Đề tài Giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình

Tài liệu Đề tài Giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách tài chính quốc gia là một khâu trọng yếu trong việc Nhà nước thực hiện vai trò quản lý xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; trong đó, quản lý thu Ngân sách nhà nước là một bộ phận rất quan trọng của chính sách tài chính quốc gia. Trong điều kiện cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý thay đổi thì hệ quả tất yếu là chính sách tài chính nói chung và công tác quản lý, điều hành hoạt động thu ngân sách nói riêng cũng phải đổi mới. Do vậy, cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước của các cấp chính quyền địa phương cũng cần được cải tiến trên một số mặt nhất định. Huyện Bố Trạch, là một trong bảy huyện, thành phố của tỉnh Quảng Bình, có 28 xã và 2 thị trấn với diện tích gần 2.125 km2, dân số năm 2007 là 17,65 vạn người. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2002-2007 là 8.5%. Quản lý thu Ngân sách nhà nước trên điạ bàn, đặc biệt là nguồn thu trong cân đối đã được chú trọng cải tiến. Tuy nhiên, việc quản lý còn thi...

doc149 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách tài chính quốc gia là một khâu trọng yếu trong việc Nhà nước thực hiện vai trò quản lý xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; trong đó, quản lý thu Ngân sách nhà nước là một bộ phận rất quan trọng của chính sách tài chính quốc gia. Trong điều kiện cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý thay đổi thì hệ quả tất yếu là chính sách tài chính nói chung và công tác quản lý, điều hành hoạt động thu ngân sách nói riêng cũng phải đổi mới. Do vậy, cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước của các cấp chính quyền địa phương cũng cần được cải tiến trên một số mặt nhất định. Huyện Bố Trạch, là một trong bảy huyện, thành phố của tỉnh Quảng Bình, có 28 xã và 2 thị trấn với diện tích gần 2.125 km2, dân số năm 2007 là 17,65 vạn người. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2002-2007 là 8.5%. Quản lý thu Ngân sách nhà nước trên điạ bàn, đặc biệt là nguồn thu trong cân đối đã được chú trọng cải tiến. Tuy nhiên, việc quản lý còn thiếu tập trung, thống nhất; nhiều nguồn lực tài chính không được động viên vào Ngân sách Nhà nước; chính quyền cấp xã và một số đơn vị có liên quan còn xem nhẹ công tác thu ngân sách và coi đó là nhiệm vụ của riêng ngành thuế; nguồn thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn hàng năm chưa đảm bảo tự cân đối chi, chủ yếu là từ nguồn cấp quyền sử dụng đất. Việc phát hiện và nuôi dưỡng các nguồn thu, triển khai các giải pháp tăng thu ngân sách, đặc biệt là nguồn thu trong cân đối ngân sách để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn vẫn còn nhiều bất cập cần được giải quyết. Xuất phát từ đó, vấn đề “Giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” đã được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Mục đích của đề tài 2.1. Mục tiêu chung Dựa trên cơ sở lý luận về thu Ngân sách nhà nước và kết quả phân tích đánh giá thực trạng thu ngân sách trên địa bàn, đề xuất các giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về NSNN, thu ngân sách và cân đối ngân sách làm cơ sở khoa học cho đề tài luận văn; - Phân tích đánh giá thực trạng thu trong cân đối ngân sách nhà nước trên địa bàn nghiên cứu trong thời kỳ 2005 – 2008; - Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác thu ngân sách và tăng thu trong cân đối ngân sách huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong thời kỳ mới đến năm 2015. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp thu thập số liệu 3.1.1. Số liệu thứ cấp Được thu thập từ Phòng Tài chính – kế hoạch huyện, Chi cục thuế huyện, Phòng Thống kê, Phòng Tài nguyên – Môi trường, văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX và các báo cáo tổng kết hàng năm của UBND huyện giai đoạn 2005 – 2008 nhằm đánh giá thực trạng các nguồn thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn và công tác quản lý thu ngân sách giai đoạn 2005 – 2008. 3.1.2. Số liệu sơ cấp Được thu thập từ việc điều tra các cán bộ giữ chức vụ chủ chốt tại 28/30 xã, thị trấn và các đơn vị cấp huyện có liên quan đến công tác thu ngân sách để đánh giá thực trạng công tác quản lý và phát triển các nguồn thu. Ngoài ra, Luận văn còn tiến hành thu thập thông tin từ các chủ doanh nghiệp trực thuộc Chi cục thuế quản lý thu để so sánh sự khác biệt giữa đối tượng quản lý Nhà nước và đối tượng nộp ngân sách trong việc đánh giá chất lượng công tác quản lý thu ngân sách. Việc thu thập số liệu sơ cấp được thực hiện thông qua phiếu điều tra do người được phỏng vấn tự điền thông tin. Nhờ đó có thể đánh giá các vấn đề có tính chất định tính liên quan đến công tác thu ngân sách trên địa bàn. 3.2. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu Dùng phương pháp phân tổ thống kê để tổng hợp và hệ thống hóa tài liệu thu thập được làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá thực trạng thu ngân sách trên địa bàn nghiên cứu theo các tiêu thức (góc độ) khác nhau. Các số liệu được xử lý, tính toán trên máy tính theo các phần mềm thống kê thông dụng. 3.3. Phương pháp phân tích - Dùng phương pháp thống kê mô tả để xác định xu hướng biến động của từng nguồn thu trong cân đối ngân sách nhằm phục vụ cho việc phân tích đánh giá công tác thu ngân sách; - Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê, phân tích kinh tế và thống kê toán để phân tích, đánh giá và kiểm định thực trạng thu trong cân đối ngân sách trên cơ sở các số liệu thứ cấp và sơ cấp đã được tổng hợp. 3.4. Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo Ngoài những phương pháp kể trên, Luận văn còn thu thập ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý có liên quan đến công tác thu ngân sách như: Các cán bộ lãnh đạo cấp huyện và cấp xã, các cán bộ làm công tác tài chính lâu năm, Giám đốc các doanh nghiệp và công ty TNHH trực thuộc Chi cục thuế quản lý thu… để có căn cứ khoa học cho việc rút ra các kết luận một cách xác đáng và đề ra các giải pháp tăng nguồn thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng và nội dung nghiên cứu - Nội dung nghiên cứu: Giải pháp tăng thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Các nguồn thu trong cân đối ngân sách. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. - Phạm vi thời gian: Phân tích đánh giá thực trạng giai đoạn 2005 – 2008 và đề xuất giải pháp đến năm 2015. Chương 1 LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGÂN SÁCH VÀ THU TRONG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1.1.1. Khái niệm về ngân sách Nhà nước Có nhiều quan niệm về Ngân sách nhà nước. Các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển cho rằng: Ngân sách nhà nước là một văn kiện tài chính mô tả các khoản thu, chi của Chính phủ được thiết lập hàng năm. Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế hiện đại thì cho rằng Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền mặt trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước [3]. Luật ngân sách Nhà nước Việt Nam (số 01/2002/QH 11 thông qua tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa 11) định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Bên cạnh những sự khác biệt thì các định nghĩa có một số điểm nhất trí sau: - Ngân sách là kế hoạch hoặc dự toán thu, chi của một chủ thể nhất định, thường là một năm – gọi là năm tài chính; - Ngân sách nhà nước của một quốc gia là một đạo luật được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành. Có thể hình dung khái quát NSNN theo biểu mẫu số 1. Mẫu biểu số 01 CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM.... (Dùng cho Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ) STT Nội dung Ước thực hiện năm hiện hành Dự toán năm kế hoạch So sánh % A B 1 2 3 = 2/1 1 2 3 4 1 2 3 4 5 1 2 A – TỔNG THU CÂN ĐỐI NSNN Thu từ nội địa (không kể thu từ dầu thô) Thu từ dầu thô Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu Thu viện trợ không hoàn lại B – TỔNG CHI CÂN ĐỐI NSNN Chi đầu tư phát triển Chi trả nợ và viện trợ Chi thường xuyên Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính Dự phòng C – BỘI CHI NSNN (Tỷ lệ bội chi so GDP) Nguồn bù đắp bội chi NSNN Vay trong nước Vay ngoài nước (Phụ lục số 7– biểu số 01 ban hành kèm theo Thông tư 59/TT – BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 60/2003/NĐ – CP). Nội dung chủ yếu của ngân sách là thu, chi nhưng không phải chỉ là các con số, cũng không phải chỉ là quy mô, sự tăng giảm số lượng tiền tệ đơn thuần mà còn phản ánh chủ trương, chính sách của Nhà nước; biểu hiện các quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền (cũng là cấp ngân sách); giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân trong quá trình phân bổ các nguồn lực và phân phối thu nhập mới sáng tạo ra. Các quá trình sản xuất kinh doanh, gắn liền với sự vận động của các dòng tiền: dòng tiền thu vào (quá trình tạo lập), dòng chi ra (quá trình sử dụng) của ngân sách Nhà nước (quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước). Việc tạo lập và sử dụng ngân sách Nhà nước một mặt phản ánh mức độ tiền tệ hóa, luật pháp hóa các hoạt động của Nhà nước, bởi dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước được các cấp có thẩm quyền thảo luận, quyết định và phê chuẩn trong khuôn khổ pháp luật; mặt khác từng khoản mục của ngân sách Nhà nước chính là sự cụ thể hóa các chính sách, các lựa chọn kinh tế, chính trị của đất nước [3]. 1.1.2. Vai trò của ngân sách Nhà nước Có thể nhìn nhận vai trò của ngân sách Nhà nước trên hai phương diện: Một là, Nhà nước có nhiều chức năng, nhiệm vụ. Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó Nhà nước cần có lực lượng vật chất nhất định. Một trong đó là Ngân sách nhà nước. Đối với bất kỳ quốc gia nào, Ngân sách nhà nước luôn có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo nguồn tài chính cho sự thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Hai là, Ngân sách là một công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng tác động vào nền kinh tế. Ngân sách là nguồn lực đầu tư quan trọng giúp cho nền kinh tế phát triển, điều chỉnh cơ cấu kinh tế; thúc đẩy quá trình đô thị hóa, động viên mọi thành viên trong xã hội tham gia vào quá trình phát triển; ngân sách cùng với các công cụ khác hỗ trợ sự hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, đồng thời tham gia khắc phục các thất bại của chính nền kinh tế thị trường, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh, bảo đảm tính công bằng và hiệu quả kinh tế - xã hội. Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng, quốc gia nào cũng xây dựng một hệ thống ngân sách hợp lý, với các chính sách nhằm mục tiêu phân phối và sử dụng có hiệu quả nhất. Với vai trò của mình, NSNN là công cụ của Nhà nước để cùng với thị trường tác động tích cực vào nền kinh tế, tạo động lực khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển; hạn chế cơ chế quản lý trực tiếp, mệnh lệnh hành chính; mở rộng và tăng cường sử dụng tích cực các công cụ tài chính tiền tệ, sửa đổi bổ sung các chính sách tài chính phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. NSNN cần ưu tiên lựa chọn mục tiêu trung tâm, trọng điểm, đào tạo nhân lực, phát triển nội lực, thu hút, huy động và chuyển hóa ngoại lực thành nội lực nhằm phát triển nhanh nền KTXH. Trước đây, nhiều nhà kinh tế học chủ trương xây dựng một NS tối thiểu và cân bằng, có qui mô thu chi vừa đủ để duy trì hệ thống cơ sở hạ tầng; bảo đảm thực hiện các chức năng Nhà nước công quyền, bảo vệ an ninh - quốc phòng, an toàn xã hội. Nghĩa là NSNN chỉ giới hạn trong tiêu dùng nằm ở khâu sau phân phối lại kết quả sản xuất kinh doanh. Hiện nay, quan điểm được nhiều quốc gia áp dụng là NSNN không chỉ phân phối lại kết quả sản xuất kinh doanh mà trước khi phân phối lại, NSNN đã tham gia phân phối các yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế (đầu tư hạ tầng KTXH, ĐTPT nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trường, xúc tiến thương mại…). Với đặc điểm này, NSNN chủ động thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cụ thể: Thứ nhất, NSNN tác động trực tiếp đến việc tăng quy mô đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Là chủ đầu tư lớn nhất trong nền kinh tế, Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển KTXH. Ở Việt Nam cũng như đa số các nước đang phát triển trên thế giới, vốn đầu tư từ nguồn NSNN có một vị trí rất quan trọng, chiếm khoảng từ 22%-30% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy, về mặt lượng, quy mô đầu tư vào nền kinh tế từ nguồn NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc tăng quy mô đầu tư của toàn xã hội. Thứ hai, quy mô thu và cơ cấu chi NSNN tác động mạnh mẽ đến quan hệ cung cầu trên thị trường và thông qua