Đề tài Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam

Tài liệu Đề tài Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam: GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM BẢO TOÀN VÀ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Ðảng và Nhà nước đối với người lao động. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành, từng bước được thực hiện đối với công nhân viên chức khu vực nhà nước và dần mở rộng ra khu vực ngoài quốc doanh. Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi đối với người lao động. Quỹ Bảo hiểm xã hội được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động; lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng; Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Trước năm 1995, nguồn thu BHXH rất nhỏ, mọi nhu cầu chi BHXH đều do ngân sách Nhà nước cấp, không có Quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1995 đến nay, cùng với sự ra đời của hệ thống BHXH Việt Nam là đơn ...

doc97 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM BẢO TOÀN VÀ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Ðảng và Nhà nước đối với người lao động. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành, từng bước được thực hiện đối với công nhân viên chức khu vực nhà nước và dần mở rộng ra khu vực ngoài quốc doanh. Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi đối với người lao động. Quỹ Bảo hiểm xã hội được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động; lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng; Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Trước năm 1995, nguồn thu BHXH rất nhỏ, mọi nhu cầu chi BHXH đều do ngân sách Nhà nước cấp, không có Quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1995 đến nay, cùng với sự ra đời của hệ thống BHXH Việt Nam là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chính phủ, Quỹ BHXH được hình thành, hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH để chi trả cho hai chế độ hưu trí và trợ cấp thường xuyên có 3 đặc điểm cơ bản: - Chủ sử dụng lao động và người lao động phải đóng BHXH trong một thời gian dài theo quy định thì người lao động mới được hưởng các chế độ này. - Khi đủ điều kiện theo quy định, người được hưởng các chế độ này lại được hưởng trợ cấp trong một thời gian dài. - Số thu trong năm thường không chi hết trong năm đó, quỹ luôn có số tiền tạm thời nhàn rỗi. Về thiết kế Quỹ BHXH dựa trên nguyên tắc sự thụ hưởng trong tương lai phụ thuộc vào những đóng góp ở hiện tại. Tuy nhiên những biến động khó dự đoán của lãi suất, lạm phát; bên cạnh đó tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tuổi thọ ngày càng tăng, tỷ lệ số người làm việc trên số người không làm việc có xu hướng giảm đã tác động gây khó khăn cho những tính toán ban đầu và là những thách thức thật sự trong việc đảm bảo nguồn chi trả của Quỹ BHXH trong tương lai. Chính vì vậy mà việc sử dụng nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của Quỹ BHXH để đầu tư, trước hết là để đảm bảo giá trị của phần vốn này và hơn nữa là có được phần sinh lời thực tế (sau khi đã trừ đi lạm phát) sẽ làm tăng quy mô của quỹ BHXH, góp phần cải thiện cho các khoản trợ cấp BHXH; đồng thời đảm bảo cho các hoạt động của BHXH được tốt hơn cả trong hiện tại và tương lai. Là một nhân viên đang công tác trong ngành BHXH tôi chọn đề tài “Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH tại Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp với hy vọng sẽ đưa ra những giải pháp để có thể bảo toàn nguồn quỹ cũng như tối đa hóa hiệu quả đầu tư của nguồn quỹ tạm thời nhàn rỗi nhằm tăng trưởng quỹ. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những lý luận về BHXH, quỹ BHXH, về quản lý quỹ đề tài nhận diện được thực trạng công tác quản lý quỹ BHXH hiện nay ở nước ta để đề xuất các biện pháp để quản lý và đầu tư quỹ BHXH làm cho quỹ ngày càng tăng trưởng tạo được niềm tin của người tham gia. Đây chính là nền móng để ngành BHXH nước nhà ngày càng phát triển bền vững góp phần nâng cao chất lượng an sinh xã hội và đưa đất nước phát triển và hội nhập. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: nghiên cứu quá trình quản lý quỹ BHXH - Phạm vi nghiên cứu: Hiện nay Quỹ BHXH gồm 3 quỹ thành phần. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới góc độ cân đối tài chính theo yếu tố thời gian, Quỹ BHXH được chia ra làm 2 loại: Quỹ ngắn hạn và Quỹ dài hạn. Trong đó Quỹ ngắn hạn gồm: Quỹ khám chữa bệnh bắt buộc và Quỹ khám chữa bệnh tự nguyện và một phần của Quỹ Hưu trí và Trợ cấp (với mức đóng góp là 5%) để chi trả cho các chế độ: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp và chế độ nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe. Phần còn lại của Quỹ Hưu trí và Trợ cấp (với mức đóng góp là 15%) để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất được coi là phần Quỹ BHXH dài hạn. Trong phạm vi đề tài này Quỹ BHXH được đề cập đến là Quỹ hưu trí và trợ cấp dài hạn. Đề tài nghiên cứu quá trình quản lý Quỹ BHXH: mô hình quỹ, mô hình tổ chức bộ máy BHXH, nội dung và phương thức quản lý quỹ, đánh giá thực trạng đầu tư Quỹ. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, thống kê và dự đoán để tính toán tổng số thu và chi của quỹ BHXH để tính toán cân đối quỹ, từ đó đưa ra giải pháp nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Dựa trên những phân tích, đánh giá về thực trạng quản lý và kết quả thực hiện đầu tư Quỹ BHXH, phân tích những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả thực hiện thu, chi và đầu tư Quỹ BHXH. Từ đó đưa ra các biện pháp mang ý nghĩa thực tiễn để vận dụng vào thực tế nhằm cải thiện tình hình quản lý và đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, các bảng biểu, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận chung về BHXH và nguồn quỹ BHXH. Chương 2: Thực trạng quản lý nguồn quỹ BHXH tại Việt Nam. Chương 3: Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH tại Việt Nam. Xin cảm ơn Thầy – PGS.TS Nguyễn Ngọc Định đã tận tình hướng dẫn em thực hiện luận văn này, và em cũng xin cảm ơn các Thầy, Cô Khoa Tài chính doanh nghiệp đã tận tình giảng dạy em trong thời gian qua. Do đề tài thuộc lĩnh vực chính sách của Nhà nước nên mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của quý Thầy, Cô. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ NGUỒN QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò BHXH 1.1.1 Khái niệm BHXH Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy trong quá trình tồn tại và phát triển nhu cầu cơ bản của con người là ăn, mặc, ở... Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Xã hội càng phát triển, mức độ thỏa mãn các nhu cầu của con người ngày càng cao. Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Bởi lẽ, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào các trường hợp đó, thì ngoài những nhu cầu thiết yếu của con người còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài người phải tìm ra những cách giải quyết khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động còn được sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo cơ chế ba bên. Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét và BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Từ đó khái niệm BHXH được khái quát như sau: BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động, chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH [18]. 1.1.2 Bản chất của BHXH BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú. Thực chất BHXH là sự tổ chức chia sẻ hậu quả của những rủi ro xã hội hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự chia sẻ này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN), già yếu, chết... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu khi còn khả năng làm việc và khi không còn khả năng làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian. Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”. Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH. Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của họ. Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động ổn định trật tự xã hội. 1.1.3 Vai trò của BHXH BHXH với các chế độ trợ cấp của mình sẽ tạo nên một hệ thống chăm lo và bảo vệ người lao động và gia đình họ khi gặp phải các rủi ro làm giảm hoặc mất đi nguồn thu nhập. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước, vai trò của BHXH trong hệ thống An sinh xã hội và trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng to lớn. Có thể khái quát vai trò của BHXH như sau: Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia BHXH. Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường. Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để phòng tránh, giảm thiểu tổn thất, các đơn vị sử dụng lao động phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc người lao động tuân thủ. Nhưng khi có rủi ro xảy ra cho người lao động, quỹ BHXH chi trả kịp thời, tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất. Từ đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế và xã hội. Ba là, BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Người sử dụng và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi có đủ điều kiện theo quy định. Từ đó tạo được niềm tin của người lao động đối với người sử dụng khuyến khích người lao động phấn khởi, tinh thần trách nhiệm của họ cũng được nâng lên trong lao động sản xuất. Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Một mặt quỹ BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho bản thân và gia đình người lao động, mặt khác phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Xét cả hai mặt trên thì hoạt động của quỹ BHXH đều nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, phân phối trong BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho người có thu nhập thấp, là sự chia sẻ giữa những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Từ đó BHXH làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội. Năm là, BHXH trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu để xây dựng thành nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.4 Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại Bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh với mục đích kiếm lời trên cơ sở huy động các nguồn tài lực thông qua việc thu phí bảo hiểm của những người tham gia bảo hiểm để tạo lập quỹ và sử dụng chúng để bồi thường tổn thất cho các đối tượng tham gia bảo hiểm khi xẩy ra rủi ro theo hợp đồng bảo hiểm. Ở Việt Nam, Bảo hiểm thương mại đang hoạt động với hai loại hình bảo hiểm là Bảo hiểm phi nhân thọ và Bảo hiểm nhân thọ. Tương ứng với mỗi loại hình bảo hiểm có rất nhiều sản phẩm khác nhau. Bảo hiểm phi nhân thọ có các sản phẩm như: bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm sức khỏe, tai nạn, con người, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm dầu khí, hàng không, bảo hiểm hỏa hoạn, kỹ thuật - tài sản. Bảo hiểm nhân thọ có các sản phẩm như: An sinh giáo dục, an khang thịnh vượng, an bình hưu trí, an hưởng hưu trí... BHXH hoạt động không vì mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà phục vụ cho lợi ích xã hội, vì quyền lợi của người tham gia BHXH. Ở Việt Nam, BHXH được triển khai dưới hai hình thức là BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Sản phẩm của BHXH bắt buộc là trợ cấp hưu trí, tử tuất, mai táng phí, ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ, TNLĐ- BNN, khám chữa bệnh. Sản phẩm của loại hình BHXH tự nguyện gồm khám chữa bệnh BHYT tự nguyện, riêng loại hình BHXH tự nguyện mới được triển khai từ tháng 1/2008, khi tham gia BHXH tự nguyện người tham gia sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí và tử tuất. Cùng với các quỹ tiền tệ khác, bảo hiểm thương mại có vai trò như một công cụ thực hiện bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Bảo hiểm thương mại hay