Tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn ở Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng: Lời nói đầu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, vốn đều được xem là yếu tố không thể thiếu, là đòi hỏi đầu tiên bắt buộc phải có và đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp.
Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta hiện nay, nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát triển của các doanh nghiệp rất lớn. Do đó, đi tìm lời giải về vốn hay nói cách khác là các biện pháp nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực ngoại thương, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng đương nhiên không nằm ngoài xu thế này. Trong quá trình thực tập tại Công ty, được sự giúp đỡ và hướng dẫn rất nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn và các cô chú trong Công ty, em đã bước ...
70 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1094 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn ở Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, vốn đều được xem là yếu tố không thể thiếu, là đòi hỏi đầu tiên bắt buộc phải có và đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp.
Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta hiện nay, nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát triển của các doanh nghiệp rất lớn. Do đó, đi tìm lời giải về vốn hay nói cách khác là các biện pháp nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực ngoại thương, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng đương nhiên không nằm ngoài xu thế này. Trong quá trình thực tập tại Công ty, được sự giúp đỡ và hướng dẫn rất nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn và các cô chú trong Công ty, em đã bước đầu được làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vận dụng lý luận vào thực tiễn và từ thực tiễn làm sáng tỏ hơn những lý luận được nghiên cứu trong nhà trường. Qua đó, em đã chú trọng đi sâu nghiên cứu đề tài: Giải pháp tăng cường huy động vốn ở Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng - một trong những vấn đề, mà theo em, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường quốc tế.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương I. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II. Thực trạng huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Chương III. Giải pháp tăng cường huy vốn tại Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Bằng những kiến thức thu thập được trong thời gian học tập ở trường và những kiến thức có được qua học hỏi thầy cô, bạn bè, các cô chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn em đã hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn cô, các cô các chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng, các thầy cô giáo trong khoa và bạn bè đã giúp đỡ em trong thời gian vừa qua.
Chương I
Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường
1.1. Sự cần thiết phảI huy động vốn đối với
doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn được đầu tư vào sản xuất kinh doanh với mục đích cơ bản là tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu. Vậy vốn là gì ?
Trong thực tế đã có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về vốn của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường vốn của doanh nghiệp được coi là toàn bộ giá trị được ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo, tức là không tham gia vào một quá trình sản xuất riêng biệt nào mà trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ lúc mới hình thành đến lúc kết thúc.
Vốn trong doanh nghiệp được thể hiện dưới dạng giá trị tiền tệ và đồng thời đại diện cho một giá trị tài sản nhất định. Thông thường, người ta hiểu vốn là tiền thuần tuý, tuy nhiên cần phải phân biệt vốn và tiền. Muốn có vốn thì phải có tiền song có tiền cũng chưa hẳn là có vốn. Tiền được gọi là vốn chỉ khi nó thoả mãn những điều kiện sau:
- Tiền phải được đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, tức là nó phải được bảo đảm bằng một lượng tài sản có thực.
- Tiền phải được tích tụ và tập trung một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung một lượng tiền là để làm cho nó có đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh, cho dù là một dự án nhỏ.
- Khi đã có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lợi. Cách vận động và phương thức vận động của tiền tệ là khác nhau tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong quá trình vận động đó, tiền có thể thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, điểm xuất phát ban đầu và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị- là tiền. Ta có thể chứng minh điều này qua mô hình vận động của vốn tiền tệ trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau sau:
Đối với doanh nghiệp sản xuất, mô hình vận động của tiền là:
TLLĐ
T --- H ….….. SX …….. H’………T’
ĐTLĐ
Đối với doanh nghiệp thương mại ta có mô hình: T---- H ---- T’
Trong doanh nghiệp tiền tệ mô hình vận động đơn giản hơn cả: T---- T’
Kết thúc một chu kỳ vận động, dù là ở doanh nghiệp nào, đồng tiền cũng phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn giá trị ban đầu của nó (T’>T). Điều này thể hiện khả năng sinh lợi của vốn tiền tệ - đây vừa là mục đích sản xuất kinh doanh vừa là phương tiện để vốn được bảo tồn và tăng trưởng, tiếp tục vận động ở chu kỳ sau.
Như vậy, vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng phải là tiền được vận động với mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do vậy, bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào, dù ở bất cứ cấp độ nào doanh nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có một lượng vốn nhất định. Đối với doanh nghiệp, vốn là điều kiện tiên quyết, là điểm xuất phát được ứng ra để chuyển hoá thành các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn phải có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh, sau đó được sử dụng vào kinh doanh, và sau một chu kỳ hoạt động, nó phải được thu về để tiếp ứng cho chu kỳ hoạt động sau. Vốn của doanh nghiệp không thể bị mất đi, vì đồng nghĩa với mất vốn là nguy cơ phá sản.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, mọi hoạt động từ việc xác định mục tiêu cho đầu tư dài hạn, tìm nguồn tài trợ cho đến việc đưa ra các quyết định tài chính ngắn hạn - tức là ba vấn đề quan trọng đầu tiên của doanh nghiệp, đều gắn liền tới các hoạt động có liên quan đến vốn. Như vậy rõ ràng, vốn là bộ phận không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và do đó việc huy động, đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc huy động đủ vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục từ khâu mua sắm vật tư, sản xuất, cho đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có được các bí quyết, các công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, hạ giá thành sản phẩm… Để thực hiện được điều này, doanh nghiệp cần phải có vốn để hoạt động và đầu tư.
Huy động vốn có ý nghĩa quyết định đến quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là trong thời đại bùng nổ khoa học và công nghệ như ngày nay thì nhu cầu vốn lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết và có xu thế tăng không ngừng. Nó giúp doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế trong cạnh tranh.
Huy động vốn còn ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động hay việc đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, khi muốn tham gia kinh doanh vào một lĩnh vực mới nào, doanh nghiệp cũng phải có một lượng tiền lớn cho việc đầu tư máy móc sản xuất, dây chuyền công nghệ, xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm… Nếu không có khả năng tài chính mạnh doanh nghiệp khó có thể thực hiện được hoạt động này dù là ngay ở những bước đầu tiên như phân tích thị trường, xây dựng phương án kinh doanh…
Cuối cùng, việc đảm bảo nguồn vốn kinh doanh còn giúp doanh nghiệp chống đỡ được những tổn thất, rủi ro trong quá trình hoạt động, đặc biệt là những lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro như ngân hàng.
Như vậy, có thể thấy, huy động vốn là hoạt động có ý nghĩa đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn nền kinh tế trong những năm qua cũng cho thấy doanh nghiệp nào có lượng vốn càng lớn thì càng có thế chủ động trong kinh doanh và có thể thắng được trong cạnh tranh. Ngược lại doanh nghiệp nào thiếu vốn kinh doanh, không có chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh mất vai trò của mình trên thị trường, mất bạn hàng thường xuyên ổn định, không tạo ra sức mạnh và hiệu quả tổng hợp trong kinh doanh.
Tuy nhiên, đối với mỗi doanh nghiệp, để có được lượng vốn mong muốn không phải là điều đơn giản và trong quá trình xây dựng kế hoạch tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải cân nhắc xem sẽ huy động vốn từ những nguồn nào, với chi phí tương ứng là bao nhiêu… để có được cơ cấu vốn hợp lý nhất?
1.2. Các phương thức huy động vốn của
doanh nghiệp
Chúng ta đều đã thấy rằng vốn là điều kiện không thể thiếu đối với một doanh nghiệp. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể như: ngành nghề kinh doanh, quy mô, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật, chiến lược phát triển… mà mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp ngày càng được đa dạng hoá, giải phóng các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, thúc đẩy sự hút vốn vào các doanh nghiệp. Sau đây là các nguồn vốn và các phương thức huy động vốn mà các doanh nghiệp có thể sử dụng.
1.2.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp.
Vốn của một doanh nghiệp là cơ sở vật chất cho hoạt động của doanh nghiệp. Có thể nói sự tồn tại và độ tin cậy của một doanh nghiệp trước đối tác phụ thuộc vào cấu trúc vốn và tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Trong đó, cấu trúc vốn thể hiện tỷ trọng các nguồn vốn huy động trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Thông thường vốn, của một doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn sau:
1.2.1.1. Căn cứ vào thời gian luân chuyển: ta có thể phân chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn.
Thông thường những nguồn vốn có thời hạn hoàn trả từ 1 năm trở nên gọi là nguồn dài hạn còn những nguồn vốn có thời hạn hoàn trả dưới một năm gọi là nguồn ngắn hạn. Trong nguồn dài hạn người ta còn phân ra nguồn dài hạn với thời gian hoàn trả từ ba năm trở nên (có nơi tính từ 5 năm) và nguồn trung hạn (từ 1 năm đến 3 năm). Tuy nhiên tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại thực tế không giống nhau giữa các nước, ngay cả các ngân hàng cũng có thể phân loại khác nhau.
1.2.1.2. Xét trên góc độ quyền sở hữu đối với các khoản vốn: ta có vốn chủ sở hữu và nợ.
Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn của chính chủ doanh nghiệp, được hình thành từ vốn góp ban đầu cho việc thành lập doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn bổ sung trong quá trình kinh doanh (lợi nhuận để lại, thu từ nhượng bán tài sản…), chênh lệch đánh giá lại tài sản, các quỹ của doanh nghiệp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản…
Vốn vay là các nguồn vốn hình thành từ việc đi vay từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, phát hành trái phiếu, vay doanh nghiệp khác, sử dụng tín dụng thương mại…
Đây là cách phân loại được sử dụng phổ biến hơn các hình thức khác bởi nó giúp các doanh nghiệp nắm được tình hình tài chính của mình dựa trên việc so sánh phần vốn chủ sở hữu với phần được tài trợ từ các chủ nợ, đồng thời xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp trong việc thanh toán nợ vay. Trên cơ sở đó, chủ doanh nghiệp có thể xác định được cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể.
Ngoài ra người ta còn có thể phân loại nguồn vốn của doanh nghiệp theo đặc tính thường xuyên (nguồn tài trợ thường xuyên) và tính tạm thời (nguồn tài trợ tạm thời) song hình thức này không phổ biến bằng hai hình thức trên.
1.2.2. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp.
Trên cơ sở các nguồn vốn trên, doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có thể sử dụng các phương thức huy động chủ yếu sau.
1.2.2.1. Huy động vốn chủ sở hữu.
Khi một doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là nguồn tài trợ có độ an toàn cao nhất đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời nó là tiêu thức để các chủ nợ thể hiện mức độ tin tưởng và sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yếu sẽ do các chủ nợ gánh chịu. Như vậy, nguồn vốn chủ sở hữu cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn từ nợ vay của doanh nghiệp.
Các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì vốn chủ sở hữu có nguồn gốc khác nhau:
Đối với doanh nghiệp Nhà nước (Nhà nước là chủ sở hữu) vốn đầu tư ban đầu là vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước.
Trong doanh nghiệp tư nhân, vốn đầu tư ban đầu là vốn của chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp bắt buộc phải có khi thành lập doanh nghiệp, gọi là vốn pháp định. Tùy từng ngành nghề kinh doanh mà Nhà nước quy định một mức vốn riêng. Chẳng hạn, theo điều 9 khoản 2 Luật doanh nghiệp Tư nhân (1994) quy định: “ Có đủ vốn đầu tư ban đầu phù hợp với quy mô và ngành nghề kinh doanh. Vốn đầu tư ban đầu không được thấp hơn vốn pháp định do Chính phủ quy định ”.
Đối với Công ty cổ phần, nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình thức vốn cổ phần, vốn này do những người sáng lập công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán những cổ phiếu đó.
Đối với doanh nghiệp liên doanh: vốn đầu tư ban đầu được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành một doanh nghiệp mới.
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư ban đầu, doanh nghiệp có thể bổ sung nguồn vốn của mình bằng một số phương thức sau:
- Huy động nội bộ: Theo phương thức này doanh nghiệp sẽ tăng nguồn vốn của mình bằng cách trích một phần lợi nhuận thu được trong năm vào quỹ đầu tư phát triển. Để làm được điều này, trước tiên doanh nghiệp phải làm ăn có lãi. Sau đó, doanh nghiệp có thể giảm tỷ lệ trích lập các quỹ dự phòng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi hoặc thay đổi chính sách phân chia lợi nhuận cho các cổ đông (đối với công ty cổ phần). Đây là một phương thức huy động vốn quan trọng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện có đạt hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào lợi nhuận thu được và hiệu qủa của việc tái đầu tư.
