Tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn của công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Mục lục
Mục
Nội dung
Trang
Mục lục
1
Danh mục bảng, biểu đồ
6
Danh mục các từ viết tắt
7
Lời mở đầu
8
Chương 1
Hoạt động huy động vốn của CTCP
Trên TTCK Việt nam
11
1.1
CTCP và hoạt động huy động vốn của CTCP
11
1.1.1
Công ty cổ phần
11
1.1.1.1
Khái niệm, đặc điểm của CTCP
11
1.1.1.2
Cơ cấu tổ chức quản lý CTCP
11
1.1.1.3
Cổ phần, cổ phiếu, cổ tức
12
1.1.2
Phương thức huy động vốn của CTCP
13
1.1.2.1
Huy động vốn CSH của CTCP
13
1.1.2.2
Huy động vốn vay của CTCP
14
1.1.2.2.1
Vốn tín dụng ngân hàng
14
1.1.2.2.2
Vốn từ tín dụng thương mại
15
1.1.2.2.3
Phát hành trái phiếu công ty
16
1.2
Huy động vốn của CTCP trên TTCK
18
1.2.1
Thị trường chứng khoán
18
1.2.2
Phương thức phát hành chứng khoán
21
1.2.2.1
Phát hành chứng khoán riêng lẻ
21
1.2.2.2
Phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng
22
1.2.3
Hình thức phát hành chứng khoán của CTCP trên TTCK
22
1.2.3.1
Phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng
22
1.2.3.2
Phát hàn...
88 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn của công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Mục
Nội dung
Trang
Mục lục
1
Danh mục bảng, biểu đồ
6
Danh mục các từ viết tắt
7
Lời mở đầu
8
Chương 1
Hoạt động huy động vốn của CTCP
Trên TTCK Việt nam
11
1.1
CTCP và hoạt động huy động vốn của CTCP
11
1.1.1
Công ty cổ phần
11
1.1.1.1
Khái niệm, đặc điểm của CTCP
11
1.1.1.2
Cơ cấu tổ chức quản lý CTCP
11
1.1.1.3
Cổ phần, cổ phiếu, cổ tức
12
1.1.2
Phương thức huy động vốn của CTCP
13
1.1.2.1
Huy động vốn CSH của CTCP
13
1.1.2.2
Huy động vốn vay của CTCP
14
1.1.2.2.1
Vốn tín dụng ngân hàng
14
1.1.2.2.2
Vốn từ tín dụng thương mại
15
1.1.2.2.3
Phát hành trái phiếu công ty
16
1.2
Huy động vốn của CTCP trên TTCK
18
1.2.1
Thị trường chứng khoán
18
1.2.2
Phương thức phát hành chứng khoán
21
1.2.2.1
Phát hành chứng khoán riêng lẻ
21
1.2.2.2
Phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng
22
1.2.3
Hình thức phát hành chứng khoán của CTCP trên TTCK
22
1.2.3.1
Phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng
22
1.2.3.2
Phát hành trái phiếu ra công chúng
24
1.2.4
Điều kiện phát hành chứng khoán
24
1.2.5
Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng cường huy động vốn của CTCP trên TTCK
25
1.2.5.1
Nhu cầu huy động vốn
25
1.2.5.2
Chi phí phát hành chứng khoán
26
1.2.5.3
Thời gian sử dụng vốn huy động
26
1.2.5.4
Chi phí vốn huy động
26
1.2.5.5
Sự hình thành các cổ đông kiểm soát mới
28
1.2.5.6
Khả năng thành công kế hoạch huy động vốn trên TTCK
28
1.2.5.7
Tính chủ động trong sản xuất kinh doanh
28
1.2.5.8
Chi phí giao dịch trên TTCK ảnh hưởng tới QĐ của các nhà đầu tư khi mua CK của CTCP
29
1.2.5.9
Đòn bẩy tài chính
30
1.2.5.10
Các yếu tố khác
31
1.2.5.10.1
Rủi ro của CTCP khi phát hành CK.
31
1.2.5.10.2
Chứng khoán của CTCP xem xét theo lý thuyết Lượng cầu tài sản
31
1.2.5.10.3
Yếu tố về thị trường
34
Chương 2
Thực trạng huy động vốn của CTCP
trên TTCK Việt nam
35
2.1
Thực trạng hoạt động của CTCP ở Việt nam
35
2.1.1
Quá trình hình thành và phát triển CTCP
35
2.1.2
Phương thức huy động vốn của CTCP ở Việt nam
39
2.1.2.1
Nguồn vốn CSH của CTCP
39
2.1.2.2
Nguồn vốn vay của CTCP
40
2.1.2.2.1
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng
40
2.1.2.2.2
Nguồn vốn tín dụng thương mại
43
2.1.2.2.3
Phát hành trái phiếu công ty
43
2.2
Thực trạng huy động vốn của CTCP trên TTCK Việt nam
44
2.2.1
Thị trường chứng khoán Việt nam
44
2.2.1.1
Quá trình hình thành và phát triển
44
2.2.1.2
Thực trạng hoạt động
44
2.2.2
Điều kiện niêm yết trên TTCK Việt nam
49
2.2.2.1
Điều kiện phát hành cổ phiếu
50
2.2.2.2
Điều kiện phát hành trái phiếu
51
2.2.3
Thực trạng huy động vốn của CTCP trên trên TTCK Việt nam
52
2.3
Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn của CTCP trên TTCK Việt nam
55
2.3.1
Nhu cầu huy động vốn
55
2.3.2
Chi phí phát hành CK
56
2.3.3
Thời gian sử dụng vốn huy động
57
2.3.4
Chi phí vốn huy động
57
2.3.5
Sự hình thành các cổ đông kiểm soát mới
59
2.3.6
Khả năng thực hiện kế hoạch huy động vốn trên TTCK
60
2.3.7
Tính chủ động trong SX-KD khi phát hành CK so với vay NHTM
61
2.3.8
Chi phí giao dịch trên TTCK
63
2.3.9
Các yếu tố khác
63
2.3.9.1
Rủi ro của CTCP khi phát hành CK
63
2.3.9.2
áp dụng lí thuyết lượng cầu tài sản
64
2.3.9.3
Các yếu tố thị trường
67
Chương 3
Giải pháp tăng cường huy động vốn của CTCP trên TTCK
69
3.1
Định hướng phát triển CTCP và TTCK Việt nam
69
3.1.1
Định hướng phát triển CTCP
69
3.1.2
Định hướng phát triển TTCK Việt nam giai đoạn 2005 – 2010
70
3.2
Các giải pháp ngoài CTCP
70
3.2.1
Xây dựng TTCK phi tập trung (OTC)
70
3.2.2
Hình thành các quĩ đầu tư chứng khoán
71
3.2.3
Đơn giản các điều kiện niêm yết
73
3.2.4
Phát triển hơn nữa thị trường trái phiếu
73
3.2.5
Giảm chi phí phát hành để giảm chi phí vốn cổ phiếu thưòng mới
74
3.2.6
Giảm chi phí giao dịch để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia TTCK
74
3.2.7
Chính sách ưu đãi thuế
75
3.2.8
Giảm bớt rủi ro của CTCP khi phát hành CK
77
3.3
Các giải pháp về phía CTCP
78
3.3.1
Nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD
78
3.3.2
Cải thiện chất lượng chứng khoán
79
3.2.3
Thực hiện minh bạch tài chính – công khai thông tin
80
3.4
Các giải pháp điều kiện
81
3.4.1
Quản lý chặt chẽ các thị trường: bất động sản, kim loại quí, ngoại tệ
81
3.4.1.1
Bất động sản
81
3.4.1.2
Kim loại quí
83
3.4.1.3
Ngoại tệ
83
3.4.2
Nhà nước cần xây dựng chính sách lãi suất hợp lí.
84
3.4.3
Phát triển dịch vụ tư vấn chứng khoán.
84
3.4.4
Tăng tính thanh khoản của chứng khoán
85
3.5
Các giải pháp khác
85
3.5.1
Lạm phát
85
3.5.2
Chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ
85
3.5.3
Tâm lí nhà đầu tư
86
3.5.4
Thói quen tiêu dùng và đầu tư của dân chúng
86
3.5.5
Tình hình chính trị xã hội
86
Kết luận
87
Tài liệu tham khảo
88
Danh sách bảng, biểu đồ
Bảng 1: Đóng góp của CTCP so với toàn khối DN
Bảng 2: Số lượng CTCP
Bảng 3: Đóng góp của CTCP cho nền KTQD
Bảng 4: Kết quả hoạt động của CTCP
Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn của CTCP
Bảng 6: Qui mô nguồn vốn của CTCP
Biểu đồ 1: Tỷ trọng dư nợ của hệ thông NH dành cho các ND
Bảng 7: Vốn vay NH của CTCP giai đoạn 1999-2003
Bảng 8: Nợ tín dụng thương mại của CTCP
Bảng 9: Sự thăng trầm của chỉ số VN index
Biểu đồ 2: Chỉ số VN index thời gian qua
Bảng 10: So sánh E/P giữa các tài sản tài chính
Bảng 11: Tổn giá trị chứng khoán giao dịch
Biểu đồ 3: Khối lượng chứng khoán giao dịch.
Bảng 12: Tài sản của CTCP
Bảng 13: Danh sách các CTNY trên TTCK Việt nam đến hết 2003
Bảng 14: Một số chỉ tiêu tài chính của các CTNY
Bảng 15: Cơ cấu thu nhập của một số NHTM năm 2001
Bảng 16: Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn trong tổng dư nợ của hệ thống NHTM
Bảng 17: Cơ cấu vốn huy động của hệ thống NHTM
Bảng 18: Giá trị trái phiếu giao dịch
Bảng 19: Một số chỉ tiêu kinh tế Việt nam giai đoạn 1991 - 2003
Danh sách các từ viết tắt
CTCP: Công ty cổ phần.
CTNY: Công ty niêm yết.
TTCK: Thị trường chứng khoán.
CK: Chứng khoán
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước.
CSH: Chủ sở hữu.
QĐTCK: Quĩ đầu tư chứng khoán.
CTCK: Công ty chứng khoán.
CTQLQ: Công ty quản lí quĩ.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
HĐQT: Hội đồng quản trị.
SX-KD: Sản xuất – kinh doanh.
lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đại hội 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay vận động theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Chính phủ khuyến khính sự phát triển của mọi thành phần kinh tế nhằm phát huy tối đa sức mạnh, xây dựng từng bước cơ sở vật chất-kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội.
Trong môi trường kinh tế đó, các loại hình doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng với nhau trong qui định của Pháp luật. Số lượng doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chính các doanh nghiệp là đơn vị sản xuất-kinh doanh tạo ra phần lớn của cải cho xã hội, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp mới ra đời ở Việt Nam, thời gian qua loại hình doanh nghiệp này chưa phổ biến. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới chỉ ra rằng Công ty cổ phần là mô hình kinh tế phổ biến và hiệu quả. ở Việt Nam, việc phát triển mô hình Công ty cổ phần ngoài việc phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế còn mang ý nghĩa phát triển mô hình sở hữu tập thể. Thực tế hoạt động Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua đã góp phần xác định rõ ý nghĩa định hướng Xã hội chủ nghĩa của cơ chế thị trường ở Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay các Công ty cổ phần ở Việt Nam chưa phát huy được vai trò thời đại của mình. Qui mô, số lượng các công ty cổ phần còn nhỏ, hiệu quả hoạt động chưa cao. Đóng góp của Công ty cổ phần cho sự phát triển kinh tế đất nước chưa xứng với tiềm năng của Công ty cổ phần. Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao phát triển mô hình Công ty cổ phần ở Việt Nam.
Để tồn tại và phát triển, Công ty cổ phần phải liên tục vận động, sắp xếp bộ máy tổ chức hợp lí, mở rộng qui mô sản xuất, áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch, khai thác mở rộng thị trường ... Để làm được như vậy, ngoài vốn chủ sở hữu, Công ty cổ phần có thể dùng các nguồn tài trợ khác là: Vay ngân hàng, liên doanh, chiếm dụng vốn ...
Trong những phương thức huy động vốn đó, phương thức phổ nhất hiện nay là vay các Ngân hàng thương mại. Với sự ra đời và đi vào hoạt động của Thị trường chứng khoán Việt Nam, các Công ty cổ phần đã có thể sử dụng phương thức huy động mới là phát hành chứng khoán. Nhưng cho đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho các CTCP.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Giải pháp tăng cường huy động vốn của công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về CTCP, nguồn vốn của CTCP, và huy động vốn của CTCP trên TTCK.
Thực trạng huy động vốn của CTCP trên TTCK Việt nam trong thời gian qua.
Đề xuất các giải pháp tăng cường huy động vốn của CTCP trên TTCK Việt nam, từ đó tạo điều kiện cho các CTCP phát triển sản xuất kinh doanh, thể hiện rõ vai trò trong nên kinh tế quốc dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài lấy hoạt đông huy động vốn của CTCP làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi của đề tài là tập trung nghiên cứu các yếu tố tác động đến huy động vốn của CTCP trên TTCK và các giải pháp tăng cường huy động vốn của CTCP trên TTCK.
Mốc thời gian là từ năm 2000 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp: tổng hợp, so sánh, thống kế, phân tích, qui nạp, diễn dịch để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
5. Dự kiến đóng góp của đề tài:
Hệ thống hoá lí luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của CTCP trên TTCK.
Đánh giá thực trạng huy động vốn của CTCP trên TTCK Việt nam những năm qua.
Đề xuất các giải pháp có tính khả thi về tăng cường huy động vốn của CTCP trên TTCK Việt nam trong những năm tới.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận thì đề tài gồm 3 chương.
Chương 1 Hoạt động huy động vốn của CTCP trên TTCK.
Chương 2 Thực trạng huy động vốn của CTCP trên TTCK Việt nam.
Chương 3 Giải pháp tăng cường huy động vốn của CTCP trên TTCK Việt nam.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô trong Khoa Ngân hàng Tài chính - Trường Đại học KTQD đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt cảm ơn TS Phan Thị Thu Hà về sự hướng dẫn nhiệt tình, và những gợi mở quan trọng giúp tôi thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn GS-TS Tô Xuân Dân - Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Thành phố Hà Nội, đã cung cấp cho tôi tài liệu để hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn các bạn học cùng khoá K10 đã cùng tôi trao đổi những vấn đề của luận văn.
