Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ ô tô của Giadico

Tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ ô tô của Giadico: MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Bắt đầu từ năm 2001, Chính Phủ Việt Nam ban hành chính sách lắp ráp xe ô tô trong nước và Luật Đầu Tư nước ngoài đồng thời thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, thiết bị công nghệ vào Việt Nam. Kể từ đó các doanh nghiệp trong nước đã có chiến lược và mạnh dạn đầu tư lắp ráp ô tô theo mô hình CKD như ô tô Trường Hải, Nhà máy sản xuất ô tô 3/2, Công Ty CP Cơ Khí Ô Tô Thống Nhất Thừa Thiên Huế, Công Ty Cơ Khí Ngô Gia Tự, và cũng kể từ đó các dự án đầu tư nước ngoài đã hình thành và đi vào hoạt động tại Việt Nam dưới dạng liên doanh như: Mercedes-benz Việt Nam, Mekong, Toyota Việt Nam, Ford Việt Nam… với tổng số vốn đều tư hàng chục đến hàng trăm triệu đô la. Một vấn đề mà các doanh nghiệp lắp rắp ô tô trong nước hiện đang tập trung giải quyết đó là làm thế nào để mở rộng thị trường còn tương đối nhỏ bé như hiện nay. Vừa phải cạnh tranh với các hãng trong nước lại vừa cạnh tranh với các liên doanh nướ...

doc71 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1011 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ ô tô của Giadico, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Bắt đầu từ năm 2001, Chính Phủ Việt Nam ban hành chính sách lắp ráp xe ô tô trong nước và Luật Đầu Tư nước ngoài đồng thời thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, thiết bị công nghệ vào Việt Nam. Kể từ đó các doanh nghiệp trong nước đã có chiến lược và mạnh dạn đầu tư lắp ráp ô tô theo mô hình CKD như ô tô Trường Hải, Nhà máy sản xuất ô tô 3/2, Công Ty CP Cơ Khí Ô Tô Thống Nhất Thừa Thiên Huế, Công Ty Cơ Khí Ngô Gia Tự, và cũng kể từ đó các dự án đầu tư nước ngoài đã hình thành và đi vào hoạt động tại Việt Nam dưới dạng liên doanh như: Mercedes-benz Việt Nam, Mekong, Toyota Việt Nam, Ford Việt Nam… với tổng số vốn đều tư hàng chục đến hàng trăm triệu đô la. Một vấn đề mà các doanh nghiệp lắp rắp ô tô trong nước hiện đang tập trung giải quyết đó là làm thế nào để mở rộng thị trường còn tương đối nhỏ bé như hiện nay. Vừa phải cạnh tranh với các hãng trong nước lại vừa cạnh tranh với các liên doanh nước ngoài chưa tính đến yếu tố nhập lậu ô tô. Đây là một vấn đề rất khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước. Vấn đề này không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của từng doanh nghiệp sản xuất ô tô tại Việt Nam mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan như tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam, thu nhập quốc dân/đầu người, mức độ phát tiển của hệ thống giao thông đường bộ Việt Nam, các chính sách chế độ của chính phủ trong việc khuyến khích hay hạn chế tiêu dùng loại mặt hàng ô tô, chính sách nội địa hóa sản phẩm, giảm giá thành, chính sách xuất nhập khẩu của Nhà Nước, việc phát triển xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Trên cơ sở nhận biết tầm quang trọng của tiêu thụ sản phẩm bằng những kiến thức đã học, nghiên cứu tại trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ Tp. HCM và qua quá trình làm việc tại Công ty CP DV-TM Ô Tô Gia Định V.N, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ ô tô của Giadico” làm khóa luận tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của đề tài Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về thị trường và hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, làm rõ các biện pháp và nguyên tắc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Phân tích, đánh giá hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty Giadico trên cơ sở nghiên cứu thị trường ô tô tìm ra sự biến động, các nhân tố ảnh hưởng trong thời gian qua đến hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ ô tô trong nước xuất khẩu cho công ty Giadico trong tương lai. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng là các nhân tố khách quan có ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng thị trường bao gồm các yếu tố: mức cầu của thị trường ô tô Việt Nam, môi trường kinh doanh, các chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà Nước và các chính sách, chiến lược chủ yếu của Giadico liên quan đến hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ tại Việt Nam thời gian qua. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ô tô của Giadico trong 3 năm gần đây (2007-2009), dự báo các yếu tố mới ảnh hưởng đến hoạt động này trong thời gian tới, đưa ra các giải pháp hữu hiệu giúp cho công ty thực hiện tốt hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ trong những năm tới. Phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài sử dụng các phương chủ yếu như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp. Đóng góp của đề tài Trong giai đoạn hiện nay vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết đối với công ty Giadico là làm thế nào để mở rộng được thị trường tiêu thụ của họ trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt giữa 14 liên doanh ô tô tại Việt Nam và nhiều công ty sản xuất lắp ráp ô tô Việt Nam, vì vậy khóa luận đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng thị trường ô tô cho Giadico trên cơ sở phân tích đánh giá một cách xác thực hoạt động mở rộng thị trường của các công ty lắp ráp ô tô trong nước hiện nay. Đặc biệt là phân tích được các nguyên nhân, nêu ra được những hạn chế, vướng mắc trong công tác mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước cũng như chính sách xuất khẩu ô tô trong thời gian tới. Kết cấu của đề tài Khoá luận đi sâu phân tích đánh giá thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường của công ty trong một số năm gần đây, qua đó xác định được những thành tựu đạt được cũng như những khuyết điểm và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp kiến nghị góp phần đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường của công ty. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề về thị trường và mở rộng thị trường đối với doanh nghiệp. Chương II: Tình hình hoạt động kinh doanh của Giadico Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Giadico. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Một số vấn đề cơ bản về thị trường Khái niệm thị trường Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hóa, là một khâu của quá trình sản xuất, được mở rộng cùng với sự mở rộng của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Theo K. Mác: Hàng hóa là sản phẩm được các nhà sản xuất làm ra không phải để cho bản thân họ tiêu dùng mà để bán. Hàng hóa được bán tại không gian và thời gian nhất định trên thị trường. Ngày nay cùng với sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa tính không gian và thời gian đã dần bị đẩy lùi vào lịch sử. Các hoạt động mua bán trên thị trường ngày càng phát triển ở trình độ cao. Việc mua bán hàng hóa trên thị trường diễn ra phức tạp, hình thức đa dạng phong phú đòi hỏi có cách nhìn nhận mới về thị trường. Theo định nghĩa của các nhà khoa học hiện đại thì thị trường là tổng hợp các quan hệ kinh tế trong việc mua, bán hàng hóa dịch vụ. Từ các góc độ khác nhau của thị trường người ta có các quan điểm khác nhau về thị trường. Theo nhà kinh tế Samuelson: “ Thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hóa tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng”. Theo nhà kinh tế học David Begg: “ Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả”. Hai quan niệm trên phù hợp với bản chất thị trường trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền sản xuất và lưu thông hàng hóa đã phát triển đến trình độ cao. Mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu thụ được thể hiện qua mâu thuẫn giữa sản xuất và thị trường. Những khó khăn ngày càng tăng trong khâu bán hàng là yếu tố khách quan buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên việc nghiên cứu sâu sắc về thị trường. Có nhiều quan niệm khác nhau nữa về thị trường nhưng còn phụ thuộc vào từng lĩnh vực, từng loại hàng hóa mà chúng ta có thể xem xét đánh giá theo khía cạnh, phương diện nào để hiểu được các quy luật hoạt động đặc thù của thị trường đó. Vì vậy việc nghiên cứu thị trường nói chung và nghiên cứu thị trường đặc thù cho một nhóm hoặc một loại hàng hóa nào đó có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hoạch định chính sách, chiến lược hoạt động của công ty: - Coi trọng khâu tiêu thụ - Bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà mình có thể làm ra. - Tổ chức nghiên cứu tỉ mỉ về thị trường loại mặt hàng định sản xuất, các phản ứng linh hoạt kịp thời sẽ xảy ra trong tương lai trước sự tác động ảnh hưởng của thị trường. Các yếu tố cấu thành thị trường Thị trường muốn hình thành phải hội đủ các điều kiện sau: Trên thị trường hoạt động mua bán được diễn ra thông qua hai chủ thể chính đó là người mua và người bán, người mua sẽ hình thành nên sức cầu thị trường và người bán sẽ hình thành sức cung thị trường và người bán hàng hóa cho người mua phải được bồi thường thoả đáng. Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường làm xuất hiện thêm các trung gian khác như người mua giới, đại lý phân phối, các đối thủ cạnh tranh, thuế, hải quan, hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, sản xuất. Trên thị trường, Nhà nước tham gia trên thị trường với tư cách là hộ tiêu dùng đặc biệt và đồng thời là người đề ra và thực hiện các công cụ quản lý kinh tế. Cung trên thị trường: Cung là số lượng hàng hóa dịch vụ mà người bán có khả năng bán và sẵn sàng bán ở mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định. Số lượng hàng hóa được cung ứng ra trên thị trường trong khoản thời gian nhất định tuân theo quy luật cung. Cung của một loại hàng hóa nào đó còn bị tác động bởi các yếu tố sau: - Phụ thuộc vào giới hạn khả năng sản xuất của nền kinh tế - Phụ thuộc giá cả các yếu tố đầu vào - Phụ thuộc vào kỳ vọng của người sản xuất - Phụ thuộc vào các chính sách thuế quan, xuất nhập khẩu. Cầu thị trường là số lượng hàng hóa dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua trong khoảng thời gian nhất định. Khi giá cả hàng hóa thay đổi thì quy luật cầu sẽ phát huy tác dụng. Cầu của một loại hàng hóa nào đó phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Mức thu nhập của dân cư - Thị hiếu của người tiêu dùng - Giá cả của các lại hàng hoá thay thế, bổ sung - Các kỳ vọng của người tiêu dùng Giá cả hàng hóa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa trên thị trường. Giá cả hàng hóa thay đổi xoay quanh giá trị của nó và được hình thành nên bởi tác động của quy luật cung cầu và một số các nhân tố khác như: Quy luật lưu thông tiền tệ, giá trị thực tế của đồng tiền sử dụng làm phương tiện thanh toán trên thị trường và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa đó. Vai trò và các chức năng của thị trường Vai trò Vai trò của thị trường rất quan trọng đối với sản xuất kinh doanh hàng hoá và quản lý kinh tế. Thị trường được coi là phạm trù trung tâm vì qua đó các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lưu thông hàng hóa qua hệ thống giá cả. Thị trường chỉ mất đi sản xuất hàng hóa không còn, điều này cho thấy sản xuất là chiếc cầu nối của sản phẩm và tiêu dùng. Vậy thị trường không chỉ là mơi diễn ra các hoạt động mua và bán mà nó còn thể hiện quan hệ hàng hóa tiền tệ. Do đó thị trường được coi là môi trường của kinh doanh. Trong quản lý kinh tế, thị trường là nơi Nhà nước tác động vào quá trình kinh doanh của cơ sở, quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp Chức năng Chức năng tái sản xuất được thực hiện: Chức năng thông tin: Thị trường cung cấp thông tin cho cả người sản xuất và người tiêu dùng, thị trường chỉ cho người sản xuất biết nên sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, sản xuất khi nào. Thị trường chỉ cho người tiêu dùng nên mua hàng hóa hay dịch vụ nào, mua ở đâu, mua vào thời điểm nào. Chức năng này chứa đựng thông tin về tổng cung, tổng cầu, quan hệ cung cầu và yếu tố ảnh hưởng đến việc mua bán. Chức năng điều tiết: Thông qua nhu cầu thị trường các nhà sản xuất kinh doanh sẽ chủ động điều tiết vốn, vật tư và lao động trong các lĩnh vực sao cho lợi nhuận thu lại là lớn nhất. Phân loại thị trường Phân loại thị trường có thể dùng nhiều tiêu thức khác nhau. Dưới đây là một số phương pháp phân loại mà người kinh doanh tham gia với tư cách người bán. Phân loại căn cứ vào hình thái hiện vật và mục đích của hàng hóa trao đổi trên thị trường: - Thị trường các yếu tố sản xuất là thị trường trong đó diễn ra việc trao đổi hàng hóa để thõa mãn các yêu cầu sản xuất của xã hội. Hàng hóa trên thị trường chủ yếu là các nguyên vật liệu hoặc các sản phẩm kỹ thuật khác. - Thị trường hàng tiêu dùng là thị trường trao đổi hàng hóa đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng của xã hội, thị trường này đa dạng và luôn biến động. - Thị trường các dịch vụ: Trên thị trường trao đổi các hàng hóa đặc biệt không tồn tại dưới hình thái vật chất cụ thể Phân loại căn cứ vào phạm vi vùng thu hút và vị trí của mối quan hệ: - Thị trường địa phương - Thị trường dân tộc - Thị trường quốc tế Phân loại căn cứ vài số người tham gia vào thị trường và vị trí của người bán, người mua trên thị trường: - Thị trường độc quyền là thị trường mà bên tham gia chỉ có một bên duy nhất, bên bán có một người là thị trường độc quyền bán, bên mua chỉ có một người là thị trường độc quyền mua. - Thị trường cạnh tranh mà ở đó có nhiều người bán, người mua tham gia thị trường được coi là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, còn đòi hỏi hàng hóa phải đồng nhất để không tạo ra những cản trở trong cạnh tranh, đồng thời dễ dàng chuyển đổi ngành nghề. - Thị trường độc quyền cạnh tranh là thị trường vừa có yếu tố cạnh tranh đồng thời ở một số bộ phận thị trường một hoặc một số nhà kinh doanh có được lợi thế và độc chiếm bộ phận thị trường đó, khi tham gia vào thị trường độc quyền cạnh tranh nhà kinh doanh có thể lựa chọn để quyết định hoặc về giá bán hoặc về khối lượng bán. Phân loại theo khả năng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội: - Thị trường thực tế - Thị trường tiềm năng - Thị trường lý thuyết - Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại thị trường khác tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà kinh doanh có thể lựa chọn tiêu thức cụ thể. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường Ở góc độ sự tác động của các lĩnh vực thị trường các nhân tố thuộc về chính trị xã hội thể hiện qua chính sách tiêu dùng, dân tộc quan hệ quốc tế, các nhân tố tâm sinh lý tác động mạnh mẽ đến người tiêu dùng và do đó có tác động mạnh mẽ tới nhu cầu thị trường, các nhân tố môi trường như thời tiết, khí hậu cũng ảnh hưởng tới sản xuất và tiêu dùng. Theo tính chất quản lý và phân cấp quản lý: - Các nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô là các chủ trương, chính sách, biện pháp của Nhà nước, các cấp tác động vào thị trường. Những chính sách, biện pháp hay được sử dụng là thuế, quỹ điều hoà giá cả, những biện pháp này có vai trò khác nhau nhưng nó có tác động trực tiếp vào cung hoặc cầu nên tác động gián tiếp vào giá cả. Ngoài ra, còn có các yếu tố như mật độ dân số, trình độ phát triển của hệ thống giao thông vận tải, mức độ đô thị hoá. Đây là các yếu tố quan trọng của thị trường, nó tạo nên mức độ thuận lợi hay bất lợi của môi trường kinh doanh. - Các nhân tố thuộc quản lý vi mô: Là những chiến lược, chính sách, biện pháp của cơ sở kinh doanh sử dụng trong kinh doanh, nó thường các chính sách làm cho sản phẩm thích ứng với môi trường. Nội dung công tác duy trì và mở rộng thị trường tiêu thị sản phẩm của doanh nghiệp Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là thị trường ở đó doanh nghiệp giữ vai trò là người bán. Nó là một bộ phận trong tổng thể thị trường của ngành và nền kinh tế. Phần thị trường của những người không tiêu dùng tuyệt đối là tập hợp những người có nhu cầu về loại hàng hoá đó, có khả năng thanh toán nhưng vì những lí do bất khả kháng nên họ không mua loại hàng đó. Ví dụ như: người tàn tật với chiếc xe ô tô, người điếc với radio catset. Phần thị trường của những người không tiêu dùng tương đối là tập hợp những người không tiêu dùng loại hàng hoá đó vì nhiều lí do khác nhau như: thiếu thông tin, không biết sự có mặt của loại hàng hoá đó trên thị trường, thiếu khả năng thanh toán, vì chất lượng hàng hoá không phù hợp yêu cầu. Trong tương lai có thể họ sẽ là người tiêu dùng hàng hoá đó. Phần thị trường hiện tại của doanh nghiệp bao gồm những khách hàng thường xuyên, hay vãng lai của doanh nghiệp. Để đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp (thị phần) người ta sử dụng các chỉ tiêu sau: - Tỷ trọng doanh thu của doanh nghiệp so với doanh thu của toàn ngành - Tỷ trọng sản lượng của doanh nghiệp so với sản lượng của toàn ngành Phần doanh thu (%) = DT bán hàng của dn / DT bán hàng toàn ngành X 100% Phần sản lượng (%) = SL tiêu thụ của dn / SL tiêu thụ của toàn ngành X 100% Thị trường tiềm năng của doanh nghiệp là phần thị trường doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh trong tương lai. Nội dung công tác duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Để thu được hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bắt buộc doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường đều phải có mục tiêu, phải xây dựng cho được một chiến lược tổng thể hợp nhất, trong chiến lược tổng thể hợp nhất này bao gồm nhiều chiến lược, chính sách để thực hiện chiến lược tổng thể này. Một trong những khâu cuối cùng và khâu quan trọng nhất đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển được đó là khâu tiêu thụ sản phẩm với mục tiêu cụ thể là duy trì và không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Có hai hướng mở rộng thị trường của doanh nghiệp: - Mở rộng theo hướng lôi kéo những người không tiêu dùng tương đối, biến họ thành khách hàng của doanh nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tăng cường công tác quảng cáo, mở rộng mạng lưới bán hàng và cải tiến chất lượng sản phẩm. - Mở rộng theo hướng lôi kéo những khách hàng của đối thủ cạnh tranh, biến khách hàng của đối thủ cạnh tranh thành khách hàng của doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh mạnh: cạnh tranh về giá, về chất lượng hàng hoá, về dịch vụ trong và sau khi bán hàng, kết hợp với tăng cường quảng cáo. Về mặt lí thuyết thị trường tiềm năng của doanh nghiệp có thể phát triển bằng thị trường lí thuyết của ngành. Nghĩa là khi đó doanh nghiệp đã tiêu diệt hết các đối thủ cạnh tranh để trở thành độc quyền và lôi kéo hết những người không tiêu dùng tương đối thành người tiêu dùng sản phẩm của mình. Trong thực tế không thể đạt được điều đó, thị trường tiềm năng có tính đến những cản trở của các đối thủ cạnh tranh, tính đến khả năng mọi mặt của doanh nghiệp (công nghệ, vốn, lao động, quản lý). Thị trường tiềm năng của doanh nghiệp trong thực tế là mục tiêu chính xác về phần thị trường mà doanh nghiệp cần phải đạt được trong một thời gian cụ thể: Xác định chính xác thị trường tiềm năng của doanh nghiệp là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng nên chiến lược thị trường, chiến lược sản xuất, kinh doanh cho mình. Chính sách duy trì thị trường hiện tại của doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến khách hàng hiện tại của mình, làm cho họ mua nhiều hàng hơn hoặc để họ trung thành với nhãn hiệu hàng hoá của mình. Chiến lược mở rộng thị trường đòi hỏi doanh nghiệp một mặt phải tạo cho sản phẩm hàng hoá của mình có sức cạnh tranh tấn công vào thị trường của đối thủ, dành khách hàng từ đối thủ cạnh tranh về phía mình. Mặt khác, mở chiến dịch xâm nhập vào phía thị trường những người không tiêu dùng tương đối. Nghiên cứu và dự báo thị trường Nghiên cứu và dự báo thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên với bất cứ một doanh nghiệp nào. Nghiên cứu và dự báo thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm khả năng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể, hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện khả năng đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho người quản lý đưa ra quyết định đúng đắn. Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường phải góp phần chính trong việc thực hiện phương châm hành động “chỉ bán cái thị trường cần, không bán cái thị trường có sẵn”. Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường phải trả lời một số câu hỏi quan trọng sau: - Thị trường nào có triển vọng nhất đối với sản phẩm của doanh nghiệp? - Khả năng bán được bao nhiêu? - Sản phẩm cần phải có những thích ứng gì đáp ứng đòi hỏi của thị trường? - Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp? Quá trình nghiên cứu và dự báo thị trường gồm các bước: thu thập thông tin, xử lí thông tin, dự báo sự biến động của thị trường và ra quyết định. Thực hiện các nhiệm vụ này có thể bằng hai phương pháp: nghiên cứu tại bàn làm việc hoặc nghiên cứu tại hiện trường. Xây dựng chính sách sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường Chính sách phát triển sản phẩm có một vị trí rất quan trọng trong chiến lược thị trường của một doanh nghiệp. Nó tạo thế chủ động trong việc đáp ứng thị hiếu của khách hàng và tạo sự thay đổi trong thị hiếu của họ. Nội dung cơ bản của chính sách sản phẩm là tuỳ theo tình hình cụ thể trên thị trường mà doanh nghiệp quyết định nên sản xuất loại sản phẩm nào, có nên thay đổi sản phẩm hiện nay không, thay như thế nào hoặc đưa ra thị trường một sản phẩm mới hoàn toàn hay chỉ cải tiến từ sản phẩm hiện có để có sức cạnh tranh hơn trên thị trường? Tuỳ vào khả năng tài chính mà mỗi doanh nghiệp có chiến lược phát triển sản phẩm khác nhau. Điều quan trọng là doanh nghiệp phải luôn có sản phẩm mới để chuẩn bị tung vào thị trường thay thế cho sản phẩm hiện thời bị trì trệ. Sản phẩm mới là sản phẩm có giá trị sử dụng cao hơn so với những sản phẩm cũ cùng loại. Với các nhãn hiệu hay bao bì mới đa dạng cũng sẽ tạo cho các sản phẩm mới hấp dẫn, đáp ứng được nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng. Vì vậy, chính sách sản phẩm là vũ khí sắc bén trong cạnh tranh đồng thời là phương pháp có hiệu quả để tạo ra nhu cầu mới. Chính sách sản phẩm với mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm với chất lượng cao sẽ giúp cho doanh nghiệp thành công trong việc duy trì và mở rộng thị trường. Xây dựng chính sách giá bán sản phẩm phù hợp Giá là một yếu tố quan trọng và quyết định trong việc lựa chọn mua hàng hoá của người tiêu dùng. Đối với doanh nghiệp, giá có vị trí đặc biệt trong quá trình tái sản xuất vì nó là khâu cuối thể hiện kết quả của các doanh nghiệp. Vì vậy xác lập chính sách giá đúng đắn là điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chiếm lĩnh, mở rộng thị trường. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi xây dựng chính sách giá nhất thiết phải dựa trên cơ sở phân tích kỹ chi phí cấu thành sản phẩm, đưa ra các quyết định linh hoạt tuỳ theo tình hình cụ thể của thị trường (nhu cầu, dung lượng thị trường, giá sản phẩm cùng loại, mức độ cạnh tranh trên thị trường) để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp (khối lượng bán, lợi nhuận, doanh số), có hai loại chính sách giá. - Chính sách giá hướng vào doanh nghiệp: chính sách này hướng vào mục tiêu nội tại của doanh nghiệp, vào chi phí và lợi nhuận. Chính sách này thể hiện qua cách định giá xuất phát từ chi phí và đảm bảo lợi nhuận tối đa. - Chính sách giá hướng ra thị trường: chính sách này dựa trên hai yếu tố quan trọng là: Tiềm năng thị trường (nhu cầu, quan hệ cung cầu - giá cả, sự đàn hồi giãn nở của nhu cầu), khả năng tách thị trường thành hai phần: phần tăng trưởng nhờ tăng tiêu thụ và phần tăng trưởng nhờ những hấp dẫn mới. Mức độ cạnh tranh trên thị trường (giá các sản phẩm cạnh tranh, phản ứng có thể xảy ra với các quyết định của doanh nghiệp và chiến lược giá). Nội dung chính của chính sách này là xây dựng nhiều mức giá phân biệt cho mỗi hàng hoá. Có thể định nhiều mức giá khác nhau cho cùng một loại hàng hoá tuỳ theo chất lượng, bao bì, mùa vụ, phương thức thanh toán, phương thức phục vụ, mức độ cạnh tranh trên thị trường. Dùng giá phân biệt có thể kích thích bán được nhiều hàng, phục vụ được những nhu cầu đa dạng khác nhau của người tiêu dùng. Tổ chức hợp lý mạng lưới tiêu thụ sản phẩm Tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm là các hoạt động liên quan đến việc tổ chức điều hành và vận chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ nhằm đạt hiệu quả tối đa với các chi phí tối thiểu. Xây dựng được mạng lưới bán hàng hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp hàng cho khách hàng đúng thời gian, địa điểm, khối lượng, chủng loại. Tổ chức tốt mạng bán hàng đi kèm với những chính sách khác tạo bí quyết dành thắng lợi trong cạnh tranh, duy trì và mở rộng thị trường một cách hiệu quả. Trong mạng lưới bán hàng của doanh nghiệp, người ta sử dụng các loại kênh phân phối hàng như sau: - Loại kênh trực tiếp: Loại kênh này có ưu điểm là thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Lợi nhuận của người sản xuất không bị chia xẻ. Nhược điểm của loại kênh này là phức tạp hoá công tác bán hàng của doanh nghiệp, khả năng mở rộng phần thị trường và ảnh hưởng của doanh nghiệp bị hạn chế. - Loại kênh gián tiếp: Doanh nghiệp bán hàng cho người tiêu dùng qua một hay nhiều trung gian. Loại kênh này có ưu và nhược điểm ngược lại với loại kênh trực tiếp. Thông thường các doanh nghiệp sử dụng đồng thời cả bốn kênh trong quá trình lưu thông hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Tuỳ tình hình cụ thể trên thị trường tại các thời điểm khác nhau mà các doanh nghiệp tập trung chú ý vào các kênh tiêu thụ khác nhau với mục đích tiêu thụ được nhiều hàng hoá nhất với giá bán cao nhất. Xây dựng các chính sách hỗ trợ bán hàng