Tài liệu Đề tài Giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học: &
ĐỀ TÀI
“Giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học”
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
&
PHỤ LỤC
LỜI NÓI ĐẦU:………………………………………………………………………. 3
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA XÃ HỘI HỌC ........................................................ 4
1. Xã hội học ……………………………………………………………………….. 4
2. Quan hệ xã hội…………………………………………………………………... 4
3. Tương tác xã hội………………………………………………………………… 5
4. Vị thế xã hội……………………………………………………………………… 5
5. Địa vị xã hội……………………………………………………………………… 6
6. Vai trò xã hội…………………………………………………………………….. 6
7. Hành động xã hội………………………………………………………………... 7
8. Thiết chế xã hội………………………………………………………………….. 8
9. Bất bình đẳng xã hội…………………………………………………………….. 9
10. Phân tầng xã hội……………………………………………………………….. 10
11. Di động xã hội………………………………………………………………….. 11
II. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC………………….. 12
1. Lịch sử ra đời của xã hội học…………………………………………………. 12
2. Điều kiện và tiền đề của sự ra đời của xã hội học…………………………. 13
2.1. Điều...
41 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
&
ĐỀ TÀI
“Giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học”
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
&
PHỤ LỤC
LỜI NÓI ĐẦU:………………………………………………………………………. 3
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA XÃ HỘI HỌC ........................................................ 4
1. Xã hội học ……………………………………………………………………….. 4
2. Quan hệ xã hội…………………………………………………………………... 4
3. Tương tác xã hội………………………………………………………………… 5
4. Vị thế xã hội……………………………………………………………………… 5
5. Địa vị xã hội……………………………………………………………………… 6
6. Vai trò xã hội…………………………………………………………………….. 6
7. Hành động xã hội………………………………………………………………... 7
8. Thiết chế xã hội………………………………………………………………….. 8
9. Bất bình đẳng xã hội…………………………………………………………….. 9
10. Phân tầng xã hội……………………………………………………………….. 10
11. Di động xã hội………………………………………………………………….. 11
II. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC………………….. 12
1. Lịch sử ra đời của xã hội học…………………………………………………. 12
2. Điều kiện và tiền đề của sự ra đời của xã hội học…………………………. 13
2.1. Điều kiện phát triển kinh tế xã hội………………………………… 13
2.2. Những tiền đề về tư tưởng, lí luận khoa học……………………... 14
2.3. Một số đóng góp của các nhà sáng lập ra xã hội học……………. 15
III. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC…………... 18
1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học………………………………………… 18
2. Chức năng của xã hội học……………………………………………………... 19
2.1. Chức năng nhận thức…………………………………………………. 20
2.2. Chức năng tư tưởng…………………………………………………… 20
2.3. Chức năng thực tiễn…………………………………………………… 21
2.4. Chức năng dự báo……………………………………………………… 22
2.5 Chức năng quản lý………………………………………………………. 22
2.6. Chức năng công cụ……………………………………………………… 22
3. Nhiệm vụ của xã hội học…………………………………………………. 23
IV. MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC…………………… 23
1. Xã hội học nông thôn…………………………………………………………….. 23
2. Xã hội học đô thị………………………………………………………………….. 24
3. Xã hội học gia đình……………………………………………………………….. 24
4. Xã hội học về chính sách xã hội………………………………………………... 25
5. Xã hội học về pháp luật và tội phạm………………………………………….. 26
6. Xã hội học về dư luận xã hội và thông tin đại chúng……………………….. 26
7. Xã hội học giáo dục................................................................................................. 28
V. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC……………………. 29
1. Phương pháp chọn mẫu…………………………………………………………. 29
2. Phương pháp phân tích các nguồn tài liệu……………………………………. 30
3. Phương pháp phỏng vấn…………………………………………………………. 31
4. Phương pháp qua sát……………………………………………………………... 32
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………….. 33
LỜI NÓI ĐẦU
Xã hội học là một môn khoa học cụ thể, nó nằm trong hệ thống các môn khoa học về xã hội và nhân văn. Xã hội học đã ra đời muộn hơn nhiều môn khoa học khác nhưng đã nhanh chóng phát triển, trở thành một môn khoa học độc lập. Kiến thức về xã hội học liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học, nhất là trong lĩnh vực các khoa học xã hội: dân tộc học, văn hóa học, chính trị học, giáo dục học, tâm lí học…
Giống như các khoa học nghiên cứu về con người, xã hội học là lĩnh vực nghiên cứu một cách khoa học những con người trong mối tương quan với người khác nhưng đi sâu hơn trong việc nghiên cứu các hoạt động xã hội, các hành vi xã hội của con người.
Để hiểu rõ hơn về xã hội học nên em xin chọn đề tài “Giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học” làm bài tiểu luận của môn học.
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA XÃ HỘI HỌC.
1. Xã hội học.
Muốn hiểu đúng nội dung và tính chất của xã hội học chúng ta bắt đầu tìm hiểu nguồn gốc của thuật ngữ này. Người đưa thuật ngữ “xã hội học” vào ngôn ngữ khoa học là Auguste Comte lần đầu tiên vào năm 1839. Thuật ngữ này được ghép từ hai chữ Societas (xã hội) gốc latinh và logos (học thuyết) gốc Hy lạp có hàm nghĩa là một khoa học nghiên cứu về xã hội, mặt xã hội của xã hội loài người.
Xã hội học mà Auguste Comte đưa ra là khoa học nghiên cứu vừa trên cơ sở định tính, vừa trên cơ sở định lượng đối với các quá trình xã hội. Theo đó, xã hội được mô tả như một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc xác định (các tập hợp, nhóm, tầng lớp, các cộng đồng) được cấu trúc và vận hành theo các thiết chế, luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển có tính qui luật. Ngoài các phương pháp thông thường, theo ông, cần nghiên cứu bằng phương pháp thực nghiệm xã hội, xem đó như là cơ sở thực tế của lí luận xã hội học.
Nối tiếp Auguste Comte là Emile Durkheim (1858 – 1879), Max Weber (1864 – 1920) và đặc biệt là sự cống hiến của Karl Marx, các tác giả từ góc nhìn khác nhau đã phát hiện các khía cạnh mới, vấn đề mới trong đời sống xã hội, làm cho xã hội ngày càng phát triển và phong phú thêm.
Mặc dù ngày nay có rất nhiều trường phái xã hội học có quan điểm nghiên cứu khác nhau, nghiên cứu từ thực tiễn xã hội khác nhau, nhưng các định nghĩa về xã hội học mà họ nêu lên cũng có nhiều điểm tương đồng, những khái quát lí luận giống nhau.
Nói một cách khái quát, xã hội học là một khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, nghiên cứu các tương tác xã hội, đặc biệt đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống sự phát triển, cấu trúc, mối tương quan xã hội và hành vi, hoạt động của con người trong các tổ chức nhóm xã hội. Mối tương tác này liên hệ với nền văn hóa rộng lớn cũng như toàn bộ cơ cấu xã hội.
=> Định nghĩa chung xã hội học:
Xã hội học là một lĩnh vực khoa học xã hội nghiên cứu quy luật, tính quy luật của sự hình thành, vận động, biến đổi mối quan hệ, tương tác qua lại giữa con người và xã hội.
2. Quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người và người trong cơ cấu xã hội (nhóm, tập hợp, hội, đoàn), trong các hoạt động và các tương quan xã hội.
Quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình hoạt động chung trong đời sống xã hội hàng ngày. Người ta có thể phân biệt quan hệ xã hội thành các lĩnh vực khác nhau: quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng.
3. Tương tác xã hội.
Tương tác xã hội là khái niệm chỉ mối quan hệ tương hỗ, lệ thuộc vào nhau của những con người trong xã hội. Phản ánh tương hỗ và sự thông đạt hỗ tương (tác động, ảnh hưởng qua lại) đối với từng cá nhân và các đoàn thể, cộng đồng… là điều kiện vô cùng thiết yếu, nhờ nó, thông qua nó mà các đoàn thể, cả xã hội mới có thể tồn tại và hoạt động. Con người cũng như các tập hợp, các đoàn thể luôn luôn có những mối tương quan, tác động ảnh hưởng lẫn nhau với nhiều cách, nhiều dạng vẻ, và đời sống xã hội vì thế, luôn luôn là một hệ thống tương quan xã hội mà trong đó chúng ta ảnh hưởng, tác động với nhau trong môi trường rộng lớn và phức tạp.
Thông qua các quan hệ xã hội, mối tương quan xã hội hình thành và thông qua các hoạt động chúng ta ảnh hưởng, tác động đến nhau (với các vai trò, các chức năng, nhiệm vụ cụ thể). Sự tương tác nào cũng có mối liên hệ với các khuôn mẫu, tác phong, chúng luôn luôn hiện hữu, có thể phân biệt được, lặp đi lặp lại và có ảnh hưởng tương hỗ, trong đó hai hoặc nhiều người cùng thực hiện các nhiệm vụ xã hội của họ. Tương tác xã hội không tách rời quá trình xã hội hóa của cá nhân và được nhìn nhận như là một quá trình tất yếu, kéo dài suốt cuộc đời.
4. Vị thế xã hội.
Vị thế xã hội là một dạng biểu hiện địa vị của con người, được hình thành trong cơ cấu của xã hội, phụ thuộc vào sự thẩm định và sự đánh giá của xã hội trong một điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Nói cách khác, có thể hiểu vị thế xã hội của một người nào đó chính là địa vị hay thứ bậc mà những người sống cùng thời dành cho cho trong bối cảnh anh ta sinh sống, lao động và phát triển. Do vậy, vị thế là sản phẩm của đời sống tinh thần, là thái độ và mức độ tôn trọng hay khinh rẻ của xã hội bày tỏ, biểu lộ ra đối với các cá nhân.
Như vậy, những yếu tố tạo nên vị thế tồn tại khách quan ngoài cá nhân, thể hiện ra ở các tiêu chuẩn có tính phổ biến (trong xã hội) về sự tán thành (khẳng định) hay chê bai (phủ định) của xã hội. Đó cũng chính là các chuẩn mực, các giá trị xã hội nghĩa là những điều người ta cho là quan trọng nhất, đáng tôn trọng nhất.
Xã hội luôn luôn biến chuyển và phát triển, do đó vị thế xã hội cũng luôn luôn di chuyển, bởi vì con người và vị thế xã hội của họ luôn luôn có mối tương quan mật thiết với nhau.
Trong đời sống xã hội, vị thế xã hội thường tương quan với quyền lực. Nếu ta hiểu rằng quyền lực xã hội có ý nghĩa là ảnh hưởng của một người có thể có đối với người khác trong xã hội (đó cũng là biểu hiện vị thế của người ấy).
Xét về mặt tâm lí xã hội, người ta thường tin tưởng, tín nhiệm vào những người có vị thế xã hội cao hơn vì họ có ảnh hưởng lớn, rộng rãi đối với toàn xã hội nghĩa là hơn hẳn người bình thường.
5. Địa vị xã hội.
Địa vị xã hội là sự phản ánh vị thế xã hội của cá nhân, do cá nhận đạt được ở trong một nhóm hoặc là một thứ bậc xã hội trong nhóm này khi so sánh với thành viên khác của nhóm khác.
Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng địa vị xã hội của một người là cái mà xã hội công nhận về người này một cách tương đối tổng quát xét trong bậc thang xã hội. Cũng có nhiều người thì cho rằng địa vị xã hội là sự kết tinh vị thế xã hội của một người. Trong trường hợp này địa vị xã hội của người đó là ổn định được mọi người thừa nhận
Một số tác giả trong quá trình nghiên cứu cho thấy một địa vị của cá nhân thường phản ánh những quyền lực và quyền lợi mà cá nhân đó được hưởng. Trong đời sống xã hội có nhiều biểu hiện khác nhau về địa vị xã hội của mỗi người. Thông thường có:
- Địa vị gán: Là loại địa vị mà cá nhân sinh ra được thừa hưởng (gần như tự nhiên) do đặc điểm của quan hệ xã hội của mình như từ tôn giáo, chủng tộc, sắc tộc, giòng dõi, gia thế…
- Địa vị giành được: Là loại địa vị mà con người nhờ sự phấn đấu, nỗ lực trong các hoạt động sản xuất, đấu tranh, nghiên cứu khoa học… đạt được và được xã hội thừa nhận.