- Phát hành thêm cổ phiếu mới (đối với công ty cổ phần): là một phương thức huy động có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh của công ty cổ phần. Cổ phiếu là chứng khoán vốn và người nắm giữ cổ phiếu chính là người sở hữu công ty. Tuỳ theo đặc điểm riêng mà các công ty có thể lựa chọn phát hành một trong hai hoặc cả hai loại cổ phiếu cơ bản sau:
* Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì đặc điểm của nó đáp ứng được cả hai phía là người đầu tư và phía công ty phát hành. Phần lợi tức mà cổ đông nhận được từ việc sở hữu loại cổ phiếu này phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty trong từng năm. Các cổ đông có quyền tham gia vào kiểm soát và điều khiển mọi hoạt động của công ty thông qua việc bỏ phiếu hoặc chỉ định thành viên ban quản trị. Tuy nhiên, huy động vốn theo phương thức này phải xét đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải xét đến tỷ lệ cố phần tối thiểu mà mỗi cổ đông được phép nắm giữ để duy trì tỷ lệ cân đối về sở hữu công ty.
* Cổ phiếu ưu tiên: là loại cổ phiếu thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu tiên khác với cổ phiếu thường ở chỗ người chủ cổ phiếu này được hưởng một tỷ lệ cổ tức cố định và được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Tuy nhiên, những cổ đông này lại không có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của công ty.
Số lượng cổ phiếu phát hành thêm được xác định không chỉ dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của công ty mà còn phụ thuộc vào số cổ phiếu tối đa công ty được phép phát hành và số cổ phiếu đã phát hành trên thị trường. Bên cạnh đó còn phải xem xét các nhân tố khác đặc biệt là “nhiệt độ” trên thị trường chứng khoán.
1.2.2.2. Huy động vốn từ Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào có thể hoạt động mà không vay vốn ngân hàng. Việc huy động vốn bằng hình thức này giúp doanh nghiệp tăng khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ khi đến hạn và giảm số lượng vốn vay.
Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng cho nhu cầu vốn cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, song phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác như phải có phương án kinh doanh khả thi, phải là đơn vị hạch toán độc lập… và các yêu cầu về tài sản thế chấp, cầm cố… Trên cơ sở các điều kiện xin vay được thực hiện đầy đủ, ngân hàng sẽ cấp vốn cho doanh nghiệp dưới các hình thức chủ yếu sau:
- Tín dụng hạn mức là một hình thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp được phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai. Chỉ khi nào doanh nghiệp sử dụng mới được coi là tín dụng cấp phát và mới được tính lãi.
- Chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng ngắn hạn, trong đó doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. Doanh nghiệp sử dụng hình thức vay vốn này khi có nhu cầu tiền ngay mà không phải đợi đến ngày đáo hạn của thương phiếu. Tuy nhiên việc vay được có thuận lợi hay không còn phụ thuộc vào chất lượng của thương phiếu nên phương thức này không phải lúc nào cũng hiệu quả.
- Factoring mua nợ (Bao thuê) là một dịch vụ do công ty con của ngân hàng thực hiện, là nghiệp vụ đi mua lại các yêu cầu chi trả của doanh nghiệp để rồi sau đó nhận các khoản chi trả của yêu cầu đó. Thông thường các yêu cầu chi trả ở đây là ngắn hạn. Các công ty mua nợ sẽ chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi, thu hồi và chịu rủi ro về các khoản chi trả của các yêu cầu chi trả đó.
Ngoài các hình thức trên, ngân hàng còn cấp vốn cho doanh nghiệp theo các hình thức khác như: tín dụng ứng trước, tín dụng bằng chữ ký…
Riêng trên lĩnh vực xuất nhập khẩu, ngân hàng thực hiện tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu sau:
- Tài trợ vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng. Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng, thông thường được áp dụng trong trường hợp Ngân hàng tài trợ vừa là Ngân hàng thanh toán cho L/C xuất. Nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ và được thanh toán tại ngân hàng. Để giám sát và kiểm tra chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay đúng mục đích, thông thường Ngân hàng yêu cầu nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất định cộng thêm với số tiền vay ngân hàng, để thu mua hàng hoá, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để tiếp tục vay và được nhập tại kho ngân hàng, hoặc nhập kho mà trước đó ngân hàng và nhà xuất khẩu thoả thuận và đồng ý dưới sự giám sát của ngân hàng, muốn xuất hàng ra khỏi kho phải có sự đồng ý của ngân hàng.
- Tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất khẩu. Từ lúc giao hàng, nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C cho đến khi được ghi có trên tài khoản phải trải qua một khoảng thời gian nhất định để xử lý và luân chuyển chứng từ. Nhà xuất khẩu cần tiền có thể thương lượng bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng trước tiền tại nhân hàng đã được chỉ định rõ trong L/C hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào.. Có hai hình thức chiết khấu là chiết khấu truy đòi (ngân hàng sau khi thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu có quyền truy đòi nếu bộ chứng từ không được thanh toán) và chiết khấu miễn truy đòi (ngân hàng sau khi thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu không có quyền truy đòi nếu bộ chứng từ không được thanh toán). Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ những điều kiện chiết khấu thì nhà xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước tiền hàng, khoảng 50%-60% giá trị hàng xuất. Hình thức tài trợ này được tiến hành sau khi giao hàng.
- Hình thức mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu. Hình thức này thể hiện sự tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu. Trong hình thức này các nhà nhập khẩu phải ký quỹ. Mức ký quỹ sẽ do ngân hàng quyết định trên cơ sở thẩm định các điều kiện về tài chính của doanh nghiệp, tư cách pháp nhân của mặt hàng nhập khẩu, tài sản thế chấp….
- Cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập. Đối với nhà nhập khẩu khi hàng vừa cập bến phải nộp tiền cho ngân hàng để thanh toán cho nhà xuất khẩu, thì mới nhận được chứng từ để nhận hàng, bán hàng và thu hồi vốn. Đó là khoảng thời gian khá dài, do đó nhà nhập khẩu cần có sự tài trợ từ ngân hàng. Căn cứ vào các yếu tố như đảm bảo tín dụng, mức tài trợ, khả năng thu hồi nợ đúng hạn… ngân hàng sẽ quyết định tỷ lệ tài trợ cho lô hàng nhập. Ví dụ như nếu ký quỹ trị giá 20% giá trị lô hàng thì ngân hàng chấp thuận tài trợ 60%, lúc này nhà nhập khẩu phải đóng thêm 20% giá trị lô hàng.
Ngoài ra, ngân hàng còn cấp vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thông qua các hình thức bảo lãnh và tái bảo lãnh như: bảo lãnh vay vốn bằng cách phát hành thư bảo lãnh, bảo lãnh bằng cách phát hành L/C trả chậm…
Nói chung, hiện nay, các hình thức tài trợ vốn cho doanh nghiệp được các ngân hàng sử dụng ngày càng phong phú nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, nguồn vốn vay ngân hàng có đặc điểm là tương đối nhỏ, thời gian ngắn, thủ tục phức tạp, điều kiện vay chặt chẽ… nên vẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn vay vốn. Do đó thông thường khi thiếu vốn các doanh nghiệp thường nghĩ đến nguồn vốn tự có trước khi nghĩ đến ngân hàng.
1.2.2.3. Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu công ty.
Như đã nói ở trên, nguồn vốn vay ngân hàng mặc dù rất linh hoạt song chỉ đáp ứng nhu cầu kinh doanh trong ngắn hạn. Để khắc phục nhược điểm này doanh nghiệp có thể sử dụng phương thức huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu công ty.
Trái phiếu công ty là công cụ nợ dài hạn được một doanh nghiệp phát hành để huy động vốn của các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Thời hạn của trái phiếu công ty được xác định từ ngày phát hành đến ngày thanh toán lại cho người mua. Khi huy động vốn bằng phương thức này, doanh ngiệp phải chịu trách nhiệm về số vốn đã được huy động như một khoản nợ và phải trả lãi vay theo một tỷ lệ nhất định.
Phương thức huy động vốn này chỉ đạt được hiệu quả khi doanh nghiệp lựa chọn được loại hình trái phiếu phù hợp. Do đó, trước khi quyết định phát hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào khả năng tài chính của mình, tình hình cụ thể của thị trường tài chính, cũng như cách thức trả lãi, chi phí trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu đó. Nói chung, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong những loại trái phiếu khác nhau dưới đây:
- Trái phiếu có lãi suất cố định: đây là loại trái phiếu được sử dụng phổ biến nhất trong các loại trái phiếu công ty. Lãi suất của trái phiếu được xác định ngay khi phát hành trái phiếu và có giá trị thực hiện cho đến khi tới hạn thanh toán. Việc xác định lãi suất trái phiếu được đặt ra trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với các trái phiếu của các công ty khác.
- Trái phiếu có lãi suất thả nổi: loại trái phiếu này có lãi suất biến động theo sự biến động của thị trường vốn. Trong điều kiện nền kinh tế có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định thì các doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên vệc quản lý loại trái phiếu này gặp một số khó khăn do công ty không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay và phải tốn thời gian cho việc thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
- Trái phiếu có thể thu hồi: loại trái phiếu này cho phép công ty có thể đIều chỉnh lượng vốn sử dụng bằng cách mua lại các trái phiếu đã phát hành vào một thời gian nào đó trước ngày đáo hạn của trái phiếu. Loại trái phiếu này phải được quy định công khai ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Thời hạn và giá cả khi chuộc lại cũng phải được quy định rõ ngay từ lúc phát hành. Thông thường, người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi, ví dụ trong thời gian 36 tháng.
- Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành một lượng nhất định các cổ phiếu thường. Việc huy động vốn bằng hình thức này có ưu điểm là công ty có thể gắn bó người mua trái phiếu một cách lâu dài và đến một thời gian thích hợp họ có thể mua cổ phiếu để trở thành cổ đông của công ty. Hơn nữa, do hấp dẫn hơn, hình thức này có thể huy động được nguồn vốn có chi phí thấp hơn các hình thức khác đồng thời đa dạng hoá các công cụ huy động vốn.
Ngoài các trái phiếu chủ yếu trên, công ty còn có thể lựa chọn một số loại khác như trái phiếu có bảo đảm (là trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản của công ty) hoặc trái phiếu không có bảo đảm (là loại trái phiếu không được bảo đảm bằng một loại tài sản cụ thể nào)…
Nói chung, huy động vốn cách phát hành trái phiếu công ty có ưu điểm là tiết kiệm được chi phí đầu tư; kiềm chế được lạm phát (do không làm tăng lượng tiền cung ứng cho lưu thông, chỉ nhằm sử dụng có hiệu quả hơn lượng tiền sẵn có trong lưu thông); chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn có sẵn và tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Nếu tận dụng được những ưu điểm này thì đây sẽ là phương thức tối ưu và khả thi cho giải pháp về vốn dài hạn của từng doanh nghiệp trong nước, đồng thời có lợi cho tổng thể nền kinh tế nước nhà.
1.2.2.4. Huy động vốn thông qua tín dụng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có thể tăng nguồn vốn của mình bằng cách khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng nhà cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp.
Tín dụng thương mại xuất hiện trên cơ sở sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua hoặc bán sản phẩm, do vậy xảy ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng muốn bán, trong lúc đó có một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trong điều kiện này nhà doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hiện được sản phẩm của mình, họ có thể bán chịu hàng hoá cho người mua. Ngược lại với tư cách người mua, doanh nghiệp có thể mua chịu hàng hoá.
Tín dụng thương mại là một hình thức huy động rất được các doanh nghiệp ưa dùng bởi tính tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh. Mặc khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế. Chi phí của việc sử dụng hình thức tín dụng này thể hiện qua lãi vay được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Trong mua bán hàng hoá trả chậm chi phí này có thể ẩn dưới hình thức nâng giá cao hơn so với bình thường để bao hàm luôn lãi suất tín dụng trong đó. Qui mô của khoản tín dụng này phụ thuộc vào thời hạn mua chịu, tình trạng tài chính người bán, tình trạng tài chính người mua và giảm giá hàng.
Có rất nhiều công cụ được sử dụng trong hình thức tín dụng này. Thông thường, khi mua bán hàng hoá người ta thường sử dụng hoá đơn; hoá đơn sẽ được gửi cùng với hàng chuyên chở cho người mua. Khi người mua đã nhận đủ hàng và ký vào hoá đơn thì lúc này hoá đơn đã có giá trị pháp lý về việc người mua nợ tiền của người bán và các thủ tục sau đó chỉ còn là việc chuyển tiền từ tài khoản của người mua sang tài khoản của người bán theo thời gian thoả thuận giữu hai bên.