Các hoạt động hỗ trợ bán hàng là biện pháp quan trọng và có hiệu quả trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu của chính sách này bao gồm: - Quảng cáo là việc sử dụng không gian, thời gian và các phương tiện thông tin để truyền tin định trước về sản phẩm của doanh nghiệp. Mục đích của nó là thu hút sự chú ý của khách hàng, thuyết phục họ về những lợi ích, sự hấp dẫn của sản phẩm nhằm thay đổi hoặc củng cố thái độ, lòng tin của người tiêu dùng về sản phẩm của doanh nghiệp. Quảng cáo là công việc cần thiết trong lưu thông hàng hoá. Nó thường hướng dẫn, hình thành nhu cầu, thúc đẩy nhu cầu một cách nhanh chóng. Trong điều kiện thị trường hiện nay: hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng và luôn có xu hướng bão hoà trên thị trường thì quảng cáo càng trở nên cần thiết. Các phương tiện thường dùng trong quảng cáo là: báo chí, tivi, phim ảnh, biển quảng cáo. - Xúc tiến bán hàng: là hoạt động Marketing thu hút sự chú ý của khách hàng tới một loại sản phẩm, làm cho nó hấp dẫn hơn ở nơi bán hàng. Đây là hoạt động yểm trợ tất yếu nhằm tăng khối lượng hàng bán ra. Các hình thức xúc tiến bán hàng + Thay đổi hình thức hàng hoá: Là làm bất cứ một việc gì đó làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn đối với người mua. Ví dụ: thay đổi bao gói, cải tiến nhãn hiệu, thay đổi cách mở bao gói dễ dàng hơn. + Khuyến khích mua hàng: giảm giá cho khách hàng mua với số lượng nhiều, giảm giá tạm thời, tặng quà, gói buộc hàng, thanh toán trả chậm, trả góp. + Đưa ra những tài liệu tuyên truyền, hướng dẫn để thu hút sự chú ý của khách hàng tới sản phẩm của doanh nghiệp. + Mời khách hàng thử tự do đối với sản phẩm mới. Đây là biện pháp mạnh để khắc phục những hạn chế của việc bán hàng trong thời gian đầu. - Thiết lập mối quan hệ mật thiết với khách hàng: Thông qua hội chợ, triển lãm hội nghị khách hàng, báo chí, doanh nghiệp mở rộng quan hệ với khách hàng và xúc tiến mậu dịch, thu thập thông tin, nắm bắt các nhu cầu của thị trường. - Dịch vụ hỗ trợ sản phẩm: Hướng dẫn khách hàng cách sử dụng sản phẩm, bảo quản, sửa chữa, bảo hành sản phẩm, cung cấp phụ tùng thay thế. Những nguyên tắc cơ bản của công tác duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Trong kinh doanh mọi hoạt động đều phải tuân theo một khuôn khổ nhất định và chính nó tạo nên những nguyên tắc của mọi hoạt động. Để thực hiện tốt công tác chiếm lĩnh và mở rộng thị trường tiêu thụ, doanh nghiệp cần tuân thủ một số nguyên tắc sau: Nguyên tắc thứ nhất Mở rộng thị trường dựa trên cơ sở đảm bảo vững chắc phần thị trường hiện có. Đối với mỗi doanh nghiệp, tiêu thụ ổn định là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Để tạo nên một thị trường tiêu thụ ổn định, doanh nghiệp phải xây dựng và thực hiện các biện pháp khai thác thị trường hiện có cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Mặt khác, duy trì thị trường hiện có là biểu hiện sự ổn định trong kinh doanh của doanh nghiệp. Sự ổn định này là tiền đề cho hoạt động tìm kiếm thị trường mới hay mở rộng thị trường. Do đó muốn mở rộng thị trường, doanh nghiệp phải đảm bảo vững chắc phần thị trường hiện có, khai thác tối đa tiềm năng của thị trường. Đó chính là cơ sở mở rộng thị trường và tạo nên một thị trường kinh doanh ổn định. Nguyên tắc thứ hai Mở rộng thị trường dựa trên cơ sở huy động tối đa các nguồn lực trong doanh nghiệp. Các nguồn lực như là lao động, vốn, nhà xưởng, máy móc, thiết bị của mỗi doanh nghiệp đều có hạn và nó có ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng, chất lượng, giá cả sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Mọi kế hoạch sản xuất đều dựa trên cơ sở cân đối giữa yêu cầu thị trường với khả năng về các nguồn lực doanh nghiệp. Đối với thị trường hiện có, sự biến động về cầu là không đáng kể nên mọi nguồn lực của doanh nghiệp không có biểu hiện căng thẳng. Khi doanh nghiệp mở rộng thị trường nhu cầu tất yếu sẽ tăng lên cả về số lượng và chất lượng, mà với các nguồn lực không đổi sẽ dẫn tới sự chênh lệch giữa yêu cầu của thị trường với khả năng của doanh nghiệp. Vì vậy muốn mở rộng thị trường doanh nghiệp cần tìm mọi giải pháp và khai thác tối đa các nguồn lực, đảm bảo thoả mãn thị trường. Nguyên tắc thứ ba Mở rộng thị trường dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ các loại nhu cầu và khả năng thanh toán của người tiêu dùng, dự báo có căn cứ khoa học sự biến động cơ cấu sản phẩm tiêu dùng. Trên thị trường luôn tồn tại mối quan hệ cung cầu về tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ. Cơ sở để tạo nên mối quan hệ cung cầu của một hàng hoá dựa trên nhu cầu của người tiêu dùng về loại hàng hoá đó. Muốn sản xuất đáp ứng được nhu cầu thị trường, doanh nghiệp phải thường xuyên dựa trên kết quả phân tích các thông tin về nhu cầu của người tiêu dùng, dự báo có căn cứ khoa học sự biến động cơ cấu sản phẩm tiêu dùng để ra quyết định sản xuất kinh doanh. Trong quá trình phân tích các thông tin, người quản lý phải biết loại bỏ các thông tin không cần thiết và chỉ giữ lại những thông tin về nhu cầu có khả năng thanh toán. Trên cơ sở các thông tin thu được, doanh nghiệp phân chia thành nhóm người tiêu dùng với đầy đủ đặc điểm nhóm đó. Những hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với thị trường mới vì thông qua thu thập, xử lý thông tin và dự báo nhu cầu có khả năng thanh toán, doanh nghiệp mới có thể tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Nguyên tắc thứ tư Mở rộng thị trường phải phù hợp với các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà Nước trong từng thời kỳ. Mọi sự thay đổi về đường lối, chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước là nhân tố khách quan có ảnh hưởng trực tiếp tới những biến động và sự ổn định của thị trường cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong kinh doanh, mọi hoạt động của doanh nghiệp phải tuân thủ chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước. Hoạt động vi phạm luật pháp hoặc chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước sẽ ảnh hưởng xấu tới quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, tạo nên sự bất ổn trên thị trường. Vì vậy mở rộng thị trường tiêu thụ phải phù hợp với các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước là hoạt động có tính nguyên tắc, đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Duy trì và mở rộng thị trường là điểm cốt yếu nhất để giải quyết các vấn đề khác của quá trình kinh doanh. Vì vậy nó thường xuyên là mối quan tâm của các doanh nghiệp hiện nay. Khả năng duy trì và mở rộng thị trường của từng doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ngoài sự nỗ lực chủ quan của doanh nghiệp, nó phụ thuộc nhiều vào tác động của các nhân tố khách quan. Phân tích các nhân tố tác động tới thị trường của doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp xác định được đâu là nhân tố cơ bản, có ảnh hưởng quyết định, để từ đó hướng mọi nỗ lực của mình thực hiện các giải pháp duy trì và mở rộng thị trường. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng duy trì, mở rộng thị trường của doanh nghiệp có thể chia thành hai nhóm lớn: nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan. Nhóm nhân tố chủ quan Các nhân tố chủ quan phản ánh những điều kiện hiện có, sự nỗ lực chủ quan của doanh nghiệp, những chính sách, giải pháp mà doanh nghiệp sử dụng trong kinh doanh nhằm duy trì và mở rộng thị trường. Gồm có các nhân tố chủ yếu sau: - Sức cạnh tranh của doanh nghiệp: Phản ánh tương quan lực lượng về thế lực của doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện có và chiếm lĩnh các thị trường mới. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở ba yếu tố cơ bản: + Chất lượng sản phẩm: Sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao, ổn định, đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại, công dụng sẽ giúp cho sản phẩm có uy tín trên thị trường, qua đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Với sản phẩm chất lượng cao doanh nghiệp có thể dễ dàng thâm nhập vào các thị trường mới. Trên thị trường cao cấp cạnh tranh về giá cả đã nhường chỗ cho cạnh tranh về chất lượng. Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh lợi hại nhất, phản ánh sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo chiều sâu. + Giá cả: Giá cả hàng hoá là yếu tố cạnh tranh cơ bản. Sản phẩm có chất lượng cao và giá hạ sẽ dễ dàng đánh bại các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Khi giá cả giảm xuống sẽ kích thích tăng nhu cầu. Vì vậy để duy trì phần thị trường hiện có hoặc muốn chiếm lĩnh một phần thị trường mới đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách giá phù hợp. + Các biện pháp marketing nhằm nâng cao thế lực của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. Nó bao gồm khả năng nắm bắt các nhu cầu mới, các biện pháp về quảng cáo, phân phối hàng, xúc tiến với khách hàng, các dịch vụ trong và sau khi bán hàng. Các biện pháp này giúp doanh nghiệp tạo được chữ tín với khách hàng, giúp người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm của doanh nghiệp. Qua đó doanh nghiệp thu hút được khách hàng về phía mình. - Trình độ quản lý kinh doanh và trình độ tay nghề của công nhân trong doanh nghiệp: Trình độ quản lý của doanh nghiệp được thể hiện ở công nghệ quản lý mà doanh nghiệp đang áp dụng, năng lực quản lý, kinh doanh của Ban Giám đốc. Bộ máy quản lý năng động, khoa học sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng thích nghi với mọi thay đổi của nền kinh tế thị trường. Nhạy bén trong kinh doanh giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng phán đoán tình thế, chớp thời cơ tạo thế vững chắc trên thị trường. Trình độ nhận thức, chấp hành kỷ luật lao động, mức độ tinh thông nghề nghiệp của đội ngũ công nhân viên chức là yếu tố cơ bản quyết định chất lượng, giá thành sản phẩm. Trong điều kiện các nhân tố khác, nhất là trình độ công nghệ của doanh nghiệp khó có thể thay đổi một sớm một chiều thì nhân tố con người có vai trò quan trọng. Từ đó ảnh hưởng đến khả năng duy trì và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Nhóm nhân tố khách quan - Ảnh hưởng của môi trường công nghệ: Ngày nay tiến bộ khoa học, công nghệ tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng duy trì và mở rộng thị trường của doanh nghiệp, thể hiện chỗ: + Nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hoá. Những tiến bộ khoa học, công nghệ giúp người sản xuất đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội và ngược lại nó cũng làm xuất hiện thêm nhiều nhu cầu mới. Từ đó thị trường được mở rộng dẫn đến qui mô nhu cầu và sự đa dạng của nhu cầu cũng tăng lên. + Tiến bộ khoa học, công nghệ làm cho chu kỳ sống của sản phẩm rút ngắn lại, tạo ra nhiều sản phẩm mới có chất lượng, công dụng cao hơn. Vì vậy phần thị trường của mỗi doanh nghiệp chiếm giữ sẽ có những biến động lớn, thử sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. + Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cấp thiết bị, đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất làm tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp biết đầu tư đúng hướng thì có thể nâng cao sức cạnh tranh của mình trước các đối thủ, thâm nhập, mở rộng sang thị trường của các doanh nghiệp khác. - Ảnh hưởng của môi trường kinh tế cũng như các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà Nước: Môi trường kinh tế có vai trò quan trọng, tác động trực tiếp đến thị trường của doanh nghiệp. + Quan hệ cung - cầu ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường của doanh nghiệp thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường. Khi giá cả của hàng thay thế giảm xuống, nhu cầu về sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp sẽ giảm theo và ngược lại. + Qui luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường, tồn tại tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá, được biểu hiện thông qua sự cạnh tranh giữa người bán và người bán, người mua với người mua, người bán với người mua. Tình trạng cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực vươn lên, giành lợi thế cạnh tranh so với đối thủ. Mặt khác, thị trường của doanh nghiệp cũng luôn luôn bị các đối thủ cạnh tranh tấn công. + Mức thu nhập của dân cư và sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân có ảnh hưởng lớn tới qui mô, cơ cấu của thị trường. Khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, thu nhập của dân cư sẽ tăng lên, làm tăng khả năng thanh toán của họ, tăng sức mua trong xã hội. Thu nhập cao còn làm đa dạng nhu cầu và thay đổi cơ cấu thị trường. Người tiêu dùng tăng khả năng mua sắm, tăng qui mô của cầu. + Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước có vai trò rất quan trọng, chi phối nhiều tới thị trường và từ đó hướng tới thị trường của các doanh nghiệp thông qua công cụ quản lý vĩ mô. + Nhà nước với vai trò đặc biệt của mình sử dụng pháp quyền hành chính buộc người mua, người