phương pháp xác định hiệu quả kinh tế ở nông hộ 1.2.2.1. Hiệu quả kinh tế Trong cơ chế kinh tế thị trường, một vấn đề luôn được các nhà sản xuất quan tâm là hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh tế (HQKT) là điều kiện để tích luỹ và tái sản xuất mở rộng, là động lực để thúc đẩy việc mở rộng sản xuất kinh doanh. HQKT là một phạm trù rộng và phức tạp. Để nghiên cứu HQKT chúng tôi tiến hành xem xét khái niệm và bản chất của HQKT. Hiệu quả kinh tế đã được nhiều tác giả trên thế giới bàn đến như Farele, Sehultz, Rizzo và Ellis. Ở Việt Nam, các nhà kinh tế cũng đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về phạm trù HQKT. Tác giã Hồ Vĩnh Đào cho rằng: “Hiệu quả kinh tế còn gọi là hiệu ích kinh tế, là do sự so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế (bao gồm lao động vật hoá và lao động sống) với thành quả có ích đạt được”[47]. Khái niệm này nhằm nhấn mạnh đến chất lượng hoạt động kinh tế được biểu hiện trong quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Tuy nhiên, Nguyễn Tiến Mạnh lại cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định [30]. Khái niệm này thể hiện sự tập trung, sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác nguồn lực và trình độ chi phí nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.Tác giả Ngô Đình Giao thì cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế tối ưu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước” [10]. Bản chất của HQKT là nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu HQKT, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là qui luật năng suất lao động và qui luật tiết kiệm thời gian. Yêu cầu của việc nâng cao HQKT là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu [29]. Khi bàn về HQKT, chúng tôi thấy các nhà kinh tế ở nhiều nước đã có những quan điểm khác nhau, có thể tóm tắt thành hai hệ thống quan điểm như sau: - Hệ thống quan điểm thứ nhất cho rằng HQKT được xác định bởi việc so sánh giữa kết quả đạt được và các chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Theo quan điểm của hệ thống này, chỉ tiêu để đánh giá HQKT được đo bằng hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó hoặc tỷ lệ giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra. HQKT = Kết quả sản xuất – chi phí; hoặc : HQKT = Kết quả / chi phí. Ngoài ra, hệ thống quan điểm này cũng xem xét HQKT trong phần biến động giữa chi phí và kết quả sản xuất, HQKT biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả với phần tăng thêm của chi phí, hay quan hệ giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ sung: HQKT = , trong đó : + là phần tăng thêm của kết quả sản xuất + là phần tăng thêm của chi phí sản xuất. Tuy nhiên nếu chỉ tập trung vào các chỉ tiêu giữa kết quả sản xuất và chi phí thì chưa toàn diện, bởi lẽ chỉ tiêu này chưa phân tích được sự tác động của các yếu tố nguồn lực tự nhiên (đất đai, khí hậu, thời tiết). Thực tế đã cho thấy, hai cơ sở sản xuất khác nhau có thể đạt được tỷ số trên như nhau, nhưng ở những không gian và thời gian khác nhau thì tác động của nguồn lực tự nhiên là khác nhau và như vậy HQKT cũng không giống nhau. Với quan điểm xem xét HQKT chỉ ở phần kết quả bổ sung và chi phí bổ sung cũng chưa đầy đủ. Trong thực tế kết quả sản xuất đạt được luôn là hệ quả của cả chi phí có sẵn (chi phí nền) cộng chi phí bổ sung. Ở các nước chi phí nền khác nhau thì hiệu quả của chi phí bổ sung cũng khác nhau. Tính biện chứng thống nhất của các sự vật và hiện tượng đòi hỏi khi nghiên cứu phải bảo đảm trong chừng mực nhất định với sự tương ứng đó, nếu không sẽ dẫn đến kết luận sai khác với sự vận động vốn có của nó. Như vậy khái niệm về HQKT cần được bổ sung và mở rộng [10]. - Hệ thống quan điểm thứ hai được thể hiện qua công trình nghiên cứu của Farrell và một số nhà kinh tế khác: khi nghiên cứu hoạt động kinh tế của các nhà sản xuất ngang tài ngang sức và tiêu biểu nhưng lại đạt kết quả khác nhau do cách kinh doanh khác nhau, như vậy chỉ có thể ước tính đầy đủ HQKT theo nghĩa tương đối. Để giải thích cho lập luận này, ông phân biệt hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân phối và HQKT [10]. Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi phí đầu vào. Hiệu quả kỹ thuật được xác định bởi phương pháp và mức độ sử dụng các yếu tố đầu vào. Việc lựa chọn các cách thức sử dụng các yếu tố đầu vào khác nhau sẽ ảnh hưởng đến sản lượng đầu ra. Do đó, hiệu quả kỹ thuật liên quan đến phương diện vật chất của sản xuất, nó chỉ ra rằng một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất có khả năng đem lại thêm bao nhiêu đơn vị sản phẩm [35]. Bộ phận khác của hiệu quả kinh tế là hiệu quả phân bổ, hay còn gọi hiệu quả về giá. Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả trong mối quan hệ với giá của sản phẩm đầu ra và giá đầu vào được sử dụng. Nó phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm về đầu vào. Thực chất của hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến yếu tố giá của đầu vào và giá của đầu ra. Hay nói cách khác, khi nắm được giá của các yếu tố đầu vào, người ta sẽ sử dụng các yếu tố đầu vào theo tỷ lệ nhất định để đạt được lợi nhuận tối đa. Việc xác định hiệu quả này giống như xác định các điều kiện về lý thuyết biên tế để tối đa hóa lợi nhuận. Điều đó có nghĩa là giá trị biên của sản phẩm phải bằng giá trị biên của nguồn lực sử dụng vào sản xuất. HQKT đạt được khi nhà sản xuất đạt được hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong sản xuất [35]. Như vậy, hiệu quả kỹ thuật chỉ liên quan đến những đặc tính vật chất của sản xuất. HQKT liên quan đến yếu tố tổ chức quản lý nhằm mục đích kinh tế của người sản xuất là có lợi ở mức tối đa. Ta cũng cần phân biệt rõ HQKT, hiệu quả xã hội. Nếu như HQKT là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả kinh tế đạt được và lượng chi phí bỏ ra thì hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xã hội và tổng chi phí bỏ ra. Giữa HQKT và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là phạm trù thống nhất [28]. 1.2.2.2. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế xã hội, vừa thể hiện tính lý luận sâu sắc, vừa là yêu cầu đặt ra của thực tiễn sản xuất. Bản chất của HQKT là tương quan so sánh tương đối và tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được với lượng chi phí bỏ ra. Tuy nhiên so sánh tuyệt đối chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định. Như vậy, để tính được HQKT, vấn đề đặt ra là phải xác định được kết quả và chi phí bỏ ra. Trong hệ thống sản xuất vật chất (Material Production Sytem - MPS), kết quả thu được có thể là toàn bộ giá trị sản phẩm (C +V + m), hoặc có thể là thu nhập thuần (V + m) hoặc có thể là thu nhập thuần tuý (m),... Trong hệ thống tài khoản quốc gia (Sytem of National Accounts - SNA), thì kết quả thu được có thể là tổng giá trị sản xuất (Gross Outpu - GO), có thể là giá trị gia tăng (Value Added - VA), có thể là thu nhập hỗn hợp (Mix Incom - MI) hoặc là lợi nhuận (Total Profit - P). Tuỳ theo mục đích tính toán HQKT mà xác định kết quả thu được cho phù hợp. Chẳng hạn, với mục tiêu là sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội thì kết quả được sử dụng là tổng giá trị sản xuất (GO). Nhưng với những doanh nghiệp, trang trại thuê mướn nhân công thì kết quả sản xuất thu được cần quan tâm là lợi nhuận, còn với nông hộ kết quả cần quan tâm là thu nhập hỗn hợp [18]. Chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh là những chi phí cho các yếu tố đầu vào như đất đai, lao động, tiền vốn, nguyên nhiên vật liệu… Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà chi phí bỏ ra có thể