6. Vai trò xã hội.
Khái niệm về vai trò xã hội dùng để chỉ vai diễn hoặc trách nhiệm mà cá nhân đảm đương thực hiện trong một thời gian nhất định do mọi người tín nhiệm giao phó và mong đợi. Những vai trò này do cá nhân học hỏi, rèn luyện trong quá trình xã hội hóa cá nhân tạo nên. Tất nhiên trong một tổ chức xã hội bao gồm nhiều vai trò xã hội “phân công”, có người tùy năng lực, điều kiện chủ quan và khách quan có thể có vai trò là người thừa hành, thực hiện.
Trong xã hội học khi nghiên cứu vai trò xã hội của cá nhân chúng ta phải nghiên cứu mô tả các đặc điểm của vai trò và các cách thức ảnh hưởng của chúng đối với hành vi của mỗi các nhân.
Người ta thường chú ý đến vai trò định chế tức là loại vai trò mà mỗi cá nhân khi sắm vai phải hành động theo khuôn mẫu, cách thức nhất định mà định chế đã chế tài, quy định sẵn. Ngày nay trong xã hội, tất cả các lĩnh vực hoạt động từ chuyên môn khoa học, nghiệp vụ… đều đã được chuẩn hóa dần dần. Do đó muốn tham gia vào bất cứ công việc gì mỗi cá nhân đều phải được chuẩn bị: học hỏi, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn. Và khi đã chính thức hoạt động phải tuân thủ các nội quy, quy chế… nhằm đáp ứng đòi hỏi của xã hội, nhằm đạt hiệu quả cao theo đúng chuẩn mực của các vai trò xã hội mong đợi.
7. Hành động xã hội.
Trong ngành xã hội học, hành động xã hội (Social actions) là một hình thức hoặc cách thức giải quyết các mâu thuẫn hay các vấn đề xã hội. Hành động xã hội được tạo ra bởi các phong trào xã hội, các tổ chức, các đảng phái chính trị, v.v... Thực chất, hành động xã hội là sự trao đổi trực tiếp giữa các cá nhân với nhau cũng như các khuôn mẫu quan hệ đã được cấu trúc hóa bên trên các nhóm, tổ chức, thiết chế và xã hội. Một thực tế có thể quan sát được trong mọi tình huống cá nhân và công cộng hàng ngày là hành động xã hội của con người diễn ra theo những quy tắc nhất định và trong những hình thái nhất định, những quy tắc và hình thái này có một sự bất biến tương đối. Hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người với xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người. Hành động xã hội mang một ý nghĩa bao trùm tổng thể các mối quan hệ xã hội.
Định nghĩa hành động xã hội:
Định nghĩa của nhà xã hội học người Đức Max Weber về hành động xã hội được cho là hoàn chỉnh nhất; ông cho rằng, hành động xã hội là hành vi mà chủ thể gắn cho ý nghĩa chủ quan nhất định, một hành động xã hội là một hành động của một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân đó tính đến hành vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào chuỗi hành động đó. Weber đã nhấn mạnh đến động cơ bên trong chủ thể như nguyên nhân của hành động. Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một hành động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và những phản ứng có thể có từ những người khác thì không phải là hành động xã hội. Hành động không phải là kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội.
Các kiểu của hành động xã hội:
- Kiểu hành động truyền thống được thực hiện bởi vì nó vẫn được làm như thế từ xưa đến nay.
- Kiểu hành động cảm tính bị dẫn dắt bởi cảm xúc.
- Kiểu hành động duy lý với giá trị hướng tới các giá trị tối hậu.
- Kiểu hành động duy lý có mục đích hay còn gọi là kiểu hành động mang tính công cụ.
8. Thiết chế xã hội.
Thiết chế xã hội là một tập hợp các vị thế và vai trò có chủ định nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội quan trọng. Khái niệm thiết chế xã hội là khái niệm quan trọng và được dùng rộng rãi trong xã hội học. Cũng giống như nhiều khái niệm khác của xã hội học, nội hàm của thiết chế xã hội cũng chưa được xác định một cách rõ ràng. Sự nhầm lẫn phổ biến nhất là việc đồng nhất thiết chế xã hội với một nhóm thực, tổ chức thực nào đó. Lý do của sự nhầm lẫn này là mặc dù khái niệm thiết chế xã hội rất trừu tượng, nhưng bản thân thiết chế lại hữu hình.
Nhà xã hội học người Mỹ J. Fichter cho rằng, thiết chế xã hội chính là một đoạn của văn hóa đã được khuôn mẫu hóa. Những khuôn mẫu tác phong của nền văn hóa đó được xã hội đồng tình, khuyến khích sẽ có xu hướng trở thành các mô hình hành vi được mong đợi - các vai trò. Do đó, thiết chế xã hội là một tập hợp các khuôn mẫu tác phong được đa số chấp nhận (các vai trò) nhằm thỏa mãn một nhu cầu cơ bản của nhóm xã hội.
Một số đặc điểm của thiết chế xã hội:
- Mỗi thiết chế đều có đối tượng, có mục đích nhằm thỏa mãn các nhu cầu xã hội, trong đó bao hàm những lề lối, tác phong mà những người liên kết với nhau (trong thiết chế) đều theo đó mà hoạt động.
- Nội dung của thiết chế thường có tính ổn định, vĩnh cửu.
- Các thiết chế đều được tổ chức thành cơ cấu, trong đó các yếu tố tạo thành thiết chế có xu hướng kết lại với nhau, tăng cường cho nhau nhờ các vai trò xã hội và những tương quan xã hội.
- Mỗi thiết chế là một cơ cấu tổ chức thống nhất, điều hành như một đơn vị, không một thiết chế nào tách biệt, cô lập, với các định chế khác nhưng mỗi định chế điều hành như một giai đoạn vì thế có thể nhận định riêng biệt trong tác phong của con người.
- Thiết chế phản ánh hệ thống các giá trị, trong đời sống hiện thực được lặp đi lặp lại trở thành các quy phạm, các luật lệ, tạo nên áp lực xã hội trong tiềm thức của mọi người và mọi người cùng chia sẻ với nhau.
9. Bất bình đẳng xã hội.
Bất bình đẳng xã hội là sự không bình đẳng, sự không bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội.
Tất cả các xã hội, cả quá khứ hay hiện tại đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã hội. Đó là một quá trình trong đó con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi các địa vị, vai trò và những đặc điểm khác nhau. Quá trình của sự khác biệt xã hội không đòi hỏi con người đánh giá các vai trò và các hoạt động cụ thể tồn tại như là quan trọng hơn những cái khác. Tuy nhiên, sự khác biệt xã hội chuẩn bị cho sự bất bình đẳng xã hội, là một điều kiện trong đó con người có cơ hội không ngang bằng về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín. Nhà xã hội học Daniel Rossides cho rằng: ngay trong các xã hội đơn giản nhất "người già thường có uy quyền đối với người trẻ, cha mẹ có uy quyền với con cái, và đàn ông có uy quyền đối với đàn bà."
Bất bình đẳng xã hội không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân trong xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác. Qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đẳng xã hội khác nhau. Bất bình đẳng xã hội là một vấn đề trung tâm của xã hội học, đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phân tầng trong tổ chức xã hội.
Nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội
Ở những xã hội khác nhau, bất bình đẳng cũng có những nét khác biệt. Trong xã hội có quy mô lớn và hoàn thiện hơn thì bất bình đẳng xã hội gay gắt hơn so với trong các xã hội giản đơn. Bất bình bình đẳng thường xuyên tồn tại với những nguyên nhân và kết quả, cụ thể liên quan đến giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ, v.v... Những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội có đa dạng và khác nhau giữa các xã hội và nền văn hóa, và các nhà xã hội học đưa về ba loại căn bản đó là:
- Cơ hội trong cuộc sống: bao gồm tất cả những thuận lợi vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống. Nó không chỉ bao gồm những thuận lợi về vật chất, của cải, tài sản và thu nhập mà cả những điều kiện như lợi ích bảo vệ sức khỏe hay an ninh xã hội. Cơ hội là những thực tế và những thực tế này cho thấy những lợi ích vật chất và sự lựa chọn thực tế của một nhóm xã hội, bất kể những thành viên của nhóm có nhận thức được điều đó hay không. Trong một xã hội cụ thể, một nhóm người có thể có cơ hội, trong khi các nhóm khác thì không và đó là nguyên nhân khách quan của bất bình đẳng xã hội.
- Địa vị xã hội: trái lại, với nguyên nhân khách quan trên, bất bình đẳng xã hội về địa vị xã hội là do những thành viên của các nhóm xã hội tạo nên và thừa nhận chúng. Cơ sở địa vị xã hội có thể khác nhau, có thể là bất cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được các nhóm xã hội khác thừa nhận. Bất kể với nguyên nhân như thế nào, địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi những nhóm xã hội nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội khác tự giác thừa nhận tính ưu việt của những nhóm đó;
- Ảnh hưởng chính trị: bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị có thể được nhìn nhận như là có được từ những ưu thế vật chất hoặc địa vị cao. Thực tế, bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những cơ hội trong cuộc sống. Có thể gọi đó là những bất bình đẳng dựa trên cơ sở chính trị.
10. Phân tầng xã hội.
Phân tầng xã hội (Social Strafication) là sự phân chia nhỏ xã hội thành các tầng lớp khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, học vấn, kiểu dáng nhà ở, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử, sở thích nghệ thuật. Đây là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Đó là một khái niệm để chỉ sự phân chia các cá nhân hay các nhóm xã hội thành các tầng lớp khác nhau. Mỗi tầng bao gồm các cá nhân, các nhóm xã hội có địa vị kinh tế, chính trị, uy tín giống nhau. Phân tầng xã hội diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa…
Khi nói đến phân tầng xã hội, các nhà xã hội học đề cập đến bất bình đẳng xã hội, coi đó như một yếu tố cơ bản cho việc hình thành nên sự phân tầng xã hội. Một số tác giả lưu tâm đến sự biến đổi hình thức của phân tầng xã hội, và cho rằng điều đó phụ thuộc vào tính chất "mở" của hệ thống xã hội. Một số tác giả khác quan tâm đến sự phân phối không đồng đều các lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, coi đó là nguyên nhân dẫn tới sự phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội có mối quan hệ mật thiết. Bất bình đẳng là nguyên nhân, phân tầng xã hội là kết quả. Sự không ngang nhau về mọi lĩnh vực giữa các cá nhân trong xã hội dẫn đến cơ hội và lợi ích của các các nhân là không như nhau, từ đó dẫn đến việc các cá nhân hay các nhóm xã hội có cùng chung lợi ích sẽ tập hợp lại thành một nhóm. Nhiều nhóm có cơ hội và lợi ích khác nhau ra đời. Có nhóm lợi ích và cơ hội nhiều, có nhóm thì ít, từ đó dẫn đến phân tầng xã hội.
Phân tầng xã hội không có ý nghĩa tuyệt đối. Do vị thế xã hội của các nhân có thể thay đổi, từng ngày, từng giờ, có cá nhân hôm nay thuộc tầng lớp này, mai lại thuộc tầng lớp khác. Bởi vì cơ hội và lợi ích của họ không còn nằm trong tầng lớp đó nữa.
Định nghĩa của phân tầng xã hội:
Theo nhà xã hội học Mỹ Neil Smelser, "phân tầng xã hội liên quan đến những cách thức, trong đó bất bình đẳng dường như từ thế hệ này truyền qua thế hệ khác, tạo nên vị trí hoặc đẳng cấp xã hội". Một định nghĩa khác: "sự phân tầng trong xã hội học thường được áp dụng để nghiên cứu về cấu trúc xã hội bất bình đẳng, vì vậy, nghiên cứu về những hệ thống bất bình đẳng giữa những nhóm người nảy sinh như là kết quả không chủ ý của những quan hệ xã hội và quá trình xã hội".
Đặc điểm của phân tầng xã hội:
- Phân tầng xã hội diễn ra ở nhiều khía cạnh như chính trị, kinh tế, địa vị xã hội, học vấn.
- Phân tầng xã hội có phạm vi toàn cầu.
- Phân tầng xã hội tồn tại theo lịch sử, theo các thể chế chính trị.
- Phân tầng xã hội tồn tại trong các nhóm dân cư, giai cấp, tầng lớp xã hội.
