Tài liệu Đề tài Hiệu quả của tiêm Botulinum nhóm A (Dysport®) kết hợp với phục hồi chức năng lên chức năng vận động chi dưới ở trẻ bại não thể co cứng – Nguyễn Văn Tùng: 60 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIấN CỨU Y HỌC
HIỆU QUẢ CỦA TIấM BOTULINUM NHểM A (DYSPORTđ)
KẾT HỢP VỚI PHỤC HỒI CHỨC NĂNG LấN CHỨC NĂNG
VẬN ĐỘNG CHI DƯỚI Ở TRẺ BẠI NÃO THỂ CO CỨNG
Nguyễn Văn Tựng1, Cao Minh Chõu2, Trịnh Quang Dũng3, Trương Thị Mai Hồng3
1Bệnh viện Trung ương Quõn đội 108 - *NCS Trường Đại học Y Hà Nội,
2Trường Đại học Y Hà Nội, 3Bệnh viện Nhi Trung ương
Co cứng bàn chõn ngựa là biểu hiện phổ biến và thường kết hợp với co cứng, co rỳt nhúm cơ sinh đụi và
cơ dộp ở trẻ bại nóo thể co cứng. Điều trị nhằm giảm gấp quỏ mức bàn chõn, do đú cải thiện chức năng vận
động và tư thế. Nghiờn cứu này nhằm đỏnh giỏ hiệu quả tiờm Botulinum nhúm A kết hợp với phục hồi chức
năng lờn chức năng vận động chi dưới ở trẻ bại nóo thể co cứng. 140 trẻ bại nóo thể co cứng từ 2 tuổi đến
12 tuổi vào điều trị tại khoa Phục hồi Chức năng, Bệnh viện Nhi Trung ương từ thỏng 12 năm 2015 đến
thỏng 12 năm 2017 được tuyển chọn vào nghiờn cứu và chia vào hai nhúm. Kết quả n...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hiệu quả của tiêm Botulinum nhóm A (Dysport®) kết hợp với phục hồi chức năng lên chức năng vận động chi dưới ở trẻ bại não thể co cứng – Nguyễn Văn Tùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
60 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
HIỆU QUẢ CỦA TIÊM BOTULINUM NHÓM A (DYSPORT®)
KẾT HỢP VỚI PHỤC HỒI CHỨC NĂNG LÊN CHỨC NĂNG
VẬN ĐỘNG CHI DƯỚI Ở TRẺ BẠI NÃO THỂ CO CỨNG
Nguyễn Văn Tùng1, Cao Minh Châu2, Trịnh Quang Dũng3, Trương Thị Mai Hồng3
1Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 - *NCS Trường Đại học Y Hà Nội,
2Trường Đại học Y Hà Nội, 3Bệnh viện Nhi Trung ương
Co cứng bàn chân ngựa là biểu hiện phổ biến và thường kết hợp với co cứng, co rút nhóm cơ sinh đôi và
cơ dép ở trẻ bại não thể co cứng. Điều trị nhằm giảm gấp quá mức bàn chân, do đó cải thiện chức năng vận
động và tư thế. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả tiêm Botulinum nhóm A kết hợp với phục hồi chức
năng lên chức năng vận động chi dưới ở trẻ bại não thể co cứng. 140 trẻ bại não thể co cứng từ 2 tuổi đến
12 tuổi vào điều trị tại khoa Phục hồi Chức năng, Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 12 năm 2015 đến
tháng 12 năm 2017 được tuyển chọn vào nghiên cứu và chia vào hai nhóm. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở
thời điểm sau can thiệp 12 tháng, trung bình điểm MAS cơ sinh đôi và cơ dép ở nhóm can thiệp giảm 1,39 ±
0,63 điểm (p < 0,01); tầm vận động thụ động khớp cổ chân tăng 16,66 ± 11,990 (p < 0,01), trong khi nhóm
chứng (phục hồi chức năng đơn thuần), trung bình điểm MAS giảm 0,15 ± 0,340 (p < 0,01); trung bình tầm
vận động thụ động khớp tăng 3,10 ± 7,380 (p < 0,01). Nhóm can thiệp cho thấy cải thiện điểm MAS cơ sinh
đôi dép và tầm vận động thụ động khớp cổ chân ở thời điểm sau can thiệp 12 tháng tốt hơn so với tập PHCN
đơn thuần (p < 0,01). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc kết hợp tiêm Botulinum nhóm A
(Dysport) với phục hồi chức năng làm giảm độ co cứng cơ gấp cổ chân và cải thiện rõ rệt lên chức năng vận
động chi dưới ở trẻ bại não thể co cứng.
