Đề tài Hệ thống ngân hàng đại lý tại Việt Nam

Tài liệu Đề tài Hệ thống ngân hàng đại lý tại Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO đã mang lại cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển mới. Quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực không ngừng được đẩy mạnh, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng là một ngành nhạy cảm nhưng rất quan trọng. Chính vì vậy, các giao dịch quốc tế luôn là đối tượng không chỉ các nhà đầu tư quan tâm mà còn được các ngân hàng đặc biệt chú trọng. Hệ thống ngân hàng địa phương và thế giới phát triển đã góp phần đẩy mạnh các giao dịch không bằng tiền mặt thông qua ngân hàng nhằm cắt giảm tối đa các khoản phí hoa hồng và chi phí về thời gian. Xét trong bối cảnh đó, một ngân hàng không thể đứng ngoài xu hướng chung của thời đại là cùng liên minh và hợp tác. Sự hợp tác mang lại những cơ hội giao lưu, học hỏi và nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Cùng với định hướng phát triển xuất khẩu và hội nhập ngày càng sâu rộng vào hệ thống tài chính toàn cầu, các n...

doc68 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hệ thống ngân hàng đại lý tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO đã mang lại cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển mới. Quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực không ngừng được đẩy mạnh, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng là một ngành nhạy cảm nhưng rất quan trọng. Chính vì vậy, các giao dịch quốc tế luôn là đối tượng không chỉ các nhà đầu tư quan tâm mà còn được các ngân hàng đặc biệt chú trọng. Hệ thống ngân hàng địa phương và thế giới phát triển đã góp phần đẩy mạnh các giao dịch không bằng tiền mặt thông qua ngân hàng nhằm cắt giảm tối đa các khoản phí hoa hồng và chi phí về thời gian. Xét trong bối cảnh đó, một ngân hàng không thể đứng ngoài xu hướng chung của thời đại là cùng liên minh và hợp tác. Sự hợp tác mang lại những cơ hội giao lưu, học hỏi và nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Cùng với định hướng phát triển xuất khẩu và hội nhập ngày càng sâu rộng vào hệ thống tài chính toàn cầu, các ngân hàng Việt Nam cũng đang không ngừng hợp tác và liên kết với các tổ chức nước ngoài nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hỗ trợ các chính sách của Chính Phủ. Một hình thức hợp tác phổ biến hiện nay của các ngân hàng Việt Nam là việc thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với đối tác là các ngân hàng nước ngoài. Quan hệ đại lý tốt sẽ giúp ngân hàng phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại và tạo điều kiện để các ngân hàng Việt Nam mở rộng thị trường. Chính vì vậy, việc xây dựng và thiết lập quan hệ đại lý với các ngân hàng trong và ngoài nước đang trở thành định hướng phát triển của các ngân hàng thương mại hiện nay. Khóa luận tốt nghiệp ra đời trong hoàn cảnh đó với hy vọng làm rõ tầm quan trọng của việc thiết lập quan hệ đại lý với các ngân hàng đối tác nói chung và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. 2. Hoàn cảnh nghiên cứu đề tài Khóa luận thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế mở đang hội nhập trong giai đoạn Việt Nam đang tiếp tục thực hiện những cam kết theo lộ trình của WTO và nền kinh tế đang hồi phục sau những tác động của cuộc khủng hoảng cuối năm 2007 đầu năm 2008. Đồng thời, trong thời gian thực tập, tác giả nhận thấy nhu cầu chuyển tiền thanh toán ra nước ngoài của người dân là rất cao và các ngân hàng vì muốn giữ chân khách hàng nên đã có sự tập trung về vấn đề thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với các ngân hàng nước ngoài. Chính vì vậy tác giả mong muốn nội dung khóa luận sẽ mang tính khả thi và có thể áp dụng trong thời gian sắp tới nhằm phát triển mạng lưới đại lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận tập trung làm rõ các lý luận về nghiệp vụ ngân hàng đại lý và việc xây dựng quan hệ đại lý giữa các ngân hàng trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm, thực trạng hiện nay của các ngân hàng Việt Nam có tham chiếu với sự phát triển chung của hoạt động đại lý từ các ngân hàng nước ngoài. Với mục tiêu này, khóa luận đưa ra các nhiệm vụ sau: - Làm rõ khái niệm ngân hàng đại lý, các nghiệp vụ liên quan và việc thiết lập quan hệ đại lý với các ngân hàng đối tác. - Tìm hiểu thực tiễn phát triển quan hệ đại lý của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay để phân tích những lợi thế và khó khăn mà các ngân hàng đang gặp - Đề ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển và củng cố quan hệ đại lý với các ngân hàng đối tác trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập cùng kinh tế thế giới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu về hoạt động ngân hàng đại lý – một nhánh của lĩnh vực quan hệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Đối tượng chủ yếu là tình hình thiết lập quan hệ đại lý của các ngân hàng thương mại và các chiến lược giúp ngân hàng nhanh chóng đẩy mạnh liên kết với các ngân hàng đối tác khác. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định là lĩnh vực ngân hàng quốc tế trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập, đặc biệt là Việt Nam sau gia nhập WTO. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tổng hợp và phân tích đối với các tư liệu, khái quát thành các bảng và biểu đồ kết hợp dùng mô hình SWOT trong phân tích ưu, nhược điểm về hoạt động ngân hàng đại lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam. 6. Bố cục đề tài: Đề tài chia thành 3 chương chính: Chương 1: Lý luận chung về ngân hàng đại lý và nghiệp vụ ngân hàng đại lý Chương 2: Thực trạng phát triển quan hệ đại lý của ngân hàng Việt Nam Chương 3: Giải pháp nhằm phát triển quan hệ đại lý cho các ngân hàng Việt Nam CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG ĐẠI LÝ VÀ NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG ĐẠI LÝ 1.1. Khái niệm và đặc điểm ngân hàng đại lý Một ngân hàng đại lý (ngân hàng đóng vai trò ngân hàng đại lý) là một ngân hàng địa phương tại một nơi nào đó cung cấp dịch vụ cho ngân hàng khác [12]. Như vậy: Ngân hàng đại lý là ngân hàng đóng vai trò đại lý cho một ngân hàng khác ở nước ngoài và thay mặt cho ngân hàng này thực hiện một số dịch vụ ngân hàng như đã thỏa thuận. Ngân hàng đại lý giữ chức năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng mà nó nhận làm đại lý. Một ngân hàng có thể đóng vai trò ngân hàng đại lý cho nhiều ngân hàng, hoặc có thể có nhiều đại lý tại các ngân hàng khác. Các giao dịch thanh toán quốc tế được thực hiện chủ yếu bằng chuyển khoản qua ngân hàng, bù trừ lẫn nhau trên các tài khoản mở tại các ngân hàng. Ngân hàng đại lý có các đặc điểm sau: Khách hàng của ngân hàng đại lý là các ngân hàng thương mại hoặc các định chế tài chính trung gian. Mối quan hệ giữa ngân hàng thương mai và các ngân hàng đại lý của mình là quan hệ đối tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Thông qua một thỏa ước ngân hàng đã ký kết có quy định rõ về các trách nhiệm và quyền hạn, ngân hàng đại lý sẽ tiến hành cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu. Đối tượng phục vụ của ngân hàng đại lý là khách hàng của các ngân hàng thương mại mà nó có quan hệ đại lý. Quan hệ đại lý giúp giảm thiểu chi phí hoa hồng và chi phí với thời gian, chính vì vậy khách hàng khi giao dịch với các ngân hàng có quan hệ đại lý với nhau sẽ nhận được nhiều quyền lợi và ưu đãi. Nghiệp vụ ngân hàng đại lý được xem là một trong các giao dịch bán buôn của các ngân hàng thương mại. Phần lớn các nghiệp vụ đại lý sẽ được thực hiện thông qua mạng truyền thông SWIFT với phương thức bù trừ tài khoản. Do vậy, xét về tổng thể, nghiệp vụ ngân hàng đại lý giải quyết phần nào các giao dịch bán buôn giữa các ngân hàng thương mại với nhau nhằm giảm bớt áp lực tiền mặt và củng cố quan hệ đối tác giữa các ngân hàng. Nghiệp vụ ngân hàng đại lý hỗ trợ cho các nghiệp vụ kinh doanh khác như thanh toán, tín dụng, đầu tư, bảo lãnh…Giao thương quốc tế phát triển đặt ra nhu cầu thanh toán rất cao cho các bên đối tác. Bất kỳ hoạt động nào của ngân hàng có tính đến yếu tố xuyên biên đều kết thúc bằng việc chuyển giao và chu chuyển luồng tiền giữa hai ngân hàng. Chính vì vậy, một khi hai ngân hàng có quan hệ đại lý với nhau, nghiệp vụ ngân hàng đại lý sẽ giúp đơn giản hóa cũng như hỗ trợ rất nhiều cho các dịch vụ khác mà ngân hàng đang khai thác. Nghiệp vụ ngân hàng đại lý là một trong những công cụ hữu hiệu trong việc nâng cao tính cạnh tranh của ngân hàng. Hệ thống tài chính toàn cầu phát triển buộc các ngân hàng phải liên kết với nhau - một mặt để mở rộng thị trường và đối tượng khách hàng, mặt khác nhằm nâng cao tính cạnh tranh dựa trên mối quan hệ đại lý đã mở với những ngân hàng khác có uy tín. Thay cho việc phải mở một chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ vấp phải rào cản pháp lý và những quy định của nước sở tại, thiết lập quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài được xem là một trong những phương thức đơn giản, hiệu quả và chi phí thấp khi một ngân hàng có ý định thâm nhập thị trường mới. Chính vì vậy, phân phối dịch vụ thông qua ngân hàng đại lý thường áp dụng đối với những ngân hàng chưa có chi nhánh. Do đó, ngân hàng thường thông qua một ngân hàng có trụ sở tại địa điểm kinh doanh làm đại lý về một nghiệp vụ nào đó và ngân hàng đại lý được hưởng hoa hồng như đại lý thanh toán, đại lý chuyển tiền, sec du lịch. Đây là một trong các loại kênh phân phối có xu thế phát triển cùng với xu thế toàn cầu hóa thị trường tài chính quốc tế. Đồng thời, đây cũng là bước đệm để ngân hàng thăm dò và tìm hiểu văn hóa địa phương cũng như các quy định pháp lý trước khi chính thức thâm nhập thị trường ngoài nước. 1.2. Các loại tài khoản sử dụng trong hoạt động ngân hàng đại lý 1.2.1. Tài khoản Nostro Tài khoản Nostro (Nostro theo tiếng Latin là "của chúng tôi") là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn "của chúng tôi" mở tại ngân hàng đại lý (chúng tôi là chủ tài khoản, còn ngân hàng đại lý là người giữ tài khoản cho chúng tôi) [13]. Tài khoản Nostro có số dư bằng ngoại tệ nên sẽ linh hoạt trong việc thanh toán do không phải mất thời gian và chi phí để chuyển đổi đồng tiền. Trên phương diện Việt Nam, tài khoản Nostro là tài khoản tiền gửi giao dịch vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam mở và duy trì tại các ngân hàng nước ngoài. 1.2.2. Tài khoản Vostro (tài khoản Loro) Tài khoản Vostro (hay còn gọi là tài khoản Loro – theo tiếng Latin là "của các bạn") là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn "của quý vị" mở tại ngân hàng chúng tôi (quý vị là chủ tài khoản, ngân hàng chúng tôi là người giữ tài khoản cho quý vị). Tài khoản Vostro có số dư bằng nội tệ [13]. Trên thực tế, thuật ngữ Nostro và Vostro thường dễ gây nhầm lẫn và thường gọi chung là tài khoản Nostro khi muốn nói về tài khoản một ngân hàng khác mở tại ngân hàng đang xem xét. Tài khoản Nostro hay tài khoản Vostro có thể được duy trì bằng một ngoại tệ tự do chuyển đổi được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế. Điều này là phổ biến đối với các nước có đồng tiền chưa được tự do chuyển đổi phải dùng ngoại tệ mạnh trong thanh toán quốc tế. Nếu tiền được chuyển từ Việt Nam cho nước ngoài thì: Trường hợp tiền chuyển là ngoại tệ, tài khoản Nostro sẽ được sử dụng bằng cách ghi nợ tài khoản Nostro. Trường hợp tiền chuyển là nội tệ, tài khoản Vostro sẽ được sử dụng bằng cách ghi có tài khoản Vostro. 