Một công cụ tín dụng thương mại khác được sử dụng rộng rãi trên thương trường là thương phiếu. Thương phiếu là sự cam kết tín dụng của người mua trước khi hàng hoá được chuyển đến. Trong thương phiếu, người bán ghi rõ số tiền và hạn trả tiền mà người mua phải thực hiện. Sau đó, thương phiếu được gửi đến ngân hàng của người mua cùng với các hoá đơn chứng từ về việc đã chuyển hàng cho người mua. Có hai loại thương phiếu cơ bản là thương phiếu trả ngay (người bán yêu cầu bên mua trả tiền ngay) và thương phiếu có thời hạn (người bán không yêu cầu người mua trả tiền ngay). Khi thương phiếu đã được người mua hứa trả tiền vào một ngày nào đó trong tương lai thì nó được gọi là chấp nhận thương mại. Người mua sẽ gửi chấp nhận thương mại lại cho người bán. Người bán có thể giữ chấp nhận thương mại để đợi đến ngày lấy tiền hoặc cũng có thể bán nó cho một người khác hoặc đến chiết khấu ở ngân hàng thương mại trong những trường hợp cần thiết.
Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng hợp đồng bán hàng có điều kiện như là một công cụ tín dụng thương mại. Hợp đồng này đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì quyền sở hữu hợp pháp hàng hoá của mình cho đến khi người mua trả hết tiền. Các hợp đồng bán hàng hoá có điều kiện thường được trả làm nhiều lần và mỗi lần đều có một chi phí lãi suất tương ứng trong mỗi lần chi trả.
Huy động vốn qua hình thức tín dụng thuê mua.
Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng trung và dài hạn, được thực hiện thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, các động sản và bất động sản khác.
Theo hình thức này, người cho thuê (chủ sở hữu tài sản) sẽ chuyển giao tài sản cho người đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất định (thời gian này được ghi trong hợp đồng). Để đổi lại, người đi thuê phải trả cho cho chủ sở hữu một khoản tiền thuê tưng xứng với quyền sử dụng.Trong quá trình thuê, người đi thuê nhận lấy gần như toàn bộ trách nhiệm về quyền sở hữu bao gồm việc bảo quản tài sản, chi trả tất cả các khoản thuế và bảo hiểm tài sản. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo những điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng.
Trong trường hợp người thuê không có ý định mua lại tài sản sau thời gian thuê và chỉ sử dụng tài sản đó trong một thời hạn đã định, thời gian thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài sản. Người đi thuê chỉ phải trả một khoản tiền thuê theo thoả thuận còn người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo hiểm, thuế tài sản… cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản. Hình thức này hoàn toàn phù hợp với những hoạt động mang tính chất thời vụ của doanh nghiệp.
Còn đối với trường hợp người thuê mua lại tài sản đã thuê, thời gian thuê thường rất dài và chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản. Hết giai đoạn thuê thoả thuận trong hợp đồng, người cho thuê thường uỷ qyuền cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Nếu người thuê quản lý, sử dụng tài sản tốt thì giá trị thực tế của tài sản có thể lớn hơn nhiều so với giá trị còn lại của tài sản dự kiến trong hợp đồng. Họ có thể mua lại hoặc có thể bán được với giá cao hơn để hưởng phần chênh lệch.
Hình thức này tuy không trực tiếp cấp vốn cho các doanh nghiệp nhưng đã gián tiếp trợ giúp doanh nghiệp về mặt tài chính để các doanh nghiệp trang bị máy móc thiết bị đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đây là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn rất mới mẻ đối với nước ta, do đó việc nhanh chóng triển khai các điều kiện về pháp lý, hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thuê mua, xác lập và mở rộng đối tượng tài sản thuê mua, khách hàng thuê mua… là việc làm cần thiết nhằm tăng cường nguồn tài trợ cho các doanh nghiệp hiện nay.
1.2.2.6. Huy động vốn từ việc liên doanh liên kết.
Khi muốn thực hiện một dự án nào đó mà không có đủ vốn hoặc không muốn bỏ toàn bộ vốn vào đó, doanh nghiệp có thể kêu gọi vốn liên doanh từ bên ngoài. Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp có thể chọn một trong hai hình thức liên doanh sau đây:
- Cùng đối tác thành lập một pháp nhân kinh doanh mà vốn thành lập là số vốn góp của mỗi bên. Các bên góp vốn liên doanh có thể dùng một phần tài sản hoặc toàn bộ tài sản của mình để góp vốn.
- Các bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, không hình thành một pháp nhân mà trách nhiệm và quyền hạn của các bên chỉ giới hạn trong hợp đồng đã ký kết.
Đối với cả hai hình thức trên, các bên tham gia liên doanh được chia lãi hoặc chịu lỗ nhiều hay ít phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Các bên liên doanh còn có quyền rút vốn của mình và trong nhiều trường hợp có thể làm liên doanh tan rã.
Doanh nghiệp có thể liên doanh với các loại hình doanh nghiệp khác nhau như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân hoặc với các công ty nước ngoài… Với hình thức này, doanh nghiệp không chỉ huy động đủ vốn cho hoạt động kinh doanh của mình mà còn thu hút được công nghệ mới hoặc kinh nghiệm của đối tác, đồng thời chia sẻ được rủi ro trong kinh doanh, song nếu doanh nghiệp quá yếu kém thì rất dễ bị lợi dụng và thiệt hại khi dự án đổ vỡ.
Huy động vốn từ một số nguồn khác.
Trong hoạt động thực tế, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp, gồm các khoản phải nộp và phải trả cho công nhân viên. Nguồn vốn này tuy không lớn nhưng trong nhiều trường hợp nó giúp doanh nghiệp giải quyết được những nhu cầu vốn có tính có tính chất tạm thời.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể tận dụng các nguồn vốn nhàn rỗi khác như các khoản phải nộp cho nhà nước nhưng chưa nộp, các khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ nhưng chưa trả, các khoản chi phí trích trước… Các nguồn này sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn của doanh nghiệp, tuy nhiên nó chỉ trong thời gian ngắn và không ổn định. Do đó các doanh nghiệp thường chỉ coi nguồn vốn này như một nguồn mang tính chất bổ sung chứ không phải là một trong những nguồn tài trợ chính.
Trên đây là những hình thức cơ bản mà các doanh nghiệp có thể sử dụng để huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuỳ thuộc vào các đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn một hình thức huy động riêng. Tuy nhiên dù có lựa chọn hình thức nào, doanh nghiệp cũng phải xem xét các nhân tố có thể gây ảnh hưởng đến quá trình huy động để có thể hạn chế được những tác động tiêu cực đồng thời tận dụng được những ưu thế mà chúng tạo ra. Phần tiếp theo sẽ trình bày về những nhân tố này.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố, cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan.
1.3.1. Nhân tố chủ quan.
1.3.1.1. Chi phí vốn, cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Vốn là nhân tố cần thiết của sản xuất. Cũng như bất kỳ một nhân tố nào khác, để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần phải bỏ ra một chi phí nhất định. Chi phí của mỗi nhân tố cấu thành gọi là chi phí nhân tố cấu thành của loại vốn cụ thể đó.
Chi phí vốn là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Đây chính là khoản tiền mà doanh nghiệp phải bỏ ra để được sử dụng vốn hay chính là tỷ lệ sinh lợi cần thiết mà người chủ sở hữu của khoản tiền đó yêu cầu. Các nhà đầu tư chỉ chấp nhận cung cấp vốn cho doanh nghiệp khi họ được trả một khoản lãi xứng đáng và thông thường những người này luôn mong muốn một lãi suất cao. Tuy nhiên, nhà doanh nghiệp không thể trả lãi suất quá cao cho nhà đầu tư, họ luôn phải cân nhắc sao cho lợi nhuận thu được từ nguồn vốn huy động đó không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp luôn có xu hướng tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp.
Tuy nhiên, một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiếm khi chỉ sử dụng một nguồn vốn để tài trợ cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình ngay cả khi đó là nguồn có chi phí thấp hơn các nguồn khác. Thông thường, trong một doanh nghiệp có hai loại vốn cơ bản là vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một doanh nghiệp ít nợ, nhiều vốn tự có sẽ làm cho các bạn hàng tin tưởng bỏ vốn ra cho vay hay góp vốn cùng đầu tư. Nhưng nguồn vốn này không nên ở mức quá lớn. Chủ doanh nghiệp nên có một phần dự trữ để đề phòng rủi ro hoặc để phát triển khuyếch trương kinh doanh khi có thời cơ. Mặt khác, với việc tăng vốn thông qua vay nợ, chủ doanh nghiệp có thể tăng được thu nhập trên vốn chủ sở hữu mà vẵn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Song, nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Do đó, trong quản trị tài chính, các nhà quản lý phải xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu, đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay sao cho lợi ích thu được là cao nhất. Đó là cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất và nhờ đó tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp.
Trên cơ sở cơ cấu tối ưu (cơ cấu mục tiêu) được thiết lập phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp, các nhà quản lý mới tiến hành huy động vốn theo cách giữ cơ cấu vốn thực tế theo cơ cấu vốn tối ưu sao cho lợi nhuận thu được là cao nhất. Có bốn nhân tố chủ yếu tác động đến những quyết định về cơ cấu vốn của doanh nghiệp:
- Rủi ro trong kinh doanh được coi là một trong những nhân tố có tác động đến việc lựa chọn nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Rủi ro đề cập đến ở đây là rủi ro cố hữu của tài sản của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không sử dụng nợ. Như vậy, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực có rủi ro kinh doanh lớn thì việc sử dụng nợ nhiều không phải là một giải pháp huy động tối ưu.
- Nhân tố thứ hai là vấn đề thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong trường hợp thuế suất thuế thu nhập của doanh nghiệp cao thì việc sử dụng nợ nhiều hơn sẽ có lợi vì khi sử dụng nợ, phần lãi vay phải trả được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp và nhờ đó hạ thấp được chi phí thực tế của nợ. {Chi phí nợ sau thuế = Chi phí nợ trước thuế*(1- thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp)}.
- Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường thay đổi hay khả năng linh hoạt tài chính của doanh nghiệp cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng đảm bảo một nguồn vốn ổn định để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong thời gian dài, sẽ dễ dàng hơn trong việc kêu gọi nguồn tài trợ từ các nhà đầu tư. Thật vậy, khi đánh giá đặc điểm này chúng ta có thể thấy rõ ràng là những nhà cung cấp vốn muốn tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp có thể tự chủ về tài chính hơn là những doanh nghiệp thụ động, và do đó ảnh hưởng tới cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
- Nhân tố thứ tư liên quan đến quan điểm của các nhà quản lý về việc sử dụng vốn. Có những nhà quản lý sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm sử dụng nhiều nợ hơn để tăng lợi nhuận song có những người lại thích sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu hơn vì mục tiêu an toàn cho doanh nghiệp.
Bốn nhân tố trên quyết định rất lớn đến mục tiêu cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Trong những thời kỳ khác nhau, tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể của nền kinh tế và của chính doanh nghiệp, các nhà quản lý sẽ đưa ra một cơ cấu vốn tối ưu để trên cơ sở đó doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ cho phù hợp.
Thông thường, các doanh nghiệp luôn hướng tới cơ cấu vốn có chi phí trung bình của vốn là thấp nhất. Việc xác định chi phí vốn trung bình (WACC) của doanh nghiệp dựa trên chi phí nhân tố cấu thành của nguồn vốn đó bao gồm chi phí nợ vay sau thuế (Kd.(1-t), với t là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp), chi phí cổ phiếu ưu tiên (Kp) và chi phí lợi nhuận giữ lại (Ks) theo công thức:
WACC = Wd.Kd.(1-t) + Ws.Ks + Wp.Kp
Với Wd, Ws, Wp tương ứng là tỷ trọng của nợ vay, cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên.
Do mỗi nguồn vốn huy động có chi phí khác nhau nên với cùng một lượng vốn được huy động nhưng tỷ lệ của các nguồn vốn khác nhau thì chi phí trung bình của vốn cũng khác nhau.Vì thế, khi quyết định lựa chọn một nguồn vốn nào đó cho kế hoạch tài trợ của mình, doanh nghiệp luôn luôn phải cân nhắc chi phí và tỷ trọng của chúng sao cho chi phí trung bình của vốn là thấp nhất. Như vậy, rõ ràng là chi phí vốn và cơ cấu vốn có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp tới việc huy động vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ huy động nguồn vốn nào, với quy mô là bao nhiêu không chỉ phụ thuộc vào chi phí phải trả cho nguồn vốn đó mà còn phụ thuộc vào cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp đã đặt ra.