Chương 1
Hoạt động huy động vốn của Công ty cổ phần
trên thị trường chứng khoán
1.1 Công ty cổ phần và hoạt động huy động vốn của Công ty cổ phần.
1.1.1 Công ty cổ phần.
1.1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của công ty cổ phần.
Khái niệm: Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau goị là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác (trừ trường hợp cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần của cổ đông sáng lập có qui định riêng). Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân ; Số lượng cổ đông tối thiểu của công ty là 3 và không hạn chế số lượng tối đa.
1.1.1.2 Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần.
Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc). Với Công ty cổ phần có trên 11 cổ đông thì có thêm Ban kiểm soát.
a. Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của Công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông có các quyền chính sau:
+ Quyết định loại và số cổ phần được quyền chào bán của từng loại. Quyết định mức cổ tức hàng năm.
+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát.
+ Quyết định tổ chức lại và giải thể Công ty cổ phần.
+ Quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ Công ty cổ phần.
+ Thông qua báo cáo tài chính hàng năm.
+ Quyết định mua lại hơn 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại.
b. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý Công ty cổ phần, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty (trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông). Hội đồng quản trị có các quyền và nghĩa vụ chính sau:
+ Quyết định chiến lược phát triển của công ty.
+ Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác.
+ Quyết định phương án đầu tư.
+ Quyết định giải pháp phát triển thị trường; thông qua hợp đồng mua bán, vay, cho vay và các hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty.
+ Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc (Tổng giám đốc) và cán bộ quản lý quan trọng khác của công ty.
+ Quyết định cơ cấu tổ chức, qui chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác.
+ Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Đại hội đồng cổ đông.
+ ...
- Hội đồng quản trị gồm không quá 11 thành viên, Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trong số các thành viên của mình. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc (Tổng giám đốc) theo điều lệ của công ty.
d. Giám đốc (Tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
1.1.1.3 Cổ phần, cổ phiếu, cổ tức.
a. Cổ phần: Công ty cổ phần có cổ phần phổ thông và có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông. Công ty cổ phần có thể có các loại cổ phần ưu đãi sau:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết.
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức.
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại.
+ Cổ phần ưu đãi khác theo điều lệ công ty.
Chỉ có cổ đông sáng lập mới được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Cổ phần ưu đãi biểu quyết này chỉ có hiệu lực trong vòng 3 năm kể từ ngày Công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết chuyển thành cổ phần phổ thông.
b. Cổ phiếu: là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phầncủa công ty. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên.
c. Cổ tức: Công ty cổ phần trả cổ tức cho cổ đông khi công ty kinh doanh có lãi, hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo qui định của Pháp luật. Mức cổ tức trả đối với từng cổ phần do Hội đồng quản trị xác định.
1.1.2 Phương thức huy động vốn của CTCP.
Vốn là sự biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được sử dụng đầu tư vào quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra lợi nhuận, làm tăng thêm giá trị cho chủ sở hữu doanh nghiệp.
1.1.2.1 Huy động vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần.
a. Vốn góp ban đầu: Khi Công ty cổ phần được thành lập thì chủ công ty phải có một số vốn ban đầu do thành viên sáng lập góp. Vốn ban đầu thường được dùng để xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị ban đầu, trang trải các chi phí cho hoạt động thành lập công ty. Các thành viên sáng lập cùng ký biên bản góp vốn để làm cơ sở thành lập CTCP. Trên cơ sở biên bản góp vốn, các thành viên sáng lập lập hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm: đơn đăng ký kinh doanh (có nêu rõ số cổ phần mà cổ đông sáng lập đăng ký mua), điều lệ công ty (có nêu rõ số cổ phần mà cổ đông sáng lập cam kết mua), danh sách cổ đông sáng lập (có nêu rõ số lượng cổ phần, loại cổ phần, loại tài sản, số lượng tài sản).
Theo điều 58, Luật doanh nghiệp, trong 3 năm đầu kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông đựoc quyền chào bán; cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, theo thời gian, vốn ban đầu sẽ chiếm tỷ trọng rất nhỏ bé trong tổng số vốn chủ sở hữu của Công ty cổ phần. Đó chính là nguyên tắc: tư bản ban đầu chỉ là giọt nước trong dòng sông tích luỹ.
b. Vốn từ lợi nhuận không chia: Trong quá trình hoạt động kinh doanh, nếu làm ăn có lãi thì công ty có thể sử dụng một phần lợi nhuận để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguồn tài chính này rất quan trọng vì nó làm giảm chi phí dùng để vay vốn, giảm bớt sự phụ thuộc vè vốn vào các yéu tố bên ngoài. Tuy nhiên, việc để lại lợi nhuận không chia dùng tái đầu tư cũng làm giảm cổ tức năm đó và giảm tính hấp dẫn (thị giá) của cổ phiếu trong ngắn hạn.
c. Phát hành cổ phiếu mới: Đây là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán. Lượng cổ phiếu tối đa mà Công ty cổ phần được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép. Công ty cổ phần chỉ có thể phát hành cổ phiếu mới trong giới hạn vốn cổ phiếu đựoc cấp phép đã nêu.
Phát hành cổ phiếu ưu đãi: Cổ phiếu ưu đãi thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu đựoc phát hành.
1.1.2.2 Huy động vốn vay của công ty cổ phần.
1.1.2.2.1 Vốn tín dụng ngân hàng.
Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với Công ty cổ phần mà còn với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong hoạt động của mình, Công ty cổ phần luôn phải sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng phục vụ nhu cầu tài chính thường xuyên và cho các dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Vốn vay ngân hàng có thể là dài hạn (thường từ 3 năm trở lên), trung hạn (từ 1 đến 3 năm), hoặc ngắn hạn (dưới 1 năm) ; có thể là vay nội tệ, vay ngoại tệ... Vay ngân hàng có điều kiện tín dụng và qui trình chặt chẽ.
Điều kiện tín dụng: Công ty cổ phần muốn vay được của ngân hàng thương mại phải đáp ứng được những yêu cầu an toàn tín dụng của ngân hàng. Thông thường Công ty cổ phần phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng sẽ tự phân tích tình hình tài chính CTCP đi vay, thẩm định tính khả thi của phương án sử dụng vốn vay. Từ đó, ngânnhàng mới đưa ra quyết định cho vay vốn, Công ty cổ phần phụ thuộc hoàn toàn vào sự phân tích chủ quan của ngân hàng.
Điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi Công ty cổ phần có nhu cầu vay vốn ngân hàng, ngân hàng thường yêu cầu Công ty cổ phần phải có các đảm bảo tiền vay là thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Chính vì vậy, nhiều khi Công ty cổ phần không thể đáp ứng được yêu cầu này và sẽ không vay được tiền.
Sự kiểm soát của ngân hàng: Công ty cổ phần chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay ngân hàng, thông qua sự kiểm soát đó, ngân hàng đảm bảo tiền của mình sử dụng đúng mục đích, sử dụng có hiệu quả. Trong một số trường hợp, Công ty cổ phần có thể mất đi quyền tự chủ trong kinh doanh của mình, ngân hàng có thể tham gia quá sâu vào việc ra các quyết định trong hoạt động của công ty.
1.1.2.2.2 Vốn từ tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại hình thành một cách tự nhiên trong quá trình quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần, nó tồn tại dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả chậm, mua bán trả góp. Đối với Công ty cổ phần, nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức huy động rẻ tiền, tiện dụng và rất linh hoạt trong kinh doanh. Tín dụng thương mại góp phần củng cố thêm quan hệ giữa các bạn hàng, ít phải chịu sự kiểm soát. Tuy nhiên, tín dụng thương mại lại tiềm ẩn rất nhiều yếu tố rủi ro, có thể gây vỡ nợ dây chuyền.
1.1.2.2.3 Phát hành trái phiếu Công ty.
Trái phiếu công ty là giấy vay nợ trung-dài hạn. Trái phiếu công ty có nhiều loại, mỗi loại trái phiếu công ty lại có chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, tính hấp dẫn khác nhau. Trái phiếu công ty có nhiều hình thức khác nhau.
Trái phiếu có lãi suất cố định: Đây là loại phổ biến nhất trong các loại trái phiếu công ty. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong kỳ hạn của nó.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Lãi suất trái phiếu phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác, chẳng hạn như lãi suất của Ngân hàng trung ương, lãi suất cơ bản.
Với loại trái phiếu này, cả Công ty cổ phần và người nắm giữ trái phiếu đều không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này làm công ty mất nhiều công sức quản lý trái phiếu và khó khăn hơn trong việc lập kế hoạch tài chính.
Trái phiếu có thể thu hồi: Công ty cổ phần có thể mua lại trái phiếu vào một thời gian nào đó. Công ty phải qui định rõ về thời hạn và giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu, thông thường công ty qui định thời gian tối thiểu mà trái phiếu không bị thu hồi.
Với loại trái phiếu này, công ty sử dụng chúng để điều chỉnh cơ cấu vốn. Công ty có thể mua lại trái phiếu để làm giảm vốn vay, hoặc thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu bằng nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi: Là những trái phiếu kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Trái phiếu này cho phép người sở hữu có thể mua cổ phiếu thường với số lượng, giá cả và thời gian xác định và nó cũng cho phép người sở hữu trái phiếu có thể chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường.
Để huy động vốn trên thị trường tài chính bằng trái phiếu, Công ty cổ phần phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lãi suất của trái phiếu, kỳ hạn của trái phiếu, mệnh giá của trái phiếu, uy tín của công ty phát hành, các yếu tố khuyến khích kèm theo ...
Lãi suất của trái phiếu: Người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao còn công ty phát hành phải xác định mức lãi suất trong tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn. Trên thị trường vốn có trái phiếu của các công ty, trái phiếu của Chính phủ là đối tượng cạnh tranh với trái phiếu của công ty phát hành. Do trái phiếu Chính phủ có độ rủi ro thấp nên thường có lãi suất thấp hơn lãi suất của trái phiếu công ty.
Kỳ hạn của trái phiếu: Đây là yếu tố quan trọng không chỉ với công ty phát hành mà cả với người đầu tư. Để xác định kỳ hạn hợp lý, công ty căn cứ vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư.
Mệnh giá của trái phiếu: Mệnh giá của trái phiếu phụ thuộc vào sức mua của dân chúng. Với mệnh giá hợp lý, nhiều người đầu tư có thể mua được trái phiếu và tăng tính thanh khoản của trái phiếu.
Uy tín của công ty: Không phải công ty nào cũng có thể phát hành trái phiếu, chỉ các công ty có uy tín, vững mạnh mới có thể thu hút người đầu tư . Uy tín của công ty phát hành chính là sự biểu hiện độ rủi ro của trái phiếu. Với các công ty lớn, đã hoạt động lâu năm thì độ rủi ro của trái phiếu của công ty được coi là nhỏ hơn so với các công ty qui mô nhỏ, thời gian hoạt động trên thị trường ngắn hơn.
Các yếu tố khuyến khích: Công ty có thể đưa thêm các yếu tố khuyến khích kèm theo trái phiếu để hấp dẫn người đầu tư mà không cần nâng quá cao mức lãi suất. Ví dự như: trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu, thời hạn thanh toán nhiều lần trong năm, trả lãi trước, các chính sách chăm sóc khách hàng, khuyến mại tặng quà ...
1.2 huy động vốn của Công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán.
1.2.1 Thị trường chứng khoán.
a. Khái niệm.
Vốn là yếu tố quan trọng, là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường luôn suất hiện cung cầu về vốn. Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào muốn phát triển ổn định và bền vững thì phải có đủ vốn đầu tư, tức là phải có kênh dẫn vốn hữu hiệu từ cung về vốn đến cầu về vốn. Hệ thống các ngân hàng thương mại là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, nhưng vốn qua kênh này chủ yếu là vốn ngắn và trung hạn theo hình thức gián tiếp. Trong khi đó, nhu cầu phát triển của các Công ty cổ phần lại chủ yếu là vốn trung, dài hạn. Người đầu tư cũng có xu hướng đầu tư trực tiếp không qua ngân hàng. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán (một bộ phận của thị trường vốn) đã ra đời để đưa vốn trực tiếp từ nguồn cung vốn đến nguồn cầu vốn.
Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán vốn và các chứng khoán nợ trung, dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu, và một số loại giấy tờ có giá trị khác).
Xét về mặt hình thức, TTCK là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Xét về bản chất: TTCKlà nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm, là nơi mà cả chủ thể cung và cầu về vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp.
b. Đặc điểm của thị trường chứng khoán.
TTCK là thị trường của các công cụ tài trợ trực tiếp, trong đó người cung và người cầu về vốn trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có các trung gian tài chính.
TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở đó giá cả được hình thành trên cơ sở cạnh tranh tự do, dựa trên quan hệ cung cầu và phản ánh các thông tin có liên quan đến chứng khoán.
TTCK là thị trường liên tục. Sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua bán nhiều lần trên thị trường thứ cấp, đảm bảo cho người đầu tư có thể chuyển các chứng khoán thành tiền bất cứ lúc nào.
TTCK tạo khả năng lựa chọn phong phú cho người đầu tư, đồng thời mang lại cho những người cần vố sang tiên cơ hội huy động vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động qua trung gian tài chính.
TTCK là kênh bổ sung vốn quan trọng cho nền kinh tế, tạo điều kiện huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
c. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Do tính hấp dẫn riêng có của mình, TTCK thu hút đông đảo các tổ chức, cá nhân đầu tư tham gia. Căn cứ vào mục đích tham gia TTCK, có thể chia chủ thể tham gia TTCK thành các nhóm sau:
* Nhà phát hành.
Nhà phát hành là những người phát hành chứng khoán để huy động vốn trên thị trường sơ cấp. Họ là người cung cấp hàng hoá cho thị trường. Công ty cổ phần khi phát hành chứng khoán là người cung cấp hàng hoá chính cho TTCK.
Nhà phát hành có thể là: Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp, tổ chức tài chính.
* Nhà đầu tư: Gồm nhà đầu tư các nhân và các nhà đầu tư có tổ chức.
Nhà đầu tư các nhân: là những cá nhân có vốn nhàn rỗi, tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường với mục đích kiếm lời.
Nhà đầu tư có tổ chức: Là các tổ chức chuyên mua bán chứng khoán cho khách hàng và cho chính mình. Các tổ chức này là các công ty bảo hiểm, các quĩ đầu tư.
* Các tổ chức kinh doanh trên Thị trường chứng khoán.
Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán là những tổ chức được phép thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: môi giới chứng khoán, bảo lãnh, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý quĩ đầu tư chứng khoán và nghiệp vụ tự doanh.
Công ty chứng khoán: Các doanh nghiệp được phép hoạt động kinh doanh chứng khoán thường phải là các công ty Trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty cổ phần. Công ty chứng khoán có thể được cấp phép thực hiện một hoặc một số hoặc toàn bộ các các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Ngân hàng thương mại: Hoạt động của các ngân hàng thương mại trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán được qui định khác nhau ở các nước khác nhau.
Công ty quản lý quĩ đầu tư chứng khoán: Ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, công ty tài chính là đối tương phù hợp nhất để tổ chức, quản lý các quĩ đầu tư tập thể.
Công ty tư vấn đầu tư chứng khoán: Là những công ty chỉ chuyên kinh doanh hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư để hưởng dịch vụ phí.
Công ty môi giới chứng khoán: Với những quốc gia có qui định khác biệt về hoạt động môi giới và tự doanh chứng khoán thì hoạt động môi giới chứng khoán sẽ do công ty này đảm nhận.
* Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán.
Cơ quan quản lý nhà nước đối với TTCK: ở Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán nhà nước đảm nhiệm việc tổ chức, xây dựng, quản lý, giám sát TTCK.
Cơ quản tổ chức hoạt động của TTCK: Sở Giao dịch chứng khoán.
Các tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
Ngoài các tổ chức kể trên, còn có các tổ chức khác như: tổ chức kiểm toán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, công ty đánh giá hệ số tín nhiệm ...
d. Hàng hoá của thị trường chứng khoán.
Hàng hoá của thị trường chứng khoán là các tài sản tài chính, khác với hàng hoá thông thường qua quá trình sử dụng giá trị của nó sẽ giảm dần hoặc mất đi, với tài sản tài chính, giá trị của nó được bảo toàn và có xu hướng tăng lên, đây chính là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư.
Chứng khoán là bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quĩ đầu tư và các loại chứng khoán khác.
1.2.2 Phương thức phát hành chứng khoán.
1.2.2.1 Phát hành chứng khoán riêng lẻ.
Phát hành riêng lẻ là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán cho một số người nhất định (thông thường là các nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện hạn chế và không tiến hành một cách rộng rãi ra công chúng.
Phương thức phát hành riêng lẻ chịu sự điều chỉnh của Luật công ty và chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung.
Công ty thường lựa chọn phát hành riêng lẻ bởi một số nguyên nhân sau:
+ Công ty không đủ điều kiện để phát hành ra công chúng.
+ Số lượng vốn cần huy động thấp, do đó, nếu phát hành ra công chúng thì chi phí trên mỗi đơn vị vốn huy động sẽ quá cao. Phát hành riêng lẻ giảm được chi phí huy động.
+ Công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích duy trì và tăng cường các mối quan hệ trong kinh doanh với nhà cung cấp, tiêu thụ hay các đối tác ...
+ Phát hành riêng lẻ chứng khoán cho cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm mục đích tăng trách nhiệm, tăng hiệu quả trong công việc, gắn kết hơn nữa người làm thuê với công ty.
Chứng khoán phát hành riêng lẻ khó có thể phản ánh được mối quan hệ cung cầu trên thị trường do số lượng người mua hạn chế, vì vậy giá chứng khoán phát hành riêng lẻ thường thấp hơn giá chứng khoán phát hành rộng rãi ra công chúng.
Khi phát hành riêng lẻ cổ phiếu, mỗi nhà đầu tư sẽ mua được một khối lượng lớn cổ phiếu, do đó rất dễ xuất hiện cổ đông kiểm soát công ty trong số các nhà đầu tư. Ngược lại, phát hành riêng lẻ trái phiếu thực chất là vay vốn từ các nhà đầu tư, nên không làm xuất hiện cổ đông kiểm soát.
1.2.2.2 Phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng.
Là việc phát hành chứng khoán rộng rãi ra cho một số lượng lớn công chúng đầu tư, trong đó một tỷ lệ nhất định chứng khoán phải được phân phối cho các nhà đầu tư nhỏ.Tổng giá trị chứng khoán phát hành cũng phải đạt mức nhất định. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quản quản lý Nhà nước về chứng khoán cấp phép hoặc chấp thuận. Sau khi đựơc phát hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán sẽ được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán nếu đáp ứng được các qui định.
Các Công ty cổ phần phát hành chứng khoán ra công chúng và được phép niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung có lợi thế rất lớn trong việc quảng bá tên tuổi công ty. Giới kinh doanh đều coi các công ty được niêm yết trên thị trường tập trung là những công ty có sự ổn định nhất định, việc này tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong quá trình SX-KD.
Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng làm giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông hiện tại, nhưng do cổ phiếu được bán cho rất nhiều nhà đầu tư, mỗi nhà đầu tư chỉ có thể nắm được một số chứng khoán nhất định, nên quyền kiểm soát công ty của các cổ đông hiện tại, đặc biệt là các cổ đông lớn, không bị ảnh hưởng.
Với trái phiếu phát hành trên TTCK, CTCP huy động được một lượng vốn lớn mà không làm mất quyền kiểm soát, tự chủ kinh doanh.
1.2.3 Hình thức phát hành chứng khoán của Công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán.
1.2.3.1 Phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng.
Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai cách.
Phát hành lần đầu ra công chúng, là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên đựơc bán rộng rãi cho công chúng đầu tư. Nếu cổ phần được bán lần đầu cho công chúng nhằm tăng vốn thì đó là phát hành lần đầu sơ cấp. Nếu cổ phần được bán lần đầu từ số cổ phần hiện hữu thì đó là phát hành lần đầu thứ cấp. Phát hành cổ phiếu lần đầu tiên được điều chỉnh bởi Luật Công ty cổ phần ở thị trường sơ cấp.
Chào bán sơ cấp, là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung thêm của công ty cho rộng rãi công chúng đầu tư khi đợt phát hành đầu tiên đã thành công và được tín nhiệm. Hình thức chào bán sơ cấp được điều chỉnh bởi Luật chứng khoán ở thị trường thứ cấp. Giá chào bán cổ phiếu là do công ty phát hành chứng khoán và tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán thoả thuận với nhau.
Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng có các lợi ích sau:
+ Tạo uy tín trong xã hội, từ đó sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn ở những lần sau.
+ Tăng thêm vốn để sản xuất kinh doanh.
+ Dễ dàng hơn trong vay vốn từ ngân hàng: về lãi suất ưu đãi hơn, điều kiện thế chấp tài sản nhẹ hơn.
+ Có điều kiện thu hút và duy trì được đội ngũ nhân viên giỏi thông qua bán cổ phần cho họ, từ đó tạo sự gắn bó của họ với công ty.
+ Nâng cao chất lượng và độ chính xác của các báo cáo tài chính, cáo bạch của công ty.
Tuy nhiên, phát hành cổ phiếu lần đầu cũng có những bất lợi sau:
+ Phân tán quyền sở hữu và có thể làm mất quyền kiểm soát công ty của các cổ đông sáng lập nếu không có kế hoạch phát hành đúng đắn.
+ Chi phí phát hành tốn kém (khoảng từ 8-10% vốn huy động).
+ Phải tuân thủ chế độ công bố thông tin rộng rãi, nghiệm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các công ty không niêm yết. Điều này có thể gây rò rỉ các thông tin kinh doanh, gây bất lợi trong cạnh tranh.
+ Đội ngũ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước công chúng.
1.2.3.2 Phát hành trái phiếu ra công chúng.
Khác với cổ phiếu, trái phiếu của Công ty cổ phần chỉ phát hành bằng một hình thức duy nhất là Chào bán sơ cấp trái phiếu.
1.2.4 Điều kiện phát hành chứng khoán.
Các công ty thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng đều phải đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn cao của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán và phải hoàn thành nhiều thủ tục phức tạp trước và sau khi phát hành chứng khoán ra công chúng. Việc đặt ra các yêu cầu như vậy là bởi các lý do sau:
+ Phát hành chứng khoán ra công chúng là phát hành cho một số lượng lớn các nhà đầu tư . Một phần trong số các nhà đầu tư không có sự hiểu biết và khả năng phân tích cao về chứng khoán. Để bảo vệ các nhà đầu tư, chứng khoán phát hành phải có chất lượng và công ty phát hành phải là công ty có triển vọng phát triển trong tương lai.
+ Do các công ty lần đầu phát hành ra công chúng nên các thông tin liên quan đến công ty không được nhiều người biết đến. Việc đưa ra các yêu cầu cao chính là sự bù đắp sự thiếu hụt thông tin đó.
Tiêu chuẩn mà các công ty phải đáp ứng trước khi đựoc phép phát hành chứng khoán ra công chúng được chia thành 2 nhóm: các tiêu chuẩn định lượng và các tiêu chuẩn định tính.
* Các tiêu chuẩn định lượng.
Công ty phải có qui mô nhất định.
Công ty phải hoạt động có hiệu quả trong một số năm liên tục trước khi xin phép phát hành chứng khoán ra công chúng.
Tổng giá trị của đợt phát hành phải đạt qui mô nhất định.
Một tỷ lệ nhất định của đợt phát hành phải đựơc bán cho một số lượng qui định công chúng đầu tư.
Các thành viên sáng lập của công ty phải cam kết nắm một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần của công ty trong một khoản thời gian qui định.
* Các tiêu chuẩn định tính.
Các nhà quản lý công ty bao gồm: thành viên Ban giám đốc điều hành , Hội đồng quản trị phải có trình độ và kinh nghiệm quản lý công ty.
Cơ cấu tổ chức của công ty phải hợp lý.
Các báo cáo tài chính, bản cáo bạch và các tài liệu cung cấp thông tin của công ty phải có độ tin cậy cao, phải được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán có uy tín.
Công ty phải có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được tư đợt phát hành.
Công ty phải được một hoặc một số tổ chức bảo lãnh phát hành đứng ra cam kết bảo lãnh cho đợt phát hành.
1.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng cường huy động vốn của Công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán.
1.2.5.1 Nhu cầu huy động vốn.
Mỗi khi ra quyết định mở rộng huy động vốn thì trước đó Công ty cổ phần phải xác định rõ nhu cầu huy động vốn. Căn cứ vào nhu cầu huy động vốn mà Công ty cổ phần đưa ra phương thức huy động, qui mô, khối lượng, thời gian sử dụng đối với vốn huy động.
a. Qui mô vốn cần huy động.
Qui mô vốn cần huy động phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh doanh của công ty, khả năng tài chính sẵn có của công ty. Nguồn vốn vay ngân hàng thường chỉ sử dụng cho các mục đích ngắn hạn, trước mắt. Qui mô vốn vay ngân hàng thường không lớn. Với những nhu cầu về vốn lớn, thời gian sử dụng dài, CTCP thường chọn phát hành chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu) trên TTCK.
b. Thời gian thực hiện huy động.
Thời gian thực hiện phát hành chứng khoán thường mất khá lâu và trải qua rất nhiều công đoạn do yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán. Do đó, với những yêu cầu vốn gấp, Công ty cổ phần thường sử dụng phương thức vay ngân hàng, còn với những khoản vốn lớn nằm trong chiến lược huy động vốn thì CTCP ưu tiến huy động trên TTCK.
1.2.5.2 Chi phí phát hành chứng khoán.
Chi phí phát hành chứng khoán bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, tư vấn, quảng cáo, in ấn, phí kiểm soát, phí niêm yết... Các chi phí này nhiều hay ít tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố và có thể chiếm đến 10% tổng giá trị phát hành.
Chi phí phát hành của phương thức phát hành rộng rãi ra công chúng thường lớn hơn chi phí phát hành theo phương thức phát hành riêng lẻ. Vì vậy, trong một số trường hợp Công ty cổ phần chọn phương thức phát hành riêng lẻ. Mục tiêu cuối cùng của cả hai phương thức phát hành đều là số vốn được huy động.
Nếu so với chi phí thực hiện vay vốn từ các ngân hàng thương mại, chi phí phát hành chứng khoán là khá cao so với chi phí thực hiện vay vốn ngân hàng thương mại. Đây cũng là một lý do cản trở sự tham gia vào thị trường vốn của các Công ty cổ phần.
Vì vậy, có thể sắp xếp 3 phương thức huy động vốn theo tiêu thức chi phí thực hiện từ thấp đến cao là: Vay ngân hàng thương mại, phát hành riêng lẻ và phát hành chứng khoán rộng rãi.
1.2.5.3 Thời gian sử dụng vốn huy động.
Thời gian sử dụng vốn có vai trò quan trọng không kém gì chi phí sử dụng vốn huy động. Trong kinh tế thị trường, thời gian chính là giá trị. Nếu nhu cầu huy động vốn của công ty chỉ là sử dụng trong thời gian ngắn thì công ty thường dùng phương thức vay vốn ngân hàng ; nếu thời gian sử dụng là dài hơn, phục vụ cho các dự án dài hạn thì phương thức huy động bằng phát hành chứng khoán là phù hợp nhất.
1.2.5.4 Chi phí vốn huy động.
Theo lý thuyết, chi phí vốn của cổ phiếu mới (Ke) được xác định trên nguyên tắc: Cổ tức của các cổ đông cũ ít nhất không bị giảm. Chi phí của cổ phiếu mới được tính bằng:
Ke = Dt / Po(1 - F) + g
Trong đó: Dt - cổ tức mong đợi năm thứ t ; Po - thị giá hiện tại của cổ phiếu ; F - chi phí phát hành ; g - tỷ lệ tăng trưởng mong đợi)
Chi phí của lợi nhuận không chia (Ks) là tỷ lệ cổ tức mà người nắm giữ cổ phiếu yêu cầu đối với dự án công ty đầu tư bằng lợi nhuận không chia. So với chi phí của lợi nhuận không chia (tái đầu tư), chi phí vốn cổ phần thường mới cao hơn do có chi phí phát hành. Chi phí lợi nhuận không chia được tính bằng công thức sau.