1.3. Phương thức thông tin liên lạc của ngân hàng đại lý Trong hoạt động ngân hàng quốc tế, mỗi quốc gia sẽ có một nền tảng công nghệ riêng để phục vụ cho hoạt động thanh toán của mình. Nền tảng công nghệ nếu quy chuẩn và hiệu quả sẽ trở thành những hệ thống thanh toán chung được mọi người chấp nhận. Một số hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng tại một số quốc gia lớn như sau [11]: 1.3.1. CHIPS - Hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng tại Mỹ Là hệ thống thanh toán chuyển tiền qua hệ thống máy tính giữa các ngân hàng của CHIPCo. (The Clearing House Interbank Payment Company), một công ty thành lập bởi hiệp hội thanh toán bù trừ NewYork và các Ngân hàng thành viên tham gia hiệp hội này. CHIPS là một hệ thống thanh toán mạng lưới đa phương, ghép lệnh liên tục và tức thời nghĩa là các lệnh thanh toán nhận được trong giờ làm việc của CHIPS (từ 12:30 A.M. đến 5:00 P.M., giờ NewYork) sẽ được xử lý và thực hiện ghi có gần như ngay lập tức cho Ngân hàng hưởng lợi. Để thực hiện thanh toán thông qua CHIPS, ngân hàng được ghi có phải có mã CHIPS. Các ngân hàng thành viên của CHIPS tại Mỹ có mã CHIPS Participant (CHIPS ABA) gồm 4 chữ số. Các ngân hàng ngoài nước Mỹ có tài khoản tại một ngân hàng thành viên của CHIPS tại Mỹ hoặc các chi nhánh, phòng ban của ngân hàng thành viên CHIPS tại Mỹ nhưng có tài khoản độc lập sẽ có CHIPS UID (CHIPS Universal Identifier). Mỗi ngân hàng, chi nhánh, phòng ban có tài khoản độc lập chỉ có một số CHIPS duy nhất, khi nhận được điện thanh toán chuẩn có số CHIPS này, hệ thống CHIPS sẽ xử lý tự động và tự động ghi có vào tài khoản đó. Hệ thống thanh toán bù trừ CHIPS là hệ thống thanh toán đồng USD lớn nhất hiện nay, thực hiện 90% các khoản thanh toán bằng đồng USD trên toàn thế giới. 1.3.2. CHAPS - Hệ thống thanh toán bù trừ tự động tại Anh CHAPS là một hình thức thanh toán được đưa ra bởi một số chi nhánh ngân hàng hối đoái (các ngân hàng thanh toán của Anh Quốc) vào năm 1984. Đây là một hình thức thanh toán liên ngân hàng trực tuyến áp dụng cho việc chuyển khoản những khoản tiền có giá trị lớn và được bảo đảm nội trong một ngày. Trước năm 1984, những hình thức thanh toán kiểu như này thường được thực hiện bởi việc các đại diện ngân hàng trực tiếp đi đến các ngân hàng khác nhau trong thành phố London để tiến hành giao dịch. Tuy nhiên, trước sự tăng khá nhanh của lượng tiền và số lần giao dịch, người ta nhận thấy rằng cần phải có một hệ thống thanh toán phù hợp hơn. Các ngân hàng và các công ty muốn tham gia CHAPS phải trở thành thành viên của các ngân hàng thanh toán. Điều này cho phép họ kết nối hệ thống máy tính của doanh nghiệp với hệ thống CHAPS của ngân hàng dưới hình thức gói phần mềm Gateway và Dịch vụ PSS. Lượng giao dịch thông qua CHAPS đã tăng lên rõ rệt kể từ khi hình thức này được giới thiệu. Số tiền tối đã cho mỗi lần giao dịch là không hạn chế và số tiền tối thiểu hiện nay là 5000 USD. Trung bình mỗi ngày có khoảng 16000 giao dịch được thực hiện với tổng giá trị khoảng 50 tỷ USD. Mỗi ngân hàng thanh toán có một hệ thống máy tính TANDEM chuyên theo dõi thông tin về các lần giao dịch. Thông số của các lần thanh toán sẽ được thẩm định và sau đó mã hóa và chuyển đến ngân hàng có liên quan thông qua hệ thống cổng thông tin và điện thoại. Ngân hàng tiếp nhận sẽ giải mã để có thông tin về các khoản thu này. Ngân hàng thanh toán tiền cũng có thể gửi kèm một “Thư tham vấn” để xác minh rõ về khoản phải tiền chi trả này. Ngân hàng thông báo sau đó sẽ gọi điện cho người hưởng lợi và thông báo rằng tiền của họ đã được gửi đến. Người thụ hưởng cũng có thể theo dõi xem tiền đã đến nơi chưa thông qua hệ thống máy tính riêng của họ có kết nối với ngân hàng. 1.3.3. BOJNET - Trung tâm thanh toán bù trừ JPY tại Tokyo của NHTW Nhật BOJ-NET là một hệ thống thanh toán điện tử do ngân hàng trung ương Nhật Bản BOJ vận hành. Mục tiêu thiết kế của hệ thống này là: bảo đảm tính an toàn và ổn định của việc quyết toán; khai thông quy trình quyết toán và tăng cường hiệu quả của việc quyết toán; và phục vụ với tư cách là cơ sở hạ tầng quyết toán thích hợp với các chuẩn mực quốc tế. BOJ-NET bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1988, tới cuối năm 2000, 511 định chế tài chính bao gồm các ngân hàng, các công ty chứng khoán đã tham gia hệ thống. Trụ sở chính, các chi nhánh và các thành viên của BOJ-NET được kết nối với trung tâm máy tính tại Tokyo bằng đường truyền liên lạc viễn thông, thông qua đó dữ liệu được gửi tới trung tâm máy tính để xử lý trực tuyến. Về nguyên tắc, các thành viên truy cập vào BOJ-NET sử dụng các các thiết bị đầu cuối dành riêng của BOJ-NET, nhưng một kết nối trực tiếp giữa BOJ-NET và các hệ thống máy tính của bản thân các thành viên đồng thời cũng sẵn sàng để xử lý khối lượng giao dịch lớn. Để bảo đảm an toàn trong chuyển tiền và giao dịch chứng khoán, thiết bị chính và các chu trình của BOJ-NET được nhân bản như một biện pháp an toàn để gia tăng sự tin cậy. Ngân hàng trung ương có các phương tiện máy tính dự phòng cho trung tâm máy tính ở Osaka. Trung tâm máy tính, với sự trợ giúp của chi nhánh Osaka, quản lý việc vận hành của BOJ-NET để xác định bất kỳ một lỗi hệ thống nào và tiến hành các biện pháp cần thiết nếu cần khi có vấn đề xảy ra. Ngân hàng trung ương đồng thời sử dụng mật mã, thẻ ID, và mã hóa dữ liệu để bảo đảm an toàn cho các thông tin trao đổi qua mạng và ngăn chặn gian lận. 1.3.4. SWIFT – Hệ thống viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu 1.3.4.1. Giới thiệu chung về SWIFT SWIFT là Hiệp hội viễn thông liên ngân hàng và các tổ chức tài chính quốc tế (Society for Worldwide Interbank and Finacial Telecommunication). Đây là một hiệp hội mà thành viên là các ngân hàng và các tổ chức tài chính, mỗi ngân hàng tham gia là một cổ đông của SWIFT. SWIFT cung cấp các dịch vụ truyền thông an ninh và phần mềm giao diện cho các cơ quan chuyên bán buôn tài chính. SWIFT là nhà cung cấp sự an toàn, dịch vụ chuẩn hóa và phần mềm giao diện cho các quốc gia và lãnh thổ. Thành viên của SWIFT bao gồm các ngân hàng, nhà môi giới, nhà quản lý đầu tư. Cộng đồng của SWIFT cũng bao gồm các công ty cũng như cơ sở hạ tầng ngân hàng trong việc thanh toán, đảm bảo, ngân khố và thương mại. Phương châm hoạt động của hiệp hội là phục vụ các ngân hàng, không phải mục tiêu lợi nhuận. Cho đến thời điểm này SWIFT đã liên kết gần 8100 tổ chức tài chính trên 207 quốc gia và vùng lãnh thổ. SWIFT hoạt động theo luật pháp của Bỉ và được sở hữu bởi các thành viên là các tổ chức tài chính, ngân hàng tham gia vào nó. Trụ sở chính của SWIFT đặt tại La Hulpe, gần thủ đô Brussels, vương quốc Bỉ và có văn phòng tại khắp nơi trên thế giới. SWIFT được thành lập tại Brussels năm 1973 dưới sự hỗ trợ của 239 ngân hàng của 15 nước và bắt đầu thiết lập các chuẩn chung cho giao dịch tài chính, chia sẻ hệ thống xử lý dữ liệu và mạng viễn thông toàn cầu. Năm 1974, SWIFT đưa ra các thủ tục và quy tắc pháp lý và đến năm 1977, thông điệp đầu tiên đã được gửi đi trên mạng SWIFT. Lý do sử dụng SWIFT của các ngân hàng trên thế giới là do SWIFT có các ưu điểm: SWIFT là một mạng truyền thông chỉ sử dụng trong hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính nên tính bảo mật cao và an toàn Tốc độ truyền thông tin nhanh cho phép có thể xử lý được số lượng lớn giao dịch Chi phí cho một điện giao dịch thấp Sử dụng SWIFT sẽ tuân theo tiêu chuẩn thống nhất trên toàn thế giới. Đây là điểm chung của bất cứ ngân hàng nào tham gia SWIFT có thể hòa đồng với cộng đồng ngân hàng trên thế giới Tuy nhiên, SWIFT chỉ là một trong các phương tiện truyền tin trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế và bên cạnh đó vẫn phải sử dụng các phương tiện truyền tin khác như Telex và thư tín. Như vậy khi tham gia vào hệ thống SWIFT, mỗi ngân hàng cần phải có một địa chỉ SWIFT cụ thể hay gọi là BIC (Bank identifier Code). Thông qua địa chỉ này, các ngân hàng có thể trao đổi nghiệp vụ TTQT và các dịch vụ khác do SWIFT cung cấp. Trên thực tế, sự phát triển trong kinh doanh của SWIFT là một con số kinh khủng, một bài toán nhỏ để có thể tính được doanh thu 1 ngày của SWIFT trung bình ít nhất là 200 triệu USD (60000 định chế tài chính tham gia * trung bình 10 000 usd/tháng), giá một bức điện SWIFT trung bình là 0.25USD/điện , giá này tùy thuộc vào lượng điện giao dịch 1 ngày và hệ thống phiên bản ứng dụng SWIFT đang sử dụng. Do tính chất là điều khiển luồng tiền của cả thế giới nên tính bảo mật của SWIFT có thể nói là bậc nhất trên thế giới, hacker chưa bào giờ tấn công được vào hệ thống này. 1.3.4.2. Các quy định chuẩn hóa của SWIFT Căn cứ vào Hệ thống tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO, SWIFT bao gồm các quy chuẩn sau: - Tiêu chuẩn ISO 9362-2009 (sửa đổi bổ sung ISO 9362-1994) về cấu trúc mã SWIFT: là tiêu chuẩn được Hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO xác nhận nhằm quy định cấu trúc chuẩn của mã SWIFT (hay còn gọi là SWIFT code, SWIFT-BIC, BIC code, SWIFT ID) Địa chỉ BIC có hai loại, loại 8 ký tự dùng cho các ngân hàng độc lập và loại 11 ký tự dùng cho các chi nhánh, ngoài ra không có loại nào khác. Loại 8 ký tự: XXXX XX XX (Bank-code) (Country-code) (Area-code) Ví dụ 1: Deutsche Bank là một ngân hàng quốc tế có tổng hành dinh ở thành phố Frankfurt, nước Đức. Mã SWIFT cho chi nhánh chính của ngân hàng này là: DEUT DE FF Giải thích: DEUT nhận diện Deutsche Bank DE là mã nhận diện nước Đức, Deutschland trong tiếng Đức FF là mã nhận diện thành phố Frankfurt Ví dụ 2: Mã SWIFT của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) ở Hà Nội: BFTV VN VX Giải thích: BFTV nhận diện Bank for Foreign Trade of Vietnam VN là mã nhận diện nước Việt Nam VX là mã nhận diện bất cứ thành phố nào ở Việt Nam Loại 11 ký tự: là địa chỉ SWIFT thường được dành cho các chi nhánh, giống loại 8 ký tự nhưng có thêm ba ký tự phía sau để phân biệt các chi nhánh. XXXX XX XX XXX Bank Country Area Branch Ví dụ: VIETCOMBANK CAN THO - Swift code: BFTV VN VX 011 VIETCOMBANK DA NANG - Swift code: BFTV VN VX 004 - Tiêu chuẩn ISO 15022-1999 về cấu trúc mẫu điện (thay thế cho tiêu chuẩn ISO 7775) Các thành viên trao đổi thông tin hoặc thực hiện chuyển tiền cho nhau dưới dạng các SWIFT message là các bức điện được chuẩn hóa dưới dạng các trường dữ liệu, ký hiệu để máy tính có thể nhận biết và tự động xử lý giao dịch. Tất cả các mẫu điện được phân chia thành 10 nhóm điện, mỗi nhóm điện được sử dụng cho một phương thức TTQT hoặc một loại giao dịch ngân hàng quốc tế. Ví dụ: Nhóm 3 sử dụng cho mua bán ngoại tệ Nhóm 7 sử dụng cho thư tín dụng và bảo lãnh Nhóm 1 sử dụng cho chuyển tiền phục vụ khách hàng Trong mỗi nhóm điện lại bao gồm nhiều mẫu điện sử dụng cho từng trường hợp khác nhau Ví dụ: Các bức điện nhóm 7 dùng để phát hành thư tín dụng dùng mẫu điện 700 và 701 Cấu trúc của mẫu điện SWIFT gồm 3 phần: Phần đầu điện (header) chứa các thông tin sau: Loại điện giao dịch Ngân hàng gửi và ngân hàng nhận điện Giờ gửi và giờ nhận điện Xác nhận tình trạng điện Tham chiếu điện gửi và điện nhận. Phần nội dung điện (Text) : phần này chứa đựng nội dung giao dịch, nó bao gồm các trường với các khuôn dạng và các tiêu chuẩn được quy định bởi tổ chức SWIFT. Phần kiểm tra khóa SWIFT: phần này chỉ ra kết quả kiểm tra mã SWIFT tại sở giao dịch và ngân hàng đại lý. Tiêu chuẩn ISO 20022-1:2004 và ISO 20022-2:2007 quy định về các mẫu điện và quy trình giao dịch trong giao dịch tài chính toàn cầu. Tiêu chuẩn ISO 13616-2003 quy định về mã tài khoản ngân hàng trong giao dịch thanh toán quốc tế nhằm tránh những rủi ro trong quá trình sao chép và truyền dữ liệu. Tiêu chuẩn ISO 10383-2003 quy định về mã nhận diện thị trường và các giao dịch ngoại hối. 1.4. Nghiệp vụ ngân hàng đại lý Nghiệp vụ ngân hàng đại lý là nghiệp vụ liên quan đến việc xử lý các giao dịch phát sinh giữa hai ngân hàng có thiết lập quan hệ đại lý hoặc giữa ngân hàng với khách hàng của ngân hàng đại lý đối tác. Một số nghiệp vụ ngân hàng đại lý cơ bản [11] như sau: 1.4.1. Thanh toán bù trừ Thanh toán bù trừ trong hoạt động ngân hàng đại lý là việc chỉ thanh toán phần chênh lệch giữa các giao dịch mua và các giao dịch bán có cùng cặp tiền tệ hoặc của một loại tiền tệ của nhiều cặp tiền tệ khác nhau, cùng ngày giá trị thanh toán giữa ngân hàng với ngân hàng đại lý. Tiền tệ được sử dụng trong thanh toán bù trừ là đồng tiền clearing tức là đồng tiền không được chuyển đổi ra bất kỳ đồng tiền nào khác, không được chuyển khoản sang các tài khoản khác, bên nào dư nợ sẽ phải trả bằng ngoại tệ tự do hoặc chuyển sang tài khoản vay nợ năm sau. Tùy theo sự thỏa thuận của hai bên, tiền tệ clearing có thể được lựa chọn là tiền tệ của một trong hai nước của hai bên hoặc tiền tệ của nước thứ ba. Với phương thức thanh toán này có thể qui định cả hai bên phải mở tài khoản hoặc chỉ cần một bên mở tài khoản. 1.4.2. Tín dụng quốc tế 1.4.2.1. Cho vay các ngân hàng thương mại Quan hệ đại lý giúp các ngân hàng phá vỡ khoảng cách địa lý. Trong trường hợp một ngân hàng thiếu hụt ngoại tệ trên tài khoản Nostro tại ngân hàng đại lý nước ngoài, ngân hàng đại lý này có thể xem xét và cho ngân hàng đối tác vay toàn bộ hoặc vay hỗ trợ một phần lượng ngoại tệ cần thiết thanh toán. 1.4.2.2. Cho vay hợp vốn Cho vay hợp vốn (hay còn gọi là đồng tài trợ) là hình thức cho vay do một nhóm các tổ chức tài chính cùng liên kết lại để tập hợp vốn cho một khách hàng vay và trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối hợp các bên tài trợ khác để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tham gia thường là các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, ngân hàng đầu tư và các tổ chức tài chính khác. Trong quan hệ đại lý giữa các ngân hàng, nghiệp vụ cho vay hợp vốn được tiến hành trong các trường hợp sau: Nhu cầu vốn vay hoặc bảo lãnh của chủ đầu tư vượt quá giới hạn tối đa cho phép cho vay của một tổ chức tín dụng. Các ngân hàng muốn phân tán rủi ro trong kinh doanh. Khả năng nguồn vốn của một tổ chức tín dụng không đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án. Cho vay hợp vốn phần lớn được sử dụng trong những tổ chức cho vay rất lớn, việc liên kết với nhau cho phép một tổ chức có thể cung cấp một khoản vay lớn mà vẫn đảm bảo và kiểm soát được nguồn tín dụng cho vay và chia sẻ rủi ro giữa các ngân hàng, bởi vì số tiền đó là của nhiều ngân hàng gộp lại. 1.4.3. Tài trợ ngoại thương Tín dụng ngân hàng quốc tế thường do các ngân hàng thương mại cung cấp nhằm tài trợ cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và hoạt động đầu tư nước ngoài. Loại hình này được thực hiện dưới các hình thức phổ biến sau: 1.4.3.1. Tài trợ xuất khẩu Bao gồm các dịch vụ cơ bản Bao thanh toán quốc tế: Là nghiệp vụ bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất khẩu hàng hóa mà khách hàng và con nợ là những doanh nghiệp ở các nước khác nhau mà ngân hàng của hai bên có quan hệ đại lý. Vai trò của đơn vị bao thanh toán là thu tiền nợ nước ngoài bằng việc tiếp cận với nhà xuất khẩu tại đất nước của mình và truy đòi lại nhà nhập khẩu hoặc ngân hàng của nhà nhập khẩu. Chiết khấu bộ chứng từ theo phương thức tín dụng chứng từ: Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất phẩu sau khi giao hàng có thể thương lượng với ngân hàng để ngân hàng thực hiện chiếu khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền trước khi bộ chứng từ được thanh toán. Sau đó, ngân hàng sẽ chủ động theo dõi và nhận lại tiền từ ngân hàng xuất trình – lúc này đóng vai trò là ngân hàng đại lý của ngân hàng đó tại nước nhà nhập khẩu. Cho vay trên cơ sở chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu: Khi ngân hàng xử lý bộ chứng từ và gửi đi nhờ thu, ngân hàng sẽ cung cấp một khoản ứng trước theo tỷ lệ phần trăm thỏa thuận dựa trên các khoản nhờ thu tồn đọng chưa nhận được tiền cho nhà xuất khẩu. Phương thức này tương tự hình thứ chiết khấu bộ chứng từ theo phương thức tín dụng chứng từ. Đối với loại hình này, vì rủi ro rất cao nên lãi xuất nợ cũng cao hơn so với các hình thức tài trợ khác, đôi khi ngân hàng yêu cầu nhà xuất khẩu phải có tài sản đảm bảo là chứng từ gửi hàng mang lại quyền kiểm soát hàng hóa cùng tờ hối phiếu đang trong quá trình nhờ thu. 1.4.3.2. Tài trợ nhập khẩu Bao gồm các dịch vụ ngân hàng thương mại cho bên nhập khẩu vay bằng việc ngân hàng chấp nhận trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc bảo lãnh vay vốn nước ngoài, ký quỹ mở L/C... 