1.3.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp chỉ có nhu cầu huy động thêm vốn khi tình hình hoạt động kinh doanh ổn định và phát triển. Ngược lại, một doanh nghiệp đang “ăn lên làm ra”, có tình hình hình tài chính lành mạnh thì khả năng huy động vốn cũng cao hơn. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu bởi vì khi doanh nghiệp ký kết hợp đồng giao dịch với bất cứ đối tác nào (dù là ngân hàng hay một doanh nghiệp khác), doanh nghiệp đều phải nắm bắt được khả năng thanh toán, thu lời cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của đối tác đó. Cũng như vậy, đối tác cũng phải tìm hiểu về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, rõ ràng là với một tình hình tài chính lành mạnh doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc kêu gọi vốn từ các nhà đầu tư để tài trợ cho nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh của mình.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn của một doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Một doanh nghiệp có hiệu quả sử dụng vốn cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp làm ăn có lãi, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Trong nền kinh tế thị trường, đây là một nhân tố quyết định khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Hay nói cách khác, khi phân chia vốn vào các mục đích sử dụng một cách hợp lý và được bảo toàn, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được vốn và tránh được lãng phí, tạo được uy tín tốt với bạn hàng và đương nhiên là làm ăn có hiệu quả hơn, từ đó nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như: các chế độ, chính sách của nhà nước có liên quan, việc nắm vững và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp, cách thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, năng lực con người đặc biệt là đội ngũ quản lý, việc chọn lựa và thực thi các chiến lược của doanh nghiệp… Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và bảo toàn vốn, các doanh nghiệp thường áp dụng một số nguyên tắc sau:
- Nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp: như đã nói ở trên hiệu quả sử dụng vốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trong đó trình độ quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quyết định. Việc thực hiện tốt bốn chức năng cơ bản: hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra là điều kiện tiên quyết để đạt được hiệu quả sử dụng vốn. Vì vậy, việc trang bị hay trang bị lại những kiến thức quản trị kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản trị, học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển là việc làm cần thiết.
- Lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả, tránh lãng phí: để làm được điều này doanh nghiệp phải dự đoán được thị trường hiện tại cũng như tương lai để xây dựng những phương án kinh doanh phù hợp. Sau đó, trên cơ sở phân tích chi phí lợi ích của dự án một cách cụ thể, doanh nghiệp mới tiến hành tìm kiếm các phương thức tài trợ cho dự án một cách hợp lý: trước hết cần khai thác triệt để nguồn vốn sẵn có trong doanh nghiệp, sau đó mới tìm đến các nguồn tài trợ từ bên ngoài sao cho chi phí sử dụng nguồn vốn đó là thấp nhất. Ngoài ra, khi phân tích dự án, doanh nghiệp phải tính đến các tình huống xấu có thể xảy ra, từ đó đưa ra các phương án xử lý một cách linh động để tránh những thua lỗ, gây thiệt hại về vốn cho doanh nghiệp.
- Tính toán và dự báo về nhu cầu vốn cũng như nguồn tài trợ: trong quá trình sản xuất kinh doanh, không phải bao giờ vốn cũng đủ để doanh nghiệp có thể đầu tư vào bất kỳ lúc nào hoặc có những lúc vốn lại vô cùng nhàn rỗi mà không có nơi để đầu tư. Đó là trường hợp khi doanh nghiệp thừa vốn hay thiếu vốn. Nếu gặp lúc thừa vốn mà doanh nghiệp vẫn tiếp tục đi vay nợ phải trả lãi thì sẽ rất lãng phí, còn nếu thiếu vốn mà doanh nghiệp không tìm được nguồn tài trợ thì lại bỏ mất cơ hội kinh doanh hoặc tìm được nguồn tài trợ nhưng chi phí quá cao thì lợi nhuận thu được cũng sẽ giảm. Do đó, tính toán nguồn vốn đầu tư càng sát với thực tế bao nhiêu thì sử dụng vốn càng tiết kiệm, hiệu quả bấy nhiêu.
- Quản lý tài sản cố định: để bảo toàn được vốn cố định, doanh nghiệp cần đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác; phải chọn được phương pháp khấu hao thích hợp để thu hồi vốn; phải áp dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định; đồng thời cần kịp thời xử lý những máy móc thiết bị lạc hậu, mất giá hoặc không cần dùng…
- Quản lý tài sản lưu động: doanh nghiệp cần xác định được khối lượng vốn lưu động cần thiết trong kỳ kinh doanh, bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu nhằm tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn, ứ đọng vốn, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn và thường xuyên thực hiện phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động nhằm điều chỉnh các biện pháp một cách kịp thời.
Nói chung, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn các doanh nghiệp thường sử dụng các biện pháp cơ bản trên đây. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp và đặc biệt là trình độ và khả năng linh hoạt của nhà quản lý, mỗi doanh nghiệp có một cách áp dụng khác nhau và hiệu quả đạt được cũng khác nhau.
Ngoài một số nhân tố chủ quan trên, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật và công nghệ… Một doanh nghiệp có đội ngũ lao động lành nghề, luôn học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong công việc là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực nhạy cảm với sự biến đổi của công nghệ và thị trường. Trình độ khoa học công nghệ cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm thiểu chi phí, tạo được những sản phẩm mới có chất lượng được thị trường chấp nhận… Trên cơ sở những thành công đó, doanh nghiệp ngày càng khẳng định được vị trí của mình, tăng uy tín trên thị trường; từ đó các bạn hàng sẽ yên tâm khi giao dịch với doanh nghiệp, cũng như các ngân hàng sẽ dễ dàng ủng hộ doanh nghiệp mỗi khi doanh nghiệp cần vốn. Đây là những nhân tố chủ quan có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp trong xu hướng ngày càng nâng cao vai trò làm chủ thực sự của người lao động và trình độ khoa học kỹ thuật trong từng doanh nghiệp hiện nay.
1.3.2. Nhân tố khách quan.
Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào những nhân tố bên trong- những nhân tố của chính bản thân doanh nghiệp. Đó là điều hoàn toàn dễ hiểu như đã được trình bày ở trên. Tuy nhiên, bên cạnh những nhân tố mang tính chất chủ quan đó, trong quá trình hoạt động, chính sách huy động vốn của doanh nghiệp còn chịu tác động của những nhân tố khách quan sau:
1.3.2.1. Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước là một nhân tố có tác động trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, và vì thế tất nhiên ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn. Trên cơ sở pháp luật kinh tế và các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động đó theo kế hoạch kinh tế vĩ mô.
Đây là nhân tố mà các doanh nghiệp bắt buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô điều kiện với tư cách là một pháp nhân đối với những quy định của pháp luật. Việc huy động vốn từ những nguồn nào, theo phương thức gì, với quy mô bao nhiêu… đều phải thực hiện theo cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước được thể chế hoá bằng các quy định, nghị định của Chính và các văn bản pháp luật khác. Ví dụ như theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì các doanh nghiệp Nhà nước hoặc công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, trong khi công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được phép tăng vốn bằng cách gọi thêm vốn góp từ các thành viên hoặc kết nạp thêm thành viên mới, hoặc trích từ quỹ của công ty chứ không được phép phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Hoặc theo nghị định số 27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 sửa đổi, bổ sung “ Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ” ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước được quyền vay vốn của các tổ chức tín dụng (các ngân hàng thương mại, các Công ty tài chính… ), các doanh nghiệp khác, các cá nhân ( kể cả cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp) để đầu tư phát triển nhưng lãi suất huy động vốn không được cao hơn lãi suất cho vay do ngân hàng Nhà nước công bố cùng thời điểm theo từng ngành nghề, thời hạn vay. Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của những doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh nhưng đã huy động hết những nguồn có chi phí thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng.
Ngoài ra, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Trong những giai đoạn Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì việc vay vốn ngân hàng để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh là khá khó khăn đối với doanh nghiệp do lãi suất cho vay cao đồng thời các thủ tục xin vay cũng chặt chẽ hơn. Thêm vào đó với các chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với một ngành nghề nào đó cũng sẽ tạo điều kiện hoặc hạn chế khă năng huy động vốn của các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề đó. Đây là yếu tố vĩ mô, có ảnh hưởng khá lớn đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
1.3.2.2. Các yếu tố của nền kinh tế.
Là một chủ thể của nền kinh tế, mọi hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt động huy động vốn gắn bó chặt chẽ và chịu ảnh hưởng của các nhân tố trong nền kinh tế như lãi suất ngân hàng, thuế, thu nhập dân cư.
- Lãi suất ngân hàng là nhân tố đầu tiên mà mọi doanh nghiệp phải cân nhắc khi lựa chọn nguồn vốn cho kế hoạch tài trợ của mình. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải tính toán hiệu quả đầu tư và yếu tố lãi suất tiền vay. Thông thường, khi lãi suất ngân hàng quá cao thì cơ hội đầu tư ít đi và vì thế nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp cũng giảm theo.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong trường hợp thuế thu nhập doanh nghiệp khá cao thì doanh nghiệp có xu hướng thích sử dụng nợ hơn vì lãi nợ vay được tính vào chi phí hợp lý hợp lệ trước khi tính thuế. Do đó việc tăng tỷ trọng nợ trong cơ cấu vốn sẽ làm giảm chi phí vốn của doanh nghiệp.
- Thu nhập dân cư cũng là một nhân tố tác động đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Thu nhập của dân cư ở mức cao đồng nghĩa với khả năng tích luỹ cao và kết quả là lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế dồi dào. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách dễ dàng hơn thông qua các công cụ của thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ có thể chuyển đổi đặc biệt là ở những nước có thị trường tài chính phát triển hoàn thiện.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác như: yếu tố thị trường, yếu tố cạnh tranh cạnh tranh, tỷ giá… Thị trường chính là nơi hoạt động của doanh nghiệp. Trong môi trường này, các doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời còn phải cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp khác để chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, quá trình huy động vốn của doanh nghiệp không thể bỏ qua yếu tố thị trường và cạnh tranh. Riêng đối với doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu thì sự biến động của tỷ giá cũng là một yếu tố không thể bỏ qua. Do các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với việc sử dụng ngoại tệ nên việc tỷ giá lên cao hay xuống thấp đều gây ảnh hưởng đến lượng vốn mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Doanh nghiệp cần phải phân tích những yếu tố này, xem xét tình trạng hiện tại, dự đoán tình hình trong tương lai để lựa chọn phương án huy động vốn cho thích hợp nhằm tạo được lợi thế của mình trên thị trường.
1.3.2.3. Loại hình doanh nghiệp.
Đây là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.Trong nền kinh tế thị trường, mỗi loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm về hình thức sở hữu, cơ cấu tổ chức và quản lý khác nhau, do đó khả năng huy động vốn cũng khác nhau. Điều này được thể hiện khá rõ nét trong kế hoạch huy động vốn của doanh nghiệp ngay từ khi mới thành lập.
Chẳng hạn, để tài trợ cho vốn đầu tư ban đầu các doanh nghiệp Nhà nước được cấp vốn từ ngân sách Nhà nước trong khi doanh nghiệp tư nhân phải huy động từ vốn tự có của chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp còn công ty cổ phần thì bằng vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp dưới hình thức vốn cổ phần. Trong quá trình hoạt động, các loại hình doanh nghiệp này cũng có các phương án bổ sung vốn cho nhu cầu mở rộng kinh doanh khác nhau. Đối với doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần thì ngoài nguồn vốn vay có thể huy động từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng, để tăng thêm vốn các doanh nghiệp này có thể phát hành trái phiếu công ty hoặc phát hành thêm cổ phiếu mới trong khi các công ty trách nhiệm hữu hạn thì chỉ được phép tăng thêm vốn từ lợi nhuận thu được trong quá trình hoạt động hoặc vốn góp liên doanh.
Như vậy, rõ ràng là, việc doanh nghiệp lựa chọn nguồn vốn gì, hình thức huy động như thế nào phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp của doanh nghiệp đó.
Sự phát triển của thị trường tài chính.
Chúng ta đều biết rằng các nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phần lớn là nguồn ngắn hạn. Do đó việc tìm kiếm các nguồn tài trợ dài hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu là trên thị trường tài chính thông qua hai hình thức cơ bản là phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu.
Như vậy, có thể thấy rằng, thị trường tài chính, với chức năng là chiếc cầu nối hữu hiệu giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, có ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm kiếm được các nguồn tài trợ trung và dài hạn cho nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh một cách dễ dàng và có hiệu quả hơn. Hơn nữa, khi thị trường tài chính chưa phát triển một cách hoàn thiện, các tổ chức trung gian tài chính không những chưa thể đảm nhận đầy đủ trách nhiệm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn mà hoạt động tài trợ ngắn hạn cũng không phát huy hết hiệu quả của nó.