Từ khoá: Bại não thể co cứng, Botulinum nhóm A, co cứng bàn chân ngựa
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng trương lực cơ (co cứng) là một trong
những di chứng nặng nề ở trẻ bại não thể co
cứng. Tăng trương lực cơ dẫn đến co rút, hạn
chế tầm vận động khớp, biến dạng xương
khớp ảnh hưởng đến chức năng vận động
của trẻ bại não. Co cứng bàn chân ngựa
(spastic equinus foot) là biểu hiện phổ biến
nhất và thường kết hợp với co cứng, co rút
nhóm cơ sinh đôi và cơ dép ở trẻ bại não thể
co cứng [1]. Điều trị nhằm giảm gấp quá mức
bàn chân, do đó cải thiện chức năng vận động
và tư thế.
Tiêm Botulinum nhóm A kết hợp với tập
phục hồi chức năng được cho là mang lại
nhiều hiệu quả và an toàn trong điều trị co
cứng cơ cho trẻ bại não thể co cứng.
Botulinum nhóm A có tác dụng làm giảm
trương lực cơ tạo “cửa sổ điều trị” cho các
biện pháp phục hồi chức năng. Do đó,
Botulinum nhóm A có tác dụng gia tăng tầm
vận động khớp giúp trẻ cải thiện chức năng
đứng, đi. Botulinum nhóm A lần đầu tiên được
tác giả Koman và cộng sự nghiên cứu trong
điều trị co cứng cơ cho trẻ bại não vào năm
1993 [2]. Tại Việt Nam, sử dụng Botulinum
nhóm A trong điều trị co cứng cơ cho trẻ bại
não mới được thực hiện ở một số Trung tâm
phục hồi chức năng và đã có các báo cáo
bước đầu về hiệu quả của tiêm Botulinum
nhóm A cho trẻ bại não.
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Văn Tùng, Bệnh viện Trung ương
Quân đội 108
Email: drtung79@gmail.com
Ngày nhận: 21/9/2018
Ngày được chấp thuận: 18/10/2018
TCNCYH 117 (1) - 2019 61
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Vì vậy, để góp phần cung cấp thêm những
cơ sở thực tiễn, nâng cao hiệu quả của phục
hồi chức năng cho trẻ bại não đặc biệt là bại
não thể co cứng, nghiên cứu này được thực
hiện nhằm đánh giá hiệu quả của tiêm
Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với phục
hồi chức năng lên chức năng vận động chi
dưới ở trẻ bại não thể co cứng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
140 trẻ bại não thể co cứng từ 2 tuổi đến
12 tuổi có mốc vận động đứng, đi kiễng gót
đang điều trị tại khoa Phục hồi Chức năng-
Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 12 năm
2015 đến tháng 12 năm 2017, thoả mãn các
tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ sau:
• Lựa chọn trẻ bại não thể co cứng có độ
co cứng có điểm MAS độ ≥ 1+.
• Có GMFCS độ I - IV. Được sự đồng ý
của bố (mẹ) hoặc người chăm sóc trẻ.
• Loại trừ trẻ bại não thể co cứng có
GMFCS độ V. Trẻ bại có chậm phát triển trí
tuệ và động kinh nặng. Có tiêm Botulinum
nhóm A, dùng các thuốc giãn cơ hoặc phẫu
thuật trong vòng 6 tháng trước khi tham gia
nghiên cứu. Trẻ có các bệnh lý nhiễm trùng
toàn thân hoặc viêm nhiễm vùng cơ điều trị.
2. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, có nhóm
chứng. Các trẻ được chọn vào hai nhóm
tương đồng về tuổi, định khu tổn thương, mức
độ chức năng vận động thô (GMFCS). Nhóm
can thiệp (n = 70) được tiêm Botulinum nhóm
A kết hợp tập phục hồi chức năng; Nhóm
chứng (n = 70) chỉ tập phục hồi chức năng.
Điểm MAS cơ gấp cổ chân và tầm vận động
thụ động khớp cổ chân được đánh giá tại thời
điểm trước can thiệp và sau can thiệp 1 tháng,
3 tháng, 6 tháng, 12 tháng.
Phương pháp đánh giá
- Độ co cứng = Theo thang điểm MAS
(Modified Ashworth Scale), từ 0 đến 4 độ [3].
- Tầm vận động thụ động khớp cổ chân
(Độo) = Góc gấp mặt lòng tối đa + Góc gập
mặt mu tối đa. Phương tiện đánh giá là thước
đo góc 2 cành.
3. Xử lý số liệu
Nhập và hân tích số liệu bằng phần mềm
SPSS 18.0. Test thống kê được sử dụng là t-
độc lập và t- ghép cặp. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với giá trị p nhỏ hơn 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu và người giám hộ
hợp pháp được cung cấp đầy đủ thông tin về
nghiên cứu. Đối tượng tham gia nghiên cứu
hoàn toàn tự nguyện và có quyền rút lui khỏi
nghiên cứu bất cứ khi nào.
III. KẾT QUẢ
1. Thông tin chung đối tượng nghiên
cứu
Tỷ lệ trẻ bại não thể co cứng nam 60,7%
(85/140) cao hơn so với trẻ nữ 39,3% (55/
140). Không có sự khác biệt về giới giữa hai
nhóm, p > 0,05.
Tuổi trung bình của nhóm trẻ can thiệp là
60,66 ± 28,35 tháng (24 tháng; 144 tháng);
nhóm chứng là 59,31 ± 27,24 tháng (24 tháng;
132 tháng). Sự khác biệt về tuổi giữa hai
nhóm trẻ tham gia nghiên cứu không có ý
nghĩa thống kê, p > 0,05.
Tỷ lệ trẻ bại não thể co cứng liệt tứ chi
62 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
chiếm 45,0% (63/140), liệt cứng hai chi dưới
chiếm 36,4% (51/140) và liệt cứng nửa người
chiếm 18,6% (26/140). Sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê với p > 0,05 (bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm can thiệp
(n = 70)
Nhóm chứng
(n = 70) Tổng p
Tuổi (tháng) (Mean ± SD) 60,66 ± 28,35 59,31 ± 27,24 59,99 ± 27,70 0,78
Giới Số trẻ (%) Số trẻ (%) Số trẻ (%)
0,12 Nam 47 (55,3) 38 (44,7) (100)
Nữ 23 (41,8) 32 (58,2) 55 (100)
Định khu tổn thương Số trẻ (%) Số trẻ (%) Số trẻ (%)
Thể liệt tứ chi 28 (44,4) 35 (55,6) 63 (100)
0,42 Thể liệt hai chi dưới 29 (56,9) 22 (43,1) 51 (100)
Liệt nửa người (T/P) 13 (50,0) 13 (50,0) 26 (100)
Mean = Trung bình; SD: standard deviation = Độ lệch chuẩn.
2. Thay đổi trương lực cơ sau can thiệp
Bảng 2. So sánh trung bình điểm MAS cơ sinh đôi, dép trước và sau can thiệp qua các
thời điểm giữa hai nhóm
Điểm MAS
(Mean ± SD)
Cơ gấp cổ chân (sinh đôi, dép)
Trung bình khác biệt
(95%CI) Nhóm can thiệp
(n = 70)
Nhóm chứng
(n = 70)
Trước can tiệp 2,76 ± 0,62 2,60 ± 1,03 0,16 (- 0,12; 0,45)
Sau 1 tháng 1,29 ± 0,50 2,55 ± 1,02 - 1,26 (-1,53; - 0,99)**
Sau 3 tháng 1,21 ± 0,46 2,52 ± 1,02 - 1,31 (- 1,57; - 1,04)**
Sau 6 tháng 1,26 ± 0,46 2,48 ± 1,00 - 1,22 (- 1,48; - 0,96)**
Sau 12 tháng 1,37 ± 0,50 2,44 ± 1,00 - 1,07 (-1,34; - 0,81)**
Không có * = p > 0,05; có * = p < 0,05; có ** = p < 0,01. Kiểm định t- độc lập.