11. Di động xã hội.
Di động xã hội (Social mobility), còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch chuyển xã hội, là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội. Di động xã hội liên quan đến sự vận động của con người từ một vị trí xã hội này đến một vị trí xã hội khác trong hệ thống phân tầng xã hội. Thực chất di động xã hội là sự thay đổi vị trí trong hệ thống phân tầng xã hội. Vấn đề di động xã hội liên quan tới việc các cá nhân giành vị trí, địa vị xã hội, liên quan tới điều kiện ảnh hưởng tới sự biến đổi cơ cấu xã hội. Nội hàm của di động xã hội là sự vận động của cá nhân hay một nhóm người từ vị thế xã hội này sang vị thế xã hội khác, là sự di chuyển của một con người, một tập thể, từ một địa vị, tầng lớp xã hội hay một giai cấp sang một địa vị, tầng lớp, giai cấp khác. Di động xã hội có thể định nghĩa như sự chuyển dịch từ một địa vị này qua một địa vị khác trong cơ cấu tổ chức.
Hình thức di động xã hội
- Thế hệ: Có thể phân biệt di động xã hội theo hai khía cạnh khác nhau:
+ Di động giữa các thế hệ: thế hệ con cái có địa vị cao hơn hoặc thấp hơn so với địa vị của cha mẹ;
+ Di động trong thế hệ: là một người thay đổi vị trí nghề nghiệp, nơi ở trong cuộc đời làm việc của mình, có thể cao hơn hoặc kém hơn so với người cùng thế hệ.
- Ngang dọc: Di động xã hội được xác định như là sự vận động của các cá nhân hay một nhóm xã hội từ vị trí, địa vị xã hội này sang vị trí, địa vị xã hội khác. Bởi vậy, khi nghiên cứu di động xã hội, các nhà lý luận còn chú ý tới hình thức:
+ Di động theo chiều ngang: chỉ sự vận động cá nhân giữa các nhóm xã hội, giai cấp xã hội tới một vị trí ngang bằng về mặt xã hội. Trong xã hội hiện đại, di động theo chiều ngang cũng rất phổ biến, nó liên quan đến sự di chuyển địa lý giữa các khu vực, các thị trấn, thành phố hoặc các vùng địa phương;
+ Di động theo chiều dọc: chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các nhóm xã hội, giai cấp xã hội tới vị trí, địa vị xã hội có giá trị cao hơn hoặc thấp hơn. Biểu hiện của hình thức này di động là sự thăng tiến, đề bạt - di động lên và miễn nhiệm, rút lui, lùi xuống, thất bại - di động xuống.
II. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC.
1. Lịch sử ra đời của xã hội học.
Ngay từ thời cổ đại những vấn đề lớn của cá nhân và xã hội đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà tư tưởng trong các giai đoạn lich sử khác nhau. Nhiều tư tưởng của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà triết học, chính trị học đã ra đời và ảnh hưởng khá sâu sắc đến sự phát triển, sự vận động của xã hội. Tuy vậy các mô hình xã hội, các ý tưởng vĩ đại về con người, về xã hội chỉ được xây dựng trên những giả định, những dự đoán trừu tượng, chưa giải thích được cơ cấu và sự vận hành của xã hội trên cơ sở khoa học.
Bắt đầu từ thế kỷ 18, đời sống xã hội ở các nước Châu Âu trở nên hết sức phức tạp. Cuộc cách mạng công nghiệp năm 1750 đã đưa đến những đảo lộn ghê gớm. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những đô thị công nghiệp khổng lồ gây nên những làn sóng chuyển dịch dân cư lớn, kèm theo đó là những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn tôn giáo căng thẳng, các quan hệ xã hội ngày càng thêm đa dạng và phức tạp. Xã hội rơi vào trạng thái biến động không ngừng: chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, xung đột chính trị, suy thoái đạo đức, phân hoá giàu nghèo, bùng nổ dân số, tan rã hàng loạt các thiết chế cổ truyền... Trước tình hình như thế, xã hội nảy sinh một yêu cầu cấp thiết là cần phải có một ngành khoa học nào đó đóng vai trò tương tự như một bác sĩ luôn luôn theo dõi cơ thể sống - xã hội tiến tới giải phẫu các mặt, các lĩnh vực khác nhau trên bề mặt cắt của nó từ tầm vĩ mô đến vi mô, kể cả khi xã hội đó thăng bằng cũng như khi mất thăng bằng để chỉ ra trạng thái thật của xã hội đó, phát hiện ra những vấn đề xã hội (social problems), dự báo khuynh hướng phát triển của xã hội, và chỉ ra những giải pháp có tính khả thi.
Emile Durkheim một trong các bậc tiền bối của khoa học xã hội học đã phát biểu rằng: cuối cùng thì nhà xã hội học phải chẩn đoán xem xã hội ở trong tình trạng "khỏe mạnh" hay "bệnh tật" và sau đó nhà xã hội học phải kê đơn những loại thuốc cần cho sức khỏe của xã hội. Và mãi cho đến nửa sau của thế kỷ XIX, xã hội học mới xuất hiện với tư cách là một môn khoa học độc lập có đối tượng, chức năng và phương pháp riêng biệt.
2. Điều kiện và tiền đề của sự ra đời của xã hội học.
2.1. Điều kiện phát triển kinh tế xã hội.
Vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, nhiều quốc gia ở Tây Âu nền kinh tế, chính trị có những bước phát triển mạnh mẽ có tính chất đột biến đã tạo nên một khối lượng sản phẩm, của cải vật chất khổng lồ tương đương với tất cả những gì mà con người sáng tạo nên từ khi con người xuất hiện cho đến khi chủ nghĩa tư bản hình thành. Biến đổi mạnh mẽ trong kinh tế, trong sản xuất đã làm thay đổi mạnh mẽ mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Lao động công nghiệp, cơ khí hóa trong các công xưởng đã thay thế lao động thủ công, làm thay đổi nền sản xuất nông nghiệp cổ truyền. Lối sống đô thị theo phong cách công nghiệp đã đẩy lùi ảnh hưởng của lối sống điền dã, tản mạn, manh mún, kiểu công nghiệp, nông thôn. Các tác phong khuôn mẫu xã hội cổ truyền, có tính ổn định, quen thuộc, được xem là truyền thống bị tấn công, phá vỡ từng mảng và bị thay thế dần. Rất nhiều nhân tố mới, hiện tượng mới, xã hội mới đã xuất hiện. Hiện tượng cư dân tập trung chen chúc ở đô thị, làm nảy sinh các vấn đề về dân số, về môi trường, về bệnh tật và nạn thất nghiệp.
Sự phát triển mạnh của đời sống kinh tế xã hội đã tạo tiền đề cho sự khẳng định vị thế, vai trò của cá nhân trong đời sống xã hội. Ngay từ thời kỳ phục hưng, quyền con người, vai trò của cá nhân đã được xác lập và khẳng định, nhất là việc đề cao sự tự do của con người. Xã hội tư bản được hình thành và củng cố, điều kiện và yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội kiểu mới đã khác với thời kỳ phục hưng. Xã hội tư bản đòi hỏi sự tự do của con người phải được đặt trong khuôn mẫu, trong thiết chế xã hội và tuân thủ pháp luật. Nhu cầu nghiên cứu về vai trò của cá nhân trong các tương quan xã hội đặt ra cho xã hội học những vấn đề cụ thể, bức thiết.
Hơn nữa vào thời kỳ này, so với giai đoạn trước, sự giao lưu quốc tế, quan hệ thương mại, quan hệ thực dân đã tạo ra cơ hội, tiền đề tiếp xúc, làm ăn với nhiều xã hội, nhiều nền văn hóa, nhiều lối sống khác lạ. Họ bắt đầu quan sát, so sánh, đối chiếu và nhận ra rằng xã hội Tây Âu có nhiều điểm khác xa so với xã hội châu Á, châu Úc, châu Mĩ, châu Phi về kinh tế, các quan hệ chính trị, xã hội,... Từ những tiền đề kinh tế xã hội và sự phát triển kinh tế xã hội kể trên đã đặt ra yêu cầu phải nhanh chóng nghiên cứu, phát hiện, tìm kiếm các qui luật, xu thế phát triển của xã hội và con người, định hướng cho sự phát triển xã hội tương lai. Không thể nghiên cứu các vấn đề trên chỉ trong phạm vi của triết học, kinh tế học, dân tộc học, văn hóa học và cũng không thể chỉ bằng lòng với các lý thuyết sẵn có, tất cả tạo ra tiền đề cho sự xuất hiện một lý thuyết, một khoa học mới nghiên cứu về sự vận động, phát triển của đời sống xã hội đó là xã hội học.
2.2. Những tiền đề về tư tưởng, lí luận khoa học.
Xã hội học cũng như bất kì một khoa học nào khác sẽ không thể nào phát triển được nếu chỉ xuất phát, căn cứ từ các nhu cầu thực tiễn mà thiếu những tiền đề lí thuyết, cơ sở khoa học nhất định.
Khi đi sâu nghiên cứu mặt xã hội trong đời sống con người một thực thể sinh động và rất phức tạp, xã hội học phải dựa trên cơ sở lí luận phong phú, làm công cụ cho quá trình nghiên cứu sáng tạo.
Dựa vào và kế thừa nhiều thành tựu của các khoa học khác khi xác lập xã hội học, Auguste Comte đã cố gắng làm rõ, phân biệt đối tượng, phương pháp nghiên cứu, hình thành nội dung và cấu trúc của xã hội với tư cách là một khoa học riêng biệt so với các khoa học khác trong hệ thống các khoa học xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu, xã hội học cũng đã tiếp thu và vận dụng có kết quả, nhất là về phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên, các khoa học về con người, kể cả một số phương pháp của khoa học kỹ thuật. Nhờ vậy mà chất lượng nghiên cứu ngày càng cao, càng có độ tin cậy. Trong các phương pháp ấy phương pháp nghiên cứu theo cấu trúc – hệ thống vốn có trong các khoa học tự nhiên, trong khoa học kỹ thuật (nghiên cứu về vật chất) đã được mô phỏng, chọn lọc, áp dụng vào việc nghiên cứu xã hội và tương quan giữa cá nhân với đời sống xã hội.
Trong rất nhiều công trình nghiên cứu xã hội học từ trước tới nay người ta đã áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu của các khoa học khác nhau (như các phương pháp toán học, các phương pháp nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu triết học…), đặc biệt là các phương pháp định lượng trong các khoa học tự nhiên vào việc tìm hiểu, đo đạc, lượng giá các vấn đề xã hội, tăng thêm độ chính xác, tường minh, tính khoa học trong nghiên cứu xã hội học. Ngày nay xã hội học ngày càng cố gắng nâng cao tính chất khoa học của mình qua việc thu thập số liệu, thực hành quan sát, phân tích dữ liệu, xử lí thông tin, mô tả, biểu diễn tổng quát và áp dụng những phương pháp, kĩ thuật, thủ thuật nghiên cứu của nhiều khoa học có liên quan.
Nhờ có tiên đề lí thuyết phong phú, vững chức với quá trình nghiên cứu bám sát thực tế đời sống, trong các công trình nghiên cứu xã hội học đã thật sự tôn trọng, đảm bảo các điều kiện sau:
- Dựa trên các bằng chứng hiển nhiên, có đủ điều kiện có thể thẩm tra, kiểm chứng được độ chính xác.
- Thực tiễn xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, do đó trong quá trình nghiên cứu không nên tuyệt đối hóa, xem xét vấn đề với thái độ cực đoan, chỉ chấp nhận sự thật khoa học sau khi đã lật đi lật lại, nghiên cứu vấn đề với nhiều phương pháp, kiểm chứng thử nghiệm khác nhau.
- Trong xã hội học có thể lập luận, chứng minh, trả lời câu hỏi nào đó đặt ra bằng những kiến thức mới mẻ. Nhưng giá trị của các phát hiện, các lí thyết mới ấy cần được đánh giá sau khi đã vận dụng vào thực tế đời sống, không xuất phát từ ý chí chủ quan, hoặc từ thái độ có tính định kiến, từ xúc cảm của người nghiên cứu.
- Phải đảm bảo tính khách quan trong quá trình nghiên cứu, từ những việc đơn giản, riêng lẻ cho đến việc tập hợp, xử lí đánh giá những vấn đề lớn, không thiên vị, thành kiến đối với đối tượng.
- Nghiên cứu xã hội rộng lớn muốn chính xác cần tiêu chuẩn hóa các tiêu chí đánh giá, khảo sát, kiểm tra và phải vận dụng các phương pháp nghiên cứu một cách chính xác, tie mỉ khách quan.