ở nước ta hiện nay, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế. Thị trường chứng khoán đã được hình thành nhưng vẫn chưa phát huy được vai trò của nó là tạo ra đầy đủ nhất các hình thức đầu tư, thúc đẩy và mở rộng những chu chuyển vốn trung và dài hạn, tạo nhiều cơ hội để vốn nhàn rỗi trong dân chúng tham gia vào đầu tư phát triển sản xuất. Vì thế, khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp còn rất hạn chế, đặc biệt là khả năng huy động vốn để tài trợ cho các dự án có quy mô lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Đây là một yếu tố bất lợi đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Chương II
Thực trạng huy động vốn tại công ty xuất nhập
khẩu Hai Bà Trưng
2.1. Khái quát về Công ty XNK Hai Bà Trưng
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng tiền thân là Công ty dịch vụ quận Hai Bà Trưng được thành lập từ năm1984 theo quyết định số 4071/QD-UB ngày 15/09/1984; là một Công ty kinh doanh thương nghiệp hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản và sử dụng con dấu riêng, chịu sự quản lý toàn diện của UBND Quận Hai Bà Trưng Hà Nội và sự hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Sở Thương mại thành phố Hà Nội. Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là tổ chức các dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân như: cắt uốn tóc, may đo, giặt là quần áo… với tổ chức bộ máy gồm có :
- Chủ nhiệm, từ 1-2 phó chủ nhiệm giúp việc.
- Các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, các cửa hàng, xưởng sản xuất, chế biến.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, sau hơn 10 năm hoạt động với sự phấn đấu nỗ lực Công ty đã từng bước mở rộng quy mô kinh doanh, mở rộng cơ cấu ngành nghề. Điều đó được thể hiện qua các bước trưởng thành của Công ty :
- Theo quyết định số 925/QD-UB ngày 9/3/1990 của UBND Thành phố Hà nội, Công ty dịch vụ quận Hai Bà Trưng đổi tên thành Công ty dịch vụ, kinh doanh xuất nhập khẩu quận Hai Bà Trưng với chức năng nhiệm vụ được bổ sung như sau:
+ Đại lý hàng hoá cho các đơn vị kinh tế trong nước.
+ Đại lý bán vé máy bay, vé tàu, vé xe.
+ Dịch vụ khách sạn, du lịch.
+ Sản xuất, chế biến, gia công hàng xuất khẩu và bao bì đóng gói.
- Theo quyết định số 2687/QĐ-UB ngày 4/11/1992 của UBND thành phố Hà nội, Công ty dịch vụ, kinh doanh xuất nhập khẩu quận Hai Bà Trưng đổi tên thành Công ty sản xuất kinh doanh hàng xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng, với nhiệm vụ bổ sung như sau :
+ Tổ chức sản xuất, thu mua, gia công hàng xuất khẩu.
+ Được phép liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài.
- Thực hiện nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập và tổ chức lại các doanh nghiệp Nhà nước, theo quyết định số 316/QĐ-UB ngày 19/1/1993 và quyết định số 540/QĐ-UB ngày 1/4/1994 của UBND thành phố Hà nội, Công ty mang tên Công ty xuất nhập khẩu hai bà trưng.
Trụ sở tại : 53 Lạc Trung – Hà nội.
Tên giao dịch quốc tế : Hai Ba Trưng Import export Company.
Tên viết tắt : (HABAMEXCO).
Tel : 6360229 / Fax : 6360227.
Từ một công ty chỉ kinh doanh nội địa và làm các dịch vụ nhỏ (năm 1984) đến nay Công ty đã phát triển thành một công ty xuất nhập khẩu trực tiếp theo giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp số 2.05.1.069/GP do Bộ Thương mại cấp ngày 8/2/1994.
Với phương châm “ Duy trì, ổn định và phát triển kinh doanh nội địa, đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài, phát triển mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới ”, Công ty đã vươn tầm hoạt động ra khắp nơi, địa bàn hoạt động không những trong nước mà còn phát triển ra trên 30 nước trên thế giới.
Hoạt động kinh doanh của Công ty tập trung vào một số mặt hàng chủ yếu ở các lĩnh vực sau :
Hoạt động xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu : Hàng nông sản (lạc, gạo, chè…).
- Nhập khẩu : Chủ yếu nhập hoá chất, điện lạnh, điện dân dụng, hàng trang trí nội thất, vật liệu xây dựng, xe máy…
Hoạt động kinh doanh nội địa :
Chủ yếu kinh doanh các mặt hàng : điện dân dụng, quần áo may sẵn, đồ dùng gia đình, hàng tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân và làm đại lý bán vé máy bay.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý.
Về tổ chức bộ máy làm việc của Công ty có thể nói là khá gọn nhẹ. Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo chế độ một thủ trưởng do giám đốc đứng đầu quản lý, điêù hành trực tiếp toàn diện từ các phòng ban đến các cửa hàng.
Sơ đồ: Bộ máy tổ chức Công ty.
Ban giám đốc
Phòng Tổ chức
hành chính
Phòng tài vụ
Phòng XNK I
Phòng XNK II
Phòng Kinh doanh
CH.
Bạch mai
CH.
Chơ Mơ
CH.
Chợ Hôm
CH. Chợ
Trương Định
CH. Trần
Cao Vân
*Chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban như sau :
Ban giám đốc : Gồm một giám đốc và hai phó giám đốc.
Giám đốc: Là người đại diện toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty.xét duyệt, lập kế hoạch kinh doanh và phát triển của Công ty.
Phó giám đốc: Là người giúp việc cho giám đốc, thay mặt giám đốc quản lý, điều hành, giải quyết công việc trong pham vi nhiệm vụ, quyền hạn được giám đốc phân công hoặc uỷ quyền.
Phòng Tổ chức-Hành chính: Tham mưu giúp việc cho giám đốc về công tác:
- Tổ chức nhân sự, quản lý sắp xếp đào tạo đội ngũ CBCNV.
- Lao động tiền lương và các chế độ chính sách như BHXH, BHYT…
- Một số công việc khác mang tính chất hành chính.
Phòng Tài vụ:
Thực hiện chức năng tham mưu cho Giám đốc về tài chính, thực hiện các chế độ chính sách về quản lý tài chính, đảm nhiệm trọng trách về hạch toán kế toán, đảm bảo về vốn cho hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác. Xây dựng các kế hoạch tài chính, kiểm tra giám sát mọi hoạt động kinh doanh trong tương lai.
Các phòng kinh doanh và cửa hàng.
Là những đơn vị trực tiếp thực hiện công tác kinh doanh của Công ty. Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án kinh doanh. Tìm kiếm nguồn hàng và thị ttrương tiêu thụ. Trực tiếp ký kết theo uỷ quyền của giám đốc và thực hiện các hợp đồng kinh kế và chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của mình.
Các phòng kinh doanh gồm:
Phòng XNK 1:
Chủ yếu kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng : Vật liệu xây dựng và trang trí nội thất, đồ điện gia dụng, xe đạp, xe máy, lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, hương liệu dùng trong chế biến thực phẩm, máy móc thiết bị.
Phòng XNK 2:
Chủ yếu kinh doanh XNK các mặt hàng : Đồ điện gia dụng như điều hoà, tủ lạnh, máy giặt, bếp ga, lò vi sóng…
Phòng KD Tổng hợp:
Kinh doanh XNK các mặt hàng : Vật liệu xây dựng, hoá chất phục vụ sản xuất, trang thiết bị máy móc, phương tiện vận tải…
Các cửa hàng :
Gồm các cửa hàng chợ Mơ, cửa hàng chợ Hôm, cửa hàng chợ Trương Định, cửa hàng Trần Cao Vân là các đầu mối bán buôn bán lẻ hàng hoá do tự khai thác hay do Công ty nhập về.
2.1.3. Đặc điểm và tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty.
3.1.3.1. Đặc điểm hoạt động của Công ty.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng quan hệ hợp tác giữa các nước, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, ngày càng phát triển. Đại bộ phận các doanh nghiệp, công ty hiện nay, dù là trực tiếp hay gián tiếp đều có liên quan đến giao dịch ngoại thương. Tuy nhiên, không như buôn bán trong nước, buôn bán giữa các doanh nghiệp thuộc các nước khác nhau có nhiều điểm phức tạp hơn do việc giao dịch chỉ được thực hiện trên cơ sở lựa chọn trên một thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới các quốc gia khác nhau, phải tuân theo những thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của bản thân mỗi quốc gia…
Là một doanh nghiệp thương mại hoạt động trên lĩnh vực ngoại thương, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng tất nhiên cũng chịu ảnh hưởng của những yếu tố trên và do đó hoạt động của Công ty có những đặc điểm sau:
Việc kinh doanh xuất nhập khẩu có người mua và người bán thuộc hai quốc gia khác nhau với luật pháp kinh doanh, chính sách, cơ chế vận hành và đặc biệt là đồng tiền sử dụng khác nhau. Trong khi giao dịch, hai bên sẽ áp dụng những điều luật trong thương mại quốc tế làm nền tảng xử lý tranh chấp nhưng mỗi bên vẫn phải tuân thủ theo pháp luật của nước mình.
Xét về thời gian, kinh doanh xuất nhập khẩu có chu kỳ nói chung dài hơn và hàng hoá xuất nhập khẩu đòi hỏi có chất lượng cao hơn, hợp với nhu cầu của từng quốc gia có quan hệ mua bán trong từng thời kỳ nhất định.
Điều kiện về mặt địa lý, phương tiện chuyên chở, điều kiện thanh toán có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình kinh doanh, làm kéo dài thời gian tồn tại của hợp đồng xuất nhập khẩu.
Việc thanh toán thường chỉ thông qua một số ngân hàng có chức năng thanh toán với nước ngoài như Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (Vietindebank)… để đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Hơn nữa, do giữa các nước có sự khác nhau về nguồn lực và điều kiện sản xuất nên hao phí lao động và giá thành sản phẩm khác nhau. Việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước phải dựa trên cơ sở giá cả quốc tế.
Ngoài ra, kinh doanh xuất nhập khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu cả hai thị trường: thị trường xuất nhập khẩu (để xem nên xuất khẩu hàng hoá gì, số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao, xuất sang thị trường nước nào..) và thị trường nhập khẩu (để xác định cần nhập khẩu hàng hoá gì, từ đâu, giá cả, chất lượng, số lượng ra sao…).
Do những đặc điểm cơ bản nói trên, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung và Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng nói riêng đứng trước nhiều khó khăn thách thức, và để đạt kết quả cao trong kinh doanh, giành được ưu thế cạnh tranh trên thị trường cả trong và ngoài nước đòi hỏi phải có sự năng động trong quản lý, sự đầu tư đúng mức vào nhân tố con người và hệ thống cung ứng sản phẩm hoàn hảo. Tất cả những điều này gắn với một vấn đề hết sức quan trọng: đó là việc kết hợp một cách nhịp nhàng uyển chuyển các giải pháp phù trợ về tài chính hay nói một cách khác là khả năng đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong mọi tình huống phức tạp của thị trường. Do đó, huy động vốn là vấn đề hết sức quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Công ty.
Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong ba năm 1998, 1999, 2000.
Những năm đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, Công ty gặp không ít khó khăn: khó khăn về cơ sở vật chất kỹ thuật, về nguồn vốn…
Trong một số năm trở lại đây, do những biến động phức tạp của thị trường, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các đơn vị kinh doanh cả trong và ngoài nước, hoạt động kinh doanh của Công ty cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, nhờ sự năng động trong quản lý của ban lãnh đạo và nỗ lực phấn đấu của các cán bộ công nhân viên, Công ty đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, phản ánh qua những số liệu cụ thể sau:
Về tình hình hoạt động kinh doanh nói chung:
Theo như bảng 1 ta thấy, trong ba năm qua (1998, 1999, 2000), tình hình kinh doanh của Công ty tương đối tốt. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng đều trong các năm: từ 6318057.86 USD năm 1998 đến 6549210.7 USD năm 2000. Đây là cũng là doanh số cao nhất từ trước đến giờ của Công ty. Điều này thể hiện xu hướng hoạt động ngày một phát triển của Công ty. Mặc dù, vào năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty thấp hơn so với năm 1998 với 6250721.2 USD, nhưng tình hình này xuất phát từ nhiều nguyên nhân về phía môi trường kinh doanh. Đó có thể là do hiện nay Nhà nước cho phép rất nhiều loại hình doanh nghiệp được thực hiện xuất nhập khẩu. Thêm vào đó, đối với một số mặt hàng như đồ điện tử, hàng thực phẩm, may mặc… kim ngạch nhập khẩu của Công ty giảm do Nhà nước thực hiện hạn chế nhập khẩu các mặt hàng này để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Ngoài ra, trong những năm gần đây thị trường hàng nhập ngoại hầu như bị thả nổi. Hàng nhập lậu tràn vào thị trường Việt Nam từ nhiều phía và tất nhiên gắn liền với trốn thuế nên giá rẻ, tạo nên một sự cạnh tranh không cân sức với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, do Công ty đã biết phát huy thế mạnh của mình, tận dụng được uy tín đã có bấy lâu, đa phương hoá, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, mở rộng đối tác đồng thời nhanh chóng chuyển hướng sang các mặt hàng mới như hoá chất (Nhật), giấy nhôm (Hàn Quốc), thuỷ tinh chì (Trung Quốc)… nên đến năm 2000, kim ngạch XNK của Công ty không hề bị suy giảm mà đã tăng hơn so với năm 1999 là 298489.5 USD, đạt 104.78% so với năm 1999. Điều đó thể hiện khả năng vươn lên thích ứng với thị trường của Công ty là khá cao.
