Tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở Công ty cổ phần dược và thiết bị vật tư y tế Bộ giao thông vận tải TRAPHACO: Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi to lớn về nhiều mặt. Sự chuyển hướng phát triển nền kinh tế đất nước từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường là nền tảng cho những thay đổi tích cực đó.
Kinh tế thị trường đã đặt ra trước mắt các doanh nghiệp nhiều thử thách nhưng cũng mang tới những cơ hội để doanh nghiệp có thể tự khẳng định mình. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải biết áp dụng những kiến thức mới về quản trị doanh nghiệp vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Đa dạng hoá sản phẩm là một khuynh hướng phát triển ngày càng phổ biến của doanh nghiệp công nghiệp và là điều kiện để doanh nghiệp thích ứng và phát triển trong môi trường kinh doanh đầy biến động.
Trong những khó khăn chung của nền kinh tế mới phát triển, nhiều doanh nghiệp đã vươn lên từ sức mạnh nội lực, luôn duy trì được sản xuất và đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động. Công ty cổ phần Dược và thiết b...
80 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở Công ty cổ phần dược và thiết bị vật tư y tế Bộ giao thông vận tải TRAPHACO, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi to lớn về nhiều mặt. Sự chuyển hướng phát triển nền kinh tế đất nước từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường là nền tảng cho những thay đổi tích cực đó.
Kinh tế thị trường đã đặt ra trước mắt các doanh nghiệp nhiều thử thách nhưng cũng mang tới những cơ hội để doanh nghiệp có thể tự khẳng định mình. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải biết áp dụng những kiến thức mới về quản trị doanh nghiệp vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Đa dạng hoá sản phẩm là một khuynh hướng phát triển ngày càng phổ biến của doanh nghiệp công nghiệp và là điều kiện để doanh nghiệp thích ứng và phát triển trong môi trường kinh doanh đầy biến động.
Trong những khó khăn chung của nền kinh tế mới phát triển, nhiều doanh nghiệp đã vươn lên từ sức mạnh nội lực, luôn duy trì được sản xuất và đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động. Công ty cổ phần Dược và thiết bị vật tư y tế TRAPHACO là một doanh nghiệp như vậy. Có được thành công này là do doanh nghiệp đã chọn cho mình một hướng đi đúng đắn "Đa dạng hoá sản phẩm mang tính chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thương trường "
Trong quá trình thực tập tại công ty, cùng với những lý luận được trang bị trong quá trình học tập nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế quốc dân và xuất phát từ thực tế tại công ty, em đã chọn đề tài: "Giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở Công ty CP Dược và TBVTYT Bộ GTVT TRAPHACO " để thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Nội dung chuyên đề gồm các phần chính sau :
Phần I : Những vần đề cơ bản về đa dạng hoá sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp.
Phần II : Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại công ty TRAPHACO
Phần III : Một số giải pháp về đa dạng hoá sản phẩm ở công ty TRAPHACO
Phần I: Những vấn đề cơ bản về đa dạng hoá sản phẩm
trong doanh nghiệp công nghiệp.
I . Thực chất của đa dạng hoá:
1. Sản phẩm :
1.1. Khái niệm sản phẩm công nghiệp :
Sản phẩm công nghiệp hiểu theo cách đơn giản nhất chính là yếu tố đầu ra của doanh nghiệp, là kết quả của quá trình biến đổi các yếu tố đầu vào dưới sự tác động của tư liệu sản xuất.
Theo quan niệm cổ điển, sản phẩm công nghiệp là tổng hợp các đặc trưng vật lý hoá học có thể quan sát và được tập hợp trong một hình thức đồng nhất là vật mang giá trị sử dụng.
Trong nền kinh tế hàng hoá cùng với sự phát triển của các quan hệ trao đổi buôn bán, sản phẩm công nghiệp còn chứa đựng các thuộc tính hàng hoá, không chỉ là vật mang giá trị sử dụng mà còn mang giá trị trao đổi hay giá trị.
Theo quan điểm Marketing, sản phẩm được định nghĩa là " mọi thứ có thể chào bán trên thị trường để chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng, có thể thoả mãn được một mong muốn hay nhu cầu ".
Như vậy khái niệm về sản phẩm hàng hoá mang tính chất phức tạp bởi lẽ mỗi sản phẩm đều có những nét đặc trưng về vật chất và tâm lý như: chất lượng, mầu sắc, nhãn mác, cách sử dụng, giao hàng và thực hiện thanh toán, dịch vụ sau bán hàng...Sản phẩm với những nhãn hiệu cụ thể tạo ra cho người tiêu dùng một hình ảnh, một tín hiệu để nhận biết về doanh nghiệp và xác nhận sự hiện diện của doanh nghiệp trên thị trường .
Mỗi sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp phải đáp ứng một nhu cầu, vì đó là lời hứa hẹn với khách hàng hay người tiêu dùng. Người mua thường quan niệm sản phẩm hàng hoá là của cải vật chất hay dịch vụ mà họ mua để thoả mãn nhu cầu của mình do đó mỗi sản phẩm được coi là lời giải đáp cho một nhu cầu đã tìm thấy trên thị trường, doanh nghiệp phải bán cái mà khách hàng cần chứ không phải cái mình có.
Nghiên cứu sản phẩm về thực chất là tìm hiểu thái độ chấp nhận của khách hàng đối với sản phẩm của mình.
1.2. Phân loại sản phẩm :
Các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm hàng hoá là để bán và do sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mang tính chất đa dạng nên phải phân loại để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kinh doanh. Trong thực tiễn người ta phân loại sản phẩm theo rất nhiều cách khác nhau nhưng để phục vụ cho việc tìm hiểu về đa dạng hoá có thể xem xét một số cách phân loại chủ yếu sau.
1.2.1. Phân loại theo tính chất sử dụng :
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm công cộng và sản phẩm cá nhân.
- Sản phẩm công cộng là sản phẩm mà việc tiêu dùng của người này không làm ảnh hưởng đến việc tiêu dùng của người khác như đường xá, cầu cống, các công trình văn hoá, các di tích lịch sử...
- Sản phẩm cá nhân là sản phẩm mà khi một người đã tiêu dùng thì người khác không thể tiêu dùng sản phẩm đó .Ví dụ như quần áo, thực phẩm...
Sản phẩm cá nhân có tính cạnh tranh mạnh mẽ còn sản phẩm công cộng không có tính cạnh tranh.
1.2.2. Phân loại sản phẩm theo mối quan hệ với thu nhập :
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm hàng hóa thông thường và hàng xa xỉ.
- Hàng thông thường là những sản phẩm mà mọi tầng lớp trong xã hội có thể tiêu dùng một cách bình thường như giày dép, chất đốt...
- Hàng xa xỉ là những sản phẩm dành cho các đối tượng có thu nhập cao trong xã hội như kim cương, áo lông thú...
1.2.3. Phân loại sản phẩm theo khả năng thay thế lẫn nhau:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá bổ sung và hàng hoá thay thế
- Hàng hoá bổ sung là hàng hoá khi tiêu dùng phải theo một cơ cấu và đồng bộ nhau, không thể tách rời nhau được như: ô tô và xăng, thuốc lá và bật lửa..
- Hàng hoá thay thế là hàng hoá tiêu dùng độc lập với nhau và khi cần có thể thay thế cho nhau như: bếp điện và bếp ga, dầu và than..
1.2.4. Phân loại sản phẩm theo tuổi thọ của sản phẩm:
- Hàng hoá lâu bền là hàng hoá có thể sử dụng được trong một thời gian dài như ô tô, xe máy, nhà cửa...
- Hàng hoá không lâu bền như những vật rẻ tiền nhanh hỏng: đũa tre, guốc mộc...
1.2.5. Phân loại sản phẩm theo tần số mua:
- Hàng mua thường xuyên: là hàng hoá rất cần thiết cho cuộc sống hàng ngày mà người tiêu dùng phải sử dụng thường xuyên như quần áo, giày dép..
- Hàng mua không thường xuyên: là loại hàng hoá mà người tiêu dùng không tiêu dùng chúng thường xuyên như quần áo cưới ...
1.2.6. Phân loại sản phẩm theo mức độ chế biến sản phẩm:
- Sản phẩm trung gian: là những sản phẩm còn phải trải qua một số bước chế biến nữa mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh phục vụ cho tiêu dùng như sợi để dệt vải, vải để may quần áo..
- Sản phẩm cuối cùng là những sản phẩm hoàn chỉnh có thể phục vụ cho tiêu dùng như xe máy, văn phòng phẩm..
1.3. Năm mức độ của sản phẩm:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khi lập kế hoạch sản phẩm của mình nhà kinh doanh cần suy nghĩ đầy đủ về năm mức độ của sản phẩm.
Mức độ cơ bản nhất chính là ích lợi cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ bản mà khách hàng thực sự mua. Ngưòi kinh doanh phải luôn coi mình là người cung ứng ích lợi. Ví dụ như trong trường hợp khách sạn, người khách nghỉ đêm mua " sự nghỉ ngơi và giấc ngủ ".
ở mức độ thứ hai, người kinh doanh phải biến lợi ích cốt lõi thành sản phẩm chung chính là dạng cơ bản của sản phẩm đó vì thế khách sạn phải là một toà nhà có các phòng để cho thuê.
ở mức độ thứ ba, ngưòi kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm mong đợi, tức là tập hợp các thuộc tính và điều kiện người mua thường mong đợi và chấp nhận khi họ mua sản phẩm đó. Ví dụ như khách đến khách sạn mong đợi một cái giường sạch sẽ, xà bông, khăn tắm và một mức độ yên tĩnh tương đối. Vì hầu hết các khách sạn có thể đáp ứng được mong muốn tối thiểu này nên khách du lịch thường không có thiên vị đối với khách sạn nào mà họ sẽ vào bất kì khách sạn nào thuận tiện nhất .
ở mức độ thứ tư, người kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm hoàn thiện thêm tức là sản phẩm bao gồm những dịch vụ và ích lợi phụ thêm làm cho sản phẩm của công ty khác với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Ví dụ khách sạn có thể hoàn thiện thêm sản phẩm của mình bằng cách đăng kí khách nhanh chóng, bổ sung sữa tắm, bữa ăn ngon và phục vụ tốt v.v..Cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày nay chủ yếu ở mức độ hoàn thiện sản phẩm.
ở mức độ thứ năm là sản phẩm tiềm ẩn, tức là những sự hoàn thiện và biến đổi mà sản phẩm đó cuối cùng có thể nhận được trong tương lai. Trong khi sản phẩm hoàn thiện thể hiện những gì đã được đưa vào sản phẩm ngày hôm nay thì sản phẩm tiềm ẩn lại chỉ nêu ra hướng phát triển khả dĩ của nó. Đây chính là nơi các công ty tìm kiếm tích cực những cách thức mới để thoả mãn khách hàng và tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình. Sự xuất hiện của một số khách sạn thượng hạng mà ở đó khách có thể ở nhiều phòng là một sự đổi mới khách sạn truyền thống.
Một số công ty đã bổ sung cho sản phẩm của mình những ích lợi không những thoả mãn mà còn làm cho khách hàng vui lòng bằng cách mang đến những sự ngạc nhiên bất ngờ cho họ khi tiêu dùng sản phẩm của công ty mình
1.4. Danh mục sản phẩm :
Một danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả những loại sản phẩm và mặt hàng mà một người bán cụ thể đưa ra để bán cho người mua. Danh mục sản phẩm của một công ty sẽ có chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và một mật độ nhất định
Chiều rộng danh mục sản phẩm thể hiện công ty có bao nhiêu loại sản phẩm khác nhau.
Chiều dài danh mục sản phẩm là tổng số mặt hàng của công ty .
Chiều sâu danh mục thể hiện có bao nhiêu phương án của mỗi sản phẩm trong một loại.
Mật độ của danh mục sản phẩm thể hiện mối quan hệ mật thiết đến mức độ nào giữa các loại sản phẩm khác nhau xét theo cách sử dụng cuối cùng, thiết bị sản xuất hay kênh phân phối nào khác.