tính toàn bộ hoặc cho từng yếu tố chi phí. Thông thường chi phí bỏ ra được tính tổng chi phí, chi phí vật chất, tổng chi phí trung gian, chi phí lao động sống, tổng diện tích đất, … Sau khi xác định kết quả thu được và chi phí bỏ ra chúng ta có thể tính được HQKT. Tuy nhiên có thể xác định HQKT theo mục đích tiếp cận khác nhau Thứ nhất, hiệu quả toàn phần được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra: - Dạng thuận: H = (1) ; - Dạng nghịch: h = (2) Trong đó: + H, h : là hiệu quả, + Q: Kết quả đạt được, + C: Chi phí bỏ ra. Công thức (1) nói lên: 1 đơn vị chi phí sẽ tạo ra được bao nhiêu đơn vị kết quả. Công thức (2) nói lên: Để đạt được một đơn vị kết quả thì cần tiêu tốn bao nhiêu đơn vị chi phí. Hai chỉ tiêu này có ý nghĩa khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, cùng được dùng để phản ánh HQKT và gọi là các chỉ tiêu toàn phần. Phương pháp này có ưu điểm là phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các nguồn lực, xem xét một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết quả, hoặc một đơn vị kết quả cần tốn bao nhiêu đơn vị nguồn lực. Vì vậy phương pháp này giúp ta so sánh được hiệu quả ở các quy mô khác nhau. Thứ hai, Hiệu quả cận biên được xác định bằng cách so sánh phần tăng thêm của kết quả thu được và phần tăng thêm của chi phí bỏ ra. - Dạng thuận: Hb = (3) ; - Dạng nghịch: hb = (4) Trong đó: + Hb,. hb: là hiệu quả cận biên, +Q: Kết quả thu thêm, +C: Chi phí bỏ ra thêm. Công thức (3) thể hiện: Cứ tăng thêm hay giảm đi một đơn vị chi phí thì sẽ tăng hay giảm bao nhiêu đơn vị kết quả. Công thức (4) thể hiện: Để tăng thêm một đơn vị kết quả thì cần đầu tư thêm bao nhiêu đơn vị chi phí. Các chỉ tiêu này rất quan trọng trong việc đánh giá, phân tích hiệu quả kinh tế, bởi vì nguyên lý cận biên là phần lý thuyết cốt lõi trong kinh tế học hiện đại. Nó là cơ sở để định giá các yếu tố đầu vào cho việc phân phối sản phẩm và thu nhập. Hai phương pháp này vừa phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, trình độ tiết kiệm nguồn lực và chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để thấy được quy mô hiệu quả có thể xác định mức chênh lệch tuyệt đối giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Với cách tính này sẽ biết được tổng thu nhập, tổng lợi nhuận là bao nhiêu. Thế nhưng, cách tính này không cho biết cái giá phải trả cho quy mô hiệu quả là bao nhiêu và cũng không so sánh được HQKT của các đơn vị sản xuất có quy mô khác nhau [35]. Như vậy, có nhiều cách xác định HQKT. Mỗi phương pháp đều phản ánh một khía cạnh nhất định về hiệu quả. Vì thế, tuỳ theo mục đích phân tích và tình hình cụ thể mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Thông thường cần kết hợp các chỉ tiêu với nhau để xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện HQKT. 1.2.2.3. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế của việc chuyển đổi ở nông hộ Xuất phát từ những quan điểm HQKT đã đề cập trên, HQKT kinh tế hộ nói chung và HQKT của việc chuyển đổi từ đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò nó riêng ở nông hộ là tương quan so sánh giữa chi phí đầu vào với kết quả đầu ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của nông hộ. Hiệu quả của việc chuyển đổi này được xác định thông qua hiệu quả chăn nuôi bò nhờ vào việc trồng cỏ. Do đó, để xác định hiệu quả kinh tế của việc chuyển đổi từ đất trồng trọt sang trồng cỏ ở nông hộ cần phải xác định được hai hệ thống các chỉ tiêu sau: * Kết quả sản xuất, bao gồm: - Giá trị sản xuất (GO), - Giá trị gia tăng (VA), - Chi phí sản xuất trung gian (IC), - Thu nhập hỗn hợp (MI). * Trên cơ sở so sánh các nguồn lực đầu vào (chi phí) và đầu ra (kết quả) và xét trên khía cạnh HQKT của việc trồng cỏ, chúng tôi áp dụng các chỉ tiêu đánh giá HQKT của việc chuyển đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò sau: - Thu nhập hỗn hợp trên năm (MI/năm)), - Thu nhập hỗn hợp trên con bò (MI/con), - Thu nhập trên nhân khẩu (MI/nhân khẩu), - Thu nhập trên lao động (MI/lao động), - Thu nhập trên chi phí (MI/tổng chi phí), Ngoài ra chúng tôi còn tính toán các chỉ tiêu đánh giá HQKT như: GO/tổng chi phí phí; GO/IC, GO/lao động; GO/nhân khẩu; GO/tháng nuôi; GO/con bò; VA/chi phí; VA/lao động; VA/nhân khẩu; VA/tháng nuôi; VA/con bò và MI/sào. 1.2.3. Hiệu quả xã hội và phương pháp xác định hiệu quả xã hội 1.2.3.1. Hiệu quả xã hội Trong thực tế có thể thấy rằng, kết quả đạt được của các hoạt động sản xuất rất đa dạng và phong phú, có thể thu được trên phương diện kinh tế, cũng có kết quả thu được trên phương diện xã hội và môi trường như: giảm thất nghiệp, cải thiện môi trường sinh thái,... do đó hình thành nên các khái niệm hiệu quả xã hội (HQXH) và hiệu quả môi trường (HQMT). HQXH là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra với kết quả mà xã hội đạt được như tăng thêm việc làm, thay đổi phân công lao động, giảm khoảng cách giàu nghèo, tăng cơ hội đến trường… Hay đó là những tác động về mặt xã hội của một phương án sản xuất [29]. Thông thường, HQKT thường đi kèm với HQXH. Vì thế mà hình thành nên khái niệm hiệu quả kinh tế - xã hội. Đó là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được cả về mặt kinh tế và xã hội. Phát triển kinh tế và xã hội có mối quan hệ mật thiệt với nhau, mục tiêu của phát triển kinh tế là phát triển xã hội và ngược lại. Do đó HQKT và HQXH có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là phạm trù thống nhất. Khi nói đến HQKT chúng ta phải hiểu trên quan điểm kinh tế - xã hội [29]. Khi phân tích khía cạnh xã hội của một phương án sản xuất cần chú ý đến các đối tượng mà nó phục vụ. Các tiêu chuẩn xã hội có tính chất tương đối, vì nó phụ thuộc vào từng quốc gia, từng thời kỳ nhưng thường bao gồm các tiêu chuẩn như: phân phối thu nhập, việc làm, văn hóa giáo dục, thay đổi cơ cấu xã hội, ... - Đánh giá việc phân phối thu nhập dựa vào thước đo phổ biến là tổng sản phẩm trong nước GDP và tổng sản phẩm quốc gia GNP. Phân phối thu nhập hợp lý sẽ tăng mức độ công bằng xã hội, tăng phúc lợi cho tầng lớp có thu nhập thấp. - Đánh giá khía cạnh dân số, việc làm bằng các chỉ tiêu như cấu trúc dân số, tỷ lệ tăng dân số, tỷ lệ chết, tỷ lệ người thoát nghèo, tỷ lệ người bị nhiễm các bệnh xã hội và bệnh hiểm nghèo, ... - Đánh giá về khía cạnh văn hóa giáo dục thông qua các chỉ tiêu như: tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ trẻ em đi học so với lứa tuổi đến trường, tỷ lệ học sinh đại học trên nghìn dân… - Đánh giá thay đổi cơ cấu xã hội thông qua việc thay đổi tỷ lệ các tầng lớp dân cư trong xã hội như nông dân nghèo, nông dân giàu, lao động thủ công và thương nhân, ... Việc đánh giá tác động xã hội của một phương án sản xuất có thể được xem xét thông qua các vấn đề như mức độ giải quyết việc làm cho cộng đồng dân cư; khả năng thay đổi các tập quán và phương thức canh tác lạc hậu của người dân; khả năng nâng cao thu nhập và mức độ cải thiện đời sống văn hóa, tinh thần, y tế, sức khỏe cộng đồng; số người được hưởng lợi từ phương án đó; ...Ngoài ra, còn đánh giá tác động xã hội thông qua khả năng góp phần thỏa mản tiêu dùng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực [35]. 