Tóm lại, sự phát triển nhanh chóng của xã hội Tây Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã đòi hỏi sự xuất hiện cảu khoa học nghiên cứu về sự vận động và phát triển của xã hội.
2.3. Một số đóng góp của các nhà sáng lập ra xã hội học.
a). Auguste Comte (1798 – 1857).
Ông sinh tại Montpellier, nước pháp, trong một gia đình theo đạo Giatô theo xu hướng quân chủ.
Trong các tác phẩm đầu tiên của mình, Auguste Comte đã phân tích sự khủng hoảng của xã hội Tây Âu hồi đầu thế kỷ 19 với sự sụp đổ của xã hội thần học và quân sự, đồng thời là sự ra đời của xã hội khoa học và công nghệ.
Ông đã phát hiện, xây dựng nên quy luật ba trạng thái trong đó trình bày ba giai đoạn phát triển tinh thần của con người:
- Kỷ nguyên thần học, trong đó tinh thần giải thích các hiện tượng bằng những thực thể hay sức mạnh có hình người.
- Kỷ nguyên siêu hình học, trong đó tinh thần giải thích các hiện tượng bằng những thực thể trừu tượng.
- Kỷ nguyên thực chứng, trong đó tinh thần thiết lập những liên hệ đều đặn gọi là các quy luật.
Theo ông tất cả các môn học trí tuệ đều phải trải qua ba kỷ nguyên đó nhưng không đồng thời với nhau. Do đó theo ông, có thể phân loại khoa học theo thư tự vừa logic vừa lịch sử mà trong đó khoa học cuối cùng, phức tạp nhất là xã hội học. Đặc trưng của xã hội học là ở tính tổng hợp của nó, cho nên đối tượng của xã hội học chỉ có thể là lịch sử loài người.
Auguste Comte quan niệm rằng xã hội học sẽ mạng lại giải pháp cho sự khủng hoảng của văn minh phương Tây, là một thứ “kinh Phúc âm” của khoa học thực chứng mà ông truyền giảng với tư cách là nhà “cải cách xã hội”. Nhưng ông không có ảo tưởng đối với vệc can thiệp vào đời sống xã hội, vì đó là việc quá phức tạp. Cải cách xã hội cũng đòi hỏi phải xét lại nhiều khái niệm căn bản, phải chỉnh đốn phong tục, rất tốn thời gian và công sức. Ông xem chiến tranh là lỗi thời và dự báo trước sự xuất hiện một quyền lực tinh thần mới: quyền lực của các nhà bác học và các nhà triết học.
Về sau Auguste Comte được tôn vinh là người khai sáng ra xã hôi học. Ông luôn luôn tin tưởng rằng muốn nghiên cứu xã hội học phải dựa trên sự quan sát có hệ thống và phân loại.
Ông cũng thừa nhận rằng xã hội học luôn luôn bị chi phối bởi các nguyên tắc và phương pháp của khoa học tự nhiên.
Với những cống hiến to lớn như trên, ông được xem là người có công đầu xây dựng nên xã hội học với vai trò của một khoa học chân chính.
b). Karl Marx (1818 – 18830.
Là nhà triết học, kinh tế học người Đức. Lúc sinh thời Karl Marx không coi mình là nhà xã hội học, nhưng những tư tưởng trong di sản đồ sộ của ông đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của xã hội học, đến nỗi ngày nay ai cũng coi ông mặc nhiên là một trong những người sáng lập ra xã hội học. Dường như tất cả các nhà xã hội học hiện đại khi giải thích xã hội đều tiếp cận bằng lý thuyết mâu thuẫn và xung đột của Karl Marx. Các nhà xã hội học "đều vay mượn của Karl Marx các lý giải về giai cấp, ngay cho dù nhà xã hội học đó kết thúc bằng cách bài bác Karl Marx như là sai lầm và bị lịch sử vượt qua". Karl Marx chủ yếu sử dụng lý thuyết mâu thuẫn để làm sáng tỏ biến chuyển xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa hai giai cấp cơ bản kiến tạo nên xã hội. Các vấn đề như: phân tầng xã hội, tội phạm, biến chuyển xã hội,... đều được các nhà xã hội học đương đại xem xét dưới ánh sáng lý thuyết mâu thuẫn của Karrl Marx.
Các tác phẩm chính: Gia đình thần thánh (1845), Hệ tư tưỏng Đức (1846), Sự khốn cùng của triết học (1847), Tư bản (1875).
c). Herbert Spencer (1820 – 1903).
Spencer là nhà triết học và xã hội học người Anh được giới triết học xem là cha đẻ của triết học tiến hóa. Ông phản bác sự phân chia khoa học thành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Ông cố gắng xây dựng một hệ thống lí luận thống nhất về sự tiến hóa, theo công thức: chuyển từ đơn giản thuần nhận trong một số trường hợp riêng biệt có sự vận động ngược lại.
Ông cũng chủ trương phân loại xã hội thành “xã hội quân sự” và “xã hội công nghiệp” theo đó, các xã hội quân sự là những xã hội độc tài, trong đó sự ganh đua và gây hấn luôn luôn ngự trị, còn các xã hội công nghiệp là các “xã hội tự do”. Quá trình tiến hóa xã hội diễn ra từ kiểu này sang kiểu kia, tùy thuộc vào thời kì chiến tranh hay hòa bình. Hòa bình có lợi cho xu thế tự nhiên chuyển từ các xã hội quân sự sang các xã hội công nghiệp, còn chiến tranh thì cản trở và xóa bỏ sự tiến hóa ấy, tạo điều kiện cho phản cách mạng xuất hiện.
Lí thuyết “tiến hóa xã hội” của Spencer có lúc đã được giới khoa học thừa nhận nhưng sau đó bị bác bỏ và ông đã phục hưng chúng bằng cách có những thay đổi và đổi mới nhất định.
d). Emile Durkheim (1858 – 1917).
Nhà xã hội học nổi tiếng được coi là cha đẻ của xã hội học Pháp. Ông là người lập ra chuyên ngành xã hội học ở trường Đại học Bordeaux và ở Đại học Sorbonne của Paris. Các nhà xã hội học trên thế giới ngày nay đều ảnh hưởng rất nhiều lối tiếp cận cấu trúc, chức năng của ông. E. Durkheim đã cố gắng tách các sự kiện, hiện tượng xã hội ra khỏi sự chi phối của con người và yêu cầu xem xét chúng như các "vật thể" để không áp đặt vào chúng những định kiến đã có sẵn. Ông cũng là người sáng lập ra "Niên giám xã hội học" nhằm tập hợp các công trình khoa học của các nhà xã hội học đương thời. Ông là người có công lao rất lớn trong việc hình thành và phát triển ngành xã hội học hiện đại.
Các tác phẩm chính: Phân công lao động xã hội (1893), Các qui tắc của phương pháp xã hội học (1897), Tự tử (1897), Các hình thức cơ bản của đời sống tôn giáo (1912).
Sau khi ra đời, xã hội học đã phát triển rực rỡ và có được những bước tiến dài trong việc xây dựng nền tảng cũng như các phân nghành xã hội học ở các nước công nghiệp phát triển. Có thể nói những thành tựu to lớn mà các nước công nghiệp phát triển đạt được là có sự đóng góp đáng kể của ngành khoa học xã hội học. Ngày nay, xã hội học đã có mặt ở hầu khắp các nước trên thế giới và chiếm một vị trí xứng đáng trong hệ thống lý thuyết cũng như ứng dụng. Nó được coi là môn khoa học phát triển. Rất nhiều trường phái xã hội học hiện đai nổi tiếng có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Chẳng hạn như trường phái lý thuyết hệ thống của Talcott Parsons (Đại học Harvard), trường phái xã hội học đô thị (Đại học Chicago), trường phái xã hội học tội phạm (Đại học Michigan), trường phái lý thuyết tương tác Marx (Bulgaria), ...
e). Max Weber (1864 – 1920).
Nhà xã hội học Đức, được coi là một trong những nhà xã hội học lớn nhất đầu thế kỷ 20. Lĩnh vực được ông chú ý nhiều là hành động xã hội. Ngoài ra, Max Weber còn dành khá nhiều thì giờ nghiên cứu về đạo Tin lành, về tổ chức quan liêu, về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản... Những tư tưởng của ông đã để lại khá đậm nét cho các thế hệ xã hội học sau này không chỉ về lý thuyết mà còn các phương pháp tiếp cận xã hội.
Các tác phẩm chính: Những tiểu luận phương pháp luận (1902), Đạo đức Tin lành và tinh thần của CNTB (1904), Kinh tế và xã hội (1910-1914), Xã hội học tôn giáo (1916).
III. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC.
1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học.
Đối tượng nghiên cứu của xã hội chính là xã hội loài người, trong đó quan hệ xã hội (tương quan xã hội) được biểu hiện thông qua các hành vi xã hội giữa người và người.
Từ việc nghiên cứu các quan hệ của con người trong gia đình, bạn bè, trong cộng đồng… chúng ta tìm ra logic, cơ chế vận hành thường tàng ẩn trong đó, phát hiện tính quy luật của các hình thái vận động và phát triển của xã hội.
Như vậy là cái mang tính phổ quát, bao trùm trong các công trình nghiên cứu xã hội học là các hành vi xã hội của con người.
Vấn đề thứ hai mà xã hội học quan tâm nghiên cứu là hệ thống xã hội, ở đây cá nhân trong tương quan xã hội với nhóm, với cộng đồng diễn ra như thế nào. Qua đó có thể thấy được cấu trúc hệ thống xã hội, và cấu trúc này trong từng phân hệ của nó lại có mối liên hệ, tác động lẫn nhau, định hình dưới dạng các thiết chế xã hội, những hệ thống giá trị chuẩn mực lại quy định cơ chế hoạt động của hệ thống.
Nhiệm vụ của xã hội học từ chỗ phát hiện ra cơ cấu xã hội thể hiện dưới dạng các thiết chế xã hội, chúng do con gười thiết lập nên nhưng lại tác động trở lại cuộc sống của con người theo các chiều hướng khác nhau: mang tính quy luật khách quan. Tất nhiên về lĩnh vực này, do xuất phát nghiên cứu ở nhiều xã hội khác nhau, các tác giả cũng có nhận xét, khái quát khác nhau và thể hiện quan điểm khác nhau.
Ngoài việc nghiên cứu về giai cấp, xã hội còn nghiên cứu cơ cấu xã hội với các nhóm, các cộng đồng khác trong xã hội (nhóm dân tộc, nhóm tôn giáo, nhóm theo giới tính…)
Nghiên cứu nhóm cộng đồng xã hội chính là nghiên cứu về mối quan hệ, tác động qua lại giữa các cá nhân trong cộng đồng về lợi ích để xem xét mức độ gần gũi về quan điểm, tín ngưỡng, về định hướng chính trị, mục tiêu và phương thức hành động để đạt tới mục đích. Nhờ vậy sẽ có cơ sở để xem xét tác động qua lại giữa các nhóm, các cộng đồng tạo nên một chỉnh thể xã hội với tất cả những mâu thuẫn, xung đột, vận động và phát triển…qua đó có thể đoán định được tính ổn định, tính bền vững của mỗi thể chế xã hội, trong những điều kiện chủ quan và khách quan có tính xác định.
Nhờ nghiên cứu sâu nhóm cộng đồng, chúng ta cũng sẽ phát hiện được bản sắc đặc thù trong hành vi xã hội của người. Trong trường hợp này các chuẩn mực giá trị, thiết chế xã hội, bản sắc văn hóa chính là khuôn mẫu, chuẩn mực hành vi của mỗi nhóm người. Vậy đối tượng nghiên cứu của xã hội học nói một cách khái quát chính là hành vi xã hội của con người. Chúng ta chỉ có thể hiểu rõ hành vi xã hội dựa trên cơ sở làm rõ một tương quan giữa người và người trong các nhóm và trong cộng đồng xã hội dựa trên các dấu hiệu đặc trưng.
Những nhóm cộng đồng xã hội khác nhau tương tác với nhau tạo nên một kết cấu chỉnh thể của một xã hội. Nghiên cứu các vấn đề trên, xã hội học phát hiện ra tính quy luật chi phối các quan hệ, các mối liên hệ tạo thành hệ thống tổng thể, hoàn chỉnh của xã hội.