BHXH cuối cùng cũng hướng đến mục tiêu là ổn định đời sống con người.Tuy nhiên chúng ta có thể phân biệt ở những điểm khác nhau sau đây: Bảng 1.1: Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại Tiêu thức Bảo hiểm thương mại Bảo hiểm xã hội Phi nhân thọ Nhân thọ Tính chất - Kinh doanh - Kinh doanh - Chính sách xã hội Đối tượng được BH - Tài sản - Con người - Trách nhiệm - Con người - Con người (thu nhập của con người) Những sự kiện được bảo hiểm - Các hư hỏng, thiệt hại về tài sản; - Ốm đau, tai nạn, nằm viện đối với con người; - Các nghĩa vụ pháp lý phát sinh. - Sống đến thời hạn nhất định; - Ốm đau, thương tật, nằm viện, chế độ chăm sóc; - Hưu trí ; - Chết. - Ốm đau - Thai sản - Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp - Hưu trí - Tử tuất Nguồn hình thành quỹ - Phí đóng của người tham gia - Phí đóng của người tham gia - Sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động. - Sự hỗ trợ từ NSNN và nguồn viện trợ khác. Cơ quan chủ quản - Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân (các tập đoàn, công ty, chi nhánh, đại lý…) - Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân (các tập đoàn, công ty, chi nhánh, đại lý…) - Nhà nước là chủ thể duy nhất (thực hiện bởi cơ quan BHXH được tổ chức từ trung ương xuống địa phương) 1.2 Chính sách BHXH 1.2.1 Khái niệm Theo định nghĩa của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội : “ Chính sách BHXH là những quy định chung của nhà nước gồm những chủ trương, những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức thực hiện các chế độ BHXH”[5]. Chính sách BHXH thể hiện thái độ của Nhà nước đối với vấn đề BHXH, có thể được biểu hiện dưới nhiều dạng như: trong các văn bản chung của Đảng và Nhà nước, trong hiến pháp, pháp luật… Cùng với sự phát kinh tế xã hội của đất nước, chính sách bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn trong hệ thống an sinh xã hội, có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau với các chính sách xã hội khác để giải quyết các vấn đề liên quan đến con người. 1.2.2 Chính sách BHXH trong hệ thống an sinh xã hội Thuật ngữ an sinh xã hội (ASXH) được chính thức khai sinh với tư cách là tiêu đề của một đạo luật ở Mỹ (Luật 1935 về An sinh xã hội), chỉ sự bảo vệ trong bốn trường hợp: tuổi già, chết, tàn tật và thất nghiệp.Trong hội nghị toàn thể các tổ chức lao động được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Geneve ngày 4/6/1952, Công ước 102 về an sinh xã hội ra đời và được ILO (Tổ chức Lao động quốc tế ) thông qua ngày 28/6/1952 trở thành công ước quốc tế về an sinh xã hội. Công ước 102 của ILO cho rằng: ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống đỡ sự hụt hẫng về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ. Như vậy, ILO quan niệm đối tượng của ASXH là nhóm đối tượng có thu nhập không đủ trang trải cho những điều kiện tối thiểu và xã hội cần tiến hành đồng bộ các biện pháp công cộng khác nhau nhằm phân phối lại thu nhập. Những cơ chế chủ yếu của ASXH bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, các chế độ trợ cấp từ quỹ công cộng, các chế độ trợ cấp gia đình, các quỹ dự phòng, sự bảo vệ do người sử dụng lao động cung cấp, các dịch vụ liên quan đến ASXH. Trong các cơ chế chủ yếu của hệ thống ASXH, BHXH là trụ cột quan trọng thứ nhất, tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm công ăn lương trong xã hội. Các chế độ của BHXH đã hình thành khá lâu truớc khi xuất hiện thuật ngữ ASXH. Hệ thống BHXH đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng Hòa Liên Bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Bismack (1850) và sau đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động; người sử dụng lao động và nhà nước. Kinh nghiệm về BHXH ở Đức, sau đó, được lan dần sang nhiều nước trên thế giới, đầu tiên là các nước Châu Âu, tiếp đến là các nước Châu Mỹ Latinh, Hoa kỳ, Canada và cuối cùng là các nước Châu Phi, Châu Á. Theo công ước 102 BHXH bao gồm 9 chế độ sau: (1) Chăm sóc y tế; (2)Trợ cấp ốm đau; (3)Trợ cấp thất nghiệp; (4)Trợ cấp tuổi già; (5)Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; (6)Trợ cấp gia đình; (7)Trợ cấp thai sản; (8) Trợ cấp cho tình trạng không tự chăm sóc được bản thân (trợ cấp tàn tật); (9)Trợ cấp tuất. Công ước nêu rõ những nước phê chuẩn Công ước này phải thực hiện ít nhất ba chế độ, trong ba chế độ đó ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: (3), (4), (5), (8) hoặc (9). Việc áp dụng BHXH trên của quốc gia khác nhau thường cũng rất khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng. Có nước quan tâm thực hiện các chế độ đảm bảo cho các rủi ro dễ xảy ra trước mắt như chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, các nước khác lại quan tâm đến các chế độ đảm bảo cho tuổi già, tuổi hưu trí, cho cái chết. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế- xã hội, phù hợp với đặc điểm của từng nơi, bảo hiểm sẽ mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế độ. 1.2.3 Các chế độ BHXH hiện hành tại Việt Nam Trong quá trình thực hiện BHXH, hệ thống pháp luật và chính sách về BHXH ở nước ta đã dần dần được bổ sung và hoàn thiện. Luật BHXH số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 quy định các chế độ BHXH hiện nay ở nước ta gồm: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp TNLĐ – BNN, hưu trí và tử tuất [xem phụ lục 6]. 1.3 Quỹ Bảo hiểm xã hội 1.3.1 Khái niệm Trong đời sống kinh tế - xã hội, người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ khác nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm... Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước với những quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra. Tất cả các loại quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời điểm mà còn luôn luôn biến động theo hướng tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Có thể hình dung quỹ như một bể chứa nước, trong đó đầu vào có nước luôn chảy để nước trong bể ngày càng nhiều lên còn đầu ra là quá trình sử dụng nước làm cho nước trong bể vơi dần đi. Để bảo đảm cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dữ trữ. Đầu vào phải nhiều hơn đầu ra thì trong bể mới luôn luôn có nước. Bởi vậy, để quản lý và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ quản lý được khối lượng tĩnh của nó tại một thời điểm, mà quan trọng hơn là phải quản lý được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Tương tự như vậy, quỹ BHXH cũng được hình thành từ các nguồn thu khác nhau và được sử dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản lý khác theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải được tính toán sao cho nguồn thu phải đủ lớn và phải chảy vào bể liên tục để đảm bảo các chi phí - đầu ra của BHXH không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai. Khi mức chi ra lớn, những người hoạch định phát triển BHXH phải tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Khái niệm Quỹ BHXH được khái quát như sau: Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác, sử dụng để bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; nhằm ổn định đời sống cho họ và gia đình họ và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. 1.3.2 Vị trí của quỹ BHXH trong hệ thống tài chính nhà nước Hoạt động tài chính diễn ra rất đa dạng và phong phú ở bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động, các hoạt động tài chính có cùng một tính chất, đặc điểm, vai trò gắn liền với một chủ thể. Có những quỹ tiền tệ đặc thù được hình thành và sử dụng để đáp ứng các nhu cầu và lợi ích khác nhau của đời sống xã hội, thì ở đó hình thành một khâu tài chính độc lập. Các khâu tài chính tồn tại một cách độc lập, nhưng giữa chúng có những mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ, do đó chúng không thể tách rời nhau mà cùng nhau hợp thành một hệ thống tài chính thống nhất của mỗi quốc gia. Hiện nay, hệ thống tài chính ở Việt Nam bao gồm các khâu tài chính sau: 1. Ngân sách Nhà nước(NSNN). 2. Tài chính doanh nghiệp. 3. Quỹ bảo hiểm. 4. Quỹ tín dụng. 5. Tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình. Trong quá trình vận động, Quỹ BHXH có thể quan hệ trực tiếp với các khâu tài chính Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính tín dụng, tài chính các tổ chức xã hội và hộ gia đình qua việc tạo lập quỹ dưới hình thức thu BHXH, BHYT và sử dụng quỹ dưới hình thức chi trả các chế độ BHXH, BHYT. Mặt khác thông qua thị trường tài chính, Quỹ BHXH có quan hệ gián tiếp với các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính khi nguồn tài chính của quỹ này tạm thời nhàn rỗi được sử dụng giống như các quỹ tín dụng khác. Quan hệ với ngân sách Nhà nước: NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước trong hệ thống tài chính quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội và duy trì bộ máy quản lí nhà nước. Toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Luật ngân sách của Việt Nam ban hành 1996 đã xác định: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước được dự toán và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. NSNN được hình thành từ mọi khoản thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân; các khoản cho vay của Chính phủ; các khoản viện trợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi NSNN được bố trí theo yêu cầu phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước. Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Hoạt động của NSNN gắn liền với chủ thể là Nhà nước. Các nguồn tài chính từ các khâu tài chính khác được hút một cách mạnh mẽ để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước - quỹ ngân sách. Với quyền lực của mình, Nhà nước đã ban hành Luật BHXH, Điều lệ BHYT, Quy chế quản lý tài chính đối với hệ thống BHXH Việt Nam trong đó quy định việc tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH trong thời gian tạm thời nhàn rỗi đã trở thành nguồn tài chính được hút vào quỹ Ngân sách dưới hình thức các khoản cho NSNN vay. Từ những khoản cho vay này, NSNN có quyền sử dụng, thông qua chức năng phân phối để tạo lập các quỹ tiền tệ nhỏ ở các khâu tài chính khác dưới hình thức cấp phát như cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, vốn Điều lệ cho Doanh nghiệp Nhà nước, cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế... vay vốn để hoạt động, hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các tổ chức đoàn thể, trợ cấp xã hội.... Những khoản cấp phát, trợ cấp, cho vay này của NSNN lại trở thành một nguồn thu bổ sung vào các quỹ tiền tệ ở các đơn vị kinh tế khác. Như vậy, một cách gián tiếp Quỹ BHXH đã tạo lập nên các quỹ tiền tệ ở các khâu tài chính khác như: tài chính doanh nghiệp, tín dụng, tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là các đơn vị thuộc khối hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang sử dụng kinh phí do NSNN cấp, hỗ trợ để hoạt động trong đó có khoản trích nộp BHXH. Hàng tháng, các đơn vị này phải trích từ khoản kinh phí do NSNN cấp, hỗ trợ để nộp BHXH, BHYT. Đối tượng đang hưởng chế độ trợ cấp BHXH hàng tháng do nguồn NSNN đảm bảo; người có công, thân nhân sỹ quan quân đội tại ngũ, người nhiễm chất độc màu da cam, người nghèo... hàng tháng được hưởng các khoản trợ cấp từ NSNN cũng là đối tượng tham gia BHXH do đó NSNN cũng dành một phần kinh phí của mình để nộp BHYT cho họ. Như vậy, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp quỹ NSNN lại đuợc hút vào quỹ BHXH dưới hình thức nộp BHXH, BHYT để hình thành nên quỹ BHXH. Quan hệ với tài chính doanh nghiệp: Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia. Trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của mình, doanh nghiệp phát sinh các quan hệ tài chính trong đó có quan hệ với cơ quan BHXH về thu, nộp BHXH và nhận về các khoản trợ cấp cho người lao động trong trường hợp họ bị ốm đau, tai nạn lao động- BNN, nghỉ thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ. Lao