Đề tài Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại TBC

Tài liệu Đề tài Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại TBC: Mục lục Lời nói đầu Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về mọi của con người ngày càng tăng trong đó có nhu cầu được thăm khám chữa bệnh, tuy nhiên, do ở Việt nam, thị trường sản xuất các loại máy móc liên quan đến thiết bị, dụng cụ dùng trong y tế còn chưa phát triển, nên việc xuất hiện rất nhiều các doanh nghiệp thương mại kinh doanh nhập khẩu, mặt hàng này tại thị trường Việt Nam là điều phù hợp với quy luật cung cầu. Điều thu hút rất nhiều doanh nghiệp thương mại kinh doanh trên thị trường này là lợi nhuận đem lại khá lớn. Lợi nhuận chính là thỏi nam châm thu hút mọi hoạt động đầu tư trên thị trường. Khi bỏ tiền vào đầu tư, chủ đầu tư hy vọng sẽ thu đượcnhiều lợi nhuận, vậy làm cách nào để tối đa hoá chỉ tiêu này, là sự quan tâm lớn, không chỉ của chủ đầu tư, mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng khác như: Chính phủ, của chủ nợ,. .. Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận, không chỉ qua sách vở, mà còn qua thực tế hoạt động của Công ty TNHH Thương ...

doc61 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại TBC, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời nói đầu Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về mọi của con người ngày càng tăng trong đó có nhu cầu được thăm khám chữa bệnh, tuy nhiên, do ở Việt nam, thị trường sản xuất các loại máy móc liên quan đến thiết bị, dụng cụ dùng trong y tế còn chưa phát triển, nên việc xuất hiện rất nhiều các doanh nghiệp thương mại kinh doanh nhập khẩu, mặt hàng này tại thị trường Việt Nam là điều phù hợp với quy luật cung cầu. Điều thu hút rất nhiều doanh nghiệp thương mại kinh doanh trên thị trường này là lợi nhuận đem lại khá lớn. Lợi nhuận chính là thỏi nam châm thu hút mọi hoạt động đầu tư trên thị trường. Khi bỏ tiền vào đầu tư, chủ đầu tư hy vọng sẽ thu đượcnhiều lợi nhuận, vậy làm cách nào để tối đa hoá chỉ tiêu này, là sự quan tâm lớn, không chỉ của chủ đầu tư, mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng khác như: Chính phủ, của chủ nợ,. .. Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận, không chỉ qua sách vở, mà còn qua thực tế hoạt động của Công ty TNHH Thương mại TBC, tôi xin chọn đề tài “ Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại TBC.” Làm chuyên đề tốt nghiệp của mình, mong muốn góp sức mình vào việc đưa ra các giải pháp làm tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty . Bài viết này gồm ba phần chính: Chương 1: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Chương2: Thực trạng về lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại TBC. Chương 3: Giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH thương mại TBC Bài viết được hoàn thành dưới sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Cô giáo hướng dẫn PGS – TS Lưu Thị Hương, cũng như các anh các chị, nhất là chị Phó giám đốc Nguyễn Ngọc Bích tại sơ sở thực tập. Em xinh chân thành cảm ơn! Chương 1: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp. Từ những năm 90 trở lại đây, có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau ra đời, do cơ chế luật pháp thông thoáng, tư duy con người thay đổi và phát triển. Vậy doanh nghiệp là gì? Nó có phải đơn thuần chỉ là một cửa hàng buôn bán lặt vặt ngoài phố, hay những nhà xưởng sản xuất xe đạp Thống nhất, những bao phân lân để rồi khi không có tiền thì lấy chính sản phẩm đó trả thay tiền lương? Chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem doanh nghiệp sẽ được hiểu như thế nào là đúng nghĩa nhất. 1.1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Theo “Luật Doanh nghiệp” ban hành ngày 12/6/1999 thì : “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh”. Hoạt động kinh doanh ở đây được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như thế có thể hiểu doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ sở hữu. ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều loại hình doanh nghiệp như : Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp doanh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân. Việc phân loại doanh nghiệp như vậy là dựa vào hình thức sở hữu vốn đầu tư: Doanh nghiệp Nhà nước thì nguồn vốn đầu tư do Nhà nước cấp phát, lãi thì Nhà nước thu một phần lợi nhuận, lỗ thì không phải nộp thuế, còn được cấp phát vốn. Điều này đã khiến cho đa số doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam làm ăn trở nên thua lỗ. Điều nguy hiểm hơn cả là trong nền kinh tế nước ta có tới 1/2 là doanh nghiệp Nhà nước nếu không nói là hầu như chỉ có doanh nghiệp Nhà nước những năm 90. Nhưng mọi việc ngày nay đã thay đổi, bên cạnh những doanh nghiệp Nhà nước còn có : * Công ty cổ phần – tức là doanh nghiệp mà vốn do nhiều thành viên đóng góp, những thành viên góp vốn gọi là cổ đông. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phiếu. *Công ty TNHH, vốn góp cũng do các thành viên công ty đóng góp. Tuy nhiên, số thành viên trong công ty không vượt quá 50 người và không được phát hành cổ phiếu. *Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp mà vốn do một thành viên đứng tên doanh nghiệp. Doanh nghiệp này không có tư cách pháp nhân, không được phát hành cổ phiếu, nguời sở hữu vón trong doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn về khoản nợ phát sinh trong doanh nghiệp. Đây là loại hình doanh nghiệp rất phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra còn có các mô hình kinh doanh khác như: Công ty hợp doanh, hộ gia đình, …. Ngoài việc phân chia theo hình thức góp vốn, ta có thể phân loại doanh nghiệp theo chủ thể kinh doanh: Kinh doanh cá thể(Sole Proprietorship), kinh doanh góp vốn (Parnership), công ty( Corporation). Kinh doanh cá thể là loại hình thành lập đơn giản nhất, không cần có điều lệ chính thưc và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. Loại hình kinh doanh này không bị đánh thuế thu nhập doanh nghiệp mà tất cả lợi nhuận được tính vào thu nhập cá nhân. Đây là loại hình doanh nghiệp này không có tư cách pháp nhân, chủ doanh nghiệp phải chịu tránh nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ sở hữu doanh nghiệp. Khả năng thu hút vốn của loại hinh doanh nghiệp này bị hạn chế bởi nó phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng của người chủ sở hữu. Kinh doanh góp vốn là loại hình doanh nghiệp rất phát triển ở nước ta hiện nay,do việc thành lập doanh nghiệp này hết sưc dễ dàng với chi phí thấp, một số trường hợp cần giấy phép kinh doanh. Các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Nếu như một thành viên không hoàn thành trách nhiệm của mình thì phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. Tuổi thọ của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên chính thức, doanh nghiệp sẽ tan vỡ nếu một thành viên chết hoặc rút vốn. Việc huy động vốn của loại hình doanh nghiệp này cũng phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng, uy tín của các thành viên chính thức, do vậy nó cũng khá hạn chế. Lãi thu được từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Hình thức cuối cùng là công ty: đây là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có kết hợp ba loại lợi ích: Các cổ đông(chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, hoạt động và chính sách của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó HĐQT lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý hoạt động theo nguyên tắc đem lại lợi ích tốt nhất cho các cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại lợi thế cho công ty so với kinh doanh cá thể và góp vón như: Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển nhượng cho cổ đông mới. Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào số lượng, tuổi thọ của các cổ đông. Trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn tại phần vốn góp của cổ đông vào công ty. Mỗi loại hình doanh nghiệp có các ưu nhược điểm riêng. Việc phân loại này chỉ mang tính tương đối. Trong bài viết này, các mô hình trên đều gọi chung là doanh nghiệp với chung mục tiêu hoạt động là tối đa hoá lợi nhuận . Ngày nay trong môi trường xã hội biến động theo từng giờ, mọi hoạt động, quyết định của doanh nghiệp chị sự tác động của môi trường mà nó tồn tại. Môi trường ở đây được hiểu là tổng hoá các yếu tố có thể làm thay đổi hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như: Sự quản lý của Nhà nước: Một cá nhân, tổ chức có thể tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, có thể đưa doanh nghiệp phát triển tới vị trí mong muốn. Nhưng sự thắt chặt hay nới lỏng của doanh nghiệp đó lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cơ chế quản lý tài chính. Vì thế ta thấy, có một số lĩnh vực kinh tế thì rất phát triển cả về số lượng người kinh doanh, cả về quy mô nguồn vốn, nhưng một số lĩnh vực không phải ai kinh doanh cũng được, và với quy mô kinh doanh bao nhiêu là tuỳ thích. Bởi chúng chịu sự tác động của cơ chế quản lý của Nhà nước. Một số yếu tố nữa mà doanh nghiệp ngày càng thực sự phải đối đầu, đố là sự thay đổi của khoa học công nghệ. Sự thay đổi khoa học công nghệ diễn ra từng ngày, từng tháng đã mang lại rất nhiều thay đổi trong phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính của doanh nghiệp, bởi nó không chỉ đem lại những cơ may mà còn đem đến rất nhiều những rủi ro lớn. Vì vậy, nhà quản lý luôn phải đối đầu với những rủi ro có thể xảy ra, để có thể ứng phó kịp thời, đúng đắn. Doanh nghiệp với sức ép từ phía thị trường, từ sự thay đổi tư duy con người, đã chuyển dần từ phương thức sản xuất kinh doanh cổ điển là chỉ quan tâm đến cái mà mình sản xuất, chuyển sang việc quan tâm cái mà thị trường cần. Việc tính đến sự tác động của môi trường , sự thay đổi không ngừng trong cung cách làm ăn của doanh nghiệp là để đạt được mục tiêu sự phát triển bền vững – tối đa hoá lợi nhuận. Nếu xa rời mục tiêu này, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại lâu được. Việc tìm hiểu chỉ tiêu này, sẽ thấy được tầm quan trọng của nó. 1. 1.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp Khái niệm và nguồn gốc của lợi nhuận Lợi nhuận là thước đo, là chỉ tiêu để đánh giá sự làm ăn có hiệu quả hay không của doanh nghiệp. Sự thay đổi liên tục trong phương thức sản xuất kinh doanh, những chiến lược mới trong phương thức quản lý. Mục tiêu của nó là để cho doanh nghiệp có thể tồn tại bền vững và từ đó là đem lại nhiều lợi nhuận hơn nữa. Lợi nhuận : Chỉ tiêu mà mọi thời kỳ kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều quan tâm và lấy đó làm đích để hướng tới, từ đây cũng nảy sinh rất nhiều những quan điểm khác nhau về lợi nhuận - Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Mark cho rằng, “cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí là lợi nhuận”. Theo Adam Smith lợi nhuận là “ khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của lao động. Còn theo Ricardo “ lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công” - K.Mark thì cho rằng “ giá trị thặng dư, hay phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay là lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận. - Các nhà kinh tế học hiện đại như Samuelson và W. D . Nordhaus lại cho rằng “ lợi nhuận là khoản thu dôi ra, bằng tổng số thu trừ đi tổng số chi hay nó cách khác lợi nhuận được định ngiã là “sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí” của một doanh nghiệp. David Begg thì cho rằng lợi nhuận là “khoản dôi ra của doanh thu so với chi phí”. Các khái niệm trên tuy được phát biểu khác nhau song đều có điểm chung, là coi lợi nhuận là số phần thừa ra từ chênh lệch giữa những khoản thu được và chi phí phải bỏ ra. Đứng về phía góc độ doanh nghiệp, lợi nhuận là khoản còn lại của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ chi phí ( chi phí nguyên vật liệu, tiền lương, thuế thu nhập doanh nghiệp.. Lợi nhuận được định nghĩa như vậy, thế nhưng xuất phát từ đâu để có các khoản lợi nhuận đó, đây quả thật là vấn đề gây nhiều tranh cãi. - Phái trọng thương thì cho rằng “ lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông” - Phái trọng nông lại quan niệm “ Giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần tuý là tặng vật của thiên nhiên và của nông nghiệp, là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần tuý” - Phái cổ điển mà nổi tiếng là A. Smith là người đầu tiên tuyên bố rằng “ lao động nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư” và chính ông ta lại khẳng định giá trị hàng hoá bao gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô. Còn theo Ricardo thì “ Giá do lao động của công nhân sáng tạo ra, là nguồn gốc sinh ra tiền lương, lợi nhuận cũng như địa tô” Từ hai quan điểm được phát biểu trên, chúng ta thấy rằng cả Adam Smith và Ricardo đều đã lẫn lộn giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Với tư duy duy vật biện chứng, K.Mard đã xây dựng thành công lý luận về hàng hoá sức lao động_cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, đi đến kết luận:” Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái biến tướng là lợi nhuận” Kinh tế học hiện đại dựa trên quan điểm của các trường phái và sự phân tích thực tế thì kết luận lợi nhuận của doanh nghiệp gồm: Thu nhập từ các nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư trong kinh doanh, phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp và thu nhập độc quyền. Việc hiểu rõ bản chất của lợi nhuận là điều hết sức cần thiết, đặc biệt là với các nhà quản trị doanh nghiệp , để từ đó họ có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách hợp lý, đúng đắn, từ đó có thể đưa ra các biện pháp khác nhau làm tăng cao lợi nhuận. Phân phối lợi nhuận: Quá trình sản xuất , kinh doanh là quá trình tuần hoàn liên tục, chu kỳ này nối tiếp chu kỳ khác. Để có thể tiếp tục vòng quay này phải có vốn đầu tư vào, điều này không thể mãi đòi hỏi từ chủ sở hữu bởi không ai có một nguồn lực vô hạn như vậy. Để có thể tái mở rộng sản xuất, lợi nhuận chính là nguồn lực cần thiết và cần phải có. Người ta sẽ phân chia khoản lợi nhuận đó như thế nào? Giữ lại toàn bộ để tiêu dùng? Đầu tư toàn bộ vào tái sản xuất haycó những phương thức nào khác? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào người chủ doanh nghiệp. Nhưng hiện nay có một phương pháp chung mà các doanh nghiệp hay áp dụng để phân phối lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp một phần dùng để chia lãi cổ phần, còn lãi là lợi nhuận không chia. Tỷ lệ phần lợi nhuận chia lãi và không chia tuỳ thuộc vào chính sách của Nhà nước (Đối với doanh nghiệp Nhà nước) hay chính sách cổ tức cổ phần của đại hội cổ đông ( Đối với doanh nghiệp khác) ở mỗi doanh nghiệp trong từng thời kỳ khác nhau. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam, lợi nhuận sau thuế sau khi nộp phạt và các khoản khác nếu có được trích lập các quỹ của doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Các quỹ doanh nghiệp: + Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ này được sử dụng vào các mục đích sau: Đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh Đổi mới , thay thế thiêt bị máy móc, dây chuyền công nghệ, nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đổi mới trang thiết bị, điều kiện làm việc của doanh nghiệp. Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Bổ sung vốn lưu động. Tham gia liên doanh, liên kết, mua cổ phiếu. Trích nộp cấp trên ( Nếu có) +Qũy dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ những thiệt hại, tổn thất về tài sản do thiên tai, những rủi ro trong kinh doanh không được tính vào giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm. Trích nộp để hình thành quỹ dự phòng tài chính của tổng công ty (nếu là thành viên của tổng công ty) theo tỷ lệ do hội đồng quản trị tổng công ty quyết định hàng năm và được sử dụng để hỗ trợ tổn thất, thiệt hại trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành viên theo quy chế quản lý tài chính của tổng công ty. + Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người đang làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lên bị mất việc làm và chi cho việc đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hay chuyển sang công việc mới. Trợ cấp cho người lao động theo nguyên nhân khách quan như: lao động dôi ra do thay đổi công nghệ, do liên doanh, do thay đổi tổ chức trong khi chưa bố trí công việc khác hoặc chưa kịp giải quyết cho thôi việc. Mức trợ cấp cho thời gian mất việc làm Giám đốc và Chủ tịch Công đoàn xét cụ thể theo pháp luật hiện hành. +Quỹ phúc lợi: Quỹ này dùng để xây dựng, sửa chữa, bổ xung các công trìng phúc lợi chung trong nghành, hoặc với các đơn vị khác theo thoả thuận, chi cho hoạt động phúc lợi xã hội, thể thao, văn hóa, phúc lợi công cộng của toàn thể công nhân viên trong doanh nghiệp; đóng góp cho quỹ phũc lợi xã hội( các hoạt động từ thiện, phúc lợi xã hội công cộng…);… Ngoài ra, doanh nghiệp sử dụng quỹ này để chi trợ cấp khó khăn cho người lao động của doanh nghiệp đã về hưu, mất sức hay lâm vào cảnh khó khăn,không nơi nương tựa Ngoài các loại quỹ trên người ta còn phân chi lợi nhuận để hình thành nên quỹ khen thưởng. + Quỹ khưn thưởng dùng để : Thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, mức thưởng do HĐQT, Giám đốc( nếu doanh nghiệp không có HĐQT) quyết định sau khi có ý kiến tham gia của Công đoàn doanh nghiệp trên cơ sở năng suất lao động, thành tích công tác và mức lương cơ bản của mỗi cán bộ, CNV trong doanh nghiệp. Thưởng đột xuất cho cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến cải tiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh. Việc phân chia lợi nhuận ra thành các quỹ là việc làm cần thiết, nó có thể giúp cho doanh nghiệp phản ứng một cách nhanh chóng đối với những rủi ro sảy ra và khích lệ tinh thần cho các cá nhân có thành tích. Ngoài ra, việc phân chia lợi nhuận thành quỹ dự phòng tài chính tạo ra một tâm lý an tâm hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Qua một số phân tích ở trên, ta có thể thấy đựơc lợi nhuận là vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp. Vậy ngoài doanh nghiệp ra, lợi nhuận còn có vai trò nào khác? Chúng ta sẽ xem xét ở phần dưói đây: Vai trò của lợi nhuận. Lợi nhuận không chỉ là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là nguồn dinh dưỡng chính nuôi dưỡng nền kinh tế của một quốc gia. Lấy gì để thu thuế khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ? Việc xem xét vai trò của lợi nhuận đối với từng đối tượng cụ thể sẽ làm chúng ta hiểu tầm quan trọng của nó. *Đối với doanh nghiệp Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu tổng hộp nói lên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động cơ, mục đích của nhà đầu tư khi bỏ vốn ra để kinh doanh. Điều này được thể hiện: Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ xung vốn vào mở rộng sản xuất kinh doanh. Bởi vì có lợi nhuận thì mới có thể trích lợi nhuận, lập các quỹ trong doanh nghiệp như: Quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi…Từ các quỹ này, doanh nghiệp có thể bổ xung vốn lưu động, vốn cố định khi điều kiện sản xuất – kinh doanh đòi hỏi. Và cũng chính từ các quỹ này, doanh nghiệp mới có điều kiện nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần khuyến khích người lao động gắn bó với công việc, thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh phát triển. Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh toán, có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể thực hiện được các nghĩa vụ với Nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp. Lợi nhuận là nguồn tài chính để doanh nghiệp trang trải các khoản thua lỗ trước kia hay các khoản bị phạt do chậm nộp thuế, do vi phạm hợp đồng. Một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không đủ khả năng tái sản xuất giản đơn( bù đắp hao phí trong quá trình sản xuất – kinh doanh) thì tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ xấu đi và hạn chế dần khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi, thu được lợi nhuận cao thì không những có khả năng thanh toán vững chắc mà còn có điều kiện không ngừng đổi mới máy móc thiết bị, ứng dung khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất – kinh doanh giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường và có uy tín. * Đối với người lao động Lợi nhuận là nguồn chính để doanh nghiệp trích lập quỹ: quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ phúc lợi xã hội, quỹ khen thưởng, giải quyết nhu cầu xã hội cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nguồn để trích lập các quỹ này càng lớn thì doanh nghiệp càng có điều kiện nâng cao tinh thần, vật chất cho cán bộ công nhân viên, từ đó khích lệ họ hăng say trong công tác, nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong quá trình làm việc. Chính vì thế, việc sản xuất có lãi ngày càng cao chẳng những là yêu cầu, là cơ sở của tái sản xuất mở rộng mà còn là quyền lợi thiết thựccủa CBCNV trong doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh: áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyến khích công nhân hăng say lao động, giảm bớt ngày nghỉ việc , có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu để hạ giá thành sản phẩm. * Đối với nền sản xuất xã hội. Trước hết ta thấy, thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, nhằm thoả mãn nhu cầu nền kinh tế quốc dân, là nguồn duy trì bộ máy hành chính, là nguồn củng cố và tăng cường nguồn lực quốc phòng, cải tiến đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân. Muốn thu được thuế thì doanh nghiệp phải làm ăn có lãi. Sự phát triển của các doanh nghiệp tạo ra sự tích luỹ trong xã hội, tạo sự ổn định về mặt kinh tế cho một quốc gia, từ đó có sự ổn định về chính trị. Lợi nhuận là yếu tố thúc đẩy sự phát triển xã hội, thông qua việc doanh nghiệp liên tục cải tiến khoa học kỹ thuật và mở rộng không ngừng để có được mức thu nhập như mong muốn. Lấy ví dụ như trong thời kỳ bao cấp, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp quốc doanh phụ thuộc hoàn toàn vào sự bao cấp của Nhà nước, vốn do Nhà nước cấp phát hoàn toàn, sử dụng hiệu quả như thế nào doanh nghiệp hoàn toàn không chịu trách nhiệm, lỗ đã có Nhà nước bù. Vì thế trong thời kỳ này, doanh nghiệp làm ăn không năng động do động lực kích thích bị thui chột, tình trạng thua lỗ kéo dài, từ đó nhìn toàn cảnh xã hội là nghèo nàn, lạc hậu. Từ khi xoá bỏ chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp chuyển sang chế độ hoạch toán kinh doanh, bộ mặt nền kinh tế có sự thay đổi hết sức tích cực. Doanh nghiệp hoạt động có mục đích của nó, khiến cho nó trở nên năng động, sáng tạo và luôn đổi mới mình. Như vậy, có thể đi đến kết luận: lợi nhuận có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế, nó chính là động lực, mục tiêu để doanh nghiệp hoạt động và phát triển, là nguồn tích luỹ của xã hội, là sự thể hiện sức mạnh của nền kinh tế . Trên đây, chúng ta thấy sự cần thiết khi doanh nghiệp làm ăn có lãi, nhưng việc tính toán một cách chính xác doanh nghiệp đó có thực sự có lợi nhuận hay không là việc không phải dễ dàng. Ngày nay, người ta đưa ra phương pháp để tính toán lợi nhuận của doanh nghiệp, ta sẽ xem xét phần tiếp theo: 1.2.Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.2.1. Các yếu tố cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường năng động, để tăng cường khả năng cạnh tranh, thu đựơc nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp có xu hướng đa dạng hoá hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần thu được từ quá trình sản xuất – kinh doanh mà có thể còn thu đựơc từ kết quả quá trình hoạt động tài chính hay là từ một hoạt động bất thường nào đó. Lợi nhuận của doanh nghiệp là tổng hợp của các lợi nhuận đó. Hoạt động kinh doanh là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của các ngành sản xuất - kinh doanh chính và sản xuất – kinh doanh phụ. Lợi nhuận thu được từ hoạt động trên gọi là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất – kinh doanh. Hoạt động tài chính là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn nhằm mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, buôn bán ngoại tệ. Lãi thu được từ hoạt động trên gọi là lợi nhuận thu đựơc từ hoạt động tài chính. Những hoạt động trên đều đã được doanh nghiệp hoạch định từ trước, có kế hoạch, có sự chuẩn bị các hoạt động theo ý muốn. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, có rất nhiều hoạt động không được hoạch định từ trước mà xảy ra bất ngờ như thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giải quyết tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa thiếu chưa rõ nguyên nhân. Những hoạt động này cũng đem lại cho doanh nghiệp những khoản thu nhập, khoản thu này sau khi đã trừ đi các chi phí cho những hoạt động bất thường này gọi là lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Như vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất – kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Việc cần thiết bây giờ là làm thế nào có thể tính toán các khoản lợi nhuận này? Chúng ta sẽ tính toán theo phương pháp sau: 1.2.2. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. Như đã định nghĩa ở trên, lợi nhuận được hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, nhưng thực tế thì cũng không hoàn toàn như vậy, bởi vì phần thu nhập này lại phải chịu một phần thuế thu nhập do Nhà nước đánh. Vì thế, ta sẽ đưa ra hai khái niệm sau: * Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp: bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Lợi nhuận sau thuế( thu nhập sau thuế) của doanh nghiệp là chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp Thu nhập trước thuế Thuế suât thuế thu nhập doanh nghiệp = X Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận trước thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp = - Trong phần nghiên cứu dưới đây, lợi nhuận đề cấp là lợi nhuận trước thuế, gọi chung là lợi nhuận của doanh nghiệp. Như đã nói ở phần trên: Lợi nhuận của doanh nghiệp = Lợi nhuận từ HĐKD Lợi nhuận từ HĐTC Lợi nhuận từ HĐBT + + Lợi nhuận từ HĐBT Thu nhập từ HĐBT Chi phí cho HĐBT = - Trong đó: Doanh thu từ hoạt động bất thường là khoản thu về việc thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, tiền thu từ vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi mà đã nghi là đã mất. Chi phí hoạt động bất thường là những khoản chi như : chi phạt thuế, bị phạt vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lý, nhượng bán tài sản cố định… Thực ra đây là hợp đồng không thường xuyên và ít xảy ra trong doanh nghiệp nên tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động này thường rất nhỏ và có thể dễ dàng hoạch toán trong một chu kỳ kinh doanh. Lợi nhuận từ HĐTC Doanh thu từ HĐTC Chi phí cho HĐTC = - Đối với những doanh nghiệp cho thuê tài chính, hay đối với các nhân hàng thì lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn nhất. Doanh thu từ hoạt đọng tài chính bao gồm: khoản thu từ việc mua bán trái phiếu, cổ phiếu, thu nhập từ hoạt động liên doanh liên kết, thu nhập từ hoạt động cho thuê tài sản, thu nhập từ hoạt động gửi tiền vào ngân hàng. Chi phí cho hoạt động tài chính là các chi phí cho việc mua bán chứng khoán, chi phí cho hoạt động liên doanh, hợp doanh, góp vốn cổ phần, chi phí cho hoạt động thuê tài chính… Trong bài viết này, đang đứng nghiên cứu dưới góc độ doanh nghiệp thông thường, nên tỷ trọng từ hoạt động bất thường, hoạt động tài chính chiếm tỷ trọng nhỏ, không phản ánh được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong doanh nghiệp thông thường là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh dona, và cũng là mục đích nghiên cứu chính của bài viết này. Lợi nhuận = Doanh thu tiêu thụ - Chi phí hoạt động hoạt động kinh doanh sản phẩm dịch vụ kinh doanh Tuy nhiên việc tính toán được doanh thu tiêu thụ sản phẩm và chi phí cho hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp rất khó thực hiện, việc tính toán này chỉ mang tính tương đối. Một sản phẩm được sản xuất ra, doanh nghiệp chưa thể coi là đã hoàn thành công việc của mình, việc có bán được sản phẩm đó trên thị trường hay không sẽ quyết định thắng lợi của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp coi là hoạt động xuất bán sản phẩm. Cho đơn vị mua để nhận được số tiền về sản phẩm đó. Quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được coi là hoàn thành khi doanh nghiệp được chấp nhận trả tiền của bên mua hàng. Việc hoàn thành quá trình tiêu thụ sản phẩm cũng có nghĩa là doanh nghiệp có doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà khách hàng chấp nhận trả. Tuy nhiên khi khách hàng chấp nhận trả tiền , thì khoản tiền đó cúng chưa chắc chắn được coi hoàn toàn là doanh thu của doanh nghiệp, đôi khi hàng hoá có thể bị trả lại do kém chất lượng, hay do một vài lý do nào đó, khách hàng trả lại hàng , vì vậy doanh nghiệp phải giám giá hàng bán, hoặc khấu cho khách. Do vậy trong nghị định 59 CP có quy định : “ Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm , hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi khác khonả chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại ( nếu có chứng từ hợp lệ), thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cuầ của Nhà nước”. Các sản phẩm , hàng hoá, dịch vụ đem tặng, biếu, cho hoặc tiêu dùng ngay trong nội bộ doanh nghiệp cũng phải được hạch toán để xác định doanh thu. Thời điểm để xác định doanh thu là khi người mua hàng đã chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc đã thu hay chưa. ở đây chiết khấu bán hàng là số tiền thưởng tính trên tổng doanh thu mà doanh nghiệp trả cho khách hàng đã thanh toán tiền trước thời hạn quy định, Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay cung cấp dịch vụ cho các nguyên nhân đặc biệt khác như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách. Ngoài ra còn có khoản thưởng cho khách hàng đã mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt hay trong một khoảng thời gian nhất định. Hàng hoá bị trả lại là số hàng đã được coi là tiêu thụ ( đã chuyển giao quyền sở hữu đã thu tiền hay chưa được chấp nhận thanh toán) nhưng bị người mua từ chối, trả cho người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết do những nguyên nhân khác… Như vậy: Lợi nhuận từ HĐKD Doanh thu thuần Chi phí hoạt động kinh doanh = - = Tổng doanh thu - Chiết khấu bán hàng - Giảm giá hàng bán - Hàng bán bị trả lại - Giảm giá hàng bán - Thuế gián thu Doanh thu thuần Tổng doanh thu Các khoản giảm trừ doanh thu - = - Thuế gián thu là khoản thuế thu hộ cho Nhà nước như Thuế TTĐB, VAT… Việc tính toán doanh thu cho hoạt động sản xuất kinh doanh tuy đã rất phức tạp nhưng việc tính toán chí phí còn khó khăn hơn. Chi phí hiểu theo nghĩa chung nhất là tất cả những gì làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Người ta có rất nhiều cách tiếp cận chi phí khác nhau,và từ đó cách phân loại khoản chi của doanh nghiệp cũng khác nhau. Có thể phân loại chi phí thành chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm. Chi phí cho hoạt động sản xuất thì chỉ có ở những doanh nghiệp sản, và nó thường chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong tổng các khoản chi phí của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả công cho người lao động...Do vậy chi phí sản xuất của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Do đặc điểm của chi phí sản xuất là chi phí hàng ngày gắn liền với từng vị trí sản xuất, từng loại sản phẩm và từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tổng hợp, tính toán chi phí sản xuất cần được tiến hành trong từng khoảng thời gian nhất định không phân biệt sản phẩm đã hoàn thành hay chưa hoàn thành. Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm người ta cần phân loại chi phí sản xuất. Thông thường người ta sử dụng các phân loại chi phí như sau: Thứ nhất: phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, tức là sắp xếp các chi phí có cùng tính chất kinh tế vào một loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí, theo cách phân loại này thì chi phí sản xuất bao gồm ba nhóm yếu tố sau: + Chi phí vật tư + Lương nhân công trực tiếp + Chi phí sản xuất chung Thứ hai: phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành. Cách phân loại này dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để sắp xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó, phân tích tác động của từng khoản mục của chi phí đến giá thành. Thứ ba: phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. Phân loại chi phí theo cách này để có phương thức quản lý phù hợp với từng loại chi phí. Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí, các doanh nghiệp cần phải xem xét cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng mỗi loại chi phí sản xuất. Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành khác nhau có chi phí sản xuất khác nhau. Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác động của nhiều yếu tố như: loại hình và quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật, trang thiết bị, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức, năng lức quản lý, trình độ tay nghề của công nhân... Việc nhiên cứu cơ cấu chi phí có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó giúp cho doanh nghiệp: -Xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản xuất -Kiểm tra gía thành sản phẩm và có biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Đối với một doanh nghiệp sản xuất thì ngoài chi phí cho hoạt động sản xuất ra các sản phẩm còn có: Chi phí tiêu thụ sản phẩm Đối với các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng. Khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cũng phải bỏ các chi phí nhất định Chi phí lưu thông sản phẩm bao gồm: Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm; chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm bao gồm: chi phí chọn lọc, đóng gói; chi phí vận chuyển, bao bì, vận chuyển, bảo quản; chi phí thuê kho bến bãi vv... Chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển bao gồm: chi phí điều tra nghiên cứu thị trường; chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm; chi phí bảo hành sản phẩm vv...tỷ trọng của chi phí này có xu hướng tăng trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển. Nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho biết lượng chi phí cần thiết bỏ ra trong toàn bộ quá tình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tuy nhiên nó lại không thể cho ta biết, một sản phẩm sản xuất ra thì cần bao nhiêu chi phí. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh, khi quyết định lựa chọn phương án kinh doanh một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải tính đến lượng đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc một khối lượng sản phẩm đó. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xác định giá thành sản phẩm: Giá thành sản phẩm được hiểu theo nghĩa chung nhất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định Giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống nhau và khác nhau: chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm, nhưng không phải toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh sản xuất trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm trong kỳ. Giá thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để hoàn thành sản xuất hoặc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị hay một khối lượng sản phẩm nhất định, còn chi phí sản xuất và lưu thông sản phẩm thể hiện số chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ nhất định, thời kỳ này thường là một năm Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản xuất tiều thụ sản phẩm( đối với sản phẩm xây dựng là giá thành thi công ) bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản phẩm còn được gọi là giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành cả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Trên giác độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp được phân biệt thành giá thành kế hoặch và giá thành thực tế Các doanh nghiệp hoạt động luôn phải quan tâm tới việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp thực hiện tốt tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể hạ giá bán để tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, hạ giá thành là yếu tố để tăng lợi nhuận. Hạ giá thành sản phẩm trong kỳ được xác định cho những sản phẩm so sánh được qua hai chỉ tiêu: mức giảm giá thành và tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm. Riêng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, người ta chỉ so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch hoặc giá thành dự toán của khối lượng sản phẩm trong cùng một kỳ. Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm doanh nghiệp: Sự tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính. Ngoài cách phân loại trên, thường được các doanh nghiệp sản xuất ưa thích, người ta còn có cách phân loại sau: Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm các chi phí có liên quan đến quá trình hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là một cách tiếp cận phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Dựa vào tính chất các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh được chia thành : Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực( gọi tắt là chi phí vật tư). Chi phí vật tư phụ thuộc vào 2 yếu tố là mức tiêu hao vật tư và giá vật tư. Chi phí khấu hao tài sản cố định(KHTSCĐ), lưu ý là chi phí KHTSCĐ được xác định dựa vào nguyên giá TSCĐ cần tính khấu hao và tỷ lệ KHTSCĐ. Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương. Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn. Chi phí dịch vụ mua ngoài. Thuế và các chi phí khác. Dựa vào nội dung các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh được chi phí gián tiếp. Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm: Chi phí vật tư trực tiếp. Chi phí nhân công trực tiếp . Chi phí sản xuất chung ,… Việc tính toán các khoản mục này cho ta biết tổng chi phí cần bỏ ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên việc tính toán giá thành sản xuất cúng hết sức cần thiết để quyết định giá bán của sản phẩm, tính toán giá thành sản xuất, dựa vào công thức sau: Giá thành sản xuất = Chi phí + Chênh lệch Sản xuất Sản phẩm dở dang Chênh lệch sản = Sản phẩm dở dang + Sản phẩm dở dang Phẩm dở dang đầu kỳ cuối kỳ Ngoài việc tính giá thành sản xuất ra, trong doanh nghiệp sản xuất thường tính toán chỉ tiêu là giá vốn hàng bán: Giá vốn = Giá thành + Chênh lệch thành hàng bán sản xuất phẩm tồn kho Chênh lệch thành = Thành phẩm tồn kho + Thành phẩm tồn kho phẩm tồn kho đầu kỳ cuối kỳ Riêng đối với doanh nghiệp thương mại: Giá vốn hàng hoá = Giá vốn + chênh lệch hàng hàng mua hoá tồn kho Chênh lệch hàng hoá = Hàng hoá tồn - hàng hoá Tồn kho đầu kỳ tồn kho cuối kỳ Ngoài các khoản chi phí trên, còn có các khoản chi phí khác như: * Chi phí bán hàng: gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như: tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, bảo quan, khấu khao TSCĐ, chi phí vật liêu, bao bì, dụng cụ, đồ dụng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bảo hành, quảng cáo. * Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm các chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu để dùng cho văn phòng, KHTSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác chung cho toàn bộ doanh nghiệp như: lãi vay, dự phòng, phí kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công tác phí ... Phân loại các khoản mục chi phí trên được áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất, việc tính toán đưa ra công thức trên có vẻ khá đơn giản tuy nhiên thực tế thì khó khăn hơn. Cồn đối với các doanh nghiệp thương mại tính toán chi phí được thực hiện đơn giản hơn. Giá vốn hàng bán trong các doanh nghiệp thương mại được tính theo công thức sau: Giá vốn hàng hoá = Giá mua vào + Chi phí vận chuyện Còn các khoản mục chi phí khác thì hoàn toàn tương tự. Các công thức trên để tính toán doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận trong kỳ hoạch toán, tuy nhiên nó không thể thực sự đánh giá được doanh nghiệp có làm ăn hiệu quả hay không. Bởi vì lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng, nên nó chịu tác động rất nhiều của các nhân tố chủ quan, khách quan khác. Để đánh giá chất lượng sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp chỉ tiêu lợi nhuận và nhóm chỉ số khác nữa. 1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất- kinh doanh và hiệu quả quản lý của doanh nghiệp. Nó báo gồm một nhóm chỉ tiêu như: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm là tỷ số giữa thu nhập sau thuế trên doanh thu, phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trên một đồng doanh thu. Tỷ suất này càng lớn thì doanh nghiệp được đánh giá là làm ăn có lãi, có thể sử dụng chỉ tiêu này để so sánh giữa các thời kỳ khác nhau, cũng thấy phần nào hiệu quả làm ăn của doanh nghiệp. * Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu ( Doanh lợi vốn chủ sở hữu) : ROE = Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn tự bỏ vào kinh doanh thì thu được bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu, đây là chỉ tiêu đặc biệt được các nhà đầu tư quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn vào đầu tư. Chỉ tiêu này được so sánh qua các thời kỳ khác nhau của doanh nghiệp và so với chỉ tiêu trung bình ngành. Nếu chỉ tiêu này cao hơn qua các thời kỳvà cao hơn so với trung bình ngành thể hiện sự làm ăn có hiệu quả của doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính của doanh nghiệp. Vấn đề khó khăn là tỷ lệ trung bình ngành của các chỉ tiêu không phải dễ dàng có thể xác định được và độ chính xác không phải là tuyệt đối. Như thực tế ở Việt Nam ta hiện nay, các tỷ số trung bình ngành của các tỷ số trên hầu như chưa được tính toán đến. *Doanh lợi tài sản: ROA = Doanh lợi tài sản là tỷ số giữa thu nhập sau thuế trên tổng tài sản , phản ánh khả năng sinh lãi của doanh nghiệp tính trên một đồng giá thị tài sản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá tình hình sử dụng tài sản, vật tư, tiền tệ … của doanh nghiệp.Từ đó có bịên pháp thích ứng khai thác khả năng sinh lời của tài sản, quản lý và sử dụng tài sản tiết kiệm. chỉ tiêu này cần được so sánh với chỉ tiêu trung bình ngành và so sánh giữa các thời kỳ với nhau mới thấy được hiệu quả của quá trình sử dụng tài sản. _*Tỷ suất lợi nhuận giá thành Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ Công thức ; Trong đó: Tg ; tỷ suất lợi nhuận giá thành P; lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ Zt : giá trị toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiẹu thụ trong kỳ Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giá thành có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Nó cho biết cứ 100 đồng chi phí sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Việc sử dụng nhóm chỉ tiêu trên giúp chúng ta thấy được hiệu qủa hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp qua các thời kỳ và so với các doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực. Tuy nhiên, nó không giúp ta thấy được những nhân tố nào ảnh hưởng tới lợi nhuận. Để làm được việc này cấn phải sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont. Với phương pháp này, nhà phân tích tài chính sẽ biết được nguyên nhân dẫn tới hiện tượng tốt xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) hay doanh lợi tài sản (ROA) thành tích các tỷ số có quan hệ nhân quả với nhau. ROE = = x = ROA x EM EM gọi là số nhân vốn, phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. EM càng cao chứng tỏ khả năng huy động vốn của doanh nghiệp càng lớn. ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng VCSH – mức tăng tài sản cho vốn chủ sở hữu. Còn ROA ( Thu nhập sau thuế trên tài sản) phản ánh mức sinh lợi của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp. Ta có thể phân tích phương pháp Dupon: (:) (:) (-) + DL tài sản Số nhân vốn TNST Doanh thu Tài sản VCSH Doanh thu Tổng chi phí TSCĐ TSLĐ Giá vốn Thuế TNDN Chi phí bán hàng Chi phí QLDN Chi phí HĐTC Chi phí bất thường Giá trị CLTSCĐ Đầu tư TC dài hạn Tiền Đầu tư TC ngắn hạn Phải thu Tồn kho TSLĐ khác DL vốn chủ Nhìn vào sơ đồ trên, thấy được yếu tố nào trực tiếp, gián tiếp ảnh hưởng tới doanh lợi vốn chủ, để từ đó có những biện pháp hạn chế tác động xấu tới tỷ số này và kích thích những nhân tố có tác động tốt. Nhìn vào vế trái của sơ đồ trên ta cũng có thể thấy được nhân tố nào làm tăng, nhân tố nào làm giảm thu nhập sau thuế của doanh nghiệp. Ngoài những phương pháp để tính toán khi nào doanh nghiệp làm ăn có lãi, người ta còn sử dụng phương pháp phân tích điểm hoà vốn. Phân tích điểm hoà vốn: Điểm hoà vốn là tại đó, doanh thu bán hàng bằng chi phí bỏ ra, hoặc là một điểm mà tại đó lợi nhuận bằng không. Như vậy, trên điểm hoà vốn sẽ có lãi và dưới điểm hoà vốn sẽ bị lỗ. Phân tích điểm hoà vốn sẽ giúp cho các nhà quản trị tài chính xem xét kinh doanh trong mối liên hệ giữa nhiều yếu tố tác động tới lợi nhuận, cho phép xác định rõ ràng vào thời điểm nào trong kỳ kinh doanh, hay mức sản xuất tiêu thụ bao nhiêu sản phẩm công ty không bị lỗ, từ đó có các quyết định chủ động và tích cực để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. Về mặt toán học thì điểm hoà vốn là điểm giao nhau của đường biểu diễn doanh thu với đường biểu diển tổng chi phí: Nếu gọi: F : là∑chi phí v: là chi phí khả biến cho một sản phẩm Q: là sản lượng hoà vốn g: là giá bán một đơn vị sp Vậy∑chi phí khả biến là: VQ, ∑chi phí sản xuất là : y1 = F + vQ ∑ doanh thu tại thời điểm hoà vốn : y2 = gQ Tại điểm hoà vốn ta có: ∑Dthu =∑ Chi phí Q x g = F + vQ Qg - vQ = F Q(g – v ) = F Q = Đồ thị của điểm hoà vốn được vẽ như sau: Trục tung phản ánh doanh thu ( hay tổng chi phí ), trục hoành phản ánh sản lượng hoạtđộng. Doanh thu được tượng trưng bởi đường thẳng xuất phát từ góc độ 0, đường tổng chi phí luôn xuất phát tại F và độ dốc của nó nhỏ hơn độ dốc của đường doanh thu. Hai đồ thị này cắt nhau tại điểm M, diểm M ( với ∑doanh thu y2 = ∑chi phí y1 tương ứng với sản lượng q0 ) được gọi là điểm hoà vốn và Q0 được gọi là sản lượng hoà vốn. Những gía trị nào của Q Q0 phản ánh phạm vi sản lượng có lãi. Vùng lỗ Y1=y2 DT,CP y F M Y2=gQ ∑CP biến đổi vQ Đường chi phí Chi phí cố định (F) Y1=F+vQ Hình 1: Đồ thị điểm hoà vốn Cũng như các công cụ quản lý tài chính khác, mô hình phân tích điểm hòa vốn cũng có những hạn chế của nó. Nghiên cứu mô hình này phải đặt tronh những điệu kiện giả thiết nhất định: Toàn bộ chi phí được phân biệt hợp lý thành hai bộ phận là chi phí biến đổi và chi phí cố định. Định phí luôn cố định trong mọi mức độ sản lượng Biến phí đơn vị không thay đổi với bất kể số lượng sản xuất là bao nhiêu. Giá bán như nhau ở mọi mức độ của sản lượng tiêu thụ Doanh nghiệp chỉ tiêu thụ một loại sản phẩm. Tuy có những hạn chế nhát định nhưng lý thuyết về điểm hoà vốn vẫn có giá trị nghiên cứu trong lý luận và thực tiễn. Từ những phân tích trên, ta thấy được những nhân tố nào ảnh hưởng đên doanh thu và chi phí thì cũng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp * Nhóm nhân tố thuộc về doanh thu - Khối lượng sản phẩm Khối lượng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu vì; Doanh thu bán hàng Giá bán đơn vị sản phẩm Khối lượng sản phẩm tiêu thụ = + Theo quan hệ toán, thì rõ ràng khối lượng sản phẩm tiêu thụ tỷ lệ thuận với doanh thu, do đó khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng thì doanh thu tăng, khối lượng sản phẩm tiêu thụ sản phẩm giảm thì doanh thu giảm. Trên thực tế, doanh nghiệp phải bán được nhiều hàng thì mới hi vọng thu được nhiều tiền. Không phải doanh nghiệp cứ nhập về bao nhiêu hàng là có thể tiêu thụ được hết số sản phẩm đó. Khối lượng hàng hoá tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều yếu như quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, việc ký hợp đồng với khách hàng, việc giao hàng, vận chuyển và thanh toán tiền hàng.... + Giá cả sản phẩm Nhìn vào công thức tính doanh thu tiêu thụ sản phẩm ta thấy giá cả cũng tỷ lệ thuận với doanh thu và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Nếu giá cả tăng thì doanh thu tiêu thụ tăng và ngược lại( đối với từng mặt hàng). Cùng một loại sản phẩm nhưng nếu doanh nghiệp bán ở các mức giá khác nhau thì doanh thu khác nhau. Để đạt được doanh thu mong muốn doanh nghiệp phải linh hoạt trong việc xác định mức giá hợp lý, vừa khuyến khích được mọi người tiêu dùng, vừa trang trải được chi phí bỏ ra. Hầu hết những sản phẩm có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân thì nhà nước sẽ còn định giá, còn các sản phẩm khác căn cứ vào cung cầu thị trường và quyết định giá bán. Nhìn chung, nếu đảm bảo được chất lượng sản phẩm thì giá cả sẽ trở thành một vũ khí cạnh tranh khá sắc bén của mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp làm tốt công tác quản lý, tiết kiệm, giảm được chi phí, hạ giá thành thì có thể hạ giá bán so với nhiều khách hàng, mở rộng thì trường, không ngừng nâng cao được doanh thu để từ đó nhằm tăng lợi nhuận. +Kết cấu mặt hàng tiêu thụ Một doanh nghiệp có thể nhập về nhiều loại hàng hoá với tỷ trọng khác nhau. Hầu hết hiện nay các doanh nghiệp đều sử dụng chính sách “đa dạng hoá sản phẩm”, tức là nhiều loại sản phẩm. Mỗi loại có nhiều chủng loại, kích cỡ, mầu sắc giá cả khác nhau để đáp ứng nhu cầu khác nhau. Nếu mặt hàng có giá bán cao và chiếm tỷ trọng lớn mà sản lượng tiêu thụ tăng nhanh thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng nhanh, ngược lại mặt hàng có giá bán thấp và chiếm tỷ trọng nhỏ mà sản lượng tăng nhanh thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm có tăng nhưng tăng chậm. Việc thay đổi kết cấu sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào giá cả mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện sản xuất cụ thể của doanh nghiệp, nhu cầu thị trường mặt hàng này tăng, mặt hàng kia giảm... Việc thay đổi kết cấu tiêu thụ trước hết là do tác động của nhu cầu thị trường, tức là do tác động của các nhân tố khách quan. Mặt khác, để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên biến động, bản thân doanh nghiệp phải vận động từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, bán hàng và khi đó tác động này lại là tác động mang yếu tố chủ quan trong công tác quản lý của công ty. Từ sự tác động của nhân tố này doanh nghiệp sẽ phải nắm bắt nhu cầu thị trường để đưa ra những quyết định điều chỉnh hợp lý. Như vậy, để có được kết cấu mặt hàng tiêu thụ hợp lý, đảm bảo doanh thu tiêu thụ sản phẩm không ngừng nâng cao lợi nhuận, các doanh nghiệp cần phải bám sát thị trường. + Chất lượng hàng hoá bán ra thị trường Chất lượng sản phẩm là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản phẩm nên nó ảnh hưởng gián tiếp đến doanh thu tiêu thụ. Hiện nay, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao, kéo theo nhu cầu tiêu dùng cũng ngày càng đa dạng và phong phú, đòi hỏi sản phẩm tiêu dùng phải tốt về mọi mặt, chất lượng cao, giá cả vừa phải, hợp thị hiếu, điều kiện sử dụng, tiện lợi, đa dạng...Cho dù sử dụng trong thời gian ngắn hay dài hình thức sản phẩm ra sao thì người tiêu dùng vẫn luôn mong muốn được sử dụng những sản phẩm tốt về chất lượng. Do vậy trong nền kinh tế thị trường yếu tố chất lượng sản phẩm bị đòi hỏi gắt gao và yếu tố cạnh tranh cơ bản của doanh nghiệp. Muốn tiêu thụ được hàng, muốn thu hút được khách hàng thì doanh nghiệp phải dành được uy tín về chất lượng sản phẩm để tạo ra ưu thế cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Một doanh nghiệp có thể có nhiều loại sản phẩm với nhiều phẩm cấp khác nhau và các thứ hạng phẩm cấp đó đều được phép tiêu thụ trên thị trường với giá cả phù hợp từng phẩm cấp. Giả sử các yếu tố khác không đổi, khi nâng cao chất lượng sản phẩm thì chắc chắn sẽ tăng tỷ lệ sản phẩm loại I, mà giá bán sản phẩm loại I bao giờ cũng cao hơn giá bán thứ phẩm. Nên cùng một khối lượng sản phẩm tiêu thụ nhưng doanh thu tiêu thụ đã được nâng cao hơn. Như vậy, chất lượng sản phẩm là yếu tố giúp doanh nghiệp có thể thu hút được đông đảo khách hàng, làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm một cách hợp lý. Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh lợi hại, góp phần khẳng định thế đứng của doanh nghiệp trên thị trường. Công tác thanh toán tiền bán hàng. Trong công tác thanh toán tiền bán hàng doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức thanh toán khác như thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản ... Trong quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp thường bán hàng cho rất nhiều khách hàng khác nhau, có điều kiện kinh tế và ở vị trí địa lý khác nhau. Việc đa dạng hoá các hình thức thanh toán tiền hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi thanh toán cho doanh nghiệp nhận doanh thu kịp thời, đầy đủ trong công tác thanh toán, doanh nghiệp cần có những hình thức động viên khuyến khích khách hàng để khách hàng thanh toán ngay, nhanh gọn, để tránh hiện tượng doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn mà lại thu hút được nhiều khách hàng. Mặt khác, trong tình hình thanh toán tiền hàng doanh nghiệp phải làm tốt công tác kiểm tra tình hình chấp hành về điều khoản thanh toán , thời hạn thanh toán, thể thức thanh toán, đảm bảo thu đúng thu đủ, thu kịp thời doanh thu. *Nhóm các nhân tố thuộc chi phí Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, chi phí có quan hệ tỷ lệ ngịch với lợi nhuận: chi phí tăng lợi nhuận giảm và ngược lại. Do vậy, lợi nhuận chịu sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí như sau: + Giá vốn hàng bán hay giá thành sản phẩm tiêu thụ Thực chất ảnh hưởng của nhân tố này là ảnh hưởng của giá thành sản phẩm tiêu thụ. Như chúng ta đã biết, giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm là tuỳ thuộc vào kết quả của việc quản lý và sử dụng lao động, vật tư tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, do đó nó là tác động của nhân tố chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí sản xuất, chi phí thu mua,… liên quan đến hàng tiêu thụ sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Do vậy doanh nghiệp cần có những biện pháp tích cực giảm chi phí và quản lý tốt các khoản mục chi phí của giá thành sản phẩm tiêu thụ. + Chi phí bán hàng và chi phí quản lý Chi phí bán hàng và chi phí quản lý về thực chất cũng giống như ảnh hưởng của nhân tố giá vốn hàng bán, tức là chi phí bán hàng và chi chí cao hay thấp tăng hay giảm là tuỳ thuộc vào kết quả của việc quản lý và sử dụng, vật tư tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, do đó nó là tác động của nhân tố chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Để tiết kiệm được chi phí bán hàng và chi phí quản lý thì các doanh nghiệp phải xây dựng được các định mức chi phí này cho từng loại sản phẩm. Các định mức này sẽ được điều chỉnh từ năm này qua năm khác theo xu hướng biến động của thị trường. Trên đây là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm( hay doanh thu bán hàng) của một doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới lợi nhuận. Doanh nghiệp cần phải xem xét các yếu tố đó một cách toàn diện từ nhiều góc độ khác nhau và trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau để tìm ra mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Từ đó doanh nghiệp sẽ tìm ra phương hướng, giải pháp tối ưu để phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu của các yếu tố đối với việc thực hiện các chỉ tiêu tài chính, đặc biệt là hai chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận. * Nhóm các yếu tố khác Ngoài các nhóm nguyên nhân trên còn có rất nhiều các nhân tố khác tác động đến chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận như: biến động nền kinh tế thị trường ví dụ như sự biến động về tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn đến hoạtđộng kinh doanh của những doanh nghiệp xuất- nhập khẩu, hoạt động đầu tư trên thị trường tài chính, lãi suất ngân hàng, tâm lý lao động, việc phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp, sự . Nếu như doanh nghiệp thực hiện tốt kế hoạch phân phối tức là đảm bảo quyền lợi của người lao động và thực hiện tốt công tác quản lý, lãnh đạo thì doanh nghiệp sẽ tạo ra môi trường làm việc cho người lao động, tạo động lực làm việc cho người lao động. Chính điều này sẽ là điều kiện tôt cho doanh ngiệp thực hiện các mục tiêu của mình, đặc biệt là các chỉ tiêu tài chính như doanh nghiệp và lợi nhuận. Trên đây là toàn bộ những lý luận chung về doanh thu bán hàng và lợi nhuận. Để hiểu rõ hơn thì chúng ta phải xem xét việc thực hiện hai chỉ tiêu này như thế nào trong điều kiện thực tế cụ thể ở một doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng về lợi nhuận của công ty TNHH thương mại TBC 2.1 Tổng quan về công ty Thương Mại TCB 2.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH Thương Mại TCB Công ty TNHH Thương Mại TCB được thành lập ngày 26/10/2001, theo giấy phép kinh doanh số 0102003735 của sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp. Công ty chuyên kinh doanh mặt hàng dụng cụ y tế và các loại hoá chất. Mặt hàng của công ty hầu hết là các hàng hoá nhập khẩu từ các nước Đức, Hungary, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha...Sản phẩm của công ty được tiêu thụ tại thị trường Hà Nội và các tỉnh phía bắc lân cận Hà Nội như: Quảng Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hoà Bình, Thái Bình, Hải Dương,... Công ty TNHH TBC Thành lập từ năm 2001 với khởi đầu chỉ có 10 người, đến nay nhân viên trong toàn công ty là 50 người. Trong đó, hầu hết có trình độ đại học, và còn rất trẻ. Nhờ vậy, công ty có đội ngũ nhân viên rất năng động, sáng tạo luôn khẳng định được mình trong mọi điều kiện làm việc. Công ty có tên đầy đủ : Công ty TNHH Thương Mại TCB Trụ sở : Số 60 tổ 29 Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội Điện thoại : 84 04 5744633 Tax:84 04 5744634 Tài khoản số 1300311003006 Tại ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam. Năng lực bán hàng công ty: vào khoảng 2 tỷ đồng/năm 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty Là một doanh nghiệp tư nhân, có quy mô vừa, Công ty TNHH thương mại TBC tổ chức quản lý theo mô hình một cấp: đứng đầu là giám đốc Công ty, tiếp đến là các phòng ban, có nhiệm vụ trực tiếp giúp việc cho giám đốc. Biểu 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của Công ty TNHH thương mại TBC ban giám đốc phòng kinh doanh phòng kế toán phòng hành chính phòng kỹ thuật Ban giám đốcgồm; - Giám đốc Công ty (Ông Hoàng Văn Tiệp), người nắm giữ một phần hai vốn góp là người đứng đầu Công ty, đại diện và chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của công ty. Phó giám đốc kiêm Kế toán trưởng ( Bà Nguyễn Ngọc Bích), người nắm giữ phần vốn góp còn lại, là người giúp việc cho giám đốc trong các hoạt động kinh doanh hàng ngày, là người chịu trách nhiệm trước giám đốc, pháp luật về phạm vi và quyền hạn của mình. Ngoài ra trong công ty còn có 4 phòng ban chức năng: Phòng Hành chính kiêm phòng Nhân sự: gồm 5 người đứng đầu là trưởng phòng hành chính, có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc xây dựng và áp dụng các chế độ, quy định về quản lý , sử dụng lao động trong toàn Công ty, tuyển thêm nhân viên mới.Trưởng phòng nhân sự là người chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về các quyết định quản lý nhân sự của mình. Phòng Kế toán: gồm 6 nhân viên, đứng đầu phòng kế toán là Kế toán trưởng có nhiệm vụ giúp đỡ Giám đốc trong việc lập các chứng từ sổ sách thu chi, báo cáo với Giám đốc về kết quả sản xuất kinh doanh theo chế độ kế toán Nhà nước, quy chế Công ty, chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Giám đốc Công ty về mọi quyết đinh quản lý trong toàn Công ty ( biểu đồ 2), Biểu 2: Mô hình bộ máy kế toán của Công ty Kế toán trưởng Kế toán thanh toán kiêm thủ quỹ Kế toán vật tư hàng hoá Kế toán xuất nhập khẩu Kế toán bán hàng Kế toán thuế - Phòng kinh doanh: do đặc điểm là công ty thương mại nên đây là phòng có quy mô lớn nhất trong công ty, gồm có 24 thành viên, những nhân viên này có nhiệm vụ chính là đem được sản phẩm tới tay khách hàng, ngoài ra họ còn có nhiệm vụ là đào tạo nhân viên mới, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh,... Phòng Kỹ thuật: giúp Giám đốc về công tác quản lý chất lượng sản phẩm, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, phụ trách nghiên cứu sản phẩm mới, đào tạo tay nghề nhân viên, bảo hành máy móc cho khách hàng, ngoài ra họ còn có thực hiện dịch vụ sửa chữa khi khách hàng yêu cầu, đào tạo nhân viên mới khi cần. Phòng kỹ thuật gồm 13 người đứng đầu là trưởng phòng kỹ thuật, người có nhiệm vụ quản lý mọi hoạt động của phòng kỹ thuật. Trong Công ty, mỗi phòng ban có một chức năng riêng, nhưng mục đích cuối cùng là để quản lý tốt mọi hoạt động của công ty. 2.1.3 Đặc điểm của công ty Công ty TNHH Thương Mại TCB là doanh nghiệp hoạt động với nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức kinh doanh mặt hàng nhập khẩu một phần mềm trực tiếp theo đơn đặt hàng với lô hàng có mệnh giá lớn, và một phần hàng để bán lẻ cho đơn vị kinh doanh trong mọi lĩnh vực có nhu cầu. Công ty mang đầy đủ đặc trưng của một doanh nghiệp thương mại, tuy nhiên có một số sự riêng biệt của nó. +Khối lượng hàng nhập về phụ thuộc vào đơn đặt hàng và suy tính của ban lãnh đạo +Mặt hàng của công ty dễ bị hao mòn vô hình do hàm chứa công nghệ cao( ngày hôm nay loại máy móc này là hiện đại, nhưng ngày mai nó đã có sự thay đổi rất nhiều) +Các mặt hàng công ty kinh doanh, lãi thu về chủ yếu dựa vào sản phẩm tiêu hao của máy móc chính. Công ty có thể bỏ ra hàng chục triệu để tặng 1 chiếc máy xét nghiệm sinh hoá nhưng từ chiếc máy này công ty có thể bán được các loại que thử, hay các loại hoá chất mà máy đó cần dùng. +Nhân sự của công ty chủ yếu là nam, do phải thường xuyên để công tác, áp lực công việc là rất lớn. Các đặc trưng trên tác động rất lớn đến đến hoạt động kinh doanh của công ty, qua đó mà tác động đến lợi nhuận của nó. Những tác động này thể hiện cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Nếu công ty có sự phân tích nắm bắt tình hình một cách kín kẽ, có đầy đủ thông tin về các vấn đề trên và xử lý chúng một cách khoa học thì công ty dễ dàng đạt mục tiêu của mình. Ngược lại, thì chính yếu tố trên sẽ là nguyên nhân dẫn đến thất bại của công ty. Hoạt động kinh doanh của công ty là một quy trình hoạt động chặt chẽ, trải qua nhiều công đoạn phức tạp mà điểm xuất phát là từ nhu cầu thị trường Phòng kinh doanh là nơi đảm nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, chăm sóc cho khách hàng. đối với những loại thiết bị y tế có mệnh giá lớn, công ty không có sẵn trong kho mà chỉ khi khách hàng có nhu cầu công ty mới nhập về. Đối với những loại vật tư tiêu hao, dùng cho loại máy mà công ty tặng cho các viện, thì phòng kinh doanh phải có sự dự trù trước, để công ty đặt hàng về dự trữ tại kho. Ngoài ra, công ty nhập về một lô hàng khác phụ thuộc vào nhu cầu bất thường của khách hàng. Giữa phòng kinh doanh và ban giám đốc là sự kết hợp đồng bộ nhịp nhàng. Phòng kinh doanh là nơi nhận đơn đặt hàng cung cấp mày móc, vật tư cho các viện hay phòng khám, phòng nghiên