Ks = Dt / Po + g
Với g là tỷ lệ tăng trưởng mong đợi, và tỷ lệ này luôn lớn hơn chi phí nợ vay sau thuế, ký hiệu là Kd (1-T). Nợ vay sau thuế trong bài này có thể kể đến 2 hình thức chính là: vay ngân hàng thương mại và phát hành trái phiếu. Thông thường, lãi suất tiền vay ngân hàng thương mại thường cao hơn lãi suất trái phiếu bởi: nếu không kể đến các chi phí văn phòng, tiền lương nhân viên, thuê trụ sở ... lãi suất tiền vay ngân hàng thương mại bao gồm lãi suất cho vay cộng với một phần lợi nhuận của ngân hàng, trong khi đó, lãi suất trái phiếu chỉ cao hơn lãi suất cho vay đối với ngân hàng thương mại một ít để bù dắp rủi ro. Chi phí nợ vay sau thuế được tính bằng công thức:
Kd (1-T) = e (1 - T)
Trong đó: e là lãi suất tiền vay, T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Giả sử e1 là lãi suất tiền vay ngân hàng, e2 là lãi suất trái phiếu, và e1 > e2. Khi đó ta có:
e1 (1-T) > e2 (1-t)
Tức là, chi phí vốn vay ngân hàng lớn hơn chi phí vốn của trái phiếu. Tóm lại, chi phí vốn của cổ phiếu mới lớn hơn chi phí lợi nhuận không chia, chi phí lợi nhuận không chia lớn hơn chi phí vốn vay ngân hàng, chi phí vốn vay ngân hàng lại lớn hơn chi phí vốn của trái phiếu. Do đó, nếu xét riêng về chi phí vốn thì phương thức phát hành trái phiếu là tốt nhất vì có chi phí vốn nhỏ nhất.
1.2.5.5 Sự hình thành các cổ đông kiểm soát mới.
Một trong những yếu tố quyết định đến sự lựa chọn phương thức huy động vốn của Công ty cổ phần là vấn đề kiểm soát công ty.
Phát hành chứng khoán rộng rãi và phát hành trái phiếu thường không ảnh hưởng lớn đến các cổ đông kiểm soát công ty. Mặc dù việc phát hành thêm cổ phiếu làm giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông kiểm soát nhưng không làm mất quyền kiểm soát công ty. Ngược lại, phương thức phát hành cổ phiếu riêng lẻ có thể làm thay đổi quyền kiểm soát công ty vì có thể xuất hiện những cổ đông lớn sau phát hành.
1.2.5.6 Khả năng thành công kế hoạch huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
Với những nước có thị trường chứng khoán phát triển, việc thực hiện hành công kế hoạch huy động vốn là rất cao. Với thói quen đầu tư của dân chúng và sự phát triển của nền kinh tế, các Công ty cổ phần có qui mô lớn, uy tín cao luôn dễ dàng hơn trong việc huy động được khối lượng lớn vốn đầu tư cho các dự án của mình. Còn các công ty nhỏ, đã có thị trường OTC đáp ứng nhu cầu về vốn.
Ngược lại, thị trường chứng khoán ở các nước đang phát triển mới ra đời, công chúng còn xa lạ với việc đầu tư trên thị trường chứng khoán, ưu tiên hàng đầu vẫn là gửi tiền vào ngân hàng. Do đó, khả năng huy động thành công vốn trên thị trường chứng khoán của các Công ty cổ phần là chưa cao.
1.2.5.7 Tính chủ động trong sản xuất – kinh doanh.
Với số vốn huy động được trên thị trường chứng khoán, Công ty cổ phần thực hiện đầu tư vào dự án của mình mà không chịu nhiều sự kiểm soát của nhà đầu tư. Báo cáo tài chính thường kỳ, bản cáo bạch và báo cáo dự án khả thi của Công ty cổ phần là những nội dung chính phải chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình hoạt động SX-KD, Công ty cổ phần không phải chịu sự chi phối về quyết định, các vấn đề quan trọng theo qui định của pháp luật và điều lệ công ty mới phải thông qua Đại hội đồng cổ đông, HĐQT.
Nhưng với vốn vay của các ngân hàng thương mại, Công ty cổ phần phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn. Các quyết định quan trọng liên quan đến số vốn vay được của ngân hàng thông thường phải có sự tham gia của đại diện ngân hàng cho vay. Điều này dẫn đến tình trạng công ty có thể bỏ qua một cơ hội tốt nào đó, hay phải thực hiện một quyết định tồi theo ý của phía ngân hàng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Đây chính là nhược điểm của vốn vay ngân hàng so với vốn huy động được trên thị trường chứng khoán.
1.2.5.8 Chi phí giao dịch trên TTCK ảnh hưởng tới quyết định của các nhà đầu tư khi mua chứng khoán của CTCP.
Phí giao dịch là một vấn đề lớn đối với những người có vốn dư để cho vay. Vì phí tổng cộng của một giao dịch thường chỉ tăng chút ít khi qui mô giao dịch tăng lên. Chi phí giao dịch được tính trên cơ sở vụ việc, và không phụ thuộc nhiều vào giá trị của giao dịch, do đó phí giao dịch chiếm tỷ lệ phần trăm so với giá trị giao dịch là rất lớn đối với các giao dịch có giá trị nhỏ.
Ngoài ra, do phí giao dịch cao đối với một lượng vốn đầu tư nhỏ nên nó cũng ngăn cản việc đa dạng hoá đầu tư chứng khoán, việc “đặt tất cả trứng vào một giỏ” sẽ là “việc chẳng đừng” mặc dù người đầu tư biết được rủi ro sẽ cao.
Một giải pháp cho vấn đề chi phí giao địch cao là góp vốn của nhiều nhà đầu tư với nhà, và thu được lợi ích nhờ phương pháp tiết kiệm do qui mô, tức là sự giảm chi phí giao địch cho mỗi đơn vị vốn khi qui mô đầu tư tăng lên.
Với phí giao dịch cao, chứng khoán của CTCP trở lên kém hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, do đó kế hoạch huy động vốn trên TTCK sẽ bị giảm tính khả thi.
1.2.5.9 Đòn bẩy tài chính.
Chiến lược đòn bẩy tài chính là một trong những chiến lược thường được áp dụng nhất đối với CTCP và những nhà đầu tư. Công ty cổ phần có thể sử dụng đòn bầy tài chính bằng các cách: phát hành cổ phiếu, trái phiếu , vay ngân hàng thương mại, chiếm dụng vốn ... tất cả các hình thức trên đều nhằm mục đích huy động vốn cho công ty hoạt động. Để có thể sử dụng đòn bầy tài chính, CTCP phải có tiềm năng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có những dự án khả thi cao và có được niềm tin của các nhà đầu tư.
Hệ số nợ = Nợ / tổng nguồn vốn
Khi hệ số nợ tăng, CTCP càng có lợi vì chỉ phải đóng góp một lượng vốn ít, nhưng được sử dụng một lượng tài sản lớn. Khi đó, nếu đạt được lợi nhuận cao hơn số tiền lãi phải trả, thì phần lợi nhuận dành cho CTCP sẽ gia tăng rất nhanh. Hay nói cách khác, 1 đồng vốn CSH tạo ra nhiều lợi nhuận hơn so với trường hợp không vay nợ.
Đòn bầy tài chính như là “con dao hai lưỡi”, nếu lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn để bù đắp chi phí vay nợ thì mức lợi nhuận ròng trwn một đồng vốn CSH sẽ giảm. Ngược lại, khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay đủ lớn để bù đắp chi phí vay nợ thì chỉ cần một sự gia tăng nhỏ về lợi nhuận trước thuế và lãi vay cũng mang lại một mức tăng lớn của lợi nhuận trên 1 đồng vốn CSH.
Trong các khoản nợ, CTCP thường không phải trả lãi các khoản chiếm dụng như: phải trả nhà cung cấp, phải thanh toán công nhân viên, phải nộp ngân sách ... Do đó, đòn bẩy tài chính của CTCP trong trường hợp này luôn hiệu quả, nó không làm giảm mức sinh lời của 1 đồng vốn CSH.
1.2.5.10 Các yếu tố khác.
1.2.5.10.1 Rủi ro của CTCP khi phát hành.
Trong những giao dịch trên các thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả những gì cần biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn, sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được gọi là thông tin không cân xứng. Việc tồn tại thông tin không cân xứng trong thị trường tài chính làm phát sinh hai hiện tượng:
i) Chọn lựa đối nghịch: Là hiện tượng do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra việc giao dịch. Lựa chọn đối nghịch xảy ra khi những người đi vay chứa nhiều rủi ro là những người tích cực tìm vay nhất và do đó có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Vì vậy, người cho vay có thể quyết định không cho vay nữa mực dù có những những hợp có thể trả được nợ.
ii) Rủi ro đạo đức: là hiện tượng do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi người cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (xét theo quan điểm của người cho vay), ít có khả năng hoàn trả món vay. Vì vậy, người cho vay quyết định không cho vay nữa.
Trên TTCK, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức khiến giá chứng khoán của các Công ty niêm yết giảm, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc huy động vốn trên TTCK. Với các CTCP chưa niêm yết, nếu trong tình trạng lựa chọn đối nghịch, CTCP sẽ không thể huy động được vốn trên TTCK vì sẽ thất bại ngay từ thị trường sơ cấp.
1.2.5.10.2 Chứng khoán của CTCP xem xét theo lý thuyết Lượng cầu tài sản.
Theo lý thuyết lượng cầu tài sản, một tài sản là một vật sở hữu có chứa giá trị. Tiền, chứng khoán, tác phẩm nghệ thuật, đất đai, nhà cửa, máy móc ... đều là tài sản. Chứng khoán công ty là một tài sản tài chính và là một hàng hoá, nó cũng phải cạnh tranh với các hàng hoá khác để có thể bán được.
Các nhà đầu tư sẽ quyết định mua chứng khoán của Công ty cổ phần hay các tài sản khác dựa trên sự xem xét các yếu tố sau:
1. Tiềm lực kinh tế của nhà đầu tư.
2. Lợi tức dự tính của chứng khoán của công ty so với lợi tức dự tính của các tài sản thay thế.
3. Mức độ rủi ro đi kèm với lợi tức của chứng khoán của công ty so với các tài sản thay thế khác.
4. Tính lỏng của chứng khoán của công ty so với các tài sản thay thế.
Vấn đề đặt ra trong việc áp dụng Lý thuyết lượng cầu tài sản trong trường hợp này là: Tài sản thay thế tiêu biểu đối với chứng khoán của Công ty cổ phần là gì?
Để đơn giản hoá các phân tích, ta hoàn toàn có thể coi tiền gửi tiết kiệm ngân hàng là tài sản thay thế của chứng khoán của Công ty cổ phần và lần lượt so sánh lượng cầu giữa Tiền gửi và Chứng khoán của Công ty cổ phần.
a Tiềm lực kinh tế của nhà đầu tư.
Khi người đầu tư thấy của cải của anh ta tăng lên, anh ta có thêm tiềm lực kinh tế để sẵn sàng mua sắm tài sản, trong trường hợp này là tài sản tài chính. Chính vì vậy, nhu cầu của anh ta với tài sản tài chính cũng tăng lên. Lượng cầu về các tài sản tài chính (tiền gửi ngân hàng và chứng khoán của Công ty cổ phần) sẽ thay đổi khác nhau khi có những thay đổi về tiềm lực kinh tế.
Độ co dãn của lượng cầu theo của cải biểu hiện sự thay đổi lượng cầu đó, nó phản ánh khi mọi yếu tố khác không thay đổi, lượng cầu về tài sản thay đổi bao nhiêu phần trăm khi của cải thay đổi 1%.
E = %rQD / %rQK`
( rQD là phần trăm thay đổi lượng cầu tài sản, %rQK là phần trăm thay đổi về của cải)
Một tài sản là cần thiết thì độ co dãn của cầu theo của cải sẽ nhỏ hơn 1, tức là khi của cải tăng, mức tăng lượng cầu của tài sản đó tính theo phần trăm sẽ ít hơn mức tăng của cải tính theo phần trăm.
Còn một tài sản là cao cấp thì độ co dãn của cầu theo của cải sẽ lớn hơn 1, tức là khi của cải tăng, lượng cầu tài sản này tăng nhiều hơn theo tỷ lệ phần trăm so với mức tăng của cải.
Cổ phiếu và trái phiếu là những ví dụ về tài sản cao cấp, tiền mặt, tiền gửi tiết kiệm là những tài sản cần thiết. ( F.MISHKIN-NXB KHKT trang 137)
Như vậy, khi của cải của dân chúng – nhà đầu tư – tăng lên, đầu tư vào chứng khoán sẽ có nhiều cơ hội được lựa chọn.
b. Lợi tức dự tính.
Lợi tức dự tính của một tài sản cho ta biết có thể được lợi bao nhiêu khi nắm giữ tài sản đó. Lợi tức dự tính của tiền gửi ngân hàng chính là lãi suất tiền gửi, lợi tức dự tính của trái phiếu chính là lãi suất của trái phiếu. Lợi tức dự tính của cổ phiếu chính là cổ tức dự tính cộng với phần trăm thay đổi do sự chênh lệnh giữa thị giá và mệnh giá.
Khi thị trường chứng khoán phát triển ổn định, Công ty cổ phần kinh doanh đạt hiệu quả, thị giá cổ phiếu sẽ cao hơn mệnh giá cổ phiếu, mức cổ tức thực hiện cũng cao, do đó lợi tức của cổ phiếu tăng cao hơn rất nhiều so với lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Với mọi điều kiện, trái phiếu của Công ty cổ phần luôn có lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi để bù đắp rủi ro.
Như vậy, lợi tức dự tính của chứng khoán tăng cao hơn so với lợi tức dự tính của tiền gửi ngân hàng, lượng cầu tài sản là chứng khoán sẽ tăng.
c. Rủi ro.
Mức độ rủi ro, không chắc chắn về lợi tức dự tính của một tài sản tác động rất mạnh đến lượng cầu về tài sản đó, công chúng đầu tư thường ưu tiên nắm giữ các tài sản ít rủi ro.
Hai tài sản tài chính ta đang so sánh: tiền gửi ngân hàng và chứng khoán của công ty cổ phần, có mức độ rủi ro khác nhau. Mức độ rủi ro của tiền gửi ngân hàng là rất nhỏ, bởi vì rất khó để một ngân hàng phá sản với chính sách bảo vệ hệ thống tài chính của Chính phủ, hơn nữa, nếu ngân hàng có phá sản thì còn có các khoản bảo hiểm tiền gửi trang trải cho nợ của ngân hàng.