Kim ngạch xuất nhập khẩu giảm kéo theo tổng doanh thu của Công ty cũng giảm với tổng doanh thu năm 1999 chỉ đạt 95.12% so với năm 1998 tương đương với 172890.678 triệu đồng. Song sang đến năm 2000 tổng doanh thu của Công ty đã tăng lên 192893.39 triệu đồng, đạt 111.57% so với năm 1999. Tuy nhiên, tổng lợi nhuận của Công ty lại thay đổi theo chiều hướng khác. Năm 2000, mặc dù là năm có tổng doanh thu lớn nhất, nhưng tổng lợi nhuận lại thấp hơn so với năm 1999 (chỉ đạt 112280.785 triệu đồng tương đương 93.567 % )-năm có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và tổng doanh thu thấp nhất. Điều này có thể được giải thích khi ta nhìn vào mức nộp ngân sách Nhà nước trong ba năm của Công ty. Như chúng ta thấy, năm 1999 là năm Công ty có mức nộp Ngân sách thấp nhất, chỉ đạt 968.156 triệu đồng, bằng 41.07% so với năm 1998 và 44.53% so với năm 2000. Như vậy, có thể năm 1999, do tình hình thị trường có nhiều khó khăn, Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi cho Công ty như miễn giảm thuế xuất nhập khẩu hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp. Song cũng có thể một phần do Công ty thay đổi cung cách làm ăn, giảm những chi phí không cần thiết, mua được rẻ nhưng bán đắt hoặc do sự biến động của tỷ giá theo hướng có lợi…nên hiệu quả kinh doanh tốt hơn.
Về tình hình tài chính của Công ty.
Nghiên cứu bảng cân đối kế toán sơ lược của Công ty trong ba năm (Bảng 2), ta có thể đánh giá một cách khái quát về tình hình tài chính của Công ty như sau:
Tổng tài sản của Công ty thấp nhất vào năm 1999 với số tiền là 28827.798 triệu đồng và cao nhất vào năm 2000 với số tiền là 32942.523 triệu đồng.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy mô của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và tổng doanh thu của các năm. Xét chiều hướng phát triển theo thời gian thì năm 1999 tổng tài sản của Công ty giảm so với năm 1998, chỉ bằng 91.51% , song đến năm 2000, tổng tài sản của Công ty lại tăng lên đáng kể, vượt hơn 4114.725 triệu đồng, bằng 114.27% so với năm 1999.
Nguồn vốn của Công ty cũng có những thay đổi tương tự. Năm 1998 tổng nguồn vốn của Công ty là 27086.965 triệu đồng. Đến năm 1999 tổng nguồn vốn của Công ty giảm 2687.238 triệu đồng, bằng 90.079% so với năm 1998. Tuy nhiên, Công ty lại khôi phục được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vào năm 2000 với nguồn vốn tăng thêm 11.87% so với năm 1999 tương đương 28517.126 triệu đồng. Điều này chứng tỏ quy mô tài sản và nguồn vốn của Công ty có chiều hướng tăng lên, đáp ứng được nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh và đạt mục tiêu tăng trưởng, phát triển.
Về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty trong ba năm vừa qua chúng ta sẽ xem xét các chỉ tiêu sau:
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. Chỉ tiêu này phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một trăm đồng doanh thu và được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu tiêu thụ.
Bảng 3. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
Đơn vị: Triệu đồng.
Các chỉ tiêu
Năm1998
Năm 1999
Năm2000
So sánh
99/98
2000/99
(1). Lợi nhuận sau thuế
100
120
112.28
120 %
93.56%
2). Doanh thu tiêu thụ
181763.41
172890.678
192893.39
95.11 %
111.57%
(3). Doanh lợi tiêu thụ
0.055 %
0.069 %
0.058 %
126.15%
83.864%
Sản phẩm = (1)/(2)
Nguồn : Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng
Theo bảng 3 ta thấy doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của Công ty tăng đều trong các năm. Năm 1998 là 0.055% tức là cứ 100 triệu doanh thu thì có 0.055 triệu tiền lãi. Năm 1999 con số này là 0.069% tương đương với 0.014 triệu tiền lãi được tăng thêm trong 100 triệu doanh thu. Đến năm 2000, mặc dù doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của Công ty đã chững lại song vẫn cao hơn so với năm 1998. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này có thể là do trong năm 1999, khi Công ty chuyển hướng từ các mặt hàng điện tử đã tràn ngập thị trường sang các mặt hàng mới như thuỷ tinh chì, giấy nhôm… bán được với giá cao nên lợi nhuận sau thuế tăng nhanh. Nhưng năm 2000, vì có thêm nhiều doanh nghiệp cũng tham gia xuất nhập khẩu những mặt hàng này nên lợi nhuận sau thuế không còn tăng được như trước.
Doanh lợi vốn (hay còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư) được tính bằng lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản có của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư.
Bảng 4. Doanh lợi vốn
Đơn vị: Triệu đồng.
Các chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
So sánh
99/98
2000/99
(1). Lợi nhuận sau thuế
100
120
112.28
120
93.567 %
(2). Tổng tài sản có
31502.401
28827.798
32942.524
91.5 %
114.27%
(3). Doanh lợi vốn
0.317 %
0.416 %
0.341 %
131.13%
81.879 %
(3) = (1)/(2)
Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Theo bảng 4 ta thấy doanh lợi vốn của Công ty cũng thay đổi tương tự như doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. Năm 1999 là năm có doanh lợi vốn cao nhất là 0.416% tức là cứ một đồng tài sản thì cho 0.416 đồng lợi nhuận, tăng 31.13% so với năm 1998. Năm 2000, như đã trình bày ở trên do những thay đổi của thị trường nên lợi nhuận sau thuế của Công ty giảm đi so với năm 1999, một đồng tài sản đưa vào kinh doanh chỉ đem lại 0.341 đồng lợi nhuận, tức là giảm 18.878% so với năm 1999. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường đòi hỏi Công ty cần năng động hơn nữa trong việc khai khác các nguồn hàng mới, tìm kiếm các thị trường mới để tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Như vậy, thông qua phân tích một cách sơ lược các chỉ tiêu cơ bản, chúng ta có thể thấy rằng tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong ba năm là tương đối tốt. Mặc dù vậy vẫn còn tồn tại một vài vấn đề chưa thật hoàn chỉnh mà Công ty cần phải xem xét và tìm phương án giải quyết, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh được thuận lợi hơn.
2.2.Thực trạng huy động vốn tại Công ty
xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
2.2.1. Huy động vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu, như đã nói ở chương I, là thành phần không thể thiếu trong toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn tài trợ. Cũng như các doanh nghiệp Nhà nước khác, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng hoạt động với nguồn vốn chủ sở hữu tương đối nhỏ, chỉ chiếm khoảng 14% so với tổng nguồn vốn kinh doanh.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là sau một thời gian dài thành lập và hoạt động, vốn chủ sở hữu của Công ty luôn được bảo toàn và phát triển. Chỉ xét trong ba năm 1998, 1999, 2000, mặc dù tình hình thị trường có nhiều biến động, song ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty được giữ khá ổn định, chỉ dao động trong khoảng 4415.436 triệu đồng đến 4428.116 triệu đồng. Năm 1999, nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty tăng nhiều nhất, khoảng 3% tương đương 12.68 triệu đồng. Năm 2000, nguồn vốn của Công ty bị chững lại do sự bão hoà của thị trường và có giảm đi song tỷ lệ này rất nhỏ (khoảng 0.06%). Nhờ thế nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty được huy động vào kinh doanh luôn được bổ sung, góp phần đảm bảo hoạt động kinh doanh của Công ty trong mọi tình huống phức tạp của thị trường.
Điều này thể hiện hiệu quả kinh doanh của Công ty tương đối tốt, Công ty làm ăn có lãi. Chính phần lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh đã bổ sung và làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu bởi vì trong những năm gần đây, công ty không còn được cấp vốn Ngân sách như trước nữa. Công ty cũng chưa thực hiện cổ phần hoá nên chưa thể bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu thông qua phát hành cổ phiếu.
2.2.2. Vay vốn ngân hàng.
Với nguồn vốn chủ sở hữu tương đối nhỏ so với nhu cầu vốn lưu động như đã nói ở trên (chỉ chiếm khoảng 14% tổng nguồn vốn), vay vốn ngân hàng được coi như một giải pháp hữu hiệu để đảm bảo nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu, Công ty đã sử dựng một cách triệt để các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại các ngân hàng ngoại thương Việt Nam hiện nay, trong đó chủ yếu là các hình thức vay vốn để thu mua hàng xuất khẩu theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng và mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu. Các hình thức vay vốn thông qua mở L/C này giúp cho Công ty đảm bảo được nguồn vốn kinh doanh khi xuất hoặc nhập hàng một cách kịp thời. Thêm vào đó, hình thức vay vốn này giúp Công ty giảm một phần chi phí so với hình thức vay trực tiếp bằng ngoại tệ hoặc tiền đồng, vì khi vay tiền đồng đổi sang ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu, khách hàng phải mất một khoản tiền do chênh lệch tỷ giá mua, bán của ngân hàng.
Theo như bảng cân đối kế toán của Công ty, năm 1998 nguồn vốn vay ngân hàng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh, khoảng 68.815% tương đương 21678.354 triệu đồng. Đây cũng là năm Công ty sử dụng nguồn tài trợ từ phía ngân hàng là lớn nhất. Đến năm 1999, nguồn vốn này đã giảm đi một cách đáng kể, chỉ còn chiếm 44.789% trong tổng nguồn tương đương với 12914.214 triệu đồng. Và đến năm 2000, con số này chỉ còn là 7742.714 triệu đồng, chiếm 23.504%, bằng 59.955% so với năm 1999. Việc giảm tỷ trọng nguồn vốn vay ngân hàng trong tổng nguồn trong khi quy mô kinh doanh của Công ty có chiều hướng tăng thể hiện khả năng huy động vốn của doanh nghiệp từ các nguồn khác có chi phí rẻ hơn và tiện lợi hơn. Điều này sẽ được làm rõ hơn trong phần phân tích dưới đây.
2.2.3. Sử dụng tín dụng thương mại.
Hình thức tín dụng thương mại (còn được gọi là tín dụng nhà cung cấp), bao gồm các khoản phải trả người bán và người mua ứng trước, các khoản phải thu khách hàng và người bán ứng trước, thể hiện khả năng chiếm dụng vốn hay bị chiếm dụng vốn của một doanh nghiệp.
Cũng giống như các doanh nghiệp khác trên thị trường, trong quá trình hoạt động kinh doanh, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng đã khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại một cách tự nhiên thông qua quan hệ mua bán chịu, mua bán chậm hay trả góp. Và do nhận thức được tính tiện lợi và linh hoạt cũng như khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh lâu bền với các bạn hàng của hình thức tín dụng này, Công ty đã tận dụng một cách triệt để và ngày càng nâng cao tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn tài trợ.