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng đại lý Hoạt động ngân hàng đại lý là sự khởi đầu của việc thiết lập quan hệ hợp tác song phương giữa hai ngân hàng bằng sự trao đổi SWIFT CODE và các hồ sơ pháp lý cho nhau nhằm mục đích phục vụ các hoạt động thanh toán quốc tế. Một mạng lưới ngân hàng đại lý rộng rãi mang lại cho bản thân mỗi ngân hàng nhiều tiện ích về năng lực thanh toán cũng như khả năng cạnh tranh. Bên cạnh liên kết với các ngân hàng địa phương trong nước, hầu hết các ngân hàng thương mại nước ta hiện nay đều chú trọng mở rộng quan hệ đại lý với một số ngân hàng nước ngoài có uy tín. Đây cũng là một bước ngoặt tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế ngày càng cao. Tuy nhiên, liên kết tài khoản với ngân hàng đại lý buộc các ngân hàng thương mại hiện nay phải duy trì một số dư tối thiểu – điều này phần nào đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản nhanh của các ngân hàng. 1.5.1. Hành lang pháp lý Đây chính là khía cạnh ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động đại lý của các ngân hàng nói riêng. Khuôn khổ luật pháp sẽ quy định những điều kiện, chức năng và giới hạn cho các hoạt động riêng biệt trong lĩnh vực ngân hàng đại lý. Cơ chế Luật siết chặt hay nới lỏng là tùy thuộc vào mỗi hoàn cảnh kinh tế khác nhau tạo ra những điểm thuận lợi, bất lợi và những thời cơ, thách thức khác nhau cho mỗi ngân hàng. Trên quan điểm của nhà làm luật, những quy định này nhằm mục tiêu ổn định và cân bằng nền kinh tế; nhưng trên quan điểm của các ngân hàng, đây vừa có thể là rào cản, vừa có thể là cơ hội phát triển. Do đó, các hoạt động ngân hàng – ngành tài chính nhạy cảm – đều phải tuân theo quy định luật pháp và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những thay đổi trong chính sách của Chính phủ. Thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý được thực hiện trên cơ sở một Thỏa ước ngân hàng, gồm các nội dung chủ yếu: Các mẫu chữ ký có liên quan, khóa mã Telex, Swift (nếu có) Các điều kiện kinh doanh tổng quát: các nghiệp vụ mà các NHĐL có thể cung cấp cho nhau và cách thực hiện các giao dịch này. Các điều khoản và điều kiện khác Danh mục ngân hàng đại lý Báo cáo thường niên và các văn bản thông tin khác Hợp đồng tín dụng (gồm thỏa thuận về hạn mức tín dụng trong thời gian luân chuyển chứng từ qua bưu điện, hạn mức tín dụng cho việc xác nhận chứng từ, đảm bảo cho các hối phiếu được xác nhận, tỷ lệ ký quỹ, phí thanh toán,…) 1.5.2. Công nghệ Hoạt động ngân hàng đại lý giải quyết những giao dịch liên hàng giữa hai hoặc nhiều ngân hàng tại những quốc gia khác nhau nên đòi hỏi một nền tảng công nghệ tiên tiến và chuẩn xác. Mặt khác, công nghệ cũng chính là kênh truyền tải thông tin liên lạc giữa các ngân hàng đại lý trong quá trình thực hiện và xử lý giao dịch. Trình độ công nghệ sẽ quyết định khả năng hội nhập của các ngân hàng Việt Nam với các ngân hàng đối tác nước ngoài. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ của các ngân hàng ở các mức độ khác nhau, tạo sự chênh lệch khá cao về trình độ công nghệ ở một số ngân hàng. Nói đến công nghệ thì phải đảm bảo được hai vấn đề. Một là công nghệ phải hiện đại, đảm bảo các yêu cầu quản lý nội bộ, đáp ứng các giao dịch kinh doanh, quản trị rủi ro, quản trị thanh khoản, có khả năng kết nối thông suốt với các ngân hàng. Hai là, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên cơ sở phải quản lý, phòng chống được rủi ro, bảo mật và an toàn trong hoạt động.  Xác định đúng tầm quan trọng của công nghệ và việc hiện đại hoá công nghệ là một trong những điều kiện cơ bản để hướng tới việc đảm bảo các chuẩn mực quốc tế của các NHTM Việt nam trong quá trình cạnh tranh và hội nhập. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là điều tất yếu phù hợp với tiềm lực tài chính của ngân hàng, phù hợp với mặt bằng chung về công nghệ của đất nước, đảm bảo xu thế chung của khu vực và quốc tế.  Do đó có thể nói sự phát triển về công nghệ là điều kiện cần đối với việc mở rộng quan hệ đại lý của các ngân hàng Việt Nam. 1.5.3. Nguồn nhân lực Yếu tố con người luôn là vấn đề trung tâm trong mọi chiếc lược quản lý và phát triển. Bên cạnh sự phát triển công nghệ, vấn đề nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên cũng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng. Hệ thống ngân hàng được xem là một “hệ thống băng chuyền” có nhiệm vụ chuyển tải chính sách tiền tệ đến với thị trường và hiệu quả của chính sách phần lớn do con người của ngân hàng tạo ra. Một khi khách hàng bắt đầu cho rằng giao dịch với con người trong ngân hàng là yếu tố quan trọng để họ tiếp tục giao dịch với ngân hàng thì hệ thống ngân hàng và từng ngân hàng cũng sẽ phải nhanh chóng đáp ứng lại bằng cách nhìn lại và nhìn khác hơn về vấn đề con người. Xây dựng và có được đội ngũ kinh tế ngân hàng sẽ tăng khả năng và chất lượng phục vụ khách hàng, đồng thời sẽ tạo được vị trí và hình ảnh của ngân hàng qua sự hài lòng của khách hàng. Chính vì vậy, nếu vấn đề công nghệ là điều kiện cần thì vấn đề con người chính là điều kiện đủ cho việc phát triển và mở rộng quan hệ đại lý của các ngân hàng Việt Nam. 1.5.4. Lựa chọn ngân hàng đại lý Tiêu chí lựa chọn các ngân hàng đại lý thực hiện giao dịch liên hàng – nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động ngân hàng quốc tế [13] như sau: Là ngân hàng có mạng lưới rộng khắp trong nước và nước ngoài Là ngân hàng có quan hệ đại lý rộng với nhiều ngân hàng tại các quốc gia khác nhau và có kế hoạch quản lý và sử dụng tốt các tài khoản Nostro Là ngân hàng có quy mô lớn, nền tảng công nghệ tiên tiến và là thành viên tham gia SWIFT Là ngân hàng có uy tín và có kinh nghiệm trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ ĐẠI LÝ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng Sau 2 năm gia nhập WTO, hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam đã góp phần thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa nhằm tăng cường vị thế và uy tín của Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng trong khu vực và trên thế giới. Một số kết quả đã đạt được như sau: Thứ nhất, thực hiện đầy đủ và hiệu quả các cam kết gia nhập WTO trong lĩnh vực ngân hàng Thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO, NHNN đã ban hành Chương trình hành động của NHNN thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ sau khi Việt Nam gia nhập WTO giai đoạn 2007 – 2012. Đến nay, NHNN đã sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo hướng minh bạch hoá chính sách, tuân thủ các nguyên tắc thị trường và cam kết quốc tế nhằm tạo môi trường hoạt động kinh doanh ngày càng thông thoáng, thuận lợi cho các TCTD hoạt động tại Việt Nam; trong đó NHNN đã tích cực triển khai tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật NHNN và Luật các TCTD. Thực hiện các cam kết gia nhập WTO liên quan đến tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, NHNN đã triển khai các hành động cụ thể: - Về việc thiết lập hiện diện thương mại của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam: Hiện nay, NHNN đang hoàn tất trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại; đang hoàn thiện Thông tư sửa đổi Thông tư 03/2007/TT-NHNN hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 22/2006/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt nam, quyết định sửa đổi nội dung Giấy phép mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài và giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh, và ban hành quy chế quy định về việc mở và quản lý hoạt động của văn phòng đại diện, chi nhánh của các tổ chức nước ngoài không phải là tổ chức tín dụng có hoạt động ngân hàng. Riêng trong năm 2008, NHNN đã cấp phép thành lập và hoạt động cho 5 NH 100% vốn nước ngoài là HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong, cấp phép hoạt động cho 4 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 3 công ty tài chính 100% vốn nước ngoài; cấp phép mở 6 văn phòng đại diện và thu hồi giấy phép 2 văn phòng đại diện khác. - Về việc tham gia cổ phần, góp vốn dưới hình thức mua cổ phần và phát hành thẻ tín dụng của các tổ chức tín dụng nước ngoài: Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 của Chính phủ về việc Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTM Việt Nam và Thông tư số 07/2007/TT-NHNN ngày 29/11/2007 của NHNN hướng dẫn thi hành một số nội dung Nghị định số 69/2007/NĐ-CP đã tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam. Các NHTM đã kêu gọi vốn đầu tư từ các ngân hàng nước ngoài và đây được xem là một trào lưu mới của hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam. - Về việc chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng: nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho khu vực ngân hàng, NHNN đã có văn bản hướng dẫn các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nhận tiền gửi bằng tiền đồng. Đồng thời, NHNN đã và đang xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định 160/2006/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết việc thi hành Pháp lệnh Ngoại hối, trong đó đã ban hành Thông tư 03/2008/TT-NHNN ngày 11/4/2008 hướng dẫn về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của TCTD và Quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN ngày 11/7/2008 ban hành quy chế đại lý đổi ngoại tệ. Nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là tạo một môi trường bình đẳng giữa các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam, thông qua diễn đàn thường kỳ với Nhóm Công tác Ngân hàng thuộc Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với đại diện của cộng đồng ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trao đổi thẳng thắn và cởi mở về các vấn đề chính sách và kỹ thuật trong hoạt động ngân hàng. Việc đối thoại thường xuyên đã giúp các ngân hàng hiểu rõ các chính sách, quy định của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng, và ngược lại, giúp NHNN nắm bắt được các mối quan tâm và đề xuất của các ngân hàng để từ đó giải quyết kịp thời và hiệu quả những vấn đề còn tồn tại. Những vấn đề được thảo luận tích cực tại diễn đàn này bao gồm: các quy định hướng dẫn trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, tác động của chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá đến hoạt động ngân hàng, phát triển cho vay tiêu dùng… Thứ hai, thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Quan hệ hợp tác song phương giữa NHNN với NHTW các nước trên khắp thế giới tiếp tục phát triển. Chỉ riêng năm 2008, NHNN đã ký văn bản hợp tác với 10 cơ quan quản lý ngân hàng các nước Anh, Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Đài Loan, Úc, Malaysia, Singapore và Nhật Bản. Các văn bản hợp tác này đã tạo cơ sở giúp NHNN xây dựng được kênh thông tin trao đổi 2 chiều hữu ích với cơ quan quản lý của các tổ chức tín dụng có hoạt động tại Việt nam. Trong khuôn khổ triển khai thiết lập các khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Úc, New Zealand và Ấn Độ thông qua việc xây dựng các Hiệp định và Thoả thuận hợp tác kinh tế toàn diện, NHNN đã tham gia tích cực vào các phiên đàm phán với các nước đối tác gồm Úc – New Zealand, EU, Trung Quốc. Tại các phiên đàm phán này, NHNN đã chủ động trao đổi với các đối tác cũng như với các nước ASEAN khác để có thể đạt được các cam kết thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng thuận lợi nhất