động là một yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp, do đó cùng với việc trả lương, doanh nghiệp phải thực hiện việc trích nộp BHXH cho người lao động theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH theo tỷ lệ quy định cho cơ quan BHXH, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng tiền từ nguồn vốn kinh doanh của mình làm chuyển dịch nguồn tài chính của doanh nghiệp vào quỹ BHXH. Các khoản trích nộp BHXH khi chưa đến hạn phải nộp sẽ được doanh nghiệp khai thác, huy động và sử dụng tạm thời để đảm bảo có đủ nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và như vậy gián tiếp quỹ BHXH đã được bổ sung bởi các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Mặt khác khi tham gia BHXH, trong trường hợp người lao động nữ nghỉ sinh con, người lao động không may bị ốm, bị tai nạn không tham gia được vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp lúc này người lao động sẽ được quỹ BHXH chi trả các chế độ BHXH ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, TNLĐ - BNN. Như vậy bằng cơ chế sử dụng quỹ của mình, Quỹ BHXH đã trực tiếp tạo nên nguồn thu cho khâu tài chính hộ gia đình và gián tiếp tham gia vào khâu tài chính doanh nghiệp. Quan hệ với quỹ tín dụng: Tín dụng là khâu quan trọng trong hệ thống tài chính. Quỹ tín dụng được tạo lập bằng cách huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế, vốn tự có và sử dụng để cho vay, đầu tư chứng khoán, trả lãi theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức. Cơ chế quản lý tài chính của BHXH cho phép BHXH Việt Nam được thực hiện các hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Trong thời gian nhàn rỗi chưa sử dụng đến, quỹ BHXH được phép cho các Ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng chính sách vay; mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu công trái của Kho bạc Nhà nước và của các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong quá trình vận động của mình với mục đích cho vay, quỹ BHXH đã trở thành một trong những nguồn vốn huy động tạo lập nên quỹ tín dụng nhằm cung ứng một cách linh hoạt nhu cầu vốn ngày càng nhiều cho các hoạt động kinh tế, xã hội. Đồng thời, sau một thời gian sử dụng tiền của quỹ BHXH, các tổ chức tín dụng phải trả cho quỹ BHXH khoản tiền lãi theo thỏa thuận và lúc này tiền lại ra khỏi Quỹ tín dụng để tạo lập Quỹ BHXH. Quan hệ này cứ lặp đi lặp lại tạo nên mối quan hệ khăng khít và quay vòng giữa Quỹ BHXH và Quỹ tín dụng. Các tổ chức tín dụng cũng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo Điều lệ BHXH vì vậy hàng tháng, từ Quỹ tín dụng này một lượng tiền nhất định sẽ được rút ra để nộp BHXH, BHYT cho chính những lao động đang làm việc trực tiếp trong các tổ chức tín dụng. Khoản tiền trích nộp từ các tổ chức tín dụng này đã chuyển dịch sang quỹ BHXH để tạo lập quỹ. Hơn nữa, Quỹ BHXH lại tác động một cách gián tiếp với các khâu tài chính khác thông qua thị trường tài chính. Khi tiền của Quỹ BHXH trở thành nguồn tài chính của Quỹ tín dụng, nó sẽ hòa chung vào luồng tiền tệ khác để tham gia vào hoạt động tín dụng. Nó sẽ được sử dụng để cho NSNN, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, hộ gia đình vay... trở thành nguồn thu tạm thời của NSNN, nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, vốn kinh doanh của các hộ gia đình, khi đó Quỹ BHXH đã gián tiếp hình thành nên Quỹ tiền tệ ở các khâu tài chính khác. Như vậy Quỹ BHXH trong thời gian tạm thời nhãn rỗi đã được tham gia vào quan hệ tín dụng trên thị trường một cách linh hoạt giống như một Quỹ tín dụng nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn cho các khâu tài chính khác góp phần thúc đẩy đầu tư phát triển. Quan hệ với tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình Trong dân cư nguồn tài chính chủ yếu được hình thành từ tiền lương, tiền công, các khoản được thừa kế, các khoản hỗ trợ, trợ cấp của Nhà nước và tổ chức khác... Một phần tài chính của các tổ chức xã hội và hộ gia đình tham gia vào Quỹ BHXH dưới hình thức trích theo tỷ lệ quy định từ khoản tiền lương hàng tháng của mình để đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Nhà nước hoặc mua BHXH tự nguyện. Khi đó Quỹ BHXH đã thu hút một phần từ quỹ tiền tệ của gia đình, của các tổ chức xã hội để tạo lập quỹ của mình. Tham gia BHXH, người tham gia sẽ được trả trợ cấp trong trường hợp ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN hay trợ cấp hưu trí khi hết tuổi lao động, được trả tiền KCB khi vào viện. Khoản trợ cấp từ Quỹ BHXH này đã trở thành một phần thu nhập hình thành nên tài chính của hộ gia đình góp phần giảm gánh nặng về tài chính cho người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro. Qua các mối quan hệ nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng sự ra đời, tồn tại và phát triển của Quỹ BHXH là một tất yếu khách quan cùng với sự phát triển của xã hội. Quỹ BHXH được quản lý theo nguyên tắc kinh tế nhưng mục đích sử dụng quỹ BHXH lại mang tính xã hội sâu sắc. Quỹ BHXH là quỹ ngoài NSNN, hoạt động độc lập và tự cân đối thu - chi theo cơ chế quản lý tài chính được Chính phủ cho phép. Quỹ BHXH vận động thường xuyên do sự tác động của các hoạt động thu nộp BHXH và chi trả các chế độ BHXH đầy đủ, kịp thời góp phần thực hiện chính sách nhân đạo, công bằng, đảm bảo mục tiêu ổn định đời sống và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân của Đảng, Nhà nước đối với người lao động. Đồng thời góp phần tạo lập nên những nguồn lực tài chính cần thiết cho các khâu tài chính khác thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng phát triển thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.3.3 Đặc điểm của quỹ BHXH - Tính chủ thể của quỹ BHXH. Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định việc tạo lập và sử dụng quỹ; người tham gia là chủ thể duy nhất có quyền sử dụng quỹ. - Sự kết hợp giữa tính bắt buộc và tự nguyện, giữa tính bồi hoàn và không bồi hoàn. Quỹ BHXH được hình thành từ nguồn BHXH bắt buộc và cả tự nguyện. Những biến cố tất nhiên đối với con người như thai sản đối với nữ, tuổi già và chết, BHXH mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng các khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, những rủi ro trái với ý muốn của con người như ốm đau, TNLĐ, BNN mang tính không bồi hoàn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, TNLĐ, BNN thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. - Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ mang tính cộng đồng xã hội lớn. BHXH hoạt động theo nguyên tắc cộng đồng, lấy số đông bù số ít, dùng tiền đóng góp của nhiều người tham gia để bù đắp cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số tiền đóng góp của từng người khi họ gặp phải những rủi ro. Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính cộng đồng, tính xã hội rất cao, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. - Quỹ BHXH có phạm vi hoạt động rộng, đối tượng phục vụ lớn. Ngoài đối tượng là người lao động thuộc diện bắt buộc phải tham gia BHXH, còn có chế độ BHXH tự nguyện. Vì vậy đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH là người dân cả nước, quỹ BHXH có phạm vi hoạt động khắp quốc gia, thậm chí xuyên quốc gia. - Một quỹ tiền tệ tập trung lớn, tồn tại trong một thời gian dài, luôn vận động và có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn. Quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động của cả nước tạo thành một nguồn tài chính lớn. Quỹ dùng để chi trả cho các chế độ bao gồm ngắn hạn và dài hạn, hơn nữa quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích nên số dư hằng năm sẽ tăng lên và tạm thời nhàn rỗi khi các chế độ dài hạn chưa đến thời kỳ chi trả. - Quỹ BHXH luôn chịu tác động của nhiều nhân tố trong nền kinh tế - xã hội. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến đời sống kinh tế và xã hội của con người và tác động trực tiếp đến quỹ BHXH như tình trạng thất nghiệp, thu nhập, sức khỏe… Thất nghiệp giảm cũng đồng nghĩa với nhiều lao động có việc làm sẽ gia tăng đối tượng tham gia BHXH, số tiền đóng góp vào quỹ BHXH cũng tăng theo. Thu nhập của người lao động càng cao mức đóng góp vào quỹ BHXH càng cao và ngược lại. Sức khỏe con người tác động rất lớn đến quỹ; sức khỏe tăng dẫn đến tuổi thọ bình quân tăng thì phần chi cho quỹ hưu trí càng lớn dẫn đến giảm quỹ. Mặt khác sức khỏe người lao động tốt thì phần chi cho ốm đau giảm. Ngoài ra còn có những nhân tố tác động gián tiếp đến quỹ BHXH như: tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội…Một nền kinh tế phát triển sẽ thu hút đầu tư, sản xuất và thương mại phát triển dẫn đến gia tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Xã hội tiến bộ, chất lượng cuộc sống cũng như nhận thức của con người nâng cao, các chế độ BHXH cũng dần được cải thiện tạo được lòng tin của người tham gia… tất cả những yếu tố đó làm tăng quy mô quỹ BHXH. 1.3.4 Những nhân tố tác động đến quy mô quỹ BHXH Như đã nói ở trên quỹ BHXH chịu tác động của nhiều nhân tố. Xét về mặt tài chính quỹ BHXH chịu tác động bởi hai nguồn tài chính sau: Một là, nguồn tài chính vận động làm tăng quỹ BHXH. Số lượng nguồn tài chính loại này phần lớn phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước để hình thành nên quỹ BHXH. Nhìn chung ở các nước trên thế giới nguồn hình thành nên quỹ BHXH gồm có: + Sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động. Đây là nguồn tài chính chủ yếu để hình thành quỹ BHXH. Hầu hết các quốc gia đều quy định bắt buộc người sử dụng lao động và người lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm theo tỷ lệ % trên thu nhập hàng tháng của người lao động. Đối với người lao động đây là sự tiết kiệm bắt buộc khi mà họ còn có khả năng lao động tạo thu nhập để bù đắp cho chính họ khi gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Còn đối với người sử dụng đây là khoản đóng góp bắt buộc do Nhà nước quy định để đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình khi họ gặp phải rủi ro nêu trên, khoản đóng góp này được hạch toán vào chi phí. Mức đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động do các yếu tố sau quyết định: số lượng người tham gia BHXH, mức thu nhập hàng tháng của người lao động, thời gian đóng BHXH, và tỷ lệ đóng. Rõ ràng nguồn quỹ BHXH có quan hệ tỷ lệ thuận với bốn yếu tố trên. Có thể xác định bằng công thức: TMĐ = TNi x TGĐi x TLĐi TMĐ: Tổng mức đóng góp của người sử dụng và người lao động vào quỹ BHXH; n: Tổng số người tham gia BHXH TNi: Thu nhập của người lao động thứ i; TGĐi: Thời gian đóng vào quỹ BHXH của người lao động thứ i; TLĐi: Tỷ lệ đóng vào quỹ của người sử dụng và người lao động. + Lãi từ hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Nếu quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích cộng đồng thì đây là một quỹ tiền tệ tập trung có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn. Nếu hoạt động đầu tư quỹ đạt hiệu quả cao, được quản lý chặt chẽ thì sẽ mang lại một nguồn thu lớn bổ sung làm tăng quy mô quỹ. Đây là một nguồn thu phụ thuộc rất lớn vào người quản lý và sử dụng quỹ do đó cần có một chính sách đúng đắn để phát huy tối đa hiệu quả của nguồn này. + Nguồn hỗ trợ từ NSNN: đây là nguồn chi mà NSNN phải chi khi các nguồn khác không đảm bảo chi trả các chế độ cho các đối tượng. Nguồn chi này mang tính bất hợp lý nên hầu hết các nước trên thế giới đang tìm mọi cách điều chỉnh chính sách, chế độ BHXH sao cho giảm tối đa sự hỗ trợ từ NSNN cho quỹ BHXH. + Các nguồn tài trợ, viện trợ của các cá nhân, đơn vị trong và ngoài nước và các nguồn thu khác. Hai là, nguồn tài chính vận động làm giảm quỹ BHXH gồm có: + Nguồn tài chính dùng cho chi trả các chế độ BHXH. Đây là nguồn chi chủ yếu của Quỹ BHXH và nó cũng phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Theo công ước 102 của ILO thì có 9 chế độ BHXH, còn ở nước ta đang áp dụng 6 chế độ. Mức chi