Đề tài Giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở Thừa Thiên Huế

Tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở Thừa Thiên Huế: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Huế được biết đến là một thành phố du lịch thơ mộng với sông Hương xanh êm đềm và Núi Ngự Bình hùng vĩ. Hàng năm, doanh thu du lịch luôn chiếm 1 phần khá lớn trong tổng giá trị sản xuất của tỉnh và tốc độ tăng ngày càng nhanh. Năm 2008, hoạt động du lịch phát triển mạnh, tổng lượt khách ước đạt 1,53 triệu lượt, tăng 17,6% so năm 2007, trong đó: khách quốc tế 719 nghìn lượt, tăng 20,4%; công suất sử dụng buồng phòng đạt 73%, ngày lưu trú trung bình 2,07 ngày/khách; doanh thu du lịch tăng 34,6%. Bên cạnh đó, Festival Huế 2008 đã thu hút hàng triệu lượt người tham dự, trong đó có trên 180.000 lượt người lưu trú, tăng 15,2%; thu hút 30.000 lượt khách quốc tế từ 75 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia, tăng 27,4% so với năm 2006. Nhiều dự án du lịch lớn đã được khởi động, đã khởi công các dự án trọng điểm như dự án Petrolimex Huế, các dự án tại Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô, cấp giấy phép đầu tư cho dự án Khu du lịch Nam A với tổng vốn đầu ...

doc97 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Huế được biết đến là một thành phố du lịch thơ mộng với sông Hương xanh êm đềm và Núi Ngự Bình hùng vĩ. Hàng năm, doanh thu du lịch luôn chiếm 1 phần khá lớn trong tổng giá trị sản xuất của tỉnh và tốc độ tăng ngày càng nhanh. Năm 2008, hoạt động du lịch phát triển mạnh, tổng lượt khách ước đạt 1,53 triệu lượt, tăng 17,6% so năm 2007, trong đó: khách quốc tế 719 nghìn lượt, tăng 20,4%; công suất sử dụng buồng phòng đạt 73%, ngày lưu trú trung bình 2,07 ngày/khách; doanh thu du lịch tăng 34,6%. Bên cạnh đó, Festival Huế 2008 đã thu hút hàng triệu lượt người tham dự, trong đó có trên 180.000 lượt người lưu trú, tăng 15,2%; thu hút 30.000 lượt khách quốc tế từ 75 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia, tăng 27,4% so với năm 2006. Nhiều dự án du lịch lớn đã được khởi động, đã khởi công các dự án trọng điểm như dự án Petrolimex Huế, các dự án tại Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô, cấp giấy phép đầu tư cho dự án Khu du lịch Nam A với tổng vốn đầu tư gần 500 triệu USD. Từ đó, có thể thấy du lịch là một lĩnh vực rất quan trọng trong nền kinh tế xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế. Thành phố Huế có nhiều nguồn lực cho phát triển du lịch. Năm 1993, quần thể di tích cung đình triều Nguyễn được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa vật thể của nhân loại. Đúng 10 năm sau, năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế tiếp tục được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Với 2 di sản văn hóa thế giới như vậy, Huế đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước với triển vọng số lượng khách du lịch sẽ tiếp tục tăng trong giai đoạn tiếp theo. Quần thể di tích cung đình triều Nguyễn bao gồm đại nội và hệ thống lăng tẩm của 13 triều vua nhà Nguyễn được coi là tour du lịch trọng điểm, điểm đến đầu tiên của nhiều khách du lịch khi đến Huế. Gắn kết với tour du lịch này là nhiều tour văn hóa, ẩm thực phi vật thể. Du khách sẽ có cơ hội tham dự một bữa tiệc trang trọng với nhiều nghi thức và món ăn của cung đình Huế ngày xưa hay dạo chơi trên sông Hương trong những đêm trăng thanh gió mát cùng với những chiếc du thuyền rồng phượng và giọng ca ngọt ngào của người con gái xứ Huế… Đó dường như là những nét nổi bật nhất của du lịch ở Thừa Thiên Huế. Nhưng ở Thừa Thiên Huế vẫn còn có rất nhiều thắng cảnh đẹp và hấp dẫn khách du lịch. Sông Hương và núi Ngự là những địa danh quen thuộc đã đi vào thơ văn của bao nhiêu thế hệ làm say đắm lòng người. Đồi Vọng Cảnh – nơi mà chúa Nguyễn thường đến vãn cảnh vào các buổi chiều tà – đúng như cái tên của nó, là nơi mà du khách có thể ngắm nhìn sông Hương lững lờ trôi trong ánh hoàng hôn và núi Ngự Bình trùng trùng điệp điệp thật hũng vĩ. Xuôi về phía nam là đỉnh Bạch Mã có độ cao hơn 1500m, là vườn quốc gia với một hệ sinh thái đa dạng và nhiều kỳ quan hấp dẫn và kỳ thú. Dưới chân Bạch Mã là biển Lăng Cô, nơi được biết đến với một bãi biển dài cát trắng xóa và dòng nước xanh ngắt mát rượi. Bên cạnh đó, ở Huế vẫn bảo tồn được một hệ thống nhà vườn ở Phú Mộng, Kim Long. Đây là những ngôi nhà rường có kiến trúc cổ độc đáo, không gian vẫn lưu giữ những nét cổ xưa với những vườn cây ăn quả, những vườn cây cảnh do chính chủ nhân trồng và chăm sóc. Khu vực này hiện đang nhân được nhiều dự án tủ bổ và tôn tạo nhằm thu hút du khách đến thưởng ngoạn. Như vậy, rõ ràng là ngoài những di sản văn hóa đã được thế giới công nhận, Thừa Thiên Huế vẫn còn khả năng phát triển rất nhiều địa điểm DLST hấp dẫn khác. Nhưng thực tế, sự phát triển của DLST ở tỉnh vẫn còn rất khiêm tốn, hoàn toàn không tương xứng với tiềm năng. Chính vì vậy, em chọn chủ đề “Giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở Thừa Thiên Huế” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đưa ra được những giải pháp để phát triển DLST ở Thừa Thiên Huế một cách hiệu quả nhất, và đưa DLST của tỉnh lên một vị trí mới tương xứng với tiềm năng DLST hiện có. Đề tài có phạm vi nghiên cứu trong tỉnh Thừa Thiên Huế. Cụ thể, đó là các địa điểm DLST đang phát triển và tiềm năng trên toàn tỉnh cũng như các địa điểm du lịch của các loại hình du lịch khác. Với phạm vi này, đề tài có thể tập trung khai thác, phân tích DLST Thừa Thiên Huế ở nhiều khía cạnh, từ đó đề xuất những giải pháp hiệu quả và phù hợp nhất. 3. Nội dung của đề tài Trước tiên, đề tài tìm hiểu về những vấn đề lý luận chung của du lịch và DLST. Sau đó đi sâu vào phân tích thực trạng của du lịch ở Thừa Thiên Huế, thực trạng phát triển du lịch sinh thái. Từ đó, đề tài phân tích những điểm mạnh, điều yếu, cơ hội và thách thức đối với phát triển DLST của tỉnh. Cuối cùng, đề tài đề xuất một số biện pháp, đưa ra một số kiễn nghị để góp phần vào công cuộc phát triển DLST của Thừa Thiên Huế. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tham chiếu, đối chứng. - Phương pháp phân tích dãy số liệu thống kê. - Phương pháp hồi quy tương quan, tính toán số liệu cho một số dự báo. 5. Bố cục của đề tài Chương I: Tổng quan về du lịch và du lịch sinh thái. Chương II: Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở Thừa Thiên Huế. Chương III: Giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở Thừa Thiên Huế. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH VÀ DU LỊCH SINH THÁI 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DU LỊCH 1.1.1. Một số khái niệm 1.1.1.1. Du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến ở mọi nền kinh tế trên thế giới. Nhưng con người vẫn chưa đưa ra được một khái niệm đầy đủ và toàn diện về du lịch. Ở các quốc gia khác nhau hay đứng dưới các góc độ khác nhau, khái niệm về du lịch được hiểu theo những cách khác nhau. Theo cách hiểu truyền thống thì du lịch là hoạt động nhằm thỏa mãn tính tò mò muốn tìm hiểu thế giới xung quanh, bên ngoài nơi sinh sống của họ, con người muốn biết những nơi khác có cảnh quan ra sao, muốn biết về dân tộc, nền văn hóa, động vật, thực vật và địa hình ở những vùng, quốc gia khác. Dưới đây là một số khái niệm về du lịch dưới các góc độ khác nhau: Địa lý: Du lịch là sự khởi hành và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Kinh tế: Du lịch là tổng hòa việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách tạo ra và của những khách vãng lai đến với một túi tiền đầy tiêu dùng trực tiếp, trước hết trong khách sạn, và tiêu dùng gián tiếp cho các chi phí của họ nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí (Picara Edmol). Ý nghĩa hiện đại: Du lịch là một hiện tượng thời đại, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục sức khỏe và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên (Guer Freuler). Tiếp cận cộng đồng: Du lịch là quan hệ tương hỗ do sự tương tác của 4 nhóm: khách du lịch, đợn vị cung ứng, chính quyền và dân cư tại nơi du lịch tạo nên (Coltman). Một cách tổng quát hơn, du lịch được hiểu là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ cho các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng. Hay đó là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhắm thỏa mãn nhu cầu này sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú tạm thời trong thời gian nhàn rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Năm 1963 tại hội nghị Liên hợp quốc về du lịch ở Roma đã đưa ra khái niệm về du lịch thống nhất của tổ chức du lịch thế giới: Du lịch là tổng hợp mối quan hệ, hiện tượng và hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ. Tóm lại, Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội bao gồm 2 nội dung chính: Kinh tế: Đó là hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế từ kinh doanh nguồn tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Xã hội: là hoạt động giúp nâng cao dân trí, phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước, yêu hòa bình và tình đoàn kết. 1.1.1.2. Khách du lịch Xuất phát từ định nghĩa về du lịch được xác định tại hội nghị Liên hợp quốc về du lịch năm 1963 ở Roma, khách du lịch là những người hội tụ 3 tiêu chuẩn: - Người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình. - Không phải theo đuổi mục đích kinh tế mà cụ thể là động cơ lao động kiếm tiền. - Thời gian và khoảng cách từ nơi cư trú đến nơi du lịch, thơi gian kéo dài trong khoảng 24h đến 1 năm. Khách du lịch là một trong 4 nhóm nhân tố chính, tham gia vào quá trình diễn ra hoạt động du lịch: khách du lịch, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân tại địa phương và chính quyền nơi đón khách du lịch. Khách du lịch thường được chia thành: khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa. Tại điều 20, chương IV của Pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành năm 1999: “Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”. “Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”. 1.1.1.3. Sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch là dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du lịch, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng, một quốc gia nào đó. Nhóm các sản phẩm du lịch: xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trong hành trình du lịch thì chia thành các nhóm sản phẩm chính như: - Du lịch vận chuyển. - Du lịch lưu trú ăn uống. - Dịch vụ tham quan giải trí. - Hàng hóa tiêu dùng, đồ lưu niệm. - Dịch vụ khác phục vụ khách du lịch. Đặc trưng của sản phẩm du lịch: Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, thành phần chính là dịch vụ (80 – 90% về giá trị). Do vậy việc đánh giá chất lượng của sản phẩm du lịch thường mang tính chủ quan, phụ thuộc du khách. Sản phẩm du lịch thường tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch như biển, núi, rừng, sông, suối, thác ghềnh…, hay du lịch văn hóa như: lễ hội, chùa chiền, di tích lịch sử… Do hoạt động du lịch gắn liền với yếu tố tài nguyên tại một vùng, một địa phương nhất định nên sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được, không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải đến nơi có sản phẩm du lịch để thỏa mãn như cầu của mình thông qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch. Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm du lịch trùng nhau về không gian và thời gian. Chúng không thể cất đi và tồn kho như các loại hàng hóa khác. 1.1.2. Đặc trưng của ngành du lịch Ngành du lịch mang tính kinh tế Ngành du lịch là ngành mà mục tiêu cơ bản của nó là ở chỗ thông qua thúc đầy, xúc tiến cung cấp hàng hoá và dịch vụ du lịch để tạo thu nhập của nền Kinh tế quốc dân. Tuy nhiên cấu tạo chủ yếu của ngành du lịch là các doanh nghiệp du lịch, các doanh nghiệp này thực hiện các hoạt động kinh doanh du lịch, do đó mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Vì vậy ngành du lịch phải tiến hành hạch toán kinh tế. Với quan niệm này, về cơ bản ngành du lịch phải là ngành mang rõ nét tính kinh tế. Ngành du lịch mang tính tổng hợp Hoạt động du lịch là hoạt động mang tính tổng hợp, trong quá trình hoạt động du lịch, khách du lịch có các nhu cầu về đi lại ăn ở, du ngoạn, vui chơi giải trí, mua sắm… Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của kinh doanh du lịch đòi hỏi phải có các ngành nghề khác nhau cùng sản xuất và cung ứng các sản phẩm và dịch vụ cho khách du lịch như: cung cấp, tư vấn tin tức, cung cấp các tuyến điểm du lịch, cung cấp phương tiện giao thông, cung cấp nhà nghỉ cho du khách… Các sản phẩm và dịch vụ này không phải là những sản phẩm độc lập, riêng biệt mà là một “chuỗi dịch vụ” vừa kết hợp với nhau vừa đan xen với nhau, vừa lặp đi lặp lại nhiều lần. Vì thế, sản phẩm và dịch vụ du lịch phải là sản phẩm tổng hợp của sự phối hợp liên ngành như công ty du lịch, đơn vị bán hang lưu niệm du lịch… đồng thời bao gồm các đơn vị sản xuất của các ngành như dệt, xây dựng… và một số cơ sở sản xuất tư liệu phi vật chất như văn hoá, giáo dục, khoa học kĩ thuật, y tế, tài chính, hải quan, bưu điện… cuối cùng phải được khách du lịch chấp nhận. Ngành du lịch mang tính phục vụ Vì sản phẩm du lịch chủ yếu cung cấp dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách du lịch như: dịch vụ thiết kế các chương trình du lịch, dịch vụ hướng dẫn, dịch vụ vận chuyển khách bằng các phương tiện khác nhau, dịch vụ làm thủ tục liên quan tới quá trình du lịch, dịch vụ cho thuê chỗ trọ, dịch vụ phục vụ ăn uống… Do đặc điểm của dịch vụ là sản phẩm phi vật chất, vô hình, không nhìn thấy được, khó nhận biết được bằng các giác quan, đồng thời chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động như nguồn cung cấp dịch vụ, người mua dịch vụ (khách du lịch); quá trình sản xuất và tiêu dung dịch vụ diễn ra đồng thời, nên cung cầu dịch vụ không thể tách rời nhau được; dịch vụ không thể tổ chức sản phẩm trước, không thể lưu kho, hoặc dự trữ sử dụng dần. Ngành du lịch mang tính thời vụ Tính thời vụ thể hiện ở thời gian hoạt động du lịch tập trung với cường độ cao trong năm, xảy ra dưới tác động của một số yếu tố xác định, có yếu tố mang tính tự nhiên (sự thay đổi của thời tiết, khí hậu, sự vận động của mặt trời, mặt trăng, sự thay đổi bốn mùa), có yếu tố mang tính kinh tế - xã hội, tổ chức kĩ thuật, có yếu tố mang tính tâm lý… thể hiện ở nhiều loại hình du lịch, nhất là ở các loại hình du lịch nghỉ biển, thể thao theo mùa. Ngành du lịch mang tính quốc tế Cùng với sự phát triển của du lịch quốc tế, việc tìm mọi cách để thu hút khách nước ngoài tới nước mình du lịch đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nước trên thế giới, nếu muốn ngành du lịch phát triển. Bởi vì kinh doanh du lịch quốc tế không chỉ tăng thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho đất nước. Ngoài ra sự phát triển của du lịch quốc tế còn có ý nghĩa quan trọng đến việc mở rộng, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau vì tình hữu nghị của nhân dân các nước, thúc đẩy giao lưu khoa học kĩ thuật văn hoá theo các hướng: kí kết hợp đồng trao đổi khách giữa các nước, các tổ chức và hang du lịch, tham gia các tổ chức quốc tế về du lịch. Ngành du lịch mang tính nhạy cảm Trong cung cấp dịch vụ cho khách du lịch cần bố trí chính xác về thời gian, có kế hoạch chu đáo, chi tiết về nội dung hoạt động du lịch, cần phải kết hợp hữu cơ, chặt chẽ giữa các khâu đi lại, ăn nghỉ, du ngoạn, vui chơi giải trí, mua sắm… Chỉ cần một khâu nào đó để xảy ra trục trặc ngoài ý muốn thì có thể gây nên hàng loạt phản ứng dây chuyền, làm mất sự phối hợp nhịp nhàng về cung cấp của toàn ngành du lịch, ảnh hưởng tới việc thực hiện mục tiêu và lợi ích kinh tế của ngành du lịch. Ngoài ra, các yếu tố thiện nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội v.v… đều ảnh hướng đối với ngành du lịch dẫn tới sự đình đốn du lịch như: động đất, biến đổi khí hậu , dịch bệnh… Ngành du lịch mang tính phụ thuộc Tính phụ thuộc của ngành trước hết biểu hiện ở sự phát triển du lịch của mỗi quốc gia mang tính định hướng tài nguyên du lịch. Một trong những điều kiện quan trọng để phát triển du lịch cần có là tài nguyên du lịch phải độc đáo, hấp dẫn. Hơn nữa, tính phụ thuộc của ngành du lịch còn biểu hiện ở tính phục thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nguồn khách là yếu tố sống còn của ngành du lịch, mà việc thu hút khách được quyết định bởi trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia hoặc khu vực; và ngược lại, trình độ kinh tế nước tiếp đón lại quyết định tới khả năng tiếp đón đối với khách du lịch và ảnh hưởng tới chất lượng các dịch vụ ở mức độ nhất định. Biểu hiện khác nữa về tính phụ thuộc đó là sự phụ thuộc vào sự hợp tác toàn diện, sự phát triển hợp lý giữa các ngành, nghề có liên quan tới du lịch. Bất cứ một ngành nghề nào đó có liên quan tới du lịch mà tuột khỏi “mắt xích” thì hoạt động kinh doanh của ngành du lịch sẽ khó có thể đạt được kết quả như mong muốn. 1.1.3. Vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế xã hội 1.1.3.1. Đối với phát triển kinh tế Du lịch có ảnh hưởng rõ nét lên nền kinh tế của địa phương thông qua tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy có ảnh hưởng đến lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội. Du lịch đóng góp phần quan trọng trong GDP của vùng, nơi có hoạt động du lịch phát triển. Hoạt động du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu chi của khu vực và đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước du lịch làm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ cho đất nước đến. Ngược lại, phần chi ngoại tệ sẽ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người đi du lịch nước ngoài. Trong phạm vi một đất nước, cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế của đất nước song có tác dụng điều hòa nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển hơn, kích thích sự phát triển kinh tế của vùng du lịch, đặc biệt là đối với các vùng sâu vùng xa. Khi một địa phương trở thành một địa điểm du lịch thì các ngành kinh tế khác cũng được kích thích phát triển, đặc biệt là nông nghiệp và công nghiệp chế biến… ngành cung cấp hàng hóa cho du lịch. Bên cạnh đó do các đòi hỏi cao của khách du lịch nên có hàng hóa được sản xuất ra phải đảm bảo về mặt chất lượng, buộc các đơn vị sản xuất phải quan tâm đầu tư trang thiết bị và sử dụng công nhân có tay nghề cao. Du lịch quốc tế cũng đem lại nguồn lợi xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu nên tiết kiệm được chi phí. Đồng thời du lịch cũng là hoạt động xuất khẩu tại chỗ nên có thể xuất được cả những mặt hàng dễ hư hỏng mà ít bị rủi ro như hoa quả, rau tươi…, các mặt hàng được tiêu thụ tại chỗ nên không cần đóng gói, bảo quản phức tạp. 1.1.3.2. Đối với phát triển xã hội Đối với xã hội, du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khỏe và tăng cường sức sống cho con người. Trong một chừng mực nào đó thì du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động cho con người. Những chuyến du lịch tại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, các khu thắng cảnh thiên nhiên có tác dụng giáo dục tinh thân yêu thiên nhiên, yêu văn hóa của đất nước. Khi tiếp xúc trực tiếp với các công trình này, du khách mới thực sự cảm nhận được giá trị to lớn của chúng. Khi đi du lịch mọi người có điều kiện tiếp xúc với nhau, gần gũi nhau hơn, nhờ đó du lịch là cơ hội tăng cường tình đoàn kết cộng đồng. Mỗi chuyến du lịch còn thường để lại cho du khách một số kinh nghiệm, tăng vốn hiểu biết về địa lý và kiến thức văn hóa nói chung. Ngành du lịch phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, do đó nhu cầu về lao động tại địa phương sẽ tăng thêm nhằm phục vụ cho nhu cầu về nhân công của bản thân ngành du lịch và cả các ngành kinh tế khác, thông qua đó tạo thêm việc làm, giảm bớt nạn thất nghiệp, nâng cao mức sống cho người dân. Phát triển du lịch còn có ý nghĩa lớn khi nó làm sống lại những ngành nghề thủ công truyền thống. Bởi hiện nay du lịch văn hóa các làng nghề rất được du khách ưa thích, vì tâm lý muốn tìm hiểu cuộc sống văn hóa, lao động của người dân bản địa nơi họ đến thăm. Đồng thời du khách mỗi khi đi du lịch tại một địa phương nào đó thường muốn mua một vài sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm thủ công để làm kỉ niệm hay làm quà cho người thân, bạn bè. 1.1.4. Xu hướng phát triển du lịch hiện nay 1.1.4.1. Du lịch là một xu thế tất yếu và ngày càng rộng lớn của thế giới Du lịch đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người. Khi mà đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì hoạt động du lịch ngày càng được mở rộng và hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, những bước đột phá lớn về khoa học công nghệ với những phát minh thế kỉ, hay sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp… đã mở ra khả năng đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí dễ dàng hơn. Sự phát triển của phương tiện giao thông đại làm mất dần khái niệm xa xôi đối với khách du lịch, du khách có thể mau chóng và thuận tiện dù chỉ là đi du lịch ở một nơi rất xa so với nơi cư trú thường xuyên. Ở những thập kỉ cuối của thế kỉ XX, nền kinh tế toàn cầu phát triển mạnh, cuộc sống con người ngày càng văn minh hiện đại. Và kéo theo đó, hàng loạt căn bệnh xuất hiện và trở nên phổ biến: stress, béo phì, tim mạch… khiến con người cần phải quan tâm nhiều ơn tới việc giữ gìn và bảo vệ sức khỏe của mình. Bên cạnh đó, bầu không khí ngày càng ô nhiễm, hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ của trái đất tăng lên khiến du khách có xu hướng muốn đi du lịch ở những nơi có bầu không khí trong trẻo và tự nhiên, những làng quê yên tĩnh với các lễ hội dân gian truyền thống. Phát triển cũng đồng nghĩa với việc năng suất lao động được nâng cao và con người được giải phóng sức lao động nhiều hơn. Do đó có nhiều thời gian và điều kiện vật chất để dành cho du lịch giải trí, khám phá hơn. Và với xu thế phát triển như hiện nay, nhu cầu giải trí khám phá sẽ không những mở rộng, đặc biệt theo chiều sâu. Từ đó có thể thấy du lịch sẽ trở nên phổ biến ở mọi nên trên thế giới. 1.1.4.2. Xu hướng phát triển của cầu du lịch Việc xác định xu hướng thay đổi của cầu về du lịch sẽ giúp chúng ta có định hướng chính xác hơn trong quá trình tìm ra các giải pháp để khai thác tiềm năng du lịch theo hướng đáp ứng đầy đủ và tốt các nhu cầu du lịch của du khách. Trong thời gian tới, theo dự đoán thì cầu du lịch phát triển mạnh, có 4 xu hướng quan trọng sau: - Sự thay đổi về hướng và phân bố của luồng khách du lịch: khu vực Đông Á – Thái Bình Dương thu hút khách ngày càng đông hơn, đặc biệt là các nước Đông Nam Á. Bên cạnh đó, vấn đề an ninh quốc phòng và an ninh chính trị cũng ảnh hưởng nhiều đến cầu du lịch, du khách có khuynh hướng lựa chọn những điểm du lịch có mức độ an toàn cao. - Sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của khách du lịch: mức chi tiêu tăng, trong đó tỉ trọng chi cho dịch vụ cơ bản (ăn, ở, vận chuyển) giảm, tỷ trọng chi cho dịch vụ bổ sung tăng (tham quan, giải trí, mua sắm hàng hóa và đồ lưu niệm). - Sự thay đổi trong hình thức tổ chức chuyến đi của khách du lịch: khách chỉ sử dụng một phần dịch vụ của tổ chức kinh doanh du lịch, không sử dụng dịch vụ trọn gói nhằm tăng khả năng tự do của bản thân. - Sự gia tăng điểm đến du lịch trong một chuyến du lịch. Du khách thích đi thăm nhiều nước, nhiều điểm du lịch trong cùng một chuyến đi du lịch của mình. 1.1.4.3. Xu hướng phát triển của cung du lịch Đối với các địa phương đang trong giai đoạn đầu khai thác tiềm năng du lịch thì hết sức cần thiết phải quan tâm tới xu hướng cung du lịch trên thị trường nhằm xây dựng kế hoạch khai thác cho phù hợp với nguồn tài nguyên và phù hợp với yêu cầu của thị trường, nắm bắt kịp thời xu thế phát triển. Cung du lịch có các xu hướng chính như sau: - Đa dạng hóa sản phẩm du lịch - Phát triển hệ thống bán sản phẩm du lịch - Tăng cường hoạt động truyền thông du lịch - Đẩy mạng CNH – HDH trong du lịch: vận dụng KHCN để phát triển công nghiệp du lịch lữ hành, công nghiệp khách sạn, công nghiệp vận chuyển khách. - Đẩy mạnh quá trính khu vực hóa, quốc tế hóa sản phẩm du lịch Tổng hợp tiềm năng bằng việc cho điểm từng chỉ tiêu, thang điểm cho từng chỉ tiêu tối đa là 4 điểm, tối thiểu là 1 điểm. Hệ số điểm của từng yếu tố phụ thuộc vào từng mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến sức hút du lịch tài nguyên. Trong đó, độ hấp dẫn được tính tới hệ số 3; thời gian khai thác và môi trường tính hệ số 2; các yếu tố còn lại tính hệ số 1. Tổng điểm của tất cả 5 yếu tố, sau khi đã nhân với trọng số tương ứng sẽ là mức điểm phản ánh mức độ lớn hay nhỏ của tiềm năng du lịch. Số điểm càng lớn chứng tỏ tiềm năng càng lớn và ngược lại. 1.2. DU LỊCH SINH THÁI VÀ SẢN PHẨM DU LỊCH SINH THÁI 1.2.1. Du lịch sinh thái 1.2.1.1. Khái niệm “Du lịch sinh thái” (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người, thuộc các lĩnh vực khác nhau. Đây là một khái niệm rộng, được hiểu từ nhiều góc độ khác nhau. Đối với một số người DLST được hiểu đơn giản là sự kết hợp của 2 từ ghép “du lịch” và “sinh thái” vốn đã quen thuộc. Song đứng ở góc độ nhìn rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm DLST là du lịch thiên nhiên, là khái niệm mà trong thực tế đã có từ đầu những năm 1800. Với khái niệm này, mọi hoạt động du lịch có liên quan đến thiên nhiên như tắm biển, nghỉ núi… đều được hiểu là DLST. Có thể nói cho đến nay khái niệm về DLST vẫn còn được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, mặc dù những tranh luận vẫn còn tiếp tục để đi đến một số định nghĩa chung được chấp nhận về DLST, nhưng đa số các ý kiến tại diễn đàn quốc tế chính thức về DLST đều cho rằng: “DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được quản lý bền vững về mặt sinh thái”. Du khách sẽ được hướng dẫn tham quan, được lý giải về môi trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được những giá trị thiên nhiên và văn hóa mà không gây ra những tác động có hại đối với các hệ sinh thái và văn hóa bản địa. Về nội dung, DLST là loại hình du lịch tham quan, thám hiểm, đưa du khách tới những môi trường còn tương đối nguyên vẹn, về các vùng thiên nhiên hoang dã, đặc sắc để tìm hiểu, nghiên cứu các hệ sinh thái và các nền văn hóa bản địa độc đáo, làm thức dậy ở du khách tình yêu và trách nhiệm bảo tồn phát triển đối với tự nhiên và cộng đồng địa phương. Nói một cách khác, DLST là loại hình du lịch với những hoạt động có nhận thức mạnh về thiên nhiên và ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Ở đây thuật ngữ “Du lịch trách nhiệm” luôn gắn liền với khái niệm DLST. Vậy DLST là hình thức du lịch trách nhiệm, không làm ảnh hưởng đến các ý nghĩa bảo tồn thiên nhiên, không ảnh hưởng đến môi trường mặt khách còn góp phần vào việc duy trì, phát triển cuộc sống cộng đồng người dân địa phương. Một số cách hiểu về DLST: Theo tổ chức bảo tồn thực vật hoang dã (World Wide Fund): DLST đề cập tới các hoạt động du lịch đi tới những khu vực tự nhiên hoang dã, gây tác động tối thiểu tới môi trường tự nhiên và cuộc sống của các loài động thực vật hoang dã trong khi mang lại một số lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương và những người địa phương phục vụ tại đó. Theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO): DLST là loại hình du lịch được thực hiện tại những khu vực tự nhiên còn ít bị can thiệp bởi con người, với mục đích chính là để chiêm ngưỡng, học hỏi về các loài động thực vật cư ngụ trong khu vực đó, giúp giảm thiểu và tránh được các tác động tiêu cực tới khu vực mà khách đến thăm. Ngoài ra DLST phải đóng góp vào công tác bảo tồn những khu vực tự nhiên và phát triển những khu vực cộng đồng lân cận một cách bền vững đồng thời phải nâng cao được khả năng nhận thức về môi trường và công tác bảo tồn đối với mỗi người dân địa phương và du khách đến thăm. Theo hội thảo xây dựng chiến lược Quốc gia về phát triển DLST 9/1999 tại Hà Nội: DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa địa phương, có tính giáo dục môi trường và đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn và phát triển với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Nhận xét: Mặc dù các định nghĩa về du lịch sinh thái có khác nhau về cách diễn đạt và ngôn từ thể hiện, nhưng trong các định nghĩa trên đều có sự thống nhất cao về nội dung của DLST ở ba điểm: Thứ nhất: Du lịch sinh thái phải được thực hiện trong môi trường tự nhiên còn hoang sơ hay tương đối hoang sơ gắn với văn hóa bản địa. Thứ hai: DLST có tính giáo dục môi trường cao và phải có trách nhiệm với môi trường. Thứ ba: DLST phải mang lợi ích kinh tế trực tiếp cho cư dân địa phương và phải có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương. 1.2.1.2. Đặc điểm của du lịch sinh thái Dựa trên địa bàn hấp dẫn về tự nhiên cả các yếu tố văn hóa bản địa: Đối tượng của DLST là những khu vực hấp dẫn về tự nhiên, kể cả những nét văn hóa bản địa đặc sắc. Đặc biệt, những khu vực tự nhiên còn tương đối nguyên sơ, ít bị tác động lớn. Chính vì vậy, hoạt động DLST thường diễn ra và thích hợp tại lãnh thổ các vườn Quốc gia và các khu bảo tồn tự nhiên có giá trị. Đảm bảo bền vững về sinh thái, ủng hộ bảo tồn: Đây là một đặc trưng khác biệt vì nó được phát triển trong môi trường có những hấp dẫn ưu thế về mặt tự nhiên. Vì thế, trong DLST, hình thức, địa điểm và mức độ sử dụng cho các hoạt động du lịch phải được duy trì và quản lý cho sự bền vững của cả hệ sinh thái và bản thân ngành du lịch. Điều này được thể hiện ở quy mô nhóm khách tham quan thường có số lượng nhỏ, yêu cầu sử dụng các phương tiên, dịch vụ về tiện nghi của du khách thường thấp hơn các yêu cầu về đảm bảo kinh nghiệm du lịch có chất lượng. Các hoạt động trong DLST thường ít gây tác động đến môi trường và du khách sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi trường. Có giáo dục môi trường: Đặc điểm giao dục môi trường trong DLST là một yếu tố cơ bản phân biệt DLST với các loại hình du lịch khác. Giáo dục và thuyết minh môi trường bằng các nguồn thông tin,truyền tải thông tin đến du khách thông qua tài liệu, hướng dẫn viên, các phương tiện trên điểm, tuyến tham quan là những hình thức quan trọng trong việc trong việc làm giàu kinh nghiệm du lịch, nâng cao nhận thức về môi trường và bảo tồn. Giáo dục môi trường trong DLST có tác dụng trong việc làm thay đổi thái độ của du khách, cộng đồng và chính ngành du lịch đối với giá trị bảo tồn, và sẽ góp phần tạo nên sự bền vững lâu dài của những khu tự nhiên. Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia và hưởng lợi ích du lịch: DLST cải thiện đời sống, tăng thêm lợi ích cho cộng đống địa phương trên cơ sở cung cấp về kiến thức, những kinh nghiệm thực tế để đa số người dân có khả năng tham gia vào quản lý, vận hành dịch vụ DLST. Đó cũng là cách để người dân có thể trở thành những người bảo tồn tích cực. Cung cấp các kinh nghiệm du lịch với chất lượng cao cho du khách: Việc thỏa mãn những mong muốn của du khách là nâng cao hiểu biết và những kinh nghiệm du lịch lý thú, là sự tồn tại sống còn lâu dài của ngành DLST. Vì vậy, các dịch vụ du lịch trong DLST tập trung nhiều vào việc đáp ứng những nhu cầu nhận thức và kinh nghiệm du lịch hơn là các dịch vụ cho nhu cầu tiện nghi. Thỏa mãn những nhu cầu này của khách DLST chỉ nên đứng sau công tác bảo tồn và bảo vệ những gì mà họ tham quan. 1.2.1.3. Các nguyên tắc của du lịch sinh thái Hoạt động du lịch sinh thái cần phải tuân theo một số nguyên tắc sau: a, Tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo an toàn cho khách du lịch DLST thường ở những nơi có địa hình hiểm trở, sông suối nhiều, nhiều vách núi cao, vì vậy vấn đề đặt ra cho các tổ chức du lịch là cần phải chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất và điều kiện sinh hoạt phòng khi có các sự cố xảy ra như: tai nan do leo núi, chết đuối do tắm suối, rắn cắn… Các tổ chức du lịch cần phải chuẩn bị điều kiện đầy đủ cho một khu vực DLST đó là: - Về hướng dẫn viên và nhân viên của khu du lịch cần phải có sức khỏe tốt, biết bơi lội, biết sơ cứu, cấp cứu trong các trường hợp khách du lịch bị xảy ra tai nạn… Các nhân viên bảo vệ luôn được bố trí ở các vị trí, những nơi có thể xảy ra tai nạn như: hồ bơi, thác nước… - Về dụng cụ, phương tiện phục vụ du lịch như: phao bơi, dụng cụ leo núi, các phương tiên đưa đón khách du lịch phải đảm bảo độ an toàn, đủ tiêu chuẩn cho phép. b, Có hoạt động giáo dục và diễn giải nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường, qua đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn. Đây là nguyên tắc cơ bản của hoạt động DLST, tạo ra sự khác biệt rõ ràng giữa DLST với các loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên khác. Du khách khi rời khỏi nơi mình đến tham quan sẽ phải có được sự hiểu biết cao hơn về các giá trị của môi trường tự nhiên, về những đặc điểm sinh thái khu vực và văn hóa bản địa. Với những hiểu biết đó thái độ cư xử của du khách sẽ thay đổi, được thể hiện bằng những nỗ lực tích cực hơn trong hoạt động bảo tồn và phát triển những giá trị về tự nhiên, sinh thái và văn hóa khu vực. c, Bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái. Cũng như hoạt động của các loại hình du lịch khác, DLST cũng tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với môi trường và tự nhiên. Nếu như đối với những loại hình du lịch khác, vấn đề bảo vệ môi trường, duy trì hệ sinh thái chưa phải là những ưu tiên hàng đầu thì ngược lại DLST coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng cần được tuân thủ, bởi vì: - Việc bảo vệ môi trường và duy trì các hệ sinh thái chính là mục tiêu của hoạt động DLST. - Sự tồn tại của DLST gắn liền với môi trường tự nhiên và các hệ sinh thái điển hình. Sự xuống cấp của môi trường, sự suy thoái của các hệ sinh thái đồng nghĩa với sự đi xuống của hoạt động DLST. Với nguyên tắc này mọi hoạt động DLST sẽ phải được quản lý chặt chẽ để giảm thiểu các tác động đến môi trường, đồng thời phần thu nhập từ hoạt động DLST sẽ được đầu tư trở lại để thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường và duy trì sự phát triển các hệ sinh thái. d, Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng. Được xem là một trong những nguyên tắc quan trọng đối vớ hoạt động DLST, bởi vì các giá trị văn hóa bản địa là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời với các giá trị của hệ sinht thái ở một khu vực cụ thể. Sự xuống cấp hoặc thay đổi tập tục sinh hoạt văn hóa truyền thống của cộng đồng địa phương sẽ làm giảm sự cân bằng sinh thái tự nhiên vốn có của khu vực và vì vậy sẽ làm thay đổi hệ sinh thái đó. Hậu quả của quá trình này sẽ tác động trực tiếp đến DLST. Chính vì vậy, việc phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng địa phương có ý nghĩa quan trọng và là nguyên tắc hoạt động của DLST. e, Tạo cơ hội có việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu hướng tới của DLST. Nếu như các loại hình du lịch khác ít quan tâm đến vấn đề này và phần lớn lợi nhuận từ các hoạt động du lịch đều thuộc về các công ty điều hành thì ngược lại DLST sẽ dành một phần đáng kể lợi nhuận từ hoạt động của mình để đóng góp vào việc cải thiện môi trường sống của cộng đồng địa phương. Đồng thời, DLST luôn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người dân địa phương, như đảm nhiệm vai trò hướng dẫn viên, đáp ứng chỗ nghỉ cho khách, cung ứng nhu cầu về thực phẩm, hàng lưu niệm cho khách… thông qua đó sẽ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương. Kết quả là cuộc sống của người dân sẽ ít bị phụ thuộc hơn vào việc khai thác tự nhiên và họ sẽ thấy được lợi ích của việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển DLST. 1.2.2. Sản phẩm du lịch sinh thái 1.2.2.1. Khái niệm a, Khái niệm chung về sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó. Sản phẩm du lịch bao gồm cả những yếu tố hữu hình và yếu tố vô hình. Xét theo quá trình tiêu dùng của du khách trên chuyến hành trình du lịch thì chúng ta có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo các nhóm cơ bản sau: - Dịch vụ vận chuyển - Dịch vụ lưu trú, ăn uống - Dịch vụ tham quan, giải trí - Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm - Các dịch vụ khách phục vụ khách du lịch. b, Khái niệm sản phẩm DLST Sản phẩm DLST là giá trị sinh thái và văn hóa bản địa được khai thác dựa trên các nguồn lực bản địa, với sự tham gia tích cực của cư dân bản địa. Một mặt làm thỏa mãn nhu cầu DLST của du khách, mặt khách giáo dục môi trường và góp phần vào sự bảo tồn và phát triển điểm đến du lịch. Có thể khái quát sản phẩm DLST bằng biểu thức sau: Sản phẩm DLST = Giá trị sinh thái và văn hóa bản địa + Dịch vụ du lịch bản địa + hàng hóa bản địa. Từ góc độ của các nhà cung cấp dịch vụ và hàng hóa đơn lẻ, sản phẩm DLST bao gồm các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du lịch và nó cũng dựa trên sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là mọi nguồn lực được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu khách du lịch đều phải dựa trên cơ sở tại chỗ gắn với bảo vệ môi trường. Hơn nữa, DLST vốn dựa vào tài nguyên du lịch là các hệ sinh thái còn tương đối nguyên sơ, ít bị tác động bởi bàn tay con người nên các sản phẩm DLST phải là các sản phẩm có thể tái sử dụng, dễ phân hủy trong tự nhiên, đảm bảo tính thẩm mỹ của thiên nhiên, có tính giáo dục với người sử dụng và nguồn thu từ việc bán sản phẩm đó phải đem lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng dân cư địa phương. Từ góc độ của các nhà kinh doanh lữ hành, sản phẩm DLST là các chương trình DLST. Chương trình DLST là tâp các dịch vụ, hàng hóa DLST được sắp đặt trước về không gian và thời gian tiêu dùng theo mức giá gộp và được bán trước. Về nguyên tắc, các công ty lữ hành DLST cũng có thể cung ứng đầy đủ các loại hình sản phẩm trong hệ thống sản phẩm của các công ty lữ hành, đó là: các dịch vụ trung gian, các chương trình du lịch trọn gói, các hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành tổng hợp. Các chương trình DLST là sự liên kết các sản phẩm của các nhà cung cấp dịch vụ, sản phẩm DLST đơn lẻ thành một sản phẩm hoàn chỉnh để bán cho khách du lịch với một mức giá gộp. Đây chính là sự khó khăn đối với các công ty lữ hành DLST trước yêu cầu đặt ra phải thống nhât được tiêu chuẩn phục vụ vì môi trường trong khi vô số các dịch vụ, sản phẩm riêng lẻ trong du lịch lại được cung ứng bởi các nhà cung cấp dịch vụ, sản phẩm du lịch khác nhau. 1.2.2.2. Đặc điểm của sản phẩm du lịch sinh thái a, Sản phẩm DLST chứa đựng trong nó và phản ánh gía trị tài nguyên tự nhiên và văn hóa bản