Mean = Trung bình; SD: standard deviation = Độ lệch chuẩn;
CI: confidence interval = Khoảng tin cậy.
Không có sự khác biệt về trung bình tổng điểm MAS cơ gấp cổ chân ở thời điểm trước can
thiệp giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng với p > 0,05. Khác biệt trung bình điểm MAS cơ gấp
cổ chân ở các thời điểm sau can thiệp 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng giữa hai nhóm là có
ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
TCNCYH 117 (1) - 2019 63
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Kiểm định t- ghép cặp.
Biểu đồ 1. So sánh trung bình điểm MAS cơ gấp cổ chân qua các thời điểm
đánh giá trong mỗi nhóm
Tại thời điểm sau can thiệp 1 tháng, trung bình điểm MAS cơ gấp cổ chân ở nhóm can thiệp
giảm so với thời điểm trước can thiệp là 1,47 điểm, p < 0,01. Mức giảm điểm MAS tốt nhất của
cơ gấp cổ chân ở nhóm can thiệp là thời điểm sau can thiệp 3 tháng (p < 0,01), xu hướng giảm
dần sau đó và điểm MAS giảm mạnh sau can thiệp 6 tháng so với thời điểm trước can thiệp. Tại
thời điểm sau can thiệp 12 tháng trung bình điểm MAS cơ gấp cổ chân ở nhóm chứng (giảm 0,15
điểm) so với trước điều trị, thấp hơn mức giảm ở nhóm can thiệp (giảm 1,39 điểm), p < 0,01.
3. Hiệu quả thay đổi tầm vận thụ động khớp sau can thiệp
Bảng 3. So sánh tầm vận động thụ động khớp cổ chân trước và sau can thiệp
qua các thời điểm giữa hai nhóm
Thời điểm
đánh giá
Tầm vận động thụ động khớp cổ chân
(Mean ± SD) Trung bình khác biệt
(95%CI) Nhóm can thiệp
(n = 70)
Nhóm chứng
(n = 70)
Trước can thiệp 41,33 ± 10,46 44,21 ± 9,52 - 2,87 (- 6,21; 0,47)
Sau 1 tháng 56,95 ± 7,92 45,55 ± 7,86 11,40 (8,76; 14,04)**
Sau 3 tháng 59,27 ± 6,22 46,60 ± 7,40 12,66 (10,38; 14,5)**
Sau 6 tháng 58,98 ± 7,03 47,41 ± 6,97 11,56 (9,22; 13,9)**
Sau 12 tháng 57,99 ± 8,38 47,30 ± 6,80 11,69 (8,14; 13,24)**
Không có * = p > 0,05; có * = p < 0,05; có ** = p < 0,01. Kiểm định t- độc lập.
Mean = Trung bình; SD: standard deviation = Độ lệch chuẩn;
CI: confidence interval = Khoảng tin cậy.
64 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tầm vận động thụ động gấp trung bình khớp cổ chân tại thời điểm trước điều trị giữa nhóm
can thiệp và nhóm chứng không có sự khác biệt với p > 0,05.
Tầm vận động gấp thụ động trung bình khớp cổ chân tại các thời điểm sau can thiệp 1 tháng,
3 tháng, 6 tháng và 12 tháng giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,01.
Kiểm định t- ghép cặp.
Biểu đồ 2. So sánh sự thay đổi tầm vận động thụ động khớp cổ chân qua các thời điểm
đánh giá trong mỗi nhóm
Ở nhóm can thiệp cải thiện tầm vận động tốt nhất là sau can thiệp 3 tháng (tăng 17,940) so với
trước khi can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,01.