Chúng ta có thể thấy một cách rõ hơn thông qua phân tích tình hình nợ ngắn hạn và các khoản phải thu của Công ty trong ba năm qua (Bảng 5) như sau:
Năm 1998, con số chiếm dụng vốn của Công ty là 5408.611 triệu trong đó phải trả người bán và người mua chiếm 52.93%; còn lại là các khoản phải trả khác. Sang năm 1999, con số này tăng lên rất nhiều bằng 212.36% so với năm 1998 tương đương với 11485.467 triệu đồng. Tuy nhiên, sự gia tăng này chủ yếu là do các khoản người mua ứng trước tăng nhanh, từ 336.1 triệu đồng năm 1998 lên 9687.023 triệu năm 1999, tức là tăng khoảng 28 lần; còn các khoản phải trả người bán lại giảm đi, chỉ bằng 5.732% so với năm 1998. Các khoản phải trả khác cũng giảm đi đáng kể, từ 2545.777 triệu đồng xuống còn 1653.616 triệu; do đó tỷ trọng phải trả người bán và người mua ứng trước trong tổng số vốn chiếm dụng tăng lên tới 85.60%. Năm 2000, tỷ trọng này tiếp tục tăng, chiếm 85.96% do sự tăng lên tiếp tục của các khoản phải trả người bán và người mua ứng trước. Điều này thể hiện khả năng chiếm dụng vốn của Công ty ngày một tăng, chứng tỏ Công ty làm ăn có uy tín, được các bạn hàng tin tưởng giao vốn trong kinh doanh.
Về mặt bị chiếm dụng vốn, con số này giảm dần qua các năm. Năm 1998, khoản phải thu khách hàng tương đối lớn bằng 23177.069 triệu đồng nhưng sang năm 1999 con số này chỉ còn 3640.525 triệu, giảm 84.293 % so với năm 1998. Năm 2000, các khoản phải thu khách hàng tăng khá nhanh, gấp gần hai lần so với năm 1999, tương đương 7022.781 triệu đồng. Tuy nhiên, do doanh nghiệp giảm được các khoản trả trước cho người bán và các khoản phải trả khác nên lượng vốn bị chiếm dụng tăng lên không đáng kể, chỉ khoảng 18,7% so với năm 99.
Nhìn chung, trong những năm vừa qua, Công ty đã tận dụng được rất tốt các nguồn vốn trong quan hệ mua bán chịu, tăng khả năng huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Đây là điểm mạnh mà doanh nghiệp cần phát huy trong những năm tiếp theo.
Ngoài những nguồn vốn cơ bản trên, Công ty còn thực hiện huy động vốn từ một số nguồn khác như vốn từ cán bộ công nhân viên, các khoản phải nộp phải trả cho Nhà nước nhưng chưa nộp, các khoản chi phí trích trước nhưng chưa chi… Như năm 2000, nguồn vốn Công ty huy động từ cán bộ công nhân viên là 1783.2 triệu đồng. Nguồn vốn này tuy không lớn nhưng góp phần giúp cho doanh nghiệp giải quyết được những nhu cầu chi trả mang tính chất tạm thời.
2.2. Đánh giá tình hình huy động vốn của Công ty
xnk Hai Bà Trưng.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
Đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh.
Một doanh nghiệp muốn tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì vấn đề đầu tiên cần giải quyết là phải đảm bảo được nhu cầu vốn cho hoạt động của mình. Để làm được điều đó, trước hết Công ty cần xác định được lượng vốn mình cần là bao nhiêu. Trên cơ sở đó mới tiến hành các biện pháp tìm nguồn tài trợ đủ cho nhu cầu đó.
Một trong những tiêu thức thường được sử dụng để phản ánh nhu cầu vốn của doanh nghiệp là nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Chỉ tiêu này cho biết lượng vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động. Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp dương, tức là hàng tồn kho và các khoản phải thu nhiều hơn nợ ngắn hạn mà doanh nghiệp huy động được từ bên ngoài, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng nguồn vốn của bản thân để tài trợ cho phần chênh lệch. Trong trường hợp ngược lại, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên âm chứng tỏ nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài thừa để tài trợ cho nhu cầu ngắn hạn của doanh nghiệp.
Đối với Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên được xác định như sau:
Bảng 6. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm1998
Năm 1999
Năm 2000
So sánh
99/98
2000/99
(1).K. phải thu
23574.389
7543.97
8954.612
32.00%
118.69%
(2).Hàng tồn kho
1803.946
15344.811
18418.32
850.62%
120.03%
(3).Nợ ngắn hạn
27086.965
24399.682
28517.13
90.08%
116.87%
(4).Nhu cầu VLĐ
-1708.63
-1510.901
-1144.139
txuyên=(1)+(2)-(3)
Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Nhìn vào bảng 6 ta thấy, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty trong những năm vừa qua đều âm. Điều đó chứng tỏ Công ty huy động vốn từ bên ngoài tốt, đảm bảo tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, con số này giảm dần qua các năm. Năm 1998, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty là -1708.63 triệu đồng nhưng đến năm 1999 nhu cầu này chỉ còn -1510.901 triệu và năm 2000 là -1144.193 triệu. Nguyên nhân chủ yếu là do các khoản phải thu của Công ty trong những năm gần đây giảm mạnh, đặc biệt là năm 1999 các khoản phải thu của Công ty giảm 68% so với năm 1998. Trong khi đó, nguồn vốn huy động từ ngân hàng lại tăng lên. Năm 2000, vay nợ ngân hàng của Công ty tăng 16.87% tương đương 4117.444 triệu đồng so với năm 1999. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên giảm cho biết khả năng huy động vốn từ bên ngoài của Công ty ngày một giảm dần và công ty cần phải lưu tâm xem xét để điều chỉnh trong những năm tới đây.
Trong một doanh nghiệp, nguồn vốn được huy động để hình thành nên các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ và sử dụng trong quá trình hoạt động kinh doanh, bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Trong đó, thông thường, nguồn ngắn hạn được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động còn nguồn dài hạn tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, bên cạnh chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, Công ty còn phải xác định lượng vốn lưu động thường xuyên mà mình có để xem nguồn vốn dài hạn có đủ để đầu tư cho tài sản cố định hay không. Nếu không, tức là vốn lưu động thường xuyên âm, thì doanh nghiệp phải sử dụng một phần vốn ngắn hạn để đầu tư cho tài sản cố định; ngược lại, nghĩa là khi vốn lưu động thường xuyên dương thì nguồn vốn dài hạn thừa để đầu tư vào tài sản cố định và chuyển một phần sang đầu tư vào tài sản lưu động.
Bảng 7. Vốn lưu động ròng thường xuyên.
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
So sánh
99/98
2000/99
(1).Nợ dài hạn
0
0
0
(2).Vốn chủ sở hữu
4415.436
4428.116
4425.398
100.28%
99.94%
(3).Tài sản cố định
1512.538
1415.167
1661.153
93.56%
117.38%
(4).VLĐ thường
2902.898
3012.949
2764.245
xuyên=(1)+(2)-(3)
Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Theo như bảng 7, ta thấy vốn lưu động thường xuyên của Công ty luôn dương. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì là một doanh nghiệp thương mại với tỷ trọng tài sản cố định thấp, Công ty có thể sử dụng nguồn dài hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong quá trình kinh doanh sau khi đã tài trợ đủ cho những tài sản cố định cần thiết. Việc dùng nguồn dài hạn để tài trợ cho tài sản lưu động là khá an toàn song đổi lại Công ty lại phải chịu chi phí vốn cao hơn so với việc dùng nguồn ngắn hạn. Tuy nhiên, trong trường hợp của Công ty, do không phải đi vay vốn dài hạn mà chỉ dùng vốn chủ sở hữu nên điều này không đáng kể so với độ an toàn cao và khả năng độc lập tài chính mà Công ty có được. Chính nhờ điều đó mà Công ty tăng được uy tín đối với các bạn hàng, được các bạn hàng tin cậy và ngân hàng tạo điều kiện để đạt được kết quả cao trong kinh doanh.
Bảng 8. Ngân quỹ của Công ty.
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
(1). Vốn lưu động thường xuyên
2902.898
3012.949
2764.245
(2). Nhu cầu VLĐ thường xuyên
-1708.63
-1510.901
-1144.193
(3). Vốn bằng tiền = (1)-(2)
4611.528
4523.85
3908.438
Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Ngân quỹ của Công ty luôn dương và khá ổn định qua các năm. Năm 1998 là năm có ngân quỹ lớn nhất, bằng 4611.582 triệu đồng; thấp nhất là năm 2000 với 3908.438. Ngân quỹ của Công ty có giảm đi trong những năm gần đây song sự thay đổi này không đáng kể.
Như vậy, qua phân tích trên ta thấy rằng, kế hoạch tài trợ của Công ty đã đáp ứng được một trong những yêu cầu quan trọng của nó là đảm bảo đủ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của Công ty trong các điều kiện khác nhau của thị trường. Đây là một trong những nhân tố góp phần làm tình hình tài chính của Công ty ổn định, tài sản lưu động đủ để trả các khoản nợ và tài sản cố định được tài trợ chắc chắn.
2.3.1.2. Huy động được những nguồn vốn có chi phí thấp và linh hoạt.
Bên cạnh việc đảm bảo đủ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, kế hoạch tài trợ của Công ty còn tìm được những nguồn có chi phí thấp, có khả năng thay đổi quy mô một cách linh hoạt tuỳ theo những phức điều kiện phức tạp của thị trường.
Bảng 9. Cơ cấu nguồn vốn.
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
1. Vay ngắn hạn
21678.345
68.81%
12914.214
44.80%
7742.714
23.50%
2. Phải trả người bán
2526.734
8.02%
144.828
0.50%
2501.429
7.59%
3. Ng.mua ứng trước
336.1
1.07%
9687.023
33.60%
15280.29
46.38%
4. Phải trả khác
2545.777
8.08%
1653.616
5.74%
2992.684
9.085%
5. Nguồn vốn CSH
4415.436
14.02%
4428.116
15.36%
4425.398
13.43%
Tổng nguồn vốn
31502.392
100%
28827.797
100%
32942.52
100%
Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Nghiên cứu nguồn vốn huy động của Công ty, đặc biệt là trong hai năm gần đây (1999, 2000) ta thấy nguồn vốn chủ yếu mà Công ty đang sử dụng là vay ngắn hạn, phải trả người bán, người mua ứng trước và vốn chủ sở hữu. Trong đó, các khoản người mua ứng trước chiếm tỷ trọng lớn nhất và ngày càng có xu hướng gia tăng. Năm 1999, nguồn này tăng gần 29 lần chiếm 33.6% tổng nguồn vốn. Đến năm 2000, tỷ trọng nguồn này trong tổng nguồn huy động là 46.38%. Các khoản phải trả khác cũng được sử dụng ngày càng tăng.
Đây là những nguồn có chi phí tương đối thấp so với những nguồn khác, thậm chí nhiều khi Công ty có thể sử dụng mà không phải trả phí. Chính điều này đã góp phần làm giảm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở đó năng cao lợi nhuận của hoạt động kinh doanh.
Bảng 10. Doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
So sánh
99/98
2000/99
(1). Lợi nhuận sau thuế
100
120
112.28
120%
93.57%
(2). Vốn chủ sở hữu
4415.436
4428.116
4425.398
100.29%
99.94%
(3). Doanh lợi vốn chủ
0.023
0.027
0.025
119.66%
93.62%
sở hữu = (1)/(2)
Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Theo bảng phân tích doanh lợi trên vốn chủ sở hữu trên, ta thấy doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tăng đều trong các năm, lần lượt là 0.023, 0.027, 0.025. Như vậy, năm 1998, một đồng vốn chủ sở hữu đưa vào kinh doanh đem lại 0.023 đồng lợi nhuận sau thuế. Năm 1999, con số này tăng lên là 0.027 do lợi nhuận tăng 20 % so với năm 1998. Sang năm 2000, do lợi nhuận thu được giảm nên doanh lợi vốn chủ sở hữu giảm đi 6.38% tương đương một đồng vốn chủ sở hữu đưa vào sử dụng chỉ đem lại 0.025 đồng lợi nhuận sau thuế, tức là giảm 0.003 đồng so với năm 1999. Tuy nhiên, chỉ tiêu này vẫn cao hơn so với năm 1998.
Nhìn chung, việc sử dụng các nguồn vốn có chi phí thấp đã phần nào giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất kinh doanh, giảm giá vốn hàng bán và nhờ đó tăng được sức cạnh tranh trên thị trường. Bằng chứng là Công ty đã được các bạn hàng lựa chọn và tin tưởng trả tiền trước ngày càng nhiều như đã phân tích ở trên.
Bên cạnh đó, việc dùng các nguồn vốn này còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp linh động hơn trong việc mở rộng hay thu hẹp quy mô kinh doanh bằng cách đơn giản là giảm vay vốn ngân hàng hoặc chỉ nhận tiền ứng trước để cung cấp hàng hoá cho những bạn hàng truyền thống. Hoạt động kinh doanh của Công ty cũng an toàn hơn do không phải đối mặt với nguy cơ khách hàng không thanh toán tiền hàng đã mua.