Bốn chiều này của danh mục sản phẩm tạo nên những căn cứ để xây dựng chiến lược sản phẩm của công ty. Công ty có thể khuyếch trương doanh nghiệp của mình theo nhiều cách. Công ty có thể mở rộng danh mục sản phẩm bằng cách bổ sung những sản phẩm mới. Công ty có thể kéo dài từng loại sản phẩm. Công ty có thể bổ sung thêm các phương án sản phẩm cho từng sản phẩm và tăng chiều sâu của danh mục. Cuối cùng công ty có thể tiếp tục tăng hay giảm mật độ của loại sản phẩm tùy theo ý đồ của công ty muốn có uy tín vững chắc trong một lĩnh vực hay tham gia vào nhiều lĩnh vực.
Việc lập kế hoạch danh mục sản phẩm chủ yếu tùy thuộc vào trách nhiệm của những người hoạch định chiến lược của công ty căn cứ vào những thông tin do người làm công tác marketing của công ty cung cấp. Họ phải đánh giá những loại sản phẩm cần phát triển, cần duy trì, cần thu hoạch và cần loại bỏ.
2. Đa dạng hoá sản phẩm và sự cần thiết của đa dạng hoá sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp :
2.1. Thực chất của đa dạng hoá sản phẩm:
Trong hệ thống mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi doanh nghiệp có hai mục tiêu được coi là cơ bản, tạo tiền đề cho các mục tiêu khác đó là việc tạo ra sản phẩm với chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của thị trường và xã hội và việc đạt được lợi nhuận tối đa sau mỗi chu kỳ kinh doanh trên cơ sở nâng cao hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện có hiệu quả hệ thống mục tiêu kinh tế-xã hội nói chung và hai mục tiêu nói riêng mỗi doanh nghiệp phải xác định được cơ cấu sản phẩm hợp lý của mình. Tính hợp lý của mỗi cơ cấu sản phẩm chỉ thích ứng với những điều kiện nhất định trong mỗi kỳ kinh doanh do đó khi những điều kiện ấy có sự thay đổi thì cơ cấu sản phẩm cũng phải thay đổi để đạt tính hợp lý mới điều đó có nghĩa là cơ cấu sản phẩm của công ty phải mang tính " động " để thích ứng với nền kinh tế thị trường cạnh tranh sôi động.
Sự hoàn thiện và đổi mới cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện theo nhiều cách khác nhau như :
- Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, những sản phẩm kém sức cạnh tranh và những sản phẩm không có khả năng tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản xuất nhưng cải tiến, hoàn thiện những sản phẩm ấy về hình thức, về nội dung, tạo thêm nhiều kiểu dáng và thế hệ sản phẩm mới .
- Bổ sung thêm vào danh mục sản phẩm những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển của khoa học, công nghệ.
- Chuyển hoá vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp, đưa những sản phẩm ở vị trí hàng thứ lên vị trí hàng đầu hoặc ngược lại bằng cách thay đổi định lượng sản xuất mỗi loại.
Trong thực tế, các hướng trên đây được thực hiện xen kẽ lẫn nhau. Nếu cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp thay đổi theo hướng thu hẹp lại, đảm bảo sự tập trung cao hơn về sản xuất thì doanh nghiệp phát triển theo hướng chuyên môn hoá. Ngược lại cơ cấu sản phẩm được mở rộng ra, doanh nghiệp phát triển theo hướng đa dạng hoá...Trong những thời kì nhất định và trên một thị trường nhất định doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hoá thông qua hình thức cải tiến , hoàn thiện sản phẩm đã có hoặc là đưa ra những sản phẩm mới hoàn toàn có thể cùng loại hoặc khác biệt so với những sản phẩm cũ nhưng doanh nghiệp cũng có thể kết hợp cả hai hình thức trên nhằm thỏa mãn đáp ứng cao nhất nhu cầu của thị trường.
Như vậy đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp là việc mở rộng danh mục sản phẩm, nó gắn liền với quá trình đổi mới và hoàn thiện cơ cấu sản phẩm, nhằm đảm bảo doanh nghiệp thích ứng được với sự biến động của môi trường kinh doanh.
Đa dạng hoá sản phẩm là một nội dung cụ thể của đa dạng hoá sản xuất và đa dạng hoá kinh doanh công nghiệp. Khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, doanh nghiệp chỉ mở rộng danh mục các sản phẩm công nghiệp của mình, nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp vẫn chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Khi thực hiện đa dạng hoá sản xuất, thì ngoài lĩnh vực truyền thống là sản xuất công nghiệp, doanh nghiệp còn có thể thâm nhập sang các lĩnh vực sản xuất khác. Chẳng hạn, thâm nhập sang các lĩnh vực sản xuất công nghiệp không phải truyền thống, sang lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng cơ bản...Còn khi thực hiện đa dạng hoá kinh doanh ( hay kinh doanh tổng hợp ) doanh nghiệp có thể phát triển sang cả lĩnh vực thương mại, dịch vụ...
Mối quan hệ giữa đa dạng hoá sản phẩm và kế hoạch hoá sản xuất - kinh doanh được thể hiện ở chỗ khi xác định phương án đa dạng hoá sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định rõ chủng loại sản phẩm, khối lượng sản phẩm của mỗi loại, thị trường tiêu thụ, khả năng đảm bảo các yếu tố đầu vào, khả năng huy động vốn đầu tư và dự kiến lợi nhuận sẽ đạt được.
Đa dạng hoá sản phẩm là một khuynh hướng phát triển ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp công nghiệp. Các tổ chức kinh tế lớn như tập đoàn kinh doanh thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, kinh doanh đa ngành và đa lĩnh vực hoạt động. Số lượng và chủng loại hàng hoá lưu thông trên thị trường thực chất cũng là một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế nói chung. Nhiều doanh nghiệp độc lập với các quy mô khác nhau cũng thực hiện đa dạng hoá sản phẩm và trong thực tế việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm đã không những giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu kinh tế và phi kinh tế như lợi nhuận hay thế lực trên thị trường mà còn đóng góp rất lớn vào sự phát triển của toàn xã hội nhờ tạo ra nhiều loại hàng hoá mang lại lợi ích và thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
2.2. Sự cần thiết phải đa dạng hoá :
2.2.1. Nhu cầu thị trường ngày càng phong phú, đa dạng và thường xuyên biến đổi :
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, đời sống xã hội cũng ngày càng được nâng cao về nhiều mặt. Trong cuộc sống ngày nay, nhu cầu của con người không chỉ bó gọn ở mức độ thấp như có ăn, có mặc mà phải là ăn ngon mặc đẹp ngoài ra còn có nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu thẩm mĩ rất cao. Như vậy so với trước kia trong thời kì kế hoạch hoá tập trung tự cung tự cấp, nhu cầu thị trường mang tính cứng nhắc và bị áp đặt bởi chính các yếu tố cung, giờ đây nhu cầu mới là nhân tố thực sự quyết định sự vận động của thị trường. Các sản phẩm không thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường khi chúng chỉ mang " ích lợi cốt lõi " đơn thuần mà còn phải mang tính thẩm mĩ, sự tiện nghi và phong phú về chủng loại. Việc một loại sản phẩm có cùng giá trị sử dụng nhưng có thêm một số đặc tính khác để thoả mãn từng đoạn thị trường nhất định chính là một biểu hiện của hoạt động đa dạng hoá sản phẩm. Đa dạng hoá sản phẩm tạo ra nhiều mặt hàng mới phong phú với chất lượng cao tăng phương án sản phẩm để người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn. Theo quy luật tất yếu, thị trường luôn vận động và biến đổi không ngừng làm nảy sinh những nhu cầu mới cao hơn, phong phú hơn tạo ra những thách thức và cũng đồng thời mang đến những cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp. Trong môi trường kinh doanh sôi động mà người thành công là người biết " nắm lấy các cơ hội ", doanh nghiệp phải luôn bám sát các diễn biến của quan hệ cung cầu trên thị trường, xây dựng cơ cấu sản phẩm tối ưu thich ứng với sự linh hoạt của thị trường. Thực tế cho thấy hiện nay các doanh nghiệp luôn cố gắng làm mới và mở rộng danh mục sản phẩm của mình dựa trên sự hoàn thiện không ngừng các sản phẩm hiện có song song với việc đưa vào sản xuất những mặt hàng mới đón đầu nhu cầu thị trường, tạo thế chủ động của doanh nghiệp trên thương trường. Sự phong phú và biến đổi không ngừng của thị trường đã đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động sáng tạo trong việc tạo ra một cơ cấu sản phẩm " động " thông qua hoạt động đa dạng hoá sản phẩm mới có thể tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt " thương trường là chiến trường ".
2.2.2. Do tiến bộ của khoa học công nghệ nên chu kỳ sống của sản phẩm bị rút ngắn
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra với tốc độ nhanh như vũ bão. Một khối lượng đồ sộ các phát minh sáng chế ra đời đã tạo ra ngày càng nhiều công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liệu mới. Điều đặc biệt là hàm lượng tri thức hay tỷ trọng phần mềm trong các công nghệ mới này là rất lớn chính vì vậy thời gian tồn tại của các công nghệ này rất ngắn và điều này cũng đồng nghĩa với việc sản phẩm của doanh nghiệp bị đào thải nhanh hơn. Chu kỳ sống của một sản phẩm được chia ra 4 pha: bắt đầu, phát triển, bão hoà, suy thoái. Các thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng ngày càng rộng rãi vào sản xuất làm cho giai đoạn bão hoà và suy thoái của một sản phẩm đến nhanh hơn. Sự lạc hậu nhanh chóng của công nghệ và sản phẩm không cho phép doanh nghiệp tự hài lòng với những gì hiện có mà phải tranh thủ nắm bắt kịp thời những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ và sử dụng những thành tựu ấy như một lợi thế cạnh tranh. Vì vậy doanh nghiệp phải luôn xem xét, đánh giá sản phẩm đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống nếu đang ở giai đoạn bão hoà doanh nghiệp sẽ tìm cách cải tiến sản phẩm đó để kéo dài tuổi thọ của sản phẩm hoặc chuẩn bị nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường. Sự xuất hiện của các ngành công nghệ mới vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm mới, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm như một phương thức phát triển của doanh nghiệp.
2.2.3. Xu hướng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá trong sản xuất kinh doanh:
Việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp là cơ sở để xác định đúng đắn con đường, phương hướng và điều kiện phát triển các hình thức tổ chức sản xuất tương ứng.
Về hình thức, khi mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao trình độ chuyên môn hoá sản xuất của doanh nghiệp càng thấp nhưng xét về nội dung đó không phải là hai quá trình độc lập mà có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Thứ nhất, bản thân sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp cũng phải được hoàn thiện, cải tiến về hình thức và nội dung, tăng thêm kiểu cách, mẫu mã để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Theo nội dung này, sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp được đa dạng theo hình thức biến đổi chủng loại.
Thứ hai, với nhiều doanh nghiệp việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn hoá thường không sử dụng hết các nguồn lực sẵn có. Bởi vậy trong khi coi nâng cao một cách hợp lý trình độ chuyên môn hoá là phương hướng chủ đạo của phát triển doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn cần mở rộng danh mục sản phẩm để tận dụng các nguồn lực sản xuất. Với nội dung này, đa dạng hoá sản phẩm tạo thành " tuyến sản phẩm " hỗ trợ quan trọng cho phát triển chuyên môn hoá.
Thứ ba, có rất nhiều phương thức thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhưng đa dạng hóa sản phẩm dựa trên cơ sở nền tảng các điều kiện vật chất kĩ thuật của chuyên môn hoá ban đầu mang lại, sẽ giảm bớt được nhu cầu đầu tư. Đây chính là ràng buộc của chuyên môn hoá đến việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp.
Như vậy, để xây dựng cơ cấu sản phẩm động mang tính linh hoạt thì bản thân sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp cũng phải được đa dạng hoá và đây được coi là xu hướng tất yếu đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững trong môi trường kinh doanh thiên biến vạn hoá.