cứu, dự trù nhu cầu của khách hàng về loại hàng hoá mà công ty cung cấp rồi đệ trình lên ban giám đốc, ban giám đốc nghiên cứu, xét duyệt và đặt hàng. Nếu không có sự kết hợp chặt chẽ thì hoạt động kinh doanh của công ty thất bại. 2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Thương mại TBC 2.2.1 Thực trạng hoạt động kinh doanh Mặt hàng kinh doanh của công ty là thiết bị dùng trong y tế và các loại hoá chất, được nhập khẩu từ nhiều nước như: Đức, Hungary, Tây Ban Nha, Pháp, Brazil, Nhật... Các loại thiết bị y tế chính mà công ty đã bán trong năm qua: Máy xét nghiệm đường huyết Máy nghiên cứu nước tiểu Máy siêu âm Máy điện tim Màn hình theo dõi bệnh nhân Máy chụp X_ quang ( Với một chủng loại mày trên lại có rất nhiều loại máy móc do các hãng khác nhau sản xuất, với giá thành khác nhau). Các loại hoá chất trong y tế được công ty tiêu thụ khá mạnh, như loại hoá chất sinh hoá, hoá chất huyết học, được nhập của những hãng nổi tiếng trên thế giới như: Biocon, Elitech, Anaticon, Ral, Innomed,... Các mặt hàng này được công ty cung cấp cho các bệnh viện, trung tâm y tế và các phòng khámnhư Bệnh viện 103, viện Saintpaul, viện Giao thông vận tải,…và các phòng khám thuộc địa bàn Hà Nội, Bệnh viện Gang Thép Thái Nguyên, bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên, Trung tâm y tế Thành phố Thái Nguyên, và các phòng khám trên địa bàn Thái Nguyên, bệnh viện đa khoa Hoà Bình, bênh viện Bãi Cháy, bệnh viện Lao và Bệnh phổi Quảng Ninh, trung tâm y tế Cẩm Phả, Trung tâm y tế Hải Dương, Trung tâm mắt Thái Bình, Bệnh viện phụ sản Thái Bình, Bệnh viện đa khoa Lạng Sơn,… là khách hàng truyền thống của công ty trực thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Lạng Sơn,… Ngoài ra, thị trường tiêu thụ tiềm năng của công ty cũng khá rộng lớn, với tiềm lực chưa được mạnh của mình, công ty chưa đủ sức để đáp ứng. Hoạt động dinh doanh của công ty chỉ bao gồm hoạt động buôn bán hàng hoa, không có hoạt động tài chính , hay hoạt động bất thường. 2.2.2 Tình hình tài chính trong công ty TNH thương mại TBC Công ty TBC là một công ty tư nhân với quy mô tài chính lẫn quy mô hoạt động còn khá đơn giản, tuy nhiên sau ban năm đi vào hoạt động, tốc độ tăng trưởng của Công ty khá nhanh, chúng ta sẽ nhận thấy sự tăng trưởng của công ty qua việc phân tích tình hình tài chính của công ty: Biểu 3. Cơ cấu vốn của công ty TNHH TBC Đơn vị: Đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Tổng nguồn vốn 2.120.094.939 2.190.088.501 3.290.258.353 1. Phải trả cho người bán 139.634.216 207.084.554 1.239.830 2. Nợ thuế 0 0 55.151.723 3.Vốn chủ sở hữu 2.000.000.000 2.000.000.000 2.000.000.000 4. Lợi nhuận chưa phân phối 0 9.642.947 22.344.800 ( Trích; Bảng cân đối kế toán của Công ty TBC năm 2002, 2003) Nhìn vào bảng cơ cấu vốn của công ty ta có nhận xét sau: Vốn đưa vào hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu là vốn chủ sở hữu, công ty không có khoản nợ vay ngân hàng hay vay cá nhân khác trong nền kinh tế ngoài khoản tín dụng thương mại, từ đó có thể đưa ra một số kết luận: Hoạt động kinh doanh của công ty nhỏ không cần nhiều vốn nên công ry không phải vay nợ, hoặc do hoạt động kinh doanh yếu kém, nên không có khả năng vay nợ. Để đánh giá khả năng cân đối vốn của công ty, ta dựa vào một tỷ số sau: Năm 2001= 6,45% Năm 2002= 0,355% Năm 2003=39,05% Tỷ số nợ qua các năm tăng, đặc biệt tăng nhanh từ năm 2003, từ 9,46% năm 2002 lên 39,35% năm 2003 chứng tỏ mức nợ của công ty tăng nhanh nhưng là nợ người bán. Công ty có nguồn tín dụng thương mại rất lớn. Qua đây ta thấy quy mô hoạt động kinh doanh của công ty mở rộng lên rất nhanh sau 3 năm. Từ đây ta thấy, chiếm dụng thương mại của công ty khá thường xuyên và giá trị tương đối lớn. Hiện nay, việc thanh toán tỷ số trung bình ngành chưa có, nên thật khó mà biết được, tỷ số nợ này là cao hay thấp so với công ty khác trong cùng lĩnh vực. Doanh nghiệp không có khoản đi vay, nên không có áp lực về việc trả lãi, tuy nhiên điều này có bất lợi là doanh nghiệp không có khoản tiết kiệm nhờ thuế. Với cơ cấu vốn mà phần lớn là vốn chủ sở hữu thấy giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh trong trường hợp mất khả năng thanh toán các khoản nợ, nhưng nó do một điều là quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không lớn. Công ty còn một khoản nợ thuế khá lớn, mà hiện tại đến đầu năm 2004 vẫn chưa thanh toán được, nợ động thuế lâu, sẽ phải chịu lãi phạt rất lớn, hiện nay khoản nợ thuế này của công ty đã nên đến hơn bốn triệu đồng. Nguồn vốn của công ty dùng để nhập hàng hoá về bán, mua sắm tài sản cố định, … còn hầu hết nằm dưới dạng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng Biểu 4: Cơ cấu tài sản của Công ty TNHH TBC năm 2001, 2002,2003 Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 I.TSLĐ và Nợ ngắn hạn 2.120.094.939 2.190.088.501 3.290.258.353 1. Tiền mặt tại quỹ 1.789.321.503 1.679.480.930 1.549.516.728 2. Tiền gửi NH 103.721.632 157.912.158 231.542.845 3. Phải thu khách hàng 89.617.290 114.134.065 1.119.789.732 4. Thuế GTGT được khấu trừ 0 101.210 0 5. Hàng tồn kho 137.434.514 238.460.138 389.409.048 II. TSCĐ và ĐTDH 16.000.000 26.639.000 26.790.000 1. TSCĐ 16.000.000 26.639.000 26.790.000 - Nguyên giá 20.000.000 30.656.000 33.139.000 - Giá trị hao mòn luỹ kế (4.000.000) (4.017.000) (6.349.000) ( Trích; Bảng cân đối kế toán của Công ty TBC năm 2002, 2003) Cơ cấu tài sản qua các năm có sự thay đổi. Tiền mặt tại quỹ qua các năm giảm, tiền gửi ngân hàng, các khoản phải thu và hàng tồn kho và tài sản cố định qua ba năm tăng, chứng tỏ quy mô hoạt động kinh doanh được mở rộng, công ty đầu tư nhiều hơn vào hàng hoá thay vì gửi tiền vào ngân hàng hay giữ tiền mặt tại quỹ. Việc giữ tài sản dưới dạng tiền mặt sẽ làm hạn chế khả năng sinh lời của tổng tài sản tuy nhiên lại đảm bảo khả nănng thanh toán cho công ty. Các khoản phải thu, hầu hết là do các viện nợ đọng, do là cơ quan nhà nước nên mặt hàng có mệnh giá lớn, thường phải đợi xét duyệt, và đồng ý của cơ quan cấp trên, mới có tiền thanh toán. Các viện có khoản nợ thường xuyên lâu, và có giá trị lớn của công ty là: bệnh viện Gang Thép Thái Nguyên, Bệnh viện 103, Bệnh viện lao và Bệnh phổi Quảng Ninh,... Tài sản cố định của công ty gồm có: Máy tính dùng cho các phòng, một chiếc Tivi, …TSCĐ được đầu tư nhưng với tốc độ chậm, do đây là doanh nghiệp thương mại nên nhu cầu về tài sản cố định không cao. Vì thế, tổng TSCĐ của công ty tính ra đến nay chỉ có 26.790.000 đồng chiếm 0.8% trong tổng tài sản của công ty. Với cơ cấu vốn tài sản như trên, về trực giác có thể thấy khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp tốt nhưng khả năng thanh toán biến động như thế nào qua các năm, muốn đánh giá được phải dựa vào việc tính toán các tỷ số: Từ số liệu trên bảng được tính toán : Năm 2001:15,378 Năm 2002:10,575 Năm 2003: 2,654 Năm 2001:14,38 Năm 2002: 9,42 Năm 2003: 2,34 Khả năng thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán nhanh của công ty giảm quá nhanh sau 3 năm, từ 14,38 năm 2002, xuống 9,42 năm 2002 và giảm rất nhanh chỉ còn 2,34 năm 2003( khả năng thanh toán nhanh) Cho thấy, công ty kinh doanh ngày càng trở nên mạo hiểm hơn. Khả năng thanh toán hiện hành giảm qua 3 năm đã giải thích là tiền mặt tại quỹ giảm, thay vào đó hàng tồn kho lại tăng, từ đấy đưa ra giả thuyết việc tiêu thụ hàng hoá của công ty gặp vấn đề khó khăn, khiến lượng hàng tồn công ty còn nhiều, hoặc do công ty mở rộng số lượng mặt hàng. Thực tế cho thấy, số lượng hàng nhập về năm 2002, 2003 tăng dần từng năm, do nhu cầu tiêu thụ của thị trường khá lớn, nên công ty phải thường xuyên có hàng dự trữ trong kho. Hàng tồn kho mặc dù tăng, nhưng chiếm một tỷ trọng khá nhỏ, chỉ có 389.409.048 đồng, thấp hơn rât nhiều so với tiền mặt tại quỹ và các khoản phải thu khách hàng. Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Thực hiện Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch 1.Doanh thu thuần 1.015.276.265 1.000.000.000 2.557.411.286 1.500.000.000 2. Giá vốn hàng bán (837.223.319) (734.112.594) (1.891.098.700) (1.200.000.000) 3. Chi phí QLKD (633.452.586) (236.475.641) (162.866.415) (263.235.295) 4.Lợi nhuận trước thuế 15.186.531 29.411.765 32.860.000 36.764.705 5. Thuế TNDN (4.859.690) (9.411.765) (10.515.200) (11.764.705) 6.Lợi nhuận sau thuế 10.326.841 20.000.000 22.344.800 25.000.000 Biểu 5: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty TNHH Thương mại TBC Đơn vị: Đồng Nhìn vào bảng trên ta thấy, doanh thu của Công ty đã vượt kế hoạch đặt ra, tuy nhiên lợi nhuận của Công ty lại thấp hơn so với kế hoạch, do chi phí sản xuất kinh doanh vượt ra ngoài dự tính. Cụ thể: Doanh thu thuần thực hiện năm 2002 là 1.015.276.265 đồng, vượt qua kế hoạch thực hiện là 1.015.276.265 – 1.000.000.000 = 15.276.265 đồng, tương tự như vậy kế hoạch năm 2003 đạt 2.557.411.286 đồng vượt so với kế hoạch là 2.557.411.286- 1.500.000.000 = 1.057.411.286 đồng, thấy được kế hoạch về doanh thu của Công ty đã được thực hiện tốt. Tuy nhiên, việc tăng doanh thu so với kế hoạch vẫn không làm cho lợi nhuận của Công ty đạt được mức như mong muốn, do chi phí cho hoạt động kinh doanh của Công ty vượt ra ngoài kế hoạch quá lớn: năm 2002 chí phí thực tế là 1.470.675.905 đồng trong khi đó, theo kế hoạch chi tiêu, thì chi cho hoạt động kinh doanh của năm 2002 là 970.588.235 đồng , năm 2003 chi tiêu thực tế cho hoạt động kinh doanh là 2.053.965.115 đồng , trong khi đó, kế hoạch chi tiêu năm 2003 là 1.463.235.295 đồng. Việc chi phí cho hoạt động kinh doanh của Công ty vượt ra ngoài kế hoạch đã làm cho lợi nhuận của Công ty không đạt theo như kế hoạch đề ra, mặc dù doanh thu đã vượt kế hoạch Lợi nhuận năm 2002, thấp hơn so với kế hoạch đặt ra là 9.673.159 đồng, năm 2003 chỉ tiêu lợi nhuận kế hoạch đầu năm là 25.000.000 đồng, trong khi đó lợi nhuận thực tế của Công ty chỉ có 22.334.800 đồng, thấp hơn sơ với chỉ là 2.665.200 đồng. Như vậy, kế hoạch chung của Công ty đã không đạt như mong muốn qua hai năm, do đó, Công ty cần phải có sự xem xét lại kế hoạch đặt ra, xem việc lập kế hoạch đã sát với thực tế hay chưa. Đã tính toán đến sự biến động của môi trường xung quanh? Một nguyên nhân khác, khiến cho chi phí cho hoạt động kinh doanh của Công ty, việc tiêu hao các nguồn lực một cách không cần thiết trong quá trình kinh doanh, điều này đòi hỏi Công ty phải đưa ra những biện pháp khác để làm giảm các khoản chi này. Tuy nhiên ta thấy, qua hai năm thực hiện, kế hoạch về lợi nhuận của Công ty đều không đạt yêu cầu, điều này là một câu hỏi cho những kế hoạch đặt ra của Công ty. Việc lợi nhuận, qua hai năm chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch, nhưng vẫn tăng trưởng đều, cụ thể lợi nhuận năm 2002 là 10.326.841 đồng, lợi nhuậnáau thuế năm 2003 là 22.344.800 đồng, tức là tăng lên 12.017.959 đồng, tương đương với 116.23%, điều này được giải thích bởi sự tăng lên nhanh chóng của doanh thu, và chí phí quản lý doanh nghiệp có sự giảm đi phần nào, qua đây cũng thấy được sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của Công ty qua hai năm, tuy vậy việc lợi nhuận năm 2003 tăng lên so với năm 2002 nhìn về phía trực giác có thể kết luận, là hoạt động kinh doanh của Công ty có sự mở rộng, nhưng cũng không thể đi đến một kết luận là hiệu quả kinh doanh của năm 2003 cao hơn so với năm 2002, để đanh giá hiệu quả này, chúng ta phải sử dụng một loạt những phân tích khác nhau, như hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty như thế nào, doanh lợi vốn chủ sở hữu, doanh lợi tài sản,.. của năm 2003 có chắc lớn hơn năm 2002. Ta xem xét bảng sau: Biểu 6: Một số chỉ tiêu lợi nhuận thực hiện năm 2002, 2003 Đơn vị: phần trăm(%) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 1.Doanh lợi vốn chủ 0,516 1,12 2.Doanh lợi tài sản 0,483 0,673 3.Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm 1,017 0,8736 4. Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành 1,23 1,18 ( Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2003) Nhìn vào bảng trên ta thấy, hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu, hiệu quả sử dụng tài sản của năm 2003 cao hơn so với năm 2002, tuy nhiên doanh lợi tiêu thu sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận trên giá thành năm 2003 lại thấp hơn so với năm 2003. Lợi nhuận của Công ty qua hai năm có sự thay đổi cả về số lượng và chất lượng, vậy nhân tố nào ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty, nhìn vào Biểu 4, ta có thể nói ngay được rằng, lợi nhuận của Công ty năm 2003 cao hơn so với năm 2002 là do doanh thu của Công ty tăng, vậy nhân tố nào đã làm cho doanh thu của Công ty năm 2003 tăng lên so với năm 2002, nguyên nhân là do số lượng sản phẩm tiêu thụ ra thị trường của Công ty tăng, qua ba năm hoạt động, Công ty đã mở rộng được thị trường của mình ra hầu hết các tỉnh thành phố phía Bắc, khách hàng của Công ty tuy không đa dạng và phong phú như những lĩnh vực kinh doanh hàng hoá tiêu dùng, nhưng lại là những khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh, như viện 103, viện Giao thông vận tải,… hay các phòng khám tư nhân, các trung tâm y tế của các quận huyện,… Ta đã có công thức; Doanh thu thuần Giá vốn hàng bán Chi phí quản lý doanh nghiệp chi phí bán hàng LNTT = - - - Từ đây ta thấy, việc doanh thu tăng sẽ làm cho lợi nhuận tăng, vậy nhân tố nào làm ảnh hưởng đến doanh thu của Công ty, xét bảng sau Biểu 7: Mặt hàng tiêu thụ chính của Công ty TBC Chỉ tiêu Máy sensolite i = 1 Máy Glucocare i = 2 Năm 2002 Số lượng q (cái) 105 123 Giá bán p (đồng/cái) 850.000 667.000 Doanh thu DT(đồng) 89.250.000 82.041.000 Lợi nhuận (đồng) 26.250.000 24.600.000 Năm 2003 Số lượng q (cái) 96 217 Giá bán p (Đồng/cái) 895.000 663.000 Doanh thu DT (đồng) 85.920.000 143.871.000 Lợi nhuận (đồng) 24.000.000 43.400.000 Đây là một Công ty Thương mại nên mặt hàng bán ra của Công ty rất đa dạng và phong phú, để đơn giản cho việc tính toán, giả sử trong Công ty chỉ bán hai mặt hàng chính là máy Glucacare và máy Sensolite, viễc xem xét sự ảnh hưởng của giá bán và số lượng sản phẩm tiêu thụ đến doanh thu , dựa vào công thức sau: * Nhận xét về số tương đối: Trong đó: pi0, pi1 là giá bán của của mặt hàng i năm 2002, 2003, qi0, qi1 là giá bán của mặt hàng i năm 2002, năm 2003 với i = 1 là máy Sensolite, i=2 là máy Glucocare. * Về số tuyệt đối: Đối với từng mặt hàng, ta cũng có công thức: với i = 1 ta có: Về số tuyệt đối ta có: Như vậy, năm 2003 do giá bán máy sensolite tiêu thụ ra thì trường tăng lên 859.000 -850.000= 9.000 đồng, đã làm cho doanh thu về mặt hàng này tăng lên 5.3 % tương đương với 4.320.000 đồng, tuy nhiên do khối lượng sản phẩm tiêu thụ ra thị của mặt hàng này, năm 2003 giảm 9 cái so với năm 2002 nên đã làm cho doanh thu giảm đi 8,6% tương đương với việc giảm doanh thu đi 7.650.000 đồng. Ta thấy việc giá bán của sản phẩm này tăng lên, làm cho doanh thu tăng, nhưng lại tăng nên với tốc độ thấp, không đủ bù đắp cho việc giảm đi đáng kể số lượng bán sản phẩm. Kết quả là doanh thu năm 2003 của máy Sensolite đã giảm đi 3.330.000 đồng. Đối với máy Glucocare, việc phân tích diễn ra tượng tự: Về số tuyệt đối: Đối với loại máy Glucocare, năm 2003 giá của mặt hàng đã giảm đi 4000 đồng/cái đây chính là nguyên nhân làm cho doanh thu giảm đi 0,6% tương đương với 868.000 đồng, tuy nhiên năm 2003 sản lượng tiêu thụ mặt hàng này đã tăng thêm 94 cái (từ 123 cái năm 2002 lên đến 217 cái năm 2003), làm cho doanh thu về mặt hàng này tăng lên 76,42% tương đương với 62.698.000 đồng. Việc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ đã làm cho doanh thu tăng lên một giá trị lớn, như vậy doanh thu năm 2003 đã tăng lên 61.830.000 đồng mặc dù giá bán của sản phẩm có sự giảm xút. Tổng hợp doanh thu trong kỳ của Công ty bằng doanh của hai loại máy trên: Việc tăng doanh thu của máy Sensolite, máy Glucocare lần lượt lên 3.452.000 đồng và 55.048.000 đồng làm cho tổng doanh thu của công tăng lên 58.500.000 đồng. Qua phân tích trên ta thấy, sự biến động về giá bán và khối lượng hàng tiêu thụ, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu. Tuy nhiên trên thực tế, không chỉ có giá bán sản phẩm hay khối lượng hàng tiêu thụ làm cho doanh thu của Công ty thay đổi, việc thay đổi lại kết cấu tỷ trọng các mặt hàng cũng là nguyên nhân làm cho doanh thu của Công ty có sự biến động. Nếu tăng tỷ trọng mặt hàng có khối lượng tiêu thụ lớn, giảm tỷ trọng mặt hàng có khối lượng tiêu thụ nhỏ, hay những mặt hàng mà khả năng tiêu thụ thấp, thì làm cho tổng doanh thu tăng lên, mặc dù lợi nhuận tính trên từng đơn vị sản phẩm không hề thay đổi. Nhìn vào bảng trên ta thấy, việc tăng tỷ trọng máy Glucocare lên để tung ra thị trường cũng đã làm cho tổng doanh thu của Công ty tăng lên rất nhiều. Hay như chất lượng sản phẩm cũng ảnh hưởng doanh thu của công ty, chất lượng sản phẩm tốt, thì sẽ hạn chế việc hàng bán bị trả lại, hay phải giảm giá hàng bán do chất lượng sản phẩm không đáp ứng yêu cầu,.. . Chi phí cho hoạt động kinh doanh cũng ảnh lớn đến lợi nhuận của công ty, những nhân tố nào có ảnh hưởng đến chi phí hoạt động kinh doanh của công ty, sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận:, tại COong ty TNHH Thương mại TBC, có nhứng khoản muck chi phí sau đây: - Giá vốn hàng bán: trong công ty khoản mục này được tính là giá mua vào hàng hoá, cộng với chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho bốc xếp. Việc tính giá vốn hàng bán trong công ty khá dễ dàng và đơn giản - Chi phí quản lý - chi phí bán hàng gồm chi lương cho nhân viên, chi phí dịch vụ mua ngoài,chi cho hội chợ triển lãm và xúc tiến thương mại, .. và các hoản chi khác như TSCĐ Biểu 8: Chi phí cho hoạt động kinh doanh của Công ty TBC Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Đồng Tỷ trọng (%) Đồng Tỷ trọng (%) I.Giá vốn hàng bán 837.223.319 56,9 1.891.098.700 99,1 II. Chi phí quản lý doanh nghiệp 633.452.586 44,9 162.866.418 0,9 Tổng 1.470.675.905 100 1.907.385.348 100 ( Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2003) Trong hai năm 2002, 2003 chi phí của công ty có sự biến động lớn, giá vốn hàng bán năm 2003 tăng lên so với năm 2002 là 1.053.875.381 đồng, do năm 2003 công ty đã nhập khẩu nhiều lô hàng về với giá trị lớn, để đáp ứng nh cầu thị trường, một điều đáng mừng là chi phí về quản lý doanh nhiệp đã giảm xuống rất nhang giảm 663.452.586 : 162.866.418 = 4 lần, năm 2003 công ty mới thành lập, nên cần rất nhiều chi phí để hoàn thiện cơ sở hạ tầng của công ty, năm 2003 do hoạt động đã đi vào ổn định hơn, chi phí chính bây giờ là thanh toán tiền lương cho nhân viên và các dịch vụ mua ngoài, chi cho bán hàng,…ngoài ra công ty đã áp dụng rất nhiều biện pháp khác nhau đẻ có thể giảm thiểu chi phí này, như tiết kiệm điện nước, điện thoại, thay vì tập trung vào các hoạt động bán lẻ như năm 2002, năm 2003 công ty chủ yếu bán buôn, hoặc bán cho những khách hàng có giá trị mua lớn. Biểu 9: Cơ cáu chi phí quản lý doanh nghiệp trong công ty TBC Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Đồng Tỷ rọng(%) Đồng Tỷ trọng(%) 1.Chi lương 78.560.000 12,4 93.600.000 57,47 2.Chi phí bán hàng 52.186.021 6,47 38.564.325 23,68 3.Chi dịch vụ mua ngoài 19.423.254 3,07 20.352.084 12,51 4.Chi KHTSCĐ 4.017.000 2,47 6.349.000 3,9 5.Chi khác 479.266.311 75,66 4.001.009 2,46 Tổng 633.452.586 100 162.866.418 100 (Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2002, 2003 ) Năm 2002 các khoản chi phí khác của công ty gồm chi mua đồng dùng văn phòng, thuê cửa hàng,… Năm 2002 do công ty phải mua sắm rất nhiều trang thiết bị dùng cho văn phòng như, điện thoại, bàn ghế, và các vật dụng khác dùng trong văn phòng. Ngoài ra năm 2002, công ty còn thuê thêm một cửa hàng dùng để bán hàng, thế nên chi cho bán hàng, chi khác của công ty năm đó rất lớn, trong đó lớn nhất là các khoản chi khác chiếm 75,66% tỷ trọng chi phí quản lý doanh nghiệp của công ty, chi phí dịch vụ mua ngoài năm 2002 thấp chiếm 3,07% do hoạt động kinh doanh của công ty nói chung chưa có gì nhiều, các nghiệp vụ phát sinh còn ít. Sang năm 2003, công ty không còn thuê cửa hàng để bán hàng, nên khoản chi khác và chi phí bán hàng giảm đi rất nhanh, việc mua sắm vật dụng dùng cho văn phòng cũng đã hoàn tất, công ty chỉ phải chi các khoản chi thường xuyên, với giá trị nhỏ. Năm 2003 hoạt động kinh doanh của công ty đã mở rộng hơn nên chi lương là khoản chi lớn nhất, chiếm 57,47 % tổng khoản chi quản lý doanh nghiệp của Công ty. Trong công ty khấu hao tài sản cố định chiếm tỷ trọng rất nhỏ năm 2002 là 2,47% năm 2003 là 3,9 % do công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại nên đầu tư vào TSCĐ của công ty rất ít. Công ty tính KHTSCĐ theo phương pháp đường thẳng, và tính trong 5 năm. Như vậy, ta thấy chi phí quản lý của công ty khá thấp. Mức tăng giảm lợi nhuận = Mức tăng (giảm) khối lượng sản phẩm tiêu thụ + Thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ + Mức tăng (giảm) giá bán hàng + Mức giảm (tăng) giá vốn hàng bán + Mức giảm(tăng) thuế đơn vị + Mức giảm (tăng) chi phí quản lý Tổng hợp lại nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ta có: Trên đây là phân tích về thực trạng doanh thu và lợi nhuận của Công ty TBC, qua đấy ta thấy được tình hình tài chính của Công ty như thế nào Tại Công ty thương mại TBC ngoài hoạt động kinh doanh chính là buôn bán hàng hoá, Công ty không tham gia vào bất kỳ hình thức đầu tư tài chính nào, nên ngoài lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, Công ty chỉ có khoản lợi nhuận nhỏ thu từ hoạt động tiền gửi thanh toán tại NH. Trên đây là những con số được trích đọc từ báo cáo tài chính năm 2001, 2002, 2003 tuy nhiên, nó thực chất chỉ phản ánh phần nào hoạt động kinh doanh của Công ty bởi vì như người ta thường nói, đây là những con số đã được “biến hoá”. 2.2.3 Tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước năm 2003 Khi bắt đầu đi vào hoạt động, hoạt động kinh doanh của Công ty đã không được suôn sẻ, năm đầu tiên lợi nhuận của công ty là âm, tuy nhiên đến năm 2002, công ty đã làm ăn có lãi, góp phần đóng góp vào ngân sách nhà nước, 4.859.690 đồng tiền thuế thu nhập doanh nghiệp, đến năm 2003 khoản nộp thuế thu nhập vào ngân sách nhà nước của Công ty là 10.515.200 đồng, ngoài khoản đóng góp về thuế thu nhập doanh nghiệp công ty còn thu hộ nhà nước các khoản thuế khác như thuế giá trị gia tăng hàng nội địa, thuế giá trị gia tăng hàng nhập khầu, các khoản thuế nhập khẩu, .. tổng số thuế mà Công ty đã nộp cho Nhà nước năm 2003 (kể cả thuế TNDN) là 126.981.960 đồng, tuy nhiên, đến cuối năm 2003 Công ty vẫn còn khoản nợ đọng thuế là 54.906.923 đồng, số tiền này tuy không lớn, nhưng để lâu dài, Công ty sẽ bị phạt chậm nộp thuế, khoản lãi tiền phạt có thể sẽ khá lớn. Bảng sau đây, sẽ cung cấp khái quát tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của Công ty TNHH Thương mại TBC: Biểu 9. Tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách Nhà nước năm 2003 Đơn vị: Đồng Chỉ tiêu Số còn phải nộp năm trước chuyển sang Số phát sinh trong năm Số còn phải nộp cuối năm Số phải nộp Số đã nộp 1.Thuế GTGT hàng bán nội địa (101.210) 134.015.793 78.762.860 55.151.723 2. Thuế GTGT hàng nhập khẩu 3.887.000 22.419.000 26.306.000 0 3. Thuế xuất, nhập khẩu 5.878.000 5.878.000 0 4. Thuế thu nhập doanh nghiệp 10.515.200 10.760.000 (244.800) 5. Thuế môn bài 275.000 5.000.000 5.275.000 0 6.Các khoản khác 1.266.715 1.266.715 0 Tổng 4.060.790 177.827.993 126.981.860 54.906.923 2.3. Nhận xét về lợi nhuận của Công ty TNHH TBC Từ những phân tích trên đây, ta có thể đưa ra những nhận xét đánh giá về tinh hình thực hiện lợi nhuân của Công ty qua những năm đã qua như sau: 2.3.1 Kết quả đạt được - Hoạt động kinh doanh phát triển đi lên, doanh thu và lợi nhuận tăng đều qua những năm hoạt động, đặc biệt là doanh thu năm 2003 tăng lên rất nhanh với một giá trị lớn. - Chi phí quản lý năm 2003 giảm đi rất nhiều so với năm 2002, chứng tỏ Công ty đã đưa ra nhứng biện pháp tốt làm cho khoản chi này giảm đi, những biện pháp mà Công ty đã áp dụng như: tiết kiệm nguồn lực con người ví dụ như thay vì tuyển một số lượng lớn nhân viên bán hàng Công ty chỉ tuyển một số nhân viên thật sự có kinh nghiệm, năng động sáng tạo, đựơc trả với mức lương cao, những nhân viên này ngoài việc tìm kiếm khách hàng lớn, sẽ phụ trách đội ngũ cộng tác cộng tác viên với mức lương thấp, chi phí đào tạo không cao. Điều này sễ làm giảm gánh nặng về tiền lương cho Công ty, thêm vào đó cũng giảm đi chi phí khác như chi ăn trưa hay chi cho ngày lễ tết,… - Năm 2003 nhờ có sự điểu chỉnh cơ cấu mặt hàng, làm cho kết quả kinh doanh của Công ty có sự tiến bộ, thay vì nhập về số lượng lớn các chủng loại hàng hoá khác nhau, Công ty đã tập trung vào việc nhập về những mặt hàng dễ tiêu thụ, nhu cầu thị trường cần nhiều cụ thể như năm 2003 Công ty đã tập trung lớn nguồn tiền vào để nhập khẩu mặt hàng que thử nước tiểu U11, mặt hàng mà Công ty độc quyền cung cấp vào thị trường Việt Nam, và giảm những cung cấp những mặt hàng mà trên thị trường đã có những sản phẩm thay thế cùng loại như que thử HIV, hay một số mặt hàng khác. -Hoạt động kinh doanh của Công ty chứa đựng ít rủi ro về khả năng thanh toán, do tình hình tài chính khá ổn định. - Thị trường cung cấp hàng hoá và thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty ngày càng mở rộng, nhất là thị trường tiêu thụ, hàng hoá của Công ty đã có mặt ở hầu hết các tỉnh phía Bắc. Những kết quả đạt được trên đây là do Ban giám đốc Công ty ngày càng có nhiều kinh nghiệm thực tế, đội ngũ nhân viên trong Công ty đều là những người trẻ tuổi, năng động và có trình độ cao, hầu hết nhân viên trong công ty đều tốt nghiệp đại học. Với những phương châm kinh doanh hợp lý, Công ty đã tạo cho mình một uy tín tốt trên thị trường. Ngoài ra những kết quả đạt được trên đây, một phần cũng phải kể đến, môi trường chính trị luật pháp ổn định, những cơ chế chính sách thúc đẩy hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Hạn chế Hoạt động kinh doanh của Công ty đang trên đà phát triển, kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty được đánh giá tốt, tuy nhiên thực tế vẫn còn rất nhiều hạn chế: - Doanh thu tăng mạnh, tuy nhiên lợi nhuận tương đối tính trên doanh thu lại thấp hơn so với năm 2002. - Lợi nhuận đạt được qua các năm tuy tăng, nhưng so với thực tế nhu cầu thị trường, thì lợi nhuận thực tế của Công ty còn thấp. - Cơ cấu tài sản- nguồn vốn không hợp lý, vốn chủ sở hữu của Công ty chủ yếu để dưới dạng tiền mặt, làm hạn chế khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu - Thị trường tiêu thụ nhỏ hẹp, chưa phả ánh đúng thực tế nhu cầu thị trường về mặt hàng này, nhu cầu về mặt hàng thiêt bị y tế rất lớn do đây là loại hàng hoá hàm chứa công nghệ cao, thị trường cung cấp tại Việt Nam hầu như không có. - Chi phí quản lý của Công ty đã giảm nhưng thực tế nguồn lực của Công ty vẫn bị lãng phí nhất là chi phí quản lý doanh nghiệp. 