Đề tài Hạn chế những tác động tiêu cực của FDI và các giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới

Tài liệu Đề tài Hạn chế những tác động tiêu cực của FDI và các giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN SAU ĐẠI HỌC BÀI THẢO LUẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA FDI VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Nhóm 1: Nguyễn Hoàng Ân Kiều Thị Lan Anh Lưu Thị Phương Anh Nguyễn Phương Anh Nguyễn Phương Anh Đặng Ngọc Châm Bùi Cẩm Chi Hoàng Thị Việt Chi Hà Nội, 12 / 2012 MỞ BÀI FDI có ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tất cả các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, đối với các nước nghèo hay các nước đang phát triển như nước ta, kỳ vọng lớn nhất của việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu này được thực hiện thông qua tác động tích cực của FDI đến các yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng: Bổ sung nguồn vốn trong nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa; phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm; thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với...

doc16 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hạn chế những tác động tiêu cực của FDI và các giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN SAU ĐẠI HỌC BÀI THẢO LUẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA FDI VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Nhóm 1: Nguyễn Hoàng Ân Kiều Thị Lan Anh Lưu Thị Phương Anh Nguyễn Phương Anh Nguyễn Phương Anh Đặng Ngọc Châm Bùi Cẩm Chi Hoàng Thị Việt Chi Hà Nội, 12 / 2012 MỞ BÀI FDI có ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tất cả các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, đối với các nước nghèo hay các nước đang phát triển như nước ta, kỳ vọng lớn nhất của việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu này được thực hiện thông qua tác động tích cực của FDI đến các yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng: Bổ sung nguồn vốn trong nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa; phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm; thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới; tạo liên kết giữa các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, không nên chỉ lạc quan với các mặt tích cực FDI mang lại mà các nước nhận đầu tư/nước chủ nhà cũng luôn cần cảnh giác, tìm biện pháp để hạn chế các mặt tiêu cực song hành. Trước tình hình đó, chúng ta cần phải có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về tầm quan trọng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như sự đóng góp của nó vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong những năm qua. Trên cơ sở đó đề ra hệ thống những giải pháp cụ thể, kịp thời nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm tới, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà Nước ta đã đề ra đồng thời hạn chế được các mặt tiêu cực để việc huy động và sử dụng vốn là hiệu quả nhất. Vì vậy, cần thiết phải tìm hiểu “Hạn chế những tác động tiêu cực của FDI và các giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới”. I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 1. Khái niệm về FDI Các quan điểm và định nghĩa về FDI được đưa ra tùy góc độ nhìn nhận của các nhà kinh tế nên rất phong phú và đa dạng. Qua đó ta có thể rút ra một định nghĩa chung nhất như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình”. Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư. 2. Nguồn gốc và bản chất của FDI 2.1 Nguồn gốc FDI ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỷ nhưng FDI nhanh chóng xác lập vị trí của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế, FDI trở thành một xu thế tất yếu của lịch sử, một nhu cầu không thể thiếu của mọi nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển, những nước công nghiệp mới hay những nước trong khối OPEC và những nước phát triển cao. 2.2 Bản chất của FDI - Có sự thiết lập về quyền sở hữu về Tư Bản của công ty một nước ở một nước khác - Có sự kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lý các nguồn vốn đã được đầu tư - Có kèm theo quyền chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý - Có liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia - Gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế 3. Phân loại nguồn vốn FDI theo hình thức đầu tư Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại nguồn vốn FDI như: phân loại theo cơ cấu các ngành kinh tế; phân loại theo vùng địa lý, lãnh thổ; phân loại theo bản chất đầu tư; phân loại theo tính chất dòng vốn... Tuy nhiên phân loại theo hình thức đầu tư của nguồn là cách phân loại phổ biến nhất, bao gồm các loại hình sau : - Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nước nhà. - Doanh nghiệp liên doanh: Là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỉ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Hình thức này có đặc trưng là mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng, nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp, vốn pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp. - Đầu tư theo hợp đồng BOT (xây dựng – vận hành – chuyển giao): là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao cho nước tiếp nhận đầu tư (thường trong các công trình đường xá, cầu cống…) Những dự án B.O.T thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế. II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ BIỆN PHÁP HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA FDI 1. Những tác động của FDI đối với Việt Nam 1.1 Tác động tích cực - FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, nhất là đối với một nước đang phát triển như ở Việt Nam thì nguồn vốn đầu tư phát triển là vô cung quan trọng. - FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. - FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ: Tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, từ đó buộc các doanh nghiệp trong nước phải đầu tư đổi mới công nghệ; lưu chuyển lao động từ doanh nghiệp FDI đến các doanh nghiệp trong nước; chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước; liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước để sản xuất sản phẩm. - FDI đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô. - FDI góp phần cải thiện cán cân thanh toán. - FDI thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và tăng tính minh bạch của môi trường đầu tư Việt Nam. - FDI góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế, cụ thể là 11/01/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới tạo cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. - FDI góp phần mở rộng tăng cường quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới. 1.2 Những tác động tiêu cực a. Gây ra thâm hụt thương mại - Thực trạng thâm hụt thương mại khu vực FDI trong giai đoạn 2008 đến tháng 10/2012. Mặc dù kỳ vọng FDI là nơi sản xuất phải hướng về xuất khẩu (Nhà Nước có chính sách khuyến khích doanh nghiệp FDI xuất khẩu trên 80% sản phẩm sản xuất ra ở Việt Nam), nhưng thực chất kết quả xuất, nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp FDI từ năm 2008 đến nay là kim ngạch nhập khẩu thường cao hơn kim ngạch xuất khẩu (nếu không kể dầu thô). Bảng kim ngạch xuất, nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp FDI giai đoạn 1991-10/2012 Đơn vị tính: triệu USD Năm (A) Xuất khẩu Nhập khẩu (D) Chênh lệch (C-D) Chênh lệch (B-D) Kể cả dầu thô (B) Không kể dầu thô (C) 1991-1995 4,100 1,200 1996-2000 27,090 10,590 2001-2005 77,400 34,600 2006-2007 69,000 28,600 2008 34,500 24,080 27,800 (3,720) 6,700 2009 29,900 23,600 24,800 (1,200) 5,100 2010 39,087 34,129 36,968 (2,839) 2,119 2011 54,461 47,225 47,763 (538) 6,698 10 tháng năm 2012 44,280 38,220 39,694 (1,474) 4,586 Nguồn: Nhìn vào bảng số liệu trên, chúng ta có thể thấy thâm hụt thương mại khu vực FDI giảm đột biến năm 2009 so với năm 2008. Nguyên nhân là do, trong giai đoạn tháng 3-4/2009, Việt Nam đã áp dụng các biện pháp tăng thuế sau: + Tăng thuế nhập khẩu đối với 15 sản phẩm sữa + Tăng thuế nhập khẩu đối với thịt và gia cầm (từ 17% lên 33%), thịt bò đông lạnh (từ 17% lên 20%) và thịt lợn tươi từ (24% lên 28%) + Tăng thuế nhập khẩu đối với thép và các sản phẩm thép bán thành phẩm (từ 5% lên 8%), sản phẩm thép dùng trong xây dựng (từ 12% lên 15%), thép tấm và thép ống cán nguội (từ 7% lên 8%), tấm và ống bọc thép từ 12% lên 13% + Tăng thuế nhập khẩu đối với hợp kim từ 0% lên 10%; Giai đoạn năm 2008, 2009, khu vực FDI có xu hướng đầu tư khá lớn vào lĩnh vực bất động sản. Do đó, việc tăng thuế nhập khẩu đầu vào đối với các sản phẩm thép và hợp kim đã góp phần đáng kể làm giảm lượng nhập khẩu. Năm 2011, thâm hụt thương mại ở khu vực này cũng giảm đáng kể là do thuận lợi về giá xuất khẩu. - Nguyên nhân thâm hụt thương mại lớn ở khu vực này + Dòng vốn FDI đầu những năm 2000 tập trung vào các ngành sản xuất phục vụ thị trường trong nước tạo ra nhu cầu nhập khẩu để đầu tư nhưng không tạo ra tiềm năng xuất khẩu. Giữa những năm 2000, FDI dựa vào công nghiệp chế tạo phục vụ xuất khẩu, do đó làm gia tăng cả nhập khẩu và xuất khẩu. Mặt khác, xu thế doanh nghiệp FDI tập trung vào ngành bất động sản, tạo ra nhu cầu lớn đối với vật liệu xây dựng và thiết bị nhập khẩu, trong khi không tạo ra năng lực xuất khẩu trong tương lai. Điều này góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại. + Việt Nam chưa thực sự hội nhập hoàn toàn vào chuỗi giá trị trong khu vực, chỉ thực hiện hoạt động lắp ráp cho các tập đoàn đa quốc gia chứ chưa trở thành cơ sở sản xuất với giá trị gia tăng cao. Hàng xuất khẩu chưa đa dạng, tập trung vào một số ngành như dầu thô, dệt may, thủy sản, nông sản và giày dép, do đó, dễ bị ảnh hưởng tiêu cực khi có biến động về giá hàng hóa và nhu cầu ở thị trường nước ngoài, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế khó khăn như hiện nay. b. Tác động xấu đến môi trường Có cơ sở để nhận định rằng, một trong những tác động tiêu cực nhất của FDI đối với nước nhận đầu tư là ảnh hưởng về môi trường. Tình trạng xuất khẩu ô nhiễm từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua FDI ngày càng gia tăng. Các nước đang phát triển có nguy cơ trở thành những nước có mức nhập khẩu ô nhiễm cao và nhiều nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam… Bên cạnh đó, ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước, thủy sản, khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông ngày một rõ ràng và nghiêm trọng. Các khu vực