2.2.4. Phân tán rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh :
Mục tiêu chính của các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh là lợi nhuận nhưng trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, sự thành công của doanh nghiệp bị đe dọa bởi rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Một cơ hội kinh doanh có khả năng thu lợi càng lớn thì mức độ rủi ro kinh doanh xảy ra đối với doanh nghiệp càng cao. Các nguyên nhân gây ra rủi ro có thể đến từ các yếu tố nội tại của doanh nghiệp như máy móc thiết bị không đồng bộ, công nghệ lạc hậu, thiếu vốn...hay từ môi trường kinh doanh như sự thay đổi đột ngột nhu cầu, chính sách kinh tế của nhà nước, thiên tai...Rủi ro kinh doanh xảy ra có thể gây thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp về nhiều mặt vì vậy khi xây dựng các phương án kinh doanh, doanh nghiệp rất quan tâm đến việc ngăn ngừa rủi ro đảm bảo độ an toàn cao nhất cho doanh nghiệp. Một trong những biện pháp giúp doanh nghiệp giảm thiểu những rủi ro là thực hiện đa dạng hoá sản phẩm để tạo ra các tuyến sản phẩm với nhiều thang, dòng bổ sung lẫn nhau thay vì chỉ tập trung sản xuất một sản phẩm khi các yếu tố khách quan biến động có thể dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp.
2.2.5. Đa dạng hoá góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh. Một hiện tượng có tính phổ biến tồn tại trong các doanh nghiệp hiện nay là các nguồn lực không được tận dụng hết mức sản xuất thực tế mà thường nằm dưới đường giới hạn khả năng sản xuất. Sự lãng phí nguồn lực có thể do: đầu tư không đúng mục đích, đọng vốn lớn, không sử dụng hết công suất thiết bị máy móc hay không tận dụng hết chất có ích của nguyên liệu...Việc đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực sẵn có cho phép doanh nghiệp tăng năng lực sản xuất, đạt được lợi nhuận tối đa ngoài ra còn tăng thêm thu nhập cho người lao động, giải quyết việc làm và các mục tiêu xã hội khác.
Tóm lại, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm được coi là một xu hướng tất yếu khách quan đối với các doanh nghiệp công nghiệp giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển vững chắc trong nền kinh tế thị trường hiện hay.
II. Các hình thức đa dạng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng hoá sản phẩm :
1. Các hình thức đa dạng hoá sản phẩm :
Trong quá trình mở rộng kinh doanh các doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hoá sản phẩm với những hình thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại đa dạng hoá sản phẩm.
1.1. Xét theo sự biến đổi danh mục sản phẩm : có các hình thức đa dạng hoá sau đây:
1.1.1. Biến đổi chủng loại :
Đó là quá trình hoàn thiện và cải tiến các loại sản phẩm đang sản xuất đang sản xuất để giữ vững thị trường hiện tại và thâm nhập vào thị trường mới, nhờ sự đa dạng về kiểu cách, cấp độ hoàn thiện của sản phẩm thoả mãn thị hiếu, điều kiện sử dụng và khả năng thanh toán của những khách hàng khác nhau. Sự hoàn thiện ấy có thể thuần tuý về hình thức sản phẩm ( kiểu dáng, mẫu mã ) hoặc về nội dung sản phẩm ( chất lượng, cấp độ hoàn thiện về kỹ thuật ) hoặc cả về hình thức và nội dung sản phẩm.
1.1.2. Đổi mới chủng loại:
Loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, những sản phẩm khó tiêu thụ và bổ sung những sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm của doanh nghiệp. Những sản phẩm được bổ sung này có thể là sản phẩm mới tuyệt đối ( đối với doanh nghiệp và với thị trường ) hoặc sản phẩm mới tương đối ( mới với doanh nghiệp nhưng không mới với thị trường ).
Việc thực hiện hình thức đa dạng hoá sản phẩm này gắn liền với việc doanh nghiệp rời bỏ một số thị trường cũ và gia nhập những thị trường mới.
1.1.3. Hình thức hỗn hợp:
Kết hợp một số nội dung của hình thức thứ nhất và thứ hai vừa nêu. Nghĩa là doanh nghiệp vừa cải tiến, hoàn thiện một số sản phẩm đang sản xuất, vừa loại bỏ những sản phẩm không sinh lợi, vừa bổ sung những sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm của mình.
1.2. Xét theo tính chất của nhu cầu sản phẩm:
1.2.1. Đa dạng hoá theo chiều sâu nhu cầu mỗi loại sản phẩm:
Đó là việc tăng thêm kiểu cách, mẫu mã của cùng một loại sản phẩm để đáp ứng toàn diện nhu cầu của các đối tượng khác nhau về cùng một loại sản phẩm. Ví dụ như doanh nghiệp sản xuất kem đánh răng có thể có kem đánh răng chống sâu răng cho trẻ em, kem đánh răng muối..
Việc thực hiện hình thức đa dạng hoá sản phẩm này gắn liền với việc phân đoạn thị trường sản phẩm.
1.2.2. Đa dạng hoá theo bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm: thể hiện ở việc doanh nghiệp chế tạo một số sản phẩm có kết cấu, công nghệ sản xuất và giá trị sử dụng cụ thể khác nhau, để thoả mãn đồng bộ một số nhu cầu có liên quan với nhau của một đối tượng tiêu dùng. Ví dụ như doanh nghiệp không chỉ sản xuất kem đánh răng mà còn sản xuất bàn chải đánh răng. Việc thực hiện hình thức đa dạng hoá sản phẩm này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực lớn về tài chính, công nghệ để xây dựng doanh nghiệp quy mô lớn, cơ cấu sản xuất phức tạp.
1.2.3. Đa dạng hoá theo hướng thoát ly sản phẩm gốc, đưa sản phẩm mới vào danh mục của doanh nghiệp:
Nếu hai hình thức đa dạng hoá sản phẩm nêu trên vẫn lấy một loại sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu làm cơ sở để mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp thì ở hình thức này sản phẩm được mở rộng không có liên quan đến sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu cả về giá trị sử dụng và công nghệ sản xuất.
1.3. Xét theo mối quan hệ với sử dụng nguyên liệu chế tạo sản phẩm:
1.3.1. Sản xuất những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có chung chủng loại nguyên liệu gốc. Ví dụ, nhà máy sứ vừa sản xuất sứ dân dụng, sứ mỹ nghệ, sứ điện, vừa sản xuất sứ vệ sinh. Các sản phẩm này có giá trị sử dụng khác nhau nhưng đều sử dụng cao lanh và các loại men xương làm nguyên liệu chính.
1.3.2. Sử dụng tổng hợp các chất có ích chứa đựng trong một loại nguyên liệu để sản xuất một số loại sản phẩm coa giá trị sử dụng khác nhau. Chẳng hạn trong công nghiệp mía đường, người ta sử dụng không những tổng hợp cây mía để sản xuất ra đường mà còn để sản xuất ra cồn công nghiệp, ván ép...
1.4. Xét theo phương thức thực hiện :
1.4.1. Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực hiện có của doanh nghiệp :
Bằng việc áp dụng hình thức này, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được đầu tư, giảm bớt thiệt hại do rủi ro khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tận dụng được khả năng sản xuất hiện có. Tuy nhiên sự tận dụng này lại hạn chế khả năng mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp.
1.4.2. Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở nguồn lực hiện có kết hợp với đầu tư bổ sung :
Nghĩa là việc mở rộng danh mục sản phẩm đòi hỏi phải có đầu tư, nhưng đầu tư này chỉ giữ vị trí bổ sung nhằm khắc phục khâu yếu hoặc khâu sản xuất mà doanh nghiệp còn thiếu. So với hình thức trên, khả năng mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp được nâng cao hơn
1.4.3. Đa dạng hoá sản phẩm bằng đầu tư mới:
Hình thức này thường được áp dụng khi doanh nghiệp đang triển khai sản xuất những sản phẩm mới, mà khả năng sản xuất hiện tại không thể đáp ứng được. Trong trường hợp này nhu cầu đầu tư thường lớn và xác suất rủi ro sẽ cao hơn, nhưng khả năng sản xuất được mở rộng hơn.
Tóm lại, từ các hình thức đa dạng hoá sản phẩm nêu trên ta thấy, trong phạm vi hoạt động sản xuất-kinh doanh của mỗi doanh nghiệp có thể có nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm, các hình thức này đan xen cùng tồn tại và bổ sung cho nhau, ưu điểm của mỗi hình thức đa dạng hoá sản phẩm chỉ được thể hiện khi doanh nghiệp bảo đảm cho nó những điều kiện thích hợp mà hình thức này đòi hỏi. Dù áp dụng một hay nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm thì cũng làm cho danh mục sản phẩm của mỗi doanh nghiệp được mở rộng, cơ cấu sản phẩm trở nên phức tạp hơn và mỗi doanh nghiệp sẽ có thêm nhiều thang, dòng và mặt hàng sản phẩm.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng hoá sản phẩm:
2.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp:
2.1.1. Nhu cầu thị trường:
Trong điều kiện cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp phải bám sát nhu cầu của thị trường và đưa ra thị trường những sản phẩm và dịch vụ mà thị trường cần. Việc điều tra phân tích nhu cầu thị trường phải được coi là một trong những công tác quan trọng hàng đầu trong quản lý doanh nghiệp và quản lý ngành công nghiệp. Trong chiến lược đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp, yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng lớn nhất đến phương hướng và mức độ đa dạng hoá chính là nhu cầu thị trường.
- Kiểu cách mẫu mã, kích cỡ mỗi loại sản phẩm mà thị trường đòi hỏi. Việc phân khúc nhu cầu thị trường có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích nhu cầu thị trường về mỗi loại sản phẩm. Vì vậy để cung cấp một hàng hoá, dịch vụ với một số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian cung ứng cụ thể theo đúng yêu cầu của khách hàng thì việc xác định đúng phân đoạn thị trường sẽ quyết định sự thành công của doanh nghiệp.
- Nhu cầu sản phẩm có liên quan đến người tiêu dùng, nghĩa là phân tích bề rộng nhu cầu các sản phẩm. Để xác định phương hướng đa dạng hoá sản phẩm cũng cần phải xem xét điều kiện để sản xuất các sản phẩm, kết cấu và tính chất sản phẩm.
- Các loại sản phẩm có thể thay thế. Việc nghiên cứu phân tích này nhằm hạn chế rủi ro trong khi phát triển đa dạng hoá sản phẩm.
- Sự vận động của sản phẩm trong chu kỳ sống của nó. Việc đa dạng hoá nếu nhằm vào sản phẩm đang ở pha suy thoái thì sẽ làm tăng rủi ro kinh doanh.
- Đối với các doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoá bằng sản phẩm không mới đích thực ( đã có trên thị trường ) thì một việc làm không thể thiếu là phải xem xét đánh giá phần thị trường còn lại của một sản phẩm mà doanh nghiệp có thể xâm nhập.
Nhu cầu TT = Dung lượng _ Phần TT mà các DN khác
về SP của DN thị trường có khả năng cung ứng
Tóm lại việc nghiên cứu, phân tích sự ảnh hưởng của nhân tố chủng loại và dung lượng nhu cầu trên thị trưòng để xác định phương hướng và mức độ đa dạng hoá sản phẩm không chỉ ở mặt lượng mà còn ở cả tính chất, nhu cầu và quan hệ với các sản phẩm liên quan khác.
2.1.2. Bản quyền công nghiệp:
Một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp đầu tư rất lớn cho hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm mới nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ nhưng sản phẩm của họ nhiều khi không mang lại lợi nhuận như mong muốn. Nguyên nhân chủ yếu là các đối thủ cạnh tranh thông qua các kênh thông tin khác nhau có thể sao chép và nhái lại sản phẩm của doanh nghiệp một cách nhanh chóng khi doanh nghiệp còn chưa thu hồi vốn đầu tư.
Vấn đề bản quyền công nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đa dạng hoá của công ty vì hầu hết các công ty đều thực hiện đa dạng hoá sản phẩm mới với công ty nhưng không mới với thị trường. Bản quyền công nghiệp xác nhận quyền sở hữu của một doanh nghiệp đối với nhãn hiệu, bí quyết công nghệ..của một sản phẩm. Vì vậy khi xây dựng chiến lược đa dạng hoá công ty phải hết sức quan tâm đến vấn đề này nhằm bảo vệ chính sản phẩm và uy tín của mình và tránh vi phạm bản quyền công nghiệp.