Tầm vận động thụ động khớp cổ chân sau can thiệp 12 tháng so với trước khi can thiệp của
nhóm can thiệp (16,660, p < 0,01) tốt hơn của nhóm chứng (3,100, p < 0,01).
IV. BÀN LUẬN
Tỷ lệ trẻ nam chiếm đa số 60,7% (85/140).
Không có sự khác biệt về giới giữa hai nhóm
can thiệp và nhóm chứng.
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi là 59,99 ± 27,77 tháng, khá tương
đồng với nghiên cứu của Carlos Henrique
(4,73 ± 2,18 tuổi) và nghiên cứu của Lee
Joung Sook (6,0 ± 2,7 tuổi) [4; 5]. Tỷ lệ trẻ bại
não thể co cứng liệt tứ chi 45,0%, liệt cứng
hai chi dưới 36,4% và liệt cứng nửa người
18,6%. Sự khác biệt về định khu tổn thương
giữa hai nhóm nghiên cứu là không có ý nghĩa
thống kê. Phân bố định khu tổn thương của
trẻ bại não thể co cứng trong nghiên cứu của
chúng tôi tương đương kết quả của Trịnh
Quang Dũng, khác với kết quả của Tedroff và
cộng sự (25% thể liệt tứ chi, 50% liệt hai chi
dưới, 22% liệt nửa người) [6; 7].
Botulinum nhóm A ức chế giảm sự phóng
thích Acetylcholin, do đó ngăn cản dẫn truyền
thần kinh qua khớp thần kinh, dẫn đến làm
giảm trương lực cơ được tiêm Botulinum
nhóm A [8]. Sử dụng Botulinum nhóm A để
điều trị co cứng cơ là “cửa sổ điều trị” cho
toàn bộ qúa trình phục hồi chức năng vận
động cho trẻ bại não. Kết quả bảng 2 cho thấy
tại thời điểm trước can thiệp trung bình điểm
TCNCYH 117 (1) - 2019 65
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
MAS của cơ sinh đôi và cơ dép (cơ gấp cổ
chân) giữa nhóm 2,76 ± 0,62) và nhóm chứng
(2,60 ± 1,03), không có sự khác biệt với p >
0,05. Điều này thể hiện sự tương đồng về
mức độ co cứng cơ của hai nhóm trẻ tham gia
nghiên cứu là như nhau. Cho phép thực hiện
nghiên cứu để so sánh hiệu quả điều trị co
cứng cơ của nhóm can thiệp và nhóm chứng.
Mức độ hiệu quả giảm co cứng cơ được
đánh giá trên cơ sinh đôi và cơ dép ở cả hai
nhóm bệnh nhân qua so sánh trung bình tổng
điểm MAS cơ gấp cổ chân. Kết quả nhóm can
thiệp có trung bình điểm MAS cơ gấp cổ chân
giảm tốt hơn so với nhóm chứng với trung
bình khác biệt giữa hai nhóm tại thời điểm 1
tháng và 3 tháng, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê, p < 0,01. Kết quả này tương đương
với kết quả của Koog và Min (2010), khi phân
tích 15 nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên, so
sánh cải thiện mức độ co cứng cơ sinh đôi và
cơ dép giữa nhóm can thiệp (n = 309) và
nhóm chứng (n = 288) cho thấy tại thời điểm
sau can thiệp 1 tháng là - 2,73 (95%CI: - 3,42;
- 4,05), 3 tháng - 1,72 (95% CI: - 2,68;
- 0,76), p < 0,01 [9]. Sự khác biệt rõ ràng này
có thể do ảnh trương lực cơ bị giảm mạnh
trong thời gian tác dụng tối đa của thuốc. Khi
so sánh hiệu qủa điều trị tại thời điểm 6 tháng
và 12 tháng so với trước khi điều trị, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mức giảm
điểm MAS cơ gấp cổ chân vẫn có sự khác
biệt giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng với
p < 0,01, tương đương kết quả của tác giả
Bottos (sau can thiệp 4 tháng, p = 0,003; 12
tháng, p = 0,05) [10]. Điều này, chứng tỏ rằng
ở nhóm trẻ có tiêm BTA giảm trương lực cơ
được duy trì lâu hơn nhờ kết hợp với tập
luyện phục hồi chức năng.