bán phải tuân theo một giới hạn nhất định. Đó là việc Nhà nước đưa ra các luật lệ để xác định môi trường kinh tế, những khuôn khổ luật pháp này có tác dụng sâu sắc tới các hành vi ứng xử kinh tế của con người. Nhà nước sử dụng quyền lực về tài chính để ổn định nền kinh tế. Thông qua các chính sách về thuế, đầu tư, tiết kiệm, lãi suất, xuất nhập khẩu. Nhà nước điều tiết tiêu dùng, khuyến khích hoặc hạn chế các hoạt động kinh doanh, đầu tư sản xuất vào một lĩnh vực nào đó của các doanh nghiệp. Nhà nước đưa ra các chính sách để khắc phục những nhược điểm của thị trường. + Nhà nước với vai trò là hộ tiêu thụ đặc biệt lớn có khả năng thay đổi mọi quan hệ cung cầu trên mọi thị trường: thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ, thị trường lao động. Để thực hiện vai trò này, một mặt Nhà nước thông qua các doanh nghiệp quốc doanh, mặt khác trực tiếp sử dụng ngân sách quốc gia để chi tiêu. Ví dụ như Nhà nước chi ngân sách để bình ổn giá cả những mặt hàng thiết yếu hoặc xây dựng những công trình lớn nhằm tăng sức cầu, tăng mức chi tiêu xã hội, tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. - Ảnh hưởng của môi trường văn hóa xã hội: Văn hoá xã hội có tác động riêng biệt đến thị trường. Những phong tục tập quán, lối sống, thói quen tiêu dùng và thị hiếu của các tầng lớp dân cư có ảnh hưởng sâu sắc đến qui mô, cơ cấu nhu cầu của thị trường, tức là tác động trực tiếp đến cầu của từng mặt hàng và thị trường sản phẩm của doanh nghiệp. - Ảnh hưởng của nhân tố chính trị xã hội và pháp luật: Sự ổn định về chính trị là điều kiện không thể thiếu cho phát triển kinh tế thị trường. Chính trị ổn định, môi trường pháp luật hoàn chỉnh sẽ có sức lôi cuốn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và thương mại, làm tăng khả năng cung hàng vào thị trường. Tất cả những điều đó trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến thị trường của các doanh nghiệp. Vai trò của việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm Đối với doanh nghiệp Thị trường của doanh nghiệp được đo bằng tỉ trọng sản lượng tiêu thụ hay doanh số thực hiện của doanh nghiệp so với toàn ngành, hay còn gọi là thị phần của doanh nghiệp. Một mặt, nó thể hiện sự thừa nhận của xã hội đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác, nó cũng phản ánh sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Mỗi doanh nghiệp đều theo đuổi mục tiêu riêng của mình. Trong đó mục tiêu cơ bản, lâu dài, quan trọng nhất là lợi nhuận. Các mục tiêu của doanh nghiệp chỉ được thực hiện khi thị trường của doanh nghiệp được duy trì và mở rộng. Duy trì và mở rộng thị trường có nghĩa là doanh nghiệp sẽ tăng được sản lượng tiêu thụ, tăng được lợi nhuận và tăng tích luỹ. Nhờ đó doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Kết quả của quá trình này làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường tạo cho doanh nghiệp kinh doanh an toàn hơn. Trên thị trường, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh. Việc tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có ý nghĩa rất to lớn. Sự biến động của nhu cầu, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các nhà cung cấp cùng một loại hàng hoá đã buộc doanh nghiệp phải đặt trọng tâm vào chiến lược tăng trưởng để giành giật thị trường. Vì vậy phần thị trường của doanh nghiệp không ổn định, mà nó luôn biến đổi theo lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp trên thị trường. Cạnh tranh trên thị trường càng gay gắt thì rủi ro trong kinh doanh càng lớn. Không duy trì được thị trường tiêu thụ sản phẩm sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô tại Việt Nam hiện đang phải đối mặt với những khó khăn to lớn. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp hiện đang bị thu hẹp dần do cầu về ô tô không tương xứng với mức tăng về cung ô tô. Đối với nền kinh tế quốc dân Mỗi doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế trong hệ thống kinh tế thống nhất. Một nền kinh tế vững mạnh dựa trên nền tảng sự lớn mạnh của các doanh nghiệp hoạt động trên đất nước đó. Mỗi doanh nghiệp duy trì và mở rộng được thị trường, đẩy lùi được sự lấn chiếm của hàng ngoại sẽ góp phần phát triển nền kinh tế nước nhà, tăng tiềm lực kinh tế của đất nước, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Duy trì và mở rộng thị trường ngoài nước của mỗi doanh nghiệp còn tăng cường được tiềm lực ngoại thương, tạo khả năng cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, qua đó ảnh hưởng của đất nước trên trường quốc tế. Ô tô là loại hàng hoá thiết yếu của xã hội là một phương tiện không thể thiếu của ngành giao thông vận tải hiện nay. Sản xuất và lắp ráp ô tô hiện nay là ngành công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao đối với các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, tuy ngành sản xuất lắp ráp ô tô còn nhỏ bé nhưng cũng là một trong những ngành có giá trị tổng sản lượng cao nhất, cung cấp phần lớn các sản phẩm ô tô cho nhu cầu xã hội, cung cấp cho tất cả các thành phần kinh tế phương tiện vận tải, chuyên chở và đi lại, và góp phần phát triển kinh tế đất nước. Việc duy trì và mở rộng thị trường sản phẩm của các doanh nghiệp ô tô tại Việt Nam không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam mà còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mở rộng thị trường ô tô Việt Nam sẽ là tiền đề phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong thế kỷ tới đồng thời tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho dân cư trước mắt là các vùng đô thị lớn. Tóm lại, việc không ngừng mở rộng thị trường ô tô cho các doanh nghiệp lắp ráp ô tô tại Việt Nam trong thế kỷ tới, có tác động rất mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung cũng như sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô nói riêng. CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA GIADICO Đặc điểm thị trường ô tô khách Việt Nam trong những năm gần đây Từ những năm đầu thập niên 90, thị trường ô tô Việt Nam đã có sự góp mặt của nhiều thương hiệu nổi tiếng như Công ty CP Vimeco (VMC), MeKong việt nam…Tuy nhiên lúc này sản lượng bán ra của mỗi hãng chỉ khoảng vài ba trăm xe/năm. Mặc khác nhu cầu đi xe khách của người dân ngày càng tăng và nhu cầu mua xe làm phương tiện chuyên chở của các cá nhân, tổ chức ngày càng tăng. Khái quát quá trình phát triển của Giadico Cách đây 6 năm trong nghành dịch vụ thương mại ô tô xuất hiện một doanh nghiệp thương mại cổ phần mới. Đó là Công ty CP DV-TM ô tô Gia Định V.N và được viết tắt là GIADICO. Giám đốc điều hành: Bà Lương Thị Mai Vốn điều lệ: 9 tỷ Công ty Giadico được thành lập ngày 10/04/04 và đi vào hoạt động theo giấy phép kinh doanh số 4103002229 do sở kế hoạch đầu tư TP.HCM cấp. Mới đầu mới thành lập, ngành nghề kinh doanh chính của công ty là: Mua bán xe ô tô và phụ tùng ô tô, đóng mới và tân trang thùng xe các loại, dịch vụ bảo dưỡng và sữa chữa xe ô tô các loại. Với đội ngũ nhân viên kỹ sư chuyên nghiệp, lượng nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao, sản phẩm của công ty Giadico ngày càng được khẳng định vị thế trên thị trường. Sau 3 năm hoạt động được sự hỗ trợ của Tổng Công ty Công Nghiệp Ô Tô Việt Nam, công ty đã mạnh dạn đầu tư đây chuyền sản xuất công nghệ hiện đại, trang thiết bị tự động hóa cao, nhập khẩu linh kiện của các hãng xatxi ô tô lớn của Hàn Quốc, Trung Quốc…Với đội ngũ kĩ sư chuyên nghiệp, lực lượng nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao, sản phẩm mang thương hiệu Giadico đã có mặt trên thị trường Việt Nam, đây cũng là mốc phát triển mạnh về công nghệ của Giadico, và trong năm 2007 công ty đã mở rộng quy mô sản xuất với việc tiến hành khởi công xây dựng nhà xưởng sản xuất tại 504 Quốc lộ 13, phường Hiệp Bình Phước, Quận Thủ Đức với tổng điện tích là 24.200m2. Song song với đầu tư vào công nghệ Giadico còn tiến hành mở rộng bán hàng và bảo hành, mở trung tâm Showroom và bảo dưỡng tại 171 Điện Biên Phủ, P.15, Quận Bình Thạnh, Hồ Chí Minh và các đại lý bán hàng tại các tỉnh: TP. Biên Hoà, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng, TP. Vinh, TP. Hải Phòng, Hà Nội. Không lâu những sản phẩm của Giadico đã trở nên thông dụng trên thị trường Việt Nam, đã chiếm lĩnh phần không nhỏ trên thị trường xe khách Việt nam. Kết quả này đạt được là do Giadico hội tụ được về công nghệ tiên tiến và con người làm việc tài ba. Về mặt kinh tế - Giải quyết trình trạng thiếu vốn trong nền kinh tế. - Tiếp nhận kỷ thuật, công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý của Tổng công ty CN ô tô Việt Nam - Góp phần sử dụng có hiệu quả lợi thế trong nước - Thúc đẩy một số ngành liên quan phát triển: + Hệ thống cung cấp nhiên liệu + Hệ thống cung cấp phụ tùng thay thế + Hệ thống dịch vụ bảo hành và sữa chữa + Các ngành điện, điện tử,cao su ,may mặc … Về mặt xã hội - Tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp - Nâng cao trình độ dân trí của người dân do việc tiếp cận với một nghành công nghiệp lớn, tạo tác phong làm việc công ngiệp thích ứng với cách quản lý hiện đại trong cơ chế thị trường đầy biến động. Chức năng và nhiệm vụ của Giadico Chức năng - Mua bán xe ô tô và phụ tùng ô tô - Sản xuất và lắp ráp ô tô khách 29 – 80 chỗ, xe tải, xe buýt đạt tối đa tỷ lệ sản xuất trong nước, đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước và tiến tới sản xuất ra nước ngoài - Sản xuất các loại phụ tùng ô tô - Sản xuất dầm cầu thép - Sản phẩm cơ khí khác Nhiệm vụ - Công ty có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng tổ chức bộ máy của đơn vị. - Xây dựng chương trình sản xuất lắp ráp cho những năm kế hoạch và kế hoạch dài hạn của công ty phù hợp với điều kiện kinh tế. - Tổ chức tiếp nhận hàng nhập khẩu máy móc thiết bị nước ngoài ,ký kết hợp đồng kinh tế với các đơn vị trong và ngoài nước để có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp thị trường và có hiệu quả - Tuân thủ các chính sách chế độ pháp luật của nhà nước - Thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà Nước về bảo vệ môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, trật tự an ninh xã hội. - Ghi chép sổ sách kế toán theo quy định của pháp luật. Cơ cấu tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý của nhà máy Giám đốc Phòng kinh doanh Ban bảo vệ Phòng Nhân chính Phòng tổ chức kỹ thuật Phòng kiểm tra chất lượng Phân xưởng cơ khí II Phân xưởng cơ khí I Phân xưởng ô tô II Phân xưởng ô tô I Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức chung của công ty Phó GĐ sản xuất kinh doanh Phó GĐ kiểm tra chất lượng Nguồn: Phòng tổ chức Giadico 2009 Sơ đồ tổ chức công ty Giadico nhìn chung đơn giản, nhưng về cơ bản có đầy đủ các phòng ban chuyên trách, cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Giám đốc công ty Giadico là người chịu trách nhiệm cao nhất trước Nhà nước về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện mọi chính sách đối với người lao động. Giúp việc cho giám đốc có hai Phó giám đốc và một Kế toán trưởng. Phó giám đốc kiểm tra chất lượng, Phó giám đốc sản xuất kinh doanh, Kế toán trưởng. Giám đốc là người vừa chịu trách nhiệm chung quản lý toàn diện, vừa trực tiếp phụ trách kế hoạch tài chính, tổ chức cán bộ, bảo vệ và công tác có liên quan đến quốc phòng. Phó giám đốc là người cộng sự đắc lực của giám đốc chịu trách nhiệm trước Giám đốc, Nhà nước về những phần việc được phân công. Kế toán trưởng có chức năng giúp Giám đốc tổ chức, chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê, thông tin kinh tế, hoạch toán kinh tế ở nhà máy theo cơ chế quản lý mới Phó giám đốc và Kế toán trưởng do Giám đốc đề nghị và cấp trên bổ nhiệm. Căn cứ đặc điểm kinh tế kỹ thuật, kế hoạch sản xuất, phương án sản phẩm dùng làm phương hướng phát triẻn sản xuất kinh doanh. Công ty Giadico tổ chức sản xuất thành 6 phân xưởng và 2 trung tâm dịch vụ phát triển sản xuất kinh doanh: Phân xưởng ô tô 1 Phân xưởng ô tô 2 Phân xưởng ô tô 3 Phân xưởng cơ khí Phân xưởng bơm cao áp Phân xưởng sản xuất dịch vụ + Một trung tâm dịch vụ tổng hợp + Một trung tâm giao dịch phát triển sản xuất kinh doanh và cơ khí giao dịch vận tải. Các phân xưởng đều có bộ máy gọn nhẹ đủ khả năng quản lý sản xuất kinh doanh theo cơ chế khoán gọn dưới sự quản lý chung của nhà máy qua các phòng nghiệp vụ. Với yêu cầu tổ chức bộ máy quản lý tinh gọn, phù hợp với tổ chức sản xuất mới, nhà máy có 5 phòng: Phòng sản xuất kinh doanh Phòng kiểm tra chất lượng xuất xưởng Phòng tổ chức kỹ thuật Phòng nhân chính Ban bảo vệ Các phòng đều có một trưởng phòng và có thể có một phó phòng giúp việc. Nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ và năng lực Giadico tạo được sức mạnh nổ lực vững chắc làm tiền đề cho phát triển công ty. Tình hình hoạt động kinh doanh của Giadico Tình hình thực hiện kế hoạch bán xe và hoạt động dịch vụ của Công ty Bảng 1: Kết quả thực hiện bán xe và thực hiện dịch vụ Chỉ tiêu Đơn vị 2007 2008 2009 2008/2007 Chênh lệch TT 2009/2008 Chênh lệch TT KH TT TT/KH KH TT TT/KH KH TT TT/KH Tăng giảm % Tăng giảm % 1. Sl xe bán Chiếc 869 513 59% 796 765 96.06% 999 1.189 119% 252 149 424 155,42 2. Doanh số bán xe Tr.