địa. Tài nguyên tự nhiên trong DLST là những tài nguyên còn tương đối hoang sơ. Những nơi có môi trường tự nhiên là những nơi có các hệ sinh thái đang tồn tại gồm các hệ động vật, thực vật và con người cùng tồn tại trong một không gian với một khoảng thời gian tương đối dài. Điểm chú ý ở đây là môi trường tự nhiên được đề cập sẽ những nơi còn tương đối nguyên sơ, chưa bị xâm phạm bởi bàn tay con người. Văn hóa bản địa là các di tích kiến trúc, các giá trị văn hóa tồn tại dưới dạng vật thể và phi vật thể được tạo ra bởi chính các điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển của nơi đến du lịch. Nơi nào có các rừng quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên cũng như các khu văn hóa lịch sử gắn liền với thiên nhiên là nơi có lợi thế so sánh để phát triển sản phẩm DLST vừa đem lại nguồn thu cho cộng đồng địa phương và chính quyền sở tại vừa góp phần trong công tác gìn giữ và bảo vệ các hệ sinh thái và môi trường sống. Tài nguyên tự nhiên để tạo ra sản phẩm DLST phải đảm bảo tính đa dạng sinh học nhưng phải có giá trị thẩm mỹ thu hút khách du lịch đến với thiên nhiên. Mặc dù, điểm chung trong DLST là đến với thiên nhiên hoang sơ, còn ít bị tác động bởi bàn tay còn người nhưng mỗi điểm đến DLST, mỗi khu vực bảo tồn thiên nhiên phải đảm bảo tính đa dạng sinh học có đặc thù để mỗi điểm tham quan có sự hấp dẫn riêng đối với khách du lịch. b, Sản phẩm DLST hướng tới bảo tồn các giá trị tự nhiên, văn hóa và xã hội tại nơi đến du lịch - Bảo tồn các giá trị tự nhiên của hệ sinh thái vốn có: Sản phẩm DLST được thực hiện với mục đích giúp khách du lịch cũng như các cá nhân và tổ chức liên quan hiểu biết hơn về thiên nhiên, về các hệ sinh thái đang tồn tại để từ đó đánh giá lại những hành động đối với thiên nhiên trong quá khứ, tìm cách sống hòa hợp với hiện tại và cộng sinh cùng phát triển bền vững trong tương lai. - Bảo tồn các giá trị văn hóa của cộng đồng dân cư địa phương: Cộng đồng dân cư địa phương được voi là những con người vốn sinh ra và cùng tồn tại với các hệ sinh thái tự nhiên trong một khoảng thời gian tương đối dài, có tính lịch sử mà mang nét văn hóa riêng có trong từng vùng, từng khu vực. Sản phẩm DLST thừa nhận, tôn trọng các giá trị cố hữu và riêng có của cộng đồng dân cư địa phương. Chính các phong tục tập quán, các điệu múa, lời hát trong cuộc sống của người dân địa phương là một phần không thể thiếu trong việc thu hút các khách du lịch, cái mà họ không thể tìm được ở những nơi mà họ đang sống và làm việc. - Bảo tồn và nâng cao các giá trị xã hội của dân cư địa phương: cũng như các cộng đồng dân cư thành thị, cộng đồng dân cư địa phương cũng có những mong muốn, nhu cầu và nguyện vọng sống của mình. Họ mong muốn có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, con cái được học hành đến nơi đến chốn…, và họ cũng mong muốn phục hồi ngành du lịch địa phương theo đúng cách. Đó là nhưng mong muốn hoàn toàn đúng đắn. Nhưng cuộc sống mưu sinh đã làm họ vô tình hủy hoại các tài nguyên sinh thái quý giá mà họ đang có. Khi phát triển sản phẩm DLST sẽ đóng góp một phần trong công cuộc xây dựng và bảo vệ cuộc sống của những người dân địa phương trước những cám dỗ bên ngoài. Tính giáo dục trong việc sản xuất và tiêu dùng sản phẩm DLST giúp người dân địa phương nhận ra rằng: những giá trị văn hóa mà họ đang có là tài sản vô cùng quý giá và riêng có. Chính đó mới là cơ sở để thu hút khách du lịch và mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương của họ. c, Sản phẩm DLST bao hàm cả các dịch vụ thuyết minh, diễn giải mang tính giáo dục. Tính giáo dục trong sản phẩm DLST là đặc điểm không thể thiếu để phân biệt với các sản phẩm du lịch khác. Trong những loại hình du lịch thông thường, du khách mong muốn được thỏa mãn những nhu cầu thông thường như: nghỉ ngơi giải trí, thư giãn nhằm mục đích chính là tái sản xuất sức lao động để rồi quay trở lại công sở với không khí làm việc mới đầy hứng khởi. DLST là một hình thức du lịch mới và hoàn toàn khác. Những ý nghĩa và giá trị mà DLST mang lại vượt ra khỏi những nhu cầu thông thường của khách du lịch. Chính mục đích bảo bệ môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa xã hội của người dân địa phương và được gần gũi với thiên nhiên đã đưa tính giáo dục vào trong DLST. Kết quả là, mỗi khách du lịch sau khi tham gia một chương trình DLST thường học hỏi một cáì đó mới, có ý nghĩa dù đó là kiến thức đơn giản. Những bài học này được đưa ra ngay từ khi khách du lịch bắt đầu tham gia tour du lịch thông qua việc cung cấp thông tin về điểm đến tham quan, những yêu cầu và nguyên tắc tham gia vào một tour DLST. Sản phẩm DLST giúp người tham gia du lịch hiểu biết hơn về các hệ sinh thái. Thông thường, mỗi chúng ta đều biết được có rất nhiều loài động thực vật đang sinh sống và cùng tồn tại trên trái đất. Việc tồn tại các hệ sinh thái vốn được chúng ta hiểu như sự sẵn có trong tự nhiên. Tuy nhiên, rất ít người trong số chúng ta lại có kiến thức và hiểu biết về từng loài động thực vật đang tồn tại trong tự nhiên, trừ phi đó là những chuyên gia sinh học hoặc các nhà khoa học vì môi trường. Đồng thời, sản phẩm DLST cũng chứng tỏ khả năng thích nghi của con người trong môi trường sống tự nhiên. Mặc dù lịch sử đã chứng minh, loài người là loài động vật bậc cao, đã trải qua một quá trình tiến hóa rất dài để được như ngày hôm nay nhưng chúng ta nhận thấy rằng: Hình như càng tiến hóa, khả năng chống chọi của chúng ta trước những cản trở của tự nhiên càng kém hơn so với các loài động vật khác và so với chính bản thân mình. Cho đến nay, bất cứ một hành động hay chương trình vì mục đích kinh tế đều được giám sát bởi các tổ chức môi trường. Các tổ chức này ra đời nhằm bảo vệ môi trường sống và các hệ sinh thái vốn tự nó đã bền vững từ trước đó. Con người không nên quá tự hào về khả năng chinh phục mà đôi khi là xâm hại thiên nhiên, hãy chứng tỏ khả năng sống hài hòa với thiên nhiên của mình. d, Sản phẩm DLST trực tiếp mang lại phúc lợi cho cộng đồng dân cư địa phương. - Những đóng góp về vật chất: Cũng giống như các loại hình du lịch khác, DLST đem lại vật chất, cơ hội việc làm cho những người dân địa phương. Sự gia tăng về lượng khách du lịch tới 1 điểm tham quan thường kéo theo sự phát triển của các nhà hàng, khách sạn cũng như các dịch vụ kèm theo. Sự mở rộng các cơ hội tiếp xúc với khách du lịch, sự tăng các nguồn và lượng thông tin trao đổi mới đã thổi một luồng sinh khí cho cộng đồng dân cư địa phương, làm cho họ bừng tỉnh và phải thừa nhận về sự tồn tại của thế giới bên ngoài hoàn toàn khác biệt với những gì mà họ quen sống. Họ nhận thức được rằng còn có những cơ hội việc làm và những nguồn thu nhập khác có thể mang lại cuộc sống dồi dào vật chất hơn. Trong bối cảnh này, bằng những cách thức khác nhau, những người dân tộc thiểu số đã và đang hòa nhập vào sự phát triển du lịch nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương nói chung. - Những đóng góp về tinh thần: DLST còn mang lại những lợi ích về tinh thần cho cộng đồng địa phương, đó là những nguồn động lực lớn để thúc đẩy họ tham gia vào hoạt động du lịch một cách tích cực. Cộng đồng dân cư địa phương được tôn trọng và không bị phân biệt về văn hóa địa phương, từ giọng nói, ngôn ngữ, cách ăn mặc đến cách sinh hoạt trong đời sống xã hội. Họ được thừa nhận quyền làm chủ đối với tài nguyên tự nhiên: động thực vật, rừng, đất đai, nguồn nước nơi họ đã sinh ra và lớn lên. Và họ cũng có quyền tham gia, làm công tác tham mưu, lựa chọn và ra quyết định đối với cuộc sống của họ trong các dự án kinh tế xã hội được thực hiện tại địa bàn. - Những đóng góp nâng cao về mặt nhận thức: thông qua DLST, người dân địa phương sẽ ngày càng nhận thức được rằng du lịch ngày càng có xu hướng phát triển và tiềm năng phát triển đó xuất phát từ những mảng thị trường du lịch đang có những nhu cầu mới và đặc biệt mà chính họ là chủ thể đang sở hữu những giá trị to lớn có thể thỏa mãn được những nhu cầu ngày càng tăng đó. Chính những tài nguyên tự nhiên với vẻ đẹp rất đơn giản, nhẹ nhàng hoặc nét văn hóa thường ngày lại chính là điểm cực kỳ hấp dẫn đối với khách du lịch. Điều đó khiến họ cần phải gìn giữ các tài nguyên quý gía của chính mình và làm gương để những khách du lịch phải tuân thủ các nguyên tắc và bảo tồn các giá trị riêng có đó. 1.2.2.3. Những điều kiện để phát triển sản phẩm DLST a, Tài nguyên tự nhiên, văn hóa bản địa phong phú còn tương đối nguyên sơ có tính đặc thù cao của hệ sinh thái. DLST được thực hiện tại những nơi có tài nguyên tự nhiên dồi dào mà cụ thể là các hệ sinh thái được làm giàu bởi nhiều loài động thực vật khác nhau. Những yếu tố từ cây cối, nguồn nước, bầu khí quyển, đất đai cũng được tính đến. Tất cả các thành phần tự nhiên đó tuy có nhiều về số lượng nhưng không hề phát triển rời rạc, riêng lẻ. Chúng là một khối vững chắc, kết hợp, bổ sung cho nhau, cộng sinh cùng tồn tại và phát triển thành một thể thống nhất để có thể tự tái tạo một khi có sự mất mát, yếu kém ở một bộ phận nhất định. Tài nguyên tự nhiên trong DLST phải là những tài nguyên còn tương đối nguyên sơ, chưa từng bị con người can thiệp hoặc thay đổi. Trong một số giới hạn thì những thay đổi do con người gây ra đối với tự nhiên phải là những thay đổi chấp nhận được với khả năng tái tạo cao. Như vậy, DLST không cho phép con người can thiệp vào các hệ sinh thái tự nhiên, cho dù đó là những can thiệp mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho con người và cho dù con nguườ chấp nhận đền bù bằng vật chất cho những thiệt hại mà họ định gây ra đối với tự nhiên. b, Sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư địa phương trong việc tạo ra sản phẩm DLST. Sản phẩm DLST chỉ hấp dẫn và sẽ càng trở nên hấp dẫn hơn khi có sự tham gia của người dân địa phương. Thứ nhất, người bản địa có được những kinh nghiệm truyền thống rất quý báu về tự nhiên ở nơi mà họ đã sinh ra, lớn lên và đang sống. Những kinh nghiệm và kiến thức mang tính truyền thống này được đúc kết từ bao đời, thậm chí phải trải qua những hy sinh, tranh đấu để tồn tại trong thiên nhiên mới có được. Kiến thức về thiên nhiên của người dân địa phương có lợi và mang lại nhiều thông tin bổ tích cho các hướng dẫn viên làm việc trong các công ty lữ hành, những người làm công tác bảo vệ rừng quốc gia và ngày cả những tổ chức, cá nhân triển khai các dự án kinh tế nói chung và du lịch nói riêng tại một địa bản nhất định. Thứ hai, khi người dân bản địa được hưởng lợi ích trực tiếp từ các di sản do thiên nhiên ban cho và tổ tiên để lại thì họ không coi đó như di sản và coi đó là tài sản. Điều này có nghĩa là trong nhận thức, tư duy, hành động và thái độ của họ luôn khuyến khích để đóng góp những kiến thức truyền thống đó vào kho tàng của kiến thức nhân loại. Họ nhận thức được rằng cuộc sống sinh nhai của họ sẽ phụ thuộc phần lớn vào việc giữ gìn và bảo tồn bền vững số lượng các tài nguyên tự nhiên mà họ đang có. Chính vì vậy họ sẵn sàng tích cực chia sẻ, tham gia đóng góp vào các dự án kinh tế, du lịch liên quan tới cộng đồng địa phương của họ. Không thể có sản phẩm DLST khi không quan tâm đến quyền lợi của cư dân bản địa. Chính trị hợp lý và kinh tế công bằng là động lực thúc đẩy cư dân bản địa chủ động tích cực tham gia vào phát triển sản phẩm DLST. c, Sự cam kết lâu dài và thiết lập hệ thống các nguyên tắc, gía trị đạo đức trong kinh doanh sản phẩm DLST của các chủ thể quản lý Nhà nước và quản trị kinh doanh sản phẩm DLST. - Sự cam kết: Chính quyền địa phương là cơ quan quản lý hành chính tại địa phương, và là cơ quan đại diện, bảo vệ quyền lợi của người dân về kinh tế, văn hóa xã hội và sinh thái tại mỗi địa phương nhất định. Chính quyền địa phương là cơ quan đưa ra chính sách, chủ trương tầm vĩ mô nhằm mục địch ngày càng phát triển của địa phương mình. Các cơ quan quản lý về du lịch tương tự như vậy, cũng là các cơ quan quản lý hành chính nhưng đứng trên góc độ làm du lịch. Ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hai cơ quan nói trên cùng phối hợp, hành động để hoạt động du lịch tại mỗi địa phương đạt hiệu quả cao nhất. Kể từ khi các khái niệm về du lịch bền vững và DLST ra đời, phía chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý về du lịch đã nhận thấy xu hướng mới trong hoạt động kinh doanh du lịch. Họ có thể đông tình, thể hiện quan điểm ủng hộ trong các cuộc trao đổi, thảo luận với các nhà kinh doanh du lịch, với các tổ chức môi trường phi chính phủ và với cộng đồng dân cư địa phương, nhưng điều quan trọng là những cơ quan này phải thể hiện bằng những cam kết thực hiện của họ không những bằng văn bản mà còn là chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể. Từ đó, những nhà kinh doanh, những người dân địa phương có cơ sở, đường hướng rõ ràng và điều quan trọng là vững tin vào khả năng thành công trong việc triển khai DLST tại địa phương mình. - Thiết lập hệ thống các ngyên tắc và giá trị đạo đức: Hệ thống các nguyên và giá trị đạo đức trong kinh doanh sản phẩm DLST được thiết lập trên cơ sở trao đổi, bàn bạc thống nhất cách thực hiện, kiểm soát DLST giữa các cá nhân và tổ chức có liên quan trong hoạt động du lịch này. Những hệ thống này cũng là cơ sở để đánh giá chất lượng và mức độ phù hợp của những tổ chức, cá nhân tham gia, tiến hành hoạt động kinh doanh DLST. Tất nhiên, tùy thuộc vào đặc trưng từng địa phương, từng vùng và khu vực mà chi tiết cụ thể trong mỗi hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức nêu trên có phần khác nhau giữa các lãnh thổ nhưng phải thừa nhận là có cùng triết lý và nguyên tắc thực hiện chung. Các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện DLST đều chịu sự chi phối của những hệ thống các nguyên tắc đó. d, Có sự tư vấn, giám sát từ các tổ chức môi trường phi chính phủ. NGOs là các tổ chức phi chính phủ, quan tâm tới công tác bảo tồn các di sản văn hóa thiên nhiên. Các tổ chức này là các nhóm vùng và quốc tế như: Tổ chức bảo tồn thiên nhiên Quốc tế IUCN; tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD; hiệp hội du lịch châu Á – Thái Bình Dương PATA; Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới; Tổ chức quốc tế về động vật và thực vật quý hiếm… Các tổ chức NGOs hoạt động vì mục đích phi lợi nhuận, sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ phát triển hoạt động DLST vì nó mang lại những lợi ích thực tiễn bền vững. Họ tìm kiếm các hoạt động để hỗ trợ như: - Bảo vệ môi trường thông qua ngăn ngừa, cải thiện, sửa chữa và phục hồi những tài nguyên bị phá hủy. - Thúc đầy các cá nhân, tổ chức liên quan đến DLST nhận thức tốt hơn và bởi vậy quan tâm hơn thay vì cố gắng dùng triệt để các tài nguyên. Chính mục đích tốt đẹp vì môi trường và không đứng trên góc độ kiếm lời nên các NGOs được các bên liên quan tới hoạt động DLST đánh giá là tương đối độc lập, khách quan trong việc giữ vai trò tư vấn và giám sát việc triển khai hoạt động DLST. e, Nguồn khách DLST có đặc điểm tiêu dùng tương thích với sản phẩm DLST nơi đến. Khách DLST là người tiêu dùng du lịch với mục đích chính là tham quan nghiên cứu tài nguyên du lịch, có ý thức và trách nhiệm về bảo tồn và phát triển thiên nhiên, có trách nhiệm đối với cộng đồng dân cư bản địa. hành vi tiêu dùng của khách DLST có thể khái quát là không giết gì ngoài thời gian, không lấy gì ngoài những bức ảnh và không để lại gì ngoài những dấu chân. Sản phẩm DLST có tính hấp dẫn cao, quyến rũ được khách DLST bởi tính hấp dẫn của ba thành phần cốt lõi tạo ra hình ảnh thương hiệu của điểm DLST: Hệ động vật đa dạng quý hiếm, hệ thực vật phong phú quý hiếm và văn hóa dân gian độc đáo. Điều quan trọng là số lượng và loại khách du lịch sinh thái cần phải phù hợp với những đặc điểm của điểm đến. Điều này đòi hỏi phải có giám sát về các du khách. Sự hiểu biết về các nhóm khách, động cơ và đặc tính của họ đều là cần thiết để đẩy mạnh việc mở rộng thị trường và lập kế hoạch cung cấp các trang thiết bị và dịch vụ kể cả các yêu cầu về thông tin kiểm soát các tác động thông qua việc hạn chế số lượng hoặc khoanh vùng bảo vệ cho các mục đích sử dụng cũng như các loại hình du khách khác nhau. 1.2.3. Các điều kiện ảnh hưởng đến du lịch sinh thái 1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên về DLST Nhân tố chính của DLST chính là các điều kiện tự nhiên, cảnh quan thiên nhiên tại địa phương. Du khách đến với DLST của một địa phương với mục đích tham quan, ngắm cảnh hay khám phá một hệ sinh thái hoang sơ nào đó. Mục đích này chỉ thực sự được thoả mãn khi địa điểm DLST có điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng. Nên DLST muốn phát triển tốt cần phải có điều kiện tự nhiên về DLST thuận lợi. 1.2.3.2. Các yếu tố kinh tế xã hội của địa phương cũng như của cá nước và thế giới Hoạt động du lịch là hoạt động mang tính tổng hợp. Phát triển kèm theo nó là hàng loạt các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu ăn ở, đi lại, du ngoạn, vui chơi giải trí, mua sắm của du khách… Để đáp ứng được các nhu cầu này đòi hỏi các ngành kinh tế khác nhau phải cùng sản xuất và cung ứng sản phẩm và dịch vụ cho khách du lịch. Các ngành nghề kinh doanh này là một phần quan trọng của nền kinh tế xã hội tại một địa phương. Khi nền kinh tế xã hội phát triển mạnh, kéo theo đó là các hoạt động sản xuất kinh doanh này cũng phát triển mạnh, đáp ứng một cách đầy đủ và kịp thời nhu cầu phong phú đa dạng của du khách. 1.2.3.3. Sự quan tâm của các cấp chính quyền và của các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước Các doanh nghiệp tư nhân chính là những người trực tiếp hoạt động để tạo ra sản phẩm DLST. Sự quan tâm đầu tư phát triển của các doanh nghiệp trong nước hay ngoài nước là nhân tố chính để tạo nên những sản phẩm DLST đa dạng, độc đáo và thu hút khách du lịch. Nhưng hoạt động kinh tế cũng như các hoạt động khác đều phải được tiến hành dưới những nguyên tắc, những yêu cầu nhất định. Các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý chính là những người tạo nên một môi trường kinh doanh thuận lợi, đồng thời cũng ban hành một hệ thống luật pháp để điều hành hoạt động của các doanh nghiệp đi theo một định hướng nhất định, đạt mục tiêu phát triển DLST. 1.2.3.4. Ý thức phát triển và bảo vệ DLST của người dân Các địa điểm DLST mặc dù nằm ở những nơi hoang sơ nhưng thường gắn với cuộc sống của người dân bản địa. Đó có thể là những người có trình độ, được tiếp xúc với văn hoá hiện đại, nhưng đó cũng có thể là những nhóm người dân tộc thiểu số, cuộc sống du canh du cư. Nạn phá rừng, đốt nương làm rẫy của nhóm người này ảnh hưởng rất lớn tới nguồn tài nguyên thiên nhiên DLST. Nên ý thức và trình độ hiểu biết của người dân rất quan trọng đối với trường hợp này. Phát triển DLST phải đồng thời với việc xây dựng một ý thức phát triển và bảo vệ DLST của người dân bản địa. 1.2.4. Ý nghĩa của phát triển DLST 1.2.4.1. Phát triển DLST góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên Các khách du lịch xác định nhu cầu du lịch của minh là tìm hiểu và thưởng ngoạn các hệ sinh thái. Ý thức đúng đắn của khách du lịch giúp họ cân nhắc và suy nghĩ trước mỗi hành động có khả năng tác động tới môi trường xung quanh. Từ đó nảy sinh một khuynh hướng sẳn sàng đóng góp bằng những nguồn lực mà họ có: tài chính, kiến thức nghiên cứu khoa học để bảo vệ tài nguyên môi trường, để các hệ sinh thái tại nơi mà họ đến tham quan được bền vững và ngày một tốt hơn. Các nhà kinh doanh du lịch cũng đóng góp tài chính cho chính quyền sở tại, những nơi quản lý các tài nguyên DLST bằng những khoản thuế và lệ phí thu được từ hoạt động kinh doanh du lịch của mình. Bên cạnh đó, những tiêu chí và đòi hỏi cao hơn của DLST đới với công tác bảo vệ môi trường, gìn giữ các hệ sinh thái khiến các nhà kinh doanh DLST phải chuẩn bị kĩ lưỡng và đưa ra những yêu cầu cao hơn đối với hướng dẫn viên và với chính các khách du lịch mà mình phục vụ. Bên cạnh đó, phát triển DLST cũng góp phần giáo dục nâng cao ý thức cộng đồng dân cư địa phương trong bảo vệ môi trường sinh thái. Vì chính cộng đồng dân cư địa phương là người bạn và là người “chủ” của các hệ sinh thái trong môi trường tự nhiên nên họ cần được giáo dục về cách thức bảo vệ môi trường tự nhiên. Tăng cường quá trình nhận thức của người dân địa phương bằng việc xác định quyền làm chủ và trách nhiệm của bản thân họ đối với môi trường sinh thái xung quanh. Quá trình này làm cho dân cư địa phương hiểu được rằng: Tài nguyên sinh thái mà họ đang có là những tài sản vô cùng quý giá, giúp thay đổi cuộc sống của họ theo hướng tích cực. Chính họ là những người sẽ quyết định vận mệnh cuộc sống của họ trong việc khai thác các giá trị tài nguyên DLST vào đúng mục đích và phù hợp với nguyện vọng của họ. 1.2.4.2. Phát triển DLST góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa địa phương. Văn hóa địa phương mang đậm màu sắc và tồn tại cùng với các hệ sinh thái của môi trường thiên nhiên xung quanh. Mỗi loài động thực vật đều chịu ảnh hưởng của môi trường đã sinh ra nó. Cộng đồng dân cư địa phương cũng là một phần trong hệ sinh thái, họ cũng chịu những ảnh hưởng tương tự từ môi trường. Nên họ phải tự xây dựng cho mình những bản sắc văn hóa riêng bị ảnh hưởng nhiều bởi thiên nhiên và hệ sinh thái bao quanh. Chính các giá trị văn hóa địa phương là yếu tố thu hút sự tìm hiểu của các khách DLST đối với môi trường thiên nhiên. DLST ra đời, khuyến khích cộng đồng dân cư địa phương tham gia vào hoạt động du lịch theo hướng tích cực, sử dụng những giá trị văn hóa của mình cũng như những tài sản quý giá trong trao đổi giao lưu với các nền văn hóa khác. DLST xác định cộng đồng dân cư địa phương giao lưu, trao đổi văn hóa với bên ngoài những không để bị đồng hóa. Người dân địa phương phải hiểu rằng chính những nét văn hóa riêng có của họ mới là cái thu hút khách du lịch trong mối quan hệ với môi trường thiên nhiên xung quanh họ. DLST cũng chỉ ra cách kinh doanh du lịch mà không xâm hại tới văn hóa địa phương. Việc khai thác các giá trị văn hóa địa phương thu hút và để lại ấn tượng cho khách du lịch phải được thực hiện đúng cách. Điều này được thể hiện rõ trong các quy định thực hiện đối với những nhà kinh doanh DLST. 1.2.4.3. Phát triển DLST góp phần đạt được các mục tiêu phát triển xã hội. Mục tiêu phát triển xã hội hết sức cần thiết cho mỗi cộng đồng dân cư địa phương. DLST được đánh giá cao bởi tính khắt khe trong các yêu cầu thực hiện của nó. Những người tham gia vào DLST luôn hiểu rằng muốn gìn giữ các hệ sinh thái thiên nhiên, văn hóa bản địa ở nơi đến tham quan, việc cần làm trước tiên là hỗ trợ cộng đồng dân cư địa phương tại điểm đến tham quan có mức phát triển trên các mặt đời sống xã hội, giáo dục, y tế, kinh tế thỏa mãn nhu cầu của họ và tương đương với các vùng, miền lân cận. DLST còn giúp cộng đồng dân cư địa phương phát triển về mặt xã hội thông qua trao đổi văn hóa theo hướng tích cực. Hiện tượng người dân địa phương bị thu hút, thậm chí vứt bỏ bản sắc văn hóa của mình để chạy theo những lối sống mới của khách du lịch đang diễn ra. DLST tác động, nâng cao nhận thức của những người dân địa phương, giúp họ hiểu được rằng phát triển xã hội những phải gìn giữ bản sắc văn hóa riêng có của họ, tránh hòa trộn với văn hóa của thế giới bên ngoài. Vì văn hóa chính họ mới là thế mạnh để hấp dẫn khách du lịch, xây dựng kinh tế và tiếp đến mới là nền tảng để phát triển các mặt xã hội khác. 1.2.4.4. Phát triển DLST góp phần đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế Hiệu quả kinh tế là các yếu tố quyết định chung đối với các tổ chức cá nhân tham gia DLST, đặc biệt là mục tiêu đối với các nhà KDDL. DLST được đưa ra như một lựa chọn mới cho bất cứ Chính phủ của Quốc gia trên thế giới đang sở hữu nhiều tài nguyên tự nhiên và nhân văn quý giá. Mặc dù các nhà kinh doanh DLST không thoát khỏi động cơ lợi nhuận để tồn tại và phát triển nhưng cách làm và cách suy nghĩ trong việc khai thác tài nguyên của các hệ sinh thái để phục vụ du lịch lại hoàn toàn khác với các nhà kinh doanh du lịch đại trà. Các nhà kinh doanh thường hướng tới và thực hiện DLST phải tuân thủ những nguyên tắc, yêu cầu mang tính đạo đức và trách nhiệm cao. Những yêu cầu này mang tính chuẩn mực và đòi hỏi cao với mục tiêu chính là gìn giữ và bảo tồn các đặc tính tự nhiên của các hệ sinh thái bao gồm các loài động thực vật trong đó, các giá trị văn hoá, phong tục tập quán truyền thồng của những người dân địa phương sinh ra và cùng tồn tại với các hệ sinh thái đó. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, các nhà kinh doanh luôn tìm những phương án hiệu quả nhất, trung hoà những yêu cầu khắt khe của DLST với mục tiêu lợi nhuận của mình. DLST mang lại các lợi ích kinh tế tương tự như các loại hình du lịch khác. Một địa điểm DLST thường có nhiều dịch vụ vui chơi giải trí phát triển “ăn theo”. Đó có thể là các cơ sở ăn uống, nhà hàng khách sạn nghỉ ngơi, các trung tâm mua sắm hay các dịch vụ giải đáp thông tin… Các hoạt động này có mục đích thoả mãn các nhu cầu đa dạng của du khách. Có thể nói, sự phát triển của DLST mang lại một hiêu quả số nhân trong kinh tế. Vì kéo theo nó là sự phát triển của hàng loạt các hoạt động kinh doanh, dịch vụ bổ trợ cho du lịch nói chung và DLST nói riêng. Biểu hiện cụ thể: - Làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch. Nguồn thu này được lấy từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở KDDL thuộc quản lý trực tiếp của địa phương. Đặc biệt trong loại hình du lịch đón và phục vụ khách quốc tế, thu nhập quốc dân được tăng lên dựa trên số thu bằng ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. - Là loại hình xuất khẩu hiệu quả nhất vì đó là loại hình xuất khẩu tại chỗ (không cần phải chuyên chở, khách hang phải tự tìm đến để được thoả mãn nhu cầu) và vô hình (hàng hoá dịch vụ trong nhiều trường hợp chỉ là cảnh quan, thiên nhiên, khí hậu hay tính độc đáo của các hệ sinh thái, phong tục tập quán của cộng đồng dân cư địa phương). - Góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Vì chính yêu cầu hỗ trợ liên ngành trong hoạt động du lịch là cơ sở cho các ngành khác phát triển. Chính du lịch giúp nền kinh tế trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. - Mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng: đường xá, hệ thống điện nước, thông tin liên lạc. Đây là cơ sở để phát triển kinh tế - xã hội tại điểm đến tham quan. 1.2.5. Các loại hình du lịch sinh thái Các kiểu DLST được nhìn nhận dưới các hình thức khác nhau liên quan đến nhiều yếu tố: - Yêu cầu về đặc điểm của khu tự nhiên. - Quy mô của nhóm du lịch. - Yêu cầu về các điều kiện dịch vụ du lịch của khách. - Nhu cầu về du lịch. - Kinh nghiệm du lịch và mức độ hài lòng. Kết hợp các yếu tố trên có thể khái quát lại với 3 loại DLST chủ yếu: Kiểu DLST Yêu cầu về khu tự nhiên Quy mô nhóm Phương tiện, cơ sở dịch vụ Nhu cầu kinh nghiệm du lịch DLST tiên phong Các khu vực tự nhiên xa xôi, còn ít được sử dụng. Cá nhân hoặc nhóm nhỏ (dưới 10 người) Dùng vận tải thô sơ; ít nhu cầu về các dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Là kinh nghiệm “bất thường đầu tiên”, yêu cầu mức độ thách thức cao về sự hiểu biết và các kĩ năng hoạt động ngoài trời. DLST nhóm nhỏ Khu vực đặc biệt và thường là ở những nơi “biệt lập” Cá nhân, nhóm tương đổi nhỏ (dưới 15 người) Có sử dụng vận tải cơ giới đặc biệt (xe đi xuyên rừng, thuyền máy nhỏ) Yêu cầu sự thách thức và tính tự lập ở mức trung bình, phù hợp cho nhiều nhóm tuổi. Kỹ năng hoạt động ngoài trời ở mức vừa phải. DLST phổ biến (hay đại trà) Là các khu vực hấp dẫn về tự nhiên phổ biến và nổi tiếng. Nhóm khách với số lượng lớn. Dùng vận tải cơ giới lớn, phổ biến. Yêu cầu đáng kể về sơ sở hạ tầng và các dịch vụ. Yêu cầu kĩ thuật về tính tự lập và thách thức nói chung là thấp. Đáp ứng cho mọi đối tượng du khách, bất kể tuổi tác hoặc khả năng về sức khỏe. Nhiều nghiên cứu về các du khách đến thăm các vườn quốc gia trên thế giới cho thấy những khách DLST thực thụ nhìn chung chấp nhận những điều kiện khác với các khách du lịch thông thường. Họ thường không đòi hỏi nhiều các nhu cầu về tiện nghi, trong khi lại yêu cầu cao về thông tin, kinh nghiệm du lịch, sử dụng các đồ ăn, vật dụng của địa phương. Đồng thời, họ không ngần ngại chi cho chuyến đi, đóng góp cho bảo tồn và phát triển cộng đồng. Vì vậy, trong các khu tự nhiên cần được bảo vệ như các vườn quốc gia, kiểu DLST tiên phong và nhóm nhỏ nên được khuyến khích, trong khi cần hạn chế kiểu DLST phổ biến (đại trà). Ngoài ra trong các khu tự nhiên hay các vườn quốc gia còn có các hoạt động tham quan có quan hệ khá gần gũi với DLST như: tham quan vườn thực vật, khu nuôi thú hoặc nơi trưng bày các mẫu về hệ thực vât - động vật bản địa của các khu tự nhiên khó tiếp cận. Mặc dù yếu tố giáo dục và giải thích, và bao hàm những mục tiêu DLST, song các hoạt động này không diễn ra hoặc không phụ thuộc trực tiếp và khu tự nhiên, nên không được liệt vào đối tượng chủ yếu của DLST. 1.2.6. Mối quan hệ của du lịch sinh thái với các loại hình du lịch khác 1.2.6.1. Du lịch sinh thái với du lịch văn hoá Tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái mới nghe qua đã thấy nó dường như khác biệt hoàn toán với văn hoá. Du khách đến với DLST là để khám phá tự nhiên, hoà mình vào cuộc sống hoang dã với bao nhiều điều mới mẻ và thú vị. Còn đối với du lịch văn hoá, những tinh hoa văn hoá, thuần phong mỹ tục mới là điều hấp dẫn, thu hút du khách. Thế nhưng khi đến với DLST, ngoài vẻ đẹp của tự nhiên, du khách còn có thể tìm hiều, khám phá văn hoá của người dân bản địa, những người gắn cuộc sống của mình với tự nhiên, tài nguyên DLST. Đôi khi đó chỉ là những nền văn hoá hoang sơ của một nhóm người dân tộc thiểu số, hoặc có thể là nền văn hoá cổ xưa trài qua hàng nghìn năm nhưng lại thu hút được rất nhiều khách du lịch. Như vậy, có thể nói, du lịch văn hoá và DLST tuy không có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng trong một số trường hợp cụ thể, chúng bao hàm lẫn nhau, hỗ trợ nhau phát triển. 1.2.6.2. Du lịch sinh thái và du lịch lịch sử Một cách tổng thế, du lịch lịch sử là tham quan tìm hiểu về các địa danh lịch sử, tiếp thu những kiến thức nhất định về địa điểm du lịch từ đó nâng cao hiểu biết lịch sử của mình. Có thể thấy, DLST và du lịch lịch sử hoàn toàn không có mối quan hệ với nhau. Nhưng khi những địa điểm du lịch lịch sử nằm xen kẽ, gần địa điểm DLST thì việc kết hợp hai loại hình này với nhau là một biện pháp khôn ngoan. Cả hai sẽ cùng thu hút khách du lịch, tạo những dấu ấn riêng hấp dẫn, lôi cuốn khách du lịch. 1.2.6.3. Du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm Du lịch mạo hiểm là hoạt động thể chất ngoài trời hoặc các hoạt động kết hợp diễn ra tại một khu vực thiên nhiên nhất định mà nó yêu cầu những phương tiện vận tải khác với truyền thống. Những hoạt động này thường có tính mạo hiểm và mức độ rủi ro thì tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường và bản chất của các hoạt động và phương tiện vận tải được sử dụng. Đây cũng là một loại hình du lịch đến với thiên nhiên nhưng không với mục đích tìm hiểu hệ sinh thái mà khai thác tài nguyên tự nhiên để phục vụ mục đích mạo hiểm, chinh phục thiên nhiên. Như vậy, có thể thấy DLST và du lịch mạo hiểm có cùng đối tượng du lịch nhưng mục đích của du khách lại khác nhau. 1.2.6.4. Du lịch sinh thái với du lịch bền vững Du lịch bền vững được hiểu là sự bảo tồn cơ sở tài nguyên với mục đích phát triển và mở rộng theo hướng tốt hơn trong tương lai bằng cách đảm bảo rằng những nguồn tài nguyên sẽ được bền vững trên đầy đủ các khía cạnh: sinh thái, kinh tế, văn hoá và xã hội. DLST tìm kiếm quan hệ tốt hơn giữa con người và môi trường sinh thái, trong đó chú trọng tới vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi trường sống. DLST chấp nhận đánh đối các lợi ích kinh tế trước mắt để lấy lại các lợi ích lâu dài vì môi trường và các hệ sinh thái trong đó. Như vậy, DLST và du lịch bền vững giống nhau về mục đích chung là bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái. Đồng thời cả hai cùng phải tuân theo nguyên tắc về sức chứa với bốn khía cạnh chính là vật lý, sinh học, tâm lý và văn hoá xã hội. Xét một cách tổng thể, có thể thấy DLST là một bộ phận hay chính xác hơn là một loại hình và là một phương thức của du lịch bền vững. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở THỪA THIÊN HUẾ 2.1. TỔNG QUAN VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở THỨA THIÊN HUẾ 2.1.1. Khách du lịch 2.1.1.1. Số lượng khách du lịch Năm 1995, tổng lượng khách du lịch đến với Thừa Thiên Huế đạt 277.400 lượt khách. Mặc dù năm 1993, quần thể di tích triều Nguyễn đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới nhưng đến năm 1995, tiềm năng du lịch này vẫn chưa thực sự được khai thác triệt để. Tổng lượt khách du lịch đến Thừa Thiên Huế vẫn là một con số khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng. Năm 2000, với sự cố gắng của các cấp chính quyền cũng như sự đầu tư của các doanh nghiệp lữ hành, số lượng khách đến tỉnh đã tăng lên đáng kể, đạt được con số 470.000 lượt khách, tăng gần gấp đôi so với năm 1995. Đây là một bước tiến khá quan trọng trong sự phát triển du lịch tỉnh nhà. Đến năm 2005, con số này đã lên tới 1.050.000 lượt, và năm 2008 là 1.680.000 lượt người. Có thể thấy, du lịch Thừa Thiên Huế đang trên đà phát triển, trở thành một thế mạnh của kinh tế tỉnh nhà. Du khách trong nước cũng như nước ngoài đều biết đến Huế như một thành phố du lịch xanh và cổ kính với nhiều di tích văn hóa, lịch sử từ hàng trăm năm trước. 2.1.1.2. Cơ cấu khách du lịch Giai đoạn 2000 – 2006, cơ cấu khách du lịch thay đổi theo hướng tỉ trọng khách du lịch nội địa tăng mạnh, tỷ trọng khách du lịch quốc tế ngày càng chiếm tỉ lệ nhỏ. Đây là một khuynh hướng khá tiêu cực đối với ngành du lịch, nó ảnh hưởng không nhỏ tới doanh thu du lịch nói chung và GDP của tỉnh nói riêng. Nhưng trong hai năm gần đây, tỉ trọng khách quốc tế đã có những chuyển biến tích cực, tăng nhanh trong biểu đồ cơ cấu khách du lịch đến Thừa Thiên Huế hàng năm Năm Khách nội địa Khách quốc tế Số lượng Tỉ trọng (%) Số lượng Tỉ trọng (%) 2000 275.000 58,51 195.000 41,49 2001 328.000 59,52 232.500 41,48 2002 391.000 59,97 272.000 41,03 2003 400.040 65,58 210.000 34,42 2004 500.000 65,79 260.000 34,21 2005 681.000 64,86 369.000 35,14 2006 794.000 65,55 436.000 35,44 2007 851.200 57,18 666.590 43,92 2008 889.250 52,93 790.750 47,07 Nhìn vào bảng số lượng và tỉ trọng khách du lịch ở trên, có thể thấy năm 2003 đã có một sự biến động lớn về lượng khách du lịch quốc tế đến với Thừa Thiên Huế. Lượng khách du lịch quốc tế giảm mạnh, chỉ bằng 77,2% so với năm 2002, tỉ trọng giảm từ 41,03% xuống còn 34,42%. Dịch bệnh SARS và một số dịch bệnh lây nhiễm khác trong năm này đã khiến nhiều khách du lịch huỷ bỏ các tour du lịch đặt trước. Bên cạnh đó, công tác xúc tiến, tuyên truyền của tỉnh vẫn chưa thực sự hiệu quả trong việc quảng cáo sản phẩm du lịch của tỉnh. Những năm sau đó, lượng khách quốc tế đến Thừa Thiên Huế tăng lên nhưng tỉ trọng của nó vẫn không có sự thay đổi đáng kể. Festival là một trong những sự kiện thu hút được rất nhiều khách du lịch đến Huế. Được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, trải qua 5 lần tổ chức, Festival Huế đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng du khách. Năm 2006, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định phê duyệt đề án xây dựng thành phố Huế - thành phố Festival của Việt Nam. Đây thực sự là một điểm nhấn trong phát triển du lịch ở Thừa Thiên Huế, tạo nên những chuyển biến tích cực về lượng khách du lịch những năm sau đó. Năm 2007 đánh dấu một bước đột phá của chỉ tiêu này, lượng khách du lịch quốc tế đạt 666.590 lượt người, tăng 52,89% so với năm 2006 và tỉ trọng tăng vọt từ 35,44% lên 43,07%. Đây là một dấu hiệu tích cực đối với ngành du lịch Thừa Thiên Huế, tạo ra một triển vọng về thành phố du lịch được du khách trên khắp thế giới biết đến và ủng hộ. Năm 2008, lượng khách quốc tế đến Huế vẫn tiếp tục tăng mạnh cả số lượng lẫn tỉ trọng khách du lịch. Tuy nhiên, với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, lượng khách du lịch đến Huế dự báo sẽ có sự biến động trong những năm tiếp theo. 2.1.1.3. Thời gian lưu trú Năm 2005, số ngày lưu trú bình quân của khách du lịch Thừa Thiên Huế mới đạt 1,98 ngày với khách quốc tế và 1,93 ngày với khách nội địa. Tổng số ngày khách đạt hơn 2.000.000 ngày trong đó ngày khách quốc tế đạt hơn 732.000 ngày và ngày khách nội địa đạt hơn 1.300.000 ngày. Năm 2008, số ngày lưu trú bình quân tăng chậm, đạt 2,01 ngày với khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa là 1,94 ngày. Số ngày khách quốc tế của Thừa Thiên Huế mới chiếm tỷ trọng 4,02% (so với cả nước) và 23,44% (so với khu vực Miền trung - Tây nguyên). Như vậy, tỷ trọng của khách du lịch Thừa Thiên Huế đối với du lịch Việt Nam và khu vực Miền trung - Tây Nguyên cũng còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của Thừa Thiên Huế trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam và khu vực Miền trung - Tây nguyên. 2.1.1.4. Mùa du lịch Mùa du lịch là yếu tố phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, khí hậu cũng như phong tục tập quán của nơi du lịch cũng như quê hương của khách du lịch. Những du khách đến từ những quốc gia khác nhau với nền văn hóa khác nhau sẽ có những mùa du lịch khác nhau. Với khách nội địa, mùa du lịch thường bắt đầu vào khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5 với kì nghỉ lễ dài nhất trong năm. Tiếp theo là những tháng hè với thời tiết khô ráo nhất trong năm, rất thích hợp cho những tour du lịch ngoài trời, thăm thú cảnh quan thiên nhiên. Mùa du lịch của khách nội địa thường kết thúc vào tháng 10,11 vì đây là khoảng thời gian mưa nhiều ở Huế, các hoạt động du lịch diễn ra không thuận lợi. Đối với khách du lịch quốc tế, tháng cuối năm với kì nghỉ Giáng sinh và năm mới kéo dài là khoảng thời gian đi du lịch thích hợp nhất. Với hầu hết khách quốc tế, đây là khoảng thời gian mà khi hậu ở nước họ rất khắc nghiệt, nên họ có xu hướng lựa chọn những đất nước nhiệt đới, có nhiệt độ cao, ấm áp làm nơi du lịch nghỉ dưỡng. Và Việt Nam, trong đó có Thừa Thiên Huế là một trong những điểm đến thú vị. 2.1.2. Sản phẩm du lịch 2.1.2.1. Các tuyến du lịch - Các tuyến du lịch nội tỉnh. Tuyến du lịch Cố đô Huế; Tuyến du lịch Thành phố Huế - Thuận An - Phá Tam Giang - Đầm Cầu Hai; Tuyến du lịch Thành phố Huế - Cảnh Dương - Bạch Mã - Lăng Cô - Hải Vân; Tuyến du lịch Thành phố Huế - A Lưới - đường mòn Hồ Chí Minh - Các tuyến du lịch liên tỉnh. Tuyến du lịch Huế - A Lưới - Đường mòn Hồ Chí Minh - Khe Sanh - Lao Bảo; Huế - Quảng Trị - Lao Bảo; Tuyến du lịch Huế - Cảnh Dương - Bạch Mã - Lăng Cô - Hải Vân - Đà Nẵng - Hội An. 2.1.2.2. Cơ sở lưu trú Năm 1995 số phòng lưu trú đạt 1.349 phòng, 2000 đạt 2.115 phòng, năm 2005 đạt 4000 phòng; còn năm 2008 con số này đạt 6131 phòng; giai đoạn 1995 - 2005 tốc độ tăng trưởng phòng khách sạn thực tế đạt 11,48%/năm. Số phòng lưu trú của tỉnh có tốc độ tăng chậm, chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của khách du lịch So với cả nước và khu vực miền Trung - Tây Nguyên, số phòng lưu trú của Thừa Thiên Huế mới đạt 3,69% (cả nước) và 12,88% (khu vực miền Trung - Tây Nguyên).. Về cơ cấu hệ thống cơ sở lưu trú. Tính đến năm 2008, toàn tỉnh có 279 cơ sở lưu trú với hơn 6.000 phòng và 11.345 giường trong đó có 247 cơ sở lưu trú đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế. Số lượng khách sạn là 136 khách sạn với gần 5.400 phòng, trong đó có 70 khách sạn được công nhận hạng 1 - 4 sao chiếm tỷ lệ 24,44% trong tổng số cơ sở lưu trú của tỉnh. Công suất sử dụng phòng bình quân năm 2008 là 60 - 65%. Nhìn chung, chất lượng cơ sở lưu trú của Thừa Thiên Huế đang tăng lên khá nhanh về số lượng. Số lượng khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 - 4 sao cũng tăng lên hiện chiếm hơn 20% trong tổng số cơ sở lưu trú. Tuy nhiên, tỷ lệ khách sạn quy mô nhỏ (dưới 20 phòng) vẫn còn khá lớn chiếm tỷ lệ 30% số khách sạn của Thừa Thiên Huế và đặc biệt chúng đang có chiều hướng phát triển nhanh. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ lưu trú của du lịch Thừa Thiên Huế. Khách sạn quy mô nhỏ chiếm tỉ lệ cao cũng là biểu hiện của sự phát triển du lịch cộng đồng ở Huế. Hầu hết các hộ gia đình, các đơn vị kinh doanh nhỏ với nguồn vốn có hạn và mục tiêu thu hồi vốn nhanh chỉ triển khai xây dựng các khách sạn nhỏ, chất lượng vừa đủ phục vụ khách du lịch. 2.1.2.3. Cơ sở ăn uống và vui chơi giải trí Với mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, đồng thời thoả mãn nhu cầu khám phá, thưởng thức của khách du lịch; việc phục hồi các loại hình văn hoá truyền thống đạt được nhiều thành quả đáng biểu dương thông qua việc tổ chức thành công các kỳ Festival, các nhà sáng tác, nghệ sĩ, nghệ nhân và học sinh sinh viên các trường Đại học Nghệ Thuật Huế đã góp phần lưu giữ và phát huy những giá trị văn hoá đặc sắc, độc đáo của Di sản phi vật thể Huế đưa vào phục vụ du lịch có hiệu quả. Nhiều điểm vui chơi giải trí, các công trình phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi thư giãn cho nhân dân và cho du khách được xây dựng. Hệ thống các nhà hàng trên địa bàn có sự tăng nhanh về lượng và chất; trong đó một số nhà hàng được đầu tư lớn, đủ tiện nghi và điều kiện phục vụ, đáp ứng được nhu cầu của đối tượng khách có thu nhập và chi tiêu cao. 2.1.2.4. Vận chuyển khách du lịch Các loại hình vận chuyển khách được từng bước đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. Đến nay, số đầu xe trong các doanh nghiệp du lịch khoảng 80 xe chất lượng tốt với năng lực vận chuyển khoảng 1.200 chỗ; Các phương tiện vận chuyển công cộng phát triển mạnh, chất lượng các loại hình vận chuyển bằng xe thô sơ từng bước được nâng lên. Số lượng thuyền du lịch trên sông có gần 125 chiếc, đủ năng lực vận chuyển khách kể cả trong mùa cao điểm. Sân bay Phú Bài được cải tạo nâng cấp đủ khả năng tiếp nhận các loại máy bay cỡ lớn và được công nhận là sân bay đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bước đầu khai thác có hiệu quả việc đón tàu du lịch cập cảng Chân Mây, trong 5 tháng đầu năm 2007 đã tổ chức đón 8 tàu du lịch nước ngoài với hơn 8.000 lượt khách. 2.1.3. Kết quả kinh doanh du lịch Doanh thu du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế năm 1995 đạt 93.400 triệu đồng; năm 2000 đạt 190.000 triệu đồng trong đó nộp cho ngân sách của tỉnh là 12.000 triệu đồng; năm 2005 đạt 543.000 triệu đồng, nộp ngân sách đạt 14.000 triệu đồng; tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1995 - 2005 đạt 19,25%/năm. Năm 2006, doanh thu du lịch đạt 731.000 triệu đồng, năm 2007 con số này là 1.060.270 triệu đồng, vượt kế hoạch đặt ra. Năm 2008, doanh thu du lịch tăng 7,85%, đạt 1.143.500 triệu đồng. Doanh thu du lịch ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong GDP của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng của GDP du lịch luôn cao hơn rất nhiều so với GDP của tỉnh, vì vậy nên tỉ trọng này ngày càng tăng. Năm 1996 là 11,6%, đến năm 2005 là 28,5% và năm 2008 tỉ lệ này đạt 34,2%. Theo dự báo, tỉ lệ GDP du lịch trên tổng GDP toàn tỉnh đến năm 2010 tiếp tục tăng, đạt 38,5%. Theo số liệu điều tra, cơ cấu doanh thu của du lịch Thừa Thiên Huế hiện tại như sau: Doanh thu lưu trú chiếm tỷ trọng từ 25 - 30% tổng doanh thu; Doanh thu ăn uống chiếm tỷ lệ 15 - 20% tổng doanh thu; Dịch vụ vận chuyển chiếm khoảng 15 - 20% tổng doanh thu; Doanh thu từ bán hàng hoá lưu niệm chiếm khoảng 10 - 15%; Vui chơi giải trí chiếm 5 - 10% tổng doanh thu; Các dịch vụ khác chiếm 5% tổng doanh thu. 2.1.4. Đầu tư phát triển du lịch 2.1.4.1. Đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch Trong thời gian qua hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch đã thu được một số kết quả khả quan trên nhiều lĩnh vực như: - Về giao thông, triển khai các dự án đầu tư hệ thống giao thông đến các khu du lịch như đường phía Tây đầm Lập An; đường nối cảng Chân Mây đến cửa Tư Hiền và đường xuống Bãi Cả; hệ thống đường khu du lịch Lăng Cô; đường đô thị đoạn QL 1A qua Thành phố Huế; mở rộng cảng Chân Mây; đầu tư nâng cấp sân bay Phú Bài nhằm xây dựng thành cảng hàng không quốc tế; nâng cấp Ga Huế thành ga trung tâm của thành phố du lịch. - Về cấp điện, triển khai các dự án cấp điện như: Dự án cấp điện cho khu du lịch Lăng Cô - Cảnh Dương; Dự án lưới điện khu du lịch Bạch Mã; Dự án di dời đường dây 110 KVA qua khu du lịch Lăng Cô - Về cấp nước, triển khai các dự án cấp nước gồm: dự án cấp nước cho Thành phố Huế, Phú Bài, Thị trấn A Lưới; Dự án cấp nước sạch cho khu tam giác Lăng Cô - Bạch Mã - Cảnh Dương và một số dự án cải tạo nâng cấp hệ thống cấp nước ở các huyện và khu đô thị khác. - Về hệ thống thoát nước và xử lý chất thải, tập trung vào các hệ thống thoát nước và xử lý rác thải, vệ sinh môi trường ở các khu vực đô thị. Đến nay đã cơ bản hoàn thành hệ thống thoát nước và xử lý nước thải ở Thành phố Huế và một số khu vực đô thị đảm bảo vệ sinh môi trường. Các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng nói trên đã góp phần thúc đẩy du lịch phát triển thông qua việc tạo ra môi trường đầu tư với những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển du lịch tại Thừa Thiên Huế. 2.1.4.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật và sản phẩm du lịch Về dịch vụ lưu trú: Trong thời gian qua, ngành du lịch đã tham mưu cho UBND Tỉnh ban hành những quy định về điều kiện và tiêu chuẩn để được xây dựng các cơ sở lưu trú, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các dự án xây dựng các cơ sở lưu trú chất lượng cao, quy mô trên 100 phòng được triển khai nhanh chóng. Bên cạnh đó, hoạt động lưu trú phát triển mạnh cả về lượng và chất. Đến năm 2006 lần đầu tiên Thừa Thiên Huế có khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao. Tính đến nay, toàn tỉnh có 113 doanh nghiệp kinh doanh lưu trú quản lý 134 cơ sở lưu trú với 4534 phòng, 8652 giường. Về dịch vụ lữ hành: Đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh có 25 đơn vị kinh doanh lữ hành, trong đó có 14 đơn vị lữ hành quốc tế. Nhìn chung hoạt động lữ hành có nhiều tiến bộ, các đơn vị lữ hành quốc tế ngoài việc tập trung khai thác các thị trường truyền thống là Tây Âu, Bắc Mỹ, thời gian gần đây đã chuyển hướng khai thác mạnh thị trường các nước gần, khu vực đông bắc Á, các nước ASEAN. Đã tố chức điều tra nghiên cứu phát triển một số cụm điểm du lịch mới hay tổ chức Hội thảo phát triển các tour tuyến du lịch cho các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được tài nguyên du lịch nhằm xây dựng các chương trình du lịch mới. Về dịch vụ văn hoá và vui chơi giải trí: Đầu tư tổ chức thành công các kì Festival đã góp phần lưu giữ và phát huy những giá trị văn hoá đặc sắc, độc đáo của Di sản vật thể và phi vật thể Huế đưa vào phục vụ du lịch vó hiệu quả. Bên cạnh đó, nhiều điểm vui chơi giải trí, các công trình phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi thư giãn cho nhân dân và cho du khách được xây dựng. Hệ thống các nhà hàng trên địa bàn có sự tăng nhanh về lượng và chất; trong đó một số nhà hàng được đầu tư lớn, đủ tiện nghi và điều kiện phục vụ, đáp ứng được nhu cầu của đối tượng khách có thu nhập và chi tiêu cao. 2.1.5. Nguồn nhân lực du lịch 2.1.5.1. Dự báo nhu cầu lao động Du lịch là một ngành đang trên đà phát triển mạnh ở Thừa Thiên Huế. Những năm qua, nhu cầu lao động của ngành kinh tế này đã có những biến thiên tương đối tích cực.Dưới đây là những con số về nguồn nhân lực du lịch giai đoạn 2000 – 2005 cũng như phần dự báo cho năm 2010. Đơn vị tính: Nghìn người Chỉ tiêu Năm TTBQ 2000 - 2010 2000 2005 2010 Lao động trực tiếp 8.88 14.41 21.64 13.92% Lao động gián tiếp 19.54 31.70 47.61 13.92% Tổng cộng 28.42 46.11 69.25 13.92% 2.1.5.2. Thực trạng Lao động trong du lịch Thừa Thiên Huế năm 1995 đạt 1.600 lao động, năm 2000 đạt 2.650 lao động, năm 2005 đạt 5.000 lao động, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1995 – 2005 đạt 12,07%/năm. Năm 2005, so với cả nước và khu vực miền trung - tây nguyên, lao động du lịch của Thừa Thiên Huế đạt 2,56% (cả nước) và 12,02% (khu vực Miền trung - tây nguyên). Năm 2007 số lượng lao động trong ngành du lịch Thừa Thiên Huế là 4.600 lao động tăng 400 người (9,52%) so với năm 2005. Ước tính năm 2008 số lao động trong ngành du lịch Thừa Thiên Huế là 5.100 người tăng 500 người (10,87%) so với năm 2007. Về chất lượng, lao động ngành du lịch Thừa Thiên Huế có khoảng 70% là lao động đã qua đào tạo với 30% đạt trình độ Đại học và cao đẳng, 20% được đào tạo bậc trung cấp. Đội ngũ lễ tân và hướng dẫn viên du lịch hầu hết được đào tạo về chuyên môn và ngoại ngữ. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ lao động của Thừa Thiên Huế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển du lịch hiện nay. 2.1.6. Tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh du lịch Hệ thống kinh doanh du lịch Thừa Thiên Huế khá phát triển với số lượng lớn, đa dạng về các hình thức sở hữu như quốc doanh, vốn đầu tư nước ngoài, tư nhân….; về loại hình tổ chức như doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, hộ gia đình kinh doanh phần; đa dạng về loại hình dịch vụ như khách sạn, vận chuyển, nhà nghỉ, nhà khách, khu nghỉ dưỡng, khu du lịch, khu vui chơi giải trí, lữ hành… cho thấy, môi trường kinh doanh du lịch khá hấp dẫn. Năm 1996 toàn tỉnh mới có 61 doanh nghiệp du lịch, đến năm 2006, có 135 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có hàng ngàn hộ kinh doanh cá thể tập trung chủ yếu ở TP Huế và một số điểm du lịch khác trong tỉnh cho thấy sức hấp dẫn của hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. 