2.3.1.3. Tỷ lệ bị chiếm dụng vốn ngày càng giảm.
Theo phân tích từ bảng 3 ta thấy, trong những năm gần đây, Công ty đã khắc phục được tình trạng bị chiếm dụng vốn. Điều này được chứng minh thông qua sự giảm đi một cách nhanh chóng các khoản phải thu của khách hàng. Năm 1998, khoản phải thu của khách hàng bằng 23177.069 triệu đồng nhưng đến năm 1999 con số này chỉ còn 7543.968 triệu, tức là giảm đi gần 68% so với năm 1998. Sang năm 2000, chỉ tiêu này có tăng hơn so với năm 99 nhưng tỷ lệ tăng không nhiều, khoảng 18% .
Sự biến đổi mang tính tích cực này đã giúp Công ty thu hồi vốn nhanh, tránh được tình trạng nợ đọng dây dưa và nhờ đó tăng nhanh được vòng quay vốn lưu động.
Bảng 11. Vòng quay vốn lưu động
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
(1). Doanh thu thuần
143587.069
135601.61
159604.051
(2). Vốn lưu động
29400.891
26823.659
30697.543
(3).Vòng quay vốn lưu động=(1)/(2)
4.88
5.055
5.199
Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Theo tính toán ở trên, ta thấy vòng quay vốn lưu động tăng dần trong ba năm. Năm 1998 vốn của Công ty quay được 4.88 vòng, đến năm 1999 tăng lên là 5.055 vòng và năm 2000, chỉ tiêu này đạt 5.199 vòng. Đây là một dấu hiệu rất khả quan về tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty, thể hiện khả năng thu hồi vốn kinh doanh và đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ trên cơ sở mở rộng được ngành nghề kinh doanh và nắm bắt được cơ hội thị trường.
Song song với việc giảm tỷ lệ bị chiếm dụng vốn, Công ty còn tăng được tỷ lệ chiếm dụng vốn do sự gia tăng của các khoản phải trả người bán và người mua ứng trước. Đây là những ưu điểm mà Công ty cần tiếp tục phát huy trong những năm tới.
Công ty đạt được những kết quả này là do một số nguyên nhân sau:
Trong thời gian qua, thị trường có nhiều biến động phức tạp, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông-Nam á làm đồng tiền mất giá… ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh của những doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp thương mại như Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng. Song do Nhà nước đã tiến hành các giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng … nên tỷ giá hối đoái của Việt Nam dao động không đáng kể, có tác động tích cực đến xuất nhập khẩu. Thêm vào đó việc Việt Nam tham gia vào APEC và trở thành thành viên chính thức của ASEAN đã tạo điều kiện cho Công ty mở rộng thị trường của mình sang nhiều nước trong khu vực, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, có thêm nhiều bạn hàng nước ngoài hợp tác kinh doanh.
Về phía Công ty, trong những năm qua, nhờ sự năng động trong quản lý và sự nhạy bén trong kinh doanh, đã khai thác được nhiều mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu của thị trường, mở rộng quan hệ với những bạn hàng mới … nên tình hình kinh doanh khá ổn định và phát triển. Trên cơ sở đó, ngày càng có nhiều bạn hàng trong và ngoài nước tin tưởng, ký kết các hợp đồng giao dịch và tạo điều kiện cung ứng vốn cho Công ty.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, Công ty vẫn gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến khả năng huy động vốn có nhiều hạn chế.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. Chưa đa dạng hoá các hình thức huy động.
Như đã phân tích ở trên, hiện nay nguồn vốn của Công ty hình thành từ bốn nguồn chính là vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng, các khoản phải trả người bán và người mua ứng trước, trong đó nguồn vốn vay ngân hàng có tỷ trọng ngày càng giảm còn các khoản phải trả người bán và người mua ứng trước có xu hướng ngày càng tăng. Một cơ cấu vốn như vậy có ưu điểm là chi phí sử dụng tương đối thấp, trên cơ sở đó tiết kiệm được chi phí kinh doanh, góp phần nâng cao lợi nhuận của Công ty.Tuy nhiên, ngoài những nguồn này, Công ty có thể sử dụng thêm những hình thức huy động khác như phát hành trái phiếu, sử dụng các hình thức tín dụng thuê mua, liên doanh liên kết… để làm dồi dào hơn nguồn vốn của mình. Việc sử dụng cơ cấu vốn như hiện nay tuy tiết kiệm được chi phí kinh doanh song lại đẩy Công ty vào tình trạng bị động, phụ thuộc nhiều vào các đối tác kinh doanh. Trong trường hợp họ làm ăn tốt, tin tưởng hợp tác với Công ty thì không có vấn đề gì xảy ra và Công ty vẫn đủ vốn để hoạt động. Song nếu họ gặp rủi ro trong kinh doanh, hoặc được mời chào bởi những mối làm ăn béo bở hơn và rút vốn thì kế hoạch tài trợ của Công ty sẽ bị khủng hoảng. Do đó, việc đa dạng hoá các hình thức huy động là một trong những giải pháp tối ưu đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của Công ty trong mọi tình huống phức tạp của thị trường, giúp Công ty chủ động hơn và không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư.
Công ty có thể đa dạng hoá nguồn tài trợ của mình bằng cách tăng nguồn vốn kinh doanh thông qua việc liên doanh liên kết, hợp tác kinh doanh hoặc sử dụng các hình thức tín dụng thuê mua. Hiện nay ở nước ta đã có một số doanh nghiệp quốc doanh triển khai hình thức tín dụng thuê mua và coi đây là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn rất hiệu quả. Thực hiện liên doanh liên kết cũng là một phương thức tốt để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Khi sử dụng hình thức này Công ty có thể tận dụng được lợi thế của bên liên doanh trong một số lĩnh vực cụ thể. Ví dụ như Công ty có thể liên doanh với một doanh nghiệp nước ngoài trong đó phía nước ngoài sẽ chịu trách nhiệm khai thác và tiêu thụ hàng hoá tại lãnh thổ nước đó hoặc khu vực đó. Như vậy, Công ty không những tăng thêm vốn mà còn tận dụng được lợi thế về mặt thị trường lãnh thổ.
Công ty cũng có thể kêu gọi vốn từ công nhân viên trong chính Công ty vì nguồn vốn này là hoàn toàn không có rủi ro. Từ trước đến nay Công ty đã thực hiện phương thức này tuy nhiên ở mức độ thấp và cũng mới chỉ thực hiện được từ năm 1999. Việc sử dụng nguồn vốn này giúp Công ty chủ động hơn trong kinh doanh đồng thời do có một phần vốn-phần lợi ích cụ thể của mình trong Công ty nên các cán bộ công nhân viên làm việc có trách nhiệm và gắn bó với Công ty hơn.
Ngoài ra, Công ty có thể tìm kiếm nguồn vốn vay nước ngoài khi cần những nguồn tài trợ cho những thương vụ cực lớn mà hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp khác sử dụng như vốn ODA hay WB…
2.3.2.2. Cơ cấu vốn mất cân đối.
Khi xây dựng các kế hoạch tài trợ cho hoạt động kinh doanh, mỗi một doanh nghiệp đều muốn đạt được một cơ cấu vốn tối ưu - tức là một tỷ lệ hợp lý giữa nợ và vốn chủ sở hữu nhằm hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất, và nhờ đó tối đa hoá giá trị chủ sở hữu.
Thông thường khi doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ, rủi ro kinh doanh cao hơn song tỷ lệ lợi tức mong đợi cũng cao hơn. Ngược lại, việc sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu đem lại lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn nhưng đổi lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại an toàn hơn.
Tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau: như rủi ro kinh doanh của Công ty, thuế thu nhập doanh nghiệp, khả năng linh hoạt tài chính và ý kiến chủ quan của các nhà quản lý mà mỗi doanh nghiệp sẽ lựa chọn một cơ cấu vốn khác nhau. Nói chung các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích một tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận tăng nhanh và không phải chia sẻ quyền kiểm soát Công ty mà vẫn đảm bảo được nguồn vốn cho nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. Song , nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Quay lại trường hợp của Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng chúng ta thấy, nguồn vốn được hình thành từ nợ chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng nguồn. Năm 1998, nguồn vốn có nguồn gốc từ nợ chiếm 85.984% tổng nguồn, tương đương 27086.965 triệu đồng trong khi nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 14.016% bằng 4415.436 triệu. Năm 1999 con số này là 84.693% nợ và 15.36% vốn chủ sở hữu. Năm 2000 là năm tỷ lệ nợ trong tổng nguồn chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm tới 86.566%.
Như đã phân tích ở trên, rõ ràng là với một tỷ lệ nợ khá cao như hiện nay, hoạt động kinh doanh của Công ty chứa đựng nhiều rủi ro hơn, Công ty dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi có những biến động bất lợi của thị trường hay vì một lý do nào đó mà các chủ nợ đồng thời muốn rút vốn kinh doanh. Thêm vào đó, với một tỷ lệ nợ quá cao, Công ty khó có thể huy động tiền vay để tiến hành sản xuất kinh doanh trong thời gian tới. Đây là một vấn đề mà Công ty cần phải xem xét và tìm biện pháp điều chỉnh để đảm bảo giữ vững khả năng thanh toán và củng cố uy tín của mình.
Nguyên nhân của tình hình trên bắt nguồn từ cả nhân tố chủ quan và khách quan.
Về phía Công ty, trong một vài năm trở lại đây do nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh, Công ty đã thực hiện tìm hiểu, xâm nhập vào những thị trường mới, xây dựng những mối quan hệ làm ăn mới với các bạn hàng trong và ngoài nước. Đây là công việc tốn rất nhiều chi phí. Thêm vào đó, Công ty lại mới xây thêm trụ sở tại 142 Phố Huế để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng cho nên mặc dù hoạt động kinh doanh tiến hành khá thuận lợi, nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty không những không được bổ sung mà Công ty còn phải vay thêm vốn ngân hàng, đặc biệt là trong năm 1998.
Nếu xét một cách khách quan, nguồn vốn ngân sách mà Công ty được nhà nước cấp quá nhỏ so với nhu cầu vốn lưu động, đặc biệt là khi hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển, nhà nước không thực hiện cấp vốn bổ sung mà doanh nghiệp phải tự tìm kiếm các nguồn tài trợ. Để duy trì hoạt động kinh doanh của mình, Công ty phải trông chờ vào các nguồn vốn vay, do đó dẫn đến một thực tế là vốn tín dụng không còn là vốn bổ sung mà chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn.
Ngoài ra, Công ty còn chịu ảnh hưởng từ các chính sách của nhà nước, giới hạn về nguồn vốn được phép huy động, các mặt hàng được phép kinh doanh…, thủ tục vay vốn từ ngân hàng cũng như từ nội bộ nền kinh tế như các quy định để được phép phát hành trái phiếu, cổ phiếu…và nhiều những nhân tố khách quan khác nữa mà Công ty đã gặp khó khăn trong vấn đề huy động vốn.
Chương III
Giải pháp tăng cường huy động vốn tại công ty
xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
3.1. Nhu cầu vốn Của Công ty XNK HBT
trong thời gian tới.
3.1.1. Định hướng hoạt động kinh doanh của Công ty.
Căn cứ vào mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ: phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại thời kỳ 1996 –2010 của Việt Nam là tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi chấp nhận hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới là chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh gay gắt. Đây vừa là thời cơ vừa là thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải tìm kiếm các giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện, tăng cường hoạt động kinh doanh của mình.
Nhận thức được điều đó, để hội nhập với xu hướng phát triển kinh tế của đất nước, nâng cao khả năng cạnh tranh và không ngừng phát triển, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng đã xây dựng cho mình một số phương hướng hoạt động như sau:
3.1.1.1. Mục tiêu hoạt động của Công ty trong những năm sắp tới:
- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước xu hướng ngày càng gia tăng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
- Đa dạng hoá mặt hàng, mở rộng thị trường, nâng cao doanh số nhằm không ngừng tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước.
3.1.1.2. Phương hướng hoạt động của Công ty:
- Về mặt hàng: tiếp tục đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, tích cực tìm kiếm, khai thác các mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường.
- Về thị trường: tiếp tục duy trì thị trường cũ, mở thêm nhiều thị trường mới, đặc biệt tăng cường mở rộng thị trường sang Trung Quốc, cố gắng duy trì mối quan hệ làm ăn với khách hàng truyền thống song song với việc tìm kiếm thu hút các khách hàng mới.
- Không ngừng củng cố và hoàn thiện cơ sử vật chất kỹ thuật đặc biệt là việc xây dựng và hiện đại hoá hệ thống phân phối sản phẩm bao gồm cả các cửa hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12022.DOC