đ 451.584 256.500 56,8% 542.239 516.375 95.23% 666.149 818.032 122.8% 259.875 201,3 301.657 158,41 3. Số lượt xe thực hiện dịch vụ Chiếc 2.000 1.175 58.75% 4.320 4.500 104,17% 5.549 5.780 104.16% 3.325 382,98 1.280 128,44 4. Doanh thu xưởng dịch vụ Tr.đ 3.400 2.657 78,14% 3.600 3.613 100,36% 5.800 6.580 113,45% 956 135,98 2.967 182,12 Nguồn: Bộ phận dự án phòng kinh doanh Giadico 2009 Qua kết quả tính toán ở biểu trên cho thấy: Chỉ tiêu sản lượng xe bán năm 2007 và năm 2008 đã không hoàn thành kế hoạch đề ra. Tuy nhiên sang năm 2009, số lượng xe bán đã vượt mức kế hoạch, thực tế đạt 119% so với kế hoạch. So sánh thực tế qua các năm 2007-2009. Số lượng xe bán có xu hướng tăng nhanh qua các năm, cụ thể: Năm 2008 đạt 765 chiếc, tăng 252 chiếc so với năm 2007 hay tăng tỷ lệ là 149%. Năm 2009 số lượng xe bán đạt 1.189 chiếc tăng 424 chiếc so với năm 2008. Trong hai năm 2007 và 2008, do sản lượng xe bán không hoàn thành kế hoạch Giống như số xe bán, doanh số thực tế qua các năm có xu hướng tăng lên, đặc biệt doanh số bán xe tăng đột biến từ năm 2007-2008 (tăng 101,3%). Về số lượt xe thực hiện dịch vụ thì chỉ duy nhất có năm 2007 là công ty không hoàn thành kế hoạch đề ra (chỉ đạt 58,75%). Còn lại hai năm 2008 và 2009 đều hoàn thành vượt mức kế hoạch. Về doanh thu xưởng dịch vụ, có sự tăng lên về chênh lệch thực tế qua các năm giữa 2007-2009. Chênh lệch số thực tế năm 2008 đạt khá so với năm 2007, tăng 956 (triệu đồng) với tỷ lệ tăng là 135,98%. Năm 2009 đạt 6.580 (triệu đồng), tăng 135,98 (triệu đồng) so với năm 2008. Cả hai năm 2008 và 2009, doanh thu xưởng dịch vụ của Công ty đều vượt mức kế hoạch với tỷ lệ lần lượt là 100,36% và 113,45%. Năm 2007 không hoàn thành kế hoạch (78,14%) cũng là do số lượng xe thực hiện dịch vụ không đạt được kế hoạch đề ra. Sản phẩm của công ty là sản phẩm ô tô có giá trị lớn, giá trị sử dụng cao cho nên sản phẩm bán ra chủ yếu cho các đơn vị có nguồn ngân sách cấp các công ty du lịch, các công ty kinh doanh có tầm cỡ lớn tập trung ở TP. HCM, các tỉnh miền Tây và Bắc Trung Bộ. Kết quả sản xuất trong các năm gần đây như sau: Bảng 2.2: Kết quả sản xuất kinh doanh Năm Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Số lượng xe lắp ráp( xe) 510 755 1.168 Số xe bán ra ( xe) 513 765 1.189 Doanh thu bán xe ( triệu đồng) 256.500 516.375 818.032 Lợi nhuận bán xe ( triệu đồng) 51.300 53.375 57.072 Doanh thu xưởng dịch vụ ( triệu đồng) 46.636 68.850 141.040 Lao động( người) 192 197 208 Mức lương ( triệu đồng) 3,2 4,1 4,6 Nguồn: Phòng kinh doanh Giadico 2009 Qua bảng trên ta thấy về cơ bản lượng xe của công ty bán ra luôn sát với lượng xe lắp ráp. Mặc khác số lượng xe lắp ráp và tiêu thụ tăng qua các năm. Đồng thời doanh thu không ngừng tăng lên từ 256.500 (triệu đồng) năm 2007 lên 818.032 (triệu đồng) năm 2009, cụ thể: - Năm 2007 công ty bán ra được 513 xe đạt 100,59% với lượng xe lắp ráp - Năm 2008 công ty đã bán được 755 xe đạt 101,3% so với lượng xe lắp ráp được. - Năm 2009 công ty bán ra được 1.189 xe đạt 101,71% so với lượng xe lắp ráp được. 2.4 Thực trạng hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Giadico Trong nền kinh tế thị trường, với xu hướng tự do hoá thương mại, Nhà nước dần xoá bỏ hàng rào thuế quan trong hoạt động thương mại nhằm tạo ra bước ngoặc lớn trong công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước nói chung và của công ty Giadico nói riêng. Công ty phải tự chịu trách nhiệm về hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình, việc tiêu thụ được sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của công ty. Do đó, công tác tiêu thụ sản phẩm phải được quan tâm nghiên cứu và triển khai một cách đồng bộ tiêu thụ hết sản phẩm sản xuất ra và có lãi. Hiệnnay công ty tổ chức bán hàng thông qua 2 trung tâm Showroom là 171 Điện Biên Phủ, F15, Q. Bình Thạnh, và 161 Bùi Đình Túy, F24, Q. Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, và 6 đại lý tại các tỉnh miền Tây, miền Trung và miền Bắc là TP. Biên Hoà, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng, TP. Vinh, TP. Hải Phòng, Hà Nội ở các trung tâm có các Giám đốc trung tâm phụ trách, sẵn sàng ký kết các hợp đồng mua bán, cung cấp số lượng lớn, chất lượng xe đảm bảo, đồng thời công ty áp dụng nhiều chính sách thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Tình hình tiêu thụ xe theo khu vực thị trường. Bảng2.3: Tình hình tiêu thụ xe theo thị trường Năm Miền 2007 2008 2009 Sốlượng xe Tỷ trọng % Sốlượng xe Tỷ trọng % Sốlượng xe Tỷ trọng % Miền Bắc 172 33,5 225 28,4 291 24,5 Miền Nam 175 34 251 32,8 357 30 Miền Trung 166 32,4 2.989 37,7 541 45,5 Tổng 513 100 765 100 1.189 100 Nguồn: Phòng kinh doanh Giadico 2009 Như vậy tình tình tiêu thụ trên vùng thị trường mà Giadico đã chiếm lĩnh cho thấy từ năm 2007 đến năm 2009 số lượng xe bán ra của công ty tăng lên mặc dù tỷ trọng tiêu thụ của Miền Bắc và Miền Nam năm 2008 có giảm so với năm 2007 nhưng vùng thị trường Miền Trung lại tăng 32,4% năm 2007 lên 37% năm 2008 lượng xe tiêu thụ tại thị trường Miền Trung tăng lên, đây là dấu hiệu đáng mừng khẳng định hướng phát triển của thị trường tiêu thụ của công ty là phát triển thị trường mới vào các vùng Miền Trung, vùng phía Nam là đúng đắn mặc dù công ty đã cố gắng đầu tư để mở rộng thị trường tiêu thụ, tốc độ tiêu thụ mấy năm gần đây tăng nhanh xong vấn đề chiễm lĩnh thị trường dành thị phần rất khó khăn đặc biệt ở ngoài Giadico còn có nhiều công ty lắp ráp được cấp giấy phép tung ra sản phẩm của mình ra thị trường. Bên cạnh đó công ty còn phải đối mặt với một lượng lớn xe ô tô nhập khẩu từ các hãng nổi tiếng trên thế giới, các xe cũ đã qua sử dụng. Đây thật sự là vấn đề khó khăn của công ty cũng như nghành công nghiệp ô tô Việt Nam. Song số lượng tiệu thụ sản phẩm của công ty vẩn tăng là vì : Sản phẩm của công ty được thị trường chấp nhận, chiếm được lòng tin của khách hàng về chất lượng giá cả, và chủng loại, mẩu mã, kiểu dáng, nhãn mác. Xe có khả năng cạnh tranh với ô tô nhập khẩu đáp ứng kịp thời yêu cầu khách hàng trong nước. Nhu cầu về ô tô đối với thị trường trong nước tăng mạnh do: Luật doanh nghiệp ra đời đã mở cửa thị trường ô tô Việt Nam. Những quy định mới đã thúc đẩy doanh nghiệp ra đời kéo theo nhu cầu mua sắm ô tô tăng. Bộ giao thông vận tải ban hành QĐ 980 quy định chất lượng xe chở khách liên tỉnh, nếu không đủ tiêu chuẩn kỷ thuật quy định, các phương tiện buộc phải thay thế mới được phép lưu hành. Tình hình tiêu thụ xe qua các kênh Hoạt động tiêu thụ xe của công ty Giadico được thực hiện thông qua 2 kênh là kênh trực tiếp bán hàng cá nhân. Bảng 2.4: Tình hình tiêu thụ xe qua các kênh Kênh 2007 2008 2009 Số lượng xe Tỷ trọng % Số lượng xe Tỷ trọng % Số lượng xe Tỷ trọng % Trực tiếp 497 96,88 744 97,25 1162 97,72 Quan hệ giới thiệu 16 3,12 21 2,75 27 2,28 Tổng 513 100 765 100 1189 100 Nguồn: Phòng kinh doanh Giadico 2009 Qua sản lượng ở trên ta thấy, nhìn chung sản lượng xe tiêu thụ ở 2 kênh trực tiếp và cá nhân có xu hướng tăng lên qua từng năm 2007 đến 2009 Mặc dù lượng tiêu thụ theo kênh quan hệ thân quen là đối tượng it chiếm tỷ trọng nhỏ so với so với kênh trực tiếp nhưng lượng xe thị trường tiêu thị theo kênh này cũng đã tăng lên đáng kể theo các năm đạt 744 xe năm 2008 và 1162 xe năm 2009 so với 16 xe năm 2007 Điều quan trọng là hiện tại tiêu thụ xe của công ty đã có bước phát triển thể hiện bằng số lượng xe tiêu thụ qua các kênh trực tiếp của cty đã tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng lượng xe tiêu thụ qua các năm cụ thể: Năm 2007 tiêu thụ 497 xe chiếm 96,88 %, năm 2008 tiêu thụ được 744 xe chiếm 97,25 %, năm 2009 tiêu thụ được 1.162 chiếm 97,72%. Các biện pháp mà công ty đã áp dụng để duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ Công tác điều tra nghiên cứu và dự báo thị trường Hiện nay, công ty chưa có phòng Marketing, công việc nghiên cứu thị trường do phòng kinh doanh đảm nhiệm mà trực tiếp làm việc là các nhân viên bán hàng, phụ trách Marketing và cố vấn dịch vụ. Công ty giao nhiệm vụ cho mỗi nhân viên quản lý một khu vực thị trường và chịu trách nhiệm về khu vực mà mình phụ trách. Các nhân viên này có nhiệm vụ theo dõi khu vực thị trường, trên cơ sở đó xem xét, quan sát và nghiên cứu xu hướng biến động của thị trường về nhu cầu sử dụng xe ô tô nói chung, đặc biệt chú trọng đến nhu cầu sử dụng xe của công ty và của các đối thủ cạnh tranh của công ty. Các nhân viên quản lý từng khu vực xác định nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng về các loại xe mà do các công ty khác cung cấp. Từ đó khoanh vùng thị trường ô tô của công ty trên khu vực của mình phụ trách. Nghiên cứu và phân loại đối thủ cạnh tranh, thường xuyên nắm bắt được những mặt mạnh, mặt yếu của đối thủ cạnh tranh để có đối sách thích hợp nhằm mở rộng thị trường trên khu vực mình phụ trách. Đề xuất ý kiến cho lãnh đạo giải quyết, nhằm lập kế hoạch và xây dựng những chính sách tiêu thụ linh hoạt, nhạy bén. Thu thập thông tin thị trường được thực hiện theo hai cách: Nghiên cứu tại các văn phòng: Cán bộ nhân viên phòng kinh doanh thu thập thông tin về nhu cầu của nghành ô tô thông qua các tài liệu, sách báo, sự gia nhập mới và số lượng các đối thủ cạnh tranh chủ yếu, những thay đổi chính sách của nhà nước có liên quan đến nghành sản xuất ô tô Việt Nam... Ngoài ra, công ty còn phân tích, nghiên cứu thị trường thông qua số liệu kế toán tài chính, thống kê tiêu thụ các năm trước. Song nguồn tài liệu này còn hạn chế rất lớn về tính toàn diện, về độ chính xác của thông tin thu thập được. Nghiên cứu thực tế: Công ty thường xuyên cử cán bộ đi khảo sát thực tế để nắm bắt khả năng tiêu thụ xe của công ty và thu thập các thông tin phản hồi từ khách hàng sử dụng các loại xe do công ty cung cấp. Tuy nhiên công tác nghiên cứu thị trường của công ty là chưa tốt. Do chưa có phòng Marketing chuyên trách để đảm nhiệm việc nghiên cứu, phân tích thị trường, nên chưa dự báo chính xác nhịp độ tăng trưởng của thị trường. Theo số liệu tổng kết cuối năm 2009 của công ty cho thấy: Dự kiến của công ty về thị trường xe khách và du lịch tại thị trường Việt Nam. Năm 2009 đạt khoảng10.600 xe so với năm 2008 là 8.650 xe. Chỉ tiêu bán xe năm 2010 của Công ty là 1.320 xe tăng 111,02% so với năm 2009 và chỉ tiêu về dịch vụ của công ty năm 2010 là 6.170 xe, tăng 6,7 % so với năm 2009 (đạt 5.780 xe). Từ kết quả nghiên cứu phân tích thị trường ban lãnh đạo của công ty dự báo số lượng xe của công ty tiêu thụ năm 2010 sẽ đạt 1.320 xe tăng 111,02% so với năm 2009 (131 xe). Bảng 2.5: Dự báo lượng xe tiêu thụ của công ty trong năm 2010 Loại xe Kết quả năm 2009 2010 Số lượng xe +/-% Xe 26-32 chổ 786 879 111,8% Xe 32-45 chổ 250 269 107,6% Xe tải 153 172 112,4% Tổng 136 152 111,76% Nguồn: Phòng kinh doanh Giadico năm 2009 Về hoạt động của trạm dịch vụ: Dự báo tổng lượng xe vào trạm dịch vụ năm 2010 sẽ đạt 6.170 xe, tăng 6,7% so với năm 2009 (5.780 xe). Từ đó kéo theo doanh thu dịch vụ tăng từ 6,58 tỷ đồng năm 2009 lên 8,55 tỷ đồng năm 2010. Chính sách giá của Công ty Với chức năng là công ty con của Tổng Công ty Công Nghiệp Ô Tô Việt Nam và là công ty sản xuất, công ty Giadico không thể sử dụng một chính sách giá linh hoạt, nhạy bén trong công tác tiêu thụ. Đối với khu vực thị trường tiềm năng, khách hàng thường xuyên hay tiềm năng, công ty áp dụng chính sách giá đối với các loại xe của công ty đúng như yêu cầu của Tổng Công ty Công Nghiệp ô tô Việt Nam đưa ra, cụ thể như sau: Bảng 2.6: Bảng giá các loại xe năm 2009 Loại xe Giá (Triệu đồng) Xe 26-32 chổ 450 Xe 32-45 chổ 520 Xe tải 430 Nguồn: Phòng kinh doanh Giadico năm 2009 Do Công ty tuân thủ chính sách giá của Tổng Công ty Công Ngiệp Ô Tô Việt Nam một cách cứng nhắc trong khi các công ty khác không thực hiện chính sách này nên công ty đã để mất nhiều khách hàng mặc dù về phong cách và chất lượng phục vụ có thể hơn hẳn các công ty khác. Điều đó dẫn đến số lượng xe bán ra cũng như doanh số dịch vụ so với các công ty khác còn thấp. Mặt khác do quan điểm của công ty là tập trung và khuyến khích bán lẻ nên công ty chưa xây dựng cho mình một chính sách giá linh hoạt cho khách hàng mua với số lượng lớn và khách hàng mua nhiều lần. Mặc dù công ty đã có quan tâm ưu tiên đối với khách hàng mua với số lượng lớn, nhưng lại chưa quan tâm, chú trọng đến việc khai thác đối tượng khách hàng này. Chính vì vậy, một số khách hàng đã chuyển sang mua xe của các công ty khác như: Công ty cơ khí 1-5, công ty ô tô Hoà Bình, công ty ô tô Hoàng Trà… và các hãng xe nước ngoài khác. Kênh phân phối sản phẩm của công ty Hoạch định chương trình bán: Để hoạt động tiêu thụ đạt kết quả cao. Công ty Giadico đã hoạch định cho mình một chương trình bán hàng với các nội dung chủ yếu sau: - Mục tiêu và nhiệm vụ được xác định là: Giữ vững và phát triển thị trường tiêu thụ truyền thống (Miền