2.1.3. Tình hình cạnh tranh:
Hoạt động trong kinh tế thị trường, doanh nghiệp bị chi phối bởi quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải có một cơ cấu sản phẩm hợp lý để có thể tạo ra vũ khí cạnh tranh hiệu quả xác định vị trí của mình trên thương trường. Hiện nay trong bất kì ngành kinh doanh nào sự cạnh tranh về nhiều phương diện giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước đều đang diễn ra rất mạnh mẽ. Sản phẩm của doanh nghiệp có thể bị các đối thủ cạnh tranh sao chép một cách nhanh chóng thông qua hệ thống thông tin rất phát triển.Thực tế đã cho thấy nếu như trước kia các doanh nghiệp chủ yếu thực hiện đa dạng hoá đồng tâm tức là thêm vào cơ cấu sản phẩm những sản phẩm mới có liên hệ với nhau và phù hợp với công nghệ hiện tại của công ty thì ngày nay các doanh nghiệp đã chuyển sang hình thức đa dạng hoá kết khối là hình thức đa dạng hoá mà một doanh nghiệp sản xuất các loại mặt hàng rất khác biệt nhau thuộc nhiều nhóm đòi hỏi đầu tư nhiều nguồn lực. Đây chính là kết quả của sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, nó đã thúc đẩy đa dạng hoá lên một mức cao hơn. Ví dụ như tập đoàn LG sản xuất 2 loại mặt hàng chủ yếu là điện tử và điện lạnh ngoài ra LG còn được biết đến là một nhà sản xuất thiết bị văn phòng và các loại mỹ phẩm. Một trong những nguyên nhân của sự mở rộng này là do LG phải đối đầu với sự cạnh tranh rất gay gắt của DAEWOO, SAMSUNG...và phát triển mạnh đa dạng hoá là một điều kiện cần thiết để tồn tại.
2.1.4. Quá trình hội nhập khu vực và quốc tế:
Hội nhập khu vực và quốc tế là một quá trình tất yếu để đưa các doanh nghiệp vào con đường phát triển.Tiến trình này đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều thách thức, song đây cũng là cơ hội lớn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp công nghiệp thâm nhập vào thị trường quốc tế để tiếp thu phương pháp quản lý, công nghệ tiên tiến... và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đa dạng hoá.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì quá trình gia nhập Khu vực tự do mậu dịch Châu á AFTA có tác động tương đối lớn đến tính chất và phương hướng của đa dạng hoá sản phẩm. Do AFTA chú trọng đến các mặt hàng công nghiệp chế tạo nên các doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được xu hướng này. Các doanh nghiệp sẽ tập trung vào đa dạng hoá sản phẩm bằng những mặt hàng công nghiệp chế tạo đã có ở Việt nam và tích cực nghiên cứu sản xuất những mặt hàng mới. Mặt khác khi sự giao lưu quốc tế và khu vực tăng lên mạnh mẽ các doanh nghiệp sẽ nắm bắt được thêm nhiều nhu cầu sản phẩm mới, khai thác được nhiều nguyên nhiên vật liệu mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp.
2.1.5. Chính sách kinh tế - xã hội:
Trong cơ chế thị trường mỗi doanh nghiệp công nghiệp là một chủ thể kinh doanh độc lập vì vậy doanh nghiệp có quyền thực sự trong việc xác định phương hướng sản xuất kinh doanh của mình thông qua việc xây dựng một cơ cấu và danh mục sản phẩm có hiệu quả. Nhưng như vậy không có nghĩa là doanh nghiệp có thể sản xuất bất cứ sản phẩm, tham gia kinh doanh bất kì lĩnh vực nào miễn là mang lợi nhuận. Chính sách kinh tế của nhà nước có thể mang lại thuận lợi cho hoạt động đa dạng hoá khi doanh nghiệp sản xuất loại sản phẩm được nhà nước khuyến khích và ngược lại có thể mang đến sự thất bại cho doanh nghiệp khi sản phẩm đó bị hạn chế hoặc nghiêm cấm sản xuất.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện vai trò chủ thể kinh doanh của mình, mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp có thể mâu thuẫn với các mục tiêu xã hội, điều quan trọng là doanh nghiệp phải biết dung hoà các lợi ích để vừa đạt được các mục tiêu của mình vừa góp phần phát triển xã hội.
2.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp:
2.2.1. Tính chất nguyên vật liệu và sản phẩm của doanh nghiệp:
Đặc điểm sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đa dạng hoá sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận, vòng quay vốn...
Nguyên nhiên vật liệu mà mỗi doanh nghiệp sử dụng rất phong phú và đa dạng, chúng đựoc gọi là đối tượng lao động - một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, thiếu nguyên vật liệu thì quá trình sản xuất bị gián đoạn không thực hiện được. Trong quá trình sản xuất con người sử dụng tư liệu lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hóa của đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm công nghiệp với chất lượng ngày càng cao, thoả mãn đầy đủ nhu cầu của thị trường.
Chủng loại nguyên vật liệu đơn giản hay phức tạp đều có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến hiệu quả việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm và do đó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại mức độ đa dạng hoá trong doanh nghiệp cao hay thấp theo hình thức nào đi nữa thì cũng đòi hỏi việc cung ứng phải đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, số lượng, thời gian giao hàng mà điều này lại phụ thuộc rất lớn vào tính chất nguyên vật liệu. Nhìn chung mối quan hệ giữa đa dạng hoá sản phẩm và tính chất nguyên liệu đưa vào sản xuất thay đổi tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất từng ngành và phương hướng sản xuất kinh doanh. Vì vậy để có được phương án đa dạng hoá sản phẩm hợp lý và có hiệu quả mỗi doanh nghiệp phải xác định được mức độ ảnh hưởng của nguyên vật liệu hạn chế tác động tiêu cực của nó đến đa dạng hoá nói riêng và quá trình kinh doanh nói chung của doanh nghiệp.
2.2.2. Yếu tố lao động:
Giống như yếu tố nguyên vật liệu, lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, trực tiếp tác động tới thành quả kinh doanh của doanh nghiệp
Khi thực hiện đa dạng hoá trên cơ sở chuyên môn hoá, doanh nghiệp đã có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhưng điều quan trọng hơn cả để thực hiện thành công đa dạng hoá là cơ cấu lao động trong công ty được tổ chức như thế nào. Lực lượng lao động bảo đảm được số lượng, chất lượng, giới tính và lứa tuổi được sử dụng đúng chỗ là một điều kiện thuận lợi khi mở rộng sản xuất những mặt hàng mới.
Để quản lý một danh mục sản phẩm với nhiều chủng loại phức tạp thì yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ lãnh đạo cũng rất cao. Mặt khác chính những nhà quản lý cũng là những người vạch ra chiến lược đa dạng hoá cho công ty vì vậy họ phải có sự hiểu biết, kinh nghiệm và một tầm nhìn xa.
Tuy vậy một cơ cấu lao động tối ưu không đủ để mang đến thành công cho doanh nghiệp khi nó không được đặt trong một môi trường làm việc lành mạnh có văn hoá và khuyến khích người lao động có trách nhiệm với công việc, không ngừng sáng tạo vươn lên vì bản thân và vì sự phát triển của doanh nghiệp.
2.2.3. Vốn:
Một nguồn lực quan trọng để thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là tiềm năng vốn của doanh nghiệp vì vậy phải đánh giá đầy đủ về nguồn vốn, tính chất và khả năng khai thác các nguồn. Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm liệu doanh nghiệp có phải đầu tư thêm không hay đầu tư mới ? Đầu tư vốn cố định hay vốn lưu động ? Tỉ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động là bao nhiêu ?. Liệu kết quả thực hiện đa dạng hoá sản phẩm có bù đắp được chi phí hay không ?. Sau đa dạng hoá mức doanh lợi là bao nhiêu, vòng quay vốn cố định, vốn lưu động như thế nào ?.
2.2.4. Đặc điểm công nghệ, máy móc thiết bị của doanh nghiệp:
Máy móc thiết bị có vai trò rất quan trọng trong sản xuất, nó không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn doanh nghiệp mà còn quyết định điều kiện và khả năng sản xuất kinh doanh. Khả năng khai thác tối đa công suất thiết bị máy móc là điều kiện cần để thực hiện đa dạng hoá hiệu quả.
Các đặc điểm công nghệ của doanh nghiệp như : đơn giản hay phức tạp, chuyển giao dọc hay ngang trình độ cao hay thấp ...cũng là một nhân tố quyết định mức độ đa dạng hoá. Kỹ thuật công nghệ kém sẽ khó nâng cao năng lực sản xuất, khó sản xuất những mặt hàng có cùng công nghệ sản xuất với sản phẩm đang được sản xuất, kết quả là đa dạng hoá sản phẩm sẽ không thực hiện được. Mặt khác nó cũng ảnh hưởng đến công tác định mức, tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ, mở rộng thị trường, khó cạnh tranh với các đối thủ của mình.
Tóm lại, trong môi trường cạnh tranh sôi động, các doanh nghiệp phải luôn năng động và nhạy bén nắm bắt các cơ hội kinh doanh phản ánh trong cơ cấu sản phẩm mỗi thời kỳ. Trong quá trình ấy phải đánh giá đúng khả năng hiện có và có thể có của doanh nghiệp .Việc phân tích khả năng của doanh nghiệp được thực hiện trên nhiều góc độ khác nhau: khả năng các yếu tố của quá trình sản xuất ( nhân tài , vật lực ...), khả năng của các tài sản hữu hình và vô hình...Như vậy việc đánh giá khả năng của doanh nghiệp đã vượt ra khỏi phạm vi từng doanh nghiệp cá biệt, mà được xem xét trong mối quan hệ với các doanh nghiệp có liên quan. Để thực hiện việc này,việc thu thập thông tin và việc đưa doanh nghiệp tham gia các tổ chức liên kết thích ứng có tầm quan trọng đặc biệt.
III. Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ và hiệu quả đa dạng hoá :
1. Hệ số đa dạng hoá sản phẩm : HD
D0
HD = 1 - -------
DS
Trong đó:
D0 : Doanh thu từ sản phẩm đa dạng hoá trong kỳ
DS : Doanh thu của toàn bộ sản phẩm trong kỳ
HD = 0 thì không đa dạng hoá sản phẩm
0< HD< 1: HD càng thấp thì mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao
Ví dụ: Doanh thu từ 9 sản phẩm mới của một doanh nghiệp dược phẩm năm 1999 là 0,91 tỷ đồng, tổng doanh thu là 80 tỷ.
0,91
HD = 1 - ---------- = 0,988
80
ị Doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoá ở mức độ thấp.
2.Hệ số biến đổi chủng loại sản phẩm: HB
SC
HB = ---------
SG
Trong đó:
SG : Chủng loại sản phẩm gốc
SC : Chủng loại sản phẩm cải tiền từ sản phẩm gốc
HB ³ 1
Nếu HB =1 thì doanh nghiệp không thực hiện đa dạng hoá theo hướng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm
HB càng lớn mức độ đa dạng hoá càng lớn
Ví dụ một doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo cải tiến bao gói và hình thức của bánh kem xốp thành 3 loại sản phẩm khác nhau.
3
HB = ----------- = 3
1
3. Hệ số mở rộng chủng loại sản phẩm : HM
SC + SM
HM = --------------
S
SC : Chủng loại sản phẩm cải tiến từ sản phẩm gốc.
SM : Số chủng loại sản phẩm mới hoàn toàn .
S : Tổng số chủng loại sản phẩm sản xuất trong kỳ của doanh nghiệp.
HM Ê 1: HM càng lớn thì mức độ đa dạng hoá càng cao.
Doanh nghiệp trong ví dụ trên, bên cạnh việc cải tiến sản phẩm hiện có còn đầu tư dây chuyền công nghệ để sản xuất thêm 9 mặt hàng mới như bánh qui bơ, bánh mặn...mở rộng danh mục sản phẩm ra 26 loại.
3 + 9
HM = ------------- = 0,46
26
Như vậy mức độ đa dạng hoá sản phẩm chưa hoàn toàn thể hiện sự năng động của doanh nghiệp trong kinh doanh. Mức độ hợp lý của đa dạng hoá sản phẩm còn phụ thuộc vào quy mô, khả năng quản lý, quan hệ liên kết của doanh nghiệp và đặc biệt là hiệu quả kinh tế mà đa dạng hoá mang lại.