đó tác động đến nền kinh tế. Với tư cách là chủ thể kinh tế lớn nhất trong nền kinh tế, Nhà nước chi tiêu nhiều hay ít sẽ tác động trực tiếp đến tổng cầu, đến sức mua của thị trường. Nếu các bộ phận khác của tổng cầu không thay đổi, thì chi tiêu của Nhà nước tăng sẽ tác động trực tiếp làm gia tăng tổng cầu của xã hội. Đến lượt nó, sự gia tăng của tổng cầu nhanh hơn sự gia tăng của tổng cung thì một mặt, nó làm tăng sức mua của xã hội, giảm thời gian lưu thông, tăng tốc độ chu chuyển của vốn trong nền kinh tế, tăng GDP và tăng hiệu quả KTXH; mặt khác, mức dư cầu trên thị trường ở chừng mực nhất định làm tăng giá tiêu thụ hàng hóa ở mức độ vừa phải có tác động điều tiết mức tiêu dùng hợp lý hơn, đồng thời khuyến khích phát triển sản xuất, tăng đầu tư trong nền kinh tế. Thứ ba, thông qua việc sử dụng NSNN, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế nhằm phát triển bền vững, phù hợp với quy hoạch, không ngừng nâng cao hiệu quả KTXH. Thứ tư, NSNN là công cụ kinh tế quan trọng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, kích thích xuất khẩu, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Nhà nước sử dụng NS của mình như một phương tiện vật chất, một công cụ tác động vào hoạt động kinh tế đối ngoại theo hướng tranh thủ cơ hội để phát triển. Ở điều kiện nhất định, Nhà nước ban hành hệ thống những cơ chế chính sách để thực hiện, đồng thời sử dụng NSNN hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, thúc đẩy và khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Thứ năm, NSNN là công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện việc điều hành quản lý, kiểm soát nền kinh tế. Vốn NSNN chỉ là một yếu tố trong nhiều yếu tố đầu vào của nền sản xuất xã hội. Vì vậy, để xác định rõ vị trí, vai trò của NS trong nền kinh tế và để đạt mục tiêu sử dụng vốn NS có hiệu quả đòi hỏi phải nắm được thực trạng các nguồn lực của cả nền kinh tế. Thứ sáu, NSNN trực tiếp ĐTPT nguồn nhân lực, trí lực (giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, khoa học...) thực hiện nhiệm vụ phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, để đảm bảo hài hòa lợi ích của các thành viên tham gia sản xuất và lợi ích chung của toàn xã hội, việc phân phối nguồn NS được ưu tiên thực hiện một số chính sách xã hội, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, thực hiện công bằng xã hội [1]. 1.1.3. Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước 1.1.3.1. Khái niệm Phân cấp quản lý NS là quá trình Nhà nước trung ương và cấp tỉnh phân giao những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định cho các cấp chính quyền ở địa phương trong hoạt động quản lý thu, chi NSNN. Phân cấp quản lý NSNN được xem như là một trong những biện pháp quản lý NSNN. Thực chất của việc phân cấp quản lý NSNN là việc phân chia trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý hoạt động của NSNN cho các cấp chính quyền nhằm làm cho hoạt động của NSNN được lành mạnh và đạt hiệu quả cao. Phân cấp quản lý thu, chi NSNN được thực hiện theo nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ. Tư tưởng chỉ đạo trong phân cấp quản lý NSNN theo Luật NSNN là phân định cụ thể nhiệm vụ thu chi cho NS mỗi cấp. Trong đó nội dung chính về phân cấp quản lý thu NSNN: Tập trung đại bộ phận nguồn thu lớn, ổn định cho NSTW, đồng thời tạo cho NSĐP có nguồn thu gắn với địa bàn. Trên tinh thần đó, nguồn thu được chia thành 3 loại: - Các khoản thu NSTW hưởng 100%; - Các khoản thu NSĐP hưởng 100%; - Các khoản thu điều tiết theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương [24]. 1.1.3.2. Các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN: Có 4 nguyên tắc chính Thứ nhất, phù hợp với phân cấp quản lý KTXH, quốc phòng, an ninh và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. Thứ hai, đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và vị trí độc lập của NSĐP trong hệ thống NSNN thống nhất. Thứ ba, phân định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi của từng cấp ngân sách; làm rõ nguồn thu và nhiệm vụ chi nào gắn với ngân sách trung ương, nguồn thu và nhiệm vụ chi nào gắn với ngân sách các cấp ở địa phương; từ đó làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, tạo điều kiện cho các cấp chính quyền địa phương, nhất là các cấp cơ sở chủ động thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, hạn chế tình trạng trông chờ, ỷ lại của ngân sách cấp dưới và bao biện từ ngân sách cấp trên. Thứ tư, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp NSNN. Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước phải đảm bảo yêu cầu cân đối phát triển chung của đất nước, hạn chế đến mức thấp nhất sự chênh lệch về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các vùng lãnh thổ. Yêu cầu của nguyên tắc này xuất phát từ các vùng, các địa phương trong một quốc gia có những đặc điểm tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều. Nếu một hệ thống ngân sách Nhà nước được phân cấp đơn giản, áp dụng như nhau cho tất cả các địa phương rất có thể dẫn tới những bất công bằng, tạo ra những khoảng cách lớn về sự phát triển giữa các địa phương. Những vùng đô thị hoặc những vùng có tiềm năng thế mạnh lớn ngày càng được phát triển; ngược lại những vùng nông thôn, miền núi không có các tiềm năng, thế mạnh sẽ bị tụt hậu [17]. 1.2. THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thu Ngân sách nhà nước 1.2.1.1. Khái niệm Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thoả mãn các nhu cầu của Nhà nước. Xét về hình thức, thu NSNN là một hoạt động, là quá trình của nhiều hành vi, hành động của Nhà nước. Xét về nội dung, thu NSNN là quá trình Nhà nước sử dụng các quyền lực có được của mình để động viên, phân phối một bộ phận của cải của xã hội dưới dạng tiền tệ về tay Nhà nước nhằm hình thành nên quỹ NSNN [4]. 1.2.1.2. Đặc điểm Thu NSNN có những đặc điểm sau đây: - Thu NSNN gắn liền với quyền lực của Nhà nước (mà chủ yếu là quyền lực chính trị); - Thu NSNN được xác lập trên cơ sở luật định và vừa mang tính chất bắt buộc, vừa không mang tính chất bắt buộc; - Nguồn tài chính chủ yếu của thu NSNN là thu nhập của các thể nhân và pháp nhân, được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước dưới nhiều hình thức, nhưng chủ yếu là thuế; - Thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và các phạm trù: Giá cả, thu nhập, lãi suất...; - Thu NSNN gắn liền với hoạt động của Nhà nước. Nhà nước đề ra chủ trương, phương hướng, mục tiêu thu NSNN trong một thời kỳ nhất định, xác định rõ thu ở đâu? Lĩnh vực nào là chủ yếu? Hình thức nào là tốt nhất?...Xác định rõ tỷ lệ thu hoặc một con số thu cụ thể nào đó. Từ đó Nhà nước đề ra cơ chế chính sách, luật lệ về thu NSNN nhằm đạt được phương hướng mục tiêu đề ra. Đồng thời Nhà nước tổ chức bộ máy thu, tổ chức thu và đảm bảo các điều kiện cho công tác thu. Tóm lại, thu NSNN thực chất là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực chính trị của Nhà nước nhằm giải quyết hài hoà các mặt lợi ích kinh tế. Sự phân chia đó là tất yếu khách quan xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước, cũng như thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Đối tượng phân chia là thu nhập xã hội - đây là kết quả lao động sản xuất trong nước tạo ra dưới hình thức tiền tệ [1]. 1.2.2. Cơ chế phân chia nguồn thu NSNN Cơ chế phân chia nguồn thu NSNN, được hiểu là tập hợp các nguyên tắc, tình hình, phương pháp phân chia các khoản thu thuộc quỹ NSNN một cách hợp lý cho các cấp ngân sách. Cơ chế phân chia nguồn thu NSNN thuộc cơ chế kinh tế. Mỗi cơ chế kinh tế đều có đặc điểm riêng ảnh hưởng trực tiếp đối với việc sử dụng các công cụ kinh tế tài chính. Do đó, để xác định được vai trò của cơ chế phân chia nguồn thu NSNN cần thiết phải đề cập tới đặc điểm của cơ chế này. Đặc điểm bao trùm của cơ chế phân chia nguồn thu NSNN là sự can thiệp của Nhà nước vào phân phối các khoản thu giữa các cấp ngân sách dựa trên các quy luật khách quan và các yêu cầu của quản lý nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và tính năng động sáng tạo các cấp chính quyền địa phương. Đảm bảo ngân sách các cấp đều đủ khả năng để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của bộ máy quản lý Nhà nước và thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Đặc điểm thứ hai của cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách Nhà nước là sự phù hợp giữa khả năng và thực tiễn, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và quản lý Nhà nước. Cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách Nhà nước phải căn cứ vào hệ thống tổ chức bộ máy, bản chất của các khoản thu, đảm bảo hài hoà lợi ích của xã hội. Đặc điểm thứ ba của cơ chế phân chia nguồn thu NSNN là tính cơ động của nó. Do cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách Nhà nước mang tính chủ quan, vì vậy trong quá trình thực hiện cần thấy rõ các mâu thuẫn để có hướng điều chỉnh cho thích hợp. Song nói như vậy không có nghĩa là phải luôn luôn thay đổi cơ chế, mà khi ban hành cơ chế phải tính toán đến sự ổn định nhất định của nó [15]. 1.2.3. Nội dung và hình thức các khoản thu NSNN 1.2.3.1. Nguồn thu và thu nhập của ngân sách Để tồn tại và phát triển, Nhà nước cần tập trung vào tay mình lượng của cải vật chất dưới dạng tiền tệ nhất định. Nhưng lấy nó ở đâu? Từ nguồn nào ? Nguồn thu của NSNN là nơi cung cấp số thu cho NSNN thông qua quá trình tác động vào đối tượng thu để điều tiết một phần của cải về cho Nhà nước. Có rất nhiều loại nguồn thu. Nếu căn cứ vào sự biểu hiện của nguồn thu, ta có thể chia ra nguồn thu trực tiếp và nguồn thu tiềm năng. Nguồn thu trực tiếp là nguồn thu đã thể hiện bằng tiền, chỉ cần có một số tác động nào đó thì sẽ thu được một phần về cho ngân sách Nhà nước. Ở những biểu hiện cụ thể, thì đó là tiền lương, doanh thu, lợi nhuận, thu nhập doanh nghiệp, vốn, thu nhập cá nhân...vv. Ở tầm vĩ mô thì nguồn thu thể hiện qua tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Thông thường chúng ta hay dùng GDP. Nguồn thu tiềm năng là những nguồn thu chưa thể hiện bằng tiền, nhưng có khả năng thành tiền trong một thời gian gần. Đó là đất đai, tài nguyên, khoáng sản... Nguồn thu trực tiếp cho phép xác định thu ngân sách Nhà nước trong hiện tại, còn nguồn thu tiềm năng cho phép xác định khả năng thu ngân sách Nhà nước trong tương lai. Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng các nguồn thu và tính toán mức bội chi ngân sách, chúng ta có thể phân chia thành nguồn thu trong cân đối và thu ngoài cân đối ngân sách. Thu trong cân đối ngân sách là các khoản thu được đưa vào công thức xác định mức bội chi ngân sách. Đây chính là nội dung kinh tế của bội chi ngân sách. Thu trong cân đối ngân sách được hiểu bao gồm các khoản thu vào quỹ ngân sách mà khoản thu đó không kèm theo, không làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả trực tiếp. Ngoài ra, căn cứ vào nơi phát sinh nguồn thu người ta có thể chia ra: Nguồn thu trong nước và nguồn thu ngoài nước, nguồn thu theo lĩnh vực (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...), nguồn thu theo thành phần kinh tế. Trong quá trình thu, Nhà nước tập trung được một lượng tiền nhất định vào ngân sách Nhà nước. Kết quả thu được đó, được gọi là thu nhập ngân sách Nhà nước. Thu nhập ngân sách Nhà nước (hay còn gọi là số thu NSNN) là mục tiêu của quá trình thu và nó thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Như vậy, giữa nguồn thu NSNN và thu nhập của ngân sách Nhà nước có mối quan hệ biện chứng. Nguồn thu thể hiện khả năng, còn thu nhập của NSNN thể hiện thực hiện một phần của khả năng. Mối quan hệ đó thường được biểu hiện bằng tỷ lệ động viên của NSNN hay tỷ lệ thu NSNN và được tính bằng công thức: Số thu NSNN Tỷ lệ thu NSNN = x 100 (%) GDP Tỷ lệ thu NSNN có một ý nghĩa rất lớn trong nền kinh tế quốc dân. Nó không những nói lên rằng Nhà nước cần thu như thế nào để đảm bảo chi tiêu, mà Nhà nước còn sử dụng nó như thế nào trong phân phối thu nhập, điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô. 1.2.3.2. Các hình thức thu NSNN Để biến nguồn thu NS thành thu nhập của NSNN cần phải có các hình thức thu thích hợp. Những hình thức đó được coi như những công cụ, phương tiện biến nguồn thu thành thu nhập của NSNN. Hình thức thu ngân sách phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố kinh tế - xã hội. Trong những cơ chế quản lý kinh tế khác nhau thì cơ cấu các hình thức thu cũng khác nhau. Hiện nay có những hình thức thu cơ bản sau đây: - Thu thuế: Thuế là một biện pháp tài chính bắt buộc (phi hình sự) của Nhà nước nhằm động viên một bộ phận thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc chi tiêu hàng hoá dịch vụ và từ việc lưu giữ, chuyển dịch tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm trang trải các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Việc thu thuế bao giờ cũng