Tài liệu Đề tài Hiệu quả của điều trị nội tiết tố ở phụ nữ tiền mãn kinh-mãn kinh ở thành phố Hồ Chí Minh: HIỆU QUẢ CỦA ĐIỀU TRỊ NỘI TIẾT TỐ Ở PHỤ NỮ TIỀN MÃN
KINH-MÃN KINH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TÓM TẮT
Thời tiền mãn kinh - mãn kinh gây nhiều biến đổi bất ứng ảnh hưởng chất
lượng cuộc sống cho người phụ nữ. Nội tiết tố ngoại sinh góp phần khắc phục
những rối loạn sinh lý này tuy nhiên có khả năng tăng nguy cơ ung thư vú, ung
thư nội mạc tử cung hay huyết khối tĩnh mạch sâu trong liệu trình nội tiết dài
hạn (1).
Mục tiêu-Phương pháp: Một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu qua 1235 phụ nữ
sử dụng nội tiết tố ngoại sinh với liệu trình 6 tháng tại bệnh viện Từ Dũ và bệnh
viện Hùng Vương được thực hiện từ 01/2006 – 12/2007 nhằm đánh giá hiệu
quả của điều trị nội tiết tố.
Kết quả: gần 90% các đối tượng được chỉ định sử dụng nội tiết tố do có rối
loạn triệu chứng tiền mãn kinh - mãn kinh. Trong đó, phần lớn các đối tượng
được sử dụng nội tiết tố vì các triệu chứng rối loạn vận mạch, trong đó triệu
chứng bốc hỏa chiếm tỉ lệ cao nhất 63%. Các rối loạn tâm lý (cáu gắt, mệt mỏ...
28 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hiệu quả của điều trị nội tiết tố ở phụ nữ tiền mãn kinh-mãn kinh ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HIỆU QUẢ CỦA ĐIỀU TRỊ NỘI TIẾT TỐ Ở PHỤ NỮ TIỀN MÃN
KINH-MÃN KINH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TÓM TẮT
Thời tiền mãn kinh - mãn kinh gây nhiều biến đổi bất ứng ảnh hưởng chất
lượng cuộc sống cho người phụ nữ. Nội tiết tố ngoại sinh góp phần khắc phục
những rối loạn sinh lý này tuy nhiên có khả năng tăng nguy cơ ung thư vú, ung
thư nội mạc tử cung hay huyết khối tĩnh mạch sâu trong liệu trình nội tiết dài
hạn (1).
Mục tiêu-Phương pháp: Một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu qua 1235 phụ nữ
sử dụng nội tiết tố ngoại sinh với liệu trình 6 tháng tại bệnh viện Từ Dũ và bệnh
viện Hùng Vương được thực hiện từ 01/2006 – 12/2007 nhằm đánh giá hiệu
quả của điều trị nội tiết tố.
Kết quả: gần 90% các đối tượng được chỉ định sử dụng nội tiết tố do có rối
loạn triệu chứng tiền mãn kinh - mãn kinh. Trong đó, phần lớn các đối tượng
được sử dụng nội tiết tố vì các triệu chứng rối loạn vận mạch, trong đó triệu
chứng bốc hỏa chiếm tỉ lệ cao nhất 63%. Các rối loạn tâm lý (cáu gắt, mệt mỏi)
cũng chiếm tỉ lệ khá cao, kế đến là rối loạn sinh dục (giao hợp đau). Các triệu
chứng rối loạn vận mạch cải thiện rất tốt sau 6 tháng điều trị. Trong đó, nhóm
sử dụng nội tiết tố điều trị loại phối hợp có hiệu quả tốt nhất, nhóm thảo dược
có hiệu quả thấp nhất. Nội tiết tố điều trị đường uống có giá trị hơn đường đặt
âm đạo trong cải thiện các triệu chứng bốc hỏa và khó ngủ.
Kết luận: liệu trình nội tiết tố ngắn hạn 6 tháng có khả năng giải quyết khá tốt
các triệu chứng rối loạn tiền mãn kinh - mãn kinh cho phụ nữ Việt Nam. Các
hậu quả trên tuyến vú, nội mạc tử cung chưa được rút ra do thời gian theo dõi
chưa đủ dài. Các nghiên cứu sâu cần được tiến hành để có thể cho ra các
khuyến cáo thực hành.
ABSTRACT
EFFECTS OF HORMONAL THERAPY IN PERI-MENOPAUSAL
WOMEN IN HOCHIMINH CITY
Nguyen Duy Tai, Tran Son Thach, Ha To Nguyen, Nguyen Vu My Linh, Pham
Thanh Hai, Nguyen Thị Mong Loan, Vo Thi Thuy Dieu * Y Hoc TP. Ho Chi
Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 170 – 179
Peri-menopausal time causes uncomfortable changes affecting women’s life
quality. Exogenous endocrines have ability to overcome these physiologic
disorders but to increase risk of breast cancer, endometrial cancer or venous
thrombosis after long treatment period (1).
Objectives-Methods: A prospective cohort study of 1235 women receiving
exogenous endocrines for 6 months at Từ Dũ hospital and Hùng Vương
hospital was conducted from 01/2006 – 12/2007 to evaluate effects of
hormonal therapy in peri-menopausal women in Hochiminh city.
Results: Approximately 90% of peri-menopausal women indicated of
hormonal therapy had climacteric symptoms. The majority of women receiving
hormonal therapy due to vasomotor symptoms (hot flushes, night sweats,
thrilling, sleep disturbances); the prevalence of hot flushes were found to be
highest 63%. Psychological disturbances (mood disturbances, tiredness) had
relatively high percentages, next was sexual dysfunction. Vasomotor symptoms
were very well ameliorated after 6 months. Group receiving combined
hormones had the best outcomes; group receiving herb remedies obtained the
lowest positive effects. Oral hormones ameliorated hot flushes and sleep
disturbances better than vaginal ones.