4. Mức tăng doanh lợi : KP
PD P0
KP = ------ - ------
ZD Z0
Trong đó:
P0 và PD: Lợi nhuận trước và sau khi đa dạng hoá sản phẩm
Z0 và ZD: Giá thành sản phẩm trước và sau khi đa dạng hoá sản phẩm
PD P0
KP’= ------ - ------
VD V0
V0 và VD : Vốn sản xuất trước và sau khi đa dạng hoá sản phẩm
PD P0
KP’’ = ------------------------- - -------------------
ZD + Eđm ( I0 + ID ) Z0 + Eđm. I0
Trong đó:
I0 và ID : Vốn đầu tư trước và sau khi đa dạng hoá sản phẩm
Z0 và ZD: Giá thành sản phẩm trước và sau khi đa dạng hoá
Eđm : Hệ số hiệu quả định mức của vốn đầu tư ( cho biết từ một đơn vị chi phí đầu tư bỏ thêm thì thu được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận ).
KP, KP’, KP’’ >0 : Đa dạng hoá có hiệu quả.
KP, KP’, KP’’ Ê 0 : Đa dạng hoá không có hiệu quả.
IV. Quy trình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm :
Như phần trên đã nghiên cứu ta thấy rằng doanh nghiệp có thể đa dạng hoá theo hai hướng là cải tiến hoàn thiện sản phẩm hiện có hoặc nghiên cứu phát triển sản phẩm mới hoàn toàn. Mỗi hình thức này đều có những ưu và nhược điểm nhất định, ngày nay, phần lớn các doanh nghiệp đều không ngừng vươn lên khẳng định mình bằng chính những sản phẩm mới có tính sáng tạo cao mang lại vị thế lớn cho doanh nghiệp trên thương trường. Trong thực tế có sáu loại sản phẩm được coi là mới theo góc dộ chúng có tính chất mới đối với công ty và thị trường:
- Sản phẩm mới đối với thế giới: Những sản phẩm tạo ra một thị trường hoàn toàn mới.
- Chủng loại sản phẩm mới: Những sản phẩm cho phép công ty xâm nhập một thị trưòng đã có sẵn lần đầu tiên.
- Bổ sung chủng loại sản phẩm hiện có : Những sản phẩm mới bổ sung thêm vào các chủng loại sản phẩm sẵn có của công ty ( kích cỡ gói, hương vị...)
- Cải tiến sửa đổi những sản phẩm hiện có: Những sản phẩm mới có tính năng tốt hơn hay giá trị nhận thức được lớn hơn và thay thế những sản phẩm hiện có .
- Định vị lại : Những sản phẩm hiện có được nhằm vào những thị trường hoặc khúc thị trưòng mới.
- Giảm chi phí: Những sản phẩm mới có tính năng tương tự với chi phí thấp hơn. Công ty thường theo đuổi cả một danh mục những sản phẩm mới này. Một phát hiện quan trọng là chỉ có 10 % số sản phẩm mới là thức sự đổi mới hay mới đối với thế giới. Những sản phẩm này có chi phí và rủi ro cực lớn bởi vì chúng mới cả đối với công ty và thị trường. Phần lớn hoạt động về sản xuất mới của công ty được dành cho việc cải tiến những sản phẩm hiện có chứ không phải sáng tạo những sản phẩm mới
Vì vậy hoạt động nghiên cứu phát triển ngày càng được đầu tư nhiều hơn về nhân lực và vật lực, là hoạt động không thể thiếu trong quá trình thực hiện đa dạng hoá.
Về cơ bản, quá trình nghiên cứu và phát triển gồm các bước sau:
1. Hình thành ý tưởng về sản phẩm :
Quá trình phát triển một sản phẩm mới nhằm thực hiện đa dạng hoá bắt đầu từ việc tìm kiếm những ý tưởng. Việc tìm kiếm không thể là vu vơ. Ban lãnh đạo tối cao phải xác định những sản phẩm và thị trường cần chú trọng. Họ cần xác định mục tiêu của sản phẩm mới như tạo lưu kim mới, khống chế thị trường hay những mục tiêu khác. Họ cũng cần phải xác định cần dành bao nhiêu nỗ lực cho việc phát triển những sản phẩm đột phá cải biến những sản phẩm hiện có và làm nhái các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
1.1. Những nguồn ý tưởng sản phẩm mới :
Những ý tưởng sản phẩm mới có thể nảy sinh từ nhiều nguồn: khách hàng, các nhà khoa học, đối thủ cạnh tranh, công nhân viên, thành viên của kênh, ban lãnh đạo tối cao.
Quan điểm Marketing khẳng định rằng những nhu cầu và mong muốn của khách hàng là nơi hợp lôgic để tìm kiếm những ý tưởng sản phẩm mới. Các công ty có thể phát hiện những nhu cầu và mong muốn của khách hàng thông qua các cuộc thăm dò khách hàng, trắc nghiệm chiếu hình, trao đổi nhóm tập trung và những thư góp ý khiếu nại của khách hàng. Nhiều ý tưởng hay nhất nảy sinh khi yêu cầu khách hàng trình bày những vấn đề của mình liên quan đến sản phẩm hiện có.
Các công ty cũng dựa vào những nhà khoa học, các kỹ sư, những người thiết kế và các công nhân viên khác để khai thác ý tưởng sản phẩm mới, khuyến khích mọi thành viên công ty tham gia cải tiến sản phẩm.
Các công ty có thể tìm được những ý tưởng hay thông qua khảo sát sản phẩm và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh. Qua những người phân phối, những người cung ứng và các đại diện bán hàng có thể tìm hiểu xem đối thủ cạnh tranh đang làm gì. Công ty có thể phát hiện ra khách hàng thích những điểm gì ở sản phẩm mới của đối thủ cạnh tranh. Chiến lược cạnh tranh của công ty có thể là chiến lược phỏng tạo và cải tiến chứ không phải là đổi mới sản phẩm.
Các đại diện bán hàng và những người bán hàng của công ty là nguồn ý tưởng rất tốt. Họ có thể điều kiện mắt thấy tai nghe những nhu cầu và phàn nàn của khách hàng. Họ thường hay biết được trước tiên những diễn biến cạnh tranh.
Những ý tưởng sản phẩm mới cũng có thể có những nguồn khác nhau như những nhà sáng chế, những người có bằng sáng chế, các phòng thí nghiệm của trường đại học, các công ty Marketing và ấn phẩm chuyên ngành.
1.2. Phương pháp hình thành ý tưởng:
Những ý tưởng thực sự hay đều nảy sinh từ nguồn cảm hứng, sự lao động cật lực và những phương pháp. Có một số phương pháp sáng tạo có thể giúp cá nhân hay tập thể hình thành những ý tưởng tốt hơn.
- Liệt kê thuộc tính :
Phương pháp này đòi hỏi phải liệt kê những thuộc tính chủ yếu của một sản phẩm hiện có để tìm ra một sản phẩm cải tiến.
- Xem xét quan hệ bắt buộc:
Phương pháp này đòi hỏi phải xem xét sự vật trong mối quan hệ gắn bó với nhau tức là hướng các ý tưởng vào sản phẩm bổ sung.
- Phân tích hình thái học:
Phương pháp này đòi hỏi phải phát hiện những cấu trúc rồi khảo sát mối quan hệ giữa chúng, tìm ra sản phẩm với cách kết hợp mới.
- Phát hiện nhu cầu - vấn đề:
Những phương pháp sáng tạo trên không đòi hỏi thông tin từ người tiêu dùng để hình thành ý tưởng. Phương pháp này tìm kiếm thông tin từ người tiêu dùng như đặt ra các câu hỏi về những vấn đề khi sử dụng một sản phẩm hay một loại sản phẩm cụ thể .
2. Sàng lọc và lựa chọn ý tưởng:
Sau khi có được nhiều ý tưởng về sản phẩm sản xuất, doanh nghiệp cần xây dựng một số chỉ tiêu phù hợp nhất để đánh giá tính khả thi đi tới việc lựa chọn những ý tưởng phù hợp với khả năng của công ty và nhu cầu của thị trường. Hầu hết các công ty đều yêu cầu trình bầy những ý tưởng sản phẩm mới theo một mẫu thống nhất để ban phụ trách sản phẩm mới có thể xem xét. Nội dung trình bầy phải nói lên được ý tưởng của sản phẩm, thị trường mục tiêu và tình hình cạnh tranh, ước tính sơ bộ quy mô thị trường giá bán sản phẩm, thời gian và chi phí phát triển, chi phí sản xuất và tỷ suất lợi nhuận. Sau đó ban phụ trách sẽ xem từng ý tưởng sản phẩm mới đối chiếu với các tiêu chuẩn bằng những câu hỏi, những ý tưởng nào không thoả mãn được một hay nhiều câu hỏi này sẽ bị loại bỏ.
- Khả năng thích ứng của sản phẩm: Câu hỏi cần trả lời trước khi quyết định sản phẩm là sản phẩm liệu có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng không và đáp ứng đến đâu. Nếu sản phẩm không tạo ra được sự thu hút đối với khách hàng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong tương lai thì ý tưởng về sản phẩm có hay đến đâu cũng bị loại bỏ.
- Dự tính chi phí sản phẩm:
Một vấn đề rất quan trọng khi thực thi bất kì hoạt động gì là chi phí phải bỏ ra là bao nhiêu. Một sản phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường về giá trị sử dụng nhưng lại có giá bán cao hơn các sản phẩm cùng loại trên thị trường thì sản phẩm đó gặp rủi ro cao. Mục tiêu chủ yếu của chiến lược đa dạng hoá là lợi nhuận vì vậy sản phẩm mới phải đảm bảo có lãi. Ngoài ra cũng cần dự tính toàn bộ chi phí cho quá trình xây dựng một phương án sản phẩm.
- Tốc độ phát triển sản phẩm và mức lợi nhuận dự kiến :
Vấn đề ở đây là phải xác định xem cần bao nhiêu thời gian để sản phẩm có được chỗ đứng trên thị trường và có được thị phần mong muốn và khi đưa ra thị trường doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận dự kiến và tốc độ thu hồi vốn ra sao. Câu hỏi này mang tính chất quyết định đối với việc lựa chọn phương án sản phẩm.
- Đánh giá khả năng của doanh nghiệp nhằm khẳng định các tiềm lực tài chính cho việc thực hiện phương án này. Phân tích khả năng của doanh nghiệp được tiến hành trên các phương diện: khả năng hiện có về máy móc thiết bị, lao động, vốn đầu tư cho dự án.
Thông qua việc nghiên cứu sơ bộ các tiêu chuẩn trên của sản phẩm, giai đoạn này giúp cho doanh nghiệp loại bỏ những ý tưởng tồi không có tính khả thi và lựa chọn phương án sản phẩm tối ưu , đạt được nhiều nhất các yêu cầu đề ra.
3. Thử nghiệm và phát triển sản phẩm:
Giai đoạn này đưa các ý tưởng vào giai đoạn nghiên cứu phát triển hay thiết kế kĩ thuật để phát triển thành sản phẩm vật chất. Cho đến lúc này nó mới chỉ ở dạng mô tả bằng lời, một mô hình vẽ hay mô hình phác thảo. Giai đoạn này sẽ đòi hỏi phải có một sự nhảy vọt về số vốn đầu tư. Giai đoạn này sẽ trả lời ý tưởng sản phẩm đó, xét về mặt kỹ thuật và thương mại có thể biến thành một sản phẩm khả thi được không. Phòng nghiên cứu phát triển sẽ tìm một nguyên mẫu mà người tiêu dùng thấy rằng nó có đủ các thuộc tính then chốt được mô tả trong quan niệm về sản phẩm như kiểu dáng kết cấu, tính năng tác dụng, vật liệu kỹ thuật sản xuất, hoạt động an toàn trong điều kiện sử dụng bình thường và có thể sản xuất trong phạm vi chi phí sản xuất đã dự toán. Khi làm xong các nguyên mẫu phải được mang đi thử nghiệm về chức năng một cách nghiêm ngặt và thử nghiệm với người tiêu dùng. Các thử nghiệm chức năng được tiến hành trong phòng thí nghiệm và trong điều kiện dã ngoại để biết chắc rằng các doanh nghiệp đó hoạt động an toàn và có hiệu suất.