được thể chế bằng hệ thống pháp luật. Nhà nước là người đại diện cho người dân, Nhà nước thay mặt cho xã hội cung cấp cho mọi người dân hàng hoá và dịch vụ công cộng thuần tuý, nên Nhà nước với quyền lực chính trị của mình quy định thuế để coi phần nộp mà người dân trích một phần thu nhập của mình không mua hàng hoá phục vụ cho cá nhân, mà coi như trả cho hàng hoá dịch vụ công cộng của Nhà nước. Nhà nước thu thuế không phải nô dịch, bóc lột công dân, mà thực chất là người đại diện cho xã hội, được xã hội giao phó cho việc cung ứng hàng hoá dịch vụ công cộng, mà thuế là nguồn lực tạo ra hàng hoá dịch vụ công cộng đó. - Thu phí và lệ phí: Trong điều kiện kinh tế thị trường, đối với hàng hoá dịch vụ tư nhân, khi người dân muốn nhận một sản phẩm hàng hoá dịch vụ nào đó thì buộc họ phải đưa ra một lượng giá trị tương đương để trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Còn khi thụ hưởng hàng hoá dịch vụ công cộng thì việc trả các chi phí phức tạp hơn. Cụ thể : + Hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp thì việc thu hồi chi phí thực hiện theo giá quy định của Nhà nước; giá này thường ít bị chi phối bởi quy luật thị trường. + Đối với dịch vụ công cộng vô hình do Nhà nước cung cấp, việc lượng hoá chi phí cụ thể để từng người dân phải trả khi thụ hưởng các dịch vụ này theo nguyên tắc ngang giá là rất khó thực hiện, nên việc thu hồi chi phí trực tiếp cũng rất khó khăn. Do vậy, nhiều nước trên thế giới đều dùng công cụ thuế (chủ yếu là thuế gắn thu để thu hồi các chi phí này). + Đối với dịch vụ công cộng hữu hình do Nhà nước cung cấp, thì Nhà nước cũng phải xác định "giá phí" mà người thụ hưởng phải thanh toán. Tuy nhiên "giá phí" này thường thường không hoàn toàn vì mục đích kinh tế, mà còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội....Do đó, chúng phổ biến là không tính đủ chi phí và không bị chi phối nhiều bởi các yếu tố thị trường. Như vậy, thu phí của Nhà nước thực chất là Nhà nước thu hồi một phần hay toàn bộ chi phí đầu tư cung cấp dịch vụ công cộng hữu hình cho xã hội, đồng thời cũng là các khoản chi phí mà người dân phải trả khi thụ hưởng các dịch vụ công cộng đó. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, một số cơ quan thuộc bộ máy Nhà nước còn cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý cụ thể cho dân chúng. Người dân thụ hưởng dịch vụ này cũng phải trả một phần chi phí. Tuy thế, việc thu khoản tiền này hoàn toàn không có ý nghĩa là thu hồi một phần chi phí do cơ quan của bộ máy Nhà nước bỏ ra, ở đây không phải là thu phí, không phải là giá dịch vụ, mà khoản thu này chủ yếu phục vụ yêu cầu quản lý Nhà nước. Người dân thụ hưởng dịch vụ này có nghĩa vụ nộp cho Nhà nước một khoản tiền. Đây chính là các khoản lệ phí. Như vậy, lệ phí là khoản thu phát sinh ở các cơ quan của bộ máy chính quyền Nhà nước có cung cấp dịch vụ công cộng về hành chính, pháp lý cho dân chúng. Lệ phí thường là khoản thu nhỏ, rải rác, lẻ tẻ, chủ yếu phát sinh ở các địa phương. Thu phí và lệ phí nhằm tạo nên thu nhập, bù đắp chi tiêu của Nhà nước ở các lĩnh vực tạo ra hàng hoá dịch vụ công cộng, hành chính, pháp lý, góp phần thực hiện công bằng xã hội khi hưởng thụ các hàng hoá dịch vụ công cộng của dân chúng. Đồng thời, qua việc thu phí và lệ phí, Nhà nước thực hiện việc quản lý và kiểm soát có hiệu quả hơn các hoạt động xã hội trong khuôn khổ pháp luật, giúp cho người dân nâng cao ý thức trách nhiệm đối với các giá trị vật chất và tinh thần của cộng đồng xã hội. Thu thuế, phí và lệ phí là những khoản thu thường xuyên, chiếm từ 90 - 95% trong tổng số thu NSNN. - Ngoài những khoản thu thường xuyên, chúng ta còn có những khoản thu không thường xuyên: + Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước (như thu hồi vốn, chia lãi góp vốn, thu hồi tiền vay, phụ thu, thu chênh lệch giá vv....); + Thu sự nghiệp: Đây là khoản thu gắn liền với hoạt động sự nghiệp; + Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước; + Thu tiền sử dụng đất, thu tiền cho thuê đất; + Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; + Tiền bán tài sản, cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước trong các đơn vị hành chính sự nghiệp; + Các di sản Nhà nước được hưởng; + Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản đóng góp thường mang tính chất nhân đạo; + Thu tiền kết dư ngân sách năm trước; + Thu tiền phạt, tiền bán hàng tịch thu; + Thu viện trợ bằng tiền, bằng hiện vật của Chính phủ các nước, các tổ chức và các cá nhân nước ngoài; + Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để bù đắp bội chi ngân sách và các khoản huy động vốn đầu tư của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; + Các khoản thu khác theo pháp luật quy định: Là những khoản thu không quy định ở trên, như: Thu về hợp tác lao động với nước ngoài, thu hồi tiền thừa năm trước [17]. 1.2.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN Như đã phân tích ở trên, nguồn thu NSNN là tổng thu nhập quốc nội nhưng số thu NSNN lại đặc trưng bởi tỷ lệ động viên nguồn thu. Đó là nội dung chính của thu NSNN là xác định mức động viên và các lĩnh vực cần động viên. Việc xác định đúng đắn mức động viên và các lĩnh vực động viên không những ảnh hưởng đến số thu NSNN mà còn có tác động đến quá trình phát triển kinh tế xã hội. Mức động viên và các lĩnh vực động viên của thu NSNN chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Song trong thực tế, những nhân tố chủ yếu sau đây ảnh hưởng trực tiếp đến thu NSNN: - Thu nhập GDP bình quân đầu người: Chỉ tiêu thu nhập GDP bình quân đầu người phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển của một quốc gia, phản ảnh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập GDP bình quân đầu người càng cao thì khả năng tiêu dùng của dân chúng được bảo đảm, đồng thời người dân cũng có điều kiện tiết kiệm để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển. Ngược lại nếu mức thu nhập GDP bình quân đầu người quá thấp không đủ để tiêu dùng, thì sẽ không có nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Như vậy thu nhập GDP bình quân đầu người là yếu tố thu khách quan quyết định mức độ động viên của NSNN: Thu nhập càng cao thì tỷ lệ động viên càng cao và ngược lại. - Nguồn thu tiềm năng: Nó thể hiện khả năng thu trong tương lai nhưng rất dễ trở thành hiện thực trong hiện tại. Trong nguồn thu tương lai thì tài nguyên và khoáng sản có ý nghĩa quan trọng nhất. - Mức độ trang trải chi phí của Chính phủ: Thu NSNN là nhằm mục đích trang trải các chi phí của Chính phủ. Mức độ trang trải chi phí của Chính phủ phụ thuộc vào: + Quy mô tổ chức và hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước; + Đường lối, chủ trương và các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trong từng thời kỳ lịch sử; + Cơ chế chính sách của Nhà nước về sử dụng kinh phí. - Tổ chức bộ máy thu nộp: Trong quá trình thu NSNN cần tổ chức bộ máy thu nộp. Bộ máy thu NSNN phải tổ chức gọn nhẹ nhưng bao quát hết toàn bộ nguồn thu, thu đúng, thu đủ, thu theo Luật định. Bộ máy thu ngân sách phải đảm bảo được nguyên tắc thu ngân sách nhiều nhất, chi phí thu ít nhất. Ngoài ra thu ngân sách Nhà nước còn chịu ảnh hưởng của một số nhân tố khác, như hoạt động kinh tế đối ngoại, sự ổn định về chính trị - xã hội .v.v... [17]. 1.2.4. Phân định nguồn thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương 1.2.4.1. Nguồn thu từ các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% Bao gồm: Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành; các khoản thuế và thu khác từ các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, tiền thuê mặt đất, mặt nước; tiền thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay của ngân sách trung ương (cả gốc và lãi), thu từ quỹ dự trữ tài chính của trung ương, thu nhập từ vốn góp của ngân sách trung ương. Viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho chính phủ Việt Nam; phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản phí và lệ phí do các cơ quan, đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu không kể phí xăng, dầu và lệ phí trước bạ; phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật các khoản thu sự nghiệp của các đơn vị do các cơ quan trung ương trực tiếp quản lý; chênh lệch thu lớn hơn chi của ngân hàng nhà nước Việt Nam; thu kết dư ngân sách trung ương; thu chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách TW năm trước chuyển sang; các khoản phạt tịch thu và thu khác của ngân sách TW theo quy định của pháp luật [24]. 1.2.4.2. Nguồn thu từ các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100% Bao gồm: Thuế nhà, đất; thuế tài nguyên không kể thuế tài nguyên thu được từ hoạt động dầu khí; thuế môn bài; thuế chuyển quyền sử dụng đất; tiền cho thuê đất, thuê mặt nước không kể tiền thuê mặt nước thu từ hoạt động dầu khí, tiền đền bù thiệt hại đất; tiền thuê bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước; lệ phí trước bạ; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết; thu nhập từ vốn góp của ngân sách địa phương; tiền thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các cơ sở kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh; viện trợ không hoàn lại của các tổ chức cá nhân nước ngoài trực tiếp cho địa phương theo quy định của pháp luật. Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí do các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu, không kể phí xăng, dầu và lệ phí trước bạ; Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác; phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản thu sự nghiệp của các đơn vị do địa phương quản lý. Huy động từ các tổ chức cá nhân theo quy định của pháp luật; đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân ở trong và ngoài nước; thu từ huy động xây dựng. Các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Luật ngân sách nhà nước; thu từ kết dư ngân sách địa phương; các khoản phạt, tịch thu và thu khác của ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật; thu bổ sung từ ngân sách cấp trên; thu chuyển nguồn từ ngân sách địa phương năm trước sang ngân sách địa phương năm sau [24]. 1.2.4.3. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương Do điều kiện kinh tế - xã hội, tự nhiên của các địa phương khác nhau, trình độ phát triển không đều, do đó số thu và yêu cầu chi của địa phương cũng không giống nhau. Vì vậy, ngoài các khoản thu từng cấp được hưởng 100% nêu trên, Luật ngân sách năm 2002 ở nước ta còn quy định có một số khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách các cấp trung ương và địa phương (tỉnh, thành phố). Các khoản đó là: Thuế giá trị gia tăng (không kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu) và thuế giá trị gia tăng thu từ hoạt động xổ số kiến thiết; Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hoạch toán toàn ngành (theo quy định của Bộ Tài chính) và thuế thu nhập từ các hoạt động xổ số kiến thiết. Thuế thu nhập với người có thu nhập cao (không kể các khoản thuế và thu khác từ hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, tiền thuê mặt đất, mặt nước); thuế tiêu thu đặc biệt thu từ hàng hoá, dịch vụ trong nước (không kể thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hoạt động xổ số kiến thiết, phí xăng, dầu). Tỷ lệ phần trăm các khoản thu phân chia chính là cái “van” điều chỉnh nguồn thu giữa các địa phương, bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa các địa phương. Địa phương nào có điều kiện phát triển kinh tế thuận lợi, có nguồn thu lớn thì tỷ lệ (%) này thấp; ngược lại, địa phương nào kinh tế chậm phát triển, nguồn thu nhỏ thì tỷ lệ này tăng lên. Tỷ lệ phân chia này do Chính phủ quyết định cho tất cả các khoản thu phân chia, được xác định riêng từng tỉnh (thành phố). Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu (và bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới) được ổn định từ 3-5 năm (gọi là thời kỳ ổn định ngân sách). Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu ngân sách hàng năm (phần ngân sách địa phương được hưởng) để chi cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển ngân sách tại địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung ngân sách từ cấp trên hoặc tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết thu nộp về ngân sách cấp trên (đối với các địa phương có điều tiết ngân sách về cấp trên) [24]. Các khoản thu phân chia giữa ngân sách tỉnh (thành phố) với ngân sách huyện (thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) gồm: Thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà đất. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nguồn thu cho các cấp chính quyền huyện, xã theo nguyên tắc phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế; phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi ổn định theo thời gian của thời kỳ ổn định ngân sách. Kết thúc mỗi thời kỳ ổn định ngân sách sẽ có sự điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) và bảo đảm yêu cầu sau: - Gắn với nhiệm vụ và khả năng quản lý của từng cấp, hạn chế việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; khuyến khích các cấp tăng cường quản lý thu, chống thất thu, hạn chế phân chia nguồn thu quy mô nhỏ cho nhiều cấp. - Ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% đối với 5 khoản thu: Thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà đất. - Ngân sách thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản thu lệ phí trước bạ (không kể lệ phí trước bạ nhà đất). Như vậy, Luật ngân sách năm 2002 một mặt khẳng định quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nguồn thu ngân sách của cấp huyện, xã, mặt khác lại mở rộng nguồn thu tối thiểu là 70% (5 nguồn thu) và cấp huyện được hưởng 50% nguồn thu lệ phí trước bạ (Luật ngân sách năm 1996 chưa quy định như vậy). Luật ngân sách năm 2002 quy định các tỷ lệ 70% và 50% chỉ là tỷ lệ phần trăm tối thiểu, HĐND tỉnh vẫn là cơ quan quy định nguồn thu và tỷ lệ phân chia. Tỷ lệ phân chia của TW cho tỉnh và tỉnh với cấp huyện được thực hiện theo nguyên tắc: Mỗi địa phương có một tỷ lệ thống nhất cho các khoản thu phân chia (tỷ lệ thống nhất cho các khoản thu thuộc diện phân chia). Tỷ lệ này được tính theo công thức dưới đây và thông báo cho các địa phương vào năm đầu thời kỳ ổn định. Tỷ lệ phần trăm (%) = A - B x 100% C Trong đó: * A là tổng số chi ngân sách địa phương (không bao gồm số bổ sung). * B là tổng số các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100% (không bao gồm số bổ sung). * C là tổng số các khoản thu được phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. - Nếu A-B<C thì địa phương được giữ lại tỷ lệ % đó cho ngân sách địa phương, phần còn lại được điều tiết về cho ngân sách trung ương. - Nếu A-B>C thì tỷ lệ % chỉ được tính bằng 100% và phần chênh lệch (A-B-C) sẽ được cấp bổ sung thêm từ ngân sách trung ương. - Nếu A-B=C thì tỷ lệ % là 100% và địa phương tự cân đối [24]. 1.2.5. Phân định nhiệm vụ thu đối với ngân sách cấp huyện, quận Theo quy định của Luật, huyện (quận) là một cấp ngân sách thuộc ngân sách địa phương và là một cấp ngân sách hoàn chỉnh thuộc Ngân sách nhà nước. Ủy ban nhân dân cấp huyện là người điều hành ngân sách cấp mình. Nguồn thu 100% của huyện bao gồm: Thuế môn bài (trừ thuế môn bài thu từ các cá nhân và nhóm kinh doanh nhỏ ở xã, thị trấn); các khoản phí, lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc cấp huyện quản lý; tiền thu từ hoạt động sự nghiệp của các cơ quan, đơn vị do cấp huyện quản lý; viện trợ không hoàn lại của pháp luật; đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định; đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cho ngân sách cấp huyện; thu kết dư ngân sách cấp huyện; bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã gồm: Thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà, đất; tiền sử dụng đất; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; lệ phí trước bạ; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước và một số khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh được phân chia với ngân sách cấp tỉnh theo tỷ lệ phần trăm khoản thu lệ phí trước bạ, không kể lệ phí trước bạ nhà đất phát sinh trên địa bàn do HĐND tỉnh quyết định nhưng không dưới 50%. 1.2.6. Phân định nhiệm vụ thu đối với ngân sách cấp xã Theo quy định của Luật, ngân sách cấp xã có các nguồn thu sau: Nguồn thu 100% gồm: Thuế môn bài thu từ các cá nhân và nhóm kinh doanh nhỏ; thuế sát sinh; các khoản phí, lệ phí và đóng góp thu cho ngân sách xã theo quy định của pháp luật; thu hoa lợi công sản khác; tiền thu từ hoạt động sự nghiệp do xã, thị trấn quản lý; các khoản đóng góp tự nguyện cho xã, thị trấn; viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài nước trực tiếp cho các xã, thị trấn theo quy định của pháp luật; thu kết dư ngân sách xã, thị trấn; bổ sung từ ngân sách cấp trên; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Nguồn thu điều tiết gồm: Thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng sản xuất trong nước. Tỷ lệ phân chia các nguồn thu này do UBND cấp tỉnh quy định nhưng không dưới 70%. 1.3. LẬP VÀ CHẤP HÀNH DỰ TOÁN THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1.3.1. Lập dự toán thu ngân sách Nhà nước Sau khi nhận được thông tin hướng dẫn từ cấp trên xuống, quá trình lập dự toán được tiến hành từ cơ sở và tổng hợp từ dưới lên. Thời gian lập dự toán được quy định từ 10/6 hàng năm. Các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm trong việc thu, chi ngân sách phải tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách trong phạm vị nhiệm vụ được giao và báo cáo cơ quan tài chính cùng cấp. Cơ quan tài chính cấp địa phương xem xét dự toán của các cơ quan, đơn vị cùng cấp và dự toán ngân sách của chính quyền cấp dưới tổng hợp, lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương để trình Ủy ban nhân dân cùng cấp. Ủy ban nhân dân cùng cấp có trách nhiệm lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính Nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên. Bộ Tài chính xem xét dự toán ngân sách của các cơ quan trung ương, dự toán ngân sách địa phương, tổng hợp và lập dự toán ngân sách Nhà nước trình Chính phủ. Được chia thành 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1: Hướng dẫn lập dự toán ngân sách và thông báo số kiểm tra. - Giai đoạn 2: Lập và thảo luận dự toán ngân sách. - Giai đoạn 3: Quyết định phân bổ, giao dự toán ngân sách Nhà nước Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi NS của UBND cấp trên, UBND trình HĐND cùng cấp quyết định dự toán NSĐP và phương án phân bổ dự toán NS cấp mình, bảo đảm dự toán NS cấp xã được quyết định trước ngày 31 tháng 12 năm trước [5]. 1.3.2. Chấp hành ngân sách Nhà nước 1.3.2.1. Mục tiêu của chấp hành ngân sách Nhà nước Chấp hành NSNN là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi NSNN đã được ghi trong dự toán NSNN hàng năm trở thành hiện thực. Để thực thi NS được hiệu quả, vai trò của khâu lập dự toán là hết sức quan trọng. Một NS dự toán tốt có thể được thực hiện không tồi, nhưng một NS lập tồi thì không thể thực hiện tốt. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là quá trình thực hiện NS chỉ đơn thuần là đảm bảo tuân thủ NS như dự kiến ban đầu, mà phải thích ứng với các thay đổi khách quan trong quá trình thực hiện, đồng thời tính đến hiệu quả hoạt động. Mục tiêu của chấp hành NSNN là: - Biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong dự toán NS năm từ khả năng, dự kiến trở thành hiện thực. Từ đó, góp phần thực hiện các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển KTXH của Nhà nước. - Kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức về kinh tế - tài chính của Nhà nước. Thông qua chấp hành NSNN mà tiến hành đánh giá sự phù hợp của chính sách với thực tiễn. - Trong công tác quản lý điều hành NSNN, chấp hành NSNN là khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định. Khâu lập dự toán đạt kết quả tốt thì cơ bản cũng mới dừng ở trên giấy, nằm trong khả năng và dự kiến, chúng có biến thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào khâu chấp hành NS. Hơn nữa, chấp hành NS thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khâu tiếp theo là quyết toán NSNN [3]. 1.3.2.2. Nội dung tổ chức chấp hành thu ngân sách Nhà nước Trên cơ sở nhiệm vụ thu cả năm được giao và nguồn thu dự kiến phát sinh trong quý, cơ quan thu lập dự toán thu NS quý chi tiết theo khu vực kinh tế, địa bàn và đối tượng thu chủ yếu, gửi cơ quan tài chính cuối quý trước. Thu ngân sách Nhà nước được thực hiện theo Luật (các luật thuế, pháp lệnh phí và lệ phí...). Tất cả các nguồn thu đều được thực hiện thông qua hệ thống kho bạc Nhà nước. Cơ quan thu bao gồm: cơ quan Thuế, Hải quan, Tài chính và các cơ quan khác được Nhà nước giao nhiệm vụ thu NS. Các khoản thu có tính chất nội địa như thuế, phí, lệ phí thường do cơ quan Thuế thực hiện. Cơ quan Hải quan tổ chức thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu. Cơ quan Tài chính và các cơ quan thu khác được ủy quyền thu các khoản thu còn lại của NSNN [3]. 1.4. KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1.4.1 Thái Lan Thái Lan là một nước lớn trong khu vực Đông Nam Á. Diện tích 513.115 km2; dân số khoảng 63 triệu người. Thái Lan tổ chức quản lý đất nước theo mô hình “tam quyền phân lập”. Hệ thống chính quyền được tổ chức như sau: cấp Trung ương (gồm Văn phòng nội các, 20 Bộ chuyên ngành; quỹ Trung ương; các đơn vị theo quy định của Hiến pháp…); cấp địa phương: cấp tỉnh (Băng kok và Patrayja hưởng quy chế riêng); cấp đô thị, cấp xã. Ngân sách địa phương ở Thái Lan do Hội đồng dân cư địa phương quyết định trên cơ sở các chính sách kinh tế tài chính của Trung ương và phù hợp với kế hoạch tài chính trung hạn. Mô hình ngân sách của Thái Lan là mô hình “không lồng ghép”. Nghĩa là ngân sách của một cấp không tổng hợp từ ngân sách cấp dưới; về kết cấu ngân sách địa phương gồm 2 phần: phần 1 – Được sử dụng theo chế độ, chính sách của địa phương; phần 2 – Được sử dụng không theo các quy định của địa phương. Hội đồng dân cư địa phương thông qua các khoản thu, chi trong từng niên độ thuộc thẩm quyền quyết định của địa phương. Đến nay có khoảng 35% nguồn thu ngân sách đã được giao cho địa phương. Ở Thái Lan còn áp dụng nhiều hình thức trợ cấp ngân sách cho các địa phương: trợ cấp mục tiêu; trợ cấp không mục tiêu, trợ cấp chung, trợ cấp đặc biệt. Ở Trung ương quá trình dự toán ngân sách được bắt đầu từ tháng 11. Quy trình lập, phân bố ngân sách ở Thái Lan gồm 3 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị và xây dựng dự toán ngân sách (từ tháng 11 hàng năm đến tháng 6 năm sau); giai đoạn thảo luận và thông qua dự toán ngân sách (tháng 6 đến tháng 9 trong năm). Giai đoạn điều chỉnh dự toán ngân sách (trong tháng 9). Quy trình và lập bổ sung ngân sách địa phương cũng được tiến hành tương tự như ở Trung ương và được tiến hành song song với Trung ương [17]. 1.4.2. Malaysia Malaysia là nước đang phát triển trong cùng khu vực và có nhiều đặc điểm kinh tế, tự nhiên tương đồng với Việt Nam và là Nhà nước liên bang. Hệ thống ngân sách Nhà nước của Malaysia bao gồm 3 cấp là: - Ngân sách liên bang - Ngân sách bang - Ngân sách của chính quyền địa phương Ngân sách liên bang, Ngân sách bang do Quốc hội xem xét, quyết định và quyết định phần trợ cấp cho ngân sách địa phương. Trong quá trình thực hiện, phát sinh các nhu cầu về khả năng thu, chi có ảnh hưởng tới dự toán đều phải được đưa ra xin ý kiến Quốc hội, do đó ngân sách được xây dựng chặt chẽ và điều hành rất nghiêm ngặt. Ngân sách các cấp chính quyền địa phương do chính quyền địa phương đó quyết định, phải đảm bảo nguyên tắc cân đối thu, chi. Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách cho địa phương được thực hiện thông qua hệ thống pháp luật liên bang và bang. Nguồn thu của ngân sách liên bang bao gồm các khoản thuế trực thu (thuế thu nhập dân cư, thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập từ dầu lửa, thuế phát triển); thuế gián thu (thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu, thuế VAT, thuế hàng hoá đặc biệt)… và các khoản thu có tính chất thuế như thuế tài nguyên, phí cấp phép, thu dịch vụ… Nguồn thu của các bang và các cấp trực thuộc bang không giống nhau, mỗi bang có một nguồn thu riêng. Các bang căn cứ vào Hiến pháp của bang được tự quyết định một số loại thuế và các khoản thu của cấp trực thuộc bang. Nhìn chung, nguồn thu của bang và cấp trực thuộc bang là các nguồn thu nhỏ, hạn hẹp. Theo quy định của Hiến pháp liên bang, không có khoản thu phân chia giữa liên bang, bang và các cấp trực thuộc bang [17]. 