Ở nhóm can thiệp, chúng tôi quan sát thấy
mức giảm điểm MAS cơ gấp cổ chân tốt nhất
tại thời điểm sau can thiệp 3 tháng (biểu đồ 1)
so với trước khi can thiệp, giảm 1,54 điểm
(p < 0,01), xu hướng này giảm dần sau đó và
giảm mạnh sau thời điểm can thiệp 6 tháng
đến 12 tháng. Tuy nhiên, mức giảm trung bình
điểm MAS cơ gấp cổ chân tại thời điểm sau
can thiệp 12 tháng so với thời điểm trước khi
can thiệp vẫn có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê, p < 0,01. Trái lại, ở nhóm chứng cho thấy
hiệu quả giảm mức độ co cứng các cơ gấp cổ
chân theo thang điểm MAS diễn ra rất chậm,
trung bình tổng điểm MAS cơ gấp cổ chân sau
1 tháng tập luyện phục hồi chức năng chỉ
giảm 0,04 điểm, sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Kết quả biểu đồ 1
cho thấy mức giảm điểm MAS cơ gấp cổ chân
có ý nghĩa thống kê ở nhóm chứng chỉ được
quan sát thấy sau điều trị từ 3 tháng - 6 tháng
(p < 0,05; p < 0,01). Sau điều trị 12 tháng
trung bình điểm MAS cơ gấp cổ chân ở nhóm
can thiệp cải thiện tốt hơn so với nhóm chứng
(giảm 1,39 điểm so với 0,15 điểm), p < 0,01.
Về thời gian mức giảm điểm MAS cơ tốt
nhất, kết qủa nghiên cứu của chúng tôi tương
đồng với kết quả nghiên cứu của Trịnh Quang
Dũng và Nguyễn Hữu Chút [6], nhưng khác
với kết quả của Carlos Henrique [4]. Tuy
nhiên, tác dụng kéo dài sau can thiệp không
được các tác giả thông báo.
Ở người trong vòng 2 đến 3 ngày sau tiêm
Botulinum nhóm A cơ bắt đầu yếu dần do
giảm trương lực cơ, đạt tác dụng tối đa sau 2
tuần tiêm. Tác dụng giảm trương lực cơ trên
lâm sàng kéo dài trong 3 - 6 tháng sau tiêm,
sau thời gian này trương lực cơ bắt đầu tăng
dần trở lại [8]. Trên thực tế, kết quả nghiên
cứu của chúng cho thấy mức độ co cứng
không quay trở lại hoàn toàn mức độ giá trị
ban đầu sau 6 tháng đến 12 tháng can thiệp,
mặc dù hiện tượng trương lực cơ tăng nhẹ trở
lại từ sau can thiệp 3 tháng. Đây có thể là một
66 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
minh chứng cho thấy nếu tập luyện phục hồi
chức năng tích cực trong thời gian thuốc có
tác dụng và tiếp tục duy trì tập luyện phục hồi
chức năng trước khi cơ co cứng trở lại thì
chức năng vận động đã đạt được có thể được
duy trì trong thời gian dài hơn.
Mức độ co cứng ảnh hưởng trực tiếp đến
khiếm khuyết vận động của trẻ bại não thể co
cứng. Đo tầm vận động thụ động khớp được
cho là phương pháp đo lường thứ cấp độ
khiếm khuyết do co cứng cơ gây nên [8].
Những thay đổi lớn nhất trong tầm vận động
thụ động xảy ra cùng thời điểm ghi nhận được
sự thay đổi lớn nhất mức độ co cứng (MAS),
điều này chứng minh cho quan điểm trương
lực cơ có ảnh hưởng đến tầm vận động tại
một khớp [7].