Conclusion: These results indicate that the short-term 6 month period of
hormonal therapy has the ability to well ameliorate climacteric symptoms in
Vietnamese peri-menopausal women. The effects on breast and endometrium
have not been drawn out because of limited follow-up period. Further studies
should be conducted for practicing recommendations.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc sức khỏe ở phụ nữ tiền mãn kinh - mãn kinh là vô cùng quan trọng
và đang được xã hội đặc biệt quan tâm hiện nay. Bước vào tuổi tiền mãn kinh -
mãn kinh, người phụ nữ phải chịu nhiều thay đổi sinh lý khó chịu gây ra bởi sự
suy yếu và mất dần chức năng hoạt động nội tiết của buồng trứng, các rối loạn
này ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống.
Quan trọng hơn, tuổi thọ trung bình của phụ nữ ngày càng tăng, tuổi thọ trung
bình hiện nay là 80 và tuổi mãn kinh trung bình là 51(7). Như vậy, phụ nữ phải
sống thêm ít nhất 30 năm nữa, khoảng một phần ba cuộc sống còn lại trong tình
trạng thiếu hụt estrogen với những biểu hiện bất ứng của nó.
May mắn thay, với sự tiến bộ của y học tuổi, sự ra đời của nội tiết tố ngoại sinh
trong 50 năm nay đã góp phần khắc phục những rối loạn sinh lý này. Tại Việt
Nam, khoảng 10 năm trở lại đây, điều trị nội tiết tố thay thế ở phụ nữ tiền mãn
kinh - mãn kinh cũng đã được sử dụng một cách rộng rãi. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu của Women’s Health Initiative WHI năm 2002 khuyến cáo về nguy
cơ ung thư vú, ung thư nội mạc tử cung hay huyết khối tĩnh mạch sâu khi dùng
nội tiết tố kết hợp giữa estrogen và progestin trong liệu trình nội tiết dài hạn(21).
Khuyến cáo này đã làm cho các nhà lâm sàng lẫn phụ nữ tiền mãn kinh - mãn
kinh hết sức quan tâm. Sau cột mốc đấy, tại Mỹ, nơi mà nội tiết tố thay thế
được ghi toa nhiều nhất, số phụ nữ chấp nhận theo dõi điều trị lâu dài giảm
xuống chỉ còn 15-40%.
Mặc dù trên thế giới có khá nhiều đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan với
tuổi mãn kinh, đặc biệt là hiệu quả của nội tiết tố dành cho các đối tượng mãn
kinh - mãn kinh, nhưng các nghiên cứu này đa số tập trung ở các nước đã phát
triển. Nước ta là một trong những nước đang phát triển với các đặc điểm về
tuổi mãn kinh và sự phân bố các triệu chứng mãn kinh khác hẳn với các đặc
điểm của các nước đã phát triển. Các nghiên cứu xuyên quốc gia đã đưa ra kết
luận rằng các số liệu tìm được từ các nghiên cứu ở các nước đã phát triển về
mãn kinh không thể khái quát hóa và áp dụng đối với các phụ nữ sống ở các
vùng khác trên thế giới không cùng điều kiện về kinh tế xã hội(Error! Reference source
not found.,Error! Reference source not found.). Hơn nữa, trên tinh thần “y khoa chứng cứ” cho
đến hiện tại vẫn chưa có một khuyến cáo thống nhất về sử dụng nội tiết tố thay
thế. Chính vì vậy, nhằm có được những thông tin xác thực phù hợp với nhân
chủng học người Việt Nam trong việc sử dụng nội tiết tố thay thế của phụ nữ
tiền mãn kinh - mãn kinh, công tác đánh giá lại việc sử dụng nội tiết tố tại
Thành phố Hồ Chí Minh rất cần được nghiêm túc thực hiện. Do đó, đề tài
“Hiệu quả của điều trị nội tiết tố ở phụ nữ tiền mãn kinh - mãn kinh tại Thành
phố Hồ Chí Minh” được thực hiện với mong muốn:
Xác định đặc điểm nhân khẩu xã hội học, chỉ định điều trị ở phụ nữ tiền mãn
kinh - mãn kinh sử dụng nội tiết tố thay thế.
Xác định hiệu quả làm giảm các triệu chứng và các tác dụng ngoại ý của liệu
pháp nội tiết tố.
nhằm làm rõ nét việc sử dụng nội tiết tố điều trị cho phụ nữ tiền mãn kinh -
mãn kinh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CƯÚ
Dân số nghiên cứu là phụ nữ 45 tuổi có chỉ định sử dụng nội tiết tố do có rối
loạn vận mạch, rối loạn tâm lý, rối loạn niệu-dục, triệu chứng thần kinh trung
ương, các triệu chứng cơ xương khớp đến khám tại bệnh viện Từ Dũ và bệnh
viện Hùng Vương từ 01/2006 – 12/2007. Các đối tượng bị loại ra khỏi nghiên
cứu nếu có bệnh lý phụ khoa như u xơ TC; tiền sử bản thân và gia đình có bất
cứ bệnh lý tuyến vú gì trước đó hoặc có chống chỉ định sử dụng nội tiết tố.