1.4.3. Trung Quốc Hệ thống ngân sách Nhà nước của Trung Quốc được chia thành ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách các cấp ở địa phương bao gồm: - Ngân sách tỉnh (khu tự trị, thành phố trực thuộc) - Ngân sách thành phố trực thuộc tỉnh (châu tự trị) - Ngân sách huyện (huyện tự trị) - Ngân sách xã (thị trấn). - Về ngân sách: theo quy định của Hiến pháp, mỗi cấp chính quyền là một cấp ngân sách. Các cấp ngân sách ở Trung Quốc được thống nhất chỉ đạo và phân cấp quản lý trên cơ sở thống nhất về chính sách, chế độ và kế hoạch dự toán của trung ương, cho phép ngân sách các cấp ở địa phương được thực hiện quyền điều chỉnh dự toán, quyền sử dụng linh hoạt các nguồn lực tài chính, quyền thi hành những biện pháp tài chính cụ thể phù hợp với tình hình của địa phương. - Về phân cấp nguồn thu: + Các khoản thu 100% của ngân sách trung ương bao gồm: Thuế thu nhập doanh nghiệp trung ương quản lý, thuế thu nhập của các ngân hàng, thuế doanh thu của ngành đường sắt, bảo hiểm, thuế tiêu thụ đặc biệt… + Các khoản thu 100% của ngân sách địa phương bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp của địa phương quản lý, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất, thuế giao dịch chứng khoán, thuế đặc sản nông nghiệp, thuế sát sinh, thuế hợp đồng… + Các khoản phân chia giữa trung ương và địa phương bao gồm thuế VAT – trung ương 75%, địa phương 25%; thuế tài nguyên… Với phương pháp phân định này, Trung Quốc thực hiện theo nguyên tắc “4/6” có nghĩa là ngân sách trung ương kiểm soát ít nhất 60% tổng thu ngân sách nhà nước, 40% (trong số 60% ngân sách trung ương được hưởng) được chi ở cấp trung ương, còn lại 20% được phân bổ cho ngân sách địa phương theo hình thức trợ cấp. - Trung Quốc lập quỹ Hỗ trợ ngân sách trung ương đối với các địa phương. Nguồn hình thành quỹ này được trích một phần trong số thu về ngân sách trung ương. Ngân sách trung ương hỗ trợ cho ngân sách địa phương bằng nhiều hình thức như hỗ trợ chung, hỗ trợ có mục tiêu, bổ sung cho ngân sách địa phương. Hình thức bổ sung (trợ cấp) nhằm giúp cho các địa phương không có khả năng cân đối được thu, chi. Hỗ trợ có mục tiêu nhằm khuyến khích các địa phương phát triển những lĩnh vực chung của đất nước. Trong trường hợp bị mất khả năng cân đối thu, chi, ngân sách địa phương chủ yếu thực hiện điều chỉnh lại các khoản thu chi thuộc cấp mình quản lý. Nếu trong phạm vi điều chỉnh vẫn không có khả năng cân đối được thì sẽ được nhận trợ cấp từ ngân sách cấp trên. Ngân sách trung ương khi mất khả năng cân đối thu, chi có thể thực hiện bằng các hình thức vay nợ trong nước và ngoài nước [17]. 1.4.4. Những bài học kinh nghiệm Sau khi nghiên cứu tình hình quản lý ngân sách giữa trung ương và địa phương ở một số nước trên thế giới, để áp dụng vào tình hình tại địa phương, chúng tôi rút ra được một số nhận xét sau: Thứ nhất, tổ chức hệ thống ngân sách phải phù hợp với hệ thống hành chính, Nhà nước chỉ có một ngân sách, tập hợp tất cả các khoản thu và khoản chi. Thứ hai, mọi khoản thu chi đều được quản lý qua ngân sách, không có tình trạng để ngoài ngân sách. Thứ ba, thực hiện nguyên tắc trung thực, mọi nghiệp vụ phát sinh đều được thể hiện chính xác, đầy đủ, đúng với nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Thứ tư, thực hiện nguyên tắc công khai, chính quyền các cấp đều phải công bố công khai ngân sách trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thứ năm, việc phân cấp quản lý ngân sách ở các nước không lồng ghép, ngân sách cấp trên không bao gồm ngân sách cấp dưới, ngân sách chính phủ không bao gồm ngân sách địa phương; mổi cấp chính quyền tự lập, duyệt và thực hiện ngân sách cấp mình Thứ sáu, xu hướng chung là các khoản thu lớn được tập trung vào cấp trung ương nhằm tạo ra được “các cú đấm chiến lược” để tác động mạnh vào cơ cấu kinh tế, tạo được các bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội, còn các khoản thu nhỏ để lại cho địa phương. Thứ bảy, phân định thẩm quyền quyết định ngân sách Nhà nước giữa các cấp rõ ràng kể từ khâu lập dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách [17]. Chương 2 THỰC TRẠNG THU TRONG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH GIAI ĐOẠN 2005 - 2008 2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Huyện Bố Trạch có 30 đơn vị hành chính, bao gồm 28 xã và 2 thị trấn; trong đó có 8 xã và 1 thị trấn miền núi, 2 xã miền núi rẻo cao dân tộc thiểu số. Vị trí địa lý nằm ngay cửa ngõ phía Bắc thành phố Đồng Hới và là một trong số ít huyện có chiều từ Tây sang Đông chiếm toàn bộ chiều ngang của Việt Nam. Lãnh thổ của huyện có toạ độ địa lý như sau: Vĩ độ Bắc: 170 14’39”đến 170 43' 48” Kinh độ Đông: 105058’ 3’’ đến 106035’ 573’’ Ranh giới hành chính của huyện: - Phía Bắc giáp: huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa; - Phía Nam giáp: thành phố Đồng Hới và huyện Quảng Ninh; - Phía Đông giáp: biển Đông; - Phía Tây giáp: nước CHND Lào. 2.1.1.2. Địa hình và khí hậu a. Địa hình: Địa hình có độ nghiêng lớn từ Tây sang Đông (từ biên giới Việt – Lào xuống đến Biển Đông. Toàn huyện có thể chia làm 4 dạng địa hình như sau: - Địa hình núi đá vôi: Kiểu địa hình này chiếm phần lớn diện tích của xã Thượng Trạch, Tân Trạch và một phần diện tích phía Tây của xã Xuân Trạch, gồm khối núi đá vôi liên tục. Đây chính là khối núi đá vôi liên tục rộng lớn nhất của Việt Nam. - Địa hình gò đồi: Đây là khu vực tiếp giáp địa hình núi đá vôi và vùng đồng bằng. Trên dạng địa hình này rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày đặc biệt là cây cao su. - Địa hình đồng bằng: Vùng này địa hình tương đối bằng phẳng, có một số đồi gò độ dốc nhỏ. Ở dạng địa hình này rất thuận tiện cho việc phát triển trồng lúa nước. - Địa hình ven biển: Đây là vùng hạ lưu có nhiều đầm phá ven các cửa sông rất thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. b. Khí hậu: Mang đậm đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa của vùng ven biển miền Bắc Trung Bộ. Đây là một vùng có khí hậu rất khắc nhiệt. Hàng năm thường có nhiều trận bão lụt, nước biển dâng xảy ra gây thiệt hại không nhỏ đến kinh tế. 2.1.2. Đặc điểm về nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội 2.1.2.1. Dân số và lao động a. Dân số: Trung bình năm 2007 là 176.540 người, trong đó 90,41% sống ở khu vực nông thôn và 9,59% ở khu vực thành thị, mà chủ yếu là thị trấn Hoàn Lão và thị trấn Nông trường Việt Trung. Mật độ dân số chỉ có 83người/km2, là một trong những huyện có mật độ dân số thưa của tỉnh Quảng Bình. Lao động: Theo số liệu thống kê năm 2007, số người trong độ tuổi lao động là 92.248, chiếm tỷ lệ trên 52,3% tổng dân số. Đây là tỷ lệ tương đối cao so với một số vùng khác, nguyên nhân do cơ cấu dân số lứa tuổi trẻ chiếm tỷ lệ rất cao (trên 70% dân số là lứa tuổi dưới 34). Tuy nhiên trong độ tuổi lao động chỉ có 95,42% số người đang lao động trong các ngành kinh tế, số còn lại đang đi học hoặc không có khả năng lao động. 2.1.2.2. Tài nguyên khoáng sản a. Tài nguyên biển và bờ biển Huyện Bố Trạch có đường bờ biển dài trên 24km. Vùng biển Bố Trạch không sâu, cách xa bờ 20km độ sâu khoảng 20m, cách xa bờ 40km độ sâu khoảng 25m, ra đến 140km độ sâu cũng chỉ có 33m. Do biển không sâu nên diện tích bãi chiều của tất cả các xã ven biển rộng, khoảng 2.225ha. Đây cũng là một yếu tố rất thuận lợi để xây dựng cơ sở nuôi trồng thuỷ sản và phát triển du lịch biển. b. Tài nguyên đất Là một huyện có tài nguyên đất đai khá đa dạng, Huyện có diện tích đất đỏ vàng tương đối lớn (109.850 ha) chiếm gần 52% diện tích đất tự nhiên. Đây là loại đất chính để trồng cây lâu năm như cao su và cây ăn quả. Huyện còn có trên 9.000 ha đất phù sa, loại đất này là điều kiện đảm bảo an toàn lương thực cho huyện. Tình hình sử dụng đất huyện Bố Trạch giai đoạn 2000 – 2007 được tổng hợp và trình bày tại bảng sau đây: Bảng 2.1 Tình hình sử dụng đất huyện Bố Trạch giai đoạn 2000 – 2007 Đơn vị tính: ha Loại đất Năm 2000 Năm 2005 Năm 2007 Tổng diện tích tự nhiên 212.309,84 212.309,84 212.417,64 1 Đất nông nghiệp 176.078,26 192.641,00 197.672,23 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 19.840,12 19.770,76 20.669,90 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 14.036,01 14.012,11 13.651,71 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 5.804,11 5.758,65 7.018,19 1.2 Đất lâm nghiệp 156.016,52 171.947,50 176.084,89 1.2.1 Đất rừng sản xuất 50.128,63 45.004,08 52.877,93 1.2.2 Đất rừng phòng hộ 63.152,40 35.150,82 31.463,06 1.2.3 Đất rừng đặc dụng 42.735,49 91.792,60 91.743,90 1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 221,62 917,74 912,44 1.4 Đất làm muối 0,00 1.5 Đất nông nghiệp khác 5,00 5,00 2 Đất phi nông nghiệp 8.983,95 10.123,84 10.389,27 2.1 Đất ở 812,06 896,44 985,27 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 740,81 811,77 898,16 2.1.2 Đất ở tại đô thị 71,25 84,67 87,11 2.2 Đất chuyên dùng 8.171,89 4.789,43 6.146,87 2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 15,74 16,51 2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 719,70 719,49 2.5 Đất sông suối và mặt nước CD 3.702,53 2.521,13 2.6 Đất phi nông nghiệp khác 0,00 3 Đất chưa sử dụng 27.247,63 9.545,00 4.356,14 3.1 Đất bằng chưa sử dụng 3.120,18 2.936,22 2.632,78 3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng 9.432,51 3.423,51 944,18 3.3 Núi đá không có rừng cây 14.694,94 3.185,27 779,18 Nguồn: Niên giám thống kê huyện Bố Trạch c. Tài nguyên khoáng sản Bố Trạch được coi là một vùng có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú đã được điều tra khảo sát nhưng chưa được khai thác nhiều, bao gồm: nguyên liệu hoá chất và phân bón có pyrit ở Xuân Sơn, đá vôi từ Xuân Sơn đến Troóc có trữ lượng 131.925 triệu tấn; đá ốp lát trang trí ở Phú Định với nhiều loại có màu sắc đẹp như Granit, Gabro, diệp thạch, mỏ sét Cao lanh ở Thọ Lộc với trữ lượng 800.000m3, nguồn cát xây dựng ở sông Dinh, sông Son với trữ lượng lớn; cát trắng ở Thanh Khê trữ lượng 5 triệu tấn có khả năng sản xuất thuỷ tinh. d. Tài nguyên rừng Hiện nay huyện có 176.084,89ha đất lâm nghiệp chiếm 82,9% diện tích tự nhiên, trong đó: Diện tích rừng tự nhiên 52.870,86 ha, rừng đặc dụng 91.743,9 ha, rừng phòng hộ 31.463,05 ha. Thảm thực vật rừng rất đa dạng và phong phú, có nhiều loại gỗ quý như: lim xanh, sến, táu, đinh, gụ, pơ mu… và nhiều loại thú quý hiếm như: hổ, báo, hươu đen, trĩ sao, gà lôi. Rừng trồng phần lớn là thông nhựa (diện tích 7.692 ha), phi lao, bạch đàn và keo các loại. Đất có khả năng lâm nghiệp còn khoảng trên 3.500ha. Một phần diện tích của vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng nằm trên địa phận của xã Tân Trạch và Thượng Trạch của huyện Bố Trạch. Đây là khu bảo tồn có độ che phủ và tỷ lệ rừng nguyên sinh lớn nhất trong các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam. e. Tài nguyên du lịch Bố Trạch là huyện được thiên nhiên ưu đãi có điều kiện sinh thái đa dạng, bao gồm đầy đủ các cảnh quan sinh thái núi rừng, bờ biển, đồng bằng, đồi, trong đó có những nơi có thể xây dựng thành các điểm du lịch sinh thái, tắm biển, nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế, trong đó các khu nổi tiếng như: - Khu du lịch hang động và rừng quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng: là một khu du lịch hết sức hấp dẫn với hệ thống hang động đã phát hiện có tổng chiều dài khoảng 106.000m và còn nhiều hang động chưa được thám hiểm. Hệ thống hang động kỳ thú này kết hợp với hệ sinh thái rừng đa dạng trên núi đá vôi và sông suối tạo nên nhiều cảnh quan độc đáo thu hút các nhà nghiên cứu khoa học và khách du lịch. - Khu du lịch bãi tắm Đá Nhảy: Nằm dưới chân đèo Lý Hoà thuộc địa phận xã Hải Trạch đã được công nhận và xếp hạng là danh thắng quốc gia, là một điểm du lịch hấp dẫn. Ngoài ra, trên địa bàn huyện có hệ thống di tích truyền thống - lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam như: hệ thống đường Hồ Chí Minh, bến phà Xuân Sơn, Đường 20 và Hang Tám cô ...vv là điểm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. 2.2. THỰC TRẠNG THU TRONG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2005 – 2008 2.2.1. Tình hình thực hiện dự toán thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn Giai đoạn 2005 – 2008, công tác quản lý thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện Bố Trạch có nhiều tiến bộ vượt bậc, số thu qua các năm luôn đạt ở mức cao. Chi cục Thuế huyện cùng các phòng, ban chuyên môn đã chủ động tham mưu với UBND huyện, ban hành các Chỉ thị về chống thất thu, tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Trên cơ sở đó ngành Thuế đã phối hợp với các ngành để chống thất thu, chủ động đề xuất với cấp uỷ, chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo công tác thuế, nhất là tăng cường quản lý thuế công thương nghiệp dịch vụ ngoài quốc doanh. Do đó đã tranh thủ được sự đồng tình của nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Hàng năm, trên cơ sở dự toán được giao, Chi cục Thuế đã phối hợp với Phòng Tài chính để tham mưu cho UBND huyện tiến hành phân bổ và chỉ đạo các đơn vị xây dựng chỉ tiêu phấn đấu tăng thu ngân sách, với số thu từ thuế và phí (trừ tiền sử dụng đất) tăng tối thiểu 5% so với dự toán được giao, đặc biệt chú trọng chỉ đạo thu các nguồn trong cân đối NSNN. Nhờ vậy kết quả thu trong cân đối ngân sách giai đoạn 2005 - 2008 đạt được rất khả quan và đã góp phần tích cực trong việc củng cố nguồn thu NSNN trên địa bàn huyện. Để từ đó góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thu ngân sách và về đích sớm trước thời hạn quy định Bảng 2.2 Tình hình thực hiện dự toán thu trong cân đối ngân sách và thu NSNN trên địa bàn huyện Bố Trạch giai đoạn 2005-2008 Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 2005 - 2008 I. Thu trong cân đối 1. Dự toán tr.đ 33.700 39.373 46.225 56.730 44.007 2. Thực hiện tr.đ 36.348 46.563 57.194 71.866 52.993 3. Tỷ lệ thực hiện/Dự toán % 107,86 118,26 123,73 126,68 120,42 II. Thu ngân sách trên địa bàn 1. Dự toán tr.