Sau khi hài lòng với những kết quả về chức năng và tâm lý của sản phẩm thì doanh nghiệp có thể xác định cho sản phẩm đó tên nhãn hiệu, bao bì và một chương trình marketing sơ bộ để thử nghiệm nó trong điều kiện xác thực hơn đối với người tiêu dùng. Giai đoạn thử nghiệm trên thị trường đã cung cấp đủ thông tin về sản phẩm doanh nghiệp quyết định phát triển sản phẩm trên thị trường.
Cuối cùng doanh nghiệp phải xác định những kết quả mà sản phẩm mới mang lại hay cũng chính là hiệu quả của hoạt động đa dạng hoá.
Phần II: Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại
công ty TRAPHACO.
I. Những nét khái quát về công ty :
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty:
1.1. Giới thiệu chung:
Công ty cổ phần Dược và thiết bị vật tư y tế giao thông vận tải là doanh nghịệp được thành lập dưới hình thức chuyển từ doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần được tổ chức và hoạt động theo Luật công ty và Luật doanh nghiệp. Công ty được thành lập để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong việc phát triển sản xuất và kinh doanh dược phẩm và trang thiết bị y tế và các lĩnh vực khác nhằm mục tiêu thu lợi nhuận tối đa, tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động, tăng lợi tức cho các cổ đông, đóng góp cho ngân sách nhà nước và phát triển công ty ngày càng phát triển vững mạnh.
- Tên giao dịch quốc tế: TRAPHACO pharmaceutical & medical stock company.
- Tên viết tắt: TRAPHACO
- Công ty có trụ sở tại : 75 Yên Ninh , Ba Đình, Hà Nội.
- Điện thoại: 8454813-7333647
- Fax: 8430009
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty và bổ sung nhiệm vụ kinh doanh của công ty:
- Tiền thân của công ty là một xưởng dược nhỏ bé do Sở y tế Tổng cục đường sắt thành lập năm 1972 với nhiệm vụ sản xuất thuốc phục vụ cho cán bộ công nhân viên ngành đường sắt theo hình thức tự sản tự tiêu.
- Tháng 6/1993, để phù hợp với nền kinh tế thị trường, xưởng được mở rộng và chuyển thành xí nghiệp dược phẩm đường sắt, tên giao dịch là RAPHACO theo tinh thần nghị định số 388/ HĐBT của Hội đồng bộ trưởng với chức năng là sản xuất và thu mua dược liệu theo 1087-QĐ / TCCB-LĐ.
- Tháng 8/1993, Sở y tế đường sắt được chuyển thành Sở y tế giao thông vận tải do Bộ giao thông vận tải quản lý. Từ đó xí nghiệp dược phẩm đường sắt được đổi thành Xí nghiệp dược Bộ GTVT.
- Tháng 6/1994,đổi thành công ty dược phẩm Bộ GTVT ,tên giao dịch TRAPHACO theo quyết định số 666 QĐ/TCCB-LĐ của Bộ GTVT với chức năng nhiệm vụ thu mua dược liệu sản xuất và kinh doanh dược phẩm.
- Đến năm 1995, công ty bổ sung nhiệm vụ kinh doanh thiết bị vật tư y tế theo quyết định 535 QĐ/ TCCBB-LĐ của Bộ GTVT.
-Vào thời điểm cuối năm 1999, theo chủ trương của chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, công ty đã chuẩn bị và xây dựng phương án cổ phần hoá trình bộ GTVT xét duyệt. Theo quyết định số 2566 ngày 27/ 09/ 1999 của Bộ GTVT về việc chuyển công ty Dược và thiết bị vật tư y tế TRAPHACO thành công ty cổ phần, công ty đã tiến hành đại hội cổ đông thành lập và chính thức hoạt động công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp từ ngày 1/1/2000.
Biểu 1:Tóm tắt các quyết định qui định chức năng và nhiệm vụ kinh doanh cơ bản của công ty.
Năm ra QĐ
Số QĐ
Nội dung
Chức năng
Tên công ty
1993
1087QĐ/ TCCB-LĐ
Thành lập xí nghiệp dược phẩm đường sắt
Thu mua dược
liệu và sản xuất thuốc chữa bệnh
Xí nghiệp dược phẩm đường sắt RAPHACO
1994
666QĐ/
TCCB-LĐ
Đổi tên và bổ sung nhiệm vụ kinh doanh
Thu mua thuốc chữa bệnh,sản xuất kinh doanh dược phẩm
Công ty dược TRAPHACO
1995
4678QĐ/TCCB-LĐ
Bổ sung nhiệm vụ
Thu mua thuốc chữa bệnh,sản xuất kinh doanh dược phẩm và TBVTYT
Công ty dược TRAPHACO
1997
535QĐ/
TCCB-LĐ
Đổi tên
công ty
Như trên
Công ty dược và TBVTYT TRAPHACO
1999
2566QĐ/
TCCB-LĐ
Thay đổi hình thức pháp lý
Như trên
Công ty cổ phần dược và TBVTYT TRAPHACO
2. Cơ cấu tổ chức của công ty:
Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến -chức năng. Kiểu cơ cấu tổ chức này vừa phát huy năng lực chuyên môn của các bộ phận vừa đảm bảo quyền chỉ huy của hệ thống trực tuyến.
Mô hình này có ưu điểm: Giao một số chức năng quyền hạn cho từng bộ phận tăng cường trách nhiệm cá nhân, mệnh lệnh thi hành phải chịu nhiều chỉ thị khác nhau, tạo sự năng động trong toàn công ty. Bên cạnh đó là chức năng của các bộ phận tham mưu phối hợp để tư vấn cho lãnh đạo tránh tình trạng mệnh lệnh cục bộ .
Theo đặc điểm của công ty cổ phần, bộ phận quan trọng và cao nhất ở công ty là Hội đồng quản trị. Đây là bộ phận thay mặt cổ đông định ra các chiến lược hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, định hướng công tác quản lý điều hành của Ban giám đốc công ty. Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 1 phó giám đốc. Giám đốc là người chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty còn phó giám đốc có nhiệm vụ tổ chức quản lý và chỉ đạo công tác kinh doanh của công ty đồng thời là người kiểm tra việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty. Ngoài ra còn có ban kiểm soát để kiểm tra các hoạt động của hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành. Số lượng cán bộ quản lý chính của công ty là 31 người.
Về mặt tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, nhân lực công ty TRAPHACO có thể được chia thành 2 khối là khối sản xuất và khối gián tiếp.
2.1. Khối sản xuất:
Với 190 người làm việc tại 7 phân xưởng
- Phân xưởng thực nghiệm: có 30 lao động với chức năng ổn định chất lượng sản phẩm trước khi đưa vào sản xuất quy mô lớn và thực hành nghiên cứu
- Phân xưởng GMP. Viên nén : sản xuất các loại thuốc dạng viên nén, viên nang theo tiêu chuẩn GMP ASEAN ( Asean good manufacturing practise )
- Phân xưởng viên hoàn: sản xuất các loại thuốc có nguồn gốc dược liệu thành thuốc có dạng viên hoàn, trà tan, túi lọc...
- Phân xưởng thuốc mỡ, thuốc bột
- Phân xưởng thuốc ống: sản xuất các loại thuốc bổ dạng ống thuỷ tinh, kiềm hay trung tính.
- Phân xưởng sơ chế: với nhiệm vụ bào chế các loại dược liệu từ dạng thô sang dạng tinh như bột mịn, cốm để hình thành các sản phẩm viên hoàn.
- Phân xưởng Tây y: sản xuất các loại thuốc dạng nước
2.2. Khối gián tiếp:
Với 139 cán bộ làm việc trong 7 phòng ban và chịu sự chỉ đạo thống nhất của giám đốc được chia thành:
- Phòng đảm bảo chất lượng: giám sát phân xưởng thực hiện đúng qui trình kĩ thuật để sản phẩm đạt yêu cầu về chất lượng và số lượng theo đúng tiêu chuẩn Asean GMP, xem xét các sai lệch, sự cố kĩ thuật, các điểm không phù hợp về chất lượng đề xuất biện pháp xử lý.
- Phòng kiểm tra chất lượng: có nhiệm vụ kiểm tra việc đảm bảo chất lượng bao gồm việc kiểm tra chất lượng nguyên phụ liệu trước khi đưa vào sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm nhập kho.
- Phòng nghiên cứu và phát triển: từ những nghiên cứu cơ bản và những nghiên cứu ứng dụng, phòng nghiên cứu và phát triển sẽ nghiên cứu tính khả thi của sản phẩm hay qui trình mới, kiến nghị với ban giám đốc về việc có nên tiếp tục phát triển sản phẩm hay qui trình đó không.
Phòng thị trường: là một bộ phận của phòng nghiên cứu phát triển, phối hợp với phòng nghiên cứu và phát triển, phát triển mặt hàng mới cải tiến mẫu mã và chất lượng các mặt hàng có sẵn phù hợp với thị hiếu khách hàng.. Tổ chức hệ thống marketing và các hoạt động yểm trợ cho công tác bán hàng nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng khai thác thị trường đã có và thị trường mới
- Phòng cơ điện : với nhiệm vụ sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất được liên tục.
* Bộ phận các phòng ban: là các phòng tham mưu trực tiếp cho giám đốc trong việc điều hành và quản lý kinh doanh.
- Phòng tổ chức hành chính: làm nhiệm vụ quản lý nhân sự và các công việc có liên quan đến nhân sự.
- Phòng kế hoạch kinh doanh: Căn cứ vào kế hoạch sản xuất được duyệt kết hợp với tiến độ và nhu cầu thị trường năng lực thực tế của phân xưởng để giao kế hoạch sản xuất chi tiết hàng tháng, quý cho phân xưởng. Lập kế hoạch quản lý kinh doanh và hồ sơ báo cáo bán hàng từng thời kì cụ thể.
- Phòng tài chính kế toán: thực hiện các công tác tài chính kế toán của doanh nghiệp, tham mưu cho giám đốc về các vấn đề tài chính tín dụng .
3. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty:
3.1. Đặc điểm ngành nghề kinh doanh :
Các chức năng kinh doanh chính của công ty :
- Thu mua, gieo trồng chế biến dược liệu
- Sản xuất kinh doanh dược phẩm, hoá chất và các thiết bị vật tư y tế.
- Pha chế thuốc theo đơn.
- Tư vấn sản xuất dược phẩm mỹ phẩm
- Kinh doanh xuất nhập khẩu nguyên phụ liệu làm thuốc các loại sản phẩm thuốc.
Sản phẩm chính của công ty là các loại thuốc phục vụ cho công tác phòng và chữa bệnh của nhân dân. Đó là một loại hàng hoá đặc biệt có liên quan đến sức khoẻ và tính mạng của con người.
ở nước ta, hiện nay hệ thống sản xuất và kinh doanh cung ứng thuốc được chia làm 6 khu vực trong đó khu vực sản xuất thuốc TW thuộc Tổng công ty dược Việt nam chiếm khoảng 30-40 % giá trị thuốc sản xuất trong nước còn lại là khu vực địa phương, công ty cổ phần và công ty liên doanh. Các cơ sở sản xuất TW và địa phương đều thuộc loại vừa và nhỏ chỉ có 6 đơn vị sản xuất có vốn trên 5 tỷ đồng còn lại đều dưới 5 tỷ đồng. Ngành sản xuất dược Việt Nam với hoạt động chủ yếu là công nghiệp bào chế thuốc phụ thuộc vào nguyên liệu nhập từ nước ngoài, trình độ công nghệ lạc hậu chưa hoàn chỉnh, những dạng bào chế kỹ thuật chưa tự sản xuất được như dung dịch tiêm truyền đặc biệt là dung dịch đạm, dạng phun mù, thuốc tác dụng kéo dài...Vì vậy cơ cấu sản phẩm nghèo nàn không đủ hoạt chất cần thiết kể cả theo danh mục thuốc thiết yếu ta mới chỉ đưa vào sản xuất được 175 hoạt chất. Các đơn vị sản xuất ra những sản phẩm thông thường trùng lặp cạnh tranh không lành mạnh đua nhau phá giá để quay vòng vốn, gây thiệt hại rất lớn cho chính các nhà sản xuất. Nhìn chung trong quá trình chuyển đổi cơ chế thị trường đến nay các doanh nghiệp đã chủ động, nhạy bén vươn lên trong sản xuất đã đáp ứng một phần nhu cầu thuốc trong nhân dân, hình thức chất lượng thuốc ngày càng cải tiến và nâng cao đã bắt đầu chú ý nghiên cứu tuổi thọ và sinh khả dụng của thuốc đã có sự cạnh tranh hàng trong nước và ngoại nhập.