cho Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam cũng đang chuẩn bị thiết lập đàm phán Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – Chile và xây dựng Hiệp định Đầu tư Việt Nam – Venezuela. Trong hợp tác ASEAN+3, năm 2008 đã đánh dấu một mốc đặc biệt quan trọng với việc Việt Nam là đồng chủ trì với Nhật Bản trong tiến trình hợp tác tài chính ASEAN+3. NHNN cùng với Bộ Tài chính Nhật Bản đã chủ trì thành công các cuộc họp Nhóm đặc trách về Đa phương hoá Sáng kiến Chiềng Mai. Đây là sáng kiến hợp tác giữa các nước ASEAN và Nhật bản, Trung quốc và Hàn quốc nhằm tạo ra cơ chế hỗ trợ cán cân thanh toán trong ngắn hạn khi gặp rủi ro. Trong bối cảnh khó khăn về kinh tế vĩ mô như hiện nay, Sáng kiến này sẽ là nội dung hợp tác quan trọng trong khu vực, góp phần củng cố lòng tin của thị trường vào khả năng hỗ trợ lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên khi một quốc gia thành viên gặp phải khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán. Bảng 2.1. Danh sách các nước và khu vực có quan hệ hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng với Việt Nam Khu vực Bắc Á Mông Cổ Khu vực Đông Bắc Á Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Khu vực Đông Nam Á Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore, Philipines Khu vực Nam Á Ấn Độ, Băngladesh, Pakistan Khu vực Đông Âu Nga, Balan Khu vực châu Âu nói tiếng Pháp Pháp, Luxembourg Các nước châu Âu khác Đức, Thụy Điển, Anh, Thụy Sỹ, Hà Lan, Nauy Khu vực châu Úc Australia Khu vực châu Mỹ Mỹ, Canada, Cuba Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam Trong quan hệ với Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế (MBES) và Ngân hàng Đầu tư Quốc tế (MIB) mà Việt nam là thành viên, NHNN đã tích cực tham gia các hoạt động củng cố và phát triển hoạt động hai ngân hàng này. Đặc biệt, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với Tổ Công tác và Ban lãnh đạo 2 ngân hàng thảo luận xây dựng mục tiêu và chiến lược hoạt động để cơ cấu lại 2 ngân hàng này theo mô hình ngân hàng phát triển quốc tế. 2.2. Hoạt động ngân hàng đại lý của các ngân hàng Việt Nam 2.2.1. Mạng lưới ngân hàng đại lý của một số NHTMCP Theo số liệu tổng hợp từ các báo cáo thường niên của các ngân hàng TMCP, số lượng ngân hàng đại lý tính đến cuối năm 2008 của một số ngân hàng TMCP Việt Nam như sau: Bảng 2.2. Số lượng các NHĐL được thiết lập tại nước ngoài của một số ngân hàng Việt Nam (tính đến 2008) NGÂN HÀNG SỐ LƯỢNG NHĐL QUỐC GIA Vietcombank 1640 230 Eximbank 750 82 Agribank 931 132 Vietinbank 850 80 BIDV 912 - ACB 593 80 Sacombank 756 80 Liên Việt Bank 1001 100 Ngân hàng quân đội 700 75 Nam Á 200 - Phương Đông 251 - VIBank 323 62 Đông Á 742 105 VP Bank 256 73 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng Năm 2008 đánh dấu mốc 2 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và thực hiện các cam kết dịch vụ theo Hiệp định GATS của WTO. Nếu so với các ngân hàng nước ngoài, số lượng ngân hàng đại lý của các ngân hàng Việt Nam vẫn dừng lại ở mức trung bình. Do lợi thế về kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên lĩnh vực tài chính – ngân hàng, các ngân hàng nước ngoài đã sớm thiết lập mạng lưới ngân hàng đại lý trải rộng khắp các châu lục (Citibank đã có trên 5000 ngân hàng đại lý – số liệu năm 2004) và chuyển hướng sang một bước phát triển mới là thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng mình tại nước ngoài. Hoạt động ngân hàng đại lý của các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn đang trong giai đoạn phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu thực của khách hàng và bản thân các ngân hàng trong nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Vấn đề phát triển mạng lưới đại lý của các ngân hàng Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn phát triển theo chiều rộng – nghĩa là tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác và số lượng ngân hàng đại lý được thiết lập với các ngân hàng nước ngoài. Đây là bước phát triển trong giai đoạn đầu khi các ngân hàng Việt Nam chưa có đủ tiềm lực để mở rộng thị trường của mình ở nước ngoài theo hướng thành lập các văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng… Hình 2.1. Biểu đồ phân bổ ngân hàng đại lý theo khu vực của các NHTM Việt Nam Nguồn: [12] Xét về khu vực và vùng lãnh thổ nơi quan hệ đại lý ngân hàng được thiết lập, đa phần các các ngân hàng Việt Nam vẫn chọn các vùng kinh tế lớn như Châu Âu, Châu Mỹ, khu vực Đông Á…Kết quả cho thấy thống kê khu vực và vùng lãnh thổ phân bổ ngân hàng đại lý (Hình 2.1.) và bảng tổng hợp khu vực và các nước có quan hệ hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng với Việt Nam (Bảng 2.1.) đều tương tự nhau. Điều này chứng tỏ hoạt động ngân hàng đại lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã biết chú trọng và tập trung vào những khu vực kinh tế tiềm năng để phát triển mạng lưới đại lý. Lợi thế về thị trường phát triển và hoạt động kinh tế sôi nổi tại các khu vực này sẽ mang lại cho các ngân hàng Việt Nam nhiều cơ hội cọ xát và học hỏi để hoàn thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. 2.2.2. Các nghiệp vụ thực hiện Hoạt động ngân hàng đại lý tại Việt Nam hiện nay chủ yếu thực hiện các giao dịch liên quan đến nghiệp vụ thanh toán bù trừ như chuyển tiền và thanh toán xuất nhập phẩu. Ngoài ra các ngân hàng Việt Nam cũng thực hiện một số giao dịch chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài và đồng tài trợ một số dự án nước ngoài, tuy nhiên số lượng chưa nhiều và cũng chưa có con số thống kê chính xác về các hoạt động này 2.2.2.1. Chuyển tiền kiều hối Từ lâu kiều hối đã được xem là nguồn vốn đầu tư hiệu quả và an toàn. Kiều hối chảy về Việt Nam theo hai kênh: kênh chính thức qua ngân hàng và kênh không chính thức thông qua các tổ chức thanh toán ngoài ngân hàng. Lượng kiều hối chuyển về trong những năm gần đây có mức tăng trưởng khá, chỉ có năm 2009 hơi chững lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến nhiều lao động xuất khẩu mất việc làm và phải trở về Việt Nam. Bảng 2.3. Tốc độ tăng trưởng kiều hối giai đoạn 2005 – 2009 Đơn vị: Tỷ USD Năm 2005 2006 2007 2008 2009 Giá trị kiều hối 4 4.2 6 7.2 6.28 Tốc độ tăng trưởng - 5% 42.8% 20% -12.7% Nguồn: Tổng hợp các báo cáo trên Cổng thông tin điện tử - Thời báo kinh tế Việt Nam Kiều hối sụt giảm trong năm 2009 là điều đã được dự báo trước khi khủng hoảng toàn cầu chưa chấm dứt và tình trạng thất nghiệp ở Mỹ tiếp tục gia tăng. Thu nhập của các kiều bào đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài sụt giảm thì việc chuyển tiền về nước cho người thân sẽ không dồi dào như các năm trước đây. Số lượng lao động xuất khẩu ở các nước cũng giảm trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phải đối mặt với khủng hoảng trong 2 năm qua. Trong khi, đây được xem là phân khúc có tỷ lệ chuyển tiền về nước nhiều trong các năm qua. Bảng 2.4. Doanh số kiều hối qua ngân hàng năm 2008 và 2009 Đơn vị: Triệu USD Năm 2009 Năm 2008 Vietcombank 1 200 1 500 Vietinbank 1 000 920 Sacombank 850 750 Đông Á 1 000 1 180 Nguồn: Tổng hợp các báo cáo trên Cổng thông tin điện tử - Thời báo kinh tế Việt Nam Trong cơ cấu nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam thì 80% là USD, còn lại là các loại ngoại tệ mạnh khác, như: Euro, AUD, CAD, GBP, JPY,...Thông tin Pháp luật Việt Nam cho phép kiều bào được quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam và những bước phát triển trong dịch vụ chuyển kiều hối của các ngân hàng đã khiến mục đích chuyển kiều hối có những thay đổi căn bản từ giúp gia đình chi tiêu, hỗ trợ khó khăn về tiêu dùng sang xu hướng mang tính chất đầu tư vào thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán....Theo nhận định của Phó giám đốc Công ty Kiều hối Đông Á, trong thời gian tới dịch vụ kiều hối sẽ có những biến đổi lớn do sự phát triển của khoa học công nghệ. Nhiều loại hình mới dành cho dịch vụ kiều hối sẽ ra đời, thay thế cho những phương thức chi trả kiều hối truyền thống như dịch vụ chuyển tiền qua điện thoại, chuyển tiền online. Do vậy, về lĩnh vực chi trả kiều hối, các ngân hàng hiện tại đang có sự đầu tư và chuẩn bị cơ sở kỹ thuật và khoa học công nghệ để nhanh chóng tiếp cận và triển khai phương thức chi trả kiều hối mới. Một xu hướng khác là việc mở rộng và phát triển các sản phẩm bán chéo hỗ trợ kiều hối để gia tăng giá trị dịch vụ, tăng tính thuận tiện và đa dạng tiện ích cho khách hàng. 2.2.2.2. Thanh toán xuất nhập khẩu Lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu đóng vai trò lớn trong nền kinh tế nói chung và hoạt động của ngân hàng nói riêng. Các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua 3 nghiệp vụ thanh toán quốc tế cơ bản là L/C, nghiệp vụ nhờ thu và nghiệp vụ chuyển tiền. Theo báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại, nghiệp vụ thanh toán quốc tế chiếm tỷ trọng cao nhất là nghiệp vụ chuyển tiền, tiếp đến là nghiệp vụ L/C và nhờ thu. Hiện tại, Vietcombank vẫn là ngân hàng dẫn đầu trong doanh thu hoạt động thanh toán quốc tế với tỷ trọng gần 20%. Doanh thu từ hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu góp phần mang lại lợi nhuận cho các ngân hàng thông qua chỉ tiêu lãi từ hoạt động thanh toán. Ngoài yếu tố uy tín và quy mô của ngân hàng, các doanh nghiệp xuất khẩu chọn lựa ngân hàng đại diện cho mình còn dựa vào yếu tố quan hệ đại lý của các ngân hàng trong nước với ngân hàng của đối tác người nước ngoài. Giao dịch với các ngân hàng nằm trong mạng lưới đại lý của các ngân hàng Việt Nam sẽ giúp họ tiết kiệm được thời gian và được hưởng những ưu đãi về phí dịch vụ…Chính vì điều này mà vấn đề thiết lập quan hệ đại lý của các ngân hàng Việt Nam cần được chú trọng hơn làm tiền đề để phát triển thị phần thanh toán và tạo cơ hội mở rộng thị trường. Bảng 2.5. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2009 của một số NHTM Đơn vị: Triệu USD Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng cộng Vietcombank 12 460 13 150 25 620 Eximbank 1 093 2 004 3 098 Vietinbank 4 500 7 600 12 100 ACB 5 408 8 112 13 520 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên năm 2009 của các ngân hàng 2.2.2.3. Cho vay hợp vốn Sự hiện diện ngày càng nhiều các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đồng nghĩa với việc mở ra khả năng tiếp cận vốn ngoại dễ dàng hơn với các doanh nghiệp trong nước. Bản thân doanh nghiệp trong nước cũng muốn tiếp cận kênh này vì là vốn nước ngoài nhưng lại được tính khoản vay trong nước, do đó vừa được hưởng giá vốn rẻ hơn mặt bằng lãi suất của ngân hàng nội, lại tránh được khoản phí khấu trừ nguồn 10% đánh vào lãi suất và không phải xin phép NHNN và Bộ Tài chính. Tuy nhiên, thực tế lại không thuận lợi như vậy. Các doanh nghiệp muốn vay cũng không dễ dàng đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của ngân hàng ngoại, thể hiện trong bản báo cáo tài chính và hàng loạt thủ tục trong quá trình đàm phán kéo dài 3-5 tháng cho một dự án. Ngay cả khi đã được cấp vốn, nếu báo cáo tài chính hằng năm không đạt yêu cầu, phía ngân hàng cũng không ngần ngại quyết định ngừng giải ngân. Thông thường, để đạt được thoả thuận vay vốn, thời gian chuẩn bị với một doanh nghiệp mất khoảng 2 - 3 tháng, bao gồm các bước chuẩn bị bản cáo bạch, gặp gỡ đàm phán với các ngân hàng và chờ đợi họ ra quyết định, ở thời điểm này có thể kéo dài hơn 4 - 5 tháng. Tuy nhiên, so với ngân hàng nội, ngân hàng ngoại có thể thu xếp các khoản vay lớn hơn, thời gian ân hạn dài và lãi suất thấp hơn. Mặt khác, đối với những dự án lớn và lâu dài, hiện tại không phải ngân hàng Việt Nam nào cũng có đủ khả năng tài trợ toàn bộ dự án vì bị vướng Quyết định 296/1999/QĐ- NHNN về giới hạn tín dụng cho vay với một khách hàng của Tổ chức tín dụng không cho vay vượt quá 15% vốn tự có. Điều này được giải thích một phần do quy mô vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam hiện nay chưa đồng đều, chưa nói đến việc nếu so với các ngân hàng nước ngoài là khá nhỏ. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng không muốn mang gánh nặng rủi ro tín dụng vì giá trị dự án thường rất lớn. Chính vì vậy, hoạt động đồng tài trợ quốc tế giữa các NHTM Việt Nam và ngân hàng nước ngoài là một hướng đi đúng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, các dự án lớn trong nước, đồng thời nâng cao năng lực của các ngân hàng Việt Nam trong nghiệp vụ tín dụng quốc tế - một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động ngân hàng đại lý. Trong trường hợp ngân hàng Việt Nam không đủ khả năng tài trợ vốn cho các dự án lớn, quan hệ đại lý tốt sẽ giúp các ngân hàng Việt Nam xem xét cơ hội kêu gọi đồng tài trợ từ các ngân hàng đại lý của mình. Doanh nghiệm có lợi vì được tài trợ vốn bởi một nhóm các ngân hàng trong nước và nước ngoài. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng có cơ hội mở rộng quan hệ hợp tác và phát triển các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Bên cạnh đó, vì là một trong những ngân hàng đại lý của ngân hàng Việt Nam tại nước ngoài, ngân hàng Việt Nam sẽ phần nào am hiểu quy trình và các quy định của ngân hàng đối tác. Ưu thế này tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại cung cấp thêm một dịch vụ giá trị gia tăng là dịch vụ tư vấn nhằm giúp các doanh nghiệp trong khâu chuẩn bị hồ sơ. Tuy nhiên, những quy định ngày càng khắt khe và quy trình thẩm định cho vay của các ngân hàng nước ngoài đối với các dự án trong nước đã phần nào khiến cho hoạt động này chưa thật sự phát triển mạnh. Để được các nhà băng nước ngoài xem xét, nhất thiết doanh nghiệp Việt Nam phải ở quy mô lớn, nếu không phải tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước lớn có dự án tốt, doanh nghiệp phải có các chỉ tiêu tài chính tốt, không có quá khứ về nợ xấu, đặc biệt phải có kiểm toán quốc tế hoặc định mức tín nhiệm. Như vậy, để phát triển nghiệp vụ đồng tài trợ quốc tế, bản thân các ngân hàng Việt Nam phải am hiểu thị trường và tìm kiếm nhiều cơ hội hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trong nghiệp vụ cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam và củng cố quan hệ hợp tác với ngân hàng nước ngoài. Bảng 2.6. Một số dự án có sự tham gia góp vốn của các NHTM Việt Nam và ngân hàng nước ngoài NĂM DỰ ÁN GIÁ TRỊ NGÂN HÀNG THAM GIA NH NƯỚC NGOÀI NG TRONG NƯỚC 2004 1. Dự án tái tài trợ nợ nước ngoài của Công Ty Liên Doanh Xi Măng Chinfon (2004) 30 triệu USD Chinfon Bank (Đài Loan) VCB, BIDV, Vietinbank 2004 2. Dự án xây dựng Đại lộ Nguyễn Văn Linh – giai đoạn 3 35 triệu USD Chinfon Bank (Đài Loan) VCB, BIDV, Techcombank 2006 3. Dự án xây dựng Trường quốc tế của Liên Hiệp Quốc UNIS - HSBC BIDV 2009 4. Dự án nhà máy điện turbin khí chu trình hỗn hợp công suất 750MW của Công ty cổ phần điện lực dầu khí Nhơn Trạch 2 (2009) 550 triệu USD Citibank BIDV Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Công ty Luật YKVN và báo cáo của các ngân hàng Vietcombank, BIDV, Vietinbank 2.3. Phân tích các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng đại lý 2.3.1. Hành lang pháp lý Luật Việt Nam chưa có văn bản riêng điều chỉnh về hoạt động ngân hàng đại lý, hiện tại chỉ tìm thấy những quy định liên quan đến việc thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý và thanh toán quốc tế trong một số quyết định của Chính phủ như Điều 4 Quyết định 1136/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 09/09/2004 về quy chế tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc có thể suy ra từ các văn bản Luật khác như Pháp luật ngoại hối, Quyết định 62/QĐ-NH9 (22/03/1997) về việc giao nhiệm vụ cấp, thu hồi giấy phép kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế cho vụ các định chế tài chính; Nghị định 63/1998/ND-CP về quản lý ngoại hối; Quyết định 75/1999/QĐ-NHNN9 (03/03/1999) về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của ban quản lý các dự án tín dụng quốc tế….Luật là văn bản chính thống của Nhà nước ban hành một số quy định nhằm điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, lĩnh vực ngân hàng đại lý hiện tại chưa có các văn bản luật rõ ràng và bị xé nhỏ khá nhiều trong các văn bản luật khác nhau. Điều này sẽ khiến các ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn khi không thể vin vào một văn bản Luật duy nhất mà phải tổng hợp và bóc tách từ các quy định của NHNN. Mặt khác, trong trường hợp có những biến đổi bất thường, các ngân hàng sẽ phải chờ đợi Chính phủ ban hành quyết định và các thông tư hướng dẫn. Hiện tại, Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện hai bộ luật: Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng. Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2009 khu vực Đông Á – Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) xếp hạng Việt Nam đứng thứ 92 về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, giảm một bậc so với xếp hạng năm 2008. Nguyên nhân của việc tụt giảm này không thể loại trừ việc thiếu một môi trường pháp lý minh bạch. Thiết nghĩ trong thời gian sắp tới, Chính phủ cần dành riêng một phần trong các văn bản pháp lý để giải thích và quy định một số thông tin về hoạt động cũng như các nghiệp vụ ngân hàng đại lý để định hướng cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong các bước phát triển trong tương lại. Mới đây khi Luật sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở và điều 121 của Luật Đất đai chính thức có hiệu lực (01/09/2009), người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở trong nước. Tính toán của cơ quan chức năng chỉ ra, có khoảng 70% trong tổng số hơn 3 triệu người Việt Nam đang ở nước ngoài vẫn đang giữ quốc tịch gốc. Điều này có nghĩa cơ hội sẽ mở rộng hơn cho đông đảo kiều bào nói chung được mua và sở hữu nhà ở trong nước. Đây là cơ hội tốt để các ngân hàng Việt Nam chuẩn bị đón chờ một sự tăng trưởng mạnh trong dòng kiều hối được chuyển về Việt Nam trong thời gian sắp tới. Trước đây, Luật không cho phép kiều bào Việt Nam được mua và sở hữu nhà ở nước ngoài. Với sự thay đổi này, chính sách kiểm soát ngoại hối đã được nới lỏng và điều này góp phần thúc đẩy các dịch vụ qua ngân hàng phát triển. Kiều hối là dòng vốn đầu tư dồi dào và hiệu quả được chính những người dân Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài chuyển về nước để phục vụ cho nhiều mục đích: trợ cấp thân nhân hoặc để đầu tư…Có thể hiểu đây là biện pháp tích cực từ Chính phủ nhằm tranh thủ nguồn đầu tư hiệu quả từ kiều bào và tạo cơ hội cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên, Luật quy định đã được thông cáo báo chí nhưng hiện tại vẫn chưa có thông tư hướng dẫn thi hành cụ thể về vấn đề này. Do vậy, Chính phủ cần sớm dự thảo và ban hành thông tư hướng dẫn liên quan đến quy định người Việt Nam ở nước ngoài được phép sở hữu nhà tại Việt Nam để tạo điều kiện mở rộng kênh đầu tư cho kiều bào nói chung và hoạt động thanh toán của ngân hàng nói riêng. 2.3.2. Công nghệ Các ngân hàng sử dụng SWIFT làm hệ thống thông tin liên lạc trong các nghiệp vụ ngân hàng đại lý. SWIFT là mạng viễn thông toàn cầu với những quy chuẩn đã được mọi chấp nhận và nương theo. Một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của hoạt động thanh toán quốc tế thông qua SWIFT chính là STP – tỷ lệ công điện đạt chuẩn (hay còn gọi là tỷ lệ điện chuẩn). Tỷ lệ STP (Straight Through Processing) là tỷ lệ điện thanh toán phát đi, đạt đủ tiêu chuẩn để được xử lý tự động hoàn toàn bằng máy tính mà không cần sự can thiệp của con người. Tiêu chí này dựa trên số lượng điện thanh toán đi tự động trên tổng số lượng các công điện thanh toán. STP trong khoảng từ 90-95% là tỷ lệ cao và xấp xỉ 100% được xem là chuẩn. Với chủ trương phát triển công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại và tự động hóa, đây chính là một tiêu chí điển hình đánh giá chất lượng thanh toán quốc tế của các ngân hàng trong hoạt động ngân hàng đại lý. Chứng nhận đạt tỷ lệ điện chuẩn trong giao dịch thanh toán quốc tế thường được các ngân hàng đại lý quốc tế dành cho các ngân hàng đối tác có các hoạt động giao dịch thanh toán quốc tế (gồm các hoạt động chuyển tiền, tài trợ thương mại...) có tỷ lệ điện đạt chất lượng cao. Tính đến nay đã có một số ngân hàng thương mại Việt Nam đạt được chứng nhận của Bank of New York, Union Bank of California, HSBC…về tỷ lệ STP cao bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), Ngân hàng An Bình, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank), Ngân hàng Đông Á, Ngân hàng Phương Nam, Ngân hàng Habubank….Tỷ lệ STP được đánh giá và nhận định bởi các ngân hàng nước ngoài phải dựa trên một số yếu tố khác như khối lượng giao dịch thanh toán quốc tế lớn, các lệnh chuyển tiền thanh toán quốc tế được định dạng chính xác tuyệt đối, hệ thống máy tính cài đặt có thể tự động xử lý, không cần yếu tố con người tác động. SWIFT là nền tảng công nghệ có sẵn, các ngân hàng Việt Nam khi tham gia SWIFT có cơ hội kế thừa những thành tựu công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, duy trì và củng cố chất lượng điện thanh toán trong hoạt động ngân hàng đại lý đã thôi thúc các ngân hàng không ngừng nâng cao nghiệp vụ để trở nên cạnh tranh hơn trong môi trường tài chính chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng lõi Core banking cũng được các ngân hàng đặc biệt chú trọng nâng cấp. Ngân hàng lõi mạnh và chuẩn xác giúp các ngân hàng nhanh chóng tiếp cận các nguồn công nghệ khác để phát triển hoạt động thanh toán của mình – đặc biệt trong các giao dịch quốc tế. Hiện nay, nhiều NHTMCP Việt Nam như Techcombank, VP bank, MB... rất quan tâm và đầu tư lớn vào công nghệ ngân hàng. Riêng VP bank đã đầu tư gần 10 triệu USD cho công nghệ ngân hàng bao gồm việc nâng cấp và sử dụng hệ thống Core Banking T24 của hãng Temenos (Thụy Sĩ) – hiện là hệ thống được đánh giá cao nhất trong hệ thống các phần mềm. Tuy nhiên, mức độ phát triển CNTT còn chưa đồng đều giữa các ngân hàng, hiệu quả tối đa mang lại cho từng ngân hàng từ việc ứng dụng công nghệ hiện đại còn chưa cao. Nhiều ngân hàng đã áp dụng những công nghệ hàng đầu thế giới nhưng còn nhiều ngân hàng vẫn áp dụng trình độ công nghệ ở mức thấp, điều này gây khó khăn trong việc phối kết hợp việc triển khai các sản phẩm dịch vụ đòi hỏi có sự liên minh liên kết cao như kết nối sử dụng thẻ giữa các NH, đại lý bao thanh toán, kinh doanh ngoại tệ.... Trên thực tế, việc ứng dụng các công nghệ hiện nay còn nhiều bất cập, mặt bằng trình độ công nghệ của các ngân hàng còn ở mức thấp, khoảng chênh lệch trình độ công nghệ giữa các ngân hàng khá xa dẫn đến hai tình trạng trái ngược nhau: hoặc là chỉ có thể ứng dụng công nghệ ở mức độ thấp do hạn chế về vốn hoặc lại chưa khai thác sử dụng hết tính năng công nghệ hiện đại do một số quy trình, chuẩn mực nghiệp vụ chưa được ban hành đầy đủ. Chính điều này cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng khó kết nối với nhau. Sau quá trình tập trung đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng lõi, các ngân hàng bắt đầu chuyển hướng sang đầu tư các hạ tầng công nghệ khác để mở rộng hoạt động và nâng cao tính cạnh tranh. Nắm bắt xu thế này, đầu năm 2010 Maritime Bank đã ký thoả thuận với IBM Việt Nam để công ty này cung cấp cho Maritime Bank các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến công nghệ ngân hàng cũng như hỗ trợ về mặt chuyên gia, định hướng chiến lược và tầm nhìn phát triển hệ thống thông tin...Trước mắt, qua việc đầu tư vào công nghệ này, Maritime Bank mong muốn giảm thủ tục nội bộ, giảm thời gian chờ đợi cho khách hàng tới giao dịch, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ... Bảng 2.7. Phần mềm hệ thống đang áp dụng tại các NHTM Việt Nam STT Ngân hàng Hệ thống phần mềm áp dụng Xếp hạng tín nhiệm từ 2004 đến 2009 1 BIDV, VCB, Vietinbank, MSB SIBS (Silverlake Integrated Banking Solutions) 9-9-9-8-9-10 2 Techcombank, Sacombank, VP bank.... (gần 20 ngân hàng) Temenos T24 1-2-1-1-1-1 3 Habubank, Liên Việt, Tiên Phong... Symbol System Access 12-10-9-10-9-10 Nguồn: Thống kê của Cổng thông tin xếp hạng tín nhiệm các hệ thống ngân hàng lõi Inntron Tập trung phát triển công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại và tự động hóa sẽ giúp các ngân hàng đáp ứng được sự đa dạng về nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh trong các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, các ngân hàng cần thiết có kế hoạch xây dựng nền tảng CNTT và chú trọng nâng cấp hệ thống core banking để nắm bắt cơ hội hội nhập ngày càng sâu rộng với hệ thống tài chính toàn cầu. 2.3.3. Nguồn nhân lực Ngân hàng cung ứng các nghiệp vụ NHQT luôn phải đương đầu với rủi ro cao, tiểm ẩn, phức tạp, khó kiểm soát cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, rủi ro luôn tỷ lệ thuận với lợi nhuận. Thực tế lợi nhuận từ nghiệp vụ NHQT thường rất cao và chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong thu nhập của NHTM. Xuất phát từ tính rủi ro và lợi nhuận cao của nghiệp vụ NHQT, nên những NHTM hoạt động trong lĩnh vực này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ, kinh nghiệm, giỏi ngoại ngữ, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau, nhạy bén với mọi biến động của thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế. Do đặc thù của nghiệp vụ ngân hàng quốc tế yêu cầu phải nhanh nhạy và có nhiều kinh nghiệm, nhìn chung đội ngũ nhân sự thanh toán quốc tế của các ngân hàng hiện nay vẫn chưa phát triển đồng đều. Yếu tố quan trọng khi xử lý các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế chính là kinh nghiệm và sự linh hoạt không cho phép bất kỳ một lỗi sai sót nào vì có ảnh hưởng đến nhiều đối tượng tham gia. Nhân lực ngân hàng trong hoạt động ngân hàng đại lý vẫn còn thiếu nhiều kinh nghiệm. Theo báo cáo của NHNN, đội ngũ nhân viên ngân hàng được đào tạo ở bậc thạc sĩ và tiến sĩ chiếm chưa đầy 10%, trình độ đại học chiếm khoảng 61%, kỹ năng nghề nghiệp vẫn còn hạn chế, khả năng tiếp cận và xử lý công việc theo nhóm còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ đóng vai trò then chốt để xử lý tốt các nghiệp vụ. Điều này chủ yếu dựa vào năng lực của mỗi người, tuy nhiên, bản thân các ngân hàng cũng tổ chức những buổi giao lưu, trao đổi nhân sự và kinh nghiệm làm việc với các đối tác nước