1.2.3.2. Phương pháp xác định hiệu quả xã hội Mỗi phương án sản xuất trong nông nghiệp đều có đối tượng mà nó phục vụ, tức là tầng lớp dân cư được hưởng lợi ích từ phướng án sản xuất. Vì vậy cần phải xem xét sự chấp nhận và tham gia của họ như thế nào. Sự đóng góp đó có đủ lớn để biện minh cho việc sử dụng tài nguyên khan hiếm về mặt xã hội ngoài sự hấp dẫn về kỹ thuật, kinh tế. HQXH là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra với kết quả mà xã hội đạt được như tăng thêm việc làm, thay đổi phân công lao động, giảm khoảng cách giàu nghèo,… Do đó, phương pháp xác định HQXH của một phương án sản xuất là: - Xác định chi phí sản xuất của phương án sản xuất, bao gồm: tổng chi phí, chi phí trung gian… - Xác định kết quả xã hội do phương án sản xuất đem lại: + Tầng lớp dân cư được hưởng lợi. + Số lao động được giải quyết việc làm và mức độ giải quyết việc làm xét cả về chiều dài thời gian và tính thời vụ. + Mức độ tăng dân trí, việc ổn định dân số, ổn định chổ ở, ổn định xã hội. + Kết quả cải thiện đời sống văn hóa tinh thần, cải thiện bộ mặt nông thôn. - Cuối cùng xác định hiệu quả xã hội bằng cách so sánh mối quan hệ tương quan giữa chi phí bỏ ra và kết quả xã hội đã đạt được . Tuy nhiên, ở góc độ HQXH nhiều vấn đề khó có thể đo lường bằng con số cụ thể. Do đó, có khi cũng phải chấp nhận đánh giá HQXH dưới dạng định tính. 1.2.4. Hiệu quả môi trường và phương pháp xác định hiệu quả môi trường 1.2.4.1. Hiệu quả môi trường Ngoài hiệu quả về kinh tế, xã hội thì bất kỳ phương án sản xuất nào cũng đều có hiệu quả về mặt môi trường (HQMT). Đó là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được về khía cạnh môi trường như sự ô nhiễm môi trường không khí, khả năng cải tạo tài nguyên đất,… Có thể hiểu đơn giản rằng: HQMT là tác động lên môi trường sinh thái của một phương án sản xuất cụ thể, nó thường đi kèm với các tác động kinh tế và xã hội [35]. Bảo vệ môi trường là nội dung quan trọng trong các hoạt động phát triển. Ngày nay, bảo vệ môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu, nó không chỉ là nhiệm vụ của một vùng hay một quốc gia nào. Để đánh giá được tác động của con người với môi trường là rất khó khăn vì ảnh hưởng này thường ở dạng vô hình, phản ứng dây chuyền giữa các quốc gia, các vùng, các địa phương qua nhiều thế hệ và nhiều khi cần có đủ thời gian mới có thể đánh giá được. Tuy nhiên, ở chừng mực nào đó cũng cần phải được đánh giá mức độ tác động của phương án sản xuất đến môi trường sinh thái. Hoạt động nông nghiệp và nông thôn đều có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Do đó, phương án sản xuất sẽ được chấp nhận nếu có nhiều tác động tích cực đến bảo vệ, cải thiện môi trường sinh thái và các tác động tiêu cực (nếu có) phải là nhỏ nhất hoặc không vượt quá các tiêu chuẩn cho phép của Nhà nước. Thông thường, các tác động môi trường được xem xét trên các khía cạnh như: tác động đến việc bảo vệ và cải tạo đất; tác động đến việc bảo vệ và cải tạo nguồn nước; tác động đến việc bảo vệ và cải tạo nguồn dưỡng khí cho con người; tác động đến việc bảo vệ và duy trì các công trình xây dựng, thủy lợi, thủy điện và các công trình khác; tác động đến việc bảo vệ và phát triển đa dạng sinh học, phát triển cảnh quan và tái tạo các giá trị, vẻ đẹp của thiên nhiên [35]. 1.2.4.2. Phương pháp xác định hiệu quả môi trường Như chúng tôi đã trình bày trên, đánh giá HQMT là rất khó khăn bởi hiệu quả môi trường thường ở dạng vô hình và phản ứng dây chuyền qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, HQMT của một phương án sản xuất trong nông nghiệp được xác định như sau: - Xác định chi phí để thực hiện phương án sản xuất. - Xác định kết quả môi trường của phương án sản xuất: + Kết quả cải thiện môi trường sống (nước sạch, vệ sinh môi trường, chống ô nhiễm…) + Mức độ phủ xanh đồi núi trọc, tạo dựng cảnh quan, đa dạng sinh học, bảo vệ các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá, bản sắc dân tộc… + Dự báo xu hướng biến động; các ảnh hưởng tốt, xấu của phương án sản xuất đến môi trường trong tương lai. - Từ đó xác định hiệu quả môi trường thông qua xác định mối tương quan giữa kết quả đã đạt được với chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Tóm lại, với cách hiểu như trên về hiệu quả thì hiệu quả của một phương án sản xuất nông nghiệp là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra với các kết quả thu được về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Do vậy, hiệu quả của việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra với các kết quả về kinh tế, xã hội và môi trường do hoạt động chuyển đổi này mang lại. 1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CHUYỂN ĐỔI ĐẤT TRỒNG TRỌT SANG TRỒNG CỎ ĐỂ CHĂN NUÔI BÒ 1.3.1. Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên Giống như các đối tượng khác của sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Vì cỏ là sinh vật sống, ngoài những quy luật sinh học chung của giới thực vật, cỏ còn có những đặc điểm riêng. Vì vậy ở mỗi vùng khác nhau thì số lượng, chất lượng và khả năng sản xuất của cỏ cũng khác nhau. - Khí hậu và thời tiết có ảnh hưởng lớn đến trồng cỏ, khi chúng tác động không thuận lợi sẽ làm giảm năng suất và chất lượng của cỏ, tăng chi phí trồng cỏ. Ngoài ra, khí hậu thời tiết có ảnh hưởng đến sự phát triển của bò và các loại thức ăn xanh khác, nghĩa là tác động gián tiếp đến chăn nuôi bò thông qua nguồn thức ăn. - Đất đai và nguồn nước: Đất đai có ảnh hưởng trực tiếp đến chăn nuôi bò và trồng cỏ. Diện tích đất là yếu tố quyết định phương thức chăn nuôi, số lượng đàn bò và trồng cỏ. Bên cạnh đất thì nguồn nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến trồng cỏ thông qua các đặc tính lý hoá học của chúng. Ngoài hai yếu tố chủ yếu trên, trồng cỏ nuôi bò còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên khác như vị trí địa lý, địa hình… Tóm lại, nghiên cứu sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đối với trồng cỏ để hiểu rõ hơn sự tác động của các yếu tố tự nhiên đó, từ đó có thể đề ra các biện pháp tác động nhằm khai thác hợp lý và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời hạn chế tối đa các yếu tố ảnh hưởng bất lợi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. 1.3.2. Nhóm yếu tố kinh tế - xã hội Chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò chịu tác dụng của các yếu tố kinh tế xã hội như vốn, lao động, thị trường tiêu thụ và các chính sách kinh tế. - Vốn: Mặc dù trồng cỏ ở nước ta chủ yếu tận dụng đất đai, nhưng khi quy mô nuôi bò tăng, đòi hỏi phải đầu tư thâm canh thì nó chịu ảnh hưởng của nguồn vốn. Hơn nữa hệ số quay vòng vốn và thời gian nuôi bò để có sản phẩm thường dài hơn các loại gia súc khác nên không phù hợp với tâm lý của người dân, nhất là người nghèo. Điều này lý giải tại sao ở những vùng sâu xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, mặc dù có nhiều đồng cỏ nhưng rất nhiều hộ lại không nuôi bò [13]. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm từ chăn nuôi bò: Thị trường là yếu tố quyết định sản xuất. Vì vậy, thị trường tiêu thụ sản phẩm từ chăn nuôi bò có ảnh hưởng đến trồng cỏ, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của trồng cỏ khi thị trường sản phẩm chăn nuôi bò không ổn định, điều này thể hiện qua các biến động về giá cả và cung - cầu sản phẩm trên thị trường. Vì hiện nay, người nuôi bò không chỉ để tiêu dùng, mục đích chính của họ vẫn là tạo thêm thu nhập, cho nên yếu tố thị trường tác động rất lớn và hết sức quan trọng [35]. - Chính sách kinh tế: Bất kỳ hoạt động nào cũng phải có chính sách phù hợp, nếu chính sách không hợp lý thì nó là yếu tố cản trở và ngược lại nó sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển [15]. Do đó chính sách cũng tác động không nhỏ đến quá trình chuyển đổi đất trông trọt sang trồng cỏ nuôi bò. 1.3.3. Nhóm yếu tố kỹ thuật Bên cạnh các yếu tố tự nhiên, kinh tế – xã hội thì kỹ thuật cũng là yếu tố quyết định năng suất và hiệu quả trồng cỏ. Các yếu tố kỹ thuật có ảnh hưởng chủ yếu đến hiệu quả trồng cỏ đó là: giống, mật độ trồng, bón phân… Do quá trình chuyển đổi từ đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên việc nghiên cứu, tìm hiểu kỹ ảnh hưởng của từng yếu tố là hết sức cần thiết. Từ đó giúp cho nông hộ có những hiểu biết quan trọng, góp phần hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực, phát huy tốt các ảnh hưởng tích cực để từ đó nâng cao năng suất và hiệu quả của quá trình chuyển đổi này. 1.4. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN ĐỔI ĐẤT TRỒNG TRỌT SANG TRỒNG CỎ CHĂN NUÔI BÒ Việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò xuất phát từ một số cơ sở thực tiễn sau đây: 1.4.1. Hiệu quả sản xuất trồng trọt thấp Nông nghiệp nước ta chủ yếu là thuần nông với khoảng 73,6% dân số tham gia [4]. Do đó, nông nghiệp chủ yếu vẫn là trồng trọt với xu hướng độc canh cây lúa, còn những loại cây khác chiếm diện tích không đáng kể. Điều này thể hiện khá rõ ở An Nhơn, một huyện đồng bằng mang đậm tính thuần nông, sản xuất nông nghiệp ở đây chủ yếu là trồng lúa nước. Thế nhưng, khí hậu nước ta khá phức tạp, hạn hán lũ lụt liên tiếp xảy ra, đồng thời các loại sâu bệnh ngày càng nhiều, vì thế mà năng suất thấp và bấp bênh. Theo số liệu thống kê năm 2006 của phòng thống kê huyện An Nhơn, năng suất một số loại cây trồng đạt cao nhất từ trước tới nay là: lúa đạt 51,7 tạ/ha; ngô đạt 45,6 tạ/ha; sắn đạt 250 tạ/ha,… Đồng thời, người dân sản xuất vẫn theo lối quảng canh, diện tích lại manh mún nên hiệu quả sản xuất nông nghiệp là rất thấp, thậm chí có năm mất mùa hàng loạt [27]. 1.4.2. Do yêu cầu của CNH, HĐH Đất nước ta đang trên đà hội nhập, đặc biệt là từ khi gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hàng hoá nước ngoài vào nước ta rất nhiều, nhất là các mặt hàng nông sản từ Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc,... Trong khi hầu hết các nông hộ ở nước ta đều sản xuất theo kiểu quảng canh, chất lượng sản phẩm rất thấp và không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết được đặt ra là phải thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá để nâng cao sức cạnh tranh của nông sản An Nhơn. Hơn nữa, chúng ta đang từng bước thực hiện CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi mỗi địa phương phải tự nỗ lực, mạnh dạn thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để phát triển kinh tế, từng bước nâng cao thu nhập để góp phần vào sự nghiệp chung của cả nước [1],[16]. 1.4.3. Nhiều địa phương trên cả nước đã thực hiện chuyển đổi có hiệu quả Do những yêu cầu khác nhau mà rất nhiều địa phương đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng để phát triển kinh tế. Một số hộ nông dân ở Hà Nam, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Nghệ An, Đắk Lắk, Quảng Bình… đã tự động chuyển đất trồng trọt sang trồng cỏ, có hộ chuyển từ đất trồng lúa, có hộ chuyển từ đất trồng các loại cây hoa màu như sắn, ngô, khoai,… Điển hình như hộ anh Tống Văn Bính ở thôn Hoàn Dương, xã Mộc Bắc, huyện Duy Tiên – Hà Nam là một ví dụ [12]. Anh đã bỏ ra 3 ha đất chuyên dùng để trồng cỏ. Theo nhận xét ban đầu của các hộ chuyển đổi thì việc này mang lại HQKT cao hơn. Tuy nhiên, đó chỉ mới là lời nói chung còn cụ thể bao nhiêu thì họ chưa đưa ra được con số cụ thể. Đồng thời, các tác động về môi trường và xã hội ra sao thì chưa có hộ nông dân nào có thể nhận thấy được. Do đó, cần phải có nghiên cứu hoàn chỉnh để củng cố lòng tin cho họ và có thể đưa ra khuyến cáo cho các nông hộ khác. 1.4.4. Xuất phát từ vai trò của việc chuyển đổi để phát triển nông nghiệp bền vững Nông nghiệp Việt Nam vốn là một nền nông nghiệp hữu cơ cổ truyền, phát triển theo hướng bền vững nhưng còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thâm canh trong nông nghiệp, cân bằng sinh thái ở một số vùng kinh tế tự nhiên của đất nước đã bị phá vỡ [11]. Do trình độ canh tác ở một số địa phương còn lạc hậu, kéo dài nhiều năm như phá rừng, đốt rẫy, làm nương, cấy chay, chăn nuôi gia súc thả rông. Nên năng suất cây trồng vật nuôi thấp. Độ che phủ của thảm thực vật ở hầu hết các vùng còn thấp so với mức an toàn sinh thái. Trước sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ được áp dụng vào nông nghiệp nước ta, những nguy cơ đe doạ hệ sinh thái bền vững cũng xuất hiện và ngày càng trở nên trầm trọng. Việc phá rừng đã dẫn đến hạn hán, lũ lụt ở nhiều nơi làm cho sản xuất bấp bênh. Thuốc trừ sâu đã giết chết nhiều thiên địch, bón phân không cân đối cũng đã làm thoái hoá đất đai. Một số giống cây trồng mới được thay thế giống cũ truyền thống cũng đã làm cho sâu bệnh ngày càng phát triển [20]. Trước những xu hướng phát triển không bền vững trong nông nghiệp, nhiều địa phương nước ta đã bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng mô hình chuyển dịch cơ câu cây trồng, CCKTNN [36]. Việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò cũng không ngoài mục đích trên. Một mặt đảm bảo cho ngành chăn nuôi phát triển ngang tầm với vị trí vốn có của nó. Đồng thời đảm bảo phát triển nền nông nghiệp bền vững. 1.5. KINH NGHIỆM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC Là một nước đang phát triển và tham gia vào hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam cần học tập, tham khảo những kinh nghiệm quý báu của các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.5.1. Thái Lan Ngành nông nghiệp Thái Lan chiếm 11% GDP của toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu sản xuất và mức độ phát triển khác nhau giữa các vùng: Đông Bắc, miền Bắc, miền Nam, miền Trung. Mỗi vùng tập trung chuyển mạnh các ngành có lợi thế, hình thành các mũi nhọn sản xuất và xuất khẩu; đồng thời chủ trương đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp. Ngoài các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế như: lúa, ngô, thuỷ hải sản, gà đông lạnh, đường, cà phê... hiện nay, Thái Lan đang thực hiện chương trình “mỗi làng mỗi sản phẩm”, Chính phủ nước này đã chọn 100 sản phẩm từ 500 sản phẩm đủ chất lượng để bán ra thị trường thế giới từ năm 2002. Để giúp nông dân phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Chính phủ Thái Lan đã ban hành các chính sách tạo điều kiện cho nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm chi phí sản xuất như cam kết phát triển cơ sở hạ tầng ở cấp làng, chương trình cấp nước, cấp điện về làng; thành lập hệ thống tín dụng và chính sách tín dụng có khả năng đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất nông nghiệp. Hầu hết 74.881 làng đều mở tài khoản được hỗ trợ cho nông nghiệp từ Chính phủ. Chiến lược phát triển theo hướng thị trường mà Thái Lan đã theo đuổi trong suốt 3 thập kỷ qua nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, quản lý ngành và nền kinh tế vĩ mô lành mạnh [19]. 1.5.2. Malaysia Trong những thập kỷ qua, Malaysia đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân giảm dần. Trong thời gian đó, Malaysia phát triển và đa dạng hoá cây công nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp của Malaysia không nhiều, chỉ chiếm 14,9% tổng diện tích đất tự nhiên; diện tích bình quân đầu người có 0,25 ha đất canh tác. Trước đây phần lớn đất được giành để trồng cao su, cọ dầu và lúa. Nhưng từ khi chuyển dịch cơ cấu cây trồng giai đoạn 1985 – 1995 diện tích lúa gần như giữ nguyên khoảng 670.000 ha (để đảm bảo an ninh lương thực), còn diện tích cao su bắt đầu giảm thay vào đó diện tích cọ dầu tăng từ 1,4 lên 2,5 triệu ha; rau tăng từ 31.000 ha lên 42.000 ha; các loại cây ăn quả như dừa, chuối, đu đủ, sầu riêng cũng tăng nhanh; các loại cây dừa, ca cao, hồ tiêu, thuốc lá... có xu hướng giảm. Việc đa dạng hoá cây trồng diễn ra mạnh mẽ đã góp phần rất lớn vào việc phát triển nông nghiệp, tạo nguồn thu ngoại tệ lớn. Tạo việc làm và tăng thu nhập cho trên 700 ngàn hộ gia đình và trên 400 ngàn công nhân, lao động [19]. 