2.3.2.2 Nguyên nhân Công ty vừa mới đi vào hoạt động được ba năm, nên những thời gian qua mới là sự tạo lập thị trường, khả năng về tài chính, kinh nghiệm thực tế, uy tín trên thị trường mới đang trong thời gian tạo lập. Hoạt động chính trong công ty là bán hàng ra thị trường, tuy nhiên hoạt động maketing bán hàng của Công ty lại rất hạn chế. Công ty chưa có kế hoạch kinh doanh cụ thể, mà hoạt động theo kiểu “ ném đá dò đường”, trong công ty việc nghiên cứu thị trường được thực hiện rất hời hợt. Giá cả hàng hoá bán ra, không được tính toán theo một trình tự hay một hương pháp nhất định, mà hàon toàn phụ thuộc vào những quyết định nhất thời của Ban giám đốc. Trong quá trình thực tập trong Công ty thấy một thực tế là mặc dù hoạt động kinh doanh của Công ty mang lại rất nhiều lợi nhuận, nhưng lại không được phân bổ hợp lý, nguồn lực tài chính bị phân tán do không có kế hoạch chi tiêu từ trước, công ty luôn trong tình trạng thiếu tiền mặt để thanh toán, hay để nhập hàng, nợ đọng thuế của Công ty khá lớn khiến cho các khoản lãi từ những khoản nợ đang trở thành gánh nặng. Hàng nhập về không kịp thời khiến cho khách hàng luôn phải trong tình trạng chờ đợi và thúc giục, việc này nếu tiếp diễn lâu dài, Công ty sẽ dần mất đi thị trường cũ và không có khả năng mở rộng thị trường mới. Chủng loại mặt hàng chưa thật sự đa dạng và phong phú. Các nguồn lực trong công ty chưa được sự dụng thật sự tiết kiệm. Ngoài những nguyên nhân trên đây, còn một số nguyên nhân khác khiến cho hoạt động kinh doanh của Công ty không được phát triển đúng hướng như, sự biến động về tỷ giá làm cho giá vốn hàng bán của Công ty tăng lên, khiến cho giá bán hàng hoá tăng theo, làm giảm cầu của thị trường, cơ chế quản lý của chúng ta còn khá rườm rà , khiến cho Công ty gặp không ít khó khăn, nhất là khâu nhận hàng từ cửa khẩu, làm cho Công ty tốn hông ít thời gian và tiền bạc. Những nguyên nhân trên đây được rút ra từ thực tế tại công ty TNHH Thương mại TBC, nếu không được giải quyết kịp thời, nó sẽ là lực cản cho sự phát triển đi lên của Công ty. Chương 3. Giải pháp tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại TBC. 3.1 Sự cần thiết khách quan Trong chương 2, ta thấy được thực trạng về lợi nhuận của Công ty TNHH Thương Mại TBC, mặc dù lợi nhuận của Công ty hàng năm tăng nên về số lượng, nhưng về chất thì không như vậy. Trong qua trình hoạt động, công ty gặp rất nhiều những thuận lợi, nhưng cũng có không ít khó khăn mặc dù ban giám đốc Công ty đã đưa ra nhiều giải pháp khác nhau để khắc phục những hạn chế còn tồn tại, tuy nhiên những biện pháp vẫn chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. Để khắc phục những hạn chế này, bài viết này đưa ra một số giải pháp sau: 3.2. Giải pháp tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương Mại TBC Trong Công ty TNHH TBC, hai hoạt động chính mang lại lợi nhuận cho Công ty đó là buôn bán mặt hàng thiết bị y tế, các loại hoá chất xét nghiệm, và cung cấp các dịch vụ sửa chữa máy móc, thiết bị y tế. Muốn tăng lợi nhuận của Công ty, việc đầu tiên là phải đưa ra các biện pháp làm tăng doanh thu trong việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ ra thị trường. 3.2.1. Tối ưu hoá doanh thu tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ nhằm tối đa hoá lợi nhuận của Công ty. Muôn tối ưu hoá doanh thu tiêu thụ sản phẩm, cần phải đư a ra những biện pháp để tung ra thị trường khối lượng hàng hoá cao nhất, với mức giá có lợi nhất cho công ty,…. * Tối đa hoá khối lượng háng hoá tiêu thụ ra thị trường Thị trường tiêu thụ hàng hoá máy móc thiết bị y tế có quy mô tất lớn : do mặt hàng này hàm chứa công nghệ cao, nên dễ bị hao mòn vô hình, khiến cho việc thay đổi thường xuyên máy móc là điều tất yếu. Ngày nay, cuộc sống con người ngày càng phát triển nên tất cả nhu cầu của người tiêu dụng trong đó cả nhu cầu về khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ tăng lên, mặt khác do ảnh hưởng của lối sống công nghiệp hiện đại, nhiều loại bệnh tật hiểm nghèo xuất hiện. Để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, có rất nhiều bệnh viện , các cơ sở khám chữa tư nhân xuất hiện, bên cạnh đó các bệnh viện, trung tâm y tế cũng không ngừng cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng trong khám chữa bệnh. Nhu cầu về mua mới trang thiết bị y tế của các cơ sở khám chữa bệnh là rất lớn, và một thị trường sản xuất các máy móc này tại Việt Nam lại hoàn toàn chưa phát triển, các mặt hàng này chủ yếu là được nhập ngoại, biến thị trường tiềm năng của công ty thành một thị trường có quy mô về cầu rất lớn. Như vậy, với quy mô thị trường lớn như vậy, việc tối đa hoá khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng cung cấp hàng hoá quan hệ với khách hàng của công ty. + Chất lượng hàng hoá cung cấp ra thị trường. Để đứng chân lâu được trên thị trường, công ty phải luôn giữ uy tín của mình, bằng cách cung cấp ra thị trường những mặt hàng có chất lượng tốt với những tính năng mới nhất mà đối thủ cạnh tranh chưa có. Muốn vậy, công ty phải luôn luôn có sự tìm hiểu về thị trường nhà cung cấp, việc tìm kiếm thông tin trên mạng Internet là giải pháp hữu hiệu. Ngoài ra, việc cung cấp các dịch vụ bảo hành, phí sau khi bán trong thời gian nhất định tạo nên sự yên tâm cho khách hàng của công ty. + Củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống, mở rộng mối quan hệ với khách hàng tiềm năng. Với những khách hàng truyền thống, công ty phải cung cấp hàng hoá cho họ một cách kịp thời đầy đủ không để họ phải trong tình trạng chờ đợi lâu. Có thể cho họ chậm trả nợ lâu hơn so với khách hàng. Nếu với những đơn hàng lớn, hoặc khi khách hàng thanh toán có thể giảm giá hoặc có chiết khấu. Với những viện và trung tâm y tế mà hàng hoá công ty chưa thâm nhập vào được, công ty nên có hợp đồng tặng máy hoặc bán với giá thấp nhất, để từ đó thể bán cho họ các loại vật tư tiêu hao đi kèm, bởi những mặt hàng này có nhu cầu thường xuyên. Ví dụ, công ty có thể tặng cho một viện mào đó một máy sét nghiệm sinh hoá, khi tặng được máy thì có thể bán cho họ những loại hoá chất hay que thử dùng cho loại máy này. Công ty thu hồi lại vốn qua việc bán các mặt hàng tiêu hao đó. Tuy nhiên việc làm này cần phải có sự tính toán hết sức kỹ lưỡng phải xem xét việc bán các hàng hoá tiêu hao có thể thu hồi được đủ vốn của máy đem tặng và có lãi hay không? Bởi vì giá trị của các loại máy móc này thường rất lớn. + Xây dựng kế hoạch Marketing bán hàng Vào đầu mỗi năm công ty nên tính tán kế hoạch bán hàng chung cho một năm. Đối với những khách hàng truyền thống, công ty hoàn toàn có thể dự trù được hàng hoá mà họ sẽ tiêu thụ. Từ đó mà tính toán được khối lượng hàng nhập về. Sau đó từng quý, từng tháng lập ra kế hoạch cụ thể dựa theo kế hoạch chung đó. Ví dụ kế hoạch về việc mở rộng thị trường tiêu thụ các loại hoá chất xét nghiệm cần cho nhân viên kinh doanh đến từng cơ sở khám chữa bệnh, thay vì trực tiếp chào bán mặt hàng này, khi hỏi về các loại thiết bị cần sử dụng mặt hàng muốn bán nếu các cơ sở này chưa có, thì có thể bán hoặc tặng cho họ loại máy đó, qua đó mới bán mặt hàng chính công ty cần tiêu thụ xúc tiến. Quảng bá hình ảnh công ty qua việc tham dự hội trợ triển lãm, người của nhân viên kinh doanh, in catalogue để phát cho các nhân viên. Do khả năng tài chính công ty có hạn, việc quảng cáo trên ti vi hay báo chí là khá tốn kém và không có hiệu quả tức thời. Hiện nay, việc mở rộng chi nhánh hay đại lý phân phối là quá sức đối với công ty, để tìm kiếm thị trường mới, công ty có thể mang hàng đến các cửa hàng cho ký gửi. Giá bán các mặt hàng cũng cần tính toán linh động, với các đơn hàng lớn nên có chính sách giảm giá hoặc chiết khấu. Với khách hàng thanh toán đúng hạn hoặc trước hạn, nên có hình thức khuyến mại hợp lý. Vào những dịp đặc biệt như kỷ niệm ngày thành lập công ty, hay ngày thày thuốc Việt Nam, công ty nên tổ chức đợt khuyến mại cho khách hàng * Xây dựng kết cấu chủng loại hàng hoá hợp lý. Nguồn vốn công ty thực tế là khá mỏng khi đầu tư vào lĩnh vực mặt hàng y tế. Vì vậy, công ty cần xây dựng một tỷ trọng hàng hoá hợp lý, các loại hoá chất xét nghiệm và các loại que thử bán thường có giá trị thấp, tiêu thụ lại nhanh và không tốn không gian lưu trữ, công ty có thể đầu tư nhiều vào mặt hàng này cố gắng xin được làm đại diện độc quyền cho các hãng cung cấp chúng. Còn với các loại máy móc thiết bị có giá trị lớn thì chỉ khi nào có đơn đặt hàng, mới nhập về. Trong các mặt hàng như hoá chất và que thử chỉ tập trung vào loại sản phẩm sử dụng cho các máy mà công ty đã tặng cho các viện. Việc xây dựng kết cấu chủng loại hàng hoá hợp lý là một việc không dễ dàng, tuy nhiên công ty bắt buộc phải xây dựng kết cấu hàng hoá trước khi nhập hàng về. * Xây dựng biểu giá hợp lý. Hàng hoá của công ty hầu hết là nhập khẩu nên giá cả sản phẩm do yếu tố khách quan quy định. Việc gía bán hoàn toàn phụ thuộc vào chi phí quản lý, chi phí bán hàng và lợi nhuận định mức tính trên một đơn vị sản phẩm. Việc áp các mức giá sẽ tuỳ thuộc vào từng đối tượng khách hàng. Công ty cần tính toán giá bán buôn, bán lẻ, giá bán cho khách hàng truyền thống, giá thâm nhập thị trường. Việc tính toán các mức giá này, phản ứng linh hoạt khi bán hàng. Giá bán buôn thì thường thấp hơn, do khối lượng bán lớn, có thể tiết kiệm chi phí bán hàng, chi phí vận chuyển Giá bán lẻ, để bán cho các phòng khám tại thị trường Hà Nội, giá bán lẻ thường rất cao, vừa để bù đắp chi phí, vừa để có lãi. Giá bán cho khách hàng truyền thống của công ty rất khó tính toán, công ty nên áp dụng khoảng giao động cho mức giá này, bởi khách hàng truyền thống của công ty là các viện, nguồn tài chính từ Ngân sách Nhà nước, nên họ rất chậm trả nợ, khiến công ty bị nợ vốn, trong khi khối lượng hàng mua lại rất lớn. Vì vậy, khi bán hàng cho họ, còn phải tính toán khoảng thời gian vốn bị nợ đọng. Nếu mua và thanh toán trước hạn thì có thể giảm gía hoặc chiết khấu, nếu nợ đọng lâu tì giá cao hơn (trong phần giá nên tính kèm theo khoản tiền lãi do vốn bị đọng thay vì áp dụng biện pháp phạt do trả chậm) Giá thâm nhập thị trường, đây là mức giá mà công ty không thu lãi, hoặc có thể nên chấp nhận lỗ, để có thể xâm nhập vào thì trường. việc bán hàng được với khối lượng hàng lớn, sẽ có doanh thu lớn hơn là bán hàng với giá bán cao và số lượng thấp. 3.2.2. Tối thiểu hoá chi phí * Tiết kiêm chi phí quản lý doanh nghiệp và dịch vụ mua ngoài Thực tế cho thấy, chi phí cho hoạt động kinh doanh của công ty còn khá lớn, mặc dù áp dụng các biện pháp khác nhau để cải thiện tình hình này. Tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp, hàng tháng công ty thường phải trả khoản tiền lớn cho điện thoại, nước, điện, chi phí khác như giấy tờ in, mực in và các vật dụng khác, tình hình sử dụng này khá tràn lan, nhân viên tranh thủ gọi điện thoại nhờ ngoài công việc, máy in, điện, quạt sử dụng như không có sự bảo quản, có khi ra về mà không tắt cả máy tính. Riêng chi cho tiền giấy in cũng chiếm khoản khá lớn, do các phòng dùng lãng phí, có khi tiện tay mang về nhà dùng. Chi phí này tuy chiếm không nhiều, nhưng về lâu dài thì đó lại là khoản chi không nhỏ. Vì vậy công ty cần chấn chỉnh lại công t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24057.DOC