2. Chức năng của xã hội học.
Mỗi một môn khoa học đều có một số chức năng nhất định. Chức năng của mỗi môn khoa học được phản ánh ở mối quan hệ và sự tác động qua lại của chính môn khoa học đó với thực tiễn xã hội. Xã hội học có sáu chức năng cơ bản sau đây:
2.1. Chức năng nhận thức.
Chức năng nhận thức của xã hội học được thực hiện trong một số mặt cơ bản sau:
Trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học về sự phát triển của xã hội, quy luật của sự phát triển ấy, đồng thời vạch ra cơ chế của quá trình phát triển đó.
Thông qua việc vạch ra những quy luật khách quan của các quá trình phát triển của các hiện tượng và các quá trình xã hội mà tạo nên các tiền đề để nhận thức về những triển vọng nhằm phát triển hơn nữa đời sống xã hội cũng như các mặt, các khía cạnh riêng biệt của nó.
Thông qua nghiên cứu, các nhà xã hội học xác định được nhu cầu phát triển của xã hội, của các giai cấp, các cộng đồng… biểu lộ ra ở các hoạt động xã hội của con người, góp phần xác định các hình thức cụ thể nhằm đạt được nhu cầu, sự kết hợp được lợi ích của các cá nhân với lợi ích của tập thể và cộng đồng…
Cùng với các khoa học có liên quan, xã hội học góp phần xây dựng, làm sáng tỏ lí luận và phương pháp luận nhận thức về xã hội thông qua các công trình nghiên cứu, so sánh, đối chiếu, tổng hợp về các mô hình xã hội khác nhau tìm ra những hạt nhân hợp lí, những mô thức tối ưu.
Chức năng nhận thức của xã hội học được thể hiện qua chức năng phương pháp luận của nó. Ý nghĩa phương pháp luận của xã hội học được thể hiện ở chỗ, nó là những thông tin khoa học tập trung và chọn lọc, loại trừ tất cả những gì là thứ yếu, nó đóng vai trò những nguyên lí và những chuẩn mực cho các tiến trình nghiên cứu khoa học. Mọi hoạt động của con người đều thực hiện trên cơ sở những nguyên lí cụ thể, chứa đựng những vấn đề mang tính quy luật rút ra từ kinh nghiệm của quá khứ và hiện tại.
2.2. Chức năng tư tưởng.
Chức năng tư tưởng thể hiện ở việc phục vụ cho việc giáo dục quần chúng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy ảnh hưởng tích cực hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đang tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong việc giáo dục tư tưởng quần chúng theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội học vũ trang cho mọi người tri thức về các qui luật khách quan của sự phát triển xã hội, giáo dục lí tưởng xã hội chủ nghĩa, tiến lên xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong quá trình giáo dục xã hội, một bộ phận cảu xã hội học – xã hội học ứng dụng có vai rò và tác dụng sâu sắc.
Xã hội học Mác – Lênin còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tư duy khoa học, hình thành thói quen, nề nếp suy xét trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, nắm bắt và hành động phù hợp với qui luật khách quan của sự vận động và phát triển của xã hội, phát huy được bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Lập trường của nhà xã hội học chân chính phải luôn luôn đảm bảo tính khách quan, khoa học trong vấn đề nghiên cứu, đảm bảo nguyên tắc tính Đảng trong khoa học xã hội, trong việc nghiên cứu và vận dụng kiến thức khoa học phục vụ đức lực cho cho công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là nhà xã hội học không đứng bên lề xã hội, nghiên cứu khoa học với thái độ bàng quan mà luôn gắn với công tác nghiên cứu khoa học của mình với mục đích, lí tưởng xã hội mà toàn xã hội đang phấn đấu thực hiện.
2.3. Chức năng thực tiễn.
Trong xã hội học chức năng thực tiễn có liên quan trực tiếp với chức năng nhận thức. Nhận thức khoa học luôn luôn bao hàm yếu tố tiên đoán khoa học, do đó chức năng thực tiễn của xã hội học luôn luôn bắt nguồn từ bản chất khoa học của các nhận thức khoa học. Trên cơ sở phân tích thực trạng xã hội và những mặt, những quá trình riêng lẻ của sự vận động, phát triển của nó, xã hội học sẽ làm sáng tỏ triển vọng của sự vận động và phát triển của xã hội trong tương lai gần cũng như tương lai xa.
Khi nghiên cứu thực trạng của các quan hệ xã hội, xã hội học tạo điều kiện để con người có thể kiểm soát được quan hệ xã hội của mình và điều hòa các quan hệ đó sao cho phù hợp với yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển và tiến bộ xã hội.
Việc dự báo trên cơ sở nắm bắt chính xác các quy luật và xu hướng phát triển của xã hội là tiền đề và là điều kiện để kế hoạch hóa và quản lí xã hội một cách khoa học.
Chức năng thực tiễn của xã hội học không tách rời những đề xuất và kiến nghị mà nó đề ra nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý, nhằm củng cố mối liên hệ giữa khoa học với công tác quản lí, nhằm củng cố mối liên hệ giữa khoa học với đời sống thực tế, phát huy tác dụng của xã hội học đối với công tác quản lí xã hội nói chung. Từ những yếu tố trên có thể hiểu rằng chức năng thực tiễn của xã hội học còn biểu lộ ra ở chức năng quản lí và chỉ đạo của nó. Với chức năng này, xã hội học có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thực tiễn của các cơ quan quản lý và hoạt động của quần chúng. Ý nghĩa lớn lao của chức năng quản lý xã hội học là do hai nhân tố sau qui định: Vai trò của công tác quản lý đối với xã hội và nội dung có tính đặc thù của xã hội học.
Nói như vậy, bởi vì quản lý xã hội học chính là một kiểu quan hệ và hoạt động của con người, gắn liền với việc đặt ra các quyết sách có tính quyết định đối với sự ứng xử của mỗi người và của các chủ thể xã hội, kể cả việc kiểm soát việc thi hành các quyết định đó. Tất cả đều là hành động có ý thức, có mục đích của từng các nhân và các cộng đồng, cũng như của toàn xã hội. Như vậy cũng có nghĩa là các hệ thống xã hội, các thể chế xã hội duy trì hoặc thay đổi tình trạng của chúng thông qua cơ chế điều chỉnh của ý thức. Chức năng quản lý của xã hội học còn thể hiện ở sự dự báo. Đây chính là một khâu nối liền hoạt động lý thuyết với hoạt động thực tiễn của công tác quản lí. Dự báo xã hội trong thực tế không thể thực hiện được nếu không dựa vào xã hội học, không dựa vào các phương pháp khoa học, đặc biệt là dựa vào các thực nghiệm của xã hội.
Qua các chức năng quản lý của mình xã hội học góp phần vào việc giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề quan trọng trong công tác qản lý xã hội và kinh tế, văn hóa, giáo dục và phát triển xã hội… Qua đó xã hội học cũng nâng cao chất lượng nghiên cứu, chất lượng phục vụ đời sống xã hội và nâng cao chất lượng khoa học của chính mình.
2.4. Chức năng dự báo.
Trên cơ sở nhận diện được hiện trạng xã hội thực tại và sử dụng các lý thuyết dự báo, các nhà xã hội học sẽ mô tả được triển vọng vận động của xã hội trong tương lai gần cũng như tương lai xa hơn. Dự báo xã hội là một thế mạnh của xã hội học. Có thể nói trong tất cả các môn khoa học xã hội thì xã hội học có chức năng dự báo mạnh nhất và hiệu qủa nhất.
2.5 Chức năng quản lý.
Trước hết cần phải nói rõ ngay rằng xã hội học không phải là khoa học quản lý, nhưng có một điều chắc chắn rằng tất cả các hoạt động quản lý kể cả quản lý kinh tế, hành chính hay nhân sự chỉ trở nên tối ưu khi mà biết sử dụng tốt các kết luận, nhận định và dự báo của xã hội học.
2.6. Chức năng công cụ.
Các phương pháp, các kỹ thuật thao tác, các cách thức tiếp cận xã hội của xã hội học được các ngành khoa học khác nhau cũng như các lĩnh vực khác nhau của kinh tế, chính trị, văn hóa,... sử dụng như một công cụ hữu ích và hết sức cần thiết trong quá trình hoạt động. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua các cuộc thăm dò dư luận xã hội trước các cuộc tranh cử, hay các phương pháp điều tra của xã hội học được ứng dụng vào việc thăm dò nhu cầu, thị hiếu khách hàng trong marketing. Do vậy "xã hội học sẽ làm một công cụ hữu hiệu để cho con người có thể xây dựng cho mình một xã hội tốt đẹp hơn ".
3. Nhiệm vụ của xã hội học.
- Nhiệm vụ hàng đầu của xã hội học là nghiên cứu các hình thái biểu hiện và các cơ chế hoạt động của các quy chế hoạt động của xã hội.
- Nhiệm vụ tiếp theo của xã hội học là phục vụ cho công tác tổ chức và quản lí xã hội một cách trực tiếp và gián tiếp.
Xã hội học đại cương cung cấp thông tin phục vụ gián tiếp cho công tác quản lí xã hội vĩ mô, xem như là một bộ phận của nhân sinh quan, như cơ sở phương pháp luận của các xã hội học chuyên ngành và kể cả các khoa học trong hệ thống khoa học xã hội.
IV. MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC.
1. Xã hội học nông thôn.
Xã hội học nông thôn là một chuyên ngành học trong xã hội học. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học nông thôn là các hiện tượng, các quá trình xã hội trong phạm vi đời sống xã hội diễn ra trong bối cảnh nông thôn. Như vậy, nông thôn là môi trường xã hội được xem xét, xác đinh theo để phân biệt với vùng đô thị, là đơn vị kinh tế xã hội, có những nét đặc thù về cơ cấu dân cư, các tập quán, lối sống và các truyền thống của cộng đồng dân cư.
Nội dung nghiên cứu của xã hội học nông thôn.
- Nghiên cứu về cơ cấu của xã hội nông thôn: về các giai cấp và sự phân tầng xã hội diễn ra ở nông thôn.
- Cơ cấu về xã hội, lao động nghề nghiệp ở nông thôn theo xu hướng tiến bộ và phát triển xã hội hiện nay.
- Đời sống chính trị - xã hội ở nông thôn (vấn đề làng xã, họ tộc, đời sống gia đình…)
- Đời sống văn hóa ở nông thôn, vấn đề truyền thống, văn hóa (vùng văn hóa, lễ hội, tập tục…)
- Vấn đề nghề nghiệp, lối sống, vấn đề dân cư, các yếu tố có liên quan đến sự phát triển và tiến bộ của cộng đồng dân cư nông thôn…
- Con đường tiến lên xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
2. Xã hội học đô thị.
Xã hội học đô thị cũng là một chuyên ngành quan trọng trong xã hội học, có vai trò to lớn đối với việc nghiên cứu sự vận động và phát triển của xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay.
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học đô thị là các hiện tượng và các quá trình xã hội diễn ra ở đô thị. Nói khác đi, đó chính là quá trình đô thị hóa với tất cả tác động và ảnh hưởng của nó đối với đời sống và hoạt động của con người.
Trong xã hội học đo thị người ta tập trung nghiên cứu vào hai khía cạnh sau:
- Các yếu tố thuộc phạm vi không gian – vật chất của đô thị.
- Các yếu tố về tổ chức xã hội đô thị.
Các vấn đề trong nghiên cứu xã hội học đô thị hiện nay là:
- Các vấn đề về cơ cấu dân số và sinh thái học ở đô thị.
- Lối sống đô thị, hiện tượng quá tải ở đô thị nguyên nhân và giải pháp.
- Cộng đồng dân cư và các thiết chế xã hội ở vùng đô thị.
- Vấn đề đô thị trung tâm với các vệ tinh và các vùng phụ cận.
- Dự báo quy hoạch đô thị trong điều kiện xã hội phát triển.
- Môi trường văn hóa ở đô thị, sự giao lưu văn hóa ở các đô thị.
- Chính sách xã hội ở vùng đô thị…
3. Xã hội học gia đình.
Xã hội học gia đình cũng là một chuyên ngành trong xã hội học chuyên nghiên cứu về quan hệ xã hội trong phạm vi gia đình. Gia đình được quan niệm là một nhóm xã hội, hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.
Trong xã hội học gia đình chúng ta nghiên cứu gi đình ớ các mặt sau:
- Gia đình được xem là một thiết chế xã hội, là tế bào của xã hội luôn luôn gắn với mọi mặt của đời sống xã hội và luôn luôn có tác động tương hỗ lẫn nhau thông qua các chức năng của gia đình.