1.5.3. Trung Quốc Sau hơn 20 năm cải cách và mở cửa, ngành nông nghiệp Trung Quốc đã có những bước tăng trưởng đáng kể. Thế nhưng để đối phó với những tác động bất lợi của hội nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh một loạt các biện pháp, điều chỉnh chính sách trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Những hướng tập trung là: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập cho nhân dân, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của nông sản. Hiện nay với mức tăng bình quân hàng năm là 2,4% cao hơn mức tăng dân số. Tuy vậy, trước việc thi hành các quy định của tổ chức Thương mại thế giới WTO và sự canh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, Trung Quốc đã nỗ lực triển khai điều chỉnh chính sách về cơ cấu nông nghiệp từ năm 1999. Các điều chỉnh này không thuần tuý chỉ là tăng hay giảm sản lượng mà tập trung vào cân đối tổng thể, vừa đảm bảo nguồn cung, vừa nâng cao chất lượng, không chỉ diễn ra trong một vài vùng mà được triển khai trên phạm vi cả nước. Một trong những thành công của công cuộc điều chỉnh là xây dựng được cơ cấu cây trồng hợp lý, giảm diện tích cây lương thực, tăng diện tích cây công nghiệp, cây thức ăn gia súc chiếm 30,6% tổng diện tích trồng trọt. Thành công thứ hai là ngành chăn nuôi; nhờ thức ăn dồi dào, phong phú, tất cả các vùng đều phát triển chăn nuôi. So với năm 1998, năm 2001, sản lượng thịt đạt 6,23 triệu tấn tăng 10% ; sản lượng trứng tăng 2,7 triệu tấn tương ứng với 13,4%; thuỷ sản 4,73 triệu tấn tăng 12,1%. Thứ ba: chất lượng nông sản tăng đáng kể. Diện tích lúa có chất lượng cao chiếm 50% diện tích lúa. Lúa mì chất lượng cao chiếm 25% diện tích lúa mì. Diện tích hạt cải dầu chất lượng cao chiếm 56%; ngô có chất lượng đặc biệt cũng phát triển mạnh. Các sản phẩm tươi sống như gia cầm, thuỷ sản, rau và quả cũng có sự tăng trưởng mạnh về chất lượng. sản phẩm “sạch” ngày càng được mọi người quan tâm. Thứ tư: Các vùng đất chuyên canh cũng được xác định rõ nét, vùng An Huy chiếm tới 65,7% diện tích trồng lúa cả nước; vùng đồng bằng Châu thổ Hoàng Hà chiếm 60% diện tích lúa mì cả nước. Ở vùng đông Bắc và 3 tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông, Hà Nam chiếm 55% diện tích ngô cả nước. Diện tích hạt cải dầu tập trung ở dọc theo vùng An Huy, lạc ở vùng Hoàng Hà và đậu tương ở vùng Đông Bắc. Đồng thời với điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Trung quốc điều chỉnh một loạt các chính sách về: thương mại hàng nông sản, tăng thu nhập cho người nông dân, chính sách hỗ trợ nông nghiệp, chính sách đô thị hoá nông thôn, chính sách phát triển nông nghiệp bền vững, cải cách hệ thống quản lý nông nghiệp [19]. 1.5.4. Philippin Những năm qua, do quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và áp lực của mức tăng dân số đã làm giảm diện tích đất trồng trọt. Do đó Chính phủ Philippin đã triển khai một loạt chính sách nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp, trong đó có chính sách để tạo điều kiện giúp nông dân thực hiện đa dạng hoá cây trồng như sau: - Chính sách giá cả: Giảm trợ giá lúa khiến một bộ phận nông dân trồng lúa chuyển sang trồng các loại cây thực phẩm khác, đẩy nhanh quá trình đa dạng hoá. - Chính sách thuế: Loại bỏ hạn ngạch nhập khẩu, giảm tối đa các loại giấy phép đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, giảm mức thuế quan nhập khẩu và loại bỏ tất cả thuế xuất khẩu; loại bỏ dần các trợ cấp bắt đầu bằng việc loại bỏ quy định giá đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp. Nhờ những chính sách này mà thị trường đã có những tín hiệu tốt cho kế hoạch đa dạng hóa cây trồng ở Philippin [19] 1.5.5. Ấn Độ Ấn Độ là nước đông dân đứng thứ hai trên thế giới, khoảng trên 1 tỷ người, trong đó hơn 70% sống ở nông thôn. Trước đây, do dân số Ấn Độ đông lại thiếu lương thực nên vấn đề phát triển lương thực là ưu tiên hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp. Về sau, nhờ áp dụng rộng rãi công nghệ của cuộc cách mạng xanh nên diện tích và năng suất được tăng lên đáng kể. Khi đã đảm bảo an ninh lương thực thì chính sách nông nghiệp được chuyển sang chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đa dạng hoá cây trồng. Đa dạng hoá cây trồng không chỉ là chuyển dịch từ cây lương thực sang cây công nghiệp và các loại cây khác mà còn là chuyển dịch ngay trong nội bộ từng nhóm cây trồng. Ví dụ: chuyển từ cây trồng phẩm cấp thấp và giá trị kinh tế thấp như cây ngô, cây kê sang các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn như gạo, lúa mì, hay trồng các cây có dầu. Các chính sách đã được áp dụng để thúc đẩy quá trình đa dạng hoá cây trồng mà Chính phủ Ấn Độ thực hiện như: - Tổ chức chương trình phát triển công nghệ trong chương trình phát triển nông thôn nhằm liên kết có hiệu quả giữa nghiên cứu, khuyến nông, sản xuất, quản lý sau thu hoạch, chế biến và xuất khẩu. - Lập quỹ quốc gia bảo hiểm nông nghiệp hỗ trợ cây lương thực và hạt có dầu, các cây thương phẩm, dành 50% ngân sách của quỹ này trợ cấp các hộ nông dân sản xuất nhỏ. - Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, tập trung vào công nghệ sau thu hoạch. - Triển khai bảo hiểm giống cây trồng, hỗ trợ khi xảy ra rủi ro liên quan đến sản xuất giống, lập ngân hàng một số giống cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu khi gặp thiên tai.[19] 1.5.6. Bài học rút ra cho Việt Nam Từ kinh nghiệm của các nước có thể rút ra bài học cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta là: - Chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh, để tập trung sản xuất thật hiệu quả những mặt hàng xuất khẩu với số lượng lớn, chất lượng cao nhằm chiếm ưu thế trên thị trường; bước đầu chấp nhận nhập khẩu các mặt hàng sản xuất trong nước không có lợi thế, trên cơ sở đảm bảo trước tiên về an ninh lương thực trong nước. - Chuyển từ độc canh sang đa canh, từ sản xuất lúa sang trồng cây công nghiệp và cây ăn quả hoặc xen canh cây ngắn ngày và cây dài ngày. Chuyển từ tăng trưởng theo số lượng sang phát triển theo chất lượng, từ cây có giá trị kinh tế thấp và thị trường không ổn định sang trồng cây có giá trị kinh tế cao và ổn định trong thương mại. - Gắn sản xuất với chế biến nông sản, chuyển từ sản xuất và xuất khẩu nguyên liệu thô sang xuất khẩu sản phẩm đã được chế biến để tăng giá trị hàng hoá nông sản xuất khẩu, chuyển hướng sản xuất phục vụ thị trường trong nước vươn ra thị trường quốc tế. - Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống công trình thuỷ lợi, hệ thống điện, giao thông, thông tin liên lạc, chợ nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hoá, vật tư, phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. - Nhà nước điều chỉnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua các chính sách vĩ mô: chính sách tiêu thụ nông sản, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách khuyến nông gắn với chính sách đầu tư khoa học công nghệ cho các mặt hàng nông sản chủ lực, chính sách sử dụng đất, chính sách đối với miền núi và đồng bào dân tộc ít người... Các chính sách này sẽ tạo niềm tin, thu hút và thúc đẩy những người sản xuất nông nghiệp thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. 1.6. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI ĐẤT TRỒNG TRỌT SANG TRỒNG CỎ NUÔI BÒ Ở VIỆT NAM Đây là lĩnh vực còn mới nên đến nay có rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Chúng tôi xin điểm lại các công trình nghiên cứu sau đây: 1) Viện chăn nuôi Quốc gia nghiên cứu về HQKT của chăn nuôi bò sữa trong hộ gia đình ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc vào tháng 3 năm 2006. Theo nghiên cứu này, HQKT trên một đơn vị diện tích của việc trồng cỏ để nuôi bò sữa là cao hơn so với sản xuất nông nghiệp, song cao hơn bao nhiêu thì còn phụ thuộc vào quy mô chăn nuôi của hộ [12] . 