công nghiệp mở rộng làm cho diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư trú của động vật hoang dã, thực vật bị xáo trộn, hủy hoại. Theo thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà: “Thống kê trong số hơn 100 khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay có 80% đang vi phạm các quy định về môi trường”. Sông Thị Vải ở Đồng Nai là một con sông chết điển hình minh chứng cho hậu quả của việc phá hủy môi trường của các doanh nghiệp khu vực FDI. Sông Thị Vải với chiều dài khoản 76km (đoạn chính khoảng 36km) là một con sông nước mặn, ngắn, khá rộng và sâu, chiều rộng trung bình 400-650m, độ sâu trung bình 22m, nơi sâu nhất 60m. Sông đã bị ô nhiễm nặng nề do phải tiếp nhận nước thải công nghiệp và sinh hoạt trong khu vực, nhất là thải từ các nhà máy, các KCN nằm dọc theo hai bên bờ sông. Mỗi ngày có khoảng 33.267m3 nước thải từ các khu công nghiệp (hầu hết đều chưa qua xử lý). Những cơ sở và KCN gây ô nhiễm nặng cho sông Thị Vải phải kể đến là KCN Nhơn Trạch 1, KCN Nhơn Trạch 3… và đặc biệt là CTCP hữu hạn Vedan Việt Nam. Mặc dù Vedan đã xây dựng 3 hệ thống xử lý nước thài ở 3 khâu chế biến tinh bột và mật rỉ đường, nhưng không có hệ thống nào đạt hoàn toàn các tiêu chuẩn môi trường, đặc biệt hàm lượng Cyanua vượt đến 34 lần (ở hệ thống UASB), hàm lượng Ciliform (ở hồ sinh học) vượt đến 1.460 lần so với tiêu chuẩn. Vedan Việt Nam đã góp phần đáng kể làm cho sông Thị Vải trở thành một dòng sông chết. Kết quả giám sát chất lượng nước tại khu vực Vedan thuộc Dự án hạ lưu sông Đồng Nai do Trung tâm Chất lượng nước và Môi trường thực hiện từ năm 1994-2004 cho thấy, tới đầu năm 2000 nước sông Thị Vải vẫn còn tương đối sạch, chưa bị các chất ô nhiễm hữu cơ tác động mạnh. Tuy nhiên, từ giữa năm 2000 thì chất lượng nước vùng này đã rất xấu, oxy hòa tan thường rất thấp, hiếm khi cao hơn 1mg/l. Tình trạng ô nhiễm sông đã kéo dài liên tục và ngày càng trở nên trầm trọng cho tới khi đoàn kiểm tra liên ngành phát hiện ra vụ Vedan. Theo số liệu đo đạc chất lượng nước của Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam thực hiện vào mùa khô 4/2008 cho thấy sông Thị Vải thực sự không còn sống. Nồng độ Oxy hòa tan rất thấp, nhất là vùng bị ảnh hưởng của Vedan dài gần 13km, từ hợp lưu sông Suối Cá – Thị Vải đến vàm Bà Riêu Lớn. Nước sông có màu nâu đen, nhiều cặn, mùi hôi bốc lên nồng nặc. c. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không hợp lý Các Nhà đầu tư nước ngoài chỉ tập trung đầu tư vào các ngành có thể thu lợi nhuận cao trong thời gian ngắn. Điều này đã dẫn đến tình trạng một số ngành mở rộng quy mô quá mức so với nhu cầu của cơ cấu kinh tế, làm cho việc sử dụng các nguồn lực phát triển trở nên kém hiệu quả, gây ra tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Vốn đầu tư nước ngoài chỉ tập trung vào những ngành có công nghệ tương đối thấp. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài chỉ quan tâm xây dựng các chiến lược của mình sao cho phù hợp với nền kinh tế địa phương, có cân nhắc đến nguồn tài nguyên nội địa, quy mô và thị hiếu thị trường nội địa và chất lượng của lao động và các đầu vào sẵn có, sản phẩm đầu ra của các doanh nghiệp nội địa. Năm 2010 vốn FDI đăng ký của cả nước tập trung chủ yếu vào ba lĩnh vực là: dịch vụ lưu trú và ăn uống; kinh doanh bất động sản; công nghiệp chế biến, chế tạo. Cụ thể như sau: lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút FDI lớn nhất (chiếm 61,9% số dự án và 50,7% vốn đăng ký tại Việt Nam). Lĩnh vực kinh doanh bất động sản trở thành lĩnh vực đứng thứ hai trong thu hút FDI với 312 dự án, tổng vốn đăng ký 38,4 tỷ USD, chiếm 2,9% số dự án và 22% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam. Tiếp theo là các lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống, xây dựng, thông tin và truyền thông, nghệ thuật và giải trí... Trong khi đó, vốn FDI vào các lĩnh vực như nông, lâm nghiệp, thủy sản; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm hay y tế; giáo dục và đào tạo... chưa nhiều. Chẳng hạn FDI vào ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 4% về số dự án và 1,7% về vốn đăng ký hay FDI vào ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm chỉ chiếm 0,7% về số dự án cũng như vốn đăng ký của cả nước. d. Chuyển giao công nghệ Phần lớn máy móc, thiết bị được đưa vào VN là lạc hậu, đã qua sử dụng, tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường; nổi lên hiện tượng xả thải ra môi trường; Điều này là do tác động của cuộc cách mạng KHKT cho nên máy moc nhanh chóng trở nên lạc hậu vì vậy các công ty nước ngoài thường xuyên chuyển giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng của chính nước họ. Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại như: - Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó, do đó Việt Nam thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp và hậu quả là thiệt hại trong việc phân chia lợi nhuận - Gây tổn hại môi trường sinh thái: do các quy định về bảo vệ môi trường ở các nước nhận đầu tư chưa chặt chẽ. e. Chuyển giá Cốt lõi của chuyển giá là chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thông qua giá cao khi nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị… và giá thấp khi xuất khẩu bất chấp doanh nghiệp tại nước sở tại không có lợi nhuận, thậm chí thua lỗ (sau khi đã thu hồi vốn đầu tư và đạt mục tiêu lợi nhuận thì có thể cho phá sản, giải thể hay bán lại doanh nghiệp với giá rẻ). - Thứ nhất, thất thu NSNN từ thuế TNDN và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Quy mô các khoản thu NSNN này không nhỏ khi các doanh nghiệp FDI đã chiếm tới khoảng 20% GDP, khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm trên 40% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, gần 50% tổng kim ngạch nhập khẩu, chiếm khoảng 30% tổng thu NSNN. Nói cách khác, chống chuyển giá chỉ có hiệu quả khi gắn với cơ cấu lại nguồn thu NSNN theo hướng giảm tỷ trọng thu từ XNK, đặc biệt là giảm tỷ trọng thu từ nhập khẩu, xuống mức 5-10% tổng thu NSNN. - Thứ hai, chuyển giá làm “đội giá” máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu đầu vào của doanh nghiệp FDI đồng thời “phá giá” sản phẩm đầu ra khiến cho doanh nghiệp FDI bị thua lỗ giả tạo. Chuyển giá đối với máy móc thiết bị tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp FDI, một mặt còn tạo ra “giá trị ảo” cho tài sản cố định, tăng tỷ lệ khấu hao tài sản cố định thực, “thổi phồng” phần vốn góp của phía nước ngoài, làm méo mó bức tranh thực tế về vốn FDI (cả thu hút và giải ngân). Mặt khác, giá trị của máy móc thiết bị mới, hiện đại dễ kiểm soát hơn so với giá trị của máy móc thiết bị cũ, lạc hậu nên không loại trừ nhà đầu tư FDI ưu tiên nhập khẩu máy móc thiết bị cũ, lạc hậu nhằm thực hiện chuyển giá dễ dàng hơn. Chuyển giá còn có thể là một trong những nguyên nhân chính làm sụt giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung, sử dụng vốn FDI nói riêng, khiến cho ICOR của khu vực FDI rất cao, thậm chí còn cao hơn cả khu vực kinh tế trong nước và suất đầu tư trên lao động cũng tương đối cao. - Thứ ba, đầu tư FDI góp phần rất tích cực tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa dịch vụ có chất lượng cao. Tuy nhiên, do chuyển giá nên thị trường trong nước, cả thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng, đều phải chịu mức giá cao bất hợp lý. Một mặt, mức giá nhập khẩu cao do chuyển giá đã thủ tiêu lợi ích về giá từ hoạt động nhập khẩu, làm cho mặt bằng giá cao giả tạo, thậm chí có một số hàng hóa dịch vụ có mức giá tại Việt Nam còn cao hơn nhiều so với tại các nước trong khu vực. Mặt khác, giá nhập khẩu cao do chuyển giá còn hạn chế khả năng cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài. Hơn nữa, doanh nghiệp Việt Nam phải chịu thuế trực thu trong khi doanh nghiệp FDI chủ yếu chịu thuế gián thu mà thực chất là người tiêu dùng cuối cùng phải chịu nên doanh nghiệp Việt Nam lại càng khó cạnh tranh hơn. Nhất là hạn chế khả năng tăng cường tiềm lực tài chính trước đối thủ cạnh tranh là các doanh nghiệp FDI vốn có lợi thế rõ ràng về tài chính. Do sức hấp dẫn của lợi nhuận thu được từ chuyển giá nên doanh nghiệp FDI có thể không quan tâm khai thác các yếu tố đầu vào từ thị trường trong nước thay vì nhập khẩu, do đó, hiệu ứng “tràn” của FDI bị hạn chế rất nhiều. Nói cách khác, doanh nghiệp FDI phát triển hầu như không kéo theo sự phát triển của doanh nghiệp trong nước. Trái lại, trong nhiều trường hợp còn chèn lấn doanh nghiệp trong nước khi kinh doanh trong cùng ngành nghề. 2. Biện pháp hạn chế tác động tiêu cực Để hạn chế tác động của thâm hụt thương mại, những biện sau có thể được áp dụng - Chính sách tỷ giá Một số ý kiến cho rằng, Việt Nam nên áp dụng các chính sách liên quan đến tỷ giá để cải thiện tình trạng nhập siêu ở khu vực này. Tuy nhiên, chúng tôi không đồng ý với quan điểm này do một số lý do sau: Một nghiên cứu đã chỉ ra tác động của việc điều chỉnh tỷ giá đối với hoạt động xuất nhập khẩu như sau: + Đối với nhập khẩu: tỷ giá tăng 1%, NK trong tháng đầu tiên giảm 0.04% và quá trình giảm sẽ kết thúc trong vòng 8 tháng. Từ tháng thứ 9 nhập khẩu tăng do tác động của tỷ giá và tính gộp sau 1 năm, gia trị NK được ước lượng tăng 0,06%. Nguyên nhận do đặc điểm cơ cấu nhập khẩu của VN: trên 90% giá trị nhập khẩu hàng năm trong giai đoạn 1995-2011 là máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu. + Đối với xuất khẩu: tăng tỷ giá, xuất khẩu tăng ở 3 tháng đầu tiên, giảm ở tháng thứ 4. Tỷ giá tăng 1% thì sau 1 năm, giá trị xuất khẩu giảm khoảng 0,15%. Xuất khẩu không tăng do tỷ trọng các yếu tố đầu vào nhập khẩu lớn. + Kết quả: 8 tháng đầu tăng tỷ giá sẽ có ảnh hưởng tích cực đến cán cân thương mại, nhưng tính chung cho cả 1 năm thì việc tăng tỷ giá sẽ làm tăng nhập siêu. Cán cân thương mại gần như quay trở lại trạng thái ban đầu sau 14 tháng điều chỉnh tỷ giá - Nâng cao vai trò của các ngành sx trong nước, và tăng tỷ lệ giá trị gia tăng của sản xuất trong nước. Thực tế, giá trị gia tăng công nghiệp (MVA) và hàm lượng công nghệ sản xuất hầu như không thay đổi sau 10 năm kể từ năm 2000-2010. Năm 2000, MVA/lao động của Việt Nam so với TQ, Indonesia, Thái Lan, Malaysia lần lượt là 1/3.5; 1/3; 1/3; 1/20. Năm 2010 lần lượt là 1/5; 1/3; 1/5.5; 1/10. MVA/GDP của Việt Nam là 20%, trong khi của TQ, Thái Lan khoảng 34% Theo Tổng cục Thống kê: Tỷ trọng các ngành có hàm lượng công nghệ trung bình và cao=25% giá trị công nghiệp trong giai đoạn 2005-2009 so với >60% ở Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến XK chỉ chiếm khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu trong những năm gần đây. Định Nghĩa của UNIDO năm 2002 về hàm lượng công nghệ trong các ngành công nghiệp + Ngành dựa vào tài nguyên thô: cạnh tranh dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên + Ngành có hàm lượng công nghệ thấp (dệt may, da giày …) à lợi thế cạnh tranh từ giá chứ không phải là chất lượng hay thương hiệu (do công nghệ ổn định, chi phí R&D và yêu cầu kỹ năng thấp, ít có lợi thế kinh tế theo quy mô + Ngành có hàm lượng công nghệ trung bình (ô tô, máy móc …) công nghệ phức tạp nhưng thay đổi chậm, chi phí R&D trung bình, yêu cầu cao về vốn + Ngành có hàm lượng công nghệ cao: rào cản gia nhập lớn Theo cách phân loại của UNIDO, hàm lượng công nghệ các ngành xuất khẩu của Việt Nam hầu như không thay đổi sau 10 năm, tỷ trọng các ngành sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm 12-13%, công nghệ trung bình 10%, công nghệ thấp >60% Năm 2009, tỷ trọng ngành sử dụng công nghệ cao ở Trung Quốc là 35.6%, Công nghệ thấp ở TQ < 30% - Hạn chế nhập khẩu và nâng thuế nhập khẩu + Tỷ lệ nhập khẩu để phục vụ xuất khẩu cao (nhập khẩu chiếm 2/3 giá trị xuất xưởng – theo báo cáo phân tích thâm hụt thương mại của Việt Nam và các điều khoản về cán cân thanh toán của WTO phát hành ngày 5/10/2009), do đó, biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ làm suy giảm sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu; + Nếu áp dụng các biện pháp này, FDI sẽ bị rút vốn hoặc đóng băng do không đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu đầu vào hoặc công nghệ; + Nhà đầu tư mất niềm tin vào nền kinh tế Việt Nam - Giảm hệ số sử dụng hàng nhập khẩu ở Việt Nam bằng điều chỉnh cung: chuyển dịch từ công nghệ gia công, lắp ráp sang công nghệ cao phục vụ xuất khẩu - Cơ cấu hàng NK phải tập trung vào hàng hóa phục vụ nhu cầu đầu tư, tạo ra năng lực XK mới hoặc bán thành phẩm là những nhân tố đóng góp vào năng lực sản xuất và sức cạnh tranh trong dài hạn Ngoài những biện pháp trên, còn có rất nhiều biện pháp có thể áp dụng để hạn chế các tác động tiêu cực còn lại. Những biện pháp đó liên quan đến vấn đề cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao cơ sở vật chất hạ tầng hiện nay… Những biện pháp này không chỉ hạn chế tác động tiêu cực mà còn có thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. III. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN FDI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Cải thiện môi trường đầu tư 1.1 Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến doanh nghiệp và đầu tư Luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987 và được sửa đổi bổ sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 đã thu hút được giới đầu tư quốc tế vào thị trường Việt Nam. Năm 2005, nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý tạo “một sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Quốc hội ban hành Luật đầu tư, có hiệu lực từ 1/7/2006, thay thế Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Luật này đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, Luật đầu tư 2005 vẫn có những vấn đề hạn chế làm ảnh hưởng đến việc thu hút nhà đầu tư mới và mở rộng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp FDI đang hoạt động. - Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, sự chống chéo giữa Luật đầu tư 2005 và các luật khác trở thành rào cản thu hút nguồn vốn FDI mới vào Việt Nam. + Giữa Luật đầu tư 2005, Nghị định 29/2008NĐ-CP và Luật thuế TNDN 2008 không có sự thống nhất trong chính sách ưu đãi đầu tư: chính sách ưu đãi thuế TNDN áp dụng từ 1/1/2009 đã thu hẹp diện các doanh nghiệp, dự án được ưu đãi. Theo Luật đầu tư 2005 và nghị định 29/2008NĐ-CP thì việc ưu đãi cho nhà đầu tư được áp dụng đối với dự án đầu tư (kể cả dự án đầu tư mở rộng) thuộc danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư, không quy định rõ về pháp nhân của doanh nghiệp. Nhưng trong Luật thuế TNDN lại chỉ tính ưu đãi đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn KT-XH đặc biệt khó khăn, mà không áp dụng cho các dự án đầu tư mở rộng. + Giữa Nghị định 108/2006/NĐ-CP và Nghị định 88/2006/NĐ-CP: quy định về đăng ký kinh doanh, theo nghị định 88/2006/NĐ-CP, nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phàn vào doanh nghiệp Việt Nam không quá 49% thì doanh nghiệp làm thủ tục đăng ký kinh doanh như doanh nghiệp trong nước. Trường hợp cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài lớn hơn 50% thì doanh nghiệp vẫn được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thủ tục không bị điều chỉnh bởi điều kiện đầu tư áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài. Trong trương hợp nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo cách liên doanh với nhà đầu tư trong nước để thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, theo quy định của Nghị định 108/2006/NĐ-CP, thì doanh nghiệp này là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (nếu không thành lập pháp nhân). Như vậy, việc xác định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Nghị định 108/2006/NĐ-CP và Nghị định 88/2006/NĐ-CP là khác nhau. - Thủ tục hành chính nhiều phiền hà, tốn nhiều thời gian: hầu hết các doanh nghiệp đều