- Gia đình là nhóm xã hội, có đời sống tâm lí và tình cảm sâu sắc, gắn kết có tính đặc thù giữa các thành viên, quan hệ giới tính, quan hệ giữa các thế hệ. Tình cảm gia đình gắn kết con người trong suốt cuộc đời.
Nội dung nghiên cứu của xã hội học gia đình.
- Xuất phát từ quan niệm là nơi quá trình xã hội hóa của con người được bắt đầu và nguồn gốc gia cấp xã hội của gia đình có ảnh hưởng sâu đậm tới quá trình này cho nên cần chú ý nghiên cứu sâu sắc các vấn đề.
- Cơ cấu về qui mô của gia đình biểu hiện ở số lượng, thành phần và quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Cơ cấu có ảnh hưởng sâu xa đến các hoạt động kinh tế, văn hóa, giáo dục… của gia đình và biểu hiện cụ thể ở sự phát triển của cá nhân.
- Nghiên cứu về các chức năng và xu thế biến đổi các chức năng của gia đình, sự đóng góp của gia đình vào quá trình tồn tại và phát triển của xã hội nói chung: xu hướng biến đổi chức năng của gia đình trong xã hội hiện tại.
- Nghiên cứu về quá trình hình thành, các giai đoạn phát triển khách nhau trong đời sống gia đình. Vấn đề văn hóa gia đình: gia đạo, gia phong, gia giáo – những mặt tích cực, những mặt hạn chế.
4. Xã hội học về chính sách xã hội.
Xã hội hội học về chính sách xã hội cũng được xem là một bộ phận chuyên ngành trong xã hội học. Bằng việc nghiên cứu xã hội học về chính sách xã hội, xã hội học sẽ cung cấp những thực trạng xã hội với quy luật trong sự diễn biến và phát triển giúp các nhà quản lý xã hội xác lập được các chính sách xã hội thích hợp, quản lí xã hội sát với yêu cầu xã hội.
Nội dung nghiên cứu cảu xã hội học về chính sách xã hội.
- Hệ thống những vấn đề về chính sách xã hội nhằm điều chỉnh cơ cấu xã hội. Xã hội luôn luôn vận động và phát triển do đó cũng luôn luôn xảy ra hiện tượng điều chỉnh trong cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội được qui định bởi đặc thù của mỗi hình thái kinh tế xa hội, nó xác định những mối quan hệ tương tác chính yếu của mỗi xã hội. Trong khuôn khổ xã hội học chúng ta chú ý đến tính năng động và tính ổn định của cơ cấu xã hội, những biểu hiện mâu thuẫn và thống nhất của chúng trong đời sống xã hội.
- Nghiên cứu chính sách xã hội nhằm tác động vào các nhóm xã hội đặc thù, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và có nhiều thành phần kinh tế cùng hoạt động. Mỗi nhóm xã hội vừa có lợi ích riêng vừa có lợi ích chung đan xen vào nhau và diễn ra khá phức tạp.
Có thể phân loại chính sách xã hội thông qua các dấu hiệu sau:
+ Theo sự phân công lao động, nghề nghiệp để có chính sách thỏa đáng, phù hợp với từng ngành, nghề.
+ Theo độ tuổi (người già, trẻ em, người tàn tật).
+ Theo sắc tộc.
+ Theo giới tính (nam, nữ).
+ Theo tôn giáo.
+ Theo trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật, phải có chính sách phù hợp với từng loại hình, từng trình độ…
- Nghiên cứu các hệ thống chính sách xã hội đối với quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội như các chính sách dân số, chính sách về lao động, việc làm, chính sách bảo hộ lao động, những chính sách về qúa trình phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân… Ngoài ra cũng cần đặc biệt chú ý đến các chính sách tác động đến đời sống văn hóa, nghệ thuật và đời sống tinh thần nói chung.
5. Xã hội học về pháp luật và tội phạm.
Trong xã hội học về pháp luật người ta hay nói đến sự kiểm soát từ bên trong, thật ra là kiểm soát quá trình xã hội hóa của cá nhân, nhằm giữ sự cân bằng cua các tổ chức xã hội, ổn định trật tự xã hội và mục tiêu là thuyết phục cá nhân hành vi theo các khuôn mẫu mà xã hội chấp nhận. Khi giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật có hiệu quả thì họ sẽ biết đúng sai, sợ hãi sự trừng phạt của xã hội, hổ thẹn với lương tâm và căm ghét những kẻ phạm tội. Các hình thức kiểm soát xã hội chỉ có tác dụng khi mỗi người biết tự giáo dục, tự điều chỉnh theo chuẩn mực xã hội.
Sự kiểm soát xã hội từ bên ngoài là cần thiết đối với những kẻ “lệch chuẩn”, nhằm bảo vệ kỷ cương, trật tự xã hội, bảo vệ quá trình xã hội hóa thành công và giáo dục đặc biệt đối với những kẻ không muốn nội tâm hóa các giá trị, các chuẩn mực.
Những kẻ phạm pháp có thái độ và hành vi phản xã hội, họ không sợ trừng phạt, không ăn năn hối lỗi, không cảm nhận thấy sự sai trái của bản thân, không biết phục thiện. Những vi phạm của họ đe dọa an ninh xã hội, vi phạm các nguyên tắc cơ bản trong đời sống xã hội, đối với đối tượng này cần phải nghiêm khắc nhằm bảo vệ trật tự, an toàn xã hội.
6. Xã hội học về dư luận xã hội và thông tin đại chúng.
Dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc biệt biểu thị thái độ phán xét, đánh giá của quần chúng đối với các vấn đề mà xã hội quan tâm. Do đó dư luận xã hội cũng là một đối tượng nghiên cứu của xã hội học.
Chủ thể của dư luận xã hội không phải là các cá nhân mà là toàn thể xã hội, là quần chúng nhân dân, các tổ chức của xã hội. Vì thế lập trường giai cấp được xem là cơ sở để xác định chủ thể của dư luận xã hội. Bản thân dư luận xã hội phản ánh rõ nét vị thế xã hội trong mối tương tác giữa các cá nhân, với các nhóm xã hội xuất phát từ lợi ích và các tương quan xã hội giữa người này với người khác.
Thông thường khi nghiên cứu về dư luận xã hội, chúng ta thấy nổi lên các điểm sau:
- Dư luận xã hội mang tính chất công chúng.
- Dư luận xã hội luôn luôn gắn liền với quyền lợi của các cá nhân và các nhóm xã hội.
- Dư luận xã hội phản ánh một cách tổng hợp ý thức xã hội nhưng dễ thay đổi.
Nội dung nghiên cứu về dư luận xã hội.
- Các sự kiện, các hiện tượng xã hội được dư luận xã hội phản ánh phải diễn ra theo một quá trình khá phức tạp. Người ta thường chia thành bốn bước sau:
+ Các cá nhân, các nhóm xã hội tiếp xúc, làm quen, chứng kiến, hình dung sự kiện, sự hoạt động. Tạo nên cảm giác ban đầu xung quanh các thông tin về sự kiện, hiện tượng đó.
+ Mọi người bàn tán, trao đổi các ý kiến xung quanh đối tượng thể hiện trong dư luận xã hội, tạo nên sự di chuyển ý kiến, quan điểm của cá nhân, phản ánh ý thức cá nhân sang ý thức xã hội.
+ Tạo nên sự thống nhất ý kiến trên cơ sở các quan điểm cơ bản để hình thành sự đánh giá chung về các sự kiện, hiện tượng. Sự đánh giá chính thống của cá nhân phải phản ánh và phù hợp với nhận định của đa số tiêu biểu của cộng đồng người.
+ Từ sự đánh giá dẫn đến sự phán xét về hành động nào đó, dẫn đến các kiến nghị đưua vào hoạt động thực tiễn.
Như vậy dư luận xã hội phản ánh quan điểm, ý kiến chung biểu hiện cái chung, cái lặp đi lặp lại trong tổng số ý kiến của cộng đồng, của xã hội.
- Nghiên cứu về dư luận xã hội cũng nhằm phát hiện ra những yếu tố chính tác động đến sự hình thành nên dư luận xã hội. Có như vậy mới có thể định hướng hoặc điều chỉnh nhằm phục vụ lợi ích chung…
Qua các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này chúng ta thấy.
+ Sự hình thành của dư luận xã hội phụ thuộc vào quy mô tính chất của các hiện tượng xã hội, nổi bật là tính lợi ích và tính công chúng của dư luận.
+ Phụ thuộc ào hệ tư tưởng, trình độ học vấn, năng lực văn hóa của cá nhân và cộng đồng.
+ Mức độ tham gia của quần chúng trong đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, trong đó không khí dân chủ, bình đẳng khích lệ mọi người công khai, thẳng thắn bộc lộ ý kiến, quan điểm của mình.
+ Ảnh hưởng của tâm lí quần chúng, những truyền thống về văn hóa, đạo đức, những tập quán trong sinh hoạt, lao động…
+ Phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo hướng “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa.
+ Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước, các cấp lãnh đạo với quần chúng nhân dân đông đảo, góp phần giải tỏa các tâm trạng xã hội dẫn đến những tệ nạn, những tiêu cực xã hội đang tác động xấu đến mọi quan hệ xã hội.
+ Nhờ vậy việc nghiên cứu dư luận xã hội góp phần tích cực nhằm thực hiện tốt các yêu cầu “cải cách hành chính” cải thiện công tác quản lí xã hội ở các cấp trên cơ sở khoa học.
7. Xã hội học giáo dục.
Khác với Giáo dục học, xã hội học giáo dục nghiên cứu giáo dục như là một bộ phận trong cơ cấu xã hội, hoạt động với tư cách là một thiết chế xã hội, có mối quan hệ tương tác, mật thiết với các thiết chế xã hội khác.
Với tư cách là thiết chế xã hội, xã hội học giáo dục xem xét hoạt động giáo dục với tư cách là một chỉnh thể thống nhất trong mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa các bộ phận của nó nhằm thực hiện những chức năng xã hội nhất định.
Nghiên cứu xã hội học giáo dục phải xem trọng tính định hướng, tính mục đích, xem giáo dục là hoạt động có ý thức của con người xã hội. Giáo dục vì vậy có các chức năng rõ rệt sau:
- Chức năng kinh tế - xã hội.
- Chức năng chính trị - xã hội.
- Chức năng tư tưởng – văn hóa.
Thực hiện các chức năng đó, giáo dục sẽ góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Một số hướng nghiên cứu về xã hội học giáo dục.
- Nghiên cứu về vai trò, tác dụng của giáo dục đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo quan điểm của thuyết chức năng, lý giải theo quan điểm của thuyết xung đột.
+ Nghiên cứu và phát hiện mối tương quan giữa giáo dục đối với một số lĩnh vực khác trong đời sống xã hội như giáo dục với văn hóa, giáo dục với lao động xã hội, giáo dục với sự di chuyển chức năng.
+ Vai trò, động lực của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
+ Quá trình xã hội hóa, dân chủ hóa trong giáo dục nhằm khơi dậy và huy động các tiềm năng của xã hội, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển.
V. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC.
1. Phương pháp chọn mẫu.
Là một tập hợp các đối tượng nghiên cứu được lựa chọn, có đủ các yếu tố có tính chất tiêu biểu và được rút ra từ tổng thể, một tập hợp lớn mà nó là đại diện cho nhóm đối tượng, thông tin thu được từ mẫu nghiên cứu có thể khái quát suy ra cho tổng thể trong nghiên cứu, so sánh, đối chiếu kiểm nghiệm các giả thuyết.
Mục tiêu cơ bản của các cuộc điều tra xã hôi học là để cung cấp các thông tin từ thực tế xã hội cho việc phát triển lý luận xã hội học cũng như cho công tác quản lý xã hội. Thông tin thu thập được phải có tính đại diện, có gía trị cho cả tổng thể điều tra, thông tin đó phải đảm bảo được mức dộ chính xác, phản ánh đúng với thực tế khách quan. Do đó, trong nghiên cứu xã hội học, người ta cần phải áp dụng phương pháp chọn mẫu.
Một số kĩ năng và phương pháp chọn mẫu:
- Mẫu ngẫu nhiên đơn giản:
+ Xác định khung mẫu tổng thể.
+ Lập danh sách tổng thể
+ Rút thăm ngẫu nhiên theo danh sách số người cần chọn cho đến khi đủ số lượng mẫu (tỉ lệ tối thiểu là 30% trên tổng thể)
Nghiên cứu từ một tổng thể có N đơn vị, chúng ta chọn ra n đơn vị để nghiên cứu sao cho thông tin thu được có thể suy ra thành thông tin của cả tổng thể. Số đơn vị này gọi là kích thước mẫu, còn tập hợp đơn vị này goi là mẫu (n<N).