đ 41.200 49.600 57.500 66.600 53.725 2. Thực hiện tr.đ 46.475 59.142 71.224 80.892 64.433 3. Tỷ lệ thực hiện/Dự toán % 112,80 119,24 123,87 121,46 119,93 So sánh 1. DT thu trong cân đối/DT thu NS trên địa bàn % 81,80 79,38 80,39 85,18 81,91 2. Thực hiện thu trong cân đối/ thực hiện thu NS trên địa bàn % 78,21 78,73 80,30 88,84 82,24 Nguồn: Chi cục thuế huỵên Bố Trạch Thu trong cân đối ngân sách là nguồn thu chủ yếu trên địa bàn huyện Bố Trạch, bình quân chiếm trên 82% các khoản thu ngân sách trên địa bàn và năm thực hiện cao nhất đạt gần 89%. Số thu trong cân đối ngân sách hàng năm đều vượt cao so dự toán đề ra và tỷ lệ thực hiện so với dự toán có xu hướng tăng dần qua từng năm, bình quân hàng năm giai đoạn 2005 - 2008 thực hiện vượt dự toán trên 20%. Cụ thể kết quả thực hiện dự toán theo từng sắc thuế như sau: 2.2.1.1. Thuế CTN – NQD Bao gồm 6 khoản thu, đó là: - Thuế thu nhập doanh nghiệp: Đối với các DN ngoài quốc doanh và HTX trên địa bàn huyện do Chi cục thuế thu thì tỷ lệ huyện hưởng 100%, đối với hộ kinh doanh cá thể, tỷ lệ huyện hưởng 50%, xã, thị trấn hưởng 50%; - Thuế Tài nguyên: Thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và HTX, tỷ lệ huyện hưởng 70%, xã, thị trấn hưởng 30%; Thu từ hộ kinh doanh cá thể thì tỷ lệ huyện hưởng 50%, xã, thị trấn hưởng 50%; - Thuế giá trị gia tăng: Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và HTX hoạt đồng theo Luật DN, Luật HTX do chi cục thuế thu thì tỷ lệ huyện hưởng 100%. Đối với hộ kinh doanh cá thể, tỷ lệ huyện hưởng 50%, xã, thị trấn hưởng 50%; - Thuế tiêu thụ đặc biệt: Thu từ các DN ngoài quốc doanh và HTX trên địa bàn do Chi cục thuế thu thì tỷ lệ huyện hưởng 100%. Đối với hộ kinh doanh cá thể thì tỷ lệ huyện hưởng 50%, xã hưởng 50% và tỷ lệ huyện hưởng 70%, thị trấn hưởng 30%; - Thuế môn bài: Thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và HTX thì tỷ lệ huyện hưởng là 100%, thu từ hộ kinh doanh cá thể thì tỷ lệ huyện hưởng 30%, xã hưởng 70%; - Thu phạt ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện thì tỷ lệ huyện hưởng 100%. Thu từ CTN-NQD là thước đo, tiêu chuẩn quan trọng bậc nhất đánh giá công tác thu ngân sách của từng địa phương, bởi vì nó phản ánh được quy mô, mức độ sản xuất, kinh doanh của địa phương và nguồn thu này mang tính ổn định, lâu dài cho ngân sách. Bởi vậy, thu thuế CTN-NQD đã được ngành thuế và các đơn vị thu hết sức quan tâm, nỗ lực phấn đấu quyết liệt. Ngay từ cuối năm trước, các hoạt động rà soát đối tượng nộp thuế đã được khởi động nhằm không để sót diện hộ nộp thuế. Việc xác định doanh số tính thuế, doanh thu… được các tổ, đội thuế thực hiện tích cực. Quá trình tiến hành thu cũng đã triển khai thực hiện bài bản theo quy định của luật quản lý thuế… chính nhờ vậy kết quả đạt được trong thời gian qua tương đối khả quan. Bảng 2.3 Tình hình thực hiện thu thuế CTN-NQD so với dự toán được giao của huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 2005 - 2008 1. Dự toán giao (Triệu đồng) 7.000 8.100 10.800 14.100 10.000 2. Thực hiện (Triệu đồng) 7.150 8.732 11.046 13.896 10.207 3. Tỷ lệ thực hiện/Dự toán (%) 102,14 107,80 102,28 98,55 102,07 Nguồn Chi cục thuế Bố Trạch Năm 2008, sắc thuế này không đạt dự toán giao nhưng bình quân hàng năm thời kỳ này thực hiện vẫn vượt trên 2% so với dự toán đề ra. 2.2.1.2. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ ngân sách huyện hưởng 30%, ngân sách xã hưởng 70%, bao gồm 4 khoản thu đó là - Thuế sử dụng đất nông nghiệp; - Thuế chuyển quyền sử dụng đất; - Thuế nhà, đất; - Lệ phí trước bạ. Theo quy định của Luật ngân sách thì tỷ lệ phân chia 4 khoản thu trên do HĐND tỉnh quyết định, nhưng mức tối thiểu cấp xã được hưởng 70% và tối đa được hưởng 100%. Đây là những khoản được phân cấp cho ngân sách cấp xã thực hiện uỷ nhiệm thu và phục vụ chi thường xuyên cho các địa phương. Bảng 2.4 Tình hình thực hiện các khoản thu phân chia theo tỷ lệ cấp huyện hưởng 30%, cấp xã hưởng 70% so với dự toán được giao của huyện Bố Trạch thời kỳ 2005 - 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 2005 - 2008 1. Dự toán giao (Triệu đồng) 956 1.291 1.911 2.411 1.642 2. Thực hiện (Triệu đồng) 1.495 1.604 2.326 2.990 2.104 3. Tỷ lệ thực hiện/Dự toán (%) 156,38 124,24 121,72 124,01 128,10 Nguồn Chi cục thuế Bố Trạch Các sắc thuế thực hiện hàng năm đều vượt cao so dự toán đề ra. Số thu bình quân hàng năm giai đoạn 2005 - 2008 đạt 2.104 triệu đồng và vượt so dự toán đề ra trên 28%. 2.2.1.3. Thu phí và lệ phí Hoạt động thu phí và lệ phí có ý nghĩa xã hội lớn bởi bảo đảm công bằng giữa những người sử dụng dịch vụ công. Nhận thức rõ điều này và thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, thời gian qua, ngành thuế Bố Trạch có nhiều nỗ lực trong việc quản lý, khai thác nguồn thu từ các loại phí và lệ phí. Cơ quan thuế đã chủ động tham mưu cho UBND huyện ban hành văn bản chỉ đạo, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn các ngành, đơn vị trên địa bàn tham gia thu phí và lệ phí, xây dựng quy chế phối hợp quản lý nguồn thu này với các ngành: Tài nguyên và Môi trường, Giao thông-Vận tải, Công an, Tư pháp…; tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về các loại phí và lệ phí cho toàn dân biết và tự giác thực hiện. Hàng năm, căn cứ vào tình hình thực tế, Chi cục Thuế chỉ đạo các đơn vị trực thuộc đánh giá, sơ kết công tác thu nộp phí và lệ phí để có biện pháp chỉ đạo kịp thời. Bảng 2.5 Tình hình thực hiện thu phí và lệ phí so với dự toán được giao của huyện Bố Trạch thời kỳ 2005 - 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 2005 - 2008 1. Dự toán giao (Triệu đồng) 1651 1982 2110 2.900 2.161 2. Thực hiện (Triệu đồng) 2004 2693 2.567 2.422 2.422 3. Tỷ lệ thực hiện/Dự toán (%) 121,38 135,87 121,66 83,52 112,07 Nguồn Chi cục thuế Bố Trạch Mặc dù thực hiện năm 2008 đạt thấp so dự toán đề ra (chỉ đạt 83,5%) nhưng số thu bình quân hàng năm thời kỳ 2005-2008 vẫn đảm bảo vượt dự toán, đạt 2.422 triệu đồng, vượt 12,7% so dự toán bình quân. 2.2.1.4. Thu tiền cấp quyền sử dụng đất Tỷ lệ phân chia khoản thu được thực hiện theo nguyên tắc: thu tiền cấp quyền sử dụng đất trên địa bàn xã thì tỷ lệ xã hưởng 40%, huyện hưởng 40% và ngân sách tỉnh hưởng 20%; trên địa bàn thị trấn thuộc huyện thì tỷ lệ tỉnh hưởng 30%, huyện hưởng 50%, thị trấn hưởng 20%. Giai đoạn 2005 – 2008, công tác quản lý, sử dụng đất đai trên địa bàn huyện cơ bản đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Việc ứng dụng tin học vào quản lý đất đai đã giúp các phòng chức năng rút ngắn một bước về thời gian và việc tiếp cận, cũng như giải quyết các thủ tục liên quan đến đất đai một cách nhanh chóng, góp phần tích cực trong việc tăng nguồn thu từ đất đai. UBND huyện đã chỉ đạo các phòng, ban chuyên môn, UBND các xã, thị trấn phát huy các lợi thế từ nguồn tài nguyên đất đai của địa phương nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách từ nguồn cấp quyền sử dụng đất. Do vậy số thu hàng năm từ nguồn cấp quyền sử dụng liên tục tăng và đều vượt cao so dự toán giao từng năm; số thu bình quân hàng năm đạt trên 36,1 tỷ đồng, vượt 26,5% dự toán bình quân, đặc biệt trong năm 2008 thị trường bất động sản tuy đóng băng nhưng thực hiện chỉ tiêu này tăng 33,8% so với dự toán, số thu đạt gần 49,9 tỷ đồng, tăng gấp 2,08 lần so với năm 2005. Bảng 2.6 Tình hình thực hiện thu cấp quyền sử dụng đất của huyện Bố Trạch so với dự toán được giao thời kỳ 2005 - 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 2005 - 2008 1. Dự toán giao (Triệu đồng) 21700 25500 29750 37300 28.563 2. Thực hiện (Triệu đồng) 24.009 31.664 38.971 49.898 36.136 3. Tỷ lệ thực hiện/Dự toán (%) 110,64 124,17 130,99 133,77 126,51 Nguồn Chi cục thuế Bố Trạch 2.2.1.5. Thu khác ngân sách Thu khác ngân sách trên địa bàn huyện bao gồm các khoản thu bán hàng tịch thu sung công quỹ Nhà nước từ công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại, thi hành án. Thu tiền phạt theo pháp lệnh xử phạt hành chính do các đơn vị có thẩm quyền quyết định. Huy động vốn góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định của Nhà nước. Thu bán, thanh lý tài sản, thu hồi các khoản chi năm trước. Thời kỳ 2005-2008 có hai năm không hoàn thành dự toán giao nhưng bình quân cả thời kỳ này thực hiện vẫn vượt 8,68% dự toán giao, trong đó phần huyện thu vượt 6,63% so dự toán giao, phần xã thu vượt 11,99% so dự toán giao. Bảng 2.7 Tình hình thực hiện thu khác ngân sách của huyện Bố Trạch so với dự toán được giao giai đoạn 2005 - 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 2005 – 2008 1 Dự toán giao (Triệu đồng) 1.653 1.980 2.481 1.711 1.956 Huyện thu 927 1.130 1.718 1.055 1.208 Xã thu 726 850 763 656 749 2 Thực hiện (Triệu đồng) 1.690 1.870 2.284 2.660 2.126 Huyện thu 1.042 1.036 1.476 1.596 1.288 Xã thu 648 834 808 1.064 839 3 Tỷ lệ thực hiện/Dự toán (%) 102,24 94,44 92,06 155,46 108,68 Huyện thu 112,41 91,68 85,91 151,28 106,63 Xã thu 89,26 98,12 105,90 162,20 111,99 Nguồn Chi cục thuế Bố Trạch 2.2.2. Thực trạng các nguồn thu trong cân đối ngân sách 2.2.2.1. Thu từ thuế CTN – NQD Số thu từ thuế CTN-NQD tính theo giá hiện hành tăng 1,94 lần từ năm 2005 đến năm 2008 và chiếm 19,26% số thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn. Số thu bình quân tính theo giá hiện hành trong giai đoạn 2005 – 2008 đạt 10,2 tỷ đồng, tốc độ tăng thu hàng năm đạt cao (trên 20%) và bình quân hàng năm giai đoạn 2006 – 2008 đạt gần 25%. Trong đó nguồn thu chính là từ thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng và thuế môn bài (Chiếm trên 87,8% số thu từ CTN-NQD). Bảng 2.8 Thu thuế CTN-NQD huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 1. Thực hiện (Triệu đồng) 7.150 8.732 11.046 13.896 10.207 2. Tốc độ phát triển liên hoàn (%) - 122,13 126,50 125,80 - 3. Tốc độ phát triển định gốc (%) 100,00 122,13 154,49 194,35 - 4. Tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 2006 – 2008 (%) - - - - 124,79 5. Tỷ trọng trong thu cân đối (%) 19,67 18,75 19,31 19,34 19,26 Nguồn: Chi cục thuế Bố Trạch Xét về cơ cấu nội bộ các khoản thu từ thuế CTN-NQD thì số thu từ thuế giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lớn nhất (bình quân hàng năm chiếm trên 50,7%) và đây là sắc thuế có tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhất (đạt 48,53%). Nguồn thu tiềm năng từ thuế tài nguyên đạt thấp và có xu hướng giảm, nguyên nhân chính của hiện tượng này là do định mức thu quy định quá thấp, công tác quản lý nguồn thu này quá yếu kém, chính quyền một số địa phương chỉ tiến hành thu dưới dạng thu các khoản phí để sử dụng và chi cho ngân sách ở địa phương. Bảng 2.9 Cơ cấu và biến động nguồn thu CTN-NQD huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 KHOẢN THU Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tốc độ phát triển (%) Thực hiện (Triệu đồng) Cơ cấu (%) Thực hiện (Triệu đồng) Cơ cấu (%) Thực hiện (Triệu đồng) Cơ cấu (%) Thực hiện (Triệu đồng) Cơ cấu (%) Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 2006 - 2008 1. Thuế TNDN 3.113 43,5 3.725 42,7 3.977 36,0 4.363 31,4 119,66 106,77 109,71 111,91 2. Thuế Tài nguyên 362 5,1 87 1,0 114 1,0 148 1,1 24,03 131,03 129,82 74,22 3. Thuế GTGT 2.544 35,6 3.877 44,4 5.943 53,8 8.336 60,0 152,40 153,29 140,27 148,53 4. Thuế TTĐB 21 0,3 23 0,3 22 0,2 19 0,1 109,52 95,65 86,36 96,72 5. Thuế Môn bài 1.031 14,4 935 10,7 924 8,4 906 6,5 90,69 98,82 98,05 95,78 6. Phạt 79 1,1 85 1,0 66 0,6 124 0,9 107,59 77,65 187,88 116,22 Cộng: 7.150 100,0 8.732 100,0 11.046 100,0 13.896 100,0 122,13 126,50 125,80 124,79 Nguồn: Chi cục thuế huyện Bố Trạch 48 Riêng trong năm 2008 các đơn vị thu đã có nhiều cố gắng trong quản lý thu thuế đối với đối tượng hộ kinh doanh công thương nghiệp – dịch vụ ngoài quốc doanh. Mặc dù số hộ quản lý thu có giảm 6,7% nhưng thuế tăng 25,8% so với năm 2007. Bảng 2.10 Tổng hợp bộ thuế CTN-NQD huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 Chỉ tiêu ĐVT 2005 2006 2007 2008 1 Số hộ theo bộ thuế ghi thu Hộ 1.401 1.590 1.598 1.491 Thu khoán Hộ 1.293 1.475 1.476 1.379 Kê khai Hộ 108 115 122 112 2 Doanh số tính thuế tháng Tr.đồng 8.756 10.047 11.115 12.026 Thu khoán Tr.đồng 7.014 8.121 8.519 9.937 Kê khai Tr.đồng 1.742 1.926 2.596 2.089 3 Số hộ nộp thuế môn bài Hộ 2.646 2.764 2.727 2.768 Thu khoán Hộ 2.537 2.648 2.601 2.644 Kê khai Hộ 109 116 126 124 4 Doanh số bq tính thuế tháng Tr.đồng/hộ Thu khoán Tr.đồng/hộ 2,76 3,07 3,28 3,76 Kê khai Tr.