Các bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được tư vấn mục tiêu và mời tham
gia vào nghiên cứu. Nếu đồng ý tham gia, các nghiên cứu viên sẽ phỏng vấn
bảng câu hỏi thông tin chung và tư vấn cho bệnh nhân lựa chọn các thuốc nội
tiết tố thay thế. Các bệnh nhân được thăm khám và xét nghiệm đầy đủ trong
khâu sàng lọc để đảm bảo tính an toàn (thử máu, lipid huyết tương, tầm soát
ung thư cổ tử cung, siêu âm, nhũ ảnh,…). Sau khi sử dụng thuốc, bệnh nhân sẽ
được tư vấn tái khám hàng tháng để đánh giá hiệu quả cũng như tác dụng phụ
của thuốc. Trong nghiên cứu này, sở dĩ chúng tôi chọn thời điểm sau 6 tháng
điều trị để đánh giá hiệu quả thuốc vì qua loạt ca tiến hành làm pilot, chúng tôi
nhận thấy hiệu quả điều trị thật sự thay đổi sau 6 tháng. Nhũ ảnh sẽ được chụp
sau 6 tháng sử dụng thuốc để khảo sát tỷ lệ bất thường trên nhũ ảnh sau dùng
nội tiết tố thay thế. Sự cải thiện các triệu chứng (bốc hỏa, đổ mồ hôi đêm, hồi
hộp, rối loạn giấc ngủ, hay cáu gắt, mệt mỏi, tiểu nhiều lần, tiểu không tự chủ,
giao hợp đau) được đánh giá sau 6 tháng điều trị. Nếu không cải thiện (4 điểm),
giảm 30% (3 điểm), giảm 50% (2 điểm), giảm 80% (1 điểm), khỏi hoàn toàn (0
điểm) và xuất hiện triệu chứng mới (4 điểm). Các cách cho điểm này dựa vào
thước đo thang định tính mức độ triệu chứng.
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5. Dùng phép kiểm phi tham số
với độ tin cậy 95% để khảo sát hiệu quả thuốc cũng như tác động của thuốc.
KẾT QUẢ - BÀN LUẬN
Phương pháp nghiên cứu
Để khảo sát được ảnh hưởng của hormon điều trị lên sức khỏe phụ nữ tiền mãn
kinh - mãn kinh, mô hình chúng tôi thực hiện nghiên cứu theo kiểu đoàn hệ là
phù hợp nhất. Tuy nhiên, mặt giới hạn của thiết kế nghiên cứu là không có
nhóm chứng. Thời gian nghiên cứu đánh giá tác động của nội tiết tố giới hạn
trong vòng 6 tháng vì thế có những tác động lên các cơ quan chưa đủ thời gian
để biểu hiện (tim mạch, loãng xương, chuyển hóa lipid, thuyên tắc huyết khối
tĩnh mạch). Do đó, nghiên cứu bước đầu chỉ ghi nhận một số tác động trong
chừng mực cho phép. Đây là các điểm giới hạn của đề tài.
Một sai lệch có thể ảnh hưởng quan trọng đến kết quả nghiên cứu đó là sai
lệch do người được phỏng vấn nếu họ biết mục tiêu nghiên cứu và hướng kết
quả phỏng vấn theo ý kiến của mình. Để giảm thiểu sai lệch này chúng tôi
không trực tiếp phỏng vấn mà huấn luyện cho các nữ hộ sinh không nắm
mục tiêu nghiên cứu tiến hành phỏng vấn. Đó là mặt ưu thế của đề tài.
Nhân khẩu học
Đa số đối tượng sử dụng nội tiết tố trong nghiên cứu tập trung nhóm tuổi 46-55
tuổi chiếm tỷ lệ 80%. Đây cũng chính là độ tuổi xuất hiện các rối loạn tiền mãn
kinh - mãn kinh. Độ tuổi này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác. Thật vậy
theo Chim H (Singapore) tuổi mãn kinh là 49 tuổi(Error! Reference source not found.), của
Ismael NN.A (Malaysia) là 50.7 tuổi(Error! Reference source not found.), phụ nữ Thái là
50,13(Error! Reference source not found.), Thổ Nhĩ Kỳ là 47,8(Error! Reference source not found.),
của Nguyễn Thị Ngọc Phượng (TPHCM) là 47,5(Error! Reference source not found.).
Các đối tượng có nghề nghiệp với khả năng đón nhận thông tin truyền thông
dễ (công nhân, công nhân viên) lại chiếm tỷ lệ thấp trong việc sử dụng nội
tiết tố thay thế. Gần hai phần ba đối tượng nghiên cứu có học vấn dưới cấp
3, điều này không thuận lợi cho công tác tư vấn trong điều trị nội tiết tố thay
thế. Đây là điều khác biệt so với các đối tượng sử dụng nội tiết tố ngoại sinh
ở các nước khác, do đó chúng ta cần đặc biệt lưu tâm vấn đề này nhằm hỗ
trợ những kiến thức nhất định cho các đối tượng khi sử dụng nội tiết tố. Thật
vậy, đối với các đối tượng khả năng nhận thức phù hợp, việc thông tin cũng
như sự tuân thủ theo các chỉ dẫn trong quá trình sử dụng là một lợi thế.
Ngược lại, đối với các đối tượng có trình độ giới hạn, họ thường có khuynh
hướng chạy theo đám đông, khả năng tiếp nhận thông tin không đầy đủ thì
việc sử dụng nội tiết tố quả thật là một con dao hai lưỡi, hậu quả đáng tiếc có
thể xảy ra nếu coi nhẹ các tác dụng ngoại ý. Do đó, việc thông tin cũng như
việc tư vấn cặn kẽ về liệu trình sử dụng nội tiết tố đối các đối tượng tiền mãn
kinh - mãn kinh trong hoàn cảnh xã hội ta hiện nay là một việc hết sức quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng sống được mong đợi một cách đúng nghĩa.
Đa số các đối tượng đang sống với chồng. Hơn 20% (23,6%) đối tượng
trong nghiên cứu không cho con bú, một trong những yếu tố làm gia tăng
nguy cơ ung thư vú khi dùng thuốc nội tiết tố. Gần 11% (10,6%) đối tượng
nghiên cứu không sanh con, đây là dữ liệu rất cần được quan tâm vì nguy cơ
ung thư vú và nội mạc tử cung sẽ tăng bội. Bên cạnh đó, hơn 40% đối tượng
sanh nhiều lần cần phải tầm soát ung thư cổ tử cung. Gần 40% đối tượng
nghiên cứu thừa cân rất cần được quan tâm vì các yếu tố này sẽ làm tăng
nguy cơ ung thư vú và nội mạc tử cung. Hơn phân nửa (58,5%) các đối
tượng có chỉ số khối trong giới hạn bình thường. Hầu hết họ có thói quen
truyền thống Việt nam: nuôi con bằng sữa mẹ chiếm tỉ lệ cao (khoảng 80%),
tuy nhiên đa phần chỉ cho bú trong một năm đầu tiên (63%). Hầu hết các đối
tượng này không có tiền sử sử dụng thuốc tránh thai trong quá khứ (95,4%).