- Mẫu ngẫu nhiên hệ thống:
+Xác định khung mẫu.
+ Lập danh sách.
+ Xác định khoảng cách k giữa 2 ph. tử cần chọn. k = N/n (tổng thể/mẫu)
Nếu lẻ, chỉ cần lấy phần nguyên, không làm tròn số.
+ Chọn mẫu ngẫu nhiên đối tượng đầu tiên.
+ Lấy mẫu tiếp theo cách nhau một khoảng cách cho đến khi hết danh sách, đủ số lượng.
+ Mẫu tỉ lệ.
+ Xác định khung mẫu (tổng thể).
+ Xác định sơ bộ cơ cấu tổng thể theo một số tiêu chí cơ bản: giới tính, độ tuổi, học vấn theo tỉ lệ % tương thích giữa tổng thể và mẫu.
- Tính toán số lượng cho từng thành phần cho mẫu:
n1 nam giới TW = …+…+…
n2 nam giới tỉnh, thành = …+…+…
n3 nam giới Q,huyện = …+…+…
n4 nam giới Xã phường =…+…+…
n … nữ giới …….
- Sử dụng cách lựa chọn ngẫu nhiên lấy ra số lượng cụ thể cho từng thành phần.
2. Phương pháp phân tích các nguồn tài liệu.
Là phương pháp nghiên cứu dựa trên các tư liệu, văn bản, sách báo hay công trình nghiên cứu có liên quan nhằm mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu.
Muốn dùng phương pháp này, trước hết phải dựa vào đề tài, mục tiêu nghiên cứu mà lựa chọn những tài liệu thích hợp.
Ưu điểm:
- Giúp chúng ta nghiên cứu những đối tượng trong quá khứ hoặc hiện tại nhưng không có dịp hay cơ hội trực tiếp tiếp xúc được.
- ít gặp vướng mắc hoặc bị phản ứng từ phía đối tượng.
- Tiết kiệm được thời gian, tiền bạc mà vẫn dảm bảo tính chính xác.
Nhược điểm:
- Dễ bị ảnh hưởng bởi quan điểm, tư tưởng của tác giả (vì số đông được viết tự do, không phải phục vụ cho nghiên cứu).
- Có nhiều hạn chế, nhất là khi dùng cá nguồn tài liệu riêng hoặc nằm trong phạm vi bảo mật.
3. Phương pháp phỏng vấn.
Là phương pháp khá phổ biến trong nghiên cứu xã hội học để thu thập thông tin qua việc hỏi và trả lời các câu hỏi. Đây là một phương pháp quan trọng để thu thập thông tin thực nghiệm, thông qua việc tác động tâm lý - xã hội trực tiếp giữa người hỏi và người trả lời trên cơ sở đề tài và mục tiêu của một cuộc nghiên cứu điều tra xã hội học.
Các loại phỏng vấn chủ yếu:
- Phỏng vấn sâu: Chủ yếu sử dụng câu hỏi mở để thu thậpp thông tin trên cơ sở đảm bảo sự tự do của người phỏng vấn sắp xếp và đặt câu hỏi, người trả lời cũng tự do lựa chọn cách thức trả lời, phương pháp này nhằm để hiểu biết sâu những khía cạnh nào đó của đề tài.
- Phỏng vấn theo bảng hỏi: Thường được thực hiện trên một bảng hỏi đã được chuẩn bị chu đáo từ trước.
Ngoài ra, căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta chia ra các loại: phỏng vấn qua tiếp xúc trực tiếp và phỏng vấn qua điện thoại; phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm; phỏng vấn một lần và phỏng vấn nhiều lân.
Ưu điểm:
- Người phỏng vấn có thể chủ động nêu lại câu hỏi khi thấy cần thiết (như thấy đối tượng né tránh vấn đề đang hỏi hay chưa hiểu đúng yêu cầu). Có thể cùng một nội dung nhưng có câu hỏi khác nhau đối với các đối tượng khác nhau. Phương pháp này dễ tạo ra tâm lý thoải mái khi nói hơn là phải viết ra giấy nên thường cũng có tỉ lệ trả lời cao hơn cách sử dụng bảng hỏi
- Người hỏi có thể tế nhị theo dõi, kiểm soát thái độ, cung cách phản ứng của đối tượng để xác định độ tin cậy của câu trả lời.
Nhược điểm:
- Đòi hỏi tốn nhiều công sức, phương tiện: người theo dõi, người ghi chép, ghi âm, người kiểm định, đánh giá tính khách quan, trung thực của cuộc phỏng vấn, thống kê, xử lý kết quả …
- Phải di chuyển nhiều, phải tiếp xúc với nhiều đối tượng, hay gặp phải những khó khăn, bất ngờ không dự kiến trước được
- Đôi khi do sự thúc ép trong những hoàn cảnh không thuận lợi cho người trả lời như: nhân viên trước mặt thủ trưởng, con cái trước mặt cha mẹ … nên chất lượng câu trả lời bị ảnh hưởng
- Phương pháp này không đảm bảo tính vô danh nên người trả lời thường e ngại, hay mất tự nhiên.
4. Phương pháp qua sát.
Là phương pháp thu thập thông tin thực nghiệm thông qua các tri giác nghe, nhìn để thu nhận thông tin về các quá trình, các hiện tượng xã hội dựa trên cơ sở đề tài và mục tiêu của một cuộc nghiên cứu.
Nguồn thông tin quan sát là toàn bộ hành vi của người được nghiên cứu. Điểm mạnh của quan sát là hường đạt được ngay ấn tượng trực tiếp về sự thể hiện hành vi của con người, trên cơ sở đó, điều tra viên tiến hành ghi chép hay hình thành các câu trả lời trong bảng hỏi có trước.
Tuy vậy quan sát cũng có nhược điểm là chỉ có thể sử dụng cho việc nghiên cứu những hiện tượng, sự kiện hiện tại chứ không phải trong quá khứ hoặc tương lai. Hơn nữa sử dụng pp quan sát các sự kiện xảy ra trong thời gian dài thì ấn tượng đã có rtừ quan sát lần đầu dề đánh lừa, che lấp những lần quan sát tiếp theo.
Các lọai quan sát:
- Quan sát có chuẩn mực: là quan sát mà trong đó người quan sát đã sớm xác điịnh dược những yếu tố nào của khách thể nghiên cứu là có ý nghĩa nhất để tập trung chú ý vào đó.
- Quan sát không chuẩn mực (quan sát tự do): là lọai quan sát mà trong đó người nghiên cứu chưa xác định được trước các yếu tố của khách thể quan sát liên quan đến việc nghiên cứu cần dược quan sát.
VI. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC.
Mục đích của các cuộc điều tra là nhằm thu thập được những thông tin đáng tin cậy, chuẩn xác để làm cơ sở và chất liệu cho những phân tích lý luận và những ứng dụng thực tiễn trong công tác quản lý. Để đạt được mục đích đó, chúng ta cần phải có một tổng thể các tri thức xã hội học rộng lớn, nhuần nhuyễn và thành thạo về việc sử dụng những phương pháp, thể thức và kỹ thuật điều tra. Ba giai đoạn cơ bản là:
- Giai đoạn chuẩn bị: bao gồm việc xây dựng khung lý thuyết, soạn thảo bằng câu hỏi, chọn phương pháp và mẫu điều tra.
- Giai đoạn thu thập thông tin.
- Giai đoạn xử lý và phân tích thông tin.
1. Xây dựng khung lý thuyết.
1.1. Xác định vấn đề và tên đề tài nghiên cứu.
Xác định vấn đề nghiên cứu có nghĩa là nhà nghiên cứu phải trả lời được câu hỏi sau đây:
- Nghiên cứu nội dung gì ? (Nghiên cứu vấn đề gì ?)
- Nghiên cứu đối tượng nào ? (Nghiên cứu ai ?)
- Nghiên cứu ở địa bàn nào ? (Nghiên cứu ở đâu ?)
- Sử dụng kiểu loại nghiên cứu gì ?
Xác định đề tài nghiên cứu có nghĩa là cần phải làm rõ khách thể hay đối tượng của cuộc điều tra. Đối tượng nghiên cứu là những đặc trưng xã hội, những qui luật và những vấn đề có qui luật xã hội mà cuộc nghiên cứu phải hướng vào đó để làm bật lên những vấn đề có tính bản chất của nó.
1.2. Xác định mục đích và nhiệm vụ của cuộc điều tra.
Mục đích là hướng tìm kiếm chủ yếu các thông tin của các cuộc điều tra, nó là kết quả cần phải đạt được của cuộc điều tra.
Cần phải làm sáng tỏ mục đích của cuộc nghiên cứu bởi vì mục đích sẽ qui định nhiệm vụ và phương pháp tiến hành điều tra. Đương nhiên, điều quan trọng là phải làm rõ tương quan giữa các mục đích lý luận và thực tiễn, từ đó mà cuộc nghiên cứu cần phải hướng vào.
1.3. Xây dựng các giả thuyết nghiên cứu.
Giả thuyết trong nghiên cứu xã hội là sự giả định có căn cứ khoa học về cơ cấu các đối tượng, về tính chất của các yếu tố và các liên hệ tạo nên các đối tượng đó, về cơ chế hoạt động và phát triển của chúng.
Cũng có thể hiểu giả thuyết như là những giả định về vấn đề cần nghiên cứu mà chúng ta thu được qua cuộc điều tra. Nó là những nhận thức sơ bộ về vấn đề được nghiên cứu cho ta biết những ý niệm về đặc trưng, xu hướng và tính qui luật của các quá trình xã hội mà chúng ta tiến hành khảo sát. Thông thường giả thiết được biểu hiện dưới các mệnh đề có dạng như: vì thế này thì thế kia, nếu vấn đề này … thì thế kia…
Trong quá trình xây dựng các giả thuyết cần chú ý đến những vấn đề sau:
- Những giả thuyết đưa ra không được mâu thuẫn với những qui luật đã được xác định hoặc những kết quả đã được kiểm nghiệm là đúng trước đó.
- Giả thiết đưa ra phải phù hợp với những nguyên lý xuất phát của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Giả thiết phải kiểm tra trong quá trình nghiên cứu hay trong thực tiễn. Xây dựng giả thuyết cần chú ý hai mặt:
+ Tập hợp các nguyên nhân dẫn đến một hiện tượng nào đó.
+ Các nguyên nhân đó có thể kiểm tra được.
- Việc phân tích logic của các giả thuyết phải khẳng định được tính không mâu thuẫn của nó, cho pháp trả lời các câu hỏi về một số mệnh đề của giả thuyết xem có phải là giả tạo hay không.
1.4. Xây dựng mô hình lý luận, thao tác các khái niệm, xác định các chỉ báo.
Đây là khâu quan trọng của một công trình nghiên cứu thực nghiệm, nó cho phép chúng ta có thể tái tạo được vấn đề nghiên cứu và đo lường trực tiếp các vấn đề được nêu ra.
- Mô hình lý luận: Mô hình lý luận bao gồm một hệ thống các khái niệm giúp ta đánh giá, khái quát bản chất của hiện tượng ở vấn đề mà ta nghiên cứu. Mô hình lý luận được rút ra từ hiện thực sinh động. Vì vậy nó cũng phản ánh được những mối liên hệ, quan hệ có tính chất bản chất của đối tượng và phải đảm bảo sự tương đồng với kết cấu của khách thể.
- Xác định các chỉ báo: Đây là quá trình cụ thể hóa các khái niệm thực nghiệm thành các đơn vị có thể đo lường và quan sát được. Nhờ có quá trình thao tác hóa các khái niệm và xác định các chỉ báo mà chúng ta có cơ sở để thu thập thông tin thực tế, sử dụng được các phương pháp định lượng để đo lường những hiện tượng và các dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài của một đối tượng hoặc một nhóm xã hội nào đó, từ đó mà có thể hiểu được nội dung và bản chất ẩn dấu bên trong của đối tượng.
2. Chọn phương pháp điều tra.
Trong điều tra xã hội học, để thu thập thông tin cá biệt và các thông tin khác, người ta sử dụng một số phương pháp thông dụng như sau: Phân tích tài liệu, quan sát, phỏng vấn, thực nghiệm.