đồng/hộ 15,98 16,60 20,60 16,85 5 Tỷ lệ quản lý hộ kinh doanh Thu khoán % 50,97 55,70 56,75 52,16 Kê khai % 99,08 99,14 96,83 90,32 Nguồn: Chi cục thuế huỵên Bố Trạch Có thể nói rằng thu thuế CTN-NQD trong những năm qua đã góp phần quan trọng để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu được giao. Tuy vậy, phân tích kỹ từng lĩnh vực thu vẫn còn không ít những tồn tại, hạn chế cần sớm khắc phục trong thời gian tới, đó là: Thứ nhất, đối với hầu hết các hộ kinh doanh cá thể đều thu theo phương pháp khoán nhưng việc xác định lại doanh thu tính thuế không được quan tâm đúng mức và đúng qui trình. Việc khoán định doanh thu tính thuế có nhiều trường hợp theo cảm tính, thiếu việc khảo sát và điều tra cụ thể. Do đó thường bị hộ kinh doanh và dư luận phản ứng, làm cho cơ quan thuế lúng túng vừa không giải thích được vừa không giám điều chỉnh. Thực tế trên vừa không bảo đảm được chính xác, đầy đủ, vừa gây ra việc thiếu công bằng và bình đẵng giữa các cơ sở, hộ nộp thuế, việc dân chủ công khai bị vi phạm. Ngoài ra, trong các hộ kinh doanh nộp thuế theo phương thức khoán thì tình trạng bỏ sót hộ kinh doanh còn khá lớn, vì vậy mà số hộ khoán lập bộ quản lý thuế đạt khá thấp so với hộ thu thuế môn bài (chỉ đạt 51%). Mặc dù đây là khu vực hộ kinh doanh nhỏ lẽ, nhưng đông về số hộ nên cũng đã ảnh hưởng không nhỏ về số thu. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do các đội thuế ở cơ sở thiếu thường xuyên kiểm tra, khảo sát trên địa bàn quản lý để nắm hết các đối tượng thực tế có sản xuất kinh doanh đưa vào sổ bộ thuế để quản lý, nhất là các đối tượng mới ra sản xuất kinh doanh. Việc cấp phép đăng ký kinh doanh còn buông lỏng, thiếu trật tự kỷ cương. Sự phối kết hợp giữa cơ quan cấp đăng ký kinh doanh với cơ quan thuế thiếu chặt chẽ. Theo quy định của pháp luật thì sau khi thực hiện xong việc đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp đăng ký kinh doanh phải gửi một bộ bản sao cho cơ quan thuế đồng cấp để nắm và quản lý thu thuế nhưng hầu như chưa được thực hiện, cơ quan thuế cũng chưa thường xuyên đến các cơ quan cấp phép kinh doanh để nắm và đối chiếu số liệu với nhau. Chính quyền xã có nơi cố tình giữ lại các hộ sản xuất kinh doanh (nhất là các hộ nhỏ, hộ mới ra kinh doanh) để thu cho ngân sách xã, thị trấn dưới dạng thu phí, lệ phí hoặc thu để ngoài ngân sách cho xã. Cán bộ thuế nhiều nơi biết nhưng nể nang, ngại khó, làm ngơ mà thiếu cương quyết đấu tranh để quản lý thu thuế theo đúng pháp luật. Sự phối kết hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành, cơ quan Quản lý thị trường, Công an chưa được chặt chẽ và đồng bộ trong việc hướng dẫn sản xuất kinh doanh và chấp hành nghĩa vụ nộp thuế. Thứ hai, đối với hộ kê khai thì hiện nay cơ quan thuế chỉ căn cứ vào kê khai của hộ kinh doanh mà chưa có biện pháp nào sát thực hơn để xác định doanh thu tính thuế, nguyên nhân chính của hiện tượng này là do tình trạng vi phạm chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ của các hộ kinh doanh xãy ra nhiều nơi nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để, đặc biệt là việc mua, bán không có hóa đơn được xem là một việc rất bình thường trong xã hội. Thứ ba, công tác quản lý thu thuế xây dựng cơ bản tư nhân còn quá yếu kém và chưa triển khai thu được (hiện tại trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chỉ có thành phố Đồng Hới triển khai thu được). Với mức đầu tư xây dựng cơ bản trong khu vực dân cư giai đoạn 2005 – 2008 bình quân hàng năm đạt 126,8 tỷ đồng, thì việc không triển khai thu thuế xây dựng cơ bản tư nhân làm thất thu rất lớn. Nguyên nhân chính phải kể đến là do Chi cục thuế chưa quan tâm đến lĩnh vực khá mới này, coi đây là khoản thu không đáng kể và mất nhiều thời gian. Mặt khác ý thức chấp hành pháp luật của các đối tượng kinh doanh nghề xây dựng nhà ở tư nhân chưa cao, cùng với sự phối hợp giữa cơ quan thuế với địa phương, các cơ quan chức năng thiếu chặt chẽ… đã dẫn đến thất thu trong lĩnh vực này. Thứ tư, chính sách điều tiết thuế TNDN đối với hộ kinh doanh đã không còn phù hợp, phát sinh những nhược điểm không thể phủ nhận. Cụ thể là các cá nhân có cùng một mức thu nhập, nhưng nếu là cá nhân kinh doanh thì thu nhập sau khi trừ chi phí liên quan đến kinh doanh phải nộp thuế TNDN với thuế suất toàn phần 28%; còn đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần với thuế suất thấp nhất 10%, thuế suất cao nhất 40%. Bên cạnh đó, thu nhập của cá nhân kinh doanh phải nộp thuế ngay từ đồng đầu tiên, trong khi thu nhập từ tiền lương, tiền công chỉ chịu thuế đối với phần thu nhập vượt trên mức khởi điểm (5 triệu đồng đối với người Việt Nam hoặc 8 triệu đồng đối với người nước ngoài). Qui định này dẫn đến hệ quả là, với cùng mức thu nhập 10 triệu đồng/tháng, cá nhân có thu nhập từ kinh doanh phải nộp thuế 28% trên thu nhập, tương đương 2,8 triệu đồng, cá nhân có thu nhập từ tiền lương nộp 0,5 triệu đồng tức là 5% trên thu nhập. Ngược lại, cá nhân có mức thu nhập đến 100 triệu đồng/tháng thì người có thu nhập từ tiền lương nộp thuế 31,5% trên thu nhập, người có thu nhập từ kinh doanh chỉ nộp 28% trên thu nhập. Do đó, nếu so sánh tương quan giữa các cá nhân kinh doanh thì thấy rõ mâu thuẫn phát sinh đó là, chính sách thuế đang điều tiết cao đối với người có thu nhập thấp, điều tiết thấp đối với người có thu nhập cao. Ngoài ra, với các hộ gia đình là thể nhân kinh doanh có qui mô nhỏ, không phải là doanh nghiệp (pháp nhân kinh doanh) nên việc động viên thu nhập như doanh nghiệp là không phù hợp. Chính bởi những bất cập này mà việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN áp dụng thống nhất biểu thuế luỹ tiến từng phần, được giảm trừ gia cảnh, được trừ các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo như cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công, là hợp lý. Kinh nghiệm khi xây dựng chính sách động viên về thuế đã cảnh báo rằng, “thuế suất cao là giấy mời cho sự trốn và lậu thuế”. Thật vậy, hộ kinh doanh ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn nói riêng là những hộ nhỏ, doanh thu thấp, nếu phải chịu thuế suất 28% như doanh nghiệp có doanh thu hàng trăm triệu, hàng tỷ đồng là bất hợp lý, không công bằng và hậu quả là nhiều hộ kinh doanh đã đối phó với mức thuế suất cao bằng cách khai thấp doanh thu để đảm bảo vừa nộp được thuế, vừa có lãi. Thực tế cũng đã chứng minh, nếu mức điều tiết thuế hợp lý, thì các hộ kinh doanh sẽ tự giác kê khai và tăng cường tính tuân thủ hơn. Tương tự, việc chuyển đổi hình thức thu từ thuế TNDN sang thuế thu nhập cá nhân (TNCN), nguồn thu sẽ chuyển biến theo hướng tổng số thu không đổi mà thay đổi cơ cấu nguồn thu, tức là sẽ tăng nguồn thu từ thuế GTGT và giảm nguồn thu từ thuế TNCN. 2.2.2.2. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ ngân sách huyện hưởng 30%, ngân sách xã hưởng 70% Số thu năm 2008 đạt gần 3 tỷ đồng, tăng gấp đôi so năm 2005. Thu bình quân hàng năm thời kỳ 2005-2008 đạt 2,1 tỷ đồng, chiếm 4% số thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn huyện, số thu thực hiện năm sau đều cao hơn năm trước, tốc độ tăng thu bình quân giai đoạn 2006 - 2008 đạt gần 26%. Bảng 2.11 Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ cấp huyện hưởng 30%, cấp xã hưởng 70% trên địa bàn huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 - 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 1. Thực hiện (Triệu đồng) 1.495 1.604 2.326 2.990 2.104 2. Tốc độ phát triển liên hoàn (%) - 107,29 145,01 128,55 - 3. Tốc độ phát triển định gốc (%) 100,00 107,29 155,59 200,00 - 4. Tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 2006 – 2008 (%) - - - - 125,99 5. Tỷ trọng trong thu cân đối (%) 4,11 3,44 4,07 4,16 3,97 Nguồn: Chi cục thuế Bố Trạch Bảng 2.12 Cơ cấu và biến động nội bộ các khoản thu phân chia theo tỷ lệ huyện hưởng 30%, cấp xã hưởng 70% của huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 KHOẢN THU Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tốc độ phát triển (%) Thực hiện (Triệu đồng) Cơ cấu (%) Thực hiện (Triệu đồng) Cơ cấu (%) Thực hiện (Triệu đồng) Cơ cấu (%) Thực hiện (Triệu đồng) Cơ cấu (%) Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 2006 - 2008 1. Thuế SDĐNN 53 3,5 66 4,1 50 2,1 88 2,9 124,5 75,8 176,0 118,4 2. Thuế Nhà đất 386 25,8 384 23,9 436 18,7 540 18,1 99,5 113,5 123,9 111,8 3. Thuế chuyển quyền 330 22,1 308 19,2 488 21,0 653 21,8 93,3 158,4 133,8 125,5 4. Lệ phí trước bạ 726 48,6 846 52,7 1.352 58,1 1.709 57,2 116,5 159,8 126,4 133,0 Cộng: 1.495 100,0 1.604 100,0 2.326 100,0 2.990 100,0 107,3 145,0 128,5 126,0 54 Nguồn: Chi cục thuế Bố Trạch Đạt được những kết quả trên một phần là do trong những năm qua, nền kinh tế của huyện có bước tăng trưởng khá nên thúc đẩy quá trình mua bán, trao đổi các loại tài sản có giá trị lớn (đất đai, nhà cửa, phương tiện vận tải….) từ đó góp phần tích cực trong việc tăng nguồn thu từ thuế chuyển quyền và lệ phí trước bạ. Về cơ cấu nội bộ thì nguồn thu từ lệ phí trước bạ chếm tỷ trọng lớn nhất (trên 55%) và tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2006 - 2008 cao (trên 33%). Tốc độ phát triển hàng năm của các sắc thuế có biến động tăng, giảm nhưng không đáng kể, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2006 – 2008 của các sắc thuế đều đạt cao (trên 11%). Bên cạnh những kết quả đạt được trên, còn có những hạn chế cần được khắc phục đó là: Đối với việc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp: Ở một số địa bàn chưa thực hiện việc thông báo thuế và tổ chức thu đến từng hộ nông dân, vẫn còn hiện tượng thu qua hợp tác xã; thông báo số thuế phải nộp gộp chung với các khoản thu khác, từ đó làm cho người dân lầm tưởng tất cả các khoản đều là thuế. Mặt khác việc quy định giá thóc thuế không tham khảo mặt bằng chung, quy định lúc thấp, lúc cao, gây khó khăn cho công tác thu, cũng như không công bằng giữa các địa phương. Số thu từ thuế nhà, đất ở thuộc vùng đô thị (mà chủ yếu là ở thị trấn Hoàn Lão và thị trấn Nông Trường Việt Trung) còn thấp và chưa tiến hành thu được theo mục đích sử dụng, nguyên nhân chính là do huyện thực hiện theo quy định của UBND tỉnh về khung giá thu đối với một đơn vị diện tích chịu thuế (theo quy định thì mức thuế bằng từ 3 đến 32 lần mức thuế suất thuế SDĐNN hạng đất cao nhất trong vùng – khung giá quy định quá rộng) nên ở địa bàn huyện chỉ áp đồng đều theo mức bằng 3 lần mức thuế suất sử dụng đất nông nghiệp. Chưa thực hiện chính xác được việc lập sổ thuế nhà đất do chưa có sự phối hợp giữa các đội thuế với chính quyền cấp xã, chưa kiểm soát được chủ sở hữu của lô đất, nguồn gốc, giá trị ban đầu và giá trị thực là bao nhiêu dẫn đến chưa thực hiện được việc đánh thuế theo mục đích sử dụng và chưa xác định chính xác mức thuế phải nộp. 2.2.2.3. Thu phí và lệ phí Phí và lệ phí chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng thu trong cân đối ngân sách Nhà nước (chiếm khoảng 4,57%). Bảng 2.13 Thu phí và lệ phí trong cân đối ngân sách huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 1. Thực hiện (Triệu đồng) 2004 2693 2567 2422 2421,5 2. Tốc độ phát triển liên hoàn (%) - 134,38 95,32 94,35 - 3. Tốc độ phát triển định gốc (%) 100,00 134,38 128,09 120,86 - 4. Tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 2006 – 2008 (%) - - - - 106,52 5. Tỷ trọng trong thu cân đối (%) 5,51 5,78 4,49 3,37 4,57 Nguồn: Chi cục thuế huỵên Bố Trạch Số thu hàng năm có xu hướng giảm do chính sách bải bỏ một số khoản phí (phí phòng chống bão lụt, phí thiên tai…) nhưng tính bình quân hàng năm cho cả thời kỳ 2005 - 2008 vẫn đạt trên 2,4 tỷ đồng, tốc độ tăng thu bình quân hàng năm giai đoạn 2006 - 2008 đạt 6,5%. Tuy nhiên, nhiều loại phí và lệ phí hiện nay lại chưa được quản lý chặt chẽ. Tại nhiều xã, thị trấn, việc thu các loại phí và lệ phí thường không giao chứng từ thu cho người nộp tiền (hoặc có thì chỉ giao phiếu thu thông thường có đóng dấu treo) nên địa phương thu được bao nhiêu tiền, sử dụng như thế nào không ai kiểm soát được. Mức thu một số thủ tục hành chính công lạc hậu nên ngân sách địa phương phải bù khi phục vụ hành chính cho dân. Chẳng hạn, lệ phí địa chính do UBND tỉnh quy định thu 50.000 đồng nhưng chi phí thực tế cho công tác cấp giấy chứng nhận QSHN-QSDĐ tại địa bàn bình quân đến 60.000 đồng/hồ sơ, buộc ngân sách địa phương phải bù; giá bán biểu mẫu của trung ương cao hơn mức phí mà địa phương được thu như trường hợp thu lệ phí bản sao kết hôn, theo quyết định của UBND tỉnh thì mức thu lệ phí cấp bản sao kết hôn là 2.000 đồng/bản sao thế nhưng giá mua mỗi tờ mẫu này tại NXB Bộ Tư pháp lại là 2.500 đồng/bản…vv Lý giải tình trạng trên, các ngành chức năng cho rằng lĩnh vực quản lý phí và lệ phí có phạm vi rộng, liên quan hầu hết tới các đối tượng, các thành phần kinh tế, tầng lớp nhân dân. Mỗi loại phí và lệ phí lại có một văn bản quy định hướng dẫn thực hiện riêng và thường được sửa đổi bổ sung nên trong quá trình thực hiện nhiều khi không thống nhất. Một nguyên nhân khác là chính quyền địa phương không chỉ đạo quyết liệt trong thu phí và lệ phí, có địa phương không thu, bỏ sót nguồn thu, lạm thu (thu cả những loại phí đã được bãi bỏ). Trong khi đó, cơ quan thuế lại chưa thực hiện triệt để các biện pháp nhằm giảm số tồn đọng và thu hết phí, lệ phí phát sinh... Mức thu, tỷ lệ điều tiết giữa thu nộp ngân sách