Ngược lại với tiền gửi ngân hàng, chứng khoán của Công ty cổ phần có mức độ rủi ro cao hơn. Rủi ro của Công ty cổ phần xuất phát chính từ hoạt động sản xuất kinh doanh và không được sự bảo vệ của Chính phủ như sự bảo vệ hệ thống tài chính. Công ty cổ phần có qui mô càng lớn, lĩnh vực hoạt động rộng, truyền thống hoạt động lâu năm thì mức độ rủi ro càng nhỏ.
Nhưng nhìn chung, mức độ rủi ro của chúng khoán của Công ty cổ phần thường cao hơn mức độ rủi ro của tiền gửi ngân hàng. Dựa vào riêng yếu tố này, công chúng đầu tư thường ưa thích nắm giữ tiền gửi ngân hàng hơn là chứng khoán của Công ty cổ phần.
d. Tính lỏng của tài sản.
Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển đổi sang tiền mặt của tài sản nhanh đến mức nào, chi phí chuyển đổi nhỏ đến bao nhiêu. Tài sản có tính lỏng càng cao thì càng được ưa chuộng. Tính lỏng của tiền gửi ngân hàng là rất cao vì tiền gửi ngân hàng hoàn toàn có thể chuyển sang tiền mặt khi đáo hạn theo yêu cầu của nhà đầu tư, khi chưa đáo hạn, tiền gửi ngân hàng vẫn có thể chuyển sang tiền mặt với chi phí thấp.
Trong một thị trường chứng khoán phát triển và được tổ chức tốt, việc bán chứng khoán được thực hiện nhanh chóng và chi phí thấp. Tuy nhiên với các thị trường chứng khoán mới ra đời, kinh nghiệm tổ chức, quản lý còn yếu thì việc bán chứng khoán thường mất nhiều thời gian và chi phí hơn so với việc rút tiền gửi ngân hàng.
1.2.5.10.3 Yếu tố về thị trường.
Ngoài các yếu tố cơ bản kể trên còn các yếu tố cũng ảnh hưởng đến quyết định huy động vốn của CTCP như lạm phát, chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ, thói quen tiêu dùng và đầu tư của dân chúng, tình hình chính trị xã hội ...
Chương 2
thực trạng huy Động vốn của Công ty cổ phần trên
thị trường chứng khoán việt nam
2.1 Thực trạng hoạt động của Công ty cổ phần ở việt nam.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần.
Cho tới năm 1954, các doanh nghiệp ở Việt nam không nhiều, trong đó một phần khá lớn thuộc sở hữu của Tư bản Pháp. Khi hiệp định GIƠNEVƠ được ký kết, Việt Nam bị tách thành 2 miền với tiềm lực và môi trường thể chế khác nhau. Sự chia cắt và khác biệt về chính trị tồn tại hơn 20 năm, nhưng sự khác biệt về mặt kinh tế thì còn tồn tại lâu hơn.
+ ở miền Bắc, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được cải tạo XHCN theo hướng: tư nhân, cá thể đưa vào HTX, HTX dần chuyển thành doanh nghiệp Nhà nước.
+ ở miền Nam, theo mô hình kinh tế thị trường, số doanh nghiệp tăng mạnh, chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Sau khi Việt Nam thống nhất, chính sách kinh tế cũng được áp dụng thống nhất trên toàn quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986, đã có chính sách đổi mới, thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn tồn tại lâu dài trong xã hội. Từ đây, mở ra một hướng phát triển mới cho Công ty cổ phần phát triển. Đến năm 1999, Luật Doanh nghiệp ban hành, qui định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của 4 loại hình doanh nghiệp:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn.
+ Công ty cổ phần.
+ Công ty hợp danh.
+ Doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra còn có Doanh nghiệp Nhà nước và Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được điều chỉnh bởi luật riêng.
Khối Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, góp phần phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách ...
CTCP là loại hình doanh nghiệp có vị trí quan trọng, tuy hiện nay sự phát triển của CTCP chưa cao, đóng góp cho nền kinh tế chưa lớn, nhưng CTCP sẽ là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong tương lai gần.
Bảng 1: Đóng góp của CTCP so với toàn khối doanh nghiệp
Tỷ lệ phần trăm (%) so với toàn khối Doanh nghiệp
Số Công ty
Lao động
Nguồn vốn
Doanh thu
Nộp NSNN
Công ty cổ phần
4,5
6,1
5,3
4,7
2,1
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004.
Sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, Công ty cổ phần đã khôi phục dần dần sức mạnh và phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Đặc biệt, việc ban hành Luật Doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho CTCP phát triển, số lượng Công ty cổ phần được thành lập không ngừng tăng. Năm 2001 số lượng Công ty cổ phần được thành lập tăng gấp đôi từ 757 lên 1.595 công ty.
Bảng 2: Số lượng Công ty cổ phần.
Số Công ty cổ phần
năm 2000
năm 2001
năm 2002
Công ty cổ phần
có vốn Nhà nước
305
470
557
Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước
452
1125
2272
Tổng cộng
757
1595
2829
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004.
Công ty cổ phần đã góp phần tạo công ăn việc làm cho khoảng 300.000 người lao động, với mức thu nhập bình quân khoảng 1,3 triệu đồng/tháng. Lao động ở Công ty cổ phần có thu nhập cao hơn nhiều so với khu vực cá thể, hộ gia đình. Tuy chiếm tỷ trọng không cao trong tổng lao động toàn Xã hội, nhưng lao động ở Công ty cổ phần lại tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước và đóng góp cho tăng trưởng GDP. Thu nhập cao và tăng nhanh của lao động ở Công ty cổ phần gó phần cải thiện và nâng cao mức sống chung toàn Xã hội, tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp.
Tính đến 1/1/2003, Công ty cổ phần góp Ngân sách NN khoảng 2.400 tỷ đồng, tạo ra khoảng 300.000 việc làm cho Xã hội. Cụ thể ở bảng dưới đây.
Bảng 3: Đóng góp của Công ty cổ phần cho nền kinh tế quốc dân
Lao động có
(người)
Nguồn vốn có
(tỷ đồng)
Thuế và các khoản đã nộp NSNN (tỷ đồng)
2000
2001
2002
2000
2001
2002
2000
2001
2002
CTCP có vốn NN
61872
114266
143899
11645
29049
43416
534,5
1087,9
1284,5
CTCP không có vốn NN
43588
87509
139913
23748
23403
32537
291,3
545,7
1051,3
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004.
Giai đoạn 2000 – 2001, một số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh CTCP đã đạt được như sau:
Bảng 4: Kết quả hoạt động của Công ty cổ phần.
Lãi
Lỗ
Số lượng
% cty lãi
Tổng mức
lãi
(tỷ)
Lãi bình quân 1
cty
(triệu)
Số
lượng
% cty
lỗ
Tổng
mức
lỗ
(tỷ)
Lỗ bình quân 1 cty
(triệu)
CTCP có vốn NN
năm 2000
265
86,89
607
2289
34
11,15
57
1673
năm 2001
405
86,17
1415
3495
52
11,06
20
388
năm 2002
504
90,48
2026
4019
40
7,18
59
1482
CTCP không có vốn NN
năm 2000
300
66,37
228
760
140
20,97
50
359
năm 2001
632
56,18
378
598
316
28,09
94
297
năm 2002
1314
57,83
733
558
639
28,13
129
202
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004.
Qua bảng trên ta thấy, CTCP có vốn Nhà nước ngày càng kinh doanh có hiệu quả. Tỷ lệ có lãi tăng từ 86,89% năm 2000 lên 90,48% năm 2002. Nguyên nhân chính là do Chính phủ gần đây đã có những động thái tích cực về cơ chế tài chính, chính sách thuế để tạo điều kiện cho các CTCP kinh doanh có hiệu quả phát huy hơn nữa, còn với các CTCP hoạt động yếu kém, không hiệu quả thì một số đã bị giải thể, sáp nhập hoặc chuyển đổi hình thức.
Ngược lại, CTCP không có vốn Nhà nước lại suy giảm hiệu quả kinh doanh, tỷ lệ công ty có lãi giảm từ 66,37% năm 2000 xuống còn 57,83% năm 2002. Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 đã tác động không nhỏ đến các CTCP ngoài quốc doanh. Thực tế đa số các CTCP ngoài quốc doanh có qui mô nhỏ, do đó khi thị trường trong nước và khu vực biến động lớn như năm 1997, rất nhiều CTCP loại này đã sa sút trong kinh doanh, một số bị phá sản.
2.1.2 Phương thức huy động vốn của Công ty cổ phần ở Việt Nam.
2.1.2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty cổ phần.
Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn của Công ty cổ phần
Đơn vị: tỷ đồng
năm 1999
năm 2000
năm 2001
năm 2002
Nợ phải trả
Nguồn vốn CSH
Nợ phải trả
Nguồn vốn CSH
Nợ phải trả
Nguồn vốn CSH
Nợ phải trả
Nguồn vốn CSH
CTCP có vốn Nhà nước
6461
2711
8471
3174
22647
6402
34493
8923
CTCP không có vốn NN
13121
2582
20292
3456
17998
5405
20523
12014
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004.
a. Nguồn vốn góp ban đầu: Để có vốn ban đầu dùng xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị ban đầu, trang trải các chi phí cho hoạt động thành lập công ty, đa số phải dùng tiền tự có, huy động ở gia đình, bạn bè. Thực tế ở Việt Nam, các Công ty cổ phần thường có qui mô nhỏ. Số liệu cụ thể được cho ở bảng sau.
Bảng 6: Qui mô nguồn vốn của Công ty cổ phần.
Qui mô (tỷ đồng)
< 0,5
0,5 đến 1
1
đến
5
5
đến
10
10
đến
50
50
đến
200
200
đến
500
> 500
CTCP có vốn Nhà nước
năm 2000
6
15
91
63
87
35
3
5
năm 2001
18
17
117
81
160
61
8
8
năm 2002
21
16
114
89
204
91
11
11
CTCP không có vốn NN
năm 2000
48
36
196
60
76
22
5
9
năm 2001
197
128
444
139
160
45
6
6
năm 2002
277
265
993
313
326
79
12
7
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ cấu nguồn vốn của Công ty cổ phần luôn thay đổi. Sự thay đổi này nhằm phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn.
b. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 gây ảnh hưởng to lớn với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và Công ty cổ phần nói riêng. Các Công ty cổ phần kinh doanh chưa đạt hiệu quả cao, do đó không có nhiều lợi nhuận để cho tái đầu tư.
Ngoài ra, sự phát triển loại hình Công ty cổ phần ở Vịêt Nam mới chỉ được ít thời gian, tích luỹ vốn chưa nhiều. Hiện nay, chưa có số liệu về lợi nhuận của CTCP dùng để để tái đầu tư .
c. Phát hành cổ phiếu mới:
Đa số các Công ty cổ phần mới huy động được vốn góp ban đầu chứ chưa thực hiện được tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Mới chỉ có 2 công ty niêm yết phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn chủ sở hữu.
2.1.2.2 Nguồn vốn vay của Công ty cổ phần.
2.1.2.2.1 Nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Mặc dù Đảng và Nhà nước có chủ trương phát triển mọi thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng trên thực tế, khu vực kinh tế tư nhân nói chung và loại hình CTCP nói riêng vẫn chưa được đối xử ngang bằng như khu vực kinh tế Nhà nước. Công ty cổ phần rất khó tiếp xúc với nguồn tín dụng của các NHTM so với các doanh nghiệp Nhà nước.
Tính đến thời điểm hiện nay, thị phần tín dụng giữa các khối ngân hàng được phân chia như sau: NHTM quốc doanh chiếm khoảng 70%, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm 15%, ngân hàng liên doanh chiếm 3%, NHTMCP chiếm 12%. Đối với các khoản vốn vay bằng ngoại tệ, tỷ trọng dư nợ ngoại tệ của hệ thống ngân hàng đối với loại hình CTCP là 4%, với loại hình DNNN là 75%.
Biểu đồ 1: Tỷ trọng dư nợ của hệ thống Ngân hàng dành cho doanh nghiệp.
Nguyên nhân trực tiếp và quạn trọng nhất dẫn đến tình trạng CTCP ít có cơ hội và điều kiện vay tín dụng từ hệ thống NHTH là: i) thủ tục vay phức tạp, mất thời gian (làm lỡ cơ hội kinh doanh), ii) yêu cầu thế chấp ngặt nghèo, iii) mắc cảm của các NHTM với khu vực kinh tế tư nhân.
Bảng 7: Vốn vay Ngân hàng của các CTCP giai đoạn 1999-2003.
Đơn vị: tỷ đồng.
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Vốn tín dụng ngân hàng của các CTCP
2.878,52
5.637,548
8.657,39
12.752,35
17.630,26
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004 và tổng hợp của tác giả.
Qua bảng số liệu trên ta thấy có sự gia tăng về vốn vay ngân hàng của các CTCP trong thời gian qua, tuy nhiên, sự gia tăng về mặt số tuyệt đối đó vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn của các CTCP trong quá trình phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Theo số liệu tính toán của tác giả, tỷ trọng vốn tín dụng cho loại hình CTCP trong tổng dư nợ tín dụng của hệ thống Ngân hàng chỉ chiếm khoảng 3,2%, còn cách xa so với nhu cầu về vốn cũng như không xứng với vai trò và vị thế của CTCP trong nền kinh tế Việt nam.
Tính đến cuối năm 2002, vốn vay ngân hàng của CTCP chiếm 23% nợ phải trả - khoảng 12.752 tỷ đồng.
Chính vì khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn, nên có một số CTCP thường dùng vốn vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vi phạm nguyên tắc sử dụng vốn, sản xuất kinh doanh đầy rủi ro và thiếu tính ổn định.
Ngoài tín dụng ngân hàng, vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước thông qua quĩ hỗ trợ phát triển rất hấp dẫn, tuy nhiên nó còn khó tiếp cận hơn. Năm 2001, trong số 19.497 tỷ đồng tổng nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ quĩ này, CTCP chỉ vay được3.314,49 tỷ đồng, chiếm 1,7%.
2.1.2.2.2 Nguồn vốn tín dụng thương mại.
Bảng 8: Nợ tín dụng thương mại của CTCP.
Đơn vị: tỷ đồng.
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Nợ tín dụng
thương mại
của các CTCP
6.285,8
10.584,8
18.249,6
25.967,5
32.362,4
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004 và tổng hợp của tác giả.
Nguồn vốn tín dụng thương mại hình thành một cách tự nhiên trong quá trình quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần, nó tồn tại dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả chậm, mua bán trả góp. Hiện nay, tín dụng thương mại hiện chiếm đến 46% nợ phải trả và chiếm khoảng 30% vốn của CTCP.