Đánh giá tầm vận động thụ động trung
bình khớp cổ chân của nhóm can thiệp và
nhóm chứng tại thời điểm sau điều trị 1 tháng,
3 tháng, 6 tháng và 12 tháng đều có sự cải
thiện (tầm vận động khớp tăng lên). Tuy
nhiên, mức độ cải thiện tầm vận động thụ
động khớp cổ chân của nhóm can thiệp tại tất
cả thời điểm đánh giá đều cải thiện tốt hơn và
nhanh hơn nhóm chứng, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,01. Kết quả này cho
thấy tác dụng tốt của chương trình tập luyện
phục hồi chức năng trên tất cả các đối tượng
bệnh nhân tham nghiên cứu.
Kết quả biểu đồ 2 chỉ ra mức cải thiện tốt
nhất của tầm vận động thụ động khớp cổ chân
vào thời điểm sau 3 tháng ở nhóm can thiệp
so với thời điểm trước khi can thiệp, tầm vận
động thụ động khớp tăng 17,940, p < 0,01.
Đối với khớp cổ chân, tầm vận động thụ động
vẫn còn duy cải thiện sau can thiệp 6 tháng
(tăng 17,640, p < 0,01), tuy nhiên tầm vận
động thụ động khớp có xu hướng giảm dần tại
thời điểm sau can thiệp 12 tháng gần với giá
trị trước can thiệp, mặc dù vậy, sự khác biệt
vẫn có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Điều
này là khá hợp lý nếu so sánh với sự biến
thiên của tầm vận động khớp cổ chân theo
thời gian với mức giảm điểm MAS cơ gấp cổ
chân. Theo chúng tôi tầm vận động thụ động
khớp cổ chân vẫn cải thiện tốt là do trẻ đã
được tập luyện liên tục trong thời gian chưa
xuất hiện co cứng trở lại. Đây cũng là bằng
chứng một lần nữa khẳng định tính bền vững
của việc tiêm Botulinum nhóm A (Dysport®)
kết hợp với phục hồi chức năng.
Tăng phản xạ kéo dãn và co cứng có thể
gây ra rút ngắn cơ kéo dài, cuối cùng dẫn đến
co rút. Co rút thường kèm theo tăng cứng đờ
cơ và do đó tăng trương lực cơ trên lâm sàng
làm giảm tầm vận động khớp [7]. Vì vậy, điều
trị co cứng tốt sẽ giúp tránh hậu quả này. Việc
kết hợp tiêm Botulinum nhóm A (Dysport®)
kết hợp với phục hồi chức năng cho thấy co
sự cải thiện tốt về giảm mức độ co cứng, gia
tăng tầm vận động khớp cho trẻ bại não thể
co cứng. Hơn nữa, những cải thiện này được
cho là liên quan trực tiếp đến chức năng vận
động thô (GMFCS) sau tiêm Botulinum nhóm
A kết hợp với tập luyện phục hồi chức năng
cho trẻ bại não thể co cứng.
V. KẾT LUẬN
Hiệu quả giảm co cứng cơ, cải thiện tầm
vận động thụ động khớp tốt nhất sau tiêm
Botulinum nhóm A kết hợp phục hồi chức
năng sau 3 tháng, duy trì đến 12 tháng, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
Kết hợp tiêm Botulinum nhóm A (Dysport®)
với phục hồi chức năng có tác dụng giảm độ
co cứng (MAS) cơ gấp cổ chân, cải thiện tầm
vận động thụ động của khớp và cải thiện chức
TCNCYH 117 (1) - 2019 67
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
năng vận động chi dưới tốt hơn chỉ tập phục
hồi chức năng đơn thuần cho trẻ bại não thể
co cứng.
Lời cám ơn
Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến
các Giáo sư, chuyên gia, tập thể nhân viên và
lãnh đạo khoa Phục hồi Chức năng- Bệnh
viện Nhi Trung ương đã giúp đỡ trong quá
trình thu thập số liệu, đóng góp ý kiến, chỉnh
sửa để hoàn thiện bài báo này. Đặc biệt tác
giả xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến các bệnh
nhân, gia đình bệnh nhân đã phối hợp, tham
gia trong suốt quá trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ackman, J.D (2005). Comparing
botulinum toxin A with casting for treatment of
dynamic equinus in children with cerebral
palsy. Dev Med Child Neurol, 47(9), 620 - 627.