các chế độ cho người thụ hưởng dựa trên nguyên tắc đóng góp càng nhiều vào Quỹ BHXH thì mức hưởng càng cao. Mức hưởng còn tùy thuộc vào tuổi đời và tình trạng sức khỏe của đối tượng hưởng và mức này thường thấp hơn hoặc bằng với thu nhập của đối tượng khi còn đang làm việc. Mức hưởng được xác định trên cơ sở thu nhập bình quân hay thu nhập hiện tại của người lao động trước thời điểm được hưởng chế độ BHXH nhân với tỷ lệ phần trăm tùy theo loại chế độ. Có thể khái quát công thức tính tổng mức chi cho người lao động hưởng các chế độ sau: TMC = TNi x TGHi x TLHi TMC: Tổng mức chi các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng; n: Tổng số người hưởng chế độ BHXH TNi: Thu nhập được xác định làm căn cứ hưởng chế độ BHXH của người lao động thứ i; TGHi: Thời gian hưởng chế độ BHXH của người lao động thứ i; TLHi: Tỷ lệ được hưởng của người lao động thứ i. + Nguồn tài chính chi cho hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH. Là những khoản chi để duy trì hoạt động của bộ máy làm công tác quản lý sự nghiệp BHXH và chi phí cho hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH. Đây là nguồn có thể tiết kiệm tối đa để tăng thêm nguồn chi cho Quỹ BHXH. Có thể nói rằng hai nguồn tài chính vận động làm tăng và giảm quy mô nghe như mâu thuẫn nhau nhưng các nhân tố này lại có mối quan hệ tương tác lẫn nhau. Một số nhân tố làm tăng nguồn quỹ đồng thời giảm quỹ. Chẳng hạn, số người tham gia BHXH tăng sẽ làm tăng nguồn thu vào quỹ nhưng cũng sẽ làm tăng số người thụ hưởng chế độ theo đó nguồn chi cũng tăng; hoặc thời gian đóng BHXH của người lao động vào quỹ càng dài thì tỷ lệ hưởng của họ sẽ càng cao. Như vậy bản chất của Quỹ BHXH được đặc trưng bởi sự vận động của các nguồn tài chính làm tăng và làm giảm quỹ; sự vận động của các nguồn tài chính đó phản ảnh mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa các bên tham gia BHXH để tạo lập quỹ và các mối quan hệ kinh tế trong việc phân phối, chuyển dịch thu nhập giữa những người tham gia và hưởng chế độ BHXH. 1.3.5 Các mô hình quỹ BHXH Trên thế giới, BHXH được ra đời từ cuối thế kỷ thứ 19 gắn liền với nó là việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ - quỹ BHXH. Tùy theo điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi nước, trong mỗi thời kỳ khác nhau mà quỹ BHXH cũng được thiết kế theo những mô hình khác nhau. * Xét dưới góc độ nguồn tài chính để hình thành thì Quỹ BHXH có các mô hình sau: Một là, Quỹ BHXH Nhà nước. Theo mô hình này, Quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất là do NSNN cấp. Chủ sử dụng lao động và người lao động không phải đóng góp vào quỹ. Hai là Quỹ BHXH hỗn hợp. Ở mô hình này Quỹ BHXH có 3 loại: + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, người tham gia bảo hiểm, Nhà nước đóng và hỗ trợ. + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và của người tham gia BHXH. + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, Nhà nước đóng và hỗ trợ. Người tham gia bảo hiểm không phải đóng góp vào quỹ. Ba là, Quỹ BHXH cá nhân. Theo mô hình này, Quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất từ sự đóng góp của cá nhân người tham gia BHXH. * Xét dưới góc độ hình thức tham gia thì Quỹ BHXH có 2 mô hình, đó là Quỹ BHXH bắt buộc và Quỹ BHXH tự nguyện. Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng quỹ để bắt buộc một số đối tượng phải tham gia BHXH. Sự đóng góp của họ hình thành nên Quỹ BHXH bắt buộc. Ở mô hình này các đối tượng phải tham gia BHXH thường là chủ sử dụng lao động, người lao động. Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng quỹ để cho các đối tượng được quyền tự lựa chọn tham gia phù hợp với điều kiện và nhu cầu của họ. Sự đóng góp của họ hình thành nên Quỹ BHXH tự nguyện. Ở mô hình này đối tượng tham gia BHXH thường là các cá nhân không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc hoặc là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng họ tham gia bổ sung để hưởng thêm quyền lợi ngoài chế độ BHXH bắt buộc. *Xét dưới góc độ thời gian hưởng chế độ BHXH thì Quỹ BHXH có 2 mô hình, đó là Quỹ BHXH dài hạn và Quỹ BHXH ngắn hạn. Quỹ BHXH dài hạn được hình thành từ sự đóng góp của các đối tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH dài hạn như: hưu trí, tử tuất và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN) trả hàng tháng. Quỹ BHXH ngắn hạn được hình thành từ sự đóng góp của các đối tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, TNLĐ-BNN hưởng một lần. * Xét về góc độ cân đối thu – chi quỹ BHXH hiện tồn tại hai mô hình cơ bản đó là: mô hình tồn tích và mô hình tọa thu – tọa chi. Một là, mô hình tồn tích Mô hình này dựa trên phương thức cân đối thu – chi dài hạn, số dư của quỹ được tích lũy qua các năm. Dựa vào phương pháp thống kê để xác định nguồn thu vào và chi ra của Quỹ BHXH để tính cân đối thu chi dài hạn. Mô hình này có các ưu điểm là quỹ tiền tệ tập trung có số tồn tích rất lớn, một mặt sử dụng chi trả kịp thời các nhu cầu chi do Quỹ BHXH bảo đảm, mặt khác tham gia đầu tư vừa để bảo toàn và tăng trưởng quỹ vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên mô hình này cũng tồn tại nhược điểm. Tính cân đối quỹ phức tạp, độ chính xác không cao. Bởi cân đối quỹ dựa trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế - xã hội dự báo. Quỹ sẽ gặp khó khăn do sự biến động kinh tế từng thời kỳ, sự thay đổi về cơ cấu dân số, tuổi tác… Trong mô hình tồn tích có hai loại cơ bản: tồn tích cá nhân và tồn tích cộng đồng. Theo mô hình tồn tích cá nhân, mỗi người lao động có một hoặc nhiều tài khoản cá nhân để lưu giữ, tích lũy toàn bộ số tiền đóng góp của chủ sử dụng lao động và bản thân người lao động và tiền lãi thu được. Khi người lao động hội đủ các điều kiện để hưởng các chế độ BHXH thì sẽ được quyền sử dụng số tiền từ tài khoản của họ.Theo mô hình này thì Quỹ BHXH sẽ không bao giờ mất cân đối, đóng bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Tuy nhiên mô hình này làm mất đi bản chất cộng đồng chia sẻ, lấy số đông bù số ít của BHXH, mô hình này chỉ mang tính chất tiết kiệm cá nhân. Ở mô hình tồn tích cộng đồng thì mọi nguồn đóng góp sẽ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, thống nhất thuộc sở hữu của tất cả những người tham gia. Mô hình này thể hiện rõ tính chất chia sẻ rủi ro, số đông bù số ít vốn là nguyên tắc hoạt động và cũng là bản chất của BHXH. Hiện nay Quỹ BHXH tại Việt Nam đang được thiết kế theo mô hình này. Hai là, mô hình tọa thu – tọa chi (umlageverfahen – Pay as you go – chi đến đâu thu đến đó) Mô hình này được thiết kế dựa trên nguyên tắc Quỹ BHXH được cân đối thu – chi trong từng năm theo cách thức chi của năm nào phải được trả bằng nguồn thu của năm đó, ngoài ra còn được cân đối bởi một nguồn tài chính hỗ trợ từ NSNN. Quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình này có các ưu điểm là: việc cân đối quỹ đơn giản, độ chính xác cao, gắn liền với dự toán ngân sách quốc gia; quyền lợi của người tham gia BHXH được đảm bảo do có sự bảo hộ kịp thời của Nhà nước. Tuy nhiên, mô hình này cũng tồn tại nhược điểm, đó là: tốc độ chi từ Quỹ BHXH luôn có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ tăng do nguồn thu do người lao động đóng góp và lãi đầu tư tăng trưởng quỹ. Nhu cầu chi tăng do tuổi thọ trung bình tăng, các nhu cầu đảm bảo cho đời sống xã hội tăng, giá cả sinh hoạt tăng. Trong khi việc điều chỉnh mức đóng thường phải lấy ý kiến và gặp phải sự phản ứng của người sử dụng lao động và người lao động. Do vậy, để đảm bảo thu – chi trong năm thông thường phải sử dụng NSNN để hỗ trợ. Nhưng NSNN lại được hình thành chủ yếu từ thu thuế do sự đóng góp của toàn dân, trong khi đối tượng chi trả chỉ là một bộ phận. Nhà nước đã dùng một phần thu nhập của toàn dân để chi cho những người tham gia BHXH – đây là sự bất hợp lý. 1.3.6 Quản lý quỹ BHXH Quỹ BHXH là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống BHXH. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những sự kiện, những rủi ro xã hội của tất cả những người tham gia, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình. Do đó quỹ BHXH phải được quản lý chặt chẽ để sự vận động của quỹ thông suốt, đảm bảo cân đối, phục vụ tốt cho người tham gia và hưởng các chế độ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và thúc đẩy sự nghiệp phát triển của đất nước. Quản lý quỹ BHXH là sự tác động của chủ thể quản lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra sự vận động của quỹ BHXH, nhằm đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù hợp. Một đặc trưng rất riêng của BHXH là mối quan hệ theo cơ chế ba bên Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động. Người sử dụng lao động thường muốn giảm chi phí càng nhiều càng tốt nên thường họ đóng BHXH ở mức thấp hơn thu nhập thực tế của người lao động hoặc né tránh việc đóng BHXH; người lao động thì luôn luôn muốn lợi ích của mình phải được đảm bảo; Nhà nước bảo hộ và quản lý quỹ BHXH nên để giảm tối thiểu giảm mức hỗ trợ từ NSNN thì phải bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách tăng cường thu, tiết kiệm chi. Chính vì những lợi ích khác nhau và có phần đối kháng nhau nên giữa các bên tham gia hoạt động BHXH thường tiềm ẩn những mâu thuẫn. Để đảm bảo hài hòa lợi ích và trách nhiệm giữa các bên tham gia thì cần có những chuẩn mực bắt buộc các bên phải tuân thủ. Và Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội đã thực hiện chức năng quản lý của mình. Quản lý quỹ BHXH có hai nội dung quan trọng là quản lý nhà nước về quỹ BHXH và quản lý sự nghiệp quỹ BHXH. Quản lý Nhà nước về quỹ BHXH - Quản lý nhà nước về quỹ BHXH thực chất là sự quản lý của Nhà nước đối với quá trình vận động của quỹ bằng quyền lực của Nhà nước thông qua hệ thống những nguyên tắc, hình thức, phương pháp quản lý và hệ thống các quy tắc ràng buộc đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến sự vận động của quỹ BHXH. Quản lý Nhà nước về BHXH được thể hiện thông qua một số nội dung cơ bản sau: Quản lý thống nhất các hoạt động thu – chi quỹ BHXH trên phạm vi toàn quốc gia; xây dựng pháp luật về quỹ BHXH; đề ra các chính sách BHXH nhằm đảm bảo cho các hoạt động của quỹ BHXH được thông suốt, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ; thực hiện thanh tra, kiểm tra các hoạt động của quỹ BHXH; bảo hộ cho quỹ BHXH. Quản lý sự nghiệp quỹ BHXH. Dù mô hình có thể được tổ chức khác nhau, nhưng hoạt động sự nghiệp quỹ BHXH có những nội dung chủ yếu sau: quản lý việc thực hiện thu - chi BHXH; quản lý đối tượng tham gia BHXH. Thông qua bộ máy của mình và trên cơ sở pháp luật BHXH của mỗi nước, các cơ quan BHXH tiến hành các nghiệp vụ thu tiền đóng BHXH của các doanh nghiệp và người lao động và triển khai chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng BHXH và các chi phí quản lý khác. 1.3.7 Mô hình quản lý quỹ BHXH một số nước trên thế giới 1.3.7.1 Tại Trung Quốc Các chế độ BHXH: Luật BHXH ban hành lần đầu tiên năm 1951. Các chế độ BHXH bao gồm: hưu trí, tàn tật, tử tuất, ốm đau, thai sản, TNLĐ, trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp y tế. Tổng mức đóng vào quỹ là 43% quỹ tiền lương, trong đó người lao động đóng 11%, người sử dụng lao động đóng 32%. Quỹ BHXH dùng chi trả các chế độ BHXH gồm có: + Chế độ hưu trí: Nam và nữ có chuyên môn đủ 60 tuổi, nữ không có tay nghề đủ 55 tuổi. Nếu làm công việc nặng nhọc nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 45 tuổi. Mức lương cơ bản bằng 20% tiền lương trung bình năm trước khi nghỉ hưu cộng với mức bằng 1/120 tổng số đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động cộng với lãi suất lũy kế ở tài khoản cá nhân (11% tiền lương hàng tháng). + Trợ cấp tàn tật vĩnh viễn: hưởng 40% tiền lương. + Trợ cấp tử tuất: tiền mai táng phí bằng 2 tháng lương trung bình của tất cả người lao động trong đơn vị. Toàn bộ tiền trong tài khoản cá nhân cộng với lãi suất được trả cho người