Các triệu chứng rối loạn tiền mãn kinh - mãn kinh
87,9% các đối tượng trong nghiên cứu được chỉ định sử dụng nội tiết tố do
có rối loạn triệu chứng tiền mãn kinh - mãn kinh. Trong đó, phần lớn các đối
tượng được sử dụng nội tiết tố vì các triệu chứng rối loạn vận mạch (bốc hỏa
63.2%, vã mồ hôi 45,8%, hồi hộp 38.7%, khó ngủ 47,1%), trong đó triệu
chứng bốc hỏa chiếm tỉ lệ cao nhất 63,2%. Các rối loạn tâm lý (cáu gắt
40,3%, mệt mỏi 64,6%) cũng chiếm tỉ lệ khá cao, kế đến là rối loạn sinh dục
(giao hợp đau 38,6%) (Bảng 1).
Bảng 1: Sự phân bố các đặc điểm rối loạn tiền mãn kinh
Triệu chứng N Tỷ lệ %
Bốc hỏa 781 63,2
Vã mồ hôi 566 45,8
Hồi hộp 478 38,7
Khó ngủ 582 47,1
Cáu gắt 498 40,3
Mệt mỏi 798 64,6
Tiểu lắt nhắt 34 2,8
Són tiểu 197 16,0
Giao hợp đau 477 38,6
Nhức mỏi 220 17,8
So với các nghiên cứu khác tỉ lệ các dạng biểu hiện triệu chứng thay đổi giữa
các nghiên cứu.Thật vậy, 82% phụ nữ Thái ở Bangkok có triệu chứng bốc
hỏa(Error! Reference source not found.). Nghiên cứu ở Đài Loan cho thấy mất ngủ 42%,
hồi hộp 34%, rối loạn kinh nguyệt 34%, đau đầu và chóng mặt 28%, mệt mỏi
26%, trầm cảm 20%, tiểu không tự chủ 16%(Error! Reference source not found.). So với
một nghiên cứu khác ở Chile cho thấy các triệu chứng mất ngủ 82%, bốc hỏa
46%, tiểu khó 45%, giảm ham muốn tình dục 58%, triệu chứng tâm lý 17,8%,
loãng xương 11,1%, các vấn đề kinh nguyệt 6,3%(Error! Reference source not found.).
Nghiên cứu về những triệu chứng viêm teo âm đạo ở phụ nữ mãn kinh tại
Los Angeles (Mỹ) của Greendale GA đã ghi nhận khi khám mỏ vịt 905 phụ
nữ mãn kinh không sử dụng nội tiết tố thay thế có biểu hiện niêm mạc mỏng,
45% có ngứa và 50% có tình trạng khô và giao hợp đau(Error! Reference source not
found.).
Phụ nữ tiền mãn kinh trong một nghiên cứu ở Australia ít biểu hiện triệu chứng
nhất và phụ nữ quanh mãn kinh có nhiều triệu chứng nhất(Error! Reference source not
found.). Tần suất và độ nặng của các triệu chứng mãn kinh gia tăng trong thời kỳ
chuyển tiếp và tăng cao ở nhóm phụ nữ hậu mãn kinh(Error! Reference source not found.).
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Phạm Gia Đức tiến hành trong năm 1998,
các triệu chứng vận mạch và tâm lý thường gặp nhất trong nhóm mãn kinh.
60% phụ nữ mãn kinh có nóng phừng mặt, 62% đổ nhiều mồ hôi, 67% có
chóng mặt, tỷ lệ phụ nữ tiểu khó là 31%, 19% và 39% lần lượt trong 3 nhóm
phụ nữ tiền mãn kinh, quanh mãn kinh và mãn kinh(Error! Reference source not found.).
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Phượng và cộng sự về các triệu chứng
mãn kinh và hiệu quả điều trị nội tiết tố thay thế trên 710 phụ nữ mãn kinh ở
các tỉnh thành phía nam đến khám tại bệnh viện phụ sản Từ Dũ. Tần suất các
triệu chứng vận mạch, tâm lý và các triệu chứng về niệu, sinh dục lần lượt là
76,1%, 69,2%, 63,7% và 24,8%. Các triệu chứng thường gặp nhất là bốc hỏa
và mất ngủ(Error! Reference source not found.).
Trong nghiên cứu của Nguyễn Châu Mai Phương và cộng sự, triệu chứng bốc
hỏa có tỷ lệ cao nhất ở nhóm mãn kinh dưới 5 năm. Tuổi có kinh lần đầu, số
lần sanh, tình trạng rối loạn kinh nguyệt từ nhỏ không ảnh hưởng đến tuổi mãn
kinh trung bình(Error! Reference source not found.).
Một lần nữa, các nghiên cứu đã khẳng định các triệu chứng rối loạn tiền mãn
kinh - mãn kinh rất thay đổi không chỉ giữa các sắc tộc, giữa các cá thể khác
nhau mà còn tùy vào bối cảnh kinh tế xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp và
tình trạng hôn nhân được, đặc biệt là những thay đổi về tâm lý(Error! Reference source
not found.). Có nhiều giải thích cho sự khác biệt này. Có các ý kiến cho rằng mãn
kinh là một việc không quan trọng vì có nhiều sự kiện khác trong cuộc sống ở
tuổi trung niên gây stress cho họ hơn(Error! Reference source not found.). Green và Cooke
(1980) cho rằng áp lực trong cuộc sống có thể ảnh hưởng đến các triệu chứng
tâm lí và bản thể. Các sự kiện ở tuổi trung niên có vai trò quan trọng bao gồm
số con, số con xa nhà, bệnh tật hoặc cái chết của một thành viên trong gia đình.