Có thể nói, nếu không có hình thức tín dụng thương mại thì rất nhiều các Công ty đã phải đóng của hoặc thu hẹp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên tín dụng thương mại chứa đựng rủi ro cao, có thể gây vỡ nợ dây chuyền.
Hiện nay, nước ta chưa có thị trường mua bán thương phiếu mặc dù đã có Pháp lệnh thương phiếu do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 24/12/1999 và Nghị định số 32/2001/NĐ-CP ngày 5/7/2001 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh Thương phiếu. Vì vậy, việc mua bán chịu lẫn nhau của các doanh nghiệp tiềm ẩn rủi ro cao. Thực tế, đã xảy ra nhiều vụ lừa đảo lợi dụng quan hệ mua bán chịu.
2.1.2.2.3 Phát hành trái phiếu Công ty.
Trên thị trường chứng khoán, mới chỉ có Chính phủ và NH Đầu tư & phát triển phát hành trái phiếu. Các công ty cổ phần chưa phát hành trái phiếu trên TTCK vì khả năng thành công rất thấp.
2.2 Thực trạng huy động vốn của Công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.2.1 Thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển.
Trước sự cần thiết về một thị trường vốn trung và dài hạn phục vụ phát triển nền kinh tế quốc dân, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Chính phủ Việt Nam đã quyết định xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Việc thành lập và đi vào hoạt động Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường tài chính nước ta.
Năm 1992: Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước bắt đầu nghiên cứu về đề án hình thành, phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán.
Năm 1995: Chính phủ quyết định thành lập Ban chuẩn bị tổ chức thị trường chứng khoán.
Năm 1996: Chính phủ ban hành Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996 về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
Năm 1998: Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
20/7/2000: Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương và đi vào hoạt động.
2.2.1.2 Thực trạng hoạt động.
Trên thị trường hiện có 22 loại cổ phiếu, 102 trái phiếu, 13 công ty chứng khoán, 16 tổ chức lưu ký, 1 ngân hàng chỉ định thanh toán (Ngân hàng đầu tư và phát triển VN), khoảng 16000 tài khoản giao dịch.
Thị trường chứng khoán Việt nam phát triển chưa ổn định. Từ tháng 7/2000 đến 6/2001 chỉ số VN index tăng từ 100 (ban đầu) lên 571, giá chứng khoán vượt quá giá trị thực rất nhiều. Từ 25/6 đến cuối 2003, chỉ số VN index giảm dần, có lúc xuống chỉ còn 130. Tính về giá trị vốn của riêng 5 loại cổ phiếu là LAF, SAM, REE, TMS, HAP có mặt lúc thị trường đạt đỉnh điểm thì đến 1/4/2003 (VN index = 139,64) giá trị vốn đã giảm 2.152,706 tỷ đồng. Thời gian qua, biên độ dao động giá được điều chỉnh nhiều lần, lần lượt là 5% - 2% - 7% - 5% nhằm tạo tính ổn định cho TTCK.
Bảng 9: Sự thăng trầm của chỉ số VN index.
ngày
VN index
Ghi chú
28/7/2000
100,00
29/12/2000
206,83
25/6/2001
571,04
Mức cao nhất trong thời gian qua
31/12/2001
235,40
31/12/2002
183,33
01/4/2003
139,64
24/10/2003
130,9
Mức thấp nhất trong thời gian qua.
3/6/2004
250,99
Nguồn: Nguyễn Quý Quýnh - 3 năm thị trường – từ góc nhìn của nhà đầu tư , Chứng khoán VN số 7 năm 2003.
Biểu đồ 2: Chỉ số VN index thời gian qua.
Sự thăng trầm của chỉ số VN index có thể được giải thích bởi chỉ số P/E (giá trên thu nhập) của các cổ phiếu thay đổi. Ngày 25/6/2001, khi VN index đạt 574,4 điểm thì chỉ số P/E của toàn thị trường là 30 lần. Vào ngày 24/10/2003, VN index chạm đáy 130,9 điểm thì P/E là 5,6 lần.
Một chỉ số khác cũng được dùng để phân tích lựa chọn đầu tư chứng khoán là E/P (lợi suất trên vốn). Theo lý thuyết, khi chỉ số E/P trên TTCK thấp thì nên đầu tư chứng khoán và hi vọng vào sự phát triển của TTCK, nếu chỉ số E/P cao thì nên bán chứng khoán và chuyển mục đích đầu tư sang các tài sản khác. Ta xét bảng số sau:
Bảng 10: So sánh E/P giữa các tài sản tài chính.
Đơn vị: %
31/12/01
31/12/02
31/3/03
24/10/03
24/2/04
E/P của TTCK
8,1
12,0
13,8
18,0
9,5
Lãi suất TPCP
8,0
9,0
9,3
8,9
8,9
Lãi suất tiền gửi ngân hàng 1 năm
7,4
7,5
7,2
7,2
7,2
Nguồn: Tường Vi – VN index bao nhiêu là hợp lí - Đầu tư Chứng khoán số 221, ngày 1.3.04.
Với tính rủi ro cao của chứng khoán, lợi suất yêu cầu của chứng khoán cũng phải cảo hơn lãi suất của trái phiếu Chính phủ (có thể coi rủi ro bằng 0), mức thông thường là bằng 1,3 lần. Hiện nay, với lãi suất TPCP là 8,9% thì E/P của chứng khoán là 11,57 là hợp lí.
Về khung pháp lí, Chính phủ mới ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 thay thế cho Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, quyết định 146/2003/QĐ-TTg ngày 17/7/2003 thay thế cho quyết định số 139/1999/QĐ-TTg về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt nam. Mức mắc nắm giữ cổ phiếu của bên nước ngoài trong các công ty cổ phần niêm yết trên TTCK đã được phép lên tới 30% vốn cổ phần của công ty. Ngoài ra, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài trong các công ty chứng khoán liên doanh được nâng mức tối đa lên 49% vốn điều lệ.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn gắn bó mật thiết, tự nhiên với hệ thống thị trường, trong đó thị trường vốn là một bộ phận cấu thành quan trọng. Để thấy rõ mức độ quan hệ của doanh nghiệp với thị trường chứng khoán cần phải xem xét kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán ở hai khía cạnh.
* Về huy động vốn : Thị trường chứng khoán mới chủ yếu thực hiện được chức năng thanh khoản cho các chứng khoán của các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) cổ phần hoá mà chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. Mặc dù đến nay đã có khoảng 1.400 DNNN được cổ phần hoá hoặc chuyển đổi sở hữu song đến nay mới có 22 Công ty cổ phần có cổ phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán, tổng giá trị vốn niêm yết cổ phiếu và trái phiếu là 1.272 tỷ đồng (Huy động vốn qua TTCK còn xa vời-trang CK-Thời báo KT). Thị trường sơ cấp, nơi duy nhất mà chứng khoán đem lại vốn cho tổ chức phát hành vận hành rất chậm chạp, mới chỉ có 2 công ty phát hành cổ phiếu bổ sung với số vốn huy động thêm là 107 tỷ đồng.
Công ty cổ phần giấy Hải Phòng phát hành 1 triệu cổ phiếu mới.
Công ty cổ phần cơ điện lạnh phát hành 7,5 triệu cổ phiếu mới.
Hàng hoá trên thị trường chưa phong phú, đến nay có 102 trái phiếu niêm yết, nhưng toàn thị trường mới chỉ có hai loại hàng là: cổ phiếu và trái phiếu. Qua 3 năm 2000-2003, tổng giá trị giao dịch là 5.114,8, trong đó tổng giá trị giao dịch của cổ phiếu là 2.426,3 tỷ đồng, của trái phiếu là 2.688,5 tỷ đồng. Nét đặc biệt là trong vòng 3 năm qua, giao dịch cổ phiếu giảm sút nghiêm trọng, giao dịch trái phiếu tăng mạnh, tăng đột biến năm 2003.
Bảng 110: Tổng giá trị chứng khoán giao dịch (làm tròn)
Đơn vị: tỷ đồng.
năm
Cổ phiếu
Trái phiếu
2001
964,0
70,7
2002
958,9
121,5
2003
503,4
2.496,3
Tổng
2.426,3
2.688,5
5.114,8
Nguồn: Tổng hợp từ Đầu tư Chứng khoán năm 2004.
Biểu đồ 3: Khối lượng giao dịch chứng khoán.
Đơn vị: tỷ đồng.
* Về đầu tư tài chính: Hoạt động đầu tư chứng khoán của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán cũng rất hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp Vịêt Nam đầu có qui mô nhỏ, còn thiếu vốn kinh doanh nên không có khả năng tham gia thị trường. Cơ cấu tài sản của CTCP giai đoạn 1999-2002 được thể hiện ở bảng sau.
Bảng 12: Tài sản của Công ty cổ phần
Đơn vị: tỷ đồng
năm 1999
năm 2000
năm 2001
năm 2002
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
TSCĐ và đầu tư dài hạn
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
TSCĐ và đầu tư dài hạn
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
TSCĐ và đầu tư dài hạn
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
TSCĐ và đầu tư dài hạn
CTCP có vốn Nhà nước
6446
2726
8697
2947
21658
7391
33496
9920
CTCP không có vốn NN
13296
2406
20410
3338
18560
4843
24333
8203
Nguồn: Tổng cục thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2003, NXB Thống kê – 2004.
Có rất ít doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có vốn nhàn rỗi để có thể sử dụng đầu tư chứng khoán. Việc tham gia của các CTCP niêm yết chủ yếu là mua và bán cổ phiếu quĩ, một số công ty niêm yết có mua chứng khoán của các công ty niêm yết khác nhưng chưa phổ biến. Hơn nữa, đầu tư chứng khoán là lĩnh vực mới mẻ, nhiều rủi do nên các doanh nghiệp cũng không muốn tham gia. Điều này lý giải tại sao trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại chủ yếu là các nhà đầu tư các nhân.
2.2.2 Điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Việc đưa ra các tiêu chuẩn nhằm tạo dựng niềm tin của các nhà đầu tư đối với thị trường chứng khoán rất quan trọng. Do thị trường chứng khoán còn là một khái niệm khá mới mẻ, nên trong giai đoạn dầu sẽ có rất nhiều tầng lớp dân cư còn dè dặt trong việc chọn thị trường chứng khoán là nơi đầu tư các khoản tiết kiệm ở mình. Việc đưa ra các loại hàng hoá chất lượng cao sẽ bước đầu tạo dựng được niềm tin cho công chúng vào thị trường chứng khoán và đây cũng đựoc coi là một trong các biện pháp kích cầu chứng khoán trong giai đoạn đầu thành lập thị trường.
Theo nội dung Thông tư số 02/2001/TT-UBCK ngày 28/9/2001 của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng thì các điều kiện là:
2.2.2.1 Điều kiện phát hành cổ phiếu.
Là công ty cổ phần, doanh nghiệp cổ phần hoá.
Mức vốn điều lệ tối thiểu thực có tính đến ngày xin phép phát hành là 10 tỷ đồng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất tính đến ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành, tình hình tài chính lành mạnh, có triển vọng phát triển. Đối với doanh nghiệp cổ phần hoá, thời hạn 2 năm trên bao gồm cả thời gian trước khi thực hiện cổ phần hoá.
Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành được đại hội cổ đông thông qua.
Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (tổng GĐ) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh.
Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành, trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15%.
Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành vào thời điểm kết thúc đợt phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm, kể từ ngày kết thúc đợt phát hành.
Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành.
* Công ty niêm yết khi phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn, ngoài việc đáp ứng các điều kiện trên còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
Lần phát hành thêm phải cách lần phát hành trước ít nhất 1 năm tính từ thời điểm được cấp giấy phép phát hành.
Giá trị cổ phiếu phát hành thêm không lớn hơn tổng giá trị cổphiếu đang lưu hành. Giá trị cổ phiéu được tính theo mệnh giá.
* Trường hợp phát hành cổ phiếu tăng vốn có kèm theo quyền mua cổ phần, phát hành cổ phiếu ưu đãi có kèm theo chứng quyền, tổ chức phát hành phải nêu rõ phương thức thực hiện quyền trong bản cáo bạch bao gồm các nội dung:
+ Thời hạn thực hiện quyền.
+ Giá trị chuyển đổi, phương pháp tính toán.
+ Các điều khoản khác liện quan đến quyền lợi của người sở hữu quyền mua cổ phần hoặc chứng quyền (nếu có).
Hiện nay, Nghị định mới số 144/2003/NĐ-CP đã giảm điều kiện niêm yết trên TTCK của CTCP về vốn điều lệ từ tối thiểu 10 tỷ đồng xuống còn 5 tỷ đồng và giảm thời gian kinh doanh có lãi. Đây là một điều kiện thuận lợi cho các CTCP có qui mô vốn nhỏ tiếp cận với TTCK.
2.2.2.2 Điều kiện phát hành trái phiếu.
Là doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp cổ phần hoá, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Mức vốn điều lệ tối thiểu thực có tính đến ngày xin phép phát hành là 10 tỷ đồng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất tính đến ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành, tình hình tài chính lành mạnh, có triển vọng phát triển. Đối với doanh nghiệp cổ phần hoá, thời hạn 2 năm trên bao gồm cả thời gian trước khi thực hiện cổ phần hoá.
Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành được HĐQT thông qua đối với CTCP; được Hội đồng thành viên thông qua đối với công ty TNHH; hoặc được cơ quan chủ quản chấp thuận đối với DNNN.
Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (tổng GĐ) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh.
Tối thiểu 20% tổng giá trị trái phiếu xin phép phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ; trường hợp tổng giá trị trái phiếu xin phép phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15%.
Phải có tổ chức bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp tổ chức phát hành là tổ chức tín dụng.
Có cam kết thực hiện nghĩa vụ đối với người đầu tư .
Xác định đại diện người sở hữu trái phiếu. (còn một số qui định khác không nêu)
2.2.3 Thực trạng huy động vốn của Công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Với 22 Công ty niêm yết, thị trường chứng khoán hiện nay chỉ mang ý nghĩa khẳng định sự tồn tại của TTCK VN. Tính đến 1/1/2003 có 2829 Công ty cổ phần thì con số Công ty niêm yết là rất nhỏ, không chứng minh được sức mạnh tiềm năng của loại hình CTCP ở Việt nam. Thị trường chứng khoán mới chỉ tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán của CTCP mà chưa là kênh huy động vốn của các công ty niêm yết.