thừa kế hợp pháp của người chết. + Trợ cấp ốm đau: trả từ 60% đến 100% tiền lương tùy theo thời gian đã đóng BHXH. + Trợ cấp thai sản: Trả 100% tiền lương của 90 ngày liên quan đến việc sinh đẻ, 100% tiền lương của 42 ngày trong trường hợp sẩy thai. + Trợ cấp TNLĐ: người lao động suy giảm sức khỏe tạm thời được hưởng 100% lương. Trường hợp bị suy giảm vĩnh viễn, tùy theo mức độ mà được hưởng từ 75% đến 90 % lương. +Trợ cấp thất nghiệp: người lao động phải tham gia BHXH ít nhất 1 năm, không tự nguyện thôi việc, đăng ký và báo cáo thường xuyên với Trung tâm dịch vụ việc làm ở địa phương và bản thân tích cực tìm việc làm. Mức trợ cấp cao hơn mức trợ cấp công cộng khác nhưng thấp hơn mức tiền lương tối thiểu. Thời gian trả trợ cấp: trả 1 năm nếu có thời gian tham gia dưới 5 năm, trả 1,5 năm nếu đã tham gia BHXH từ 5 đến 10 năm, trả 2 năm nếu đã tham gia BHXH từ 10 năm trở lên. Cơ quan quản lý: Bộ Lao động - An sinh xã hội quản lý chung. Quản lý và đầu tư Quỹ hưu trí Uỷ ban Quốc gia BHXH Trung Quốc được thành lập tháng 8/2000 trực thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc để quản lý và đầu tư tăng trưởng quỹ hưu trí ở Trung ương. - Tình hình quỹ: Năm 2000: 20 tỷ nhân dân tệ (NDT); năm 2001: 80,5 tỷ NDT; năm 2002: 124 tỷ NDT; năm 2003: 132 tỷ NDT; năm 2004: 171 tỷ NDT; năm 2005: 211 tỷ NDT Các Ủy ban không thường trực: - Uỷ ban các chuyên gia đánh giá: Đánh giá người quản lý vốn đầu tư, đánh giá người ủy thác. - Uỷ Ban quyết sách đầu tư: Gồm Chủ tịch Hội đồng, Phó Chủ tịch Hội đồng và một số thành viên. - Uỷ Ban quản lý rủi ro: Do một Phó Chủ tịch Hội đồng phụ trách. Các bộ phận thường trực: Ngoài Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban, còn 8 bộ phận thường trực: Văn phòng; Ban Tài chính quỹ; Ban Đầu tư; Ban Cổ phần, tài sản; Ban Pháp quy, tài sản; Ban Thông tin, nghiên cứu; Ban Nhân sự; Trung tâm dịch vụ hậu cần. - Phạm vi đầu tư: Gửi ngân hàng (không vượt quá 40%); trái phiếu quốc gia, trái phiếu doanh nghiệp (không vượt quá 40%); thị trường chứng khoán. - Phương thức đầu tư: Đầu tư trực tiếp; đầu tư uỷ thác. Đầu tư ở trong nước, từ năm 2007 có đầu tư ở nước ngoài. Quản lý rủi ro: Quản lý rủi ro được đặc biệt chú trọng, là công việc của cả Hội đồng quỹ BHXH. - Các tầng quản lý rủi ro: Đại Hội đồng; Ủy ban quản lý rủi ro: Đưa ra các giải pháp, quyết sách hàng ngày; Ban Pháp quy, giám sát: Đưa ra các kiến nghị với Ủy ban; Các Ban nghiệp vụ khác: Quản lý các khâu quan trọng, đưa ra quy trình rõ ràng và chính xác, cung cấp thông tin và tình tình cho Ủy ban quản lý rủi ro. - Phương thức quản lý rủi ro: Thường gặp 6 loại rủi ro: + Rủi ro thị trường, tín dụng, thao tác, đạo đức và pháp luật. + Loại rủi ro thao tác, đạo đức, pháp luật: Không dùng con số để tính toán được, thông qua biện pháp là chỉ số. + Loại rủi ro thị trường, tín dụng: Dự báo, đưa ra các rủi ro cao nhất để định kỳ kiểm tra và đánh giá. Ban Pháp quy giám sát đưa ra những quyết sách của Ủy Ban Quản lý rủi ro. Các Ban nghiệp vụ đánh giá rủi ro để điều hành. Hội đồng đưa ra mức độ rủi ro chịu đựng được: trong 5 năm không bị lỗ. - Quy trình đầu tư và quản lý rủi ro: là quy trình theo dõi, điều chỉnh: Quản lý quy trình chuẩn bị đầu tư; quản lý trong quá trình đầu tư; đánh giá đầu tư, đánh giá sau sự việc xảy ra. - Hệ thống hỗ trợ quản lý rủi ro: Hợp tác với Viện Khoa học Trung Quốc: để đưa ra các chỉ tiêu khống chế; sử dụng chương trình quản lý rủi ro của nước ngoài (Mỹ) để thực hiện quản lý và đầu tư, Ủy ban đã và đang xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. 1.3.7.2 Tại Cộng hòa Liên bang Đức: Đức là quốc gia đầu tiên trên thế giới thực hiện chế độ BHXH. Bộ luật đầu tiên được ban hành vào năm 1883. Đến nay, nước Đức đang thực hiện các chế độ BHXH bao gồm: hưu trí, y tế, thai sản, thất nghiệp, TNLĐ và chăm sóc người già. Quỹ được hình thành từ đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và hỗ trợ của NSNN. Tổng mức đóng vào quỹ BHXH là 41,5% tiền lương (trong đó chế độ hưu trí 19,3%; y tế, thai sản 14%; TNLĐ, thất nghiệp 6,5%; chăm sóc người già 1,7%), người lao động đóng góp ½ và người sử dụng lao động đóng góp ½. Quỹ BHXH được thực hiện theo phương pháp chuyển đổi thu – chi (tọa thu – tọa chi) theo cách thức chi của năm nào được trả bằng nguồn thu của năm đó, trường hợp không đủ chi thì NSNN sẽ cấp bù. Tuổi nghỉ hưu là 65. Người lao động đóng bảo hiểm đủ 45 năm được hưởng 70% tiền lương. Nếu về hưu trước tuổi bị giảm trừ tỷ lệ hưởng. Riêng đối với nữ khi về hưu đủ 60 tuổi không bị trừ; đối với công chức nhà nước đủ 65 tuổi có đủ 45 năm đóng bảo hiểm mức hưởng là 75% tiền lương, một năm được hưởng 13 tháng lương hưu. Hiện nay, bảo hiểm hưu trí đối với người lao động của Cộng hòa Liên bang Đức được thực hiện thông qua 3 hệ thống: - Hệ thống bảo hiểm hưu trí bắt buộc của Nhà nước liên bang. Đây là hệ thống chủ yếu nhất, thực hiện bảo hiểm hưu trí bắt buộc đối với 80% tổng số lao động làm công ăn lương trong cả nước, gồm các cơ quan bảo hiểm hưu trí đối với công nhân (ArV) và các cơ quan bảo hiểm hưu trí đối với công chức, viên chức Đức (AV). Hệ thống này thực hiện các chế độ BHXH hưu trí sau: + Bảo hiểm hưu trí (trả lương hưu cho người lao động tham gia hệ thống khi được hưởng); + Bảo hiểm cho thân nhân người tham gia hệ thống khi người tham gia bảo hiểm hưu trí từ trần; + Bảo hiểm tàn tật và thực hiện các biện pháp phục hồi sức khỏe khi người tham gia bảo hiểm hưu trí bị tai nạn, bị tàn phế. - Hệ thống bảo hiểm hưu trí doanh nghiệp, thực hiện bảo hiểm hưu trí đối với những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đó. - Hệ thống bảo hiểm hưu trí tư nhân, thực hiện bảo hiểm hưu trí tự nguyện cho mọi người lao động tự nguyện tham gia (kể cả người lao động đã tham gia hệ thống bảo hiểm hưu trí nhà nước). Quản lý đầu tư Quỹ hưu trí liên bang Như trên đã nói, quỹ bảo hiểm hưu trí thực hiện thu - chi theo phương thức thu đến đâu, chi đến đấy. Nhưng trước đây, do luật định cho phép nguồn thu lớn hơn chi (có một phần dự trữ) nên quỹ còn dư lớn, đó là nguồn cơ bản đề đầu tư. Nhưng việc đầu tư hiệu quả phần dư này của quỹ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có khi không thể đầu tư hết số dư quỹ do mức cung vốn lớn hơn mức cầu về vốn.Vì vậy, vài năm gần đây, luật pháp đã thay đổi khống chế mức đóng đảm bảo hạn chế đến mức tối đa lượng quỹ dôi dư. Tuy vậy, nguồn quỹ để đầu tư cũng vẫn rất phong phú. Điều này được lý giải như sau: tại Đức nói riêng và châu Âu nói chung, ngày nay do nền kinh tế thị trường rất phát triển nên đồng tiền lưu thông hàng ngày, hàng giờ đều đẻ ra lợi nhuận. Khoản chi quỹ hưu trí hàng năm của Đức lên tới 230 tỷ Euro, trong đó ngân sách Liên bang hỗ trợ khoảng 30% (khoảng 70 tỷ Euro/năm), phần này quỹ không được đầu tư mà chi đến đâu được ngân sách cấp đến đấy; còn lại lấy từ nguồn thu phí bảo hiểm hưu trí và lãi đầu tư. Bình quân hàng tháng phải thu từ 13-15 tỷ Euro. Số thu này tăng dần từ ngày đầu tháng đến cuối tháng mới phải chi nên thu đến đâu được đầu tư ngay đến đó, bình quân hàng tháng có trên 10 tỷ Euro để đầu tư với số ngày đầu tư 20 ngày và như vậy, nguồn đầu tư của quỹ hưu trí thật sự không nhỏ chút nào và nó chiếm vị trí rất quan trọng trong việc phát triển quỹ hưu trí nhằm đảm bảo thực hiện tốt các chế độ BHXH hưu trí đối với các thành viên tham gia quỹ. Những nguyên tắc cơ bản trong đầu tư quỹ hưu trí bắt buộc của Đức Theo quy định của pháp luật ở Đức, khi thực hiện đầu tư từ quỹ hưu trí bắt buộc phải đảm bảo đồng thời 3 nguyên tắc cơ bản sau: bảo đảm an toàn tuyệt đối cho quỹ; bảo đảm tính thanh khoản cao; có sinh lời, tức là có lãi suất khi cho vay từ quỹ. Trong 3 nguyên tắc này thì 2 nguyên tắc đầu là quan trọng nhất, nguyên tắc sinh lời chỉ là thứ yếu. Nhờ nắm chắc và vận dụng sáng tạo 3 nguyên tắc trên mà trong suốt quá trình thực hiện đầu tư của quỹ hưu trí đến nay chưa bao giờ gặp rủi ro làm thất thoát quỹ, mà thường đem lại lợi nhuận cao nên nguồn quỹ để chi bảo hiểm hưu trí cho các thành viên luôn được đảm bảo. Để đảm bảo các nguyên tắc này pháp luật đã quy định rất rõ ràng về đầu tư quỹ, cụ thể như sau: - Quỹ chỉ được phép thực hiện đầu tư dưới các hình thức sau đây: + Cho các ngân hàng vay. Tại châu Âu cũng như tại Đức các ngân hàng, đặc biệt là với các ngân hàng tư nhân, đều có các khoản tiền bảo lãnh (thường bằng 30% vốn tự có, được công bố công khai, đảm bảo chính xác trên cơ sở của pháp luật) và có bảo hiểm tiền gửi nên việc cho các ngân hàng vay luôn đảm bảo tính an toàn, tuy nhiên lãi suất sẽ bị thấp hơn so với các loại đầu tư khác (vì vậy, quỹ thường có xu hướng cho các ngân hàng tư nhân vay để nâng cao hơn mức lãi suất vay). + Đầu tư vào các loại trái khoán có lãi suất cố định như công trái nhà nước, trái phiếu của các hãng tư nhân, trái phiếu có ký cược, thế chấp tài sản, đất đai… + Đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế, xã hội có hiệu quả. + Đầu tư vào thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế. Đây là việc đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh tiền tệ chuyên doanh hoặc mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp này. + Đầu tư vào các quỹ đặc biệt (đây là một đặc thù của Đức có tồn tại một số loại quỹ đặc biệt thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt được Nhà nước bảo lãnh). + Đầu tư vào các công cụ đầu tư đặc biệt như mua ngoại tệ mạnh có bảo lãnh giá trị ngoại tệ… Mặc dù thị trường chứng khoán tại Đức rất phát triển, Frankfut là một trong những trung tâm chứng khoán lớn của thế giới, nhưng pháp luật của Đức vẫn tuyệt đối cấm quỹ hưu trí này tham gia và đầu tư vào thị trường chứng khoán vì không đảm bảo nguyên tắc an toàn quỹ và nhiều lý do khác. - Cách thực hiện đầu tư đảm bảo an toàn tuyệt đối cho quỹ hưu trí:  + Đầu tư vào thị trường tiền tệ khi và chỉ khi có thị trường vốn và thị trường tiền tệ ổn định, vững chắc với quy chế rõ ràng, minh bạch, nếu không thì tuyệt đối không được đầu tư vào thị trường này (mặc dù một số nước châu Âu khác vẫn cho phép thực hiện). Pháp luật cũng quy định cụ thể chi tiết: ai được phép quyết định tham gia, điều kiện nào thì tham gia, lúc nào thì tham gia và mức độ tham gia vào thị trường này là bao nhiêu... + Khi đầu tư vào ngân hàng phải đảm bảo nguyên tắc cùng một lúc đầu tư vào nhiều ngân hàng lớn (thường thiên về các ngân hàng tư nhân lớn) để dàn trải rủi ro nếu không may xảy ra. Phân bổ mức đầu tư cho một ngân hàng phải căn cứ vào giá trị 30% số vốn tự có và mức bảo hiểm tiền gửi của ngân hàng đó (phải thấp hơn hoặc bằng mức đó). Hàng ngày phải liên hệ thương thỏa với hàng trăm ngân hàng khác nhau để có được mức lãi suất cao nhất. Thường xuyên (hàng giờ) kiểm tra mức lãi suất cho vay có phù hợp với thị trường chung thông qua hệ thống thông tin trên mạng máy tính, Internet và mạng ngân hàng của thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế, đặc biệt là thị trường Luân Đôn (nước Anh) trước khi có những quyết định đầu tư. Trong thực tế, việc quyết định đầu tư để đem lại lợi nhuận cao nhất luôn là một kỳ vọng của người thực hiện đầu tư của quỹ, nhưng điều đó vô cùng khó khăn và không phải lúc nào cũng đạt được, vì thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường mua bán tiền tệ liên ngân hàng biến động khôn lường, thay đổi hàng giờ nên nhiều khi mất lớn. Để kiểm tra, tránh lạm dụng, tham ô tiền đầu tư của quỹ tất cả các quyết định đầu tư và kết quả đầu tư hàng giờ, hàng ngày đều được hệ thống máy tính ghi lại và có người thứ hai ngồi theo dõi, kiểm tra, kiểm soát; hàng ngày đều có bảng danh mục thông báo việc đầu tư báo cáo Chủ tịch quỹ biết. + Khi đầu tư vào các dự án cũng phải đảm bảo nguyên tắc dàn trải rủi ro, tức là cùng một lúc phải đầu tư vào nhiều dự án thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trước đây, khi chọn các dự án đầu tư còn phải tính đến cả các yếu tố chính trị, xã hội (đầu tư vào các chương trình xây dựng