Các yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng trên các triệu chứng bản thể, là các triệu
chứng được điều hòa chủ yếu bởi sự thay đổi nội tiết tố trong quá trình mãn
kinh. Theo các kết quả nghiên cứu gần đây, gánh nặng tâm lý có thể ảnh hưởng
đến nồng độ nội tiết tố sinh dục trong suốt giai đoạn mãn kinh và hậu mãn
kinh(Error! Reference source not found.).
Bên cạnh đó, sự than phiền về các triệu chứng ở tuổi mãn kinh phụ thuộc vào
nền văn hoá xã hội khác nhau, với mỗi đặc điểm văn hoá xã hội khác nhau, các
triệu chứng mãn kinh cũng thay đổi. Ở các nước phương Tây, người ta đánh giá
vai trò phụ nữ qua vẻ đẹp, khả năng sinh sản và nuôi con. Do đó phụ nữ có
quan niệm tiêu cực với mãn kinh vì mãn kinh đồng nghĩa với mất khả năng
sinh sản, giảm sức khỏe và mất quyền lực với con cái (các con lớn không còn
nghe lời họ). Chính vì vậy, hầu hết triệu chứng mãn kinh xảy ra trong các
trường hợp này. Ngược lại, trong các xã hội không sử dụng phổ biến thuốc
ngừa thai, mãn kinh đồng nghĩa với chấm dứt tuổi sinh sản và giải thoát phụ nữ
khỏi lo lắng của việc có thai, do đó các triệu chứng tâm lí của mãn kinh ít xảy
ra và thời mãn kinh của họ đi qua một cách rất nhẹ nhàng. Cũng vậy, ở Mexico
người ta quan niệm kinh nguyệt là một giai đoạn nguy hiểm và dơ bẩn, do đó
phụ nữ phải giới hạn các hoạt động xã hội trong chu kì kinh nguyệt. Do đó, phụ
nữ Mexico có khuynh hướng chào đón sự mãn kinh như một giai đoạn tự do
hoạt động. Chỉ một số ít phụ nữ Mexico có triệu chứng mãn kinh.
Hiệu quả của nội tiết tố điều trị
Qua 1235 các trường hợp sử dụng nội tiết tố trong nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy đa phần sử dụng nội tiết tố điều trị loại phối hợp (estrogen và progestin)
chiếm khoảng 87,5%, kế đến nhóm nội tiết tố chỉ chứa estrogen 5,4% và đặc
biệt có một tỉ lệ không thể bỏ qua có chỉ định sử dụng thảo dược trong điều trị
các rối loạn tiền mãn kinh - mãn kinh 7,1%.
Các thuốc nội tiết tố được sử dụng có một phần khác biệt so với các nghiên cứu
trên thế giới, đó là việc sử dụng thảo dược trong điều trị các rối loạn tiền mãn
kinh - mãn kinh. Mặc dù số các trường hợp sử dụng thảo dược chiếm tỉ lệ
không cao, gần 10% nhưng đây cũng phản ánh một phần thái độ dè dặt trong
việc sử dụng nội tiết tố của các nhà lâm sàng. Giải thích cho sự cân nhắc đầy
thận trọng này vì thời điểm tiến hành nghiên cứu này sau các các công bố của
nghiên cứu WHI năm 2002 về nguy cơ ung thư vú, thuyên tắc huyết khối tĩnh
mạch cũng như đột quị khi sử dụng nội tiết tố thay thế.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trên 80% các trường hợp sử dụng nội tiết tố
điều trị loại phối hợp (estrogen và progestin); khoảng 98% sử dụng nội tiết
tố dưới dạng đường uống.
Về sự đáp ứng với liệu pháp nội tiết tố ở các đối tượng tiền mãn kinh - mãn
kinh, các triệu chứng rối loạn vận mạch cải thiện rất tốt sau 6 tháng điều trị.
Các triệu chứng rối loạn vận mạch như bốc hỏa, vã mồ hôi, hồi hộp cải thiện
rất rõ nét, gần như khỏi hoàn toàn với số điểm giảm lần lượt là 3,53, 3,44,
3,36 điểm so với điểm triệu chứng ban đầu lúc đưa vào nghiên cứu là 4 điểm
(p<0,001). Triệu chứng rối loạn tâm lý như cáu gắt, mệt mỏi cũng vậy, số
điểm giảm lúc sau 6 tháng điều trị nội tiết tố lần lượt là 3,25, 3,26 điểm
(p<0,001). Các triệu chứng niệu, sinh dục đáp ứng khiêm nhường hơn, từ 4
điểm xuống còn 2,17, 2,66 điểm (p<0,001) (Bảng 2 và Bảng 3). Trong đó,
nhóm sử dụng nội tiết tố điều trị loại phối hợp có hiệu quả tốt nhất, nhóm
thảo dược có hiệu quả thấp nhất (Bảng 4). Đa số đối tượng nghiên cứu sử
dụng nội tiết tố thay thế bằng đường uống (97,9%). Nội tiết tố điều trị đường
uống có giá trị hơn đường đặt âm đạo trong cải thiện các triệu chứng bốc hỏa
và khó ngủ (Bảng 5).