Qua một thời gian hoạt động, trong khi thị trường thứ cấp diễn ra liên tục, có nhiều giai đoạn sôi nổi, thì thị trường sơ cấp rơi vào tình trạng “đóng băng” kéo dài. Mới chỉ có vài công ty phát hành cổ phiếu bổ sung, giá trị phát hành bổ sung không nhiều.
ở thị trường trái phiếu sơ cấp, trái phiếu chính phủ và trái phiếu ngân hàng Đầu tư và phát triển được tổ chức phát hành nhiều lần trên TTCK. Tuy nhên trái phiếu chưa đến được tay công chúng đầu tư, bởi một mặt các tổ chức trúng thầu chỉ bán nhỏ giọt trên thị trường thứ cấp, mặt khác công chúng đầu tư cũng không mặn mà với mặt hàng này vì lãi suất không hấp dẫn. Có thể nói, thị tường sơ cấp cả về cổ phiếu lẫn trái phiếu hoạt động mờ nhạt, chưa phát huy được chức năng và vai trò vốn có của mình, chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn dài hạn, quan trọng cho Công ty cổ phần. Đến nay, TTCK đã có một số trái phiếu như trái phiếu chính phủ, trái phiếu của quĩ hỗ trợ phát triển, trái phiếu đô thị, trái phiếu của các NHTM.
ở thị trường thức cấp, sự khan hiếm hàng hoá và thói quen đầu tư của người đầu tư bóp méo các qui luật vốn có của thị trường chứng khoán. Các chỉ số chứng khoán không phản ánh thực chất hoạt động của Thị trường, của các Công ty niêm yết.
Bảng 13: Danh sách các công ty niêm yết trên TTCK Việt nam đến hết năm 2003.
tt
mã chứng khoán
Tên công ty
Số vốn
điều lệ
Ngày niêm yết
1
REE
CTCP cơ điện lạnh
225
28/7/2000
2
SAM
CTCP cáp và vật liệu viễn thông
120
28/7/2000
3
HAP
CTCP giấy hải phòng
20,08
4/8/2000
4
TMS
CTCP kho vận và giao nhận ngoại thương Sài gòn
22
22/9/2000
5
LAF
CTCP chế biến hàng xuất khẩu Long an
19,3082
15/12/2000
6
SGH
CTCP khách sạn Sài gòn
17,663
16/7/2001
7
CAN
CTCP đồ hộp Hạ long
35
22/10/2001
8
DPC
CTCP nhựa Đà nẵng
15,8728
28/11/2001
9
BBC
CTCP bánh kẹo Biên hoà
56
19/12/2001
10
TRI
CTCP nước giải khát Sài gòn
37,903
28/12/2001
11
GIL
CTCP sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu Bình thạnh
17
2/1/2002
12
BTC
CTCP cơ khí và xây dựng Bình triệu
12,6134
21/1/2002
13
BPC
CTCP bao bì Bỉm sơn
38
11/4/2002
14
BT6
CTCP bê tông 620 Châu thới
58,8269
18/4/2002
15
GMD
CTCP đại lí liên hiệp vận chuyển
200
22/4/2002
16
AGF
CTCP xuất nhập khẩu thuỷ sản An giang
41,7913
2/5/2002
17
SAV
CTCP hợp tác kinh tế và xuất nhập khẩu Savimex
45
9/5/2002
18
TS4
CTCP thuỷ sản số 4
15
8/8/2002
19
KHA
CTCP xuất nhập khẩu Khánh hội
19
19/8/2002
20
HAS
CTCP xây lắp bưu điện HN
12
19/12/2002
21
VTC
CTCP viễn thông VTC
18
12/2/2003
22
PMS
CTCP cơ khí xăng dầu
32
11/4/2003
Nguồn: Tạp chí đầu tư chứng khoán năm 2004.
Bảng 14: Một số chỉ tiêu tài chính của các chứng khoán niêm yết.
tt
Chứng khoán
ROE
2002 (%)
ROE
2003 (%)
P/E ngày 13/11/03
Cổ tức/thị giá
2002
1
AGF
37.1
25.0
4.58
8.63
2
BBC
-
2.6
-
6.10
3
BPC
17.6
11.6
5.63
10.06
4
BT6
20.6
17.5
6.30
8.33
5
BTC
3.6
1.1
36.52
7.89
6
CAN
17.3
9.5
6.24
11.76
7
DPC
12.3
3.2
5.45
12.35
8
GIL
41.9
26.3
3.57
12.32
9
GMD
34.4
23.8
5.26
9.44
10
HAP
15.5
14.1
6.29
10.79
11
HAS
25.6
22.4
5.22
6.76
12
KHA
25.0
19.2
6.42
8.65
13
LAF
22.2
14.1
4.06
9.68
14
REE
12.6
6.6
7.67
10.26
15
SAM
29.2
21.5
6.20
8.00
16
SAV
22.0
-
4.71
10.06
17
SGH
11.4
-
9.77
6.47
18
TMS
20.5
22.7
5.94
7.38
19
TRI
16.0
25.5
8.06
9.73
20
TS4
26.1
15.8
4.60
10.19
21
VTC
31.8
44.6
5.08
5.97
Nguồn: Anh Kim – nhìn nhận cơ hội, chuyện không đơn giản - Đầu tư chứng khoán số 206 ngày 17/11/2003.
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn của Công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.3.1 Nhu cầu huy động vốn.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, nền kinh tế Việt nam đang dần hồi phục và phát triển. Tốc độ tăng trưởng đạt cao trong khu vực, môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện. Vì vậy, nhu cầu về vốn của CTCP sẽ ngày càng tăng cao theo xu hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Nhu cầu huy động vốn của CTCP tăng bởi 2 lý do:
+ Số lượng CTCP ngày càng tăng, vì đây chính là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế hiện đại.
+ Qui mô của các CTCP sẽ ngày càng mở rộng.
a. Qui mô vốn cần huy động.
Hiện nay, chưa có số liệu thống kê chính xác về qui mô vốn huy động của CTCP trong thời gian tới, ước đoán khoảng 50 nghìn tỷ đồng trong giai đoạn 2003 – 2005. Với từng CTCP riêng biệt, qui mô vốn cần huy động sẽ quyết định phương thức huy động vốn, nếu qui mô vốn cần huy động là lớn, CTCP có khả năng niêm yết trên TTCK thì phương thức phát hành cổ phiếu tỏ ra hiệu quả. Nếu qui mô vốn không lớn, Công ty không đủ điều kiện niêm yết trên TTCK thì có thể vay vốn các NHTM.
b. Thời gian thực hiện huy động.
Đa số các CTCP cần vốn trung và dài hạn, trong khi đó nguồn vốn tín dụng ngân hàng trung và dài hạn lại rất khan hiếm. Nhưng để phát hành chứng khoán thường mất khá lâu và trải qua rất nhiều công đoạn do yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán. Do đó, với những yêu cầu vốn gấp, Công ty cổ phần thường xoay sở vay vốn NHTM.
Với các CTCP lớn, có uy tín, hoạt động kinh doanh lâu năm trên thị trường, có thể huy động vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Nhưng đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có CTCP nào phát hành trái phiếu để huy động vốn. Thực tế, công cụ trái phiếu được các Ngân hàng thương mại sử dụng nhiều hơn, do các NHTM có các lợi thế về qui mô vốn, thời gian hoạt động, tín nhiệm ... hơn nữa hình thức trái phiếu cũng gần gũi với hình thức tiền gửi tiết kiệm mà nhân dân quen dùng.
2.3.2 Chi phí phát hành chứng khoán.
Chi phí phát hành chứng khoán bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, tư vấn, quảng cáo, in ấn, phí kiểm soát, phí niem yết... Các chi phí này nhiều hay ít tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố và có thể chiếm đến 10% tổng giá trị phát hành.
Khi TTCK vận hành chưa trơn chu, hàng hoá trên thị trường chưa đa dạng, các tổ chức liên quan đến phát hành chứng khoán còn trong tình trạng thiếu việc làm, thì việc đẩy cao các chi phí liên quan đến phát hành chứng khoán hay bù lỗ cho sự tham gia phát hành chứng khoán là điều không tránh khỏi. Chính vì vậy, chi phí phát hành ở Việt Nam hiện nay còn cao, do các tổ chức tham gia hoạt động phát hành chưa thực sự chuyến môn hoá, chưa mang tính chuyên nghiệp.
Với mức chi phí phát hành khoảng 10% vốn huy động như hiện nay, rất nhiều công ty khi huy động vốn sẽ phải tính toán với lãi suất vay vốn NHTM là 0,9% 1 tháng.
Chi phí phát hành của phương thức phát hành rộng rãi ra công chúng thường lớn hơn chi phí phát hành theo phương thức phát hành riêng lẻ. Vì vậy, trong một số trường hợp Công ty cổ phần chọn phương thức phát hành riêng lẻ. Mục tiêu cuối cùng của cả hai phương thức phát hành đều là số vốn được huy động.
2.3.3 Thời gian sử dụng vốn huy động.
Thời gian sử dụng vốn có vai trò quan trọng không kém gì chi phí sử dụng vốn huy động. CTCP thiếu vốn trung và dài hạn, phục vụ cho các dự án dài hạn, phương thức huy động vốn bằng phát hành chứng khoán là phù hợp nhất. Về bản chất, vốn huy động bằng phương thức phát hành cổ phiếu tạo thêm vốn CSH cho CTCP, vốn huy động bằng phương thức phát hành trái phiếu làm tăng nợ phải trả của CTCP.
Nếu vốn huy động bằng cổ phiếu, thời gian sử dụng có thể coi là dài hạn, CTCP chỉ phải trả khi tuyên bố giải thể công ty. Nếu là vốn vay bằng trái phiếu, thông thường kỳ hạn của trái phiếu là trung và dài hạn, CTCP hoàn toàn có thể lập kế hoạch thanh toán trái phiếu phù hợp, hơn nữa, lại có thể dùng hình thức trái phiếu có thể chuyển đổi để chuyển thành cổ phần.
Điều kiện để huy động vốn trên TTCK thường ngặt nghèo, không phải CTCP nào cũng có đủ điều kiện thực hiện, hơn nữa, không phải CTCP nào có đủ điều kiện cũng tham gia niêm yết trên TTCK để huy động vốn. Với tình hình kinh tế, môi trường pháp luật của Việt Nam hiện nay, các công ty chưa mặn mà với TTCK. Do đó, rất nhiều CTCP vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn.
2.3.4 Chi phí vốn huy động.
Mệnh giá cổ phiếu (giả định): Po = 10.000 đ
Cổ tức mong đợi trung bình: Dt = 10%
Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức (giả định): g = 7,5%
Lãi suất tiền vay trung bình là: e = 0,95%/1 tháng=11,4%/năm
Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp: T = 32%
Chi phát phát hành: F = 10%
Chi phí của cổ phiếu mới: Ke
Chi phí của lợi nhuận không chia: Ks
Chi phí nợ vay NH sau thuế: Kd (1-T).
Ke = Dt / Po(1 - F) + g
Ks = Dt / Po + g
Kd (1-T) = e (1 - T)
thay số vào ta có:
Ke = 1.000/10.000(1 - 0,1) + 7,5% = 18,6%.
Ks = 1.000/10.000 + 7,5% = 17,5%.
Kd (1-T) = 11,4% x (1 - 0,32) = 7,752%
Thực tế, nếu xét về chi phí vốn huy động thì thấy chi phí vốn cổ phiếu thường mới ở Việt nam là khá cao 18,6%, chi phí lợi nhuận không chia cũng cao 17,5%, trong khi chi phí vốn vay ngân hàng là 7,752% chưa bằng một nửa chi phí vốn cổ phiếu thường mới và chi phí vốn lợi nhuận không chia. Thực tế này dẫn đến các CTCP không quá “hồ hởi” với kênh huy động vốn là TTCK.
Như đã phân tích ở chương 1, lãi suất tiền vay ngân hàng thường cao hơn lãi suất trái phiếu. Nguyên nhân là do trong lãi suất tiền vay ngân hàng đã bao gồm cả lợi nhuận của ngân hàng.
Bảng 15: Cơ cấu thu nhập của một số NHTM năm 2001.
tỷ trọng các khoảng thu trong tổng thu (%)
NH Ngoại thương
NH Đầu tư và phát triển
NH Công thương
NH á châu
NH Sài gòn thương tín
Thu phí dịch vụ
4.3
1.8
7.4
9.3
9.2
Thu lãi cho vay
22.8
86.7
75.7
43.9
78.1
Thu lãi tiền gửi
68.8
11.4
7.2
44.9
5.7
Thu khác
4.1
0.1
9.7
1.9
7.0
Nguồn: Lê thị thanh Hà - phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng trong xu thế đổi mới và hội nhập – tạp chí Tài chính, số 1+2 năm 2003.
Hiện tại, lãi suất trái phiếu của CTCP phải khoảng 10%/năm (vẫn nhỏ hơn lãi suất vay ngân hàng là 11,4%/năm và lớn hơn lãi suất trái phiếu chính phủ 8,5%/năm) mới có thể hấp dẫn được các nhà đầu tư. Khi đó, chi phí vốn của trái phiếu là:
Kd (1-T)trái phiếu = 10% x (1-0,32) = 6,8% < 7,752%.
Như vậy, về lý thuết hoàn toàn có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn mà vẫn có chi phí vốn huy động nhỏ hơn chi phí vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu trên TTCK là rất khó khăn. Các nguyên nhân chính không ngoài các nội dung đã được nêu ở chương 1.
2.3.5 Sự hình thành các cổ đông kiểm soát mới.
Với việc qui định nhà đầu tư nước ngoài không được sở hữu quá 30% cổ phần, các CTCP đã phần nào yên tâm về sự bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu và điều hành CTCP. Thực tế, chưa có CTCP nào có nhà đầu tư nước ngoài mua đến 30% cổ phần.