2.1.7. Tiếp thị và xúc tiến, tuyên truyền quảng cáo Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến thị trường được ngành du lịch quan tâm đúng mức, tuy vậy hoạt động này chủ yếu được thực hiện từ nội lực của các doanh nghiệp. Việc quảng bá điểm đến thuộc trách nhiệm của Sở Du lịch, nhưng việc này chưa được thực hiện tốt. Một số ấn phẩm tuyên truyền quảng bá giới thiệu về tiềm năng và triển vọng phát triển du lịch của địa phương đã được xây dựng; xúc tiến triển khai dự án xây dựng trung tâm thông tin và cổng thông tin điện tử của ngành. Việc tuyên truyền tại chỗ, tại các cửa khẩu quốc tế, nhất là tại sân bay Phú Bài chưa duy trì thường xuyên, chủ yếu được triển khai theo từng đợt cao điểm như các kỳ Festival, các sự kiện lớn nhằm tập trung cung cấp thông tin và hỗ trợ tư vấn về các dịch vụ phục vụ nhu cầu tìm hiểu thông tin của khách. Bằng kinh phí của Ban chỉ đạo phát triển du lịch, chuyên mục "Ống kính du lịch" được duy trì thường xuyên trên HTVT nên cũng đã góp phần nâng cao nhận thức trong nhân dân và có tác dụng tuyên truyền quảng bá tốt. Trong khuôn khổ hợp tác du lịch với các địa phương lân cận, ngành du lịch cũng đã phối hợp đón các đoàn Famtour gồm đại diện các hãng lữ hành, hãng hàng không và các nhà báo quốc tế để tuyên truyền ra các thị trường quốc tế trọng điểm. Về chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động lữ hành, khách sạn, vận chuyển và các dịch vụ khác do được các doanh nghiệp nhận thức cao về tầm quan trọng và hiệu quả thiết thực của CNTT trong lĩnh vực kinh doanh, nên nhiều đơn vị đã đầu tư hàng trăm triệu đồng cho công tác này. Tuy nhiên, hoạt động quảng bá tuyên truyền cho hình ảnh của du lịch Thừa Thiên Huế chưa thực sự có tính chuyên nghiệp, chủ yếu tiến hành tập trung trong dịp festival Huế; ngân sách cho các hoạt động quảng bá tuyên truyền còn thấp; các phương tiện quảng bá tuyên truyền như Website, ấn phẩm quảng bá… chất lượng chưa cao, hoạt động xúc tiến, tìm kiếm khai thác thị trường mới chưa được thực hiện chủ động, chưa khai thác được các thị trường mới do đó hiệu quả tuyên truyền, quảng bá chưa cao cần được đẩy mạnh hơn đặc biệt chú trọng một số thị trường quốc tế có vai trò quan trọng đối với du lịch Thừa Thiên Huế như Pháp, Nhật Bản, Mỹ… 2.2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở THỪA THIÊN HUẾ 2.2.1. Sự cần thiết phải phát triển du lịch sinh thái ở Thừa Thiên Huế 2.2.1.1. DLST là một bộ phận của du lịch ở Thừa Thiên Huế Đã từ lâu, Thừa Thiên Huế được biết đến như một điểm du lịch hấp dẫn của miền Trung nói riêng và Việt Nam nói chung. Năm 1993, quần thể di tích triều Nguyễn được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa vật thể của thế giới. Đúng 10 năm sau, Nhã nhạc cung đình Huế được ghi vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới do UNESCO công nhận. Với hai di sản này, Thừa Thiên Huế thực sự trở thành một địa danh du lịch được du khách khắp nơi trên cả nước và trên thế giới biết đến. Dựa vào những số liệu về khách du lịch và doanh thu đã phân tích ở phần trước, có thể thấy lượng khách đến Huế ngày càng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Vậy điều gì đã hấp dẫn du khách đến vậy? Đến với Thừa Thiên Huế, ngoài những di tích văn hóa, lịch sử có từ hàng trăm thậm chí hàng ngàn năm, du khách còn có cơ hội ngắm nhìn, tìm hiểu và khám phá một thế giới tự nhiên đa dạng, phong phú và đầy bí ẩn. Rừng Quốc gia Bạch Mã với hệ sinh thái đa dạng bậc nhất Đông Nam Á hiện nay giúp du khách thỏa sức thưởng ngoạn những tuyệt tác của thiên nhiên tạo ra, hay hòa mình vào cuộc sống của tự nhiên, khám phá những điều kì thú của tự nhiên. Không chỉ dừng lại ở Bạch Mã, du khách có thể xuôi xuống chân núi, biển Lăng Cô xanh ngắt tuyệt đẹp luôn là sự lựa chọn sáng suốt, là điểm dừng chân đúng đắn sau những chuyến leo núi vất vả. Và cả những con suối nước ngọt như Suối Voi, Nhị Hồ… đều đang thu hút được nhiều khách du lịch. Đó là những điểm du lịch sinh thái đang phát triển mạnh ở Thừa Thiên Huế. 2.2.1.2. Tiềm năng DLST ở Thừa Thiên Huế rất phong phú và đa dạng Những địa danh như vườn Quốc gia Bạch Mã, Suối Voi, Nhị Hồ… là những điểm du lịch sinh thái thu hút được nhiều khách du lịch trong nước và trên thế giới. Với những đặc điểm sinh thái vốn có độc đáo của mình, những điểm DLST này đã và đang tạo nên một hình ảnh du lịch ấn tượng cho du khách. Đây cũng là những điểm DLST mang lại nhiều doanh thu nhất cho tỉnh hiện nay. Bên cạnh những điểm du lịch vốn có, DLST ở Thừa Thiên Huế còn được hứa hẹn với nhiều điểm du lịch hấp dẫn trải đều trên tất cả các huyện lỵ của tỉnh với nhiều đặc điểm và hình thức khác nhau. Có thể điểm qua một số tour, tuyến du lịch đã được hình thành, đưa vào dự án như: hệ thống nhà vườn cổ, du thuyền trên sông Hương, đầm phá Tam Giang – Cầu Hai… Hay những địa điểm mà chưa được một nhà đầu tư nào để mắt đến như Khu sinh thái Rú Trá ở Hương Phong huyện Hương Trà, hay Tràm Chim, thác A Đon ở Phong Điền… Tất cả tạo nên tiềm năng cho DLST ở Thừa Thiên Huế. 2.2.1.3. Thực trạng phát triển DLST ở Thừa Thiên Huế còn kém và chưa tương xứng với tiềm năng Nếu như hỏi một du khách không phải là người bản địa về những địa điểm DLST ở Huế, cái tên được nhắc đến đầu tiên chỉ có thể là Vườn Quốc gia Bạch Mã, và rải rác một số cái tên như Suối Voi, Nhị Hồ. Những địa danh khác như Phú Mộng, Kim Long hay A Đon, núi Túy Vân… hoàn toàn không nằm trong trí nhớ của du khách. Thực tế, dựa vào cơ cấu doanh thu từ DLST, ta có thể thấy, Vườn Quốc gia Bạch Mã chiếm hơn 80% doanh thu, 16% là của cụm du lịch Suối Voi, Nhị Hồ; chỉ còn lại một phần rất nhỏ 4% là từ các địa điểm du lịch còn lại. Như vậy, trong doanh thu ít ỏi của DLST ở đây, nổi rõ nhất là các địa điểm đã được nhiều khách du lịch biết đến. Còn với những điểm du lịch tiềm năng, doanh thu rất nhỏ lẻ, manh mún nếu như không muốn nói là gần bằng không. Bởi vậy, phát triển DLST ở Thừa Thiên Huế là hết sức cần thiết, giúp tỉnh phát triển được tiềm năng du lịch của mình, mang lại những lợi ích không nhỏ về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. 2.2.2. Các điều kiện tiềm năng phát triển DLST ở Thừa Thiên Huế 2.1.1.1. Bối cảnh chung Thuộc khu vực miền Trung, Thừa Thiên Huế mang những đặc trưng địa hình và khí hậu của khu vực này. Địa hình ở đây khá dốc với dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, xuôi dần về phía Đông là những dải đồng bằng nhỏ hẹp và khu vực đầm phá Tam Giang khá rộng lớn. Khí hậu nóng ẩm vào mùa hè và mưa nhiều vào mùa đông. Với những điều kiện tự nhiên như vậy nên hệ sinh thái ở đây rất đa dạng, mang tính chất của nhiều địa hình khác nhau của vùng khí hậu xích đạo. Thừa Thiên Huế được biết đến với nhiều danh lam thắng cảnh độc đáo, mang nhiều giá trị lịch sử và văn hóa sâu sắc. Đó là quần thể Di tích triều Nguyễn, Nhã Nhạc cung đình, hệ thống chùa chiền đình miếu, những di tích lịch sử mang gía trị tinh thần to lớn và cả những tài nguyên DLST. Có lẽ chính vì vậy nên du lịch là một ngành mũi nhọn của tỉnh, góp phần rất lớn vào giá trị sản xuất hàng năm của tỉnh. Du lịch đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các cấp chính quyền cũng như các doanh nghiệp tư nhân. Trong tương lai, du lịch nói chung và DLST nói riêng ở Thừa Thiên Huế sẽ phát triển vững mạnh. Với vị trí là một cố đô của Việt Nam, Thừa Thiên Huế còn được biết đến như là nơi quy tụ giao thoa của nhiều nét văn hóa truyền thống và hiện đại. Mười ba triểu vua nhà Nguyễn đã lưu lại cho nơi đây những thuần phong mỹ tục của chốn kinh thành xưa. Chính vì vậy Huế chính là nơi nuôi dưỡng biết bao nhân tài thơ văn cũng như nghệ sĩ cho đất nước. Có thể kể đến Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Chí Thanh hay nhạc sĩ Trịnh Công Sơn… Đây cũng là vùng đất có nhiều lễ hội văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc cũng như bản sắc của một cố đô. Nằm trên trục đường giao thông chính Bắc – Nam, có quốc lộ 1A và đường Sắt chạy qua, giao thông ở Thừa Thiên Huế khá thuận lợi cho phát triển du lịch. Bên cạnh đó, sân bay Quốc tế Phú Bài cũng góp phần không nhỏ trong việc rút ngắn khoảng cách giữa các tỉnh trong nước cũng như các địa điểm trên thế giới cho khách du lịch. Ngoài ra tỉnh cũng đã được lắp đặt đầy đủ các hạng mục thông tin liên lạc có thể đáp ứng nhu cầu về phát triển du lịch. Về cơ sở vật chất phát triển du lịch, toàn tỉnh đã có 271 khách sạn, nhà nghỉ với tổng số hơn 11.000 phòng, có thể đáp ứng khá tốt nhu cầu nghỉ ngơi của khách du lịch. 2.2.2.2. Vị trí địa lý Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở vị trí trung độ của cả nước, cực nam của khu vực Bắc miền Trung. Phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng, phía Tây giáp nước bạn Lào và phía Đông giáp biển, tỉnh nằm trên trục đường Bắc Nam của cả nước, có Quốc lộ 1A cũng như đường tàu thống nhất chạy qua. Tỉnh có diện tích hơn 5.000 km2 với 8 huyện và một thành phố trực thuộc tỉnh. 2.2.2.3. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái Thừa Thiên Huế là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh quan thiên nhiên và danh thắng nổi tiếng, từ lâu đã thu hút được nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan. Trong số đó có thể kế đến vườn Quốc gia Bạch Mã, biển Lăng Cô, Suối Voi, thác Nhị Hồ. Ngoài ra, hệ thống hàng trăm nhà vườn cổ xưa, hay những hoạt động du thuyền ngắm cảnh trên sông Hương cũng có sự thu hút đặc biệt đối với du khách Tài nguyên tự nhiên và môi trường sinh thái ở Thừa Thiên Huế có những đặc trưng rất riêng, nó ảnh hưởng khá lớn đến phát triển DLST: - Hầu hết các tài nguyên tự nhiên của Thừa Thiên Huế không chỉ có giá trị cho tham quan du lịch thuần túy mà còn có giá trị lớn về khoa học cho các nghiên cứu chuyên đề. Điển hình trong số đó là Vườn Quốc gia Bạch Mã, hệ sinh thái đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. - Các tài nguyên sinh thái luôn gắn quyện với các giá trị văn hóa, lịch sử của tỉnh nói chung cũng như của cộng đồng dân cư bản địa nói riêng. - Một số tài nguyên nằm xen lẫn trong khu sinh sống của người dân tộc thiểu số, gắn với cuộc sống hàng ngày của họ. Nên phải đảm bảo phát triển DLST mà không ảnh hưởng đến cuộc sống của những người dân này. - Các điểm tài nguyên trên địa bàn tỉnh có mật độ tương đối dày đặc nhưng các giá trị của nó không mang tính loại trừ nhau. Điều này cho phép kết nối các điểm DLST lại với nhau thành 1 tuyến du lịch hợp lý và hấp dẫn. - Các điểm tài nguyên cũng đồng thời nằm xen lẫn với các điểm du lịch văn hóa, lịch sử… Việc hình thành nên những tour tuyến du lịch kết hợp giữa các loại hình du lịch là một điều cần thiết. 2.2.2.4. Tài nguyên nhân văn Hệ thống di tích lịch sử có giá trị phục vụ du lịch: Nổi bật nhất là quần thể di tích cố đô Huế với hệ thống lăng tẩm, cung điện, công trình kiến trúc tôn giáo, kiến trúc dân dụng thể hiện sự kế thừa, phát huy, đan xen giữa nghệ thuật Chămpa, Việt, Trung Hoa và phương Tây tạo thành sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Ngoài ra còn có 34 di tích có giá trị đặc biệt quan trọng, cần được tập trung bảo vệ. Tiêu biểu là khu di tích kiến trúc triều Nguyễn, nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu địa đạo huyện Phú Lộc, khu vực A Lưới với đường mòn Hồ Chí Minh. Các lễ hội đặc sắc, giàu truyền thống: các lễ hội ở Huế thường gắn với tín ngưỡng, tôn giáo, tinh thần thượng võ và khát vọng cuộc sống. Bên cạnh những nét chung của lễ hội Việt, lễ hội ở Huế còn mang nét đặc trưng của vùng biển. Các lễ hội dân gian nổi bật ỏ Thừa Thiên Huế là Lễ hội Cầu Ngư, Lễ hội Điện Hòn Chén, tế lễ Thánh mẫu Pogana diễn ra vào tiết thanh minh, Lễ Phật Đản, Lễ Vu Lan… Bên cạnh lễ hội dân gian, các lễ hội cung đình như Tế Nam Giao, Lễ Đại triều, Lễ Đăng quang cũng là một nét đặc sắc của tỉnh thu hút nhiều khách du lịch. Nghệ thuật truyền thống: Ca nhạc Huế là sự thể hiện phong phú nhiều thể loại. Ta có thể tìm thấy ở nơi đâ vẻ sang trọng, kiêu sa của âm nhạc cung đình như giac nhạc, lễ nhạc, tế nhạc… hay nét bình dị, mộc mạc mà sâu lắng của các làn điệu dân ca. Các làn điệu dân ca Huế có nét đặc trưng riêng biệt. Nó mang chất trữ tình, ngọt ngào, hiền dịu và sâu lắng, tươi vui mà không náo loạn, u buồn như không bi lụy. Tiêu biểu là các điệu hò như Mái nhì, Mái đẩy, hò nện, hò giã gạo, giã vôi…, các điệu Lý như Lý Con sáo, Lý Hoài Xuân, Lý Hoài Nam, lý Tình Tang… mà mỗi khi thoáng nghe ta đã liên tưởng ngay đến Huế. Nghệ thuật ẩm thực: Nghệ thuật ẩm thực của Thừa Thiên Huế, đặc biệt là thành phố Huế rất phong phú, đa dạng và mang bản sắc độc đáo địa phương. Nó được hình thành qua một quá trình lịch sử lâu dài chủ yếu là trong giai đoạn Huế đóng vai trò là kinh đô của triều nhà Nguyễn. Nghệ thuật ẩm thực xứ Huế vừa mang phong cách sang trọng, cung đình vừa mang phong cách bình dị, dân dã nhưng đều có màu sắc, hương vị rất hấp dẫn thể hiện sự khéo léo của con người nơi đây. Các làng nghề truyền thống: làng nghề và nghề thủ công truyền thống ở Huế vốn có từ lâu đời, hình thành từ những nhu cầu phục vụ công việc xây dựng và sửa sang cung điện, nhu cầu trao đổi buôn bán cũng như sản xuất, sinh hoạt. Nhiều làng nghề nổi tiếng từ xưa đến nay vẫn còn tồn tại như Phường Đúc, làng nghê Sơn Son Tiên Nộn… 2.2.2.5. Điều kiện kinh tế xã hội Về kinh tế Bước vào thế kỉ XXI, cùng với sự phát triển của Việt Nam, Thừa Thiên Huế cũng đã có những bước tiến vững chắc, đưa nền kinh tế của tỉnh lên một tầm cao mới, trở thành một trong những trung tâm kinh tế trọng điểm của khu vực miền Trung. Trong những năm vừa qua, Thừa Thiên Huế đạt tăng trưởng khá, giữ được ở mức hai con số. Thậm chí, năm 2008 với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong bối cảnh suy thoái chung nhưng tăng trưởng của tỉnh vẫn đạt 10,03% và là một trong những tỉnh có năng lực cạnh tranh cao nhất trong cả nước. Cuộc sống của người dân ngày càng ổn định và chất lượng được nâng cao về nhiều mặt. Thừa Thiên Huế đồng thời cũng là điểm đến tại Việt Nam của Hành lang kinh tế Đông Tây, đi qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào, Việt Nam. Với vị trí đặc biệt quan trọng này, tương lai nền kinh tế của tỉnh hứa hẹn có nhiều bước tiến quan trọng. Hàng loạt khu công nghiệp nhỏ và vừa đang được đầu tư và triển khai. Có thế kể đến khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô, Khu công nghiệp Phong Điền… Với những lợi thế như vậy, Thừa Thiên Huế sẽ là một trong những địa phương có nền kinh tế phát triển nhanh trong giai đoạn tới. Điều này tạo ra rất nhiều thuận lợi cho phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng của tỉnh. Về xã hội - Điều kiện dân số và lao động: Dân số của tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2000 là g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6153.DOC
Tài liệu liên quan