nhà cửa, hạ tầng cơ sở… theo yêu cầu của Chính phủ), nhưng hiện nay các yếu tố này được ít chú ý hơn để đảm bảo tính an toàn và tính thanh khoản của quỹ. Để xác định dự án nào sẽ đầu tư, các nhà đầu tư của quỹ dựa vào công cụ đánh giá, thẩm định dự án đầu tư do các hãng lớn, có uy tín, chuyên làm công tác thẩm định dự án của Hoa Kỳ và Anh thực hiện. Ở đây, nội dung thẩm định cần quan tâm duy nhất chỉ là độ tin cậy của dự án; người thực hiện dự án này có khả năng hoàn trả vốn vay và lãi vay hay không và khả năng thanh khoản. + Khi đầu tư vào các trái khoán phải đảm bảo trái khoán đó có mức lãi suất cố định cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng theo tháng và cao hơn lãi suất buôn bán tiền tệ liên ngân hàng); chỉ sử dụng khoản dư dự trữ của quỹ có thời gian tạm thời nhàn rỗi tương đối lâu dài (không quá 3 năm để loại trừ biến động giá cả của thị trường) và các trái phiếu được đầu tư phải có bảo lãnh của nhà nước và đảm bảo tuyệt đối tính an toàn và tính thanh khoản của quỹ. Hàng ngày phải có cán bộ theo rõi thường xuyên hàng giờ giá cả của thị trường và căn cứ vào chỉ số giá cả thông báo của ngân hàng Frankfut để quyết định đầu tư. 1.3.7.2 Quản lý quỹ hưu trí ở Australia Hệ thống thu nhập hưu trí hiện tại của Austrâylia (Úc) bao gồm 3 phần chính: trợ cấp phổ thông có nghĩa như là trợ cấp tuổi già; tiết kiệm hưu trí bắt buộc của cá nhân; tiết kiệm tự nguyện. Liên bang Úc đang thực thi một bộ luật chi tiết và toàn diện để quản lý các quỹ hưu trí và những người tham gia bảo hiểm hưu trí. Bộ luật này được thiết kế để đảm bảo số tiền tiết kiệm được sử dụng với mục đích mang lại thu nhập cho người về hưu và các quỹ này được quản lý cẩn thận và những người về hưu được thông tin về việc số tiền của họ đang được đầu tư như thế nào thông qua luật và lý do ban hành luật Giám sát ngành bảo hiểm hưu trí hay còn có tên viết tắt SIS. Quỹ hưu trí do người được ủy thác điều hành, đó là người có tư cách pháp nhân sử dụng tài sản đó để mang lại lợi nhuận cho những người khác. Những người được ủy thác điều hành quỹ thực hiện trách nhiệm của họ thay mặt cho các thành viên và phải hành động vì lợi ích tối cao của các thành viên. Tuy nhiên, thực hiện được việc làm đó đối với những người được ủy thác thật sự khó và liên quan tới hoạt động pháp lý tốn kém. Thêm vào đó, luật ủy thác mặc dù đã phát triển qua các thế kỷ vẫn chưa được hệ thống hóa, nên vẫn còn thiếu sự chắc chắn về vai trò và trách nhiệm của những người được ủy thác và quyền của những thành viên quỹ hưu trí. Luật giám sát ngành bảo hiểm hưu trí được ban hành năm 1993 (Luật SIS). SIS được thiết kế để nâng cao mức độ bảo hộ ngành bảo hiểm, tăng cường việc bảo hộ và quyền của các thành viên quỹ hưu trí và đảm bảo khoản tiền tiết kiệm hưu được sử dụng vì mục tiêu đảm bảo thu nhập hưu trí trên cơ sở sửa đổi Luật tiêu chuẩn hưu nghề nghiệp (Luật OSS) được ban hành vào năm 1987. Trợ cấp hưu, về bản chất là sự đầu tư được quản lý với những nét đặc thù mà các tập thể phải có trách nhiệm trước Chính phủ đảm bảo khuôn khổ quản lý chính xác và khung bảo hiểm bền vững. Những nét đặc thù đó là: - Việc đóng góp vào quỹ hưu trí hiện giờ là bắt buộc. - Duy trì các điều luật hạn chế sự tiếp cận (rút ra) của các thành viên với vốn đầu tư của họ cho đến khi về hưu. - Sự lựa chọn có giới hạn nơi đầu tư quỹ hưu có thể được tổ chức. - Hạn chế tính di chuyển giữa các quỹ. - Thông tin không đầy đủ với ngụ ý các thành viên không có đủ thông tin để tiếp cận hay quản lý những rủi ro về tài chính liên quan tới việc đầu tư tiền hưu của họ. Để quản lý việc đầu tư, Chính phủ cần có sự can thiệp như cung cấp đầy đủ thông tin thông qua việc công khai, quản lý tốt và quy định cơ cấu đầu tư.Với bản chất dài hạn và bắt buộc, sự bất lực của một số thành viên trong chuyển vốn đầu tư từ quỹ kém hiệu quả và thu nhập thuế ổn định được đầu tư vào quỹ hưu đã khiến Chính phủ phải can thiệp để khắc phục những rủi ro tín dụng (rủi ro mà quỹ gánh chịu) thông qua khung pháp lý có cơ cấu chặt chẽ. * Những sự cải thiện khác về khung giám sát bảo hiểm hưu trí theo SIS bao gồm: - Chỉ những người phù hợp mới được bổ nhiệm làm người điều hành quỹ. - Nhiệm vụ của người được ủy quyền điều hành quỹ được luật hóa, vì thế họ không thể trốn tránh trách nhiệm hoặc làm trái pháp luật. Những nhiệm vụ này đòi hỏi người được ủy quyền quản lý quỹ hưu phải làm việc trung thực, siêng năng và có trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chiến lược đầu tư, kiểm toán cẩn thận rõ ràng, tìm những chuyên gia tư vấn tính toán bảo hiểm và kiểm toán độc lập và đòi hỏi người quản lý quỹ phải hành động vì lợi ích tối đa của thành viên. Quyền lực mà những người được ủy quyền quản lý quỹ được sử dụng để thực hiện các trách nhiệm của họ được quy định như sau: - Người được ủy quyền quản lý quỹ không phải chịu sự chỉ đạo của bất cứ người nào. - Quyền lực của người giám sát được củng cố và bao gồm cả quyền kiểm toán và kiểm tra quỹ hưu. - Quyền của các thành viên được xác định rõ ràng, bao gồm quyền được biết thông tin. - Có những quy định về công khai hóa thông tin và báo cáo mà người được ủy quyền quản lý quỹ phải tuân theo để đảm bảo rằng các thành viên hiện hành được giữ kín thông tin và các thành viên tiềm năng có đủ thông tin để quyết định tham gia quỹ hưu trí hay không. - Vai trò của người kiểm toán viên và chuyên viên thống kê bảo hiểm trong điều hành hoạt động của quỹ hưu trí được nới rộng hơn. - Đảm bảo tiết kiệm hưu trí được sử dụng vì mục đích thu nhập hưu Cùng lúc SIS được ban hành, Chính phủ cũng thành lập một cơ quan giải quyết khiếu kiện độc lập, đó là Tòa giải quyết khiếu kiện hưu trí. Tòa này là một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả cho ngành bảo hiểm hưu trí. Đồng thời, nó cũng thúc đẩy các thành viên tin tưởng vào hệ thống bảo hiểm hưu trí. Để đáp ứng yêu cầu sáp nhập vào hệ thống tài chính ở Úc, Chính phủ đã thực hiện cơ cấu mới đối với ngành tài chính bao gồm cả ngành bảo hiểm hưu trí. Ngày 1/7/1998 cơ quan quản lý bảo hiểm Liên bang úc (APRA) được thành lập để giám sát chặt chẽ khoản tiền đặt cọc lấy ra từ các Công ty bảo hiểm nhân thọ và quỹ hưu trí. Ủy ban chứng khoán và đầu tư Liên bang úc (ASIC) được thiết lập để xem xét tính trung thực thị trường, sự công khai và các vấn đề bảo vệ khách hàng trong ngành tài chính, bao gồm cả các ngành liên quan đến hưu trí. Theo cơ cấu mới, APRA chịu trách nhiệm giám sát bảo hiểm và tiêu chuẩn thu nhập hưu trí theo Luật SIS trong khi ASIC chịu trách nhiệm đối với tính trung thực thị trường và yêu cầu công khai hóa. Như vậy, Úc là một trong vài nước trên thế giới có tiết kiệm bắt buộc và tiết kiệm tự quản. Trong bối cảnh này, bảo hiểm hưu trí có vai trò sống còn trong khuôn khổ chính sách thu nhập hưu trí, tính chất bắt buộc của bảo hiểm hưu trí và sự giảm thuế kèm theo đã làm cho nó trở nên cấp bách đến mức phải có một khung pháp lý hiệu quả cho ngành bảo hiểm hưu trí. Luật SIS và hệ thống pháp luật hưu trí mang lại một khung pháp lý minh bạch và chặt chẽ để đảm bảo rằng: - Tiền tiết kiệm hưu trí phải được đầu tư và quản lý cẩn thận. - Tiền tiết kiệm hưu trí được sử dụng vì mục đích thu nhập khi về hưu. - Những thành viên quỹ hưu trí được cung cấp thông tin đầy đủ và được thông báo về kết quả và tình hình đầu tư quỹ hưu trí của họ. Bảng 1.3 So sánh mức đóng góp, mức hưởng, độ tuổi hưởng hưu trí một số nước Chỉ tiêu Trung Quốc Đức Australia Việt Nam % đóng góp 43% 19,3%  23% 16% Độ tuổi hưởng lương hưu Nam, nữ đủ 60 65  60 Nam 60, nữ 55 Mức hưởng 20% +1/120 tổng mức đóng góp 75% 45%  75% Nguồn: [37] 1.3.7.3 Một số kinh nghiệm cho quản lý quỹ BHXH ở nước ta - Việc áp dụng chế độ tài khoản cá nhân sẽ đảm bảo nguyên tắc có đóng – có hưởng và sự an toàn quỹ, song tính xã hội, chia sẻ cộng đồng của bảo hiểm xã hội giảm và mức hưởng thường thấp. - Khung pháp lý hiệu quả cho ngành BHXH để tạo lòng tin của người tham gia vào quỹ BHXH cũng như sự đảm bảo an toàn cho quỹ. Khung pháp lý phải minh bạch và chặt chẽ và có những cải tổ cần thiết để khắc phục những thiếu sót trong quá trình thực hiện để phù hợp với từng giai đoạn phát triển. - Việc đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ được thực hiện bởi một tổ chức chuyên nghiệp về đầu tư tài chính. Đầu tư vào lĩnh vực có lợi nhuận cao để đem về một khoản lãi lớn cho quỹ là rất quan trọng, song lợi nhuận thường đi đôi với rủi ro nên phải dựa vào công cụ đánh giá, thẩm định dự án đầu tư do các hãng lớn, có uy tín, chuyên làm công tác thẩm định dự án. - Quỹ BHXH phải được công khai. Các khoản thu, chi chế độ, tình hình đầu tư quỹ và tổng kết quỹ phải được công khai để các thành viên của quỹ được biết. - Chính phủ cung cấp đầy đủ thông tin thông đầu tư, công khai, quản lý tốt và quy định cơ cấu đầu tư. Kết luận chương 1 Hiện nay BHXH ở Việt Nam có các chế độ gồm: khám chữa bệnh, trợ cấp ốm đau, thai sản, nghĩ dưỡng sức phục hồi sức khỏe, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp và trợ cấp tử tuất. Trong 9 chế độ của Công ước 102 thì Việt Nam chưa có trợ cấp gia đình và trợ cấp thất nghiệp ( sẽ thực hiện từ 01/01/2009). Như vậy về cơ bản, BHXH Việt Nam đã thực hiện tương đối đầy đủ các chế độ BHXH theo quy định của Tổ chức lao động quốc tế. Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước và được thiết kế theo mô hình tồn tích. Mô hình quỹ tồn tích hiện nay phù hợp đối với những hệ thống BHXH trẻ như Việt Nam, số người đóng góp hiện tại lớn hơn nhiều so với số người hưởng BHXH hiện tại, nên số dư quỹ được cộng dồn để chi trả cho tương lai. Do đó, theo kinh nghiệm một số nước cần phải có một cơ chế quản lý, đầu tư và một khung pháp lý hiệu quả để quản lý Quỹ BHXH. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGUỒN QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 2.1 Quá trình hình thành và tổ chức thực hiện BHXH từ khi thành lập BHXH Việt Nam 2.1.1 Những quy định về BHXH Việc cải cách BHXH thực sự đi vào thực tiễn khi hàng loạt các văn bản pháp qui được ban hành từ năm 1995: - Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước và mọi người lao động theo loại hình bắt buộc để thực hiện thống nhất trong cả nước. Các chế độ trong Điều lệ này gồm: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, TNLĐ – BNN, hưu trí và tử tuất. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người lao động làm việc ở những đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên; người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh dịch vụ, doanh nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội; - Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam; - Quyết định số 606/ TTg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam; - Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH đối với sĩ quan. Quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân; - Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26/07/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ phường, xã, thị trấn. Cán bộ cấp xã tham gia đóng BHXH và hưởng chế độ hưu trí và mai táng phí là những cán bộ làm công tác Đảng, chính quyền, trưởng các đoàn thể và cán bộ thuộc bốn chức danh chuyên môn; - Nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ ban hành Điều lệ BHYT thay thế cho NĐ 299/HĐBT ngày 15/8/1992; - Quyết định số 37/2001/QĐ-TTg ngày 21/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe cho người lao động có thời gian tham gia BHXH từ đủ 3 năm trở lên bị suy giảm sức khỏe, sau điều trị ốm đau, TNLĐ-BNN mà chưa phục hồi sức khỏe hoặc lao động nữ yếu sức khỏe sau khi sinh; - Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/1/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ BHXH quy định việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với lao động làm việc ở tất cả các đơn vị, tổ chức theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn và có thời hạn từ 3 tháng trở lên( không còn điều kiện số lao động nữa); Lịch sử phát triển ngành BHXH Việt Nam được đánh dấu như một bước phát triển mới là vào ngày 29 tháng 6 năm 2006 Luật BHXH số 71/2006/QH11 ra đời. Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo Luật thì không thay đổi so với NĐ 01/2003/NĐ-CP, nhưng về các chế độ thì có thay đổi và bổ sung thêm loại hình BHXH tự nguyện thực hiện từ 01/01/2008 và bảo hiểm thất nghiệp thực hiện từ 01/01/2009; - Tiếp theo là Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc. Tất cả là một chặng đường dài tất yếu của sự phát triển và từ năm 1995 đến nay mới thực sự có những cải cách về chính sách BHXH và đánh dấu thời kỳ phát triển mới về sự nghiệp BHXH. Những nội dung cụ thể đánh dấu bước cải cách về BHXH ở nước ta là: - Đối tượng tham gia BHXH bao gồm cả người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. - Hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp của 3 bên: người sử dụng lao động, người lao động và sự bảo hộ của Nhà nước (người sử dụng lao động đóng 15%, người lao động đóng 5%). Quỹ BHXH hoạt động độc lập với NSNN. - Các chế độ BHXH gồm: ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN, hưu trí và tử tuất, sau đó đã bổ sung thêm chế độ nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe(Quyết định số 37/2001/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/03/2001). - Hệ thống BHXH Việt Nam được hình thành 3 cấp từ Trung ương đến địa phương - Một hệ thống thống nhất chuyên trách tổ chức thực hiện chính sách và quản lý quỹ BHXH. Từ năm 2002 đã chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. 2.1.2 Tổ chức bộ máy thực hiện BHXH BHXH Việt Nam được thành lập theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính Phủ và ngày 26/09/1995 Chính phủ ra Quyết định số 606/TTg ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ LĐTB&XH về BHXH, của Bộ Y tế về BHYT, của Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với các quỹ BHXH, BHYT [13]. Bộ máy quản lý của BHXH Việt Nam cũng được tổ chức theo ba cấp: Bảo hiểm xã hội Việt Nam là đơn vị dự toán cấp 1; BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là BHXH tỉnh), văn phòng BHXH Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu khoa học, Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH, Trung tâm thông tin, Đại diện BHXH Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí BHXH, Báo BHXH là các đơn vị dự toán cấp 2; BHXH các quận huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là BHXH huyện) là đơn vị dự toán cấp 3. Các đơn vị dự toán cấp 1, cấp 2, cấp 3 có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện hạch toán kế toán, báo cáo quyết toán hoạt động tài chính của từng đơn vị đồng thời thực hiện hạch toán kế toán tập trung tại BHXH Việt Nam. Từ năm 1998 đến 2002 hệ thống BHYT Việt Nam cũng được tổ chức tương tự hệ thống BHXH Việt Nam. Thực hiện chủ trương sắp xếp lại hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 20/2002/QĐ-TTG về việc chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. Ngày 6/12/2002, Chính phủ ban hành nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Thực hiện các quy định trong hai văn bản đó, ở nước ta đã hình thành một hệ thống tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương để thực hiện quản lý tập trung thống nhất các chế độ, chính sách BHXH. Luật BHXH ra đời năm 2006 có bổ sung thêm một số loại hình BHXH nên mới đây Chính phủ đã ban hành Nghị định 94/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam thay thế Nghị định số 100/2002/NĐ-CP. Các quy định trong NĐ 94/2008/NĐ-CP căn bản không thay đổi nhiều so với NĐ 100/2002/NĐ-CP. Tuy nhiên có một số điểm bổ sung sau: + Về vị trí, chức năng: “ BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện; tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử dụng quỹ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp (sau đây gọi chung là BHXH), BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện (sau đây gọi chung là BHYT) theo quy định của pháp luật. + Quy định cụ thể, rõ ràng hơn trách nhiệm của BHXH Việt Nam đối với các bộ liên quan: Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế, Bộ Tài Chính. + Các thành viên trong Hội đồng quản lý BHXH gồm: đại diện Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế, Bộ Tài Chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam (theo NĐ 100/2002/NĐ-CP); nay bổ sung thêm đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam và Hội nông dân Việt Nam. + Làm rõ quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng quản lý và của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, trong đó đề cao vai trò của Hội đồng quản lý (NĐ 100/2002/NĐ-CP đề cao vai trò của Tổng giám đốc). 2.1.3 Hoạt động quản lý quỹ BHXH Từ khi BHXH Việt Nam được thành lập, có nhiều văn bản quy định nội dung thu chi BHXH như: Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ BHXH; Nghị định số 45/CP quy định về BHXH đối với quân sự (quân đội, công an). Trong 2 nghị định của Chính phủ có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. Quỹ này được sử dụng để chi cho các chế độ BHXH. Quỹ BHXH được bảo tồn, tăng trưởng và được Nhà nước bảo hộ. Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của chính phủ; Quyết định 37/2001/QĐ-TTg ngày 21/03/2001 của Thủ tướng chính phủ; Nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính Phủ và gần đây nhất là Luật BHXH 71/2006/QH11. Nội dung thu, chi của quỹ theo Luật BHXH được quy định như sau: 2.1.3.1 Nguồn thu vào quỹ BHXH Thứ nhất, đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động Thực hiện hình thức thu BHXH bắt buộc đối với tất cả người lao động làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên không kể số lao động (trước 2003 chỉ thu BHXH ở những đơn vị có từ 10 lao động trở lên). - Mức đóng của người lao động là 5% cho quỹ hưu trí, tử tuất và từ năm 2010 cứ 2 năm tăng 1% cho đến khi đạt mức 8%. - Mức đóng và phương thức đóng của người lao động Việt Nam làm việc có thời hạn ở nước ngoài do Chính phủ quy định. - Mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động: Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của người lao động như sau: + 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội; + 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; + 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%. - Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội không có phụ cấp khu vực. - Quy định mức trần đóng, cao nhất bằng 20 lần mức lương tối thiểu chung. Thứ hai, hỗ trợ từ NSNN gồm kinh phí để chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH trước 01/01/1995 và nguồn hỗ trợ để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với đối tượng tham gia và hưởng chế độ từ sau 01/01/1995. Thứ ba, các khoản tài trợ, viện trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; tiền lãi từ hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. 2.1.3.2 Các khoản chi từ quỹ Quỹ BHXH dùng cho các khoản chi sau: - Chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động gồm: ốm đau, thai sản, nghĩ dưỡng sức phục hồi sức khỏe, TNLĐ-BNN, hưu trí và tử tuất - Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng. - Chi phí quản lý cho hoạt động của hệ thống BHXH từ Trung ương xuống địa phương, gồm chi cho hoạt động thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. - Chi khen thưởng. - Chi đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ và chi khác theo quy định 2.2 Hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH 2.2.1 Nội dung và quy trình quản lý quỹ Hàng năm căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao các đơn vị dự toán đều phải xây dựng kế hoạch hoạt động gồm: số người tham gia và số thu; số người hưởng chế độ và số chi; chi hoạt động bộ máy; chi mua sắm trang thiết bị và đầu tư xây dựng cơ bản. Các đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra, xét duyệt và giao chỉ tiêu kế hoạch cho các đơn vị dự toán cấp dưới. BHXH Việt Nam lập dự toán thu, chi BHXH, BHYT, chi quản lý bộ máy, chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi đầu tư tăng trưởng quỹ trình Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam thẩm định, gửi Bộ Tài chính xem xét tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ. Căn cứ vào các quy định về quản lý và chế độ thu, chi BHXH, chi quản lý bộ máy, chi đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước và của BHXH Việt Nam quy định các đơn vị dự toán các cấp tổ chức thực hiện theo các chỉ tiêu, kế hoạch được giao. Tổ chức hạch toán kế toán, thống kê các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kịp thời, đầy đủ vào trong hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán. Định kỳ cuối quý, năm các đơn vị dự toán cấp dưới lập báo cáo gửi lên để đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra. BHXH Việt Nam kiểm tra báo cáo của các đơn vị dự toán cấp dưới, tổng hợp báo cáo quyết toán ngành trình Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam và Bộ Tài chính. Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức thực hiện BHXH BHXH Việt Nam (Quỹ BHXH) Ngân sách Nhà nước Đơn vị sử dụng lao động và người lao động Đơn vị sử dụng lao động và người lao động Người thụ hưởng chế độ BHXH BHXH quận, huyện Chính phủ Hội đồng quản lý BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Đại lý chi trả phường, xã Nguồn quỹ tạm thời nhàn rỗi Bộ công an, Bộ Quốc phòng, Ban cơ yếu (1) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (10) (11) (12) (1): Hàng tháng người sử dụng lao động thu 5% của người lao động đồng thời trích 15% so tổng quỹ tiền lương của đơn vị nộp vào tài khoản BHXH. Việc phân cấp thu BHXH được quy định như sau: BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở chính đóng trên địa bàn mình, ngoại trừ những đơn vị do Trung ương quản lý, những đơn vị có yếu tố nước ngoài và những đơn vị có quy mô lớn do BHXH tỉnh thu. Ngoài ra BHXH huyện còn thu BHXH những đơn vị khác do BHXH tỉnh giao. Đơn vị sử dụng có trách nhiệm lập danh sách tăng, giảm lao động tham gia BHXH ngay khi có phát sinh để kịp thời đối chiếu số lao động, quỹ tiền lương nộp. (2)&(3): Tất cả tiền BHXH được nộp vào tài khoản chuyên thu của BHXH tại Kho bạc nhà nước hoặc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Định kỳ hàng tháng và ngày 31/12 hàng năm BHXH huyện phải nộp hết số tiền trong tài khoản về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh, BHXH tỉnh nộp về tài khoản tiền gửi của BHXH Việt Nam. (4): Riêng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban cơ yếu Chính phủ tổ chức thu BHXH đối với toàn bộ các đơn vị, cán bộ, công nhân viên, sĩ quan … do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban cơ yếu Chính phủ quản lý sau đó chuyển vào tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam. (5): NSNN cấp kinh phí để chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ từ 01/01/1995 trở về trước và hỗ trợ chi trả các chế độ BHXH. (6)&(7): Hàng tháng dựa vào dự trù kinh phí chi mà BHXH Việt Nam cấp kinh phí để BHXH tỉnh thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho người lao động do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý và cấp kinh phí cho BHXH huyện để chi cho các đối tượng do BHXH huyện quản lý. BHXH tỉnh và BHXH huyện mở hai tài khoản chuyên chi, một tại kho bạc Nhà nước để nhận kinh phí chi cho các đối tượng hưởng các chế độ từ 01/01/1995 trở về trước(do NSNN đảm bảo), một tại Ngân hàng NN&PTNT để nhận kinh phí chi cho các đối tượng hưởng các chế độ do quỹ BHXH đảm bảo. (8)&(9): BHXH tỉnh, BHXH huyện thực hiện tiếp nhận hồ sơ các chế độ BHXH do người sử dụng lao động và người lao động gửi đến, thực hiện thẩm định và chi trả cho đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Riêng chế độ ốm đau, thai sản đơn vị chi trả trước cho người lao động sau đó quyết toán lại với cơ quan BHXH theo