và để lại cho đơn vị thực hiện thu trực tiếp chưa phù hợp với khoản phí và lệ phí do Trung ương quy định nên không tạo động lực cho các đơn vị trong việc quản lý, thu nộp... 2.2.2.4. Thu tiền cấp quyền sử dụng đất Đây là khoản thu chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện Bố Trạch. Giai đoạn 2005 – 2008, UBND huyện đã giao 3.913 lô đất ở thông qua hình thức đấu giá và xét giao quyền sử dụng đất, với tổng diện tích 1.028.736 m2, trong đó tổ chức đấu giá thành công 1.025 lô, chiếm 26,2% tổng số giao quyền sử dụng đất. Bảng 2.14 Công tác tổ chức cấp quyền sử dụng đất của huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 Chỉ tiêu ĐVT Tổng cộng Chia ra theo từng năm 2005 2006 2007 2008 1 Đã cấp quyền sử dụng đất Lô 3.913 707 1.231 1.027 948 2 Diện tích đã giao m2 1.028.736 73.090 330.133 287.479 238.034 Nguồn: Phòng Tài nguyên – Môi trường Thu từ cấp quyền sử dụng đất trong thời gian qua là điểm sáng nổi bật trong công tác thu ngân sách trên địa bàn, có vai trò rất quan trọng và đảm bảo nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn. Bởi vậy, ngay từ những tháng cuối năm trước, huyện đã chỉ đạo các địa phương trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền phê duyệt để tiến hành lập quỹ đất nhằm tổ chức đấu giá khi có mức giá mới của tỉnh quy định. Thành lập Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất cấp huyện và Hội đồng giải phóng mặt bằng huyện để cùng chính quyền các địa phương tổ chức giải quyết các vướng mắc về đất đai, thành lập Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất để thực hiện các thủ tục hành chính công liên quan đến đất đai đảm bảo thuận tiện, nhanh chóng và kịp thời. Việc tổ chức đấu giá được niêm yết công khai và được tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất theo hình thức bỏ giá kín, đảm bảo đúng theo quy định. Kể từ năm 2003, huyện bắt đầu thực hiện chính sách lấy đất đổi hạ tầng, linh hoạt trong việc cấp quyền và đấu giá quyền sử dụng đất. Nhiệm kỳ 2004-2009 đã ban hành chế độ trích lại 30% số thu đối với phần thu vượt tiền cấp quyền sử dụng đất cho các địa phương để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, từ đó đã kích thích các địa phương trong việc chú trọng tăng nguồn thu này. Qua đó, chỉ tiêu thu tiền cấp quyền sử dụng trong những năm qua đã tăng rất nhanh, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt gần 28%. Bình quân hàng năm thời kỳ 2005-2008 thu đạt 36,1 tỷ đồng, chiếm 68,1% các khoản thu trong cân đối và chiếm 56% số thu ngân sách trên địa bàn. Bảng 2.15 Thu cấp quyền sử dụng đất giai đoạn 2005 – 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 1. Thực hiện (Triệu đồng) 24.009 31.664 38.971 49.898 36.136 2. Tốc độ phát triển liên hoàn (%) - 131,88 123,08 128,04 - 3. Tốc độ phát triển định gốc (%) 100,00 131,88 162,32 207,83 - 4. Tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 2006 – 2008 (%) - - - - 127,62 5. Tỷ trọng trong thu cân đối (%) 66,05 68,00 68,14 69,43 68,19 Nguồn: Chi cục thuế Bố Trạch Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được còn có một số tồn tại cần sớm được khắc phục trong thời gian tới. Thứ nhất, về công tác lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Do năng lực cán bộ địa chính cấp xã yếu nên việc lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2015 và quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 – 2010 mới chỉ thực hiện được ở 15/30 xã, thị trấn. Điều này dẫn đến việc huyện phải tiến hành phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm cho các địa phương là không đúng luật, từ đó mức giá phê duyệt không chính xác, gây tình trạng đầu cơ đất đai để chờ quy hoạch, làm thất thu một nguồn lớn cho ngân sách. Thứ hai, việc quy định giá của tỉnh hàng năm theo Luật Đất đai làm cho thị trường bất động sản không ổn định và chính quyền ở địa phương lúng túng trong việc xây dựng dự toán thu. Bởi vì những tháng cuối năm trước thì các giao dịch về đất đai thường ngưng lại để “chờ giá”, điều này làm cho nhà đầu tư và những người sử dụng đất rất bị động trong các mục tiêu, dự án kinh doanh của mình. Thứ ba, giá đất không sát thị trường, đất theo 2 giá (giá đền bù và giá thị trường) gây tình trạng đầu cơ, làm thất thu cho Nhà nước, phần đất đai mà nhà nước định giá thường không sát thực tế nảy sinh bức xúc, chính sách đất đai bất cập khiến lợi nhuận phần lớn rơi vào túi kẻ đầu cơ, Nhà nước và nhân dân đều bị thiệt hại. Đất đai luôn luôn là lĩnh vực nhạy cảm, rất phức tạp, đặc biệt trong vấn đề giải phóng mặt bằng, đền bù, quy hoạch, thông tin về các thủ tục đầu tư đang có nhiều bất cập và phần lớn người dân không nắm được do nhiều nguyên nhân. Việc xác định giá đất đền bù hiện nay cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn. Nhiều công trình bị người dân khiếu kiện vì họ cho rằng chủ đầu tư đã đền bù không thoả đáng. Theo quy định của Hiến pháp thì đất đai hiện nay vẫn thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Do vậy, giá đất mà chúng ta vẫn gọi là giá thị trường được hình thành bởi nhiều yếu tố, trong tam giác ba đỉnh: Nhà nước- Nhà đầu tư- Người dân. Cụ thể, giá đất được hình thành nhiều khi không phải tại thời điểm chúng ta thu hồi mà nó được hình thành trong quá trình Nhà nước có quy hoạch. Sau đó, nhà đầu tư bỏ tiền ra để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và xây dựng các công trình, lúc đó giá đất mới được đẩy lên cao hơn trước rất nhiều. Cho nên khi đền bù, chúng ta phải phân biệt giá trị gia tăng của đất mang lại để có hướng xử lý chính xác. Thứ tư, việc tổ chức các phiên đấu giá cấp quyền sử dụng đất chưa thật hợp lý. Các cá nhân tham gia đấu giá cấp quyền sử dụng đất chỉ phải đặt tiền cọc và lệ phí đấu giá 1 lô nhưng được tham gia đấu giá nhiều lô; đấu giá theo hình thức bỏ giá kín (người tham gia đấu ghi giá trên phiếu sau đó hội đồng tổng hợp kết quả và công bố người đấu trúng có giá cao nhất) nên xãy ra tình trạng thông đồng với nhau để ấn định mức giá đấu dẫn đến thất thu ngân sách. 2.2.2.5. Thu khác ngân sách Mặc dù đây là khoản thu không lớn, chiếm tỷ trọng khoảng 4% số thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn huyện nhưng trong thời gian qua, các ngành thuế, công an, quản lý thị trường đã tích cực phối hợp để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và ngăn chặn buôn lậu hàng hóa trên địa bàn, từ đó góp phần tăng số thu cho ngân sách. Giai đoạn 2005 – 2008, số thu ngân sách năm sau đạt cao hơn năm trước nhưng mức tăng không nhiều, thu bình quân hàng năm đạt 2,1 tỷ đồng, trong đó phần huyện thu chiếm khoảng 61%; tốc độ tăng thu bình quân hàng năm giai đoạn 2006 - 2008 đạt 16,3%, trong đó thu do ngân sách cấp xã quản lý đạt tỷ lệ tăng thu bình quân 18%, ngân sách cấp huyện quản lý thu đạt 15%. Bảng 2.16 Thu khác trong cân đối ngân sách huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 1. Thực hiện (Triệu đồng) 1.690 1.870 2.284 2.660 2.126 2. Tốc độ phát triển liên hoàn (%) - 110,65 122,14 116,46 - 3. Tốc độ phát triển định gốc (%) 100,00 110,65 135,15 157,40 - 4. Tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 2006 – 2008 (%) - - - - 116,32 5. Tỷ trọng trong thu cân đối (%) 4,65 4,02 3,99 3,70 4,01 Nguồn: Chi cục thuế Bố Trạch 2.2.3. Đánh giá chung 2.2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân Tốc độ tăng thu cao hơn rất nhiều so với tốc độ trượt giá, chứng tỏ rằng năng lực tổ chức quản lý thu trên địa bàn ngày càng cao, tốc độ tăng thu bình quân hàng năm giai đoạn 2006 - 2008 đạt trên 25,5%. Trong đó số thu từ thuế, phí và lệ phí lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu. Bình quân thu từ thuế, phí và lệ phí đạt 50,42 tỷ đồng, chiếm gần 96% số thu trong cân đối. Bảng 2.17 Đánh giá biến động nguồn thu trong cân đối ngân sách trên địa bàn giai đoạn 2005 – 2008 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân 1. Thực hiện (Triệu đồng) 36.348 46.563 57.194 71.866 52.993 2. Tốc độ phát triển liên hoàn (%) - 128,10 122,83 125,65 - 3. Tốc độ phát triển định gốc (%) 100,00 128,10 157,35 197,72 - 4. Tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 2006 – 2008 (%) - - - - 125,51 Nguồn: Chi cục thuế Bố Trạch Về quy mô, thu trong cân đối NSNN so với tổng GDP tăng từ 3,9% GDP năm 2005 lên 4,1% năm 2008. Bình quân thu ngân sách giai đoạn này là 4,2% GDP. Bảng 2.18 Tỷ lệ động viên vào ngân sách tính theo GDP của huyện Bố Trạch giai đoạn 2005 – 2008 ĐVT: % Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Thu trong cân đối ngân sách 3,92 4,26 4,36 4,11 Thu trên địa bàn 5,02 5,40 5,42 4,62 Nguồn: Phòng Thống kê huỵên Bố Trạch Xét theo nguồn thu, hàng năm có từ 11 – 12/13 khoản thu, sắc thuế đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán Nhà nước giao và tăng trưởng cao so với cùng kỳ. Đặc biệt, thu từ cơ sở kinh doanh, được coi là nguồn thu ổn định, lâu dài cho NSNN đã đạt trên 10,2 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 24,8%. Xét theo địa bàn, có 4 địa phương tự cân đối ngân sách, trong đó có thêm mới 01 địa phương (xã Sơn Trạch tự cân đối năm 2007). Đạt được kết quả này có nhiều nguyên nhân, nhưng tựu trung lại có thể rút ra một số nguyên nhân chính sau: Về khách quan, thì trong giai đoạn này thu ngân sách có tăng một phần nhờ yếu tố trượt giá nên thu chênh lệch tăng. Bên cạnh đó, một số công trình, dự án mới đầu tư đã đi vào sản xuất và hoạt động tốt nên có số thuế phát sinh cao; hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN địa phương, hộ kinh doanh cá thể có bước tăng trưởng khá, góp phần tăng thu ngân sách. Về phía huyện, luôn có sự chỉ đạo tích cực, thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc kịp thời khi có nguồn thu nào đạt thấp. Đồng thời, huyện đã đề ra các giải pháp đồng bộ phát triển kinh tế -xã hội, nhất là có chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển và thực hiện 25 chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm đã tạo điều kiện thuận lợi cho huy động nguồn lực vào ngân sách Nhà nước. Về chủ quan thì thành tích ấy phải kể đến sự cố gắng nhiều mặt của ngành Tài chính trong việc thực hiện các giải pháp đồng bộ, có giải pháp được thực hiện trước mắt, có giải pháp mang tầm chiến lược lâu dài như triển khai Chương trình cải cách hiện đại ngành Thuế. Những nỗ lực cải cách của ngành thuế theo hướng thuận lợi, nhanh chóng, thân thiện hơn với doanh nghiệp và các hộ kinh doanh, đã được cụ thể hoá về nhiều lĩnh vực. Đối với những chỉ tiêu thu khó lại chiếm tỷ trọng lớn như thu cấp quyền sử dụng đất (trên 60% số thu trong cân đối), UBND huyện đã có văn bản chỉ đạo ngay từ đầu năm cho Phòng Tài chính - Kế hoạch, Chi cục thuế huyện, tích cực phối hợp với các ngành ở địa phương tham mưu cho cấp uỷ chính quyền địa phương cùng cấp tăng cường rà soát, quy hoạch các khu dân cư, tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất. Qua đó, số thu tiền sử dụng đất hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch giao. Đi đôi là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Chi Cục thuế liên tục chỉ đạo sát sao từ khâu đánh giá mức độ rủi ro, lựa chọn đối tượng đến khi thực hiện thanh tra, kiểm tra tại đơn vị. 2.2.3.2. Tồn tại và những nguyên nhân chính Bên cạnh những kết quả đạt được, thu NSNN trong cân đối trên địa bàn huyện trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại cần sớm được khắc phục, đó là: Nguồn thu chưa bảo đảm bền vững mà còn đáng lo ngại cả trước mắt và lâu dài, vì nếu trừ nguồn thu từ tiền cấp quyền sử dụng đất (bình quân hàng năm khoảng 36,1 tỷ đồng) thì nguồn thu nội địa từ bản thân nền kinh tế chỉ chiếm 31,8% số thu trong cân đối và chiếm 26,2% trong tổng thu ngân sách trên địa bàn là quá thấp. Nếu so với thời kỳ 2001 - 2004 thì tốc độ tăng thu ngân sách có dấu hiệu chậm lại, tốc độ tăng thu bình quân thời kỳ 2001 – 2004 đạt 31% thì thời kỳ 2005 – 2008 chỉ đạt 24%. Tỷ lệ huy động ngân sách bình quân tính theo GDP giai đoạn 2005 – 2008 chỉ đạt 5,12% là quá thấp so với mức trung bình của tỉnh (10,16%) và có xu hướng giảm, năm 2007 chiếm 4,4%, năm 2008 giảm xuống còn 4,1%, trong khi mức thu nhập bình quân tính theo GDP lại tăng (29%) là không hợp lý. Quy mô thu ở các địa phương chênh lệch nhau quá lớn, có 9/28 xã có số thu ở mức dưới 1 tỷ đồng; nhiều địa phương 2 năm liên tiếp không hoàn thành kế hoạch giao như: Lâm Trạch, Thị trấn Nông trường Việt Trung; Có 9 đơn vị tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm thời kỳ 2005-2008 đạt thấp dưới mức 5%. Có nhiều nguyên nhân nhưng tập trung do 2 nhóm nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, về chính sách: - Hệ thống chính sách thu chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế. Nguyên nhân là do khi xây dựng chính sách thuế chưa nhận thức hết phạm vi đi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc04 Gi7843i php t259ng thu trong cn 2737889i ngn sch tr.doc