2) Tác giả Nguyễn Anh Tuấn đã có nghiên cứu về việc phát triển đồng cỏ để đẩy mạnh chăn nuôi gia súc ở đồng bằng sông Hồng vào tháng 6 năm 2006. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy: Một sào đất trồng sắn trong một năm chỉ lãi được 100.000đ kể cả công lao động. Trong khi đó nếu trồng cỏ để nuôi trâu bò sinh sản hoặc trâu bò thịt thì có thể lãi được 500.000 – 700.000đ/sào/năm [12]. 3) Nghiên cứu của Viện cây lương thực và cây thực phẩm Việt Nam về việc chuyển đổi đất sản xuất nông nghiệp sang trồng cỏ nuôi bò ở đồng bằng sông Hồng, được tiến hành vào tháng 6 năm 2006. Kết quả nghiên cứu cho thấy HQKT của việc trồng cỏ nuôi bò cao gấp 7 – 8 lần trồng lúa, theo đó các nhà nghiên cứu đưa ra khuyến cáo cho các nông hộ là nên bỏ lúa lai để trồng cỏ nuôi bò [12]. 4) Báo cáo tình hình phát triển chăn nuôi tỉnh Bình Định của sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, của huyện An Nhơn hàng năm, trong đó có đề cập đến việc khuyến cáo trồng cỏ để nuôi bò [31]; [32]. 5) Các luận văn tốt nghiệp của sinh viên Trường đại học Nông Lâm Huế nghiên cứu về hiệu quả trồng cỏ nuôi bò ở xã Tiến Hóa huyện, Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình [12]. 6) Hoàng Mạnh Quân, Lê Đình Phùng và cộng tác viên đã có nghiên cứu về: Ảnh hưởng của trồng cỏ nuôi bò đến các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường của xã Tiến Hóa, huyện Tiến Hóa tỉnh Quảng Bình (năm 2007). Kết quả nghiên cứu cho thấy trồng cỏ voi (pennisetum purpureum) nuôi bò đã có ảnh hưởng tích cực đến các khía cạnh kinh tế và xã hội của nông hộ ở Tiến Hóa. Hộ có trồng cỏ nuôi bò có thu nhập từ chăn nuôi bò cao gấp 2,28 lần so với hộ không trồng cỏ, giảm thời gian lao động cho chăn nuôi bò, như: giảm thời gian chăn dắt, thời gian cắt cỏ tự nhiên, số tháng cắt cỏ tự nhiên. Đặc biệt, trồng cỏ nuôi bò đã làm giảm thời gian chăn nuôi bò cho trẻ em so với không trồng cỏ (47 ngày so với 163 ngày/năm). Trồng cỏ làm tăng lượng phân hóa học dùng cho trồng trọt và do vậy có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng đất [29]. Các công trình nghiên cứu khoa học trên đều đề cập đến những vấn đề cơ bản của việc chuyển đổi từ đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò và có thể tóm lược như sau: 1.Những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và HQKT, những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.Đánh giá thực trạng chuyển đổi từ đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò, từ đó rút ra những thành công, hạn chế và các nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi. 3.Đưa ra những định hướng và giải pháp để chuyển đổi có hiệu quả, đề nghị những chính sách vĩ mô và vi mô để thúc đẩy quá trình chuyển đổi ở Việt Nam. Chúng tôi cho rằng những công trình khoa học trên là những tư liệu rất quí báu cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa đề cập cụ thể đến địa bàn Huyện An Nhơn, trong khi đó có một số các nghiên cứu nhỏ cụ thể ở Bình Định lại được khảo sát nghiên cứu trên một phạm vi không gian hẹp, phạm vi thời gian và tính đương đại cũng còn hạn chế. Do vậy, các nghiên cứu đó chưa đề cấp hoặc chưa phản ánh được toàn diện, đầy đủ và sát với tình hình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở huyện An Nhơn. 1.7. MỘT SỐ NHẬN XÉT RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò như chúng tôi đã trình bày ở trên, có thể thấy rằng: - Chuyển dịch CCKTNN là một tất yếu khách quan và được tác động bởi các yếu tố bên trong và cả những yếu tố bên ngoài một quốc gia, một vùng, một địa phương . - Trồng cỏ nuôi bò có vị trí rất quan trọng trong sản xuất và đời sống của nông hộ. Việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ là vấn đề cần thiết do yêu cầu thực tiên đặt ra. Nó cho phép khai thác nguồn lực sẵn có của địa phương, của nông hộ và thúc đẩy chăn nuôi bò phát triển. - Quá trình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tự nhiên, kinh tế, xã hội, cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí, thị trường, các chính sách kinh tế của nhà nước… Tất cả những nhân tố này tác động khác nhau giữa các vùng, các địa phương sẽ dẫn đến hiệu quả cũng khác nhau. - Nghiên cứu hiệu quả của quá trình chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò cần phải nghiên cứu một cách toàn diện trên cả ba khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường. Mỗi khía cạnh đều được nghiên cứu bởi các phương pháp và chỉ tiêu nghiên cứu khác nhau. - Ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của quá trình chuyển đổi từ đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò. Kết quả nghiên cứu chỉ đề cập theo từng khía cạnh, đặc biệt chưa nghiên cứu một cách tổng hợp toàn diện trên địa bàn huyện An Nhơn. CHƯƠNG II ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý An Nhơn là một huyện đồng bằng, nằm ở phía Nam tỉnh Bình Định, cách thành phố Qui Nhơn 25km về phía Tây Bắc. An Nhơn có trung tâm huyện là thị trấn Bình Định đã từng là trung tâm tỉnh lỵ trước đây, có thị trấn Đập Đá và xã Nhơn Hậu từng là kinh đô thịnh vượng của vương triều Champa (từ năm 982 đến năm 1470). Huyện có tổng diện tích tự nhiên 242,2km2, có 13 xã và 2 thị trấn [27]. Phía Bắc giáp huyện Phù Cát, Phía Tây giáp huyện Tây Sơn, Phía Nam giáp huyện Vân Canh, Phía Đông giáp huyện Tuy Phước. Huyện An Nhơn nằm trên trục quốc lộ 1A và quốc lộ 19 nối liền các tỉnh Tây nguyên với cảng Quy Nhơn qua địa bàn huyện, cùng với tuyến đường sắt Bắc Nam, đường hàng không với sân bay Phù Cát và đường biển với cảng Quy Nhơn. Viện nghiên cứu giống cây trồng Duyên Hải Nam trung bộ, Trại Thực nghiệm chăn nuôi thuộc Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn và Trường Trung Học Kinh tế Kỹ Thuật Bình Định đều đóng trên địa bàn huyện An Nhơn. Với vị trí đó, đã tạo cho An Nhơn điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có trồng cỏ chăn nuôi bò. Một mặt tiếp nhận những tác động tích cực về khoa học công nghệ, về thị trường tiêu thụ. Mặt khác cũng chịu những sức ép về quá trình đô thị hoá, về sự gia tăng mật độ dân số; về ô nhiễm do tác động của các chất thải, về yêu cầu cải thiện môi trường và tăng thu nhập cho hộ nông dân. 2.1.1.2. Địa hình và đất đai a) Địa hình Đại bộ phận diện tích của An Nhơn nằm ở vùng đồng bằng trải rộng trên lưu vực hạ lưu sông Kôn là một trong hai con sông lớn đi qua địa phận An Nhơn. Một phần nhỏ phía Nam huyện là khu vực đồi núi thấp bán sơn địa. Nhìn chung, địa hình thấp dần từ Tây sang Đông. Sự chênh lệch độ cao không lớn, địa hình bằng phẳng, đất đai khá màu mỡ, thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. b) Đất và tình hình sử dụng đất Tổng diện tích tự nhiên 24.217 ha. Trong đó, đất nông nghiệp là 11.487 ha, chiếm 48,74% tổng diện tích tự nhiên; là huyện có diện tích đất gieo trồng cao nhất trong tỉnh, nhưng diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người chỉ có 650m2/người, thấp hơn so với bình quân của tỉnh (770m2/người) [4]. Một cách khái quát, tài nguyên đất của huyện An Nhơn phong phú, đa dạng và đang phát huy thế mạnh về đất đai của một huyện đồng bằng. So với dân số trong huyện thì quỹ đất An Nhơn ít, phân bố không đều giữa các xã. Tuy nhiên, đất đai ở An Nhơn cũng phù hợp với yêu cầu sinh trrưởng và phát triển của các loại cỏ. Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất huyện An Nhơn 2005 – 2007 ĐVT: ha Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng số 24.217 24.217 24.217 1. Đất nông nghiệp 11.786 11.786 11.487 - Cây hàng năm 9.711 9.711 9.689 - Cây lâu năm 1.801 1.801 1.798 - Đất nông nghiệp khác 274 274 - 2.Đất nuôi trồng thuỷ sản 17 17 17 3. Đất Lâm nghiệp 3.315 3.315 3.447 - Rừng tự nhiên 442 442 442 - Rừng trồng 2.873 2.873 3.005 4. Đất chuyên dùng 3.929 3.929 4.232 5. Đất khu dân cư 832 832 849 6. Đất chưa sử dụng 4.338 4.338 4.203 - Đất bằng 876 876 869 - Đất đồi núi 2.569 2.569 2.437 - Đất chưa sử dụng khác 893 893 897 Nguồn: [27] Những năm gần đây nhu cầu đất đai trên các lĩnh vực tăng cao. Vì vậy quỹ đất phát triển nông nghiệp của huyện giảm mạnh từ 11.786 ha năm 2005 xuống chỉ còn 11.487 ha năm 2007. Việc hình thành các khu công nghiệp, các nhà máy và ngay trên phạm vi từng xã, thị trấn, thị tứ hình thành nên các khu dân cư đã xâm lấn các bãi cỏ tự nhiên và đất sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy cần phải xây dựng một mô hình sản xuất nông nghiệp, trong đó có vấn đề trồng cỏ nuôi bò để một mặt khai thác các tiềm năng đất đai một cách có hiệu quả, mặt khác giải quyết tốt các vấn đề xã hội và môi trường ở địa phương. 2.1.1.3. Khí hậu thời tiết - Nằm trong khí hậu nhiệt đới gió mùa, Bình Định nói chung và An Nhơn nói riêng chịu ảnh hưởng bởi hai mùa khí hậu rõ rệt: + Mùa khô hanh kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8: Lượng mưa ít, nhiệt độ cao, hơi nước bốc nhanh, nắng nhiều, ít gió bão. Lượng mưa chỉ chiếm từ 13 – 15 % tổng lượng mưa cả năm. + Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 chiếm 65 - 85% tổng lượng mưa cả năm, thường tập trung vào 2 tháng 10 và 11 chiếm 40 – 60% lượng mưa cả năm. Nhiệt độ thấp, độ bốc hơi ít, số giờ nắng ít và ít bão. - Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình 26,5oC, các tháng có nhiệt độ thấp là tháng 12, tháng 1 và tháng 2. Các tháng nóng nhất là từ tháng 5 đến tháng 8. Nhiệt độ cao nhất 36,2oC và thấp nhất 20oC. Số giờ nắng tập trung từ tháng 3 đến tháng 8, trung bình mỗi ngày nắng 8 giờ, tổng số giờ nắng trong năm 2303,8 giờ. - Độ ẩm không khí: Độ ẩm trung bình hằng năm là 80%, vào các tháng mùa mưa (Tháng 9 – tháng 12) thì độ ẩm cao hơn (78,9% – 86,7%). Độ ẩm trung bình thấp nhất là 61,7%. - Chế độ mưa: ở An Nhơn mùa mưa thường tập trung vào các tháng 9, 10,11,12, chiếm 65 – 85% lượng mưa cả năm. Các tháng ít mưa nhất là tháng 2,3,4, lượng mưa trung bình 28,5mm/ tháng. Số ngày mưa/năm là 125,6 ngày, tổng lượng mưa trong năm 1901mm. - Chế độ gió, bão: Gió đông Bắc phổ biến vào các tháng 9 đến tháng 12, gió Đông Nam từ tháng 3 đến tháng 8. Bão chủ yếu xuất hiện vào tháng 9 tháng 10 và thường kèm theo mưa lớn. Tốc độ gió bình quân cả năm 2,1m/s, lớn nhất tháng 11 và 12, thấp nhất là tháng 5 và 9. 2.1.1.4. Nguồn nước và thuỷ văn - Sông ngòi ở An Nhơn phần trung lưu ngắn và dốc, phần hạ lưu hầu hết chảy ra đồng bằng ven biển. Dòng chảy có các con sông chịu ảnh hưởng của mưa là chính. Ba nhánh của sông Kôn chia cắt huyện thành một mạng lưới tưới tiêu thuận lợi là Đập Đá, Tân An và Gò Găng. Tổng chiều dài là 27km, cung cấp nước cho 2/3 diện tích tưới tiêu trong toàn huyện qua 2 hệ thống tưới là trạm bơm điện và đập dâng. - Nguồn nước ngầm ở An Nhơn khá dồi dào, có độ cao 2m đến 8m và là huyện đồng bằng nên nguồn nước dễ khai khác và sử dụng có hiệu quả vào mục đích sản xuất và sinh hoạt. Tóm lại: Với vị trí địa lý, khí hậu – thời tiết và thủy văn của huyện An Nhơn rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Là điều kiện thuận lợi cho các ngành nghề chế biến nông sản, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ và cũng thuận lợi để phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đặt biệt là các khu sản xuất tập trung qui mô lớn. 2.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội 2.1.2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cùng với cả nước, huyện An Nhơn bắt đầu chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986. Thời kỳ 1986 – 1990 là thời kỳ đan xen giữa 2 cơ chế, từ năm 1991 nền kinh tế của huyện bắt đầu đi vào ổn định và có sự tăng trưởng. Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP của huyện An Nhơn thời kỳ 2003 – 2007, theo giá cố định ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 BQ tăng toàn huyện (%) BQ tăng của tỉnh (%) Tổng sản phẩm 461.258 533.295 570.910 625.340 692.107 10,7 10,8 - Nông nghiệp 308.375 353.106 349.043 331.708 339.871 2,5 7,4 - Lâm nghiệp 3.276 3.705 4.550 5.179 6.033 16,5 1,9 - Thuỷ sản 2.173 2.493 3.008 2.572 2.720 5,8 4,8 - Công nghiệp 99.409 117.514 144.829 196.031 245.824 25,4 16,1 - T. mại – D.vụ 48.025 56.477 69.480 89.850 110.713 23,2 12,9 Nguồn: [4], [27], [38] Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện An Nhơn luôn duy trì và phát triển ở mức cao, bình quân giai đoạn 2003 – 2007 là 10,7%, xấp xỉ với tốc độ tăng bình quân chung cả tỉnh (10,8%). Tổng sản phẩm trên địa bàn An Nhơn năm 2007 đạt 692.107 triệu đồng, chiếm gần 11% GDP của cả tỉnh. Giai đoạn 2003 – 2007 là thời kỳ có mức tăng trưởng khá cao, tương đối ổn định và ổn định hơn so với thời kỳ trước [38]. Công nghiệp của An Nhơn thời kỳ này cũng có bước phát triển quan trọng GDP của ngành công nghiệp đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 25,4%. Về giá trị tuyệt đối GDP ngành công nghiệp năm 2007 tăng 2,47 lần so với năm 2003. Sau công nghiệp, ngành Thương mại dịch vụ đã bắt đầu khai thác được những thế mạnh và đã đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 23,2% trong giai đoạn 2003 – 2007. Ngành nông nghiệp, do điều kiện sản xuất khó khăn hơn, đặc biệt là dịch bệnh xảy ra trong ngành chăn nuôi, mức tăng trưởng đạt được 2,5% trong giai đoạn 2003 – 2007 và thấp hơn mức bình quân chung của tỉnh (7,4%).. Tuy nhiên về số tuyệt đối, năm 2007 tăng hơn so với năm 2003 là 31.496 triệu đồng. Bảng 2.3: Cơ cấu tổng sản phẩm của huyện An Nhơn qua các năm (theo giá hiện hành) ĐVT: % Ngành kinh tế 2003 2004 2005 2006 2007 1. Nông nghiệp 60,40 57,30 52,50 48,65 46,60 2.Lâm nghiệp 0,50 0,74 0,74 0,63 0,60 3.Thuỷ sản 0,47 0,56 0,38 0,52 0,50 4.Công nghiệp 27,67 29,92 33,28 35,93 37,50 5.Thương Mại - Dịch vụ 10,96 11,48 13,10 14,27 14,80 Cộng 100 100 100 100 100 Nguồn: [27], [38] Số liệu ở bảng 2.3 cho thấy, cơ cấu ngành kinh tế của huyện An Nhơn đạt được những chuyển biến tích cực theo xu thế tiến bộ. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, thương mại – dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Trong đó nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất qua các năm và góp phần khá quan trọng trong việc cân đối lương thực trên địa bàn huyện, công nghiệp và dịch vụ tạo nguồn tích lũy để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế. 2.1.2.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp huyện An Nhơn Bảng 2.4: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp huyện An Nhơn qua các năm ĐVT: % Ngành sản xuất 2003 2004 2005 2006 2007 1.Trồng trọt 61,81 58,14 59,14 52,38 48,50 2. Chăn nuôi 32,34 37,16 36,90 43,32 47,00 3. Dịch vụ nông nghiệp 5,85 4,70 3,96 4,30 4,50 Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nguồn: [27], [38] Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội; An Nhơn có điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang sản xuất hàng hoá theo hướng CNH, HĐH. Khai thác những lợi thế đó, những năm gần đây nông nghiệp An Nhơn đang có những chuyển biến đáng ghi nhận. Kết quả phát triển sản xuất nông nghiệp những năm qua có thể khái quát như sau: Sản xuất nông nghiệp đang tăng trưởng với tốc độ thấp. Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm thời kỳ 2003 – 2007 tăng 2,5% /năm (bảng 2.2). Cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng từ 32,34% năm 2003 lên 47% năm 2007, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm dần từ 61,81% năm 2003 xuống 48,5% năm 2007. Nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng (bảng 2.2). Các ngành trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, dịch vụ nông nghiệp phát triển khá toàn diện. Tuy nhiên, với một huyện đồng bằng như An Nhơn thì việc phát triển các ngành lâm nghiệp, thuỷ sản không phải là đơn giản. a) Trồng trọt Thời gian qua diện tích gieo trồng cây lương thực tương đối ổn định, dao động trong khoảng từ 18 – 21 nghìn ha. Trong đó lúa ổn định trong khoảng 18 – 20 nghìn ha. Do được tập trung phát triển sản xuất lương thực theo chiều sâu, chuyển vụ, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tăng tỷ lệ giống mới có năng suất cao (85 -90%) nên sản lượng lương thực không ngừng tăng lên, mặc dù diện tích trồng lúa có giảm. Năm 2006, sản lượng lương thực quy thóc là 97.933,3 tấn (tăng 1,3 lần so với năm 2003). Lương thực quy thóc bình quân đầu người đạt 243,9 kg/ người [27]; [38]. Năng suất lúa tăng lên, từ 48,6 tạ/ha năm 2003 lên 51,7 tạ/ha năm 2006. Trong vòng 10 năm gần đây năng suất lúa tăng bình quân gần 3 lần. Sản lượng lúa cũng không ngừng tăng lên. Năm 2006 đạt 94.063,3 tấn; tăng 1,32 lần so với năm 2003 [27]; [38]. Tuy nhiên, một số cây trồng bố trí trên đất xấu thường năng suất không cao và bấp bênh. Do đó cần phải chuyển đổi cơ cấu sản xuất trồng trọt hợp lý hơn. b) Chăn nuôi Những năm qua phát triển chăn nuôi không được thuận lợi, dịch bệnh gia tăng, nhưng nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật và chính sách phát triển chăn nuôi của nhà Nước nên người dân đã biết chuyển dần từ hình thức chăn nuôi mang tính truyền thống, nuôi tận dụng, quảng canh, quy mô nhỏ sang sản xuất chăn nuôi hàng hoá chất lượng cao có quy mô của một gia trại và trang trại ở một số địa phương trong huyện. Chăn nuôi đang từng bước trở thành một ngành sản xuất chính. Trong đó đại gia súc phát triển ở vùng gò đồi, chăn nuôi gia cầm, tiểu gia súc phát triển ở vùng đồng bằng. Mức tăng bình quân hàng năm của đàn gia súc là 12,8%, trong đó đàn bò tăng 16,81%, đàn lợn tăng 6,9% [26]. c) Dịch vụ nông nghiệp Trong những năm qua, dịch vụ nông nghiệp huyện An Nhơn chủ yếu phát triển ở các thị trấn, thị tứ và ở khu vực kinh tế tập thể. Gần đây đã hình thành nên loại hình hợp tác xã điện. Dịch vụ nông nghiệp vẫn chủ yếu là cung cấp các yếu tố đầu vào cho các hộ nông dân. Số liệu ở bảng 2.4 cho thấy, trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp ổn định ở mức thấp qua các năm từ 4,5% – 5,5%. Tuy nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng hàng năm [27]. Tóm lại, trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp đã thu được những kết quả khá toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá ổn định, cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, sản xuất phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. 2.1.2.3. Tình hình dân số và lao động Theo số liệu thống kê năm 2007, dân số An Nhơn 189.906 người; mật độ dân cư trung bình 784 người/km2, đứng thứ 2 trong tỉnh (sau thành phố Quy Nhơn) cao gấp 3 lần mật độ dân cư bình quân của tỉnh. Trong đó, khu vực nông thôn là 151.971 người chiếm 80,024% dân số cả huyện [27]. Bảng 2.5. Dân số và lao động huyện An Nhơn (2005 - 2007) ĐVT: người Chỉ tiêu 2005 2006 2007 I. Dân số trung bình 187.737 188.719 189.906 Chia theo giới tính - Nam 90.918 91.515 92.641 - Nữ 96.819 97.204 97.265 2. Chia theo khu vực - Thành thị 36.815 37.428 37.935 - Nông thôn 150.922 151.291 151.971 II. Lao Động 110.101 110.892 111.979 1. Trong độ tuổi lao động 104.016 104.739 105.805 + % Dân số trong độ tuổi lao động 55,7 55,5 55,7 - Trong đó có khả năng lao động 100.896 101.597 102.631 - Ngoài độ tuổi có tham gia lao động 9.205 9.295 9.348 2. Lao động đang làm việc trong các ngành : 100.518 101.643 102.514 - Ngành Nông Lâm nghiệp – Thủy sản 68.824 68.505 68.215 - Ngành Công nghiệp – Xây dựng 15.634 16.550 17.250 - Ngành Thương mại dịch vụ 9.943 10.280 10.850 3. Lao động dự trữ 9.583 9.249 9.465 - Đang đi học 6.950 7.025 7.085 - Nội trợ và chưa có việc làm 2.633 2.224 2.380 Nguồn: [27] Số liệu ở bảng 2.5 cho thấy, dân số ở độ tuổi lao động năm 2007 của Huyện là 105.805 người chiếm 55,7% dân số. Trong đó lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế 102.514 người. Cụ thể ở các lĩnh vực sau: - Ngành Nông lâm nghiệp – Thủy sản: 68.215 người, chiếm 67,398%. - Ngành Công nghiệp – Xây dựng: 17.250 người, chiếm 16,282%. - Ngành Thương mại – Dịch vụ: 10.850 người chiếm 16,32%. Trong những năm gần đây, dân số của An Nhơn có tăng nhưng chậm hơn mức độ tăng dân số của cả nước. Số lao động chưa có việc làm hoàn toàn và bán hoàn toàn còn nhiều (2.633 người năm 2004 và 2.380 người vào năm 2006). Đặc biệt ở khu vực nông thôn, nhiều người (chủ yếu là lao động trẻ khỏe) đã phải đi làm ăn xa quê để kiếm thêm thu nhập [17]. Do đó, trồng cỏ để nuôi bò là sức ép của thực tiễn đặt ra. 2.1.2.4. Cơ sở hạ tầng - Huyện An Nhơn có hệ thống giao thông phát triển với 38 km đường quốc lộ, 14km đường sắt Bắc Nam, 35km đường tỉnh lộ, 42km đường huyện và liên xã, 367km đường giao thông nông thôn. 100% xã có đường ô tô đến trụ sở UBND xã, số xã có đường liên thôn đã được nhựa hoặc bê tông hoá là 13/13 xã [27]; [38]. - Tính đến nay, 100% số xã trên địa bàn huyện An Nhơn có trạm bưu điện, trong khu vực nông thôn, tỉ lệ hộ có điện thoại là 6.2%. Huyện có tốc độ phát triển thông tin bưu chính viễn thông nhanh chóng trong những năm gần đây và là huyện có tỉ lệ điện thoại /1.000 dân cao nhất tỉnh [38]. Nhìn chung cơ sở hạ tầng của huyện An Nhơn phát triển khá tốt, là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội nói chung và đối với trồng cỏ nói riêng. 2.1.3. Đánh giá chung về sự tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến việc chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò ở An Nhơn. Qua nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của An Nhơn có thể rút ra những kết luận về sự cần thiềt và khả năng khách quan để chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò như sau: - Chuyển đổi đất trồng trọt sang trồng cỏ nuôi bò là đòi hỏi bức thiết đặt ra từ điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài của nông nghiệp nói riêng cũng như quá trình phát triển kinh tế – xã hội của huyện An Nhơn nói chung. Sự bức thiết này xuất phát từ các khía cạnh sau đây: + Hạn chế về quỹ đất cũng như nguồn lực tự nhiên nói chung đối với nông nghiệp trên địa bàn An Nhơn. Bình quân ruộng đất tính cho một khẩu nông nghiệp chỉ có 650 m2 (Năm 2007), trong khi đó quá trình đô thị hoá và phát triển khu dân cư lại nhanh chóng trong những năm gần đây làm cho đất nông nghiệp giảm bình quân mỗi năm 100 ha [38]. Điều đó đòi hỏi kinh tế nông nghiệp An Nhơn phải phát triển theo chiều sâu, thâm canh cao và có chất lượng. Thị trường An Nhơn với dân số dự kiến là 250.000 người vào năm 2015, lại gần với thành phố Quy Nhơn, các tỉnh Tây Nguyên mà phần đông các tầng lớp dân cư có thu nhập vào loại tương đối, đang và ngày càng là một thị trường tiêu thụ lớn về các loại nông sản thực phẩm, trong đó có các sản phẩm từ chăn nuôi bò. + Quá trình đô thị hoá nhanh do nhà nước quy hoạch xây dựng các Thị trấn, Thị tứ gây căng thẳng về việc làm cho người nông dân, thêm vào đó là diệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochieu_qua_cua_viec_chuyen_doi_dat_trong_trot_sang_trong_co_nuoi_bo_o_huyen_an_nhon_tinh_binh_dinh.doc