tháng, quý. (10)&(11): Các chế độ BHXH thường xuyên( hưu, mất sức, tuất…) được tổ chức chi trả theo địa bàn phường, xã hoặc BHXH huyện (nếu đối tượng đến nhận sau khi đại lý phường đã quyết toán với cơ quan BHXH). (12): Phần quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi sẽ được đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định của pháp luật, lợi nhuận từ đầu tư được bổ sung trở lại cho Quỹ BHXH. 2.2.2 Cân đối thu – chi quỹ BHXH Cân đối Quỹ BHXH bắt đầu từ việc cân đối giữa thu và chi. Thực trạng cân đối thu, chi quỹ HT&TC thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.2 : THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI QUỸ HT&TC TỪ 1995 ĐẾN 2007 Đơn vị tính: tỷ đồng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1.Dư năm trước chuyển sang 0 746 2.969 5.742 8.887 12.241 16.285 21.690 26.507 33.231 42.821 54.850 68.972 2.Tổng số thu trong năm 788 2.629 3.495 4.132 4.675 5.881 8.030 7.777 10.983 15.605 20.026 26.047 33.534 2.1 Thu từ đóng BHXH 788 2.570 3.514 3.876 4.186 5.198 6.348 6.963 9.627 13.001 16.901 21.966 28.991 2.2 Thu từ lãi đầu tư tài chính và thu khác 0 59 -19 256 489 683 1.682 814 1.356 2.604 3.125 4.081 4.543 3. Tổng số chi trong năm 42 406 722 987 1.321 1.837 2.625 2.960 4.259 6.015 7.997 11.925 15.483 3.1 Trong đó chi trả BHXH 42 383 594 752 940 1.335 1.856 2.585 3.792 5.342 7.145 10.991 14.508 3.2 Chi Quản lý và chi khác 0 23 128 235 381 502 769 375 467 673 852 934 975 4. Chênh lệch thu - chi trong năm 746 2.223 2.773 3.145 3.354 4.044 5.405 4.817 6.724 9.590 12.029 14.122 18.051 5. Số dư cuối năm 746 2.969 5.742 8.887 12.241 16.285 21.690 26.507 33.231 42.821 54.850 68.972 87.023 Nguồn [1] Bảng số liệu cho thấy hàng năm số thu lớn hơn số chi, do vậy quỹ có kết dư hàng năm. Số dư tuyệt đối của năm sau cao hơn năm trước. Tổng số dư đến 31/12/2007 là 87.023 tỷ đống, số thu BHXH năm 2007 gấp 11,28 lần số thu BHXH năm 1996. Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng tốc độ tăng năm sau so với năm trước của số chi tăng nhanh hơn số thu, bình quân từ năm 1996 đến 2007 số thu BHXH tăng 25,12%/năm, số chi BHXH tăng 40,15%/năm. Xét về tỷ lệ của số thực chi BHXH so với số thực thu BHXH theo từng năm thì năm 1996 là 14,90% đến năm 2007 đã tăng lên 50,04%. Với tốc độ tăng như vậy thì đến khoảng năm 2023 số chi BHXH sẽ bằng với số thu BHXH. 2.2.3 Hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH Khoản 2 Điều 149 Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung quy định:“Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ”. Khoản 5 Điều 90 của Luật BHXH cũng quy định được sử dụng quỹ BHXH để “ Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định”. - Các hoạt động đầu tư để bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH theo quy định bao gồm: + Mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước, của ngân hàng thương mại của Nhà nước. + Cho ngân hàng thương mại của Nhà nước vay. + Đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia. + Các hình thức đầu tư khác do Chính phủ quy định. - Hoạt động bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH phải được hạch toán và báo cáo riêng theo quy định tại chế độ hạch toán kế toán BHXH. - Tiền sinh lợi từ hoạt động đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội được sử dụng như sau: + Chi quản lý bộ máy của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo quy định. + Chi đầu tư xây dựng, trang bị cơ sở vật chất, phát triển công nghệ thông tin theo dự án, đề án được cấp có thẩm quyền phê duyệt và kế hoạch hàng năm do Thủ tướng Chính phủ giao. + Phần còn lại bổ sung vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ kết dư tương ứng của từng quỹ thành phần. Như vậy, có thể thấy hoạt động bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH chịu sự kiểm soát và theo cơ chế tài chính rất chặt chẽ. Quỹ BHXH tách ra khỏi Ngân sách Nhà nước từ tháng 10/1995 bắt đầu hoạt động tuân theo các quy luật của thị trường. Bên cạnh những kết quả đạt được sau 13 năm đổi mới chính sách BHXH nói chung, Quỹ BHXH nói riêng còn nhiều hạn chế cần phải được xem xét và điều chỉnh để phù hợp với quá trình phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế. Thực trạng đó thể hiện như sau: - Thứ nhất, thất thu tài chính Quỹ bảo hiểm xã hội Năm 2006 có 6.746.553 người thực tế tham gia đóng BHXH chiếm khoảng 63% số người bắt buộc phải tham gia BHXH. Năm 2007 có 8.148.123 triệu người tham gia, chiếm khoảng 70% số người phải tham gia BHXH bắt buộc [26]. Như vậy còn 33% người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc chưa tham gia BHXH theo quy định. Có nghĩa là quỹ BHXH đang thất thu khoảng hơn 30% lượng tài chính. Số thất thu BHXH chủ yếu tập trung ở khu vực ngoài quốc doanh, số lao động tham gia BHXH chỉ chiếm khoảng 30% tổng số lao động đang làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh [xem phụ lục 4]. Nguyên nhân chủ yếu là do việc quản lý Nhà nước về lao động, bảo hiểm xã hội ở địa phương chưa đạt hiệu quả cao. Mặc dù pháp luật quy định bắt buộc các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sau khi đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh phải đăng ký số lao động với cơ quan chức năng và phải đóng BHXH cho người lao động theo quy định. Tuy nhiên, nhiều người sử dụng lao động vẫn không tuân thủ quy định này, trong khi mức xử phạt chưa đủ sức răn đe nên nhiều người thà chịu phạt còn hơn nộp bảo hiểm xã hội với số tiền lớn hơn. Mặt khác, người lao động do nhận thức chưa đầy đủ về chính sách BHXH và những nguy cơ rủi ro về thu nhập nên nhiều người không phản đối khi người sử dụng lao động không đóng BHXH cho họ. Năm 1995 có khoảng 2,85 triệu người đã có thời gian công tác coi như đã đóng BHXH bình quân 14,5 năm. Nhưng BHXH Việt Nam không thu được số tiền đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động để hình thành quỹ. Tại thời điểm năm 2003, số tiền đó đã là 60.400 tỉ đồng và nó sẽ tiếp tục tăng khi Nhà nước tăng lương tối thiểu. Tình trạng nợ đọng khá phổ biến. Chỉ tính riêng năm 2007 trên phạm vi cả nước các doanh nghiệp nợ BHXH khoảng 1.200 tỷ đồng, nâng tổng nợ BHXH tính đến đầu năm 2008 là 2.156 tỷ đồng. Hiện nay với mức lãi phạt chậm nộp căn cứ trên mức lãi suất đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH thấp hơn cả mức lãi suất tiền gửi ngân hàng (năm 2007 là 0,7%/ tháng, từ tháng 1/2008 đến tháng 5/2008 là 0,73%/tháng, từ tháng 6/2008 là 1,16%/tháng), nếu doanh nghiệp cố tình chiếm dụng thì vẫn có lời. - Thứ hai, việc sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của Quỹ BHXH chưa hiệu quả Mặc dù với số tồn quỹ khá lớn nhưng do việc quy định chặt chẽ và đầu tư theo sự chỉ định của Nhà nước để bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH nên hiệu quả đầu tư Quỹ BHXH thấp: Năm 2006, số tiền lãi thu được từ đầu tư quỹ BHXH là 4.081 tỷ đồng, tỷ lệ lãi đầu tư bình quân là 7,58%. Năm 2007 số tiền lãi thu được từ đầu tư quỹ BHXH là 4.536 tỷ đồng, tỷ lệ lãi đầu tư bình quân là 8,4%; nếu như trừ chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,63% thì Quỹ BHXH không còn tăng trưởng. Nếu trừ cả chi phí quản lý BHXH hàng năm được trích từ nguồn lãi đầu tư tăng trưởng quỹ thì tỷ lệ lãi đầu tư quỹ BHXH còn thấp hơn nữa. Như vậy có thể khẳng định với cách thức đầu tư như hiện nay số tiền lãi thu về khó thực hiện được yêu cầu bảo toàn và tăng trưởng quỹ về lâu dài. - Thứ ba, nguy cơ mất cân đối Quỹ BHXH: có nhiều nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất cân đối: + Nguyên tắc đặc trưng ở các chế độ ốm đau, chế độ thai sản, TNLĐ - BNN và chế độ nghỉ dưỡng sức là nguyên tắc cộng đồng, đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro. Nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro ở đây có ý nghĩa là mỗi thành viên trong cộng đồng cùng loại hình BHXH sẽ đóng góp theo một mức (tỷ lệ) quy định sau đó nhận lại theo yêu cầu mà không xem xét đến khả năng đã đóng góp. Trong khi chế độ hưu trí và trợ cấp nguyên tắc BHXH đặc trưng của chế độ này là sự tương quan giữa mức đóng và mức hưởng và mức hưởng sẽ được xem xét đến trong mối quan hệ với mức sống tại thời điểm người lao động nhận lương hưu. Hiện nay, quyền lợi và trách nhiệm của người lao động quy định trong chế độ, nhất là hưu trí chưa hợp lý: bình quân mỗi năm một người lao động đóng vào quỹ hưu là 1,92 tháng lương; 30 năm làm việc một người sẽ đóng 57,6 tháng lương; thời gian hưởng lương hưu bình quân là 15 năm với mức lương hưu tối đa là 75%, tổng mức hưởng sẽ là 135 tháng lương cao hơn 2,3 lần mức đóng vào. Chưa kể là trước đây người lao động đóng theo mức lương tối thiểu thấp nhưng hiện nay lương tối thiểu đã tăng lên, mức lương hưu cũng tăng theo. Bên cạnh đó chính sách hưu trước tuổi cũng ảnh hưởng đến cấn đối Quỹ BHXH vì người có thời gian đóng BHXH ít, về hưu sớm lại được hưởng chế độ với thời gian dài; tổng số tiền đóng của mỗi người (từ khi đi làm đến lúc về hưu) thấp hơn nhiều so với lương hưu được hưởng. Theo thiết kết tuổi nghỉ hưu trung bình là 57,5 tuổi nhưng thực tế tuổi nghỉ hưu trung bình từ 1995 đến nay chỉ là 51,5 tuổi. + Đặc điểm nhân khẩu học của các thành viên được cải thiện. Người dân sống lâu hơn do được cải thiện đời sống vật chất và được tiếp cận các chăm sóc y tế tốt hơn. Do đó Quỹ BHXH sẽ phải chi trả lâu hơn (tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2007 là 73,1 tuổi). + Suy giảm tỷ lệ giữa các thành viên đang đóng BHXH với những người hưởng trợ cấp. Năm 1995, có khoảng 30 thành viên đóng BHXH hỗ trợ cho 1 người hưởng trợ cấp. Năm 2007, tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 10:1. Theo tính toán của các nhà chuyên môn, với chính sách BHXH như trước khi ban hành luật thì từ năm 2020 trở đi ước tính chi BHXH sẽ lớn hơn thu (thu gần 70 tỷ đồng, chi hơn 73 tỷ đồng) nhưng vẫn còn số dư để bù đắp. Nhưng đến năm 2030 quỹ không còn khả năng chi trả. Còn theo Luật BHXH (đã tăng mức đóng), ước tính số thu xấp xỉ bằng số chi vào năm 2026, nhưng đến 2048 quỹ cũng không còn khả năng chi trả[27]. 2.3 Đánh giá công tác quản lý quỹ BHXH từ khi thành lập BHXH Việt Nam 2.3.1 Những mặt đạt được - Từ 1995 đến nay ở Việt Nam đã thực hiện được nguyên tắc BHXH: có đóng, có hưởng, xóa bỏ bao cấp từ Nhà nước về BHXH, phù hợp với mô hình phân phối của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Quan hệ mức đóng và quyền lợi hưởng đã tuân thủ các nguyên tắc của hoạt động BHXH trong từng chế độ riêng biệt. - Phạm vi đối tượng tham gia BHXH từng bước được mở rộng, tạo được sự bình đẳng giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, làm thay đổi nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ BHXH, khuyến khích người lao động tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi BHXH. Tạo được sự an tâm, lòng tin và sự công bằng cho mọi người lao động trong xã hội trước chính sách BHXH. Cuối năm 1995, số người tham gia BHXH là 2.275.998 người đến cuối năm 2007 là 8.148.123 người. - Hệ thống BHXH Việt Nam tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đã chuyên môn hóa việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chế độ BHXH. Do vậy đã tách hoạt động của sự nghiệp thu - chi quản lý quỹ BHXH ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước. BHXH Việt Nam có điều kiện để thực hiện cải cách hành chính, tổ chức thực hiện tốt thu - chi BHXH, cải tiến quy trình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước được thống nhất, kịp thời, công bằng và hiệu quả. - Hệ thống văn bản pháp luật về BHXH được sửa đổi, bổ sung phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Hơn 60 năm thực hiện chính sách BHXH, năm 2006 đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống chính sách BHXH ở nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, đó là sự ra đời của Luật BHXH, bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV giai phap tai chinh.doc
Tài liệu liên quan