3.2. Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua:
Vốn là một xưởng sản xuất bổ trợ cho ngành đường sắt, hoạt động của công ty TRAPHACO mang tính chất bao cấp với các sản phẩm sản xuất ra như thuốc giảm đau, hạ nhiệt, kháng viêm, kháng dị ứng, thuốc tim mạch, thuốc dùng cho hệ tiêu hoá..được phân phối toàn ngành do đó cơ cấu tổ chức và sản xuất gọn nhẹ, linh hoạt dễ thay đổi để thích nghi với cơ chế thị trường. Công ty đã hoàn thành 100 % kế hoạch sản xuất thuốc phục vụ cho cán bộ trong ngành và có một số sản phẩm được thị trường biết đến như viên sáng mắt, hoạt huyết dưỡng não... và nhiều sản phẩm tân dược khác.
Trải qua quá trình xây dựng phấn đấu và trưởng thành, công ty TRAPHACO đã không ngừng vươn lên phấn đấu về mọi mặt, hiện nay công ty có hơn 300 nhân viên với trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình với công việc, cơ sở vật chất tương đối ổn định, trang bị thêm nhiều máy móc thiết bị hiện đại và kết quả là công ty đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao trung bình 30 % một năm đặc biệt năm 1996 tốc độ tăng trưởng của công ty là 100 %.
Để bắt kịp nhịp độ cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thực hiện đa dạng hoá sản phẩm vì vậy nhiệm vụ sản xuất của công ty cũng được mở rộng hơn..
Công ty sản xuất thêm các loại thuốc chữa được bệnh về tim mạch, thuốc dùng cho hệ tiêu hoá và những loại thuốc bổ như nhân sâm tam thất, các loại trà bổ..thuốc dùng phụ khoa, thuốc dùng ngoài da. Những sản phẩm của công ty đều đạt tiêu chuẩn chất lượng của ngành dược và tiêu chuẩn của nhà nước. Công ty đã dành được cúp vàng " đội ngũ tiếp thị giỏi "tại hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao và huy chương đồng sản phẩm viên Nhân sâm tam thất tại hội chợ hàng công nghiệp Việt Nam năm 1998.
Vận động trong cơ chế thị trường với địa điểm sản xuất và kinh doanh phân tán ( công ty hiện có 7 phân xưởng sản xuất và 10 địa điểm kinh doanh tại 6 quận huyện khác nhau của thành phố Hà nội ), do có định hướng phát triển đúng đắn qua từng giai đoạn như việc xác định cơ cấu mặt hàng phù hợp với cơ chế thị trường để giảm sức ép cạnh tranh, hàng hoá phong phú đa dạng, công ty dần chiếm được lòng tin của người tiêu dùng bằng chất lượng sản phẩm và phương thức phục vụ văn minh. Trong 7 năm từ 1993 đến nay công ty đã mở rộng danh mục sản phẩm từ 20 đến 80 mặt hàng đây là một thành tựu đáng ghi nhận. Công ty từng bước tạo được vị thế của mình trên thị trường dược phẩm, là bạn hàng và đối tác quan trọng của Công ty dược Bình Lục, công ty dược Hải Dương, các xí nghiệp dược trung ương thuộc tổng công ty dược.
Công ty khẳng định vị trí quan trọng của mình trong ngành công nghiệp dược với một số chỉ tiêu đạt đưọc qua các năm như sau:
Biểu 2 :Một số chỉ tiêu cơ bản của công ty năm 1998-2000.
STT
Tên chỉ tiêu
1998
1999
2000
1
Tổng doanh thu(VNĐ)
48418074000
49948976223
81000000000
2
Doanh thu sản xuất
40332072000
42403500507
71000000000
3
Doanh thu kinh doanh
8086002000
7545475716
10000000000
4
Lương bình quân
(đồng/ngưòi/tháng)
1.070.000
1.316.000
1.700.000
5
Nộp ngân sách
1238227843
1982964169
3500000000
6
Tỷ suất LN sau thuế
64,65 %
137,56 %
151,7 %
7
Lao động bình quân
280 người
316 người
360 người
Nguồn: Phòng kế toán
Từ đó các chỉ tiêu trên có thể thấy rằng dựa trên sự lãnh đạo sáng suốt của ban giám đốc công ty và sự giúp đỡ tận tình của Bộ và sở GTVT cùng với chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, công ty TRAPHACO đã có sự lớn mạnh không ngừng.
- Doanh thu của năm 2000 so với năm 1998 là 168,75 %, năm 1999 là 165,3 %. Đây là con số rất đáng khích lệ thể hiện hướng đi đúng dắn của công ty trong phát triển sản phẩm nắm bắt được nhu cầu thị trường.
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế tăng từ 64,65 % năm 1998 lên151,7 % năm 2000 tạo điều kiện cho tích lũy phát triển sản xuất, mở rộng quy mô của công ty, chứng tỏ hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh là rất cao.
Cùng với việc thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận công ty đã nâng cao mức sống của người lao động, thu nhập của người lao động trong công ty cao hơn hẳn so với các doanh nghiệp cùng ngành.
Ngoài ra khoản nộp ngân sách của công ty tăng rất nhanh năm 2000 tăng so với năm 1998 là 182 %, so với năm 1999 là 84 % góp phần thực hiện các mục tiêu chung của nền kinh tế và phát triển đời sống xã hội.
Tuy nhiên vì sự phát triển bền vững của công ty trong tương lai và tránh những rủi ro nền kinh tế thị trường mang lại, công ty vẫn từng bước xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh trên cơ sở phân tích những yếu tố thuận lợi và khó khăn. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công ty phải phân tích và khắc phục triệt để những tồn tại làm giảm hiệu quả kinh doanh trở thành công ty hàng đầu trong ngành dược.
4. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật ảnh hưởng đến hoạt động đa dạng hoá sản phẩm của công ty:
4.1. Đặc điểm về tính chất sản phẩm:
Dược phẩm, vật tư thiết bị y tế là loại hàng hoá được nhà nước quy định trong nhóm hàng hoá đặc biệt nên ngoài những thuộc tính chung của hàng hoá nó còn có những thuộc tính riêng có và những thuộc tính này có ảnh hưởng quyết định đến phương hướng đa dạng hoá sản phẩm của công ty.
- Thuốc chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân của Đảng và nhà nước ta do đó hoạt động sản xuất kinh doanh được tạo điều kiện khuyến khích phát triển. Nhà nước đã tạo ra nhiều văn bản, các qui định pháp luật nhằm khuyến khích thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm cũng như phân phối thuốc của các doanh nghiệp trong nước làm lành mạnh môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
- Giá trị sử dụng của thuốc lớn và tăng trưởng nhanh, nó đang chuyển dần thành thuộc tính hàng hoá thực sự, rất có khả năng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia có vị trí quan trọng về quốc phòng, chính trị và khoa học đây là một tác động tích cực thúc đẩy công ty đa dạng hoá mặt hàng.
- Sản phẩm thuốc chữa bệnh chỉ có một loại phẩm cấp là loại I nhà nước không cho phép lưu hành thuốc thứ phẩm vì vậy hiệu quả đa dạng hoá của công ty phụ thuộc rất lớn vào vấn đề chất lượng sản phẩm.. Yêu cầu sản xuất dược phẩm về chất lượng rất cao đòi hỏi sự đầu tư thích đáng cơ sở vật chất và công nghệ để phù hợp với khối Asean và thế giới nên vốn cho phát triển sản phẩm mới là rất lớn
- Mỗi loại thuốc có một tác dụng khác nhau theo từng loại bệnh nên chủng loại thuốc trên thị trường phong phú giúp công ty dễ xác định mặt hàng sản xuất tối ưu.
- Thuốc chữa bệnh có thời gian sử dụng nhất định và đòi hỏi công tác bốc dỡ, vận chuyển, bảo quản phải cẩn thận, chu đáo, khoa học.
- Hình dạng thuốc có nhiều loại: viên, ống, tuýp, gói...
Ngoài ra ngày nay trên thị trường có tới hàng nghìn loại thuốc khác nhau và được chia thành các nhóm chính như: thuốc bổ, thuốc kháng sinh, thuốc thông thường, thuốc độc bảng A-B, thuốc chuyên khoa, chế độ bảo quản mỗi loại thuốc cũng khác nhau và cũng vì thuốc có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của con người nên công ty không thể sản xuất và tiêu thụ một cách tràn lan vì vậy xác định sản phẩm đa dạng hoá phải dựa trên nhu cầu thực tế và các quy định chính sách của nhà nước.
4. 2. Đặc điểm về sự đa dạng của nguyên vật liệu :
Công ty với chức năng chủ yếu là sản xuất và trực tiếp tiêu thụ sản phẩm do công ty sản xuất ra vì vậy vấn đề đảm bảo nguyên vật liệu về số lượng, chất lượng, tính đồng bộ là yếu tố rất quan trọng để tiến hành sản xuất kinh doanh. Với danh mục sản phẩm hơn 80 mặt hàng gồm sản phẩm đông dược, tân dược và mỹ phẩm, công ty phải sử dụng 190 loại nguyên phụ liệu là hoá chất, dược liệu và các loại tá dược .
Biểu 3 :Nhu cầu một số loại nguyên vật liệu chính của công ty năm 2000
TT
Tên nguyên vật liệu
Đơn vị
Số lượng
1
Đồng sunfat
Kg
1078
2
Đưòng kính
Kg
280.821
3
Acid Benzoic
Kg
158
4
Bột Talc
Kg
1118
5
Cồn 950
Lit
13021
6
Gừng chế
Kg
124
7
Nhân sâm
Kg
100
8
Phẩm mầu Tartrazin
Kg
118
9
PVP
Kg
48
10
Sunfacylum
Kg
10
Nguồn: Phòng Kế hoạch - kinh doanh
Một điều đặc biệt là 100% nguyên liệu đầu vào của các hàng tân dược đều phải nhập và phải phụ thuộc rất lớn vào các đối tác nhập hàng vì vậy khi muốn phát triển mở rộng sản xuất những sản phẩm mới thì việc lựa chọn nhà cung ứng là rất quan trọng để giúp công ty giảm sự thụ động khi mua các yếu tố đầu vào. Do phải phụ thuộc lớn vào đối tác nước ngoài nên công ty dễ bị ép giá làm tăng giá thành sản phẩm và do nhập hàng bằng ngoại tệ nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá hối đoái, năm 1998 do tỷ giá đồng ngoại tệ tăng doanh nghiệp phải giảm 30 tỷ giá trị hàng sản xuất do không đưa được một số mặt hàng mới vào sản xuất như kế hoạch. Nguyên vật liệu sản xuất hàng đông dược của công ty đa phần không đạt tiêu chuẩn chất lượng đầu vào như nhân sâm nhập từ Triều tiên, tam thất nhập từ Trung Quốc...nên công ty phải tự xây dựng lấy các tiêu chuẩn cho mình đòi hỏi nhiều thời gian chuẩn bị cho đa dạng hoá
Hiện nay, nguồn cung cấp các loại dược liệu của công ty rất đa dạng, có thể là do các công ty nước ngoài mang vào Việt Nam qua hệ thống chi nhánh ở Việt Nam và nguồn dược liệu có được do hợp tác gieo trồng thu mua chế biến với các công ty dược địa phương theo dược liệu thế mạnh của từng vùng. Công ty đã liên doanh cùng công ty dược Lào cai đầu tư xây dựng xưởng chiết suất dược liệu tại Sapa để tạo nguồn nguyên liệu phong phú khi thực hiện đa dạng hoá các mặt hàng đông dược.
Ngoài ra nguyên vật liệu sản xuất thuốc rất phức tạp về tính chất lý -hoá học. Giữa các loại dược liệu có thể có những phản ứng hoá học với nhau do vậy nếu khâu bảo quản không đảm bảo sẽ gây tác hại tới chất lượng của sản phẩm, làm cho các sản phẩm bị mất uy tín trên thị trường gây ảnh hưởng đến hiệu quả đa dạng hoá sản phẩm .