Bảng 2: Sự đáp ứng điều trị theo các dạng triệu chứng
Triệu
chứng
Giảm
30%
Giảm
50%
Giảm
80%
Giảm
100%
Không
giảm
Mất
dấu
Bốc
hỏa
0 44 275 454 0 8
Vã
mồ
hôi
0 14 289 260 0 3
Hồi
hộp
1 34 230 203 0 10
Khó
ngủ
182 189 178 5 11 17
Cáu
gắt
0 43 282 166 0 7
Mệt
mỏi
1 57 463 263 0 14
Tiểu 9 13 4 3 4 1
lắt
nhắt
Són
tiểu
54 60 81 1 0 1
Giao
hợp
đau
12 199 165 76 5 20
Nhức
mỏi
117 72 32 0 4 5
Bảng 3: Sự cải thiện các triệu chứng theo điểm
Triệu
chứng
Điểm
giảm
(Dx = D0
– D6)
KTC
95%
t P
Bốc hỏa 3,53 3,49 3,57 162,6 <
0,001
Vã mồ 3,44 3,39 3,48 149,8 <
hôi 0,001
Hồi hộp 3,36 3,30 3,42 117,0 <
0,001
Khó
ngủ
2,02 1,94 2,09 53,1 <
0,001
Cáu gắt 3,25 3,19 3,30 119,2 <
0,001
Mệt mỏi 3,26 3,22 3,30 154,7 <
0,001
Tiểu lắt
nhắt
1,93 1,52 2,34 9,7 <
0,001
Són tiểu 2,17 2,05 2,29 36,1 <
0,001
Giao
hợp đau
2,66 2,58 2,73 68,3 <
0,001
Nhức
mỏi
1.58 1.48 1.69 29.7 <
0,001
Bảng 4: Sự cải thiện các triệu chứng theo thuốc sử dụng
Estrogen Estrogen +
Progestin
Thảo
dược
Triệu
chứng
D6 Dx D6 Dx D6 Dx
Bốc
hỏa
0,91 3,08 0,39 3,61 1,46 2,54
Vã mồ
hôi
1,18 2,2 0,56 3,43 1,16 2,83
Hồi
hộp
1,13 2,7 0,55 3,45 1,34 2,65
Khó
ngủ
2,11 1,98 1,91 2,08 2,69 1,30
Cáu gắt 1,0 3,0 0,75 3,25 1,15 2,85
Mệt
mỏi
0,8 3,2 0,71 3,29 1,20 2,80
Tiểu lắt
nhắt
1,84 2,16 1,53 2,46 2,40 1,60
Són
tiểu
2,5 1,5 1,81 2,19 2,25 1,75
Giao
hợp đau
1,44 2,56 1,31 2,69 1,92 2,07
Nhức
mỏi
2,56 1,44 2,36 1,64 2,61 1,39
Bảng 5: Sự cải thiện các triệu chứng theo đường sử dụng
Uống Đặt âm đạo Triệu
chứng
D6 Dx D6 Dx p
Bốc hỏa 0,46 3,54 0,83 3,17 0,034
Vã mồ
hôi
0,56 3,44 0,5 3,5 0,816
Hồi hộp 0,63 3,37 1,0 3,0 0,123
Khó ngủ 1,97 2,03 2,83 1,17 0,021
Cáu gắt 0,75 3,25 1,0 3,0 0,410
Mệt mỏi 0,74 3,26 0,75 3,25 0,947
Tiểu lắt
nhắt
2,09 1,90 1,0 3,0 0,350
Són tiểu 1,82 2,17 2,5 1,5 0,259
Giao hợp
đau
1,33 2,67 1,35 2,64 0,948
Nhức mỏi 2,41 1,60 2,57 1,43 0,590
Các kết quả này cũng tương thích với các nghiên cứu trước đây. Thật vậy,
nghiên cứu của Mac Lennan 2004 cho thấy liệu pháp nội tiết tố điều trị giảm
75% triệu chứng nóng bừng mặt ở phụ nữ tiền-hậu mãn kinh so với nhóm
chứng sử dụng giả dược và cũng làm giảm đáng kể về mặt thống kê ở nhóm có
triệu chứng ở mức độ nặng (OR 0,13 KTC 95% 0,07 đến 0,03)(Error! Reference
source not found.).
Một tổng quan khác ghi nhận oestrogen dạng bội tại chỗ rất hiệu quả đối với
teo âm đạo ở phụ nữ hậu mãn kinh so với giả dược hoặc thuốc bôi không chứa
nội tiết tố(Error! Reference source not found.).
Việc sử dụng thảo dược được đánh giá như một ngã rẽ mới trong điều trị các
rối loạn tiền mãn kinh với những nhận định bước đầu khá khả quan về đặc tính
của thảo dược. Thật vậy, sau các công bố của nghiên cứu WHI năm 2002 về
nguy cơ ung thư vú, thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch cũng như đột quị khi sử
dụng nội tiết tố thay thế(0), các nhà lâm sàng rất dè dặt trong việc lựa chọn điều
trị nội tiết tố tiền mãn kinh - mãn kinh. Trong bối cảnh đó, các nhà khoa học có
trách nhiệm đi tìm những giải pháp thay thế. Năm 2004, Viện quốc gia về sức
khỏe (NIH) đã tổ chức hội thảo về độ an toàn của Black Cohosh qua các nghiên
cứu lâm sàng.
Black Cohosh là một loại cây mọc quanh năm ở Bắc Mỹ thường được sử dụng
cho dân da đỏ điều trị bệnh theo phương pháp truyền thống. Ngày nay Black
Cohosh được ứng dụng cho các triệu chứng mãn kinh. Không giống như các
thuốc không phải thảo dược, các chế phẩm thảo dược không được đánh giá về
độ an toàn một cách hệ thống. Tuy nhiên, các bằng chứng trong phòng thí
nghiệm, trên động vật và các thử nghiệm lâm sàng đều cho thấy Black Cohosh
là liệu pháp thảo dược an toàn cho phụ nữ mãn kinh nếu sử dụng trong thời
gian giới hạn. Cần nhiều nghiên cứu hơn để đánh giá độ an toàn khi sử dụng
thời gian dài cũng như cơ chế tác động của Black Cohosh(Error! Reference source not
found.).