ngoài. Động thái này góp phần tạo cơ hội để các nhân viên được cọ xát và tiếp cận với những chuyên gia trong cùng lĩnh vực để học hỏi. Đây cũng là một trong những chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh cho đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của các ngân hàng Việt Nam hiện nay. 2.3.4. Lựa chọn ngân hàng đại lý Tiêu chí lựa chọn các ngân hàng đối tác uy tín, mạng lưới rộng và nhiều kinh nghiệm trong các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế vẫn được các ngân hàng thương mại Việt Nam chú trọng. Quan hệ đại lý đặt ra sự hợp tác bình đẳng cho hai bên trên cơ sở thỏa thuận, tuy nhiên, do hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thiếu sự đồng bộ trong phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, tập trung chủ yếu ở những ngân hàng lớn, hoạt động từ lâu năm nên nhìn chung, các ngân hàng Việt Nam vẫn yếu thế hơn các ngân hàng đại lý nước ngoài xét trong quan hệ đại lý đã được thiết lập. Chính vì vậy, các ngân hàng nên xem quan hệ đại lý là chiến lược ban đầu để mở rộng thị trường, mặt khác đây cũng chính là cơ hội để các ngân hàng Việt Nam tiếp cận với môi trường tài chính năng động, chuyên nghiệp. Dòng tiền của các ngân hàng là vấn đề chiến lược để kiểm soát và quản lý tính thanh khoản. Điều này giải thích vì sao các ngân hàng luôn quan tâm đến việc quản lý tiền lưu giữ trong tài khoản Nostro tại ngân hàng đại lý nước ngoài. Tiêu chí lựa chọn những ngân hàng uy tín và có tính thanh khoản tốt một lần nữa được khẳng định vì đối với các ngân hàng Việt Nam, nguồn tiền lưu giữ trong tài khoản Nostro sẽ phần nào tạo nên áp lực thanh khoản. Vấn đề đặt ra chính là chiến lược linh hoạt và nhạy bén trong kiểm soát luồn tiền trong tài khoản Nostro. Đây một mặt là tiêu chí lựa chọn khi tìm hiểu ngân hàng đối tác, mặt khác cũng là chiến lược riêng dành cho mỗi ngân hàng. Các ngân hàng Việt Nam không có nhiều ưu thế như các ngân hàng nước ngoài về kinh nghiệm và trình độ phát triển, nhưng nếu có kế hoạch phát triển và nhạy bén với thị trường, ngân hàng Việt Nam vẫn giữ được thế chủ động trong quan hệ đại lý với các ngân hàng đại lý đối tác. 2.4. Ứng dụng mô hình SWOT trong phân tích hoạt động đại lý của các NHTM Việt Nam 2.4.1. Ưu điểm Mạng lưới ngân hàng đại lý của các ngân hàng Việt Nam hiện nay tuy chưa thật sự nhiều nhưng đã có một số thành tựu đáng ghi nhận. Phần lớn các ngân hàng đại lý đều là những ngân hàng có uy tín (Ngân hàng HSBC, Tập đoàn Citigroup…) và thuộc các vùng kinh tế phát triển cao như Châu Âu, Châu Mỹ, khu vực Đông Á...đã giúp cho các giao dịch thanh toán quốc tế trở nên nhanh chóng và tiết kiệm chi phí do các ngân hàng khi đã thiết lập quan hệ đại lý sẽ dành cho nhau và cho khách hàng của đôi bên một số ưu đãi nhất định như phí giao dịch thấp hoặc ưu tiên chấp nhận các phương tiện thanh toán phi tiền mặt của ngân hàng đối tác. Dưới góc độ kinh tế, vấn đề thiết lập quan hệ đại lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam có những ưu điểm như sau: Thứ nhất, Việt Nam đang là một nước đang phát triển nên thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài rất lớn, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Sự hợp tác với các ngân hàng nước ngoài mang lại nhiều cơ hội mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam, chính vì vậy xu hướng chung hiện nay là việc chào bán cổ phần cho các ngân hàng nước ngoài nhằm kêu gọi lượng vốn đầu tư và tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý của các đối tác chiến lược là các ngân hàng nước ngoài có uy tín lớn. Xu hướng này nhanh chóng được các ngân hàng Việt Nam áp dụng. Sacombank là ngân hàng TMCP Việt Nam đầu tiên chào bán cổ phần cho đối tác là ngân hàng nước ngoài, giao dịch được thực hiện vào năm 2005 với giá trị 27 triệu USD tương đương 10% vốn cổ phẩn của Sacombank cho ngân hàng Úc và New Zealand ANZ. Kể từ đó, hoạt động này diễn ra sôi nổi với hàng loạt các ngân hàng TMCP Việt Nam chào bán cổ phần cho ngân hàng và các tổ chức nước ngoài như ACB bán cổ phần cho Standard Charter, Techcombank bán cổ phần cho HSBC, Sacombank thúc đẩy kêu gọi vốn từ IFC (International Finance Corporation trực thuộc Ngân hàng thế giới) và Tập đoàn tài chính Dragons Dragon Financial Holdings thuộc Anh Quốc, góp vốn năm 2001… Bảng 2.8. Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các tổ chức nước ngoài tại các NHTM STT NHTMCP TỔ CHỨC NẮM GIỮ CỔ PHẦN TỶ LỆ NẮM GIỮ 1 ACB Standard Chartered Bank (Anh) 6,06% 2 Sacombank Dragon Capital 8,66% 3 Techcombank HSBC (Anh) 20% 4 VPBank Oversea Chinese Banking Corporation Ltd. 15% 5 Eximbank Sumitomo Mitsui Banking Corporation 15% 6 Habubank Deutsche Bank 10% 7 OCB BNP Paribas 15% 8 SourthernBank United Overseas Bank Ltd. 15% 9 Sea Bank Societe Generale 20% 10 ABBank May Bank (Malaysia) 20% 11 VIB Commonwealth of Australia 15% Nguồn: Tổng hợp trang web của các ngân hàng và thông tin tại Cổng thông tin điện tử Thời báo kinh tế Việt Nam Việc các NH, tập đoàn tài chính nước ngoài mở rộng hoạt động tại thị trường Việt Nam thông qua con đường sở hữu vốn cổ phần trong các NHTM Việt Nam hay hợp tác liên doanh phát triển sản phẩm dịch vụ đem lại nhiều lợi ích trong quá trình phát triển của cả hai bên. Về phía các ngân hàng nước ngoài, không tốn kém chi phí để mở chi nhánh mới, có sẵn mạng lưới, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực, số lượng khách hàng dồi dào của các NHTM Việt Nam....Về phía các NHTM Việt Nam, không những nâng cao được năng lực tài chính mà còn hiện đại hóa được công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... theo tiêu chuẩn quốc tế và mở rộng kinh doanh trên thị trường quốc tế. Thứ hai, các ngân hàng Việt Nam hiện nay đang có lợi thế về nguồn nhân lực trẻ. Đặc biệt, trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, các giao dịch đều được mã hóa và tiến hành thông qua những phương tiện kỹ thuật số. Với lợi thế về trình độ chuyên môn và tính kỷ luật cao, ham học hỏi, đội ngũ nhân lực đã không ngừng tiếp thu những ứng dụng công nghệ mới nhằm giúp các giao dịch được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả hơn. Thiết lập quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài buộc các ngân hàng Việt Nam phải đáp ứng những tiêu chuẩn quốc tế để hòa chung vào SWIFT. Chính nguồn nhân lực trẻ và năng động sẽ giúp tiến trình hội nhập của các ngân hàng Việt Nam diễn ra nhanh hơn và hiệu quả hơn. Cuối cùng, mặc dù tình hình kinh tế thế giới khó khăn nhưng năm 2009 Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng tốt, GDP đạt 5,32%, lạm phát kiềm chế ở mức 6,5%. Đây là những yếu tố tích cực để Tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s vẫn duy trì mức hệ số tín nhiệm của Việt Nam là Ba3 như năm 2008. Mức hệ số tín nhiệm này của Việt Nam là cao hơn 1 bậc so với một số quốc gia trong khu vực (Philippines có mức hệ số tín nhiệm là (Ba3/BB); Indonesia là (Ba2/BB). Như vậy, Việt Nam đã khẳng định vị thế như một địa điểm đầu tư an toàn và nhiều tiềm năng phát triển. Mặt khác, hệ số mở cửa (hệ số tính bằng tỷ lệ giữa doanh số XNK trên GDP) của Việt Nam có chiều hướng tăng trong những năm gần đây (Hình 2.2 ) tạo nhiều cơ hội để Việt Nam đón nhận các đối tác nước ngoài vào đầu tư. Lợi thế về con người và môi trường đầu tư đã thu hút rất nhiều giới đầu tư nước ngoài về lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Giao thương quốc tế mở rộng yêu cầu cần có những sự liên kết nhất định từ phía các ngân hàng để phục vụ khách hàng tốt hơn và nâng cao vị thế của mình. Chính vì vậy, việc mở rộng quan hệ đại lý sẽ giúp các bên được nhiều lợi ích về hiệu quả và quy mô. Hình 2.2. Hệ số mở cửa nền kinh tế Việt Nam Đơn vị: % Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng thế giới Hình 2.3. Tình hình tăng trưởng GDP giai đoạn 2003-2008 Nguồn: Báo cáo thường niên 2008 của Ngân hàng Nhà Nước Hình 2.4. Diễn biến lạm phát giai đoạn 2006-2008 Nguồn Báo cáo thường niên 2008 của Ngân hàng Nhà Nước 2.4.2. Nhược điểm Bên cạnh những lợi thế về một hệ thống ngân hàng đang phát triển, vấn đề xây dựng quan hệ đại lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng có một số nhược điểm như sau: Thứ nhất, năng lực của các NHTM Việt Nam còn quá thấp so với yêu cầu hội nhập. Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 22/11/2006, mức vốn pháp định áp dụng cho các NHTMCP Việt Nam đến năm 2010 là 3.000 tỷ đồng. Năm 2010, áp lực tăng vốn theo Nghị định trên đối với nhiều ngân hàng là không nhỏ. Tuy nhiên, đây là mức vốn rất khiêm tốn so với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh những ngân hàng lớn đã hoạt động từ lâu, đa phần các ngân hàng thương mại mới thành lập gần đây đều có mức vốn điều lệ khá thấp. Hình 2.5. Quy mô vốn điều lệ của  một số NHTM Việt Nam (tính đến 3/2009) Đơn vị: Tỷ VND STT   NGÂN HÀNG    VỐN ĐIỀU LỆ VND Nhóm 1 (VĐL trên 3.000)   1 NHTMCP Ngoại thương  12 100 2 NHTMCP Xuất nhập khẩu VN     7 200 3 NHTMCP Á châu    6 536 4 NHTMCP  Sài Gòn Thương tín    5 116 5 NHTMCP Đông Nam Á   4 068 6 NHTMCP Quân đội     3 400 7 NHTMCP Sài Gòn    3 299 8 NHTMCP Kỹ thương  3 642 Nhóm 2 (VĐL trên 2.000)    1 NHTMCP Đông Á    2 880 2 NHTMCP An Bình 2 705 Nhóm 3 (VĐL từ 1.000 trở lên)  1 NHTMCP Việt Á    1 359 2 NHTMCP Nam Việt  1 000 Nguồn: [18] Thứ hai, hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập. Điều này sẽ hạn chế sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại và các hoạt động quan hệ hợp tác quốc tế đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Thứ ba, bản thân các ngân hàng thương mại chưa thực sự có kế hoạch nhằm duy trì và củng cố quan hệ hợp tác với mạng lưới ngân hàng đại lý. Nhược điểm này có thể xuất phát từ việc các ngân hàng Việt Nam chưa có định hướng rõ ràng, cũng có thể hiểu do các ngân hàng chưa đề ra các chiến lược cụ thể để duy trì sự hợp tác dẫn đến quan hệ đại lý có thể bị phá vỡ bất kỳ lúc nào nếu nền kinh tế biến động và có những rủi ro hệ thống xảy ra. Điển hình trong đợt khủng hoảng cuối năm 2008, các ngân hàng Việt Nam đã có động thái rút bớt tiền gửi thanh toán trong tài khoản Nostro tại các ngân hàng nước ngoài nhằm dự phòng rủi ro và bảo vệ nguồn tiền vì e ngại trước sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng có uy tín tại Mỹ. Như vậy, vấn đề thiết lập quan hệ đại lý đặt ra nhu cầu phải tính đến sự hợp tác lâu dài và dự báo trước những đổi thay của nền kinh tế để có kế hoạch thích ứng phù hợp. Một nhược điểm khác cũng đáng lưu tâm là các ngân hàng Việt Nam chưa có kế hoạch phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đang nằm trong các tài khoản Nostro. Đối với những ngân hàng có mạng lưới đại lý rộng khắp thì việc duy trì tài khoản sẽ khiến ngân hàng bị chôn một lượng tiền khá lớn và nếu không có kế hoạch điều tiết và phân bổ hợp lý sẽ rất dễ rơi vào tình trạng mất tính thanh khoản tạm thời. Mặt khác, vấn đề chọn lựa đồng tiền duy trì trong tài khoản Nostro cũng buộc các ngân hàng phải suy nghĩ rất nhiều: đâu là đồng tiền nên duy trì trong tài khoản Nostro vừa tránh được rủi ro về tỷ giá, vừa có khả năng linh hoạt chuyển đổi khi có nhu cầu? Việc này đòi hỏi các giám đốc tài chính một cái nhìn sắc bén và nhạy cảm trước những diễn biến thị trường, đồng thời phải linh hoạt điều tiết nguồn vốn trong các tài khoản Nostro . Ngoài ra, phần lớn các dịch vụ liên kết giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng đại lý thường xoay quanh các dịch vụ thanh toán truyền thống thông qua điện SWIFT và phương thức bù trừ. Như vậy, trên thực tế sự hợp tác liên kết về dịch vụ tư vấn vẫn chưa phát triển nhiều – trong khi đây mới chính là nền tảng để phát triển nhiều dịch vụ ngân hàng tiềm năng khác. Phát triển lĩnh vực tư vấn đòi hỏi các ngân hàng phải có đội ngũ chuyên viên có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng. Chính vì vậy, phát triển mạnh về lĩnh vực tư vấn chứng tỏ ngân hàng có đội ngũ chuyên viên giỏi. Đây là một yếu tố cạnh tranh quan trọng mà mỗi ngân hàng đều đang chú trọng. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn được xem là một hình thức bán chéo sản phẩm nhằm đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của khách hàng. Nguồn thu từ dịch vụ tư vấn sẽ bao gồm phí tư vấn và các nguồn thu khác từ các dịch vụ đi kèm. 2.4.3. Thời cơ Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội mới cho ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Ngành ngân hàng thế giới đã trải qua nhiều thập kỷ với những bước phát triển vượt bậc, chính vì vậy đây là cơ hội để các ngân hàng Việt Nam tiếp thu những giá trị cốt lõi trong quản lý và điều hành. Thiết lập quan hệ đại lý không những giúp thắt chặt sự hợp tác của hai ngân hàng mà còn là hình thức giao thoa văn hóa doanh nghiệp giúp các bên phát huy hơn nữa những thế mạnh của mình. Hiện tại, hoạt động ngân hàng đại lý đang đứng trước những cơ hội tiềm năng như sau: Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kiều hối trong những năm qua là tiền đề để xem đây là một cơ hội cho việc phát triển hoạt động ngân hàng đại lý. Lượng kiều hối tăng liên tục qua các năm, cao nhất vào năm 2007. Năm 2009 có phần chững lại do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng con số 6.28 tỷ USD cũng đã nói lên được tiềm năng thu hút nguồn vốn đầu tư hiệu quả này. Theo số liệu của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, hiện Việt Nam có gần 4 triệu người đang sinh sống tại hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới tập trung ở các nước thu nhập bình quân cao như Hoa Kỳ, Úc, Canada và khu vực Tây Âu. Lực lượng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài những năm gần đây cũng tăng đáng kể cả về số lượng và tiềm lực, có nhiều ảnh hưởng tích cực đến quan hệ nhiều mặt của Việt Nam với nước sở tại và quốc tế. Với những thay đổi tích cực trong Pháp lệnh ngoại hối khuyến khích kiều bào về đầu tư, mua nhà ở Việt Nam, đây chính là động lực thu hút dòng kiều hối chảy về Việt Nam và trở thành một nguồn vốn đầu tư hiệu quả. Cũng theo kết quả thống kê của Ủy ban Nhà Nước về người Việt Nam ở nước ngoài, hiện tại có khoảng 3.000 dự án của kiều bào đầu tư về nước với tổng vốn gần 2 tỉ USD, trong đó 2/3 dự án đã làm ăn có hiệu quả. Tăng trưởng kiểu hối thúc đẩy các dịch vụ chuyển tiền thông qua ngân hàng và các dịch vụ thanh toán khác. Như vậy, để mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng, các ngân hàng Việt Nam cần thiết phải xây dựng mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp nhằm giảm thiểu tối đa thời gian và chi phí dịch vụ. Nếu xem đây là tiềm năng phát triển dịch vụ thanh toán, các ngân hàng sẽ có động lực để phát triển hơn nữa mạng lưới ngân hàng đại lý với các ngân hàng đối tác nước ngoài. Thứ hai, lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng mang lại tiềm năng phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Xuất nhập khẩu đặt ra nhu cầu thanh toán rất lớn giữa hai bên đối tác. Thêm vào đó, xuất nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương mại của một quốc gia nên là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với một nền kinh tế. Việt Nam là một nước đang phát triển, Chính phủ đang đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và giảm dần tỷ trọng nhập khẩu. Cùng với những cam kết mở cửa thị trường khi Việt Nam gia nhập WTO, có thể nói hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu trong những năm tới sẽ sôi nổi hơn. Mặt khác, việc thanh toán nhanh chóng, ít tốn thời gian và giảm thiểu được rủi ro cũng như chi phí hoa hồng sẽ thiết lập mối quan hệ làm ăn bền vững với đối tác – đặc biệt là những đối tác nước ngoài đã quen với văn hóa giao thương chuyên nghiệp. Chính vì vậy, phát triển quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài chính là chìa khóa hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu và góp phần tạo nên hình ảnh đẹp của các ngân hàng Việt Nam với đối tác người nước ngoài. Cuối cùng, tháng 8 năm 2009 vừa qua, Tổng công ty bưu chính Việt Nam (Vnpost) đã chính thức gia nhập mạng thanh toán quốc tế Eurogiro. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển mới cho hệ thống bưu chính và mở ra nhiều cơ hội mới cho ngành ngân hàng. Hình 2.6. Mô hình kết nối của mạng thanh toán Eurogiro Nguồn: Trích bài báo cáo của Juanita Woodward – Giám đốc quan hệ khách hàng Văn phòng Eurogiro tại Singapore tháng 3 năm 2009 Eurogiro là mạng thanh toán điện tử được thiết kế theo chuẩn của hệ thống tài chính ngân hàng, có thể đáp ứng được các yêu cầu xử lý giao dịch tài chính chuyên nghiệp của bưu chính các nước, các ngân hàng và các tổ chức tài chính tiền tệ. Mạng Eurogiro hiện có 50 nước thành viên tham gia, trong đó có 41 cơ quan bưu chính và 21 ngân hàng. VNPost sẽ kết nối với Eurogiro qua hệ thống ELS (Eurogiro Local System) và đã bắt đầu cung cấp dịch vụ vào tháng 10/2009. Trước mắt, việc hợp tác giữa VNPost với các thành viên mạng Eurogiro sẽ được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng song phương. Tuy nhiên, VNPost có kế hoạch tham gia vào khuôn khổ hợp tác đa phương của Eurogiro trong năm 2011. Khi đó, việc thiết lập các quan hệ hợp tác giữa các thành viên Eurogiro sẽ thuận tiện hơn và cho phép VNPost cung cấp các dịch vụ chuyển tiền quốc tế chất lượng cao. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới công bố vào trung tuần tháng 7/2009, Việt Nam đứng thứ 10 trong số các nước nhận được lượng kiều hối nhiều nhất trên thế giới vào năm 2008. Với tiềm năng dịch vụ và nền tảng kỹ thuật công nghệ tiên tiến của Eurogiro, chất lượng các dịch vụ của Vnpost sẽ ngày càng cao hơn, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và tăng thị phần trên thị trường chuyển tiền quốc tế. Xét về góc độ kinh tế, đây là một sự kiện đánh dấu bước phát triển mới cho lĩnh vực bưu chính Việt Nam. Gia nhập mạng Eurogiro là cơ hội để tổng công ty mở rộng hợp tác với các cơ quan bưu chính, ngân hàng thương mại, ngân hàng tiết kiệm và ngân hàng bưu chính, cũng như các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác. Trước sự kiện này, các ngân hàng thương mại có thể xem đây là bài học kinh nghiệm cho bước phát triển trong kế hoạch tương lai của mình. Eurogiro là mạng thanh toán toàn cầu, và cũng giống như những tổ chức quốc tế khác, nó đòi hỏi những thành viên tham gia cần phải chuẩn hóa về công nghệ và nghiệp vụ. Chính vì vậy, các ngân hàng Việt Nam có thể yên tâm rằng thành viên của các mạng lưới quốc tế này là những người bạn được "tuyển chọn" và có tiềm năng hợp tác. Trước mắt, đó là sự hợp tác trong chức năng chính của mạng lưới là dịch vụ chuyển tiền; nhưng đằng sau đó là tiềm năng hợp tác ở rất nhiều dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu và sứ mạng mà mỗi ngân hàng đang theo đuổi. Đó chính là bước đệm để các ngân hàng có cơ hội tiềm hiểu và tiến đến thiết lập quan hệ đại lý đa phương với các ngân hàng đối tác tiềm năng. Eurogiro là mạng thanh toán không chỉ dành riêng cho lĩnh vực ngân hàng bao gồm các công ty bưu chính và tổ chức tài chính; như vậy, mạng lưới ngày càng phát triển sẽ góp phần xóa dần khoảng cách của hệ thống tài chính các nước và thắt chặt hơn nữa quan hệ hợp tác giữa các tổ chức thành viên. 2.4.4. Trở ngại Khi thiết lập quan hệ đại lý giữa hai ngân hàng, biên bản cam kết luôn đi kèm những thỏa thuận liên quan đến những dịch vụ liên kết và những ưu đãi dành cho khách hàng của đôi bên. Các ngân hàng Việt Nam khi muốn xây dựng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài thường phải nhượng bộ một số điều khoản và thường gặp nhất chính là quy định yêu cầu phải duy trì số dư tối thiểu bằng ngoại tệ trong tài khoản Nostro. Tiền lưu giữ trong tài khoản Nostro được xem như một khoản tiền gửi thanh toán của các ngân hàng Việt Nam tại ngân hàng đại lý. Đa phần khoản tiền này được dùng để thanh toán, một số trường hợp khác có thể được dùng để ký quỹ…Việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng nước ngoài giúp thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế trở nên dễ dàng hơn, tuy nhiên duy trì số dư trong tài khoản Nostro vô hình là một rào cản đối với các ngân hàng Việt Nam do quy định này có thể ảnh hưởng đến tính thanh khoản và dòng chu chuyển tiền của các ngân hàng. SWIFT là hệ thống thông tin toàn cầu cho lĩnh vực thanh toán liên ngân hàng. Tuy nhiên, không phải ngân hàng của các quốc gia mà Việt Nam có quan hệ đối tác trong kinh doanh đều là thành viên của SWIFT. SWIFT cũng không phải hình thức liên lạc có thể thay thế cho các phương tiện truyền tin trước đó. Điều này tạo nên một trở ngại quan trọng đối với việc thanh toán qua ngân hàng. Ví dụ: khi chuyển bộ chứng từ TTQT vẫn phải sử dụng thư tín mà không thể dùng SWIFT để chuyển được; hoặc khi chuyển một bức điện tới ngân hàng ở Myanma ta không thể dùng SWIFT mà phải sử dụng TELEX vì các ngân hàng ở Myanma chưa tham gia SWIFT. 2.5. Định hướng phát triển quan hệ đại lý trong tương lai Quan hệ ngân hàng đại lý nhằm mục đích hỗ trợ và phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, chuyển tiền, mua bán và các dịch vụ khác của ngân hàng. Theo xu hướng hiện tại, phần lớn các ngân hàng đã nhận ra lợi ích và tầm quan trọng của việc thiết lập một mạng lưới ngân hàng đại lý rộng rãi đối với tính thanh khoản và khả năng thanh toán của mình. Trong tương lai, định hướng phát triển quan hệ đại lý sẽ chú trọng đến việc phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Điều này đã được khẳng định qua các bản báo cáo thường niên của các ngân hàng. Ở giai đoạn đầu khi Việt Nam vừa mở cửa, hệ thống ngân hàng chưa phát triển nhiều nên chú trọng hợp tác và liên kết với các ngân hàng nước ngoài để tiến hành xử lý giao dịch theo nhu cầu. Qua thời gian, các ngân hàng Việt Nam nhận ra những ích lợi từ việc hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng nên tập trong đẩy mạnh thiết lập mạng lưới các ngân hàng đại lý. Tuy nhiên, quan hệ đại lý nếu thiếu sự hợp tác, chia sẻ trên cơ sở đôi bên cùng có lợi thì mối quan hệ này sẽ không bền vững dẫn đến hậu quả là tốn kém chi phí thiết lập quan hệ ban đầu nhưng chỉ có thể hợp tác trong vài thương vụ theo nhu cầu của một bên đối tác. Hơn nữa, quan hệ đại lý đã được khẳng định là một trong những phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả cho việc thăm dò và tìm hiểu môi trường kinh doanh mới so với việc phải mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở nước ngoài rất tốn kém và phức tạp. Chính vì vậy, quan hệ đại lý cần được duy trì bền vững để tiến đến tăng cường sự hợp tác trên tất cả các dịch vụ của ngân hàng nhằm nâng cao uy tín và lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng Việt Nam. Phát triển quan hệ đại lý theo chiều sâu được hiểu là những kế hoạch được vạch ra nhằm thắt chặt hơn nữa sự hợp tác giữa hai ngân hàng, cùng đàm phán để thỏa thuận những ưu đãi sẽ dành cho nhau và dành cho đối tượng khách hàng của đôi bên dựa trên một điều kiện tiên quyết là đôi bên cùng có lợi và không đi ngược lại với phương châm hoạt động của một bên nào. Đây sẽ là hướng đi đúng đắn giúp các ngân hàng Việt Nam khai thác được tối đa tiềm năng của mình và có cơ hội cọ xát cũng như tiếp cận với văn hóa làm việc chuyên nghiệp của các ngân hàng, các tổ chức tài chính nước ngoài. 2.6. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng đại lý của các NHTM Việt Nam 2.6.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý và các quy định của Pháp luật về hoạt động NHĐL Sau gia nhập WTO, môi trường pháp lý của Việt Nam đã có những thay đổi trên nhiều lĩnh vực. Nhìn một cách tổng thể, môi trường pháp lý Việt Nam ngày càng mở rộng theo hướng tích cực. Song, theo yêu cầu thượng tôn pháp luật của WTO, môi trường pháp lý của Việt Nam còn có nhiều vấn đề phải bàn, đặc biệt là Luật pháp Việt Nam vẫn chưa đủ các chế tài pháp lý và chất lượng xây dựng các văn bản luật còn quá thấp. Để phát triển ngành ngân hàng theo hướng hiện đại, Chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa môi trường pháp lý và những quy định mang tính định hướng lâu dài cho các ngân hàng thương mại. Một số giải pháp đối với vấn đề hoàn thiện môi trường pháp lý như sau: Nhanh chóng hoàn thiện Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng, cập nhật các quy định mới theo nhu cầu và thực tiễn hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt cần bổ sung các quy định điều chỉnh về hoạt động ngân hàng quốc tế Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng chuyên biệt chức năng, trong đó cần chú ý sớm đưa ngân hàng Eximbank trở về mô hình vốn có là một cơ quan của Nhà nước theo dõi và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế. Mô hình này đã được các nước công nhận, chính vì vậy cần sớm hoàn thiện và có chiến lược thực hiện để giảm bớt gánh nặng cho Eximbank và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của đất nước Phát huy vai trò của Hiệp hội Ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các khung pháp lý và hướng các tổ chức tín dụng của Việt Nam đi theo thông lệ Quốc tế. Ngân hàng Nhà nước cũng cần sớm có phân tích, đánh giá hoạt động của các ngân hàng thương mại tại hai thị trường Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh bởi thực tế mạng lưới ngân hàng tại hai địa bàn này chưa đáp ứng được nhu cầu. Năm 2009, hoạt động của một số ngân hàng vẫn mang tính tự do, cần phát huy vai trò của hiệp hội, có tiếng nói thống nhất; cần có những biện pháp, cơ chế kiểm soát tránh để cả hệ thống hoạt động không bình thường. Thành lập cơ quan chức năng làm đầu mối thông tin về các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, đây là sẽ là nơi hỗ trợ về mặt thông tin, quy định và các định hướng chiến lược khi các ngân hàng tìm thấy cơ hội mở rộng thị trường ra nước ngoài và cần đến những hỗ trợ từ phía NHNN Rút ngắn thời gian chênh lệch giữa thời hạn ban hành Luật và các Quyết định, Nghị Định, thông tư hướng dẫn thi hành. Pháp luật hiện có một số quy định có lợi cho hoạt động ngân hàng đại lý như quy định cho phép kiều bào sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có thông tư hướng dẫn thi hành quyết định này của Chính phủ. Nếu không sớm hoàn thiện các cơ chế ban hành Luật, ngành ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất tính hấp dẫn đầu tư do môi trường pháp lý và những chính sách hỗ trợ của Chính phủ còn quá mờ nhạt 2.6.