Thông thường, trong mỗi cuộc điều tra, nhà nghiên cứu thường sử dụng một nhóm các phương pháp có ý nghĩa bổ sung cho nhau. Trong mỗi nhóm, lại chọn một hoặc hai phương pháp làm phương pháp chính trong nghiên cứu, còn các phương pháp khác đóng vai trò hỗ trợ.
Việc lựa chọn một nhóm các phương pháp là tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu của cuộc nghiên cứu cũng như khả năng tài chính, trang thiết bị kỹ thuật và các thông tin có sẵn.
3. Xây dựng bảng hỏi.
Bảng câu hỏi là phương pháp thu thập thông tin cá biệt theo đề tài nghiên cứu, là tổ hợp các câu hỏi, chỉ báo đã được vạch ra nhằm khai thác và thu thập thông tin trên cơ sở các giả thuyết và mục đích của cuộc điều tra. Bảng câu hỏi thường dùng trong các trường hợp sử dụng các phương pháp phỏng vấn.
Một bảng câu hỏi được xây dựng tốt sẽ cho phép thu được những lượng thông tin đáng tin cậy và khả quan, ngược lại sẽ làm thông tin thu được bị sai lệch hoặc méo mó.
Vì vậy, cần phải đầu tư nhiều thời gian và công sức để xây dựng một bảng câu hỏi cho tốt hơn. Thông thường, lập một bảng câu hỏi phải tính đến hai yêu cầu sau:
- Phải đáp ứng được mục tiêu của cuộc điều tra.
- Phải phù hợp với trình độ và tâm lý người được hỏi.
3.1. Các dạng câu hỏi thường dùng.
- Câu hỏi đóng: là câu hỏi đã có sẵn các phương án trả lời, thông thường gồm hai dạng: Câu hỏi đóng đơn giản chỉ có hai phương án trả lời (có hoặc không), câu hỏi đóng phức tạp có nhiều phương án trả lời.
- Câu hỏi mở: Là loại câu hỏi chưa có phương án trả lời, người được phỏng vấn tự mình đưa ra cách trả lời riêng của mình.
- Câu hỏi hỗn hợp: là loại câu hỏi có một số phương án trả lời cho sẵn và một phương án để ngỏ.
- Câu hỏi sự kiện: là những câu hỏi về thân thế, sự nghiệp, lứa tuổi, giới tính, thành phần gia đình…
- Câu hỏi chức năng: Thường bao gồm ba dạng sau:
+ Kiểm tra sự am hiểu của người được hỏi với vấn đề do nhà nghiên cứu đặt ra.
+ Kiểm tra tính trung thực của câu trả lời.
+ Chức năng tâm lý: Tạo ra sự hứng thú, xóa bỏ các hàng rào tâm lý, giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi của người trả lời.
- Câu hỏi về nội dung: là câu hỏi nhằm vào những vấn đề cơ bản mà nhà nghiên cứu cần nắm được.
3.2. Yêu cầu đối với câu hỏi.
- Các câu hỏi phải rõ ràng cụ thể, không hiểu thêm nhiều nghĩa, các phương án trả lời phải được phân chia rạch ròi theo một cơ sở thống nhất không được chồng chéo lên nhau.
- Hạn chế dùng các khái niệm như: thường xuyên, đôi khi mà tăng những câu hỏi đo lường cụ thể…
- Câu hỏi phải có trật tự, logic, phù hợp với trình độ và đặc điểm của từng người và từng nhóm đối tượng cụ thể. Hạn chế dùng các ngôn ngữ bác học hoặc quá thô thiển.
- Đối với các câu hỏi tìm hiểu về chính kiến hoặc tâm tư, tình cảm riêng của đối tượng, nên dùng nhiều câu hỏi gián tiếp còn khi câu hỏi liên quan đến các hiện tượng tiêu cực thì nên tìm các từ ngữ và câu nói thích hợp để giảm nhẹ mức độ mới có thể thu được câu trả lời đáng tin cậy.
3.3. Lựa chọn các câu hỏi để đưa vào bảng các câu hỏi.
Để xây dựng được một bảng câu hỏi khoa học, đáp ứng yêu cầu của cuộc điều tra thì phải biết lựa chọn các câu hỏi một cách nghiêm túc và bảo đảm một tỉ trọng thích hợp giữa các loại câu hỏi.
Thông thương, để chọn các câu hỏi, căn cứ vào các tiêu chí: tính tiết kiệm của câu hỏi, tính chắc chắn của câu hỏi, tính xác thực của câu hỏi.
Trên cơ sở của ba tiêu trí đó ta có nhận xét sau:
Câu hỏi đóng tiết kiệm hơn, tính xác thực cao hơn, và dễ xử lý bằng máy vi tính hơn, câu hỏi mở khó xác định hơn và xử lý bằng phương pháp định lượng khó hơn, xong lại có thể cho ta những thông tin nhiều chiều hơn, sâu sắc hơn.
Những câu hỏi tiếp xúc và câu hỏi tâm lý chức năng thường đòi hỏi những câu hỏi mở, những câu hỏi lặp, hiếm khi dùng câu hỏi đóng.
Giữa các câu hỏi, những câu hỏi về nội dung phải chiếm ưu thế về mặt số lượng và quĩ thời gian. Nó phải được ưu tiên trong việc xây dựng bảng câu hỏi cũng như trong thực hành điều tra .
3.4. Kết cấu và trình tự sắp xếp các câu hỏi.
- Phần mở đầu.
+ Trình bầy mục đích của cuộc điều tra.
+ Hướng dẫn cho người được phỏng vấn cách trả lời các câu hỏi.
+ Khẳng định tính khuyết danh của cuộc điều tra, có nghĩa là người trả lời không cần trả lời hoặc ghi địa chỉ cụ thể hay tên họ của mình vào phiếu.
- Phần nội dung chính của bảng câu hỏi: Bao gồm các câu hỏi và những câu trả lời.
- Phần chức năng: thông thường là những câu hỏi liên quan đến tổng thể các đặc điểm xã hội của người tham gia trả lời.
4. Chọn mẫu điều tra.
4.1. Sự cần thiết phải chọn mẫu.
Nghiên cứu mẫu là nghiên cứu không phải toàn bộ tổng thể mà chỉ là một bộ phận của tổng thể xong lại có khả năng suy rộng ra cho cái tổng thể, phản ánh sự phù hợp với những đặc trưng là cơ cấu của tổng thể.
Chọn mẫu chính là quá trình sử dụng các phương pháp khác nhau nhằm tìm ra được một tập hợp các đơn vị mà những đặc trưng và cơ cấu được nghiên cứu của chúng có thể đại diện cho một tập hợp xã hội lớn hơn, hay nói một cách khác, những kết luận được rút ra từ đó có thể suy rộng ra cho cả tổng thể.
Thông qua nghiên cứu chọn mẫu người ta có thể đảm bảo được tiến độ công việc nghiên cứu, tiết kiệm thời gian, tiền bạc…
4.2. Các loại mẫu và cách lấy mẫu:
Trong các cuộc điều tra xã hội học các nhà nghiên cứu thường tiến hành một số cách lấy mẫu như sau:
- Ngẫu nhiên đơn giản: Yêu cầu của cách lấy mẫu này là phải có một danh sách kê khai đầy đủ các thành viên của tổng thể. Trên cơ sở danh sách này có thể lựa chọn một cách hoàn toàn ngẫu nhiên các thành viên sao cho đủ số người cần thiết để nghiên cứu.
Đặc điểm của phương pháp này là: Mọi thành viên đều có cơ hội như nhau để rơi vào mẫu.
- Hệ thống khởi đầu bằng ngẫu nhiên: Khi lập mẫu kiểu này, thay cho việc rút hú họa, có thể chọn mẫu bằng cách lựa chọn một thành viên bất kỳ nào đó trong bảng danh sách đã đánh số thứ, sau đó cứ cách một khoảng cách K ta lại chọn một người (độ lớn của K phụ thuộc vào việc chúng ta chọn mẫu lớn hay nhỏ).
Lúc này chúng ta được công thức: K= N/n.
n: Số người (vị của mẫu)
N: đơn vị của tổng thể.
K: Là khoảng cách giữa hai người trong mẫu.
- Lấy mẫu nhiều giai đoạn: trong chọn mẫu loại này việc chọn mẫu được thực hiện qua hai hoặc nhiều bước hơn.
Giai đoạn 1: Chia tập hợp tổng quát ra thành các nhóm lớn theo một dấu hiệu nhất định, lập danh sách liệt kê các nhóm, chọn trong danh sách ra một số nhóm theo nguyên tăc ngẫu nhiên. Tiến hành lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản hoặc mẫu ngẫu nhiên hệ thống bắt đầu từ ngẫu nhiên.
Cách lấy mẫu này dùng trong các trường hợp tâp hợp tổng quát khá lớn. Thí dụ: một tỉnh, một ngành, một tầng lớp xã hội, một quốc gia.
Loại lấy mẫu này rất khó vì vậy cần hiểu thực địa thật kỹ lưỡng. Nếu không có một tấm bản đồ xã hội thì nhà nghiên cứu phải làm việc cẩn thận với những nhà lãnh đạo, quản lý ở địa phương nơi tiến hành khảo sát, vì họ là những người am hiểu tình hình, đặc điểm của địa phương mình.
Để đảm bảo cho mẫu có tính đại diện cao, giảm sai lệch đến mức thấp nhất về cơ cấu thống kê của mẫu so với cơ cấu của tập hợp tổng quát, ngoài việc tuân thủ các qui trình chọn mẫu một cách nghiêm ngặt, chúng ta còn phải quan tâm đến dung lượng của mẫu.
5. Lập phương án dự kiến xử lý thông tin điều tra thử và hoàn thiện các bước chuẩn bị.
5.1. Lập phương án dự kiến xử lý thông tin.
Phương án xử lý thông tin là dự án các công thức toán học được áp dụng vào các xử lý nói chung và các câu hỏi nói riêng. Thông thường, tổ vi tính phải xây dựng các lập trình toán học trên cơ sở có sự trao đổi thống nhất với người lập giả thuyết và tổ chức cuộc điều tra. Trong khâu này cũng đồng thời đòi hỏi phải chỉnh lý các câu hỏi sao cho phù hợp với khả năng của máy vi tính và khả năng lập trình của các chuyên gia về lĩnh vực này.
5.2. Điều tra thử và hoàn chỉnh lại toàn bộ bảng câu hỏi cũng như các chỉ báo.
Để hoàn thiện cũng như nâng cao chất lượng của bảng câu hỏi, đòi hỏi phải điều tra thử. Chính nhờ quá trình này mà mẫu chúng ta tìm ra được những sai sót trong quá trình xây dựng bảng câu hỏi, loại bỏ những phần thiếu logic trong trình tự các câu hỏi, chuẩn hóa thêm một bước của cuộc điều tra và cuối cùng là tạo ra được một bảng câu hỏi tối ưu, phù hợp với đối tượng của cuộc điều tra.
Chú ý: nên tiến hành điều tra thử trên chính đối tượng sẽ điều tra.
5.3. Lựa chọn và tập huấn điều tra viên.
Trong mỗi cuộc điều tra, tùy theo qui mô, tính chất phức tạp của đề tài nghiên cứu và phương pháp điều tra mà người tổ chức cuộc điều tra chuẩn bị lực lượng điều tra viên nhiều hay ít, chất lượng và những yêu cầu về năng lực, phẩm chất cao hay trung bình. Trong những cuộc điều tra bằng phương pháp phỏng vấn sâu hay quan sát đầy đủ, người tiến hành công việc điều tra phải có nhiều kinh nghiệm và trình độ văn hóa cao nhất là về chuyên môn.
Tuy có sự khác nhau về mức độ tập huấn, song nhìn chung, mọi cuộc điều tra xã hội học đều phải thực hiện các bước:
- Giới thiệu mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra, thông qua đó giúp cho điều tra viên có thể giải thích được mục đích, ý nghĩa của các cuộc điều tra cho đối tượng được điều tra.
- Làm cho mọi điều tra viên đều hiểu được như nhau về các khái niệm, các câu hỏi và những vấn đề cần khai thác.
- Làm cho điều tra viên biết cách ghi chép thông tin.
- Giới thiệu trước đặc điểm của đối tượng điều tra, giúp cho các điều tra viên tiếp cận và ứng sử linh hoạt, thích hợp nhằm thâm nhập vào đối tượng và thu được tối đa những thông tin cần thiết.
- Xác lập tiến độ thực hiện cho các thành viên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- đề tài Giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học.doc