Trong Nghị định 144/2003/NĐ-CP giao dịch thâu tóm được đề cấp một cách rõ ràng qua điều 36. Theo đó, tổ chức niêm yết, tổ chức, cá nhân nắm giữ hoặc cùng với người có liên quan nắm giữ tới các mức 5% - 10% - 15% - 20% vốn cổ phần của một tổ chức niêm yết, mỗi khi có giao dịch làm tăng, giảm các mức nắm giữ nói trên phải báo cáo bằng văn bản cho UBCKNN, TTGDCK, SGDCK và tổ chức niêm yết trong vòng 3 ngày làm việc, kể từ ngày giao dịch đạt tỷ lệ sở hữu trên. Người thâu tốm phải báo cáo UBCKNN bằng văn bản về ý định thâu tóm. Sau 10 ngày làm việc, kể từ ngày báo cáo, nếu UBCKNN không có ý kiến khác, người thâu tóm phải công bố chào mua công khai trên 3 số liên tiếp của 1 tờ báo trung ương, 1 tờ báo địa phương hoặc trên bản tin TTCK nơi tổ chức niêm yết mà thâu tóm đóng trụ sở chính. Sau khi công bố công khai, người thâu tóm không được thay đổi ý định thâu tóm đã công bố.
Giá chào mua không được thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu niêm yết trên thị trường trước ngày chào mua, thời hạn chào mua công khai từ 30 đến 60 ngày. Trong thời hạn chào mua công khai, người thâu tóm phải áp dụng các điều kiện chào mua công khai cho tất cả các cổ đông của tổ chức niêm yết bị thâu tóm; không được từ chối mua cổ phiếu của bất cứ cổ đồng nào và không được mua bán cổ phiếu của tổ chức niêm yết dưới bất cứ hành thức nào. Việc hoàn tất giao dịch thâu tóm tổ chức niêm yết phải thực hiện trong vòng 5 ngày làm việc kể từ khi hết thời hạn chào mua.
Trường hợp người thâu tóm nắm giữ tới 80% vốn cổ phần của tổ chức niêm yết thì tổ chức niêm yết bị huỷ bỏ niêm yết. Trong vòng 10 ngày kể từ ngày công bố kết quả mua lại, nếu các cổ đông còn lại có yêu cầu, người thâu tóm có nghĩa vụ phải mua tiếp cổ phiếu của họ theo đúng điều kiện chào mua công khai đã công bố.
Người thâu tóm không được bán cổ phiếu đã mua trong vòng 6 tháng kể từ ngày kết thúc việc thâu tóm.
Việc lưu hành cổ phần trên thị trường tự do, các CTCP không niêm yết đã tạo ra nguy cơ tiềm tàng về quyền kiểm soát công ty. Thực tế, đã xảy ra trường hợp các cá nhân đi gom góp cổ phần (từ cán bộ, nhân viên được mua cổ phần) để bán lại kiếm chêng lệnh khi công ty thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán.
2.3.6 Khả thực hiện kế hoạch huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
Sự vận hành thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian vừa qua chưa tạo được lòng tin cho các CTCP. Thị trường chứng khoán chưa trở thành kênh huy động vốn cho các CTCP, đa số các CTCP chỉ đứng ngoài quan sát mà chưa tham gia vào hoạ động của TTCK, các CTCP không thấy được lợi ích khi thực hiện niêm yết trên thị trường trong khi lại phải chịu sự giám sát chặt chẽ, thực hiện chế độ công bố thông tin ...
Do thời gian hoạt động chưa lâu, đây lại là một hoạt động mới mẻ ở nước ta nên để huy động một lượng vốn nhất định phải mất rất nhiều thời gian và chi phí cho việc chuẩn bị phát hành và phát hành.
Thói quen đầu tư của người dân cũng xa lạ với cách thức đầu tư mới trên thị trường chứng khoán. Việc phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn cho các CTCP đòi hỏi phải có sự tham gia của đông đảo cá nhân đầu tư.
2.3.7 Tính chủ động trong sản xuất kinh doanh khi phát hành chứng khoán so với vay NHTM.
Với số vốn huy động được trên thị trường chứng khoán, Công ty cổ phần thực hiện đầu tư vào dự án của mình mà không phải chịu nhiều sự kiểm soát của nhà đầu tư. Báo cáo tài chính thường kỳ, bản cáo bạch và báo cáo dự án khả thi của Công ty cổ phần là những nội dung chính phải chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình hoạt động SX-KD, Công ty cổ phần không phải chịu sự chi phối về quyết định.
Nhưng với vốn vay của các ngân hàng thương mại, Công ty cổ phần phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn, đặc biệt rất khó tiếp cận vốn trung-dài hạn, cụ thể qua bảng sau.
Bảng 16: Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn trong tổng dư nợ của hệ thống NHTM.
Năm
2000
2001
2002
2003
Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn (%)
36,8
39,5
40,0
41,7
Nguồn: Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ và tổng hợp của tác giả.
Qua bảng số liệu ta thấy, tỷ trọng dư nợ của hệ thống NHTM giai đoạn 2000-2003 tăng chậm, từ 36,8% năm 2000 lên 41,7% năm 2003. Điều này phản ánh phần nào sự gia tăng nhu cầu vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế. Quá trình gia tăng đó phản ánh đúng sự phát triển kinh tế Việt nam qua giai đoạn vừa qua.
Khi CTCP đã tiếp cận được vốn tín dụng của NHTM, mọi quyết định quan trọng liên quan đến số vốn vay được của ngân hàng đều có sự tham gia của đại diện ngân hàng. Mặt khác bản thân các ngân hàng thương mại cũng gặp phải vấn đề cơ cấu vốn huy động, vốn huy động trung và dài hạn thường ít hơn vốn huy động ngắn hạn, điều đó làm suy giảm mức cung vốn trung-dài hạn của hệ thống NHTM. Ta xét bảng sau:
Bảng 17: Cơ cấu vốn huy động của hệ thống NHTM.
Đơn vị: 1000 tỷ đồng.
năm
2000
2001
2002
2003
Khối lượng
%
Khối lượng
%
Khối lượng
%
Khối lượng
%
Tổng số
170
100
213
100
261
100
360
100
Không kỳ hạn
59,6
35,1
76,5
36,0
94,9
36,4
-
-
Ngắn hạn
67,5
39,7
82,1
38,5
99,5
38,1
-
-
Trung-dài hạn
42,9
25,2
54,4
25,5
66,6
25,5
-
-
Nguồn: Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ và tổng hợp của tác giả.
Cái lợi của việc vay vốn ngân hàng là CTCP chỉ “phải chịu trách nhiệm” với một mình ngân hàng cho vay thôi, khác với huy động trên thị trường chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu), CTCP phải chịu sức ép trước đông đảo các nhà đầu tư, đây chính là một trong các yếu tố làm các CTCP “ngại” tham gia TTCK.
2.3.8 Chí phí giao dịch trên TTCK.
Bộ Tài chính đã qui định mức thu phí, lệ phí đối với hoạt động của TTCK tại Quyết định số 127/1999/QĐ-BTC ngày 22/10/1999. Do số lượng giao dịch trên TTCK hiện tại còn ít, nên hiện nay chi phí giao dịch không hợp lí.
Hiện nay, với khoảng 16.000 tài khoảng giao dịch chỉ còn khoảng 2000 tài khoản còn hoạt động. Giao dịch của các Nhà đầu tư các nhân có giá trị còn thấp, trong khi chưa xuất hiện nhiều nhà đầu tư có tổ chức, thì vấn đề giảm chi phí giao dịch để khuyến khích nhà đầu tư tham gia TTCK là rất cần thiết. Nhà đầu tư cá nhân thực hiện giao dịch thường có giá trị giao dịch nhỏ nên chi phí giao dịch trên 1 đồng Việt nam là khá cao.
Thời kỳ đầu, từ 7/2000 đến 6/2001, giá chứng khoán liên tục tăng cao, các nhà đầu tư mong đợi ở chênh lệch giá chứng khoán giữa các phiên giao dịch là chính nên chen nhau mua, không có nhà đầu tư nào kêu ca về chi phí giao dịch. Khi TTCK trong giai đoạn khủng hoảng, yếu tố chi phí giao dịch đã được nhắc tới như là một cản trở không nhỏ cho sự tham gia của các nhà đầu tư, ảnh hưởng đến sự thành công của đợt phát hành chứng khoán của CTCP.
2.3.9 Các yếu tố khác:
2.3.9.1 Rủi ro của CTCP khi phát hành chứng khoán.
Trong thời gian hoạt động hơn 3 năm vừa qua của TTCK Việt nam đã xuất hiện tình trạng thông tin không cân xứng và hậu quả của nó. Các công ty niêm yết không cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời, một phần nguyên nhân là do chế tài xử phát chưa nghiêm minh, việc thực hiện xử phạt còn buông lỏng. Đã tồn tại các CTCP như: Cơ điện lạnh đưa ra thông báo muộn về kết quả kinh doanh, Bánh kẹo Biên hoà cung cấp thông tin không chính xác về lợi nhuận. Đặc biệt với cổ đông của CTCP đồ hộp Hạ Long, thông tin Tổng giám đốc của công ty bị truy tố pháp luật đến chậm mất 6 tháng ( vụ việc từ tháng 2/2003 nhưng đến 8/2003 tin mới đến thị trường)
Việc công bố thông tin của các công ty niêm yết đã trở thành vấn đề nổi cộm và đã được Nghị định 144/2003/NĐ-CP giải quyết bằng cách qui định các tình huống buộc tổ chức niêm yết phải công bố thông tin theo qui định của pháp luật trong thời gian 24 giờ kể từ khi xảy ra:
* Có biến động lớn về điều kiện liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
* Bị tổn thất từ 10% giá trị vốn cổ phần trở lên.
* Tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, thành viên HĐQT, thành viên BGĐ, * Ban kiểm soát, kế toán trưởng bị cơ quan pháp luật khởi tố điều tra, có phán quyết của toà án liên quan đến hoạt động của công ty.
* Cơ quan thuế có kết luận về việc vi phạm pháp luật về thuế.
*Thay đổi phương thức và phạm vi kinh doanh của công ty.
* Quyết định đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh.
* Quyết định đầu tư có giá trị từ 10% tổng giá trị vốn cổ phần trở lên.
* Lâm vào tình trạng phá sản, quyết định việc hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi, giải thể doanh nghiệp.
* Ký kết HĐ vay nợ hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% tổng giá trị vốn cổ phần trở lên.
* Thay đổi chủ tịch HĐQT, thay đổi trên 1/3 số thành viên HĐQT hoặc thay đổi GĐ (tổng GĐ), thông qua quyết định của đại HĐCĐ
* Xảy ra những sự kiện khác có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán hoặc lợi ích của người đầu tư.
2.3.9.2 áp dụng Lý thuyết lượng cầu tài sản.
Chứng khoán công ty là một tài sản tài chính và là một hàng hoá, nó cũng phải cạnh tranh với các hàng hoá khác để có thể bán được. Các nhà đầu tư sẽ quyết định mua chứng khoán của Công ty cổ phần hay các tài sản khác dựa trên sự xem xét các yếu tố: Tiềm lực kinh tế của nhà đầu tư ;Lợi tức dự tính của chứng khoán của công ty so với lợi tức dự tính của các tài sản thay thế ; Mức độ rủi ro đi kèm với lợi tức của chứng khoán của công ty so với các tài sản thay thế khác ; Tính lỏng của chứng khoán của công ty so với các tài sản thay thế.
Như đã nêu trong chương 1, ta có thể coi tiền gửi tiết kiệm ngân hàng là tài sản thay thế của chứng khoán của Công ty cổ phần và lần lượt so sánh lượng cầu giữa Tiền gửi và Chứng khoán của Công ty cổ phần.
a Tiềm lực kinh tế của nhà đầu tư.
Độ co dãn của lượng cầu theo của cải biểu hiện sự thay đổi lượng cầu đó, nó phản ánh khi mọi yếu tố khác không thay đổi, lượng cầu về tài sản thay đổi bao nhiêu phần trăm khi của cải thay đổi 1%.
E = %rQD / %rQK`
(rQD là phần trăm thay đổi lượng cầu tài sản, %rQK là phần trăm thay đổi về của cải)
Như vậy, khi của cải của dân chúng – nhà đầu tư – tăng lên, đầu tư vào chứng khoán sẽ có nhiều cơ hội được lựa chọn.
Với sự phát triển kinh tế của Việt nam trong những năm gần đây, đời sống người dân ngày càng được nâng cao, sự lo lắng về cuộc sống bấp bênh đã không còn như thời kinh tế kế hoạch hoá, nhu cầu đầu tư tăng. Với ước tính của các chuyên gia thuộc Ngân hàng thế giới, dân cư Việt nam nắm giữ khoảng 30 tỷ đôla dưới dạng vàng bạc, đá quí, ngoại tệ ... Tuy nhiên, do TTCK là khái niệm mới đối với đa số quần chúng nhân dân, cách thức tính toán đầu tư vào TTCK cũng phức tạp, rủi ro đầu tư cao, nên trong giai đoạn hiện nay, hình thức gửi tiền vào Ngân hàng vẫn được đại đa số nhân dân sử dụng. Mới có một số ít cá nhân đầu tư trên TTCK. Để giải quyết vấn đề này, phương án lập các Quĩ đầu tư tỏ ra có hiệu quả cao.
Đối với các tổ chức tài chính, doanh nghiệp trong nền kinh tế, sự am hiểu về thị trường chứng khoán có cao hơn người dân, nhưng chính sự hoạt động không hiệu quả của TTCK Việt nam thời gian qua chưa tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, các qui định quản lý của cơ quan nhà nước có chức năng còn bất cập, do đó, chứng khoán chưa trở thành phương tiện đầu tư tài chính.
Với sự hoàn thiện không ngừng các cơ chế, chính sách về TTCK, sự phát triển kinh tế cao của Việt nam, chứng khoán đang dần trở thành một tài sản tài chính hấp dẫn các nhà đầu tư, và sẽ vượt hình thức tiền gửi tiết kiệm trong tương lai không xa.
b. Lợi tức dự tính.
Lợi tức dự tính của tiền gửi ngân hàng chính là lãi suất tiền gửi, lợi tức dự tính của trái phiếu chính là lãi suất của trái phiếu. Lợi tức dự tính của cổ phiếu chính là cổ tức dự tính cộng với phần trăm thay đổi do sự chênh lệnh giữa thị giá và mệnh giá.
Hiện nay, lãi suất trung bình tiền gửi ngân hàng là 7,8% 1 năm, lãi suất trái phiếu Chính phủ là 8,5% 1 năm kỳ hạn 2 năm. Như vậy, để có thể huy động được vốn, lãi suất trái phiếu của CTCP phải cao hơn mức lãi suất trái phiếu Chính phủ (8,5%). Thực tế, mới chỉ có ngân hàng đầu tư và phát triển phát hành trái phiếu trên TTCK, các Công
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12820.DOC