Các tác giả tổng hợp các dữ liệu thí nghiệm trên chuột qua việc chiết xuất
Black Cohosh đã ghi nhận các tác động tích cực của loại thảo dược này như
khả năng làm giảm triệu chứng bốc hỏa bằng cách ức chế giải thoát nhịp LH,
làm tăng tiết dịch âm đạo nhẹ, giảm các rối loạn tiết niệu-sinh dục, chống loãng
xương; đặc biệt Black Cohosh không tác động lên tế bào nội mạc tử cung,
không ảnh hưởng lên sự phát triển tế bào tuyến vú, không ảnh hưởng rối loạn
chuyển hóa lipid(Error! Reference source not found.). Chính vì vậy, các nhà phụ khoa tại
Thành phố Hồ Chí Minh mạnh dạn sử dụng thảo dược trong điều trị nội tiết tố
hoàn toàn có cơ sở. Mặc dù các số liệu sơ khởi cho thấy hiệu quả trị liệu của
thảo dược còn khiêm tốn so với thuốc nội tiết tố ngoại sinh, nhưng thảo dược
vẫn cải thiện khá tốt các triệu chứng, đặc biệt triệu chứng rối loạn vận mạch.
Hiện nay, trào lưu trị liệu rối loạn tiền mãn kinh - mãn kinh đang có khuynh
hướng thiên về các loại thảo dược, đặc biệt ở Mỹ. Các nhà khoa học trên thế
giới, đặc biệt ở Mỹ đang đi tìm câu trả lời cho lãnh vực còn bỏ ngõ này.
Tác dụng phụ của nội tiết tố thay thế
Bên cạnh các mặt ưu thế, vấn đề đáng cân nhắc trong việc sử dụng nội tiết tố là
sự tác động lên các cơ quan khác, cụ thể là ung thư nội mạc tử cung, ung thư
vú, đó chính là mối quan ngại lớn nhất của các nhà phụ khoa.
Trong số 1235 trường hợp theo dõi sau sáu tháng dùng nội tiết tố điều trị,
không có trường hợp nào xuất hiện tăng sinh nội mạc tử cung hay ung thư nội
mạc tử cung. Các rối loạn chủ yếu xảy ra trên kết quả nhũ ảnh.
2,2% các trường hợp có nhũ ảnh bất thường dưới dạng tăng đậm độ mô tuyến
vú (27 trường hợp trong tổng số 1205 đối tượng nghiên cứu). Nội tiết tố điều trị
loại kết hợp có nguy cơ bất thường trên nhũ ảnh nhiều hơn estrogen đơn thuần
với OR = 1,05 (1,04 – 1,07). Nội tiết tố điều trị Tây y có nguy cơ bất thường
trên nhũ ảnh nhiều hơn thảo dược OR = 1,05 (1,04 – 1,06).
Tuy nhiên, đây chỉ là những số liệu ghi nhận ban đầu đối với liệu trình nội tiết
tố điều trị trong khoảng thời gian ngắn hạn 6 tháng. Tăng đậm độ mô tuyến vú
trên nhũ ảnh không đồng nghĩa với ung thư vú. Sự tăng đậm độ này có thể làm
che mờ các tổn thương bên dưới, các vi tổn thương canxi hóa
(microcalcification), những dấu hiệu ban đầu của ung thư vú. Progestin đóng
vai trò thế nào đối với quá trình tạo ung của mô tuyến vú? Những gì sẽ tiếp
diễn theo sau trong quãng thời gian còn lại của các phụ nữ tiền mãn kinh - mãn
kinh, đặc biệt nếu các triệu chứng tái xuất hiện cũng như họ cần một liệu trình
điều trị dài hơn? Liệu pháp nào có thể thay thế thuốc nội tiết tố ngoại sinh
nhằm hạn chế tối đa các hậu quả không mong đợi? Phytoestrogen? Những câu
hỏi này còn đang bỏ ngõ. Với kết quả nghiên cứu này, chúng tôi hy vọng sẽ gợi
mở ra các hướng nghiên cứu mới nhằm có các kết quả xác đáng hơn trước khi
đưa ra những khuyến cáo thực hành có giá trị.
So với các nghiên cứu khác trên thế giới, các bằng chứng về hiệu quả của
điều trị nội tiết tố trên tỉ lệ ung thư vú vẫn còn khó khăn trong việc diễn giải.
Theo báo cáo WHI 1998 ghi nhận tỉ lệ ung thư vú ở nhóm sử dụng nội tiết tố
loại kết hợp gia tăng đáng kể sau 4 năm sử dụng vì làm chậm trễ trong việc
chẩn đoán do làm mờ những tổn thương nhỏ trên nhũ ảnh(Error! Reference source
not found.). Điều này giải thích lí do tỉ lệ ung thư vú thấp trong nhóm sử dụng
nội tiết tố loại kết hợp ở nghiên cứu WHI 1998.
Nghiên cứu Beral 2003 cùng cho kết quả như nghiên cứu của WHI 1998 về
nguy cơ ung thư vú khi sử dụng nội tiết tố loại kết hợp. Đặc biệt cho thấy MPA
và các progestogens khác làm gia tăng nguy cơ đáng kể so với nhóm chỉ có
estrogen(Error! Reference source not found.).
Hiện nay khuynh hướng sử dụng nội tiết tố liều thấp trong thời gian ngắn
nhất đạt được mục tiêu điều trị như giảm nóng bừng mặt, với liều lượng
được điều chỉnh thích hợp trên từng bệnh nhân và được đánh giá lại ít nhất
mỗi năm.