2. Koman, L.A (1993). Management of
cerebral palsy with botulinum-A toxin: prelimi-
nary investigation. J Pediatr Orthop, 13(4),
489 - 495.
3. Bohannon, R.W., M.B. Smith (1987).
Interrater reliability of a modified Ashworth
scale of muscle spasticity. Phys Ther, 67(2),
206 - 207.
4. Camargo, C.H.F (2009). Botulinum toxin
type A in the treatment of lower-limb spasticity
in children with cerebral palsy. Arquivos de
Neuro-Psiquiatria, 67, 62 - 68.
5. Joung Lee, S (2011). The Effect and
Complication of Botulinum Toxin Type A Injec-
tion with Serial Casting for the Treatment of
Spastic Equinus Foot, 35, 344 - 353.
6. Trịnh Quang Dũng, Nguyễn Hữu Chút
(2014). Đánh giá kết quả phục hồi chức năng
bại não thể co cứng bằng tiêm Dysport
(Botulinum Toxin Type A) và các biện pháp
phối hợp. Tạp chí Y học Thực hành, 912, 58 -
61.
7. Tedroff, K (2009). Long-term effects of
botulinum toxin A in children with cerebral
palsy, 51, 120 - 127.
8. Samizadeh, S., K. De Boulle (2018).
Botulinum neurotoxin formulations: overcom-
ing the confusion. Clin Cosmet Investig Der-
matol, 11, 273 - 287.
9. Koog, Y.H. and B.I. Min (2010). Effects
of botulinum toxin A on calf muscles in chil-
dren with cerebral palsy: a systematic review.
Clin Rehabil, 24(8), 685 - 700.
10. Bottos, M (2003). Botulinum toxin with
and without casting in ambulant children with
spastic diplegia: a clinical and functional
assessment. Dev Med Child Neurol, 45(11),
758 - 762.
Summary
EFFECT OF BOTULINUM TOXIN TYPE A (DYSPORT®) INJECTION
COMBINED WITH REHABILITATION THERAPY ON LOWER LIMB
MOTOR FUNCTION IN CHILDREN WITH SPASTIC CEREBRAL PALSY
Spastic equinus foot is a common deformity and is often associated with spasticity in the gas-
trosoleus muscle complex in children with spastic cerebral palsy. Treatment is targeted in reduc-
ing excessive plantarflexion, thereby improving gait and motor function. The aim of this study was
to evaluate the effect of Botulinum toxin type A injection combined with rehabilitation on lower limb
motor function in children with spastic cerebral palsy. 140 children with spastic cerebral palsy
68 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
aged 2 to 12 years old were recruited from the Rehabilitation Department of National Children’s
Hospital from December 2015 to December 2017 and divided into two groups. The mean of MAS
score decreased significantly after 12 months in the Botulinum toxin type A (Dysport®)- Injection
plus rehabilitation group by 1.39 ± 0.63 (p < 0.01). Passive ankle range of motion (PROM) im-
proved by 16.66 ± 11.990 (p < 0.01), while the mean of MAS scores in the control group
(rehabilitation alone) decreased by 0.15 ± 0.340 (p < 0.01). Ankle-PROM improved by 3.10 ±
7.380 (p < 0.01). The combined group showed a significantly greater decrease in the degree of
gastrosoleus muscle tone (MAS scores), and improved passive ankle range of motion compared
to the rehabilitation-only group after 12 months of treatment (p < 0.01). Our study demonstrated
that the effect of Botulinum toxin type A (Dysport®)- Injection combined with rehabilitation signifi-
cantly improved muscle tone, and lower limb motor function in children with spastic cerebral palsy.
Keywords: spastic cerebral palsy, Botulinum toxin type, spastic equinus foot
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_hieu_qua_cua_tiem_botulinum_nhom_a_dysport_ket_hop_vo.pdf