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa sản phẩm Một ngân hàng sẽ tạo ấn tượng với khách hàng thông qua thái độ phục vụ và các sản phẩm, dịch vụ mà nó cung cấp. Chính vì vậy, thái độ phục vụ chính là thước đo mức độ uy tín và sự thu hút của ngân hàng. Vấn đề nâng cao chất lượng phục vụ luôn là mục tiêu hàng đầu của các nhà quản trị. Thực tế cũng cho thấy rằng dịch vụ ngân hàng mang tính đồng nhất rất cao, do đó vấn đề quan trọng là ngân hàng nào biết tạo ra sự khác biệt trong dịch vụ, tính tiện ích cao thì ngân hàng đó sẽ có lợi thế mạnh trong cạnh tranh. Đời sống người dân ngày được cải thiện và nâng cao, xu hướng hiện tại họ không còn quan tâm đến việc "ăn no, mặc ấm" mà chú trọng hơn đến việc "ăn ngon, mặc đẹp". Như vậy, nâng cao chất lượng phục vụ là điều kiện tiên quyết để thu hút khách hàng và tạo nên những đặc điểm nổi bật của ngân hàng. Bên cạnh đó, song song với việc phát triển đa dạng hoá các dịch vụ là phải nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng. Thái độ phục vụ tốt đi đôi với hệ thống sản phẩm phong phú, đa dạng sẽ góp phần để lại nhiều ấn tượng tốt trong lòng khách hàng. Nhiều sản phẩm, nhiều dịch vụ sẽ đáp ứng được gần như tất cả nhu cầu của khách hàng. Khách hàng khi cảm thấy nhu cầu của mình được đáp ứng sẽ chủ động và tin tưởng vào ngân hàng. Sản phẩm, dịch vụ đa dạng sẽ được phát triển lên thành những gói dịch vụ cho phép đáp ứng một chuỗi các nhu cầu riêng của khách. Ngày nay các NHTM cạnh tranh với nhau theo hướng phát triển đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng đi kèm với việc nâng cao chất lượng dịch vụ. Một ngân hàng khiến khách hàng chấp nhận các sản phẩm của mình và khiến họ hài lòng với thái độ phục vụ của nhân viên sẽ được gọi là thành công. Các giải pháp đề xuất bao gồm: Phát triển mô hình các gói sản phẩm hoặc gói dịch vụ đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của từng đối tượng khách hàng. Tiến hành khảo sát nhu cầu khách hàng để xác định nhu cầu chính và những tiện ích có thể kèm theo, mức độ sẵn sàng và chấp nhận của từng đối tượng để tạo nên những gói sản phẩm tốt nhất. Đẩy mạnh hoạt động bán chéo các sản phẩm ngân hàng bằng cách thiết lập mối liên kết giữa các sản phẩm, dịch vụ và huấn luyện kỹ năng tư vấn, thuyết phục cho nhân viên Định kỳ tiến hành các cuộc khảo sát khách hàng nhằm đo lường mức độ hài lòng của khách hàng và kịp thời có những biện pháp khắc phục khó khăn Xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm đối với từng đối tượng khách hàng và các ngân hàng đối tác để xác định thị trường và phân khúc khách hàng tiềm năng Một khi chú trọng nâng cao chất lượng phục vụ và cải thiện những dòng sản phẩm, dịch vụ nhằm hỗ trợ khách hàng một cách tốt nhất, các ngân hàng sẽ trở nên cạnh tranh hơn và gây được nhiều sự chú ý hơn. Đây là yếu tố giúp các ngân hàng Việt Nam dễ dàng tiếp cận và hợp tác với các ngân hàng nước ngoài nhằm thiết lập quan hệ đại lý. Hai ngân hàng ở hai đất nước khác nhau sẽ dựa vào uy tín của đôi bên hoặc các kết quả nghiên cứu thị trường để xem xét liệu có nên hợp tác thiết lập quan hệ đại lý với đối tác hay không. Và lẽ dĩ nhiên, đặt quan hệ hợp tác với những ngân hàng có uy tín cao, chất lượng phục vụ tốt luôn là sự lựa chọn hàng đầu của bất kỳ một ngân hàng nào đang có nhu cầu tìm kiếm một đối tác tiềm năng. 2.6.3. Phát triển hệ thống CNTT trong hoạt động quản lý ngân hàng Cùng với việc mở rộng và phát triển các dịch vụ, tiện ích trên môi trường điện tử - số hoá – internert, xuất hiện ngày càng nhiều nhu cầu được cung cấp các sản phẩm dịch vụ, tiện ích giao dịch ngân hàng hiện đại. Để làm được điều đó, đòi hỏi ngân hàng cần nâng cao năng lực quản lý, xử lý dữ liệu thông tin khách hàng, tích cực phát triển nhiều tiện ích mới, đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng. Thực tế đã cho thấy rằng, trong nền kinh tế ngày nay, lòng trung thành của khách hàng phụ thuộc vào thời gian đáp ứng, tính an toàn và chất lượng dịch vụ. Đối với các dịch vụ tài chính, các yêu cầu này đang ngày càng phụ thuộc vào hệ thống công nghệ thông tin. Một trong những tiêu chuẩn là các ngân hàng phải có một hệ thống hạ tầng CNTT được xây dựng thống nhất, đáp ứng được nhu cầu mở rộng và cấu trúc sao cho có thể triển khai các ứng dụng khác nhau một cách nhanh chóng, chính xác, khoa học và thuận tiện. Hiện nay, các ngân hàng đang đầu tư mạnh mẽ, đưa khoa học ứng dụng vào thực tế, thông qua đó phát triển thêm nhiều dịch vụ, sản phẩm và quản lý nội bộ chặt chẽ, hiệu quả hơn. Một số giải pháp phát triển CNTT trong lĩnh vực ngân hàng: Lập kế hoạch ngân sách cho chiến lược phát triển hạ tầng công nghệ và xác định mức độ ưu tiên cho từng thời kỳ Bồi dưỡng nâng cao trình độ và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của nhân viên, để nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ hiện đại Duy trì và nâng cao tỷ lệ điện chuẩn trên cơ sở hanh tra, giám sát các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế để đánh giá hiệu quả và đo lường mức độ chuẩn xác của từng loại nghiệp vụ Liên kết với các tập đoàn, tổ chức chuyên cung ứng các giải pháp CNTT hiện đại như Microsoft, IBM…trên cơ sở tham vấn và sử dụng những sản phẩm CNTT phù hợp Thường xuyên cập nhật thông tin về các thành tựu ứng dụng CNTT trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt đối với hoạt động ngân hàng quốc tế để có chiến lược nắm bắt kịp thời Hộp 2.6. Hai phương pháp ứng dụng CNTT để phát triển các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại cũng là một chủ đề được chú ý. Ông Đinh Quang Nương – Phó TGĐ Đông Á Bank cho rằng, hiện nay, rất nhiều ngân hàng hiện đại vẫn loay hoay trong việc lựa chọn giải pháp CNTT và hiện thực hóa ứng dụng CNTT vào ngân hàng. Ông Nương chủ động nêu ra 2 phương pháp gọi là Bottom up (Ngân hàng sẽ nhìn từ phía sản phẩm từ đó đưa ra nhu cầu đối với CNTT như thế nào) và Top down (Ngân hàng đưa ra định hướng mục tiêu cũng như tầm nhìn chiến lược, từ đó chọn ra những giải pháp CNTT phù hợp và xây dựng hạ tầng cơ sở). Ông Nương cũng nhấn mạnh, phương pháp thứ hai tuy tốn kém chi phí trong thời gian ban đầu nhưng lại mang đến hiệu quả lâu dài, giúp ngân hàng dễ dàng phát triển và đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, khả năng mở rộng linh hoạt hỗ trợ việc phát triển mạng lưới chi nhánh trong tương lai. Nguồn: Báo cáo diễn đàn Banking Vietnam 2009 – Công nghệ ngân hàng hiện đại 2.6.4. Hoàn thiện kỹ năng và nâng cao nghiệp vụ ngân hàng đại lý cho nhân viên Đội ngũ nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng hiện nay không thiếu nhưng trình độ chuyên môn không cao do chưa có cơ hội được trải nghiệm và cọ xát nhiều. Tuy nhiên, nhân lực cho ngành ngân hàng nói riêng và Việt Nam nói chung đều có lợi thế về sức trẻ, nhiệt tình và ham học hỏi. Chính vì vậy, giải pháp phát triển yếu tố con người trong lĩnh vực ngân hàng từ lâu đã là vấn đề được quan tâm khá nhiều. Do vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa các chính sách huấn luyện cho nhân viên hoặc tổ chức các chương trình giao lưu với chuyên gia trong nước và nước ngoài. Một số ngân hàng thương mại hiện nay tổ chức mô hình kiểm tra và thi đua giữa các nhân viên trong cùng một bộ phận như ACB, Sacombank….Mô hình này mang lại nhiều kết quả tích cực vì vừa có thể khuyến khích nhân viên cố gắng làm việc, vừa thể hiện định hướng phát triển không ngừng của các ngân hàng. Do vậy, có thể xem mô hình này như một mô hình mẫu được áp dụng có chọn lọc và cải thiện. Nguồn nhân lực hiệu quả phải là những con người đáp ứng yêu cầu kỹ thuật công nghệ hiện đại theo hướng năng động, nhạy bén trong việc tìm thị trường, phát triển sản phẩm dịch vụ tương thích, biết đưa ra những sản phẩm mới từ trong những dịch vụ truyền thống, biết hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống trên nền tảng công nghệ hiện đại. Kỹ năng nghiệp vụ cũng là một yếu tố quan trọng cần cân nhắc. Đội ngũ nhân viên vững nghiệp vụ và chuyên môn, có tinh thần cầu tiến và ham học hỏi chính là tài sản quý giá giúp các ngân hàng nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Trong mối quan hệ hợp tác với các ngân hàng hay tổ chức nước ngoài, nhân lực giỏi sẽ làm cầu nối để hai bên xích lại gần nhau và thiết lập sự hợp tác song phương. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng đại lý: Chuẩn hóa những tiêu chuẩn của nhân viên phòng Thanh toán quốc tế và phòng Định chế tài chính về trình độ nghiệp vụ, khả năng ngoại ngữ… Khuyến khích sử dụng và kết hợp nhiều phương thức truyền tin trong hoạt động ngân hàng quốc tế như Telex, thư tín và điện SWIFT một cách linh hoạt Tổ chức các buổi huấn luyện và bồi dưỡng kỹ năng xử lý nghiệp vụ cho nhân viên, đồng thời thảo luận về những sai sót trong nghiệp vụ (nếu có), cập nhật thông tin và phương hướng phát triển hoạt động đại lý trong tương lai Tổ chức giao lưu với chuyên gia đến từ các ngân hàng đại lý thành viên để học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm, có kế hoạch cử nhân viên theo tu nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực liên quan để tiếp cận với những thành tựu của nước ngoài 2.6.5. Quản lý và sử dụng hiệu quả các tài khoản Nostro Đồng tiền lưu giữ trong tài khoản Nostro sẽ phần nào chiếm giữ nguồn vốn huy động của các ngân hàng. Chính vì vậy, mỗi ngân hàng cần thiết phải cân nhắc lựa chọn đồng tiền thích hợp để duy trì trong tài khoản, thường là các đồng tiền mạnh, có tính chuyển đổi linh hoạt, không chịu tác động quá nhiều của sự trượt giá và là đồng tiền được nhiều người chấp nhận. Đây cũng là giải pháp nhằm bảo vệ các ngân hàng tránh được rủi ro về tỷ giá và rủi ro thanh khoản nhanh. Để quản lý tốt tiền trong tài khoản Nostro, các giám đốc tài chính cần xem xét, phân tích tỷ giá để lựa chọn các đồng tiền mạnh, ít biến động lưu giữ trong tài khoản. Ngoài ra, nghệ thuật trong đàm phán khi ký kết xác lập quan hệ đại với với các ngân hàng nước ngoài cũng sẽ giúp giải quyết được phần nào vấn đề này. Sự khéo léo, linh hoạt trong đàm phán về số dư duy trì trong tài khoản và các quy định khác về tài khoản sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng tài chính cho các ngân hàng. Cuối cùng, nền kinh tế luôn tiềm ẩn nhiều khả năng không lường trước được, do vậy các nhà quản trị cần phải dự đoán những biến động có thể xảy ra để kịp thời điều chỉnh và có kế hoạch cơ cấu lại nguồn vốn đang nằm trong các tài khoản Nostro này. Những giải pháp cụ thể mang tính khả thi: Linh hoạt thay đổi đồng tiền trong tài khoản Nostro theo diễn biến cung cầu ngoại tệ và biến động thị trường ngoại hối Theo dõi diễn biến tỷ giá và phân tích các yếu tố tác động đến tỷ giá theo mỗi thời kỳ Cơ cấu nguồn vốn trong tài khoản Nostro theo đúng nhu cầu thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro thanh khoản tại nước sở tại, thanh lý bớt những tài khoản Nostro không có nhu cầu thanh toán nhiều, tập trung vào những ngân hàng (hoặc quốc gia) có tiềm lực kinh tế vững mạnh và là đối tác làm ăn thường xuyên Trước khi quyết định mở thêm tài khoản Nostro phải tiến hành khảo sát và định lượng nhu cầu, đồng thời tìm hiểu các quy định của ngân hàng đối tác về việc mở và duy trì tài khoản, các quy định về thủ tục, kỳ hạn và số dư duy trì… 2.7. Giải pháp mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng đại lý 2.7.1. Tăng cường hoạt động ngoại giao với mạng lưới ngân hàng đại lý Hoạt động đối ngoại được ví như “cánh tay” vươn xa để kéo các mối quan hệ quốc tế gần lại với nhau. Các ngân hàng Việt Nam hiện tại đang có mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp tại các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Như vậy, điều cần thiết chính là việc củng cố và duy trì hoạt động ngoại giao với các bên đối tác nhằm giữ vững mối quan hệ bền chặt. Các giải pháp đưa ra gồm có: Xây dựng và tăng cường mối quan hệ với các cơ quan của Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện tại nước ngoài và cơ quan đại diện của nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, tổ chức gặp mặt các đoàn tân đại sứ, tổng lãnh sự, trưởng phái đoàn của ta ở nước ngoài nhằm tăng cường quan hệ và tranh thủ giới thiệu tiềm năng, quảng bá hình ảnh của ngân hàng và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Bên cạnh đó, tham mưu UBND tỉnh định kỳ gặp mặt tạo mối quan hệ bền vững với cá nhân, tổ chức nước ngoài có đóng góp cho sự phát triển của tỉnh. Thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu, các chương trình tập huấn và trao đổi nhân viên Tổ chức mô hình các hội nghị và mời đại diện từ các ngân hàng đối tác quan trọng tham dự để giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ mới của ngân hàng nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác sâu rộng trong nhiều lĩnh vực Định kỳ đánh giá, nhận định về những kết quả mà hai bên đạt được sau một khoảng thời gian nhất định trong giai đoạn hợp tác để kịp thời có những điều chỉnh và khắ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai luan.doc
Tài liệu liên quan