Topal NB và cộng sự nghiên cứu trên 113 phụ nữ mãn kinh có nhũ ảnh bình
thường. Sau 12 tháng dùng nội tiết tố thay thế, nhóm nghiên cứu ghi nhận có sự
tăng đậm độ trên nhũ ảnh của nhóm phụ nữ này. Ở nhóm estrogen + progestin
uống liên tục tỷ lệ này là 38,3%; ở nhóm estrogen + progestin uống có tính chu
kỳ tỷ lệ này là 12,5%; ở nhóm estrogen đơn thuần uống liên tục tỷ lệ này là
2,7%(Error! Reference source not found.).
Sự tác động lên các cơ quan khác của thuốc nội tiết tố cũng đã thực sự thay
đổi qua các bài tổng quan. Theo Beral ghi nhận, các tổng quan trước đây
không cho thấy sự gia tăng đáng kể về nguy cơ bệnh mạch vành ở các phụ
nữ sử dụng nội tiết tố trong giai đoạn tiền-hậu mãn kinh. Nhưng các tổng
quan hiện tại lại cho thấy tăng đáng kể những nguy cơ này, đặc biệt trong
năm đầu sử dụng ở những phụ nữ sử dụng nội tiết tố loại sử dụng loại liên
tục(Error! Reference source not found.). Chính vì vậy, các phụ nữ có các triệu chứng rối
loạn cần điều trị và có ít nguy cơ mạch vành và ung thư vú nên cân nhắc
giữa lợi ích do thuốc mang lại và các nguy cơ có thể có khi sử dụng trong
thời gian ngắn hạn.
Các khuyến cáo hiện nay trên thế giới muốn chuyển tải đến nhóm phụ nữ sử
dụng nội tiết tố điều trị những dấu hiệu bất lợi trên các cơ quan khác ngoài các
tác dụng trị liệu mong đợi. Các nhà phụ khoa cũng như bệnh nhân của mình
luôn cần trao đổi thật cặn kẽ nhằm cân nhắc giữa lợi ích đem lại và các nguy cơ
có thể có của thuốc trước khi bắt đầu liệu trình nội tiết tố.
Trong tình hình chưa có sự đồng thuận cao về hậu quả của liệu pháp nội tiết,
nên sự lựa chọn nội tiết tố cho các phụ nữ rối loạn TMK-MK cần cân nhắc
cặn kẽ. Một khuyến cáo cho rằng đối với các phụ nữ khỏe mạnh không có
các triệu chứng rối loạn tiền mãn kinh - mãn kinh trầm trọng là: tránh xa liệu
pháp nội tiết tố càng xa càng tốt; sau khi cân nhắc kỹ, nội tiết tố điều trị có
nhiều thiệt hại hơn các ích lợi(Error! Reference source not found.). Chính vì vậy, cụm
từ “nội tiết tố thay thế” (Hormone Replacement Therapy HRT) trước đây
nên thay bằng “nội tiết tố điều trị” (Hormone Therapy HT).
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu “Tình hình điều trị nội tiết tố ở phụ nữ tiền mãn kinh - mãn
kinh tại Thành phố Hồ Chí Minh” theo loại hình thiết kế đoàn hệ đơn tiền cứu
trong thời gian hai năm với 1235 phụ nữ sử dụng nội tiết tố ngoại sinh tại thành
phố Hồ Chí Minh, bước đầu chúng tôi đã ghi nhận gần 90% các đối tượng
được chỉ định sử dụng nội tiết tố do có rối loạn triệu chứng tiền mãn kinh - mãn
kinh. Trong đó, phần lớn các đối tượng được sử dụng nội tiết tố vì các triệu
chứng rối loạn vận mạch (bốc hỏa, vã mồ hôi, hồi hộp, khó ngủ), trong đó triệu
chứng bốc hỏa chiếm tỉ lệ cao nhất 63%. Các rối loạn tâm lý (cáu gắt, mệt mỏi)
cũng chiếm tỉ lệ khá cao, kế đến là rối loạn sinh dục (giao hợp đau). Các triệu
chứng rối loạn vận mạch cải thiện rất tốt sau 6 tháng điều trị. Trong đó, nhóm
sử dụng nội tiết tố điều trị loại phối hợp có hiệu quả tốt nhất, nhóm thảo dược
có hiệu quả thấp nhất. Nội tiết tố điều trị đường uống có giá trị hơn đường đặt
âm đạo trong cải thiện các triệu chứng bốc hỏa và khó ngủ.
Các kết quả nghiên cứu thu được cho thấy liệu trình nội tiết tố ngắn hạn 6 tháng
có khả năng giải quyết khá tốt các triệu chứng rối loạn tiền mãn kinh - mãn
kinh cho phụ nữ Việt Nam. Việc theo dõi nhũ ảnh ở các đối tượng này nên
được kiểm tra thường qui và định kỳ nhằm phát hiện sớm những bất thường ở
tuyến vú sau liệu pháp nội tiết tố điều trị.
Với các kết quả tiền đề này, chúng tôi nhận thấy tính cần thiết cho các nghiên
cứu chuyên sâu hơn. Thật vậy, như trong phần bàn luận đã nêu ra, mỗi ngày,
mỗi giờ, trên khắp các khu vực của thế giới vẫn miệt mài đi tìm lời giải đáp cho
bài toán “liệu pháp nội tiết tố thời mãn kinh”. Khuynh hướng ngày nay đang
xoay về vai trò của các loại thảo mộc trong việc cải thiện các triệu chứng tiền
mãn kinh – mãn kinh. Do đó, không có vấn đề quan ngại gì mà không tiến hành
các nghiên cứu về lãnh vực này nhằm. Hơn thế nữa, nhằm tiên liệu sự tác động
của nội tiết tố đối với tim mạch, ung thư nội mạc tử cung, ung thư vú, cần tiến
hành các nghiên cứu trên bình diện rộng với sự hợp tác của nhiều chuyên khoa
cũng như các nhà hoạch định chiến lược để thật sự góp phần bảo vệ sức khỏe
toàn dân đúng nghĩa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35_5017.pdf