Nam, UBNN, các Sở, các Tỉnh... ). Tăng số lượng xe tiêu thụ trên thị trường Miền Trung và Miền Bắc. - Điều kiện liên quan đến việc bán hàng: Công ty khuyến khích khách hàng đến với đại lý của công ty nhằm nhận được sự giới thiệu, cố vấn và lái thử các loại xe của công ty. Ngoài ra, công ty còn có nhiều hình thức khuyến khích, ưu đãi đối với khách hàng thường xuyên sử dụng xe của công ty. - Lượng xe dự trữ cho bán hàng: Do nhu cầu thị trường về xe ô tô khách luôn biến động vào các thời điểm trong năm nên công ty phải tiến hành dự trữ để có thể đáp ứng nhu cầu tăng đột biến của thị trường. Hiện nay công ty đang sử dụng hai kênh phân phối sau: Bán hàng trực tiếp tại Showroom và thông qua các đại lý. Công ty Giadico Khách hàng tiêu dùng cuối cùng Đại lý Showroom - Tổ chức bán hàng tại Showroom: Khi khách hàng đến thì đầu tiên sẽ được nhân viên bán hàng giới thiệu chi tiết về loại xe mà khách hàng quan tâm. Ngoài ra, nhân viên còn giới thiệu cho khách hàng về các loại dịch vụ và ưu đãi mà khách hàng nhận được khi sử dụng xe của công ty. Tìm hiểu nhu cầu về xe của các doanh nghiệp, các công ty khác bằng cách gọi điện và bằng các mối quan hệ của mọi người trong công ty. Nếu có thông tin về nhu cầu xe từ khách hàng, công ty sẽ cử người đi công tác, làm nhiệm vụ. Với đội ngũ nhân viên bán hàng trẻ, có kinh nghiệm, có khả năng giao tiếp, trung thành là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy hoạt động tiêu thụ xe của công tỵ. - Bán hàng qua đại lý: Tiêu thụ thông qua các đại lý. Ngoài việc bán trực tiếp xe tại Showroom công ty còn thiết lập hệ thống đại lý tại TP. Biên Hoà, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng, TP. Vinh, TP. Hải Phòng, Hà Nội, nhờ các đại lý mà thị trường của công ty ngày càng mở rộng. Hoạt động quảng cáo và giới thiệu sản phẩm Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra trong chiến lược phát triển thị trường. Công ty đã áp dụng các hình thức quảng cáo như: Quảng cáo biển của công ty (catalogue), qua tham gia các hội chợ, triễn lãm do công ty tổ chức, qua đó giới thiệu sản phẩm của công ty với khách hàng. Quảng cáo là một trong những hoạt động khá tốn kém nên công ty vẫn còn hạn chế trong việc đầu tư và hiệu quả chưa cao. Chính sách khuyến mãi Công ty có chính sách khuyễn mãi trên mỗi đầu xe theo giá trị mỗi loại xe như bộ rèm xe, thêm một lốp xe hoặc tỷ lệ chiết khấu cho các đại lý tiêu thụ (thường được chiết khấu từ 4-6%) theo giá trị xe bán được, nếu đại lý nào bán được nhiều thanh toán nhanh đặc biệt với các thị trường mới thì được hưởng chiết khấu cao. Các hoạt động yểm trợ Có thể nói rằng đây là một trong các hoạt động xúc tiến hỗn hợp mà các công ty rất chú trọng nhằm gắn bó tạo mối quan hệ tốt với người mua. Công ty thường sử dụng các hình thức yểm trợ giá bán hàng: Tổ chức hội nghị khách hàng đặt biệt là những vùng tiêu thụ trọng điểm như Tp. HCM, Cần Thơ, Đà Nẵng, Vinh, Hải Phòng, Hà Nội. Phương thức thanh toán Khách hàng mua sản phẩm của công ty được thanh toán ngay có thể bằng tiền mặt, séc, ngân phiếu hoặc chuyển khoản. Dịch vụ sau bán hàng của công ty Dịch vụ sau bán và sửa chữa, là một phần trong chuỗi phân phối sản phẩm và dịch vụ công ty. Dịch vụ sau bán của công ty bao gồm các hoạt động bảo hành, bảo dưỡng định kỳ, cung cấp phụ tùng thay thế, các dịch vụ chăm sóc khách hàng khác như giúp khách hàng đăng ký biển số, kiểm định xe ... Đối với công ty, xưởng dịch vụ tuy không trực tiếp đóng vai trò quyết định về doanh thu và lợi nhuận đối với công ty nhưng nó là cơ sở để công ty thực hiện chức năng phân phối sản phẩm, cạnh tranh với các công ty khác trong việc phân phối sản phẩm và dịch vụ. Hoạt động của xưởng dịch vụ hàng năm cũng trực tiếp góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận của công ty. Đối với người tiêu dùng, xưởng dịch vụ của công ty và năng lực của nó là cơ sở để họ có thể tin tưởng và đi đến quyết định chọn sản phẩm của công ty. Người tiêu dùng có tâm lý thích sử dụng những dịnh vụ sửa chữa của chính hãng, hơn thế nữa là chính của công ty họ mua sản phẩm, ở đó họ đã có quan hệ tốt, có thể nhận được những ưu đãi về giá cả và chất lượng thì đảm bảo. Đó là một lý do quan trọng khiến khách hàng ở xa ít tiêu thụ xe của công ty hơn, đặc biệt là miền Trung và miền Bắc. Theo quy định của công ty, sau khi bán xe, đại lý phải đến kỳ làm các dịch vụ chăm sóc, kiểm tra xe cho khách hàng. Ngoài ra, đối với các chiến dịch cuối năm công ty có những ưu đãi với khách hàng về sửa chữa bảo dưỡng xe, cũng như những hoạt động khác. Một trong các hoạt động đó là gửi thư chúc mừng nhân dịp năm mới và thành lập câu lạc bộ những người mua xe của hãng để hưởng một số ưu đãi. Công ty quy định nhân viên bán hàng sau khi bán xe phải lập thể khách hàng và thường xuyên, liên tục liên hệ với khách hàng để hỏi thăm tình hình sử dụng cũng như nắm lại các ý kiến phản hồi của khách hàng, mời khách hàng đến kiểm tra xe theo quy định của công ty, lịch trình liên lạc tối thiểu được quy định: Lần 1: chậm nhất 10 ngày sau khi giao xe. Lần 2: chậm nhất 1 tháng sau khi giao xe. Lần 3 trở đi : ít nhất hai quý 1 lần. Về dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng xe nằm ngoài dịch vụ bán hàng kèm theo, công ty thực hiện đối với tất cả những xe không phải do công ty cung cấp. Dịch vụ này kết hợp với bán phụ tùng thay thế, trực tiếp mang lại doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Đối với dịch vụ này công ty chịu sự cạnh tranh nhiều của nhiều xưởng lớn trên địa bàn. Quy trình của xe để bảo hành, bảo dưỡng và sửa chữa của công ty. Cố vấn kỹ thuật cho khách hàng Quyết định dịch vụ được làm Thực hiện các dịch vụ sửa chữa Bộ phận: Cố vấn kỹ thuật Giám đốc dịch vụ Xưởng dịch vụ Bộ phận dịch vụ gồm 35 người, trong đó : Bảng 2.7: Bảng nhân sự Giadico Chức vụ Số lượng Trình độ Giám đốc dịch vụ 1 Thạc sỹ Cố vấn kỹ thuật 8 Kỹ sư Kỹ thuật viên (KTV) 26 10kỹ sư +8 KTV cao cấp + 8 khác Nguồn: Bộ phận hành chánh Giadico 2009 Bộ phận dịch vụ của công ty trải qua nhiều năm hoạt động đã có những trưởng thành đáng kể, chất lượng phục vụ khách hàng tăng, kinh nghiệm được nâng cao đáng kể. Tay nghề công nhân cao rõ rệt. Năm 2008 , đạt giải nhì cuộc thi tay nghề KTV giỏi do Tổng công ty tổ chức. Năm 2009, giải nhì chiến dịch cuối năm... hoạt động dịch vụ không ngừng tăng trưởng về doanh số: Bảng 2.8: Bảng kết quả thực hiện tình hình dịch vụ xưởng Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Kế hoạch Thựchiện %Thực hiện 08/07 Kế hoạch Thực hiện %Thực hiện 09/08 Lượt xe vào xưởng 1.175 4.320 4.500 104,2 3,98 5.549 5.780 104,16 1,28 Doanh thu (Tr.đ) 2.657 3.600 3.613 100,36 1,35 5.800 6.580 113,44 1,82 Nguồn: Phòng kinh doanh Giadico 2009 Trên đây là những thành tích đáng khích lệ mà bộ phận dịch vụ của công ty đã đạt được, doanh thu của xưởng dịch vụ đều tăng qua các năm, đây là điều đáng mừng cho toàn thể công ty Giadico, vì xưởng dịch vụ làm tốt công tác sữa chữa dẫn đến lượng khách hàng biết đến công ty nhiều hơn, doanh thu bán hàng cũng nhiều hơn tuy nhiên tỷ lệ tăng số lượt xe vào xưởng giữa năm 2009 chậm hơn so với năm 2008 mặc dù số lượt xe vào xưởng có tăng, Cụ thể: Tỷ lệ tăng số lượt xe của năm 2008 so năm 2007 là 3,98 và năm 2009 so năm 2008 tỷ trọng là 1,28. Điều này cho thấy chất lượng của bộ phận này còn hạn chế. - Chăm sóc khách hàng đã được cải thiện qua các năm nhưng còn ở mức độ chưa cao, yếu kém này do một số nguyên nhân sau: + Quan hệ giữa bộ phận dịch vụ với bộ phận khách hàng trong việc chăm sóc khách hàng sau khi bán chưa phối hợp nhịp nhàng, bộ phận dịch vụ chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của bộ phận bán hàng, dẫn tới thời gian cũng như cung cách phục vụ chưa đảm bảo. + Trình độ tay nghề của cố vấn dịch vụ cũng như các kỹ thuật viên nhìn chung còn hạn chế. Cố vấn dịch vụ, nơi tìm ra các vấn đề hư hỏng của xe để đề ra biện pháp giải quyết còn có hiện tượng chuẩn đoán nhầm. Điều đó một mặt gây ra sự lãng phí về thời gian, nguyên liệu phụ tùng của công ty, mặt khác làm tăng thời gian chờ đợi của khách hàng, gây ra sự khó chịu cũng như mất tín nhiệm, thiệt hại đến uy tín của công ty. Tay nghề kỹ thuật viên mặc dù có một số cá nhân có trình độ cao song nhìn chung thì còn ở mức thấp, thời gian thao tác thủ công đối với công việc sửa chữa còn dài, năng suất lao động chưa cao và chất lượng gò sơn còn hạn chế. - Phụ tùng thay thế nhiều khi bị thiếu, làm chậm tiến độ sửa chữa, hiệu quả hoạt động bị giảm sút. Để đảm bảo thực hiện thành công kế hoạch trong năm 2010 cho xưởng dịch vụ cũng như hỗ trợ đắc lực cho công tác tiêu thụ, xưởng dịch vụ cần có nhiều cải tiến, nâng cao chất lượng phục vụ của mình. Đánh giá chung về tình hình duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty Thông qua các số liệu thực tế và hoạt động mở rộng thị trường của Giadico chúng ta có thể rút ra một số ưu, nhược điểm sau đây: Những thành tựu Nhìn chung, trong thời gian 3 năm 2007-2009 công ty đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về hoạt động kinh doanh xe ô tô. Điều đó thể hiện ở những nét khái quát như sau: Thị trường tiêu thụ xe của Giadico ngày càng được mở rộng không chỉ theo chiều rộng mà cả chiều sâu. Số lượng xe tiêu thụ của công ty từ 765 xe năm 2008 tăng lên 1.189 xe năm 2009. Công ty thiết lập được hệ thống kênh phân phối rộng khắp và hợp lý. Với 2 trung tâm trưng bày tại thành phố Hồ Chí Minh và 6 đại lý đặt trên các tỉnh thành của ba miền đất nước là TP. Biên Hoà, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng, TP. Vinh, TP. Hải Phòng, Hà Nội tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tiêu thụ, tạo được mối liên hệ gần gũi giữa trụ sở sản xuất với các cửa hàng đại lý, có chính sách hợp lý để thống nhất công tác tiêu thụ, không có sự tranh giành nhau về sản phẩm hay thị trường giữa các đại lý. Hàng năm công ty đảm bảo cung cấp đủ lượng xe ô tô cho nhu cầu thị trường trên toàn quốc. Thị phần của công ty ở thị trường trong nước là 20%, sản phẩm của Giadico đa dạng về chủng loại, phong phú về nhãn mác xe từ xe 16 chỗ, 29 chỗ, xe 51 chỗ cho đến xe buýt 29 đến 51 chỗ, xe tải 2,5 tấn cabin đơn và kép. Ngay trong từng loại xe cũng bao gồm nhiều cấp độ yêu cầu kỹ thuật khác nhau tuỳ thuộc vào mức giá cả mà khách hàng có khả năng thanh toán được. Trong chiến lược công ty có khả năng để tính tới việc nhập khẩu công nghệ để sản xuất, lắp ráp các xe chuyên dùng. Đây là đoạn thị trường đầy tiềm năng hầu như chưa có công ty nào có nên 100% xe này nhập khẩu nguyên chiếc hoặc các chi tiết quan trọng. Hiện nay và trong những năm tiếp theo, Giadico hướng tới sự hợp tác chặt chẽ với bên công ty mẹ về mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước láng giềng. Doanh thu tiêu thụ của công ty không ngừng tăng lên qua các năm. Điều này chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng phát triển, lượng xe tiêu thụ ngày một nhiều, hoạt động của xưởng dịch vụ luôn ổn định và phát triển. Lợi nhuận tiêu thụ tăng từ 51.300 (triệu đồng) năm 2007 lên 53.375 (triệu đồng) năm 2008 và đạt 57.072 (triệu đồng) năm 2009. Các hoạt động của công ty trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm cũng đạt được những hiệu quả nhất định, góp phần đẩy nhanh tốc tiêu thụ xe của công ty. Bên cạnh những thành tựu đạt được đáng kể về hoạt động kinh doanh, công ty đã phần nào giải quyết công ăn việc làm cho người lao động qua từng năm, mức thu nhập của cán bộ công nhân viên công ty không ngừng được nâng cao, cụ thể: Năm 2007: thu nhập bình quân đầu người đạt 3,2 triệu đồng. Năm 2008: thu nhập bình quân đầu người 4,1 triệu đồng Năm 2009: thu nhập bình quân đầu người 4,6 triệu đồng. Hàng năm công ty đảm nhận cung cấp lượng xe cho nhu cầu thị trường trong nước. Xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý tài năng giàu kinh nghiệm cùng với đội ngũ công nhân lao động có tay nghề cao, luôn lấy con người là yếu tố trung tâm, là tiền đề sáng tạo của công ty vượt qua khó khăn, mở rộng quy mô phát triển kinh doanh góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên Giadico vẫn còn nhiều nhược điểm cần phải khắc phục. Nhược điểm Chưa dự báo chính xác nhịp độ tăng trưởng thị trường xe ôtô trong nước về nhu cầu sử dụng xe ô tô nói chung, xe của công ty nói riêng. Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ xe của công ty chưa đạt hiệu quả cao. Năm 2007, lượng xe tiêu thụ đạt 765 xe, so với kế hoạch đề ra là 869 xe vì thế kết quả tiêu thụ chỉ đạt 59%. Năm 2008 công ty bán được 765 xe đạt 96,06% so với kế hoạch là 796 xe. Năm 2003 lượng xe tiêu thụ của công ty vượt mức kế hoạch, bán được 1.189 xe so với kế hoạch 999 xe. Chính sách giá cả và chính sách phân phối sản phẩm của công ty còn cứng nhắc, do tuân thủ theo chính sách giá của Tổng Công ty Công Nghiệp Ô Tô Việt Nam. Đó là một lý do làm cho hoạt động tiêu thụ chưa đạt hiệu quả cao. Mặt khác, tiến trình nội địa hoá của công ty diễn ra còn chậm. Về mạng lưới phân phối sản phẩm thực tế đang điễn ra ở công ty hoạt động còn yếu, hệ thống đại lý chưa được nhiều, chỉ có 6 đại lý ở các tỉnh thành, như vậy là rất ít. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty hiện nay chủ yếu là thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu vẫn được coi là thị trường tiềm năng. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan Sự cạnh tranh gay gắt thị trường giữa các công ty sản xuất ô tô trong nước và còn có sự góp mặt của các hãng ô tô nước ngoài. Năng lực sản xuất của công ty vẫn còn hạn chế. Điều kiện kinh tế thế giới và Việt Nam, cơ sở hạ tầng Việt Nam cản trở thị trường ô tô phát triển. Việc chính phủ cho nhập xe nguyên chiếc sẽ ảnh hưởng đến hoạt động bán xe và lắp ráp tại Việt Nam. Công ty không chủ động được việc định giá thành phẩm xe, phụ thuộc vào chính sách giá của Tổng Công Ty Công Nghiệp Ô Tô VN, điều đó dẫn đến số lượng xe bán ra cũng như doanh số dịch vụ so với các công ty khác vẫn còn thấp. Giá cả các yếu tố đầu vào đặc biệt là giá nhập khẩu các linh kiện từ phía đối tác (công ty mẹ, các đối tác nước ngoài) còn chưa thoả đáng. Hầu hết các linh kiện nhập khẩu từ phía đối tác nước ngoài có giá cả mang nặng tính độc quyền. Điều này cho thấy giá linh kiện nhập đồng bộ về chưa hợp lý, cần phải xem xét điều chỉnh mới tránh thiệt thòi Giadico cũng như khách hàng mua xe của Giadico, trực tiếp cản trở việc mở rộng thị trường. Một số đại lý hoạt động yếu, ít vốn đầu tư cho giới thiệu quảng cáo, khả năng phục vụ, chế độ bảo hành, khả năng bảo dưỡng còn sơ sài, không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, bán sản phẩm đại lý chưa đạt yêu cầu. Nguyên nhân chủ quan Công tác nghiên cứu thị trường chưa sâu: Chưa có biện pháp cụ thể cho việc lấy thông tin chính xác từ các đối thủ cạnh tranh, bị động trước sự biến động của thị trường. Công tác cán bộ còn lúng túng, sự chênh lệch về trình độ chuyên môn của các nhân viên bán hàng và giữa các kỹ thuật viên còn rất lớn. Một số nhân viên bán hàng còn thiếu kinh nghiệm khi tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu mua xe. Ngoài ra công tác đào tạo công ty chưa được quan tâm thỏa đáng. Trình độ kiến thức của của đội ngũ nhân viên làm công tác thị trường còn thấp, chưa nắm bắt được nhu cầu biến động của thị trường. Công ty chưa đầu tư thỏa đáng tới các hoạt động hổ trợ tiêu thụ như quảng cáo, khuyến mãi… Đây là một trong những lý do ảnh hưởng tới tốc độ bán xe của công ty. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA GIADICO Hình thành phòng Marketing chuyên trách nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu và dự báo thị trường Phòng Marketing là nơi thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu những nhu cầu và mong muốn của khách hàng trên những khu thị trường đã được xác định rõ ràng là nơi doanh nghiệp thấy được khách hàng cần gì? số lượng bao nhiêu? và chất lượng thế nào? Hiện nay, công ty Giadico chưa có phòng Marketing chuyên trách, hoạt động Marketing được giao cho phòng kinh doanh thực hiện. Nhiệm vụ chính của phòng kinh doanh là đảm bảo và phát triển doanh số bán hàng của công ty, triển khai các dự án lớn như đấu thầu, phụ trách liên hệ với các nhà cung cấp vật tư phụ tùng,… đảm bảo cho công việc kinh doanh được suôn sẻ. Vì vậy, số lượng công việc của phòng kinh doanh rất nhiều, những lúc rảnh rỗi các nhân viên chỉ đăng sản phẩm của công ty lên mạng rao vặt, hay khi ban lãnh đạo công ty điều đi khảo sát thị trường, tham gia hội chợ, hội nghị khách hàng. Tuy kết quả hoạt động tiêu thụ của công ty qua các năm có tốt hơn năm trước, đó là do nhu cầu của khách hàng tăng đột biến trong những năm gần đây, và do đấu thầu thành công một số dự án lớn, song tình hình thực hiện kế hoạch bán xe của công ty không đạt yêu cầu. Cụ thể: Năm 2007 kế hoạch bán xe là 869 chiếc nhưng khi thực hiện chỉ bán được 513 chiếc chỉ đạt được 59%, sang năm 2008 kế hoạch bán xe là 796 chiếc nhưng thực hiện chỉ bán được 765 chiếc đạt 96,06%. Tỷ lệ hoàn thành thực hiện kế hoạch của năm 2008 tuy có khá hơn năm 2007 nhưng vẫn cho thấy công tác dự báo nhu cầu của phòng kinh doanh còn non kém. Công tác dự báo vẫn còn mang tính chất định tính, chưa có công cụ định lượng một cách chính xác và khoa học, do đó vẩn chưa lượng hoá đuợc sự ảnh hưởng của các nhân tố nên chưa đánh giá được chính xác về thị trường tiêu thụ. Nguyên nhân là do công ty thiếu thông tin về thị trường tiêu thụ, mà sâu xa của nó là công ty chưa có phòng Marketing độc lập để nghiên cứu hoạt động này. Theo em, để nâng cao chất lượng nghiên cứu và dự báo thị trường nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ, công ty nên tách phòng Kinh doanh thành hai phòng: Phòng Bán hàng và Phòng Marketing. Phòng Marketing nên lấy luôn các nhân viên thuộc bộ phận nghiên cứu thị trường của Phòng Kinh doanh cũ và tuyển thêm nhân viên marketing mới.. Có thể cụ thể hoá ý tưởng thành lập phòng Maketing ở công ty Giadico bằng sơ đồ sau đây: Sơ đờ 3.1: Phòng Maketing chuyên trách của Công ty Giadico Phòng hành chính Phòng kỹ thuật Phòng kiểm tra chất lượng Phó GĐ Kiểm tra chất lượng Ban bảo vệ Phòng Kinh doanh Phòng Marketing Phòng Marketing chia làm 3 nhóm: - Nhóm 1: Chịu trách nhiệm nghiên cứu Marketing. - Nhóm 2: Chịu trách nhiệm về lĩnh vực quảng cáo - Nhóm 3: Chịu trách nhiệm về các hoạt động kích thích tiêu thụ Đối với nhóm 1: Nên gồm 4 người có khả năng, kinh nghiệm trong việc điều tra, phân tích thị trường, chia ra nghiên cứu các thị trường chủ yếu của công ty như; Thị trường miền Bắc và thị trường miền Trung (tập trung vào thị trường Hà Nội, Vinh, Đà Nẵng). Đối với thị trường miền Bắc cần 3 người làm công tác nghiên cứu, phân tích và dự báo, thị trường miền Trung sẽ do nhân viên còn lại đảm nhận. Nhóm này, công ty nên tận dụng nhân viên phòng kinh doanh cũ, vì trước đây họ đã có kinh nghiệm làm công tác này. Đồng thời, công ty nên tổ chức một lớp học ngắn ngày trong thời gian 3 tháng để bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ của các nhân viên này trong việc thực hiện công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu xe ô tô do công ty lắp ráp, và đây là bộ phận đầu tiên cung cấp các thông tin cho tất cả các phòng ban khác hoạt động. Công ty nên tạo điều kiện cho nhóm 1 có thêm nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng để thu nhận được các thông tin phản hồi từ phía khách hàng và nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể: - Tổ chức các buổi hội nghị gặp mặt khách hàng, khoảng 2 lần trong 1 năm, vào cuối quý II và quý IV. Sau các đợt khuyến mại mùa Hè, khuyến mại mùa xuân của công ty để lắng nghe ý kiến của khách hàng. - Gửi phiếu điều tra đến các khách hàng đã sử dụng xe của công ty để thu thập thông tin phản hồi của họ về chất lượng xe, chất lượng dịch vụ mà công ty cung cấp. - Đặt các hòm thư góp ý tại Showroom và tổ chức đường dây điện thoại nóng để lắng nghe các ý kiến của khách hàng. Nhóm 2: Chịu trách nhiệm về thiết kế các chương trình quảng cáo trên Truyền hình, trên Báo chí, trên mạng Internet, biển quảng cáo...Nhóm này phải làm nên các chương trình hấp dẫn, thu hút và thống nhất ý kiến với ban lãnh đạo công ty, đồng thời cần phải lo công tác thuê phương tiện thông tin để quảng cáo. Nhóm này gồm những người cần phải có kinh nghiệm, khả năng về mỹ thuật, tâm lý (nắm bắt nhanh tâm lý khách hàng) và có tư duy kinh tế (kiến thức Marketing vững). Nhóm 3: Phụ trách về hoạt động hổ trợ tiêu thụ như: Nghiên cứu nhu cầu khách hàng về chất lượng các dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng, sửa chữa kỹ thuật và cung cấp phụ tùng thay thế... để đề xuất với ban lãnh đạo công ty có những biện pháp nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán, thu hút thêm khách hàng đến với trạm dịch vụ công ty. Từ đó, công ty Giadico có điều kiện thúc đẩy hoạt động bán xe trên thị trường. Để thực hiện được giải pháp này, đòi hỏi công ty phải đáp ứng được các điều kiện sau: - Đổi mới nhận thức của các cấp quản trị và nhân viên về tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường cũng như việc thành lập phòng Marketing chuyên trách. - Cần có lượng vốn đủ lớn để chi cho các hoạt động của phòng Marketing vì phòng Marketing là phòng cần nhiều chi phí nhất trong việc thực hiện các chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm mở rộng thị trường. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên bán hàng và nhân viên kỹ thuật trong công ty Công ty Giadico có đội ngũ nhân viên bán hàng và kỹ thuật viên chiếm tỷ trọng khá lớn trong toàn bộ đội ngũ lao động của công ty. Đây là lực lượng lao động đóng vai trò quan trọng trong công tác tiêu thụ của công ty. Cùng với quá trình phát triển của công ty, đội ngũ lao động của công ty ngày càng có sự lớn mạnh cả chất lượng và số lượng. Tuy nhiên, trình độ làm việc thực tế của cả nhân viên bán hàng và kỹ thuật viên sửa chữa dịch vụ của công ty Giadico còn chênh lệch khá lớn. Một số nhân viên bán hàng có tác phong, ý thức chấp hành kỷ luật chưa tốt, kỹ năng bán hàng thiếu tính chuyên nghiệp (còn có những nhân viên chỉ bán được 1 xe/tháng). Ở xưởng dịch vụ, kỹ thuật viên giỏi chưa đủ nhiều để đáp ứng nhu cầu sửa chữa, bảo hành, bảo dưỡng xe của khách hàng. Đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tiêu thụ xe của công ty Giadico. Do vậy, để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ xe ô tô của công ty, theo em nên chú trọng công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực gồm cả nhân viên bán hàng và công nhân kỹ thuật. Ngoài ra, công ty Giadico nên khuyến khích các nhân viên bán hàng giỏi kèm cặp, hướng dẫn những nhân viên còn non nớt về kinh nghiệm bán hàng thực tế, những nhân viên mới tuyển dụng. Đối với đội ngũ nhân viên lao động kỹ thuật, theo em nên áp dụng hình thức đào tạo trong công việc. Bởi vì công việc của họ là những thao tác kỹ thuật, kỹ năng thực hành, khó mô tả. Đây là hình thức đào tạo mà công ty nên sử dụng các chuyên gia thợ kỹ thuật có tay nghề cao kèm cặp, hướng dẫn những nhân viên kỹ thuật còn lại có tay nghề yếu hơn. Để sử dụng giải pháp này một cách có hiệu quả công ty cần có một chế độ lương thưởng thích đáng nhằm kích thích đội ngũ lao dộng tự học hỏi lẫn nhau, sự trau dồi kỹ năng, kinh nghiệm trong quá trình làm việc của mình. Ngoài ra, công ty nên có chế độ thưởng phạt thích đáng đối với cả đội ngũ nhân viên bán hàng và lao động kỹ thuật nhằm nâng cao ý thức lao động cho họ. Cụ thể: Giao kế hoạch bán hàng cho nhân viên bán hàng theo từng tháng phụ thộc vào khả năng kinh nghiệm của từng người. - Nhân viên bán hàng xuất sắc: 10xe/tháng - Nhân viên bán hàng khá: 5 xe/tháng - Nhân viên bán hàng trung bình: 2-3xe/tháng Sử dụng chế độ tiền thưởng phạt để kích thích họ, ví dụ: Bán được 2-3 xe thưởng 0,1% trên doanh thu, 5 xe thưởng 1% trên doanh thu. Nếu nhân viên nào không hoàn thành kế hoạch bán xe trong tháng sẽ cắt thưởng hoặc phạt 200.000 đ/tháng. Bên cạnh công tác đào tạo công ty nên chú trọng phát triển nhân sự. Đối tượng phát triển của công ty là những người có năng lực, có khả năng tiến bộ, có ý thức làm việc cao. Kết quả của đào tạo và phát triển nhân sự sẽ mở ra cơ hội thăng tiến. Việc đánh giá đúng đắn năng lực, thường xuyên tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ bán hàng và lao động kỹ thuật sẽ không có ý nghĩa nếu không thực hiện thăng tiến. Thăng tiến hợp lý sẽ tạo điều kiện cho công ty lựa chọn những người có năng lực, trình độ tay nghề cao, kích thích đội ngũ nhân viên trong công ty không ngừng học tập, bồi dưỡng trau dồi kinh nghiệm. Giadico nên sử dụng giá linh hoạt trong hoạt động tiêu thụ Mặt hàng ô tô là mặt hàng có giá trị cao, đối với cá nhân đó là một khoản tiền lớn, nếu chỉ nhờ vào thu nhập tài chính chính đáng thì khó có thể mua được xe. Mà nó đòi hỏi quá trình tích luỹ lâu dài, không chỉ trong dân cư mà rất nhiều doanh nghiệp, có thu nhập cao nhưng một lúc thì không thể mua được, do đó công ty cần có chính sách bán với giá hợp lý để thu hút đối tượng này. Hiện nay công ty cũng đã bán trả chậm nhưng thủ tục ràng buộc và khắt khe trả trước 30% phần còn lại trả trong 12 tháng, lãi suất 1% mỗi tháng, người mua phải có tài khoản tại ngân hàng mà Giadico yêu cầu, ràng buột này rất đảm bảo cho công ty trong việc thu hồi tiền bán cho khách hàng. Nhưng nó lại hạn chế cho khách hàng vì không phải khách hàng nào cũng dễ dàng chuyển tài khoản của mình ở các ngân hàng quen thuộc sang ngân hàng Giadico yêu cầu.Tiến tới chiến lược hoàn thiện chính sách bán chịu cho khách hàng của mình nhằm thu hút khách hàng nhiều hơn. Đưới đây là một vài đề xuất góp ý chính sách bán trả chậm của công ty: Thực hiện chính sách bán trả chậm nhằm mục tiêu sau: + Tăng thêm lượng bán để kiếm lợi nhuận. + Mở rộng thị phần và ưu thế cạnh tranh. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách bán trả chậm của công ty. + Tính chất, đặt tính của sản phẩm ô tô là sản phẩm có giá trị lớn, vòng quay chậm. + Việc sử dụng sản phẩm của khách hàng làm phương tiện đi công tác hay sử dụng mục đích kinh doanh. + Tình hình tài chính của khách hàng và công ty. Do đó công ty có thể áp dụng một số chính sách bán trả chậm sau: + Sử dụng chiết khấu: Thanh toán tiền ngay với chiết khấu là 0,5%. Công ty cũng nên sử dụng các loại chiết khấu như chiết khấu theo số lượng mua và chiết khấu cộng dồn vào cuối năm và áp dụng linh hoạt cho các đối tượng khách hàng khác nhau. Đặc biệt chú trọng đến các đối tượng khách hàng là các cơ quan Nhà Nước, khách hàng thường xuyên, khách hàng là người mua với số lượng lớn. Nếu công ty tăng tỷ lệ chiết khấu hiện nay hoặc tăng với mỗi loại đối tượng khách hàng khác nhau sẽ thu hút nhiều khách hàng mới. + Sử dụng thời hạn thanh toán. Vì những khách hàng sử dụng sản phẩm của công ty những mục đích khác nhau, do đó với mỗi loại khách hàng khác nhau có các thời hạn khác nhau để họ có thể lựa chọn. Tăng thêm thời hạn thanh toán sẽ làm tăng doanh số, nếu thời hạn thanh toán từ 12 tháng đến 15 tháng hoặc 24 tháng sẽ có thể làm tăng doanh số lên rất nhiều. Mức độ giá và chính sách khuyễn mãi lợi ích vật chất sẽ gây tốn kém, bù lại phần mất này công ty có thể mở rộng được thị trường tiêu thụ, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện được giải pháp này, trước tiên công ty Giadico cần kiến nghị với Tổng Công ty Công Nghiệp Ô Tô Việt Nam về chính sách giá, tạo điều kiện để công ty có thể chủ động về giá trong tiêu thụ xe ô tô. Ngoài ra, công ty Giadico cần có biện pháp huy động vốn để trang trải cho rủi ro về giá. Đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ cho công tác định giá, xác định cơ cấu giá hợp lý phù hợp với từng thị trường và từng đối tượng khách hàng. Công ty cần tăng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm để giảm giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ Hiện nay, công ty giới thiệu và bán xe theo các kênh bán hàng trực tiếp và thông qua 6 đại lý là TP. Biên Hoà, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng, TP. Vinh, TP. Hải Phòng, Hà Nội, công ty bán hàng trực tiếp qua các Showroom tại Tp.HCM, mở rộng và hoàn thành mạng lưới phân phối xe trong thời gian tới và mở thêm hai đại lý giới thiệu và bán xe của công ty tại TP. Hạ Long và Huế đây là thị trường lớn đối với thị trường ô tô. Công ty khuyến khích các nhà kinh doanh tại địa bàn Huế và Hạ Long có nguồn vốn lớn am hiểu về thị trường ô tô ký hợp đồng, trên cơ sở nguồn xe do công ty cung cấp và tuân thủ các chính sách về giá của công ty. Đồng thời công ty cần đẩy mạnh hoạt động kiểm tra tình hình hoạt động của cửa hàng này về: Tình hình tài chính, giá cả, uy tín. Việc kiểm tra này nên thực hiện theo định kỳ kết hợp với kiểm tra bất chợt tránh tình trạng phá giá không thực hiện cam kết mà các đại lý đó đã ký hợp đồng với công ty. Quảng cáo Hiện nay công ty Giadico đang áp dụng các hình thức quảng cáo như: Quảng cáo thông qua biển đề của công ty, trên các tạp chí thương mại công nghiệp…Nhưng do quảng cáo là một trong những hoạt động khá tốn kém nên công ty vẩn còn hạn chế chi phí quảng cáo, hoạt động quảng cáo của công ty chưa có trên các thông tin đại chúng như truyền thanh, truyền hình do đó có tác động rất ít tới đối tượng khách hàng. Hoạt động quảng cáo của công ty chưa thực hiện chức năng cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cần thiết như giá, chất lượng và các dịch vụ kèm theo, do đó chưa thu hút được khách hàng và được khách hàng biết đến. Để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ xe, công ty nên quan tâm nâng cao hơn nữa chất lượng công ty quảng cáo sản phẩm. Hoạt động quảng cáo của công ty nên để bộ phận quảng cảo thuộc phòng Marketing thực hiện, bao gồm về việc thiết kế chương trình quảng cáo, thiết kế catalogue…theo yêu cầu của ban lãnh đạo đặt ra. Hoạt động quảng cáo cuả công ty nên được tiến hành thông qua nhiều loại phương tiện như: Truyền hình, báo hàng ngày, tạp chí. Qua truyền hình là phương thức quảng cáo hiện nay khá tốn kém .Công ty nên thiết kế chương trình quảng cáo với thời lượng ngắn chỉ khoảng 0,5 phút. Nội dung quảng cáo nên thiết kế cho từng loại xe riêng biệt nếu có thể và nên tiến hành tại một số truyền hình lớn như VTV, HTV… Chi phí quảng cáo trên truyền hình: Chương trình quảng cáo trên truyền hình là khoảng 3 triệu đồng cho 0,5 phút tại các thời điểm như trên. Do đó tổng chi phí quảng cáo của Công ty sẽ là: - Quảng cáo trên VTV3: 1 phút một ngày trong 30 ngày Số tiền = 2x3.000.000x30 = 180.000.000 đ/năm - Chi phí làm phim quảng cáo: 20.000.000 đ/năm - Chi phí cho quảng cáo trên báo chí: 20.000.000 đ/năm Qua báo chí, bên cạnh các tạp chí thương mại, công nghiệp, công ty nên quảng cáo trên báo lao động, thời lượng quảng cáo liên tục theo các số báo trong năm với một vị trí riêng cố định và có hiệu quả của công ty, biểu tượng của công ty, tên các loại xe của công ty cung cấp các thành tích đạt được về chất lượng dịch vụ. Ngoài ra công ty nên duy trì hoạt động thiết kế và phát hành tài liệu, catalogue, thư cảm ơn, sách báo, tạp chí nói về công ty sao cho bất cứ khi nào khách hàng đến với công ty sẽ nhận được thông tin bổ ích về công ty. Công ty cần có đội ngũ cán bộ thị trường am hiểu về lĩnh vực ô tô. Đồng thời công ty cần có lượng vốn lớn để thực hiện các hoạt động quảng cáo trên. Tổ chức hội nghị khách hàng theo định kỳ, thường xuyên tham gia hội thảo, mở rộng mối quan hệ với các doanh nghiệp, các Uỷ Ban Nhân Dân, sở ban ngành ở các tỉnh, địa phương... nhằm lôi kéo các đối tượng này đến và sử dụng xe do công ty cung cấp. Nâng cao dịch vụ sau bán hàng nhằm đẩy mạnh tiến độ tiêu thụ Ngày nay trên cơ chế thị trường, việc tổ chức các dịch vụ sau khi bán hàng luôn luôn được chú ý. Nó thể hiện trách nhiệm và sự quan tâm chu đáo của doanh nghiệp đối với khách hàng sau khi bán. Thực tế hiện nay, dịch vụ sau khi bán hàng và sửa chữa là một phần trong chuỗi phân phối sản phẩm và dịch vụ của Giadico, bộ phận dịch vụ của công ty trãi qua nhiều hoạt động và đã có nhiều kinh nghiệm trưởng thành đáng kể, tay nghề và kỷ thuật viên được nâng cao rõ rệt. Vì là mặt hàng xe ô tô nên chất lượng của dịch vụ sau bán hàng là hết sức quan trọng cho nên công ty Giadico cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ bán hàng nhằm thu hút khách hàng, từ đó tăng lượng xe tiêu thụ, mở rộng thị trường yêu cầu là thiết yếu trong kế hoạch kinh doanh của công ty thời gian tới. Công ty nên thực hiện giải pháp theo các hướng sau: + Nâng cao chất lượng công tác bảo hành bảo dưỡng và sữa chữa cho các loại xe mà khách hàng đã được công ty cung cấp. Đây là khâu quan trọng nhất trong hoạt động bán hàng tại công ty. + Công ty có những khoản dự phòng hàng năm cho hoạt dộng đào tạo định kỳ tổ chức các buổi tổng kết trong mỗi kỳ, để mỗi kỷ thuật tự nhìn nhận mình một cách tổng quát về chất lượng bán hàng chung của công ty, công ty nên áp dụng hình thức giới thiệu các sự cố từ các báo cáo trước để chỉ ra các lỗi thường gặp ở các loại xe có cách phát hiện cách xử lý lỗi đó. Sau đó sẽ giới thiệu cho các kỹ thuật mới, nếu có thông qua các bước đào tạo như vậy trình độ của các kỹ thuật viên sẽ tăng lên, hiệu quả sữa chữa và bảo hành sẽ được nâng cao. + Tăng cường và nâng cao chất lượng các phụ tùng thay thế. Công ty quản lý chặt chẽ mã số linh kiện đối với mối linh kiện do công ty hoặc thị trường cung cấp, việc kết hợp giữa mã số linh kiện, số hoá đơn và số máy sẽ giúp công ty quản lý chặt chẽ về linh kiện xe, công ty cần có kế hoạch cung cấp kịp thời linh kiện cho sữa chữa và dự trữ một lượng phụ tùng tối thiểu. Bên cạnh nguồn phụ tùng do công ty sản xuất, công ty cần chủ động tìm các nguồn cung ứng khác, không để tình trạng thiếu hụt linh kiện, phụ tùng sẽ làm tổn hại đến uy tín của công ty, công ty không nên để xưởng lấy giá linh kiện quá cao đối với các loại xe hết hạn bảo hành, nên để họ có sự cảm nhận ưu đãi về giá cả và chất lượng bảo hành, sữa chữa ở chính nơi họ mua xe. Công ty đẩy mạnh sự quan tâm, chăm sóc đến khách hàng, tạo sự nhịp nhàng giữa bộ phận dịch vụ với bộ phận bán hàng trong việc chăm sóc khách hàng thực hiện ưu đãi với khách hàng thường xuyên. Thông báo cho họ đến kiểm tra xe định kỳ miễn phí, cung cấp phụ tùng thay thế của công ty với giá ưu đãi, gửi thư chúc mừng khách hàng nhân dịp đặc biệt, thường xuyên liên hệ với khách hàng để nắm được tình hình sử dụng xe, từ đó có ý kiến hữu ích cho khách hàng trong quá trình sử dụng xe. Công ty đẩy mạnh việc đưa các dịch vụ mới trước đây thuộc phía khách hàng như: Công ty giúp khách hàng đăng ký xe, bảo hiểm cho khách hàng. Công ty sẽ thực hiện được các giải pháp này một các triệt để khi phân loại và quản lý tốt các loại xe mà khách hàng có nhu cầu thực hiện dịch vụ tại xưởng của công ty, công ty có thể sử dụng cách phân loại sau: - Phân loại theo đối tượng khách hàng: + Xe công, đối tượng là các cơ quan nhà nước, xe của các sở ban nghành và xe của công ty nhà nước. + Xe của các đối tượng khách hàng kinh doanh tư nhân. + Xe sử dụng cho nhu cầu cá nhân. + Xe sử dụng cho mục đích kinh doanh vận tải, thượng mại dịch vụ. - Phân loại xe theo chủng loại xe theo chủng loại vào xưởng dịch vụ: + Loại xe 26 dến 32 chổ, loại xe 30-45 chổ… xe của các hãng khác. + Khách hàng tại TPHCM + Khách hàng ở khu vực miền Tây, miền Bắc, miền Trung. Thực hiện đồng bộ các phương hướng giải pháp trên đòi hỏi công ty có đủ vốn cho chi phí đào tạo, đầu tư thiết bị mới, có đội ngũ lao động có đủ năng lực, kinh nghiệm ý thức kỷ luật, trách nhiệm cao đối với cả công ty và khách hàng. Chất lượng dịch vụ sau bán và sửa chữa tốt lên là góp phần thúc đẩy khách hàng có nhu cầu sử dụng ô tô đến với công ty nhiều hơn. Tức là lượng xe tiêu thụ tăng lên, doanh thu lợi nhuận tăng lên, kéo theo thị phần công ty trên thị trường xe khách tăng lên. Một số kiến nghị đối với chính sách quản lý vĩ mô của Nhà Nước Xoá bỏ hạn ngạch nhập khẩu linh kiện lắp ráp đối với các liên doanh sản xuất ô tô để cho các liên doanh này có quyền chủ động lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh và theo pháp luật. Không thực hiện điều tiết bằng hành chính (hạn ngạch) mà thực hiện điều tiết bằng mức thuế (dạng lắp ráp nào, loại xe nào khuyến khích phát triển thì thuế thấp, dạng nào, sản phẩm nào chưa thiết thực, chưa khuyến khích thì thuế cao). Việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật là cần thiết, đặc biệt. Luật đầu tư làm cho môi trường đầu tư ngày càng hấp dẫn hơn tuy nhiên những vấn đề sửa đổi mà ảnh hưởng đến lợi ích của liên doanh đã hình thành trước khi luật đầu tư sửa đổi, doanh nghiệp phải được bảo lưu điều luật cũ một số năm. Thực hiện, triển khai dự án khám xe cấp phép lưu hành trên cơ sở yêu cầu về độ an toàn cao hơn nữa, đồng thời ban hành qui định tiêu chuẩn về ô nhiễm môi trường đối với các loại xe cũ kém chất lượng. Cấm các loại xe không đủ tiêu chuẩn lưu hành ra khỏi hệ thống phương tiện vận chuyển đường bộ. Khuyến khích nâng cao tỷ lệ nội địa hóa bằng các chính sách điều tiết vĩ mô, giảm giá thành lắp ráp. Hoạt động nhập lậu ô tô diễn ra ngày càng tăng với mức độ tinh vi, phức tạp gây khó khăn cho công tác tiêu thụ sản phẩm của các công ty sản xuất ô tô. Do vậy Nhà nước cần có những biện pháp mạnh, hữu hiệu, xử phạt nghiêm minh đối với hành vi nhập lậu này để tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp liên doanh sản xuất ô tô. KẾT LUẬN Tiêu thụ và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đối với công ty Giadico, trong những năm gần đây công tác tiêu thụ sản phẩm đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Điều này được thể hiện qua các kết quả như: doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận. Đạt được những thành quả trên là do nhiều yếu tố quyết định như môi trường kinh doanh thuận lợi, công ty có ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ nhân viên giỏi, nhiều kinh nghiệm và nhiệt tình trong công tác. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả rất có ý nghĩa đó, hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty không tránh khỏi những khó khăn, tồn tại. Những tồn tại này do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra và đều xuất phát từ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa công ty với các đối thủ khác trên thị trường. Do đo, công ty cần phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp có hiệu quả nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nội dung của khoá luận chủ yếu tập trung phân tích công tác tiêu thụ xe và mở rộng thị trường của công ty Giadico và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh tốc độ mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty. Với nội dung lớn và phức tạp, thời gian nghiên cứu có hạn, trình độ và khả năng còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi nhiều sai sót. Rất mong được sự góp ý và đánh giá chân thành của các thầy cô giáo và các cán bộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN HOAN THANH.DOC
Tài liệu liên quan