phàn nàn về việc gặp phải khá nhiều những thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, bất hợp lý gây mất thời gian, tiền của cho doanh nghiệp. Việc cải cách thủ tục hành chính là vấn đề vô cùng bức thiết hiện nay, càng đơn giản hóa những thủ tục hành chính càng hấp dẫn hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, giúp Việt Nam trở thành một điểm đến của nguồn vốn FDI hùng hậu. Để khắc phục vấn đề chồng chéo giữa các điều Luật hiện nay, việc cần làm là: - Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư và kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp vơi cam kết khi gia nhập WTO. - Sửa đổi các luật, các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng về đầu tư và kinh doanh. Các bộ ngành cần chủ động sửa đổi bổ sung các nội dung thuộc thẩm quyền và nếu không thuộc thẩm quyền thì có thể trình lên cấp cao hơn có thẩm quyền. - Xem xét lại toàn bộ các văn bản pháp luật liên quan đến doanh nghiệp và đầu tư, tìm ra những điểm còn chồng chéo, trùng lặp, bất hợp lý để điều chỉnh, bổ sung. - Ban hành các tài liệu hướng dẫn đầu tư của từng ngành, từng địa phương cụ thể. - Đầy mạnh các công tác nghiên cứu, tham khảo luật đầu tư nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt các nước trong khu vực. - Tăng cường kiểm soát thực hiện pháp luật, khắc phục tình trạng thực hiện luật còn tùy tiện, theo cảm tính như hiện nay. - Ban hành các văn bản ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng công trình phúc lợi như nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hóa, thể thao cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chết xuất, khu công nghiệp cao, khu kinh tế… - Cải thiện các thủ tục hành chính: Tăng cường quản lý chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và địa phương trong việc quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài. Duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý với nhà đầu tư nước ngoài. Trong những văn bản pháp luật sửa đổi, cần đưa vào những điều, những điểm giúp cho thủ tục hành chính được giảm thiểu, đơn giản hóa, nâng cao chất lượng các quy định về thủ tục hành chính; pháp lý hóa những thủ tục cần thiết; phân cấp thực hiện hoặc áp dụng các biện pháp thay thể thủ tục hành chính không còn phù hợp. 1.2 Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý Nâng cao trách nhiệm của bộ máy quản lý nhà nước về FDI khi thực thi các định hướng luật pháp, chính sách đã ban hành. Triển khai thực hiện tốt ở cấp quản lý sẽ giúp chúng ta đạt được mục tiêu đặt ra đối với FDI, trong đó có việc nâng cao chất lượng dòng vốn này vào Việt Nam thời gian tới. Thực tiễn hoạt động FDI giai đoạn vừa qua cho thấy, bên cạnh các dự án đáp ứng được tiêu chuẩn về công nghệ cao, vẫn còn nhiều dự án FDI công nghệ thấp lọt lưới “quản lý” vào Việt Nam, gây tác động xấu về môi trường, về chất lượng và uy tín hàng hóa, sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Các dự án này còn làm xấu đi hình ảnh của môi trường đầu tư Việt Nam trên thương trường quốc tế, cũng như hiệu quả kinh tế nói chung. Trách nhiệm của từng cá nhân trong hệ thống quản lý có vai trò quan trọng nhất. Bởi nếu làm đúng chức trách với tinh thần trách nhiệm cao, họ sẽ giúp giảm bớt rào cản về thủ tục hành chính, dòng vốn FDI nhờ đó chảy vào Việt Nam đều, mạnh hơn. Làm việc với trách nhiệm cao, họ cũng sẽ giúp bộ máy quản lý phát hiện, ngăn chặn các dự án không phù hợp và lôi kéo được các dự án mà theo định hướng và quy hoạch đã xác định cần thu hút. Tuy vậy, để tạo điều kiện cho các cá nhân thừa hành đúng trách nhiệm công chức của mình, thì có nhiều việc cần phải làm ngay từ các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên có liên quan. 2. Nâng cấp cơ sở hạ tầng Cơ sở vật chất hạ tầng là một trong số các nhân tố tạo nên sự hấp dẫn với FDI nên những quốc gia nào mà cơ sở vật chất hạ tầng yếu kém rất khó thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, khi đã không thu hút được đầu tư nước ngoài thì khả năng tạo cơ sở vật chất hạ tầng cũng rất hạn chế. Do đó để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này cần đi trước một bước, tiến hành đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng, đáp ứng yêu cầu FDI đặt ra. Điều này cũng có nghĩa: để thu hút được dòng FDI, nước chủ nhà cần phải cải thiện cơ sở hạ tầng, phải đầu tư phát triển cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng bởi số lượng FDI có tăng lên hay không theo thời gian còn phụ thuộc vào sự thoả mãn thường xuyên về cơ sở vật chất hạ tầng như đường xá, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng thương mại… Tăng trưởng cao của FDI thường đi đôi với kế hoạch triển vọng về phát triển cơ sở vật chất hạ tầng của nước chủ nhà. Malaysia với những dự án khổng lồ về xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho đến năm 2020 của thủ tướng Mahathir, là một trong những minh chứng rõ ràng nhất về thu hút FDI.Về vai trò của cơ sở vật chất hạ tầng, theo kết quả khảo sát của nhóm 25 nước bao gồm nước: Indonêxia, Hàn Quốc…. trong khu vực Châu Á -Thái Bình Dương cho thấy những chỉ tiêu cụ thể như số máy điện thoại trên 100 người dân, mức độ hiện đại của hệ thống thông tin liên lạc, sự phát triển của hệ thống tài chính, chất lượng của đường bộ, đường sắt… là những điều kiện được xem xét để duy trì FDI ở các nước này. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút FDI và cũng là nhân tố thúc đẩy hoạt động FDI diễn ra nhanh chóng, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định. Quốc gia có hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới giao thông, năng lượng, hệ thống cấp thoát nước, các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng phát triển tạo điều kiện cho các dự án FDI phát triển thuận lợi. Mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố này phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.Trong quá trình thực hiện dự án, các nhà đầu tư chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh, thời gian thực hiện các dự án được rút ngắn, bên cạnh đó việc giảm chi phí cho các khâu vận chuyển, thông tin... sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư. Vì vậy, đầu tư phát triển cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật có vai trò quan trọng đối với quá trình thu hút FDI. Và vốn đầu tư vào lĩnh vực này không đúng hướng và hợp lý thì sẽ làm mất đi một động lực quan trọng trong thu hút FDI. Để không rơi vào tình huống này. Chúng ta cần phải biết được thực trạng hiện nay của các công trình hạ tầng kỹ thuật, nắm bắt được những thành tựu đã đạt được và những mặt tồn tại của nó cũng như các yêu cầu của FDI đối với cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Các giải pháp: - Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất chi tiết, quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu; rà soát điều chỉnh cho phù hợp và kịp thời đối với các quy hoạch đã lạc hậu; có kế hoạch cụ thể để thực hiện các quy hoạch đã được duyệt. - Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững. - Tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng sạch như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin; hiện đại hoá hệ thống ngân hàng thương mại… - Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng hình thức hợp tác nhà nước và tư nhân trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng (PPP); - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện... - Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết của Việt Nam với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu về văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không. - Giảm hoặc miễn thuế trong một thời gian đủ lớn để hấp dẫn các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng. - Nhà nước khuyến khích các chủ đầu tư Việt Nam tham gia liên doanh với bên nước ngoài bằng các khuyến khích về tài chính, cấp tín dụng, viện trợ… 3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Chất lượng nguồn lao động là cụm từ được nhắc đến khá nhiều trong thời gian gần đây, nhất là khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam thời gian qua đang có xu hướng chững lại. Nhiều chuyên gia cho rằng, sự chững lại này có nguyên nhân không nhỏ từ chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư, làm cho môi trường đầu tư tại Việt Nam kém hấp dẫn. Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), năm 2011 có 34% số doanh nghiệp hài lòng về chất lượng đào tạo nghề ở Việt Nam, dù cao hơn con số 20% của năm 2008 nhưng vẫn còn thấp, và cần tiếp tục được cải thiện. Giai đoạn 2001-2010 mặc dù Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực trong chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng dạy nghề nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động về tay nghề và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm… Cụ thể, kỹ năng nghề và năng lực nghề nghiệp của lao động Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá lớn so với các nước đang phát triển trên thế giới và khu vực. Năm 2007, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn Nhật Bản 50,4 lần; thấp hơn Hàn Quốc là 18,6 lần; Malaysia 7,8 lần; Thái Lan 1,96 lần và Indonesia 1,5 lần. Năm 2011, theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam xếp thứ 65/141 quốc gia được xếp hạng về lao động. Thời gian tới, để thúc đẩy thu hút và nâng cao chất lượng đầu tư FDI, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, đảm bảo cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững Thực hiện đột phá chiến lược trên, Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng đã xác định mục tiêu: Đến năm 2020 tỷ lệ nhân lực qua đào tạo dưới các hình thức khác nhau phải đạt 70%, (năm 2010 tỷ lệ này là 40%). Trong đó, tỷ lệ nhân lực qua đào tạo ngành nông lâm ngư nghiệp tăng tương ứng từ 15,5% lên 50%; ngành công nghiệp từ 78% lên 92%; ngành xây dựng từ 41% lên 56%; ngành dịch vụ từ 67% lên 88%... Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Phi cho biết, để thực hiện mục tiêu trên, Chiến lược dạy nghề do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trình Chính phủ cũng xác định: Phát triển dạy nghề là sự nghiệp và trách nhiệm của toàn xã hội; là một nội dung quan trọng của chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia… từ đó đưa ra mục tiêu, đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng được các nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ đào tạo; chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ của một số nước phát triển trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia… Cụ thể, giai đoạn 2011-2015 đào tạo mới khoảng 9,6 triệu người, trong đó trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề là 2,1 triệu người. Giai đoạn 2016-2020 đào tạo mới 12,9 triệu người, trong đó cao đẳng nghề và trung cấp nghề là 2,9 triệu người. Đến năm 2015, có 190 trường cao đẳng nghề, trong đó có 26 trường chất lượng cao; 300 trường trung cấp nghề và 920 trung tâm dạy nghề. Đến năm 2020, có 230 trường cao đẳng nghề, trong đó có 40 trường chất lượng cao, 310 trường trung cấp nghề và 1.050 trung tâm dạy nghề. Điều này sẽ tạo ra bước đột phá để đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật, lao động chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Để phục vụ cho mục tiêu thu hút nhiều dự án thiên về công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh lớn, Việt Nam cần tập trung vào công tác đào tạo theo yêu cầu mà các nhà đầu tư cần. Bằng phương thức vừa xây dựng, vừa hợp tác liên kết phát triển các dự án giáo dục và đào tạo như các dự án Đại học Quốc tế, Liên kết đào tạo... hệ thống giáo dục này bước đầu đã góp phần đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao mà doanh nghiệp FDI cần. Ngoài ra, những biện pháp sau cũng cần thực hiện: - Tăng cường mở các lớp dưới nhiều hình thức và qui mô khác nhau để đào tạo bồi dưỡng những kiến thức về hợp tác đầu tư nước ngoài cho cán bộ và công nhân Việt Nam. - Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước về đào tạo cán bộ, nên đưa các cán bộ chủ chốt đi học nước ngoài về quản lý cũng như các lĩnh vực chuyên môn để nâng cao khả năng làm việc cũng như đạo đức nghề nghiệp. - Nghiên cứu và hình thành các chuyên đề về đầu tư nước ngoài để giảng dạy ở một số trường đại học để ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường SV đã hiểu được cái nhìn tổng quan nhất về đầu tư nước ngoài. - Đặt ra sự chuẩn hóa trình độ cán bộ làm việc ở các chức vụ khách nhau trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong các xí nghiệp liên doanh. 4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai đoạn đầu thì các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư là một bước khởi đầu rất quan trọng giúp các chủ đầu tư nước ngoài rút ngắn thời gian tìm hiểu, và lựa chọn quyết định đầu tư. Chúng ta cần phải có các biện pháp xúc tiến sau: - Đổi mới phương thức vận động, xúc tiến đầu tư: Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm; xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ nguồn như: Châu Âu, Bắc Âu... Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại Giao, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ thương mại trong việc nghiên cứu thị trường đầu tư thế giới và khu vực, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính..., phối hợp trao đổi thông tin:tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại từ bên ngoài thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại nước ngoài của Việt Nam ở các nước và địa bàn trọng điểm để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các tổ chức xúc tiến đầu tư nước ngoài quốc tế: ASEAN, APEC, EU.... - Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án FDI mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án FDI đang hoạt động + Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các nhà đầu tư FDI hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà FDI có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam + Đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC...các cuộc hội thảo về đầu tư trong và ngoài nước, sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư thông qua truyền thông đại chúng, Internet, tiếp xúc trực tiếp. + Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giới thiệu về các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về VIệt Nam, tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội. + Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. + Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoach định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. KẾT LUẬN FDI đã mang lại không ít tác động tiêu cực đối với kinh tế, xã hội như gây ra thâm hụt thương mại, ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không hợp lý, thất thu NSNN, … Bên cạnh những tác động tiêu cực, khu vực FDI đã khẳng định được vai trò tích cực và không thể phủ nhận đối với nền kinh tế như: bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tăng tính minh bạch của môi trường đầu tư Việt Nam …. Vậy, để tiếp tục phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của FDI, chúng ta cần thực hiện nghiêm túc một số biện pháp như: cải thiện môi trường đầu tư; phát triển cơ sở vật chất, hệ thống tài chính; cải cách giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư. Nếu chúng ta thực hiện nghiêm túc những biện pháp nêu trên, chắc chắn chúng ta sẽ thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn FDI có chất lượng, vừa phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, vừa hạn chế được những tác động tiêu cực do khu vực FDI gây ra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài- HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA FDI VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.doc
Tài liệu liên quan