4. 3. Đặc điểm về máy móc thiết bị :
Biểu 4 : Một số máy móc thiết bị chủ yếu của công ty
TT
Tên máy
Kí hiệu
Số lượng
Đặc điểm
Công suất
1
Máy xay
VN
11
Inox
3 Kw
2
Máy nhào trộn
VN
14
Inox
3 Kw
3
Máy xay hạt
TQ
9
Inox
3 Kw
4
Tủ sấy tầng sôi
VN
7
Inox
17 Kw
5
Tủ sấy tĩnh điện
Mỹ
6
Inox
4 Kw
6
Máy dập viên Z23
TQ
10
33 chày
4,5 Kw
7
Máy bao viên
Nhật
10
3 Kw
8
Máy ép vỉ
VN
5
13 Kw
9
Máy hút bụi
JAPAN
6
0,5
10
Máy nén khí
Mỹ
5
Nguồn: Phòng kế hoạch - kinh doanh
Là một công ty sản xuất rất nhiều sản phẩm và không ngừng sản xuất sản phẩm mới nên công ty phải sử dụng tới hơn 40 loại máy móc thiết bị. Mỗi năm công ty phải đầu tư một lượng vốn rất lớn để bổ sung máy móc thiết bị cho phù hợp với công tác sản xuất như máy dập viên, máy sấy tầng sôi, máy ép vỉ, máy tự hút chân không...Nhưng vẫn có một khối lượng tương đối lớn máy móc thiết bị của công ty đã cũ được các cấp chủ quản đầu tư từ trước năm 1990, đây là một lực cản trong việc mở rộng danh mục sản phẩm và tiến hành sản xuất các sản phẩm mới. Máy móc thiết bị của công ty có 70% là hàng ngoại nhập còn lại 30 % là hàng đặt trong nước..Với 80% thiết bị máy móc là ngoại nhập đảm bảo về chất lượng, sản phẩm của công ty đã đáp ứng được yêu cầu của thị trường tăng doanh số bán hàng lên nhiều lần, tăng hiệu quả của hoạt động đa dạng hoá.
Do thuốc là sản phẩm đặc biệt nên có giá trị kinh tế cao, qui trình công nghệ đảm bảo khép kín và vô trùng. Mỗi sản phẩm đều có một qui trình công nghệ và tiêu chuẩn kỹ thuật để kiểm tra chất lượng tất cả dược liệu tá dược đưa vào sản xuất đều được kiểm tra chặt chẽ theo tiêu chuẩn của dược điển Việt Nam hoặc của Anh, Mỹ ( đối với những sản phẩm mà dược điển Việt Nam chưa có). Mỗi loại sản phẩm của công ty đòi hỏi kỹ thuật sản xuất về công thức chế phối nguyên liệu riêng và chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào khâu này. Dây chuyền công nghệ mỗi loại thuốc rất phức tạp và đòi hỏi có tính đồng bộ cao vì vậy đây chính là một cản trở không nhỏ trong việc đa dạng hoá sản phẩm của công ty. Công nghệ của công ty chủ yếu được chuyển giao ngang tức là chuyển và nhận công nghệ đã sản xuất đại trà, có độ tin cậy dễ mua bán. Khi thực hiện đa dạng hoá tập trung vào các mặt hàng đông dược và các sản phẩm trà thuốc thì đặc điểm này giúp cho công ty giảm thiểu rủi ro và có điều kiện chọn lựa.
Tuy vậy, vốn đầu tư cho máy móc thiết bị công nghệ của công ty là rất lớn , ví dụ như khi muốn đa dạng hoá các mặt hàng trà thuốc cạnh tranh với trà nhúng nhập ngoại công ty phải đầu tư tới 4,5 tỷ đồng cho một dây chuyền công nghệ đóng trà nhúng tự động vì nhu cầu vốn khi thực hiện đa dạng hoá là rất lớn.
4.4. Đặc điểm về đội ngũ lao động :
Cùng với sự phát triển của toàn công ty, mỗi năm nhân lực của công ty tăng dần để đáp ứng nhu cầu mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh..Bước vào kinh tế thị trường công ty đã xác định việc đa dạng hoá sản phẩm sẽ mở đường cho sản xuất gắn bó mật thiết với thị trường rộng lớn giải quyết được yêu câù công ăn việc làm cho người lao động.
Biểu 5 : Tình hình lao động qua các năm 1996-2000
Năm
Tổng số lao động
Chênh lệch
Lao động nữ
Tỷ lệ nữ (%)
1996
217
+60
135
62,21
1997
248
+31
158
63,7
1998
280
+32
180
64,28
1999
316
+36
200
63,29
2000
360
+44
240
66,67
Nguồn: Phòng tổ chức hành chính
Theo thống kê số lượng lao động nữ của doanh nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao trung bình 63,7% một năm, hầu hết là lao động nữ ở khối trực tiếp sản xuất điều này là hợp lý đối với đặc điểm ngành dược đòi hỏi sự cẩn trọng, tỉ mỉ trong công việc.
Nguồn lao động của công ty chủ yếu từ các trường Đại học Dược khoa Hà nội, Trung học Hải Dưong, các tỉnh hợp lý hoá gia đình, các trình dược viên từ nước các hãng nước ngoài về, con em được đào tạo qua các lớp dược tá Sở y tế GTVT. Trong đó số cán bộ đại học và trên đại học hiện nay là 110 người chiếm hhơn 305 đây là tỷ lệ cao nhất so với các doanh nghiệp cùng ngành đây là nguồn chất xám rất lớn của công ty.
Biểu 6 : Trình độ lao động năm 2000
TT
Chỉ tiêu
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
1
LĐ có trình độ ĐH
110
30,5
2
LĐ có trình độ CĐ,TC
80
22,2
3
LĐ có trình độ phổ thông
170
47,3
Tổng số LĐ
360
100
Công ty đã không ngừng trẻ hoá đội ngũ lao động, tuổi bình quân lao động của công ty là 27,5 tuổi. Đây chính là điểm mạnh về nhân lực của công ty, lực lượng lao động trẻ, nhiệt tình trong công việc, sáng tạo trong phát triển sản phẩm mới, mở rộng quy mô kinh doanh.
Công ty đã mở nhiều lớp nâng cao tay nghề cho công nhân và dược tá sản xuất, mở nhiều lớp nâng cao trình độ kỹ năng quản lý cho cán bộ quản lý nhất là những người có nhiệm vụ xây dựng chiến lược sản phẩm của công ty.
Trong năm 2000, công ty đã không tuyển thêm cán bộ đại học tuy nhiên do nhu cầu lao động của một số mặt hành mở rộng sản xuất, công ty có sử dụng một số lao động phổ thông bổ sung cho các doanh nghiệp, cơ cấu lao động của công ty rất linh hoạt nên đáp ứng kịp thời nhu cầu của đa dạng hoá
Ngoài ra với thu nhập bình quân người lao động tăng nhanh chóng năm1998 là 1.070.000VNĐ, năm 1999 là 1.316.000VNĐ, năm 2000 là 1.700.000VNĐ là một động lực mạnh khuyến khích người lao động hết mình vì công việc.
4.5. Đặc điểm về nguồn vốn :
Qua phân tích đặc điểm nguyên vật liệu và thiết bị máy móc của công ty ta thấy rằng để thực hiện đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở đầu tư mới là rất lớn . Đây là một thử thách không nhỏ đối với doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất sản phẩm mới dây chuyền công nghệ trị giá cao và phải nhập ngoại. Nguồn vốn sản xuất kinh doanh của công ty được hình thành từ 4 nguồn: tự có của doanh nghiệp, vay ngân hàng, huy động cổ đông, thuê bao tài chính nên có thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu đầu tư khi thực hiện đa dạng hoá.
Biểu 7 : Cơ cấu nguồn vốn của công ty
ĐVT: Tr..Đ
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
Theo cơ cấu
20189,56
27187,5
33567,8
35918,5
Vốn lưu động
17115,94
23785,1
27831,5
29134
Vốn cố định
3073,62
3402,4
5736,3
6784,5
Theo nguồn
20189,56
27187,5
33567.8
38918,5
Vốn chủ sỡ hữu
5456,78
6451,8
7100
8000
Vốn vay
14732,78
20735,7
26467,8
30918,5
Nguồn:Phòng kế toán-tài chính
Ta thấy rằng vốn của công ty từ năm 1997 đến năm 2000 hàng năm đều tăng lên chứng tỏ công ty không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn cố định tăng chứng tỏ có sự đầu tư lớn về máy móc thiết bị khi thực hiện đổi mới chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên vốn lưu động của công ty tăng lên lại do tăng quá nhanh khoản phải thu và tồn kho trong khi vốn đầu tư cho một sản phẩm mới là rất lớn nên có những sản phẩm mới rất có tiềm năng nhưng không thể triển khai do thiếu vốn
Cùng với sự tăng lên của lãi chia phân phối, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tăng 57,1% năm 2000 so với năm 1999 . Từ hiệu quả đạt được, hiện tại công ty thực hiện giảm bớt các khoản nợ để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao hơn nữa trong thời gian tới.
II. Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại công ty Traphaco :
Tình hình đa dạng hoá sản phẩm trong những năm qua:
1.1. Đa dạng hoá theo hình thức đổi mới chủng loại :
1.1.1. Thiết lập chủng loại sản phẩm mới đối với công ty nhưng không mới với thị trường
Tiền thân là một xưởng dược nhỏ bé, phục vụ cho cán bộ, công nhân viên ngành đường sắt, công ty chỉ sản xuất một số mặt hàng thuốc thông dụng tiêu thụ trên thị trường như Vitamin B1, Vitamin C.... Những mặt hàng này rất khó tiêu thụ trên thị trường vì phải cạnh tranh với hàng nhập ngoại và của nhiều doanh nghiệp khác. Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo hình thức tự sản - tự tiêu, xí nghiệp không phải lo đầu ra, đầu vào, không phải quan tâm đến nhu cầu thị trường, sản xuất theo kế hoạch của Sở y tế - Tổng cục Đường sắt đặt ra. Do vậy xí nghiệp chưa quan tâm đến đa dạng hoá sản phẩm.
Năm 1995, xí nghiệp được đổi thành công ty dược phẩm Bộ Giao thông vận tải, với chức năng không chỉ sản xuất thuốc để đáp ứng cho nghành Đường sắt mà phải trực tiếp tham gia kinh doanh và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Đây vừa là một cơ hội vừa là một thách thức lớn đối với công ty. Đứng trước tình thế này, công ty bắt đầu quan tâm lưu ý đến vấn đề đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng chủng loại sản phẩm để tạo công ăn việc làm cho công ty. Nhận thấy rằng đa dạng hoá sản phẩm là xu hướng chung của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường thường xuyên biến đổi, công ty đã tập trung vào chiến lược thiết lập chủng loại, mở rộng danh mục sản phẩm của mình một cách nhanh chóng.
Với những khó khăn hiện hữu như vốn và cơ sở vật chất, thiếu thiết bị, nhà xưởng và văn phòng chủ yếu đi thuê, công ty đã định hướng trước tiên phải phát triển mạnh những sản phẩm dễ sản xuất, thị trường còn trống mà các doanh nghiệp còn bỏ ngỏ. Giai đoạn này, công ty xác định " phát triển kiểu gấp chão” chậm nhưng vững chắc với nhiều dây chuyền sản xuất khác nhau theo tính chất công nghệ trên cơ sở các mặt hàng đã có với 6 phân xưởng sản xuất chính.
Danh mục sản phẩm của công ty năm 1993 chỉ gồm 20 chủng loại sản phẩm với số lượng tiêu thụ thấp và hầu như không đạt hiệu quả kinh doanh, tồn kho lớn gây ứ đọng vốn cho công ty.
Biểu 8 : Tình hình tiêu thụ các mặt hàng năm1994
Tên mặt hàng
Đơn vị
SLSX
SLSX
Tồn kho
Vitamin C
lọ
350.000
300.000
50.000
Vitamin B1
ống
150.000
80.000
70.000
Cồn Iốt
ống
25.000
24.800
2.000
Nước cất tiêm
lọ
35.000
30.000
5.000
Thuốc nhỏ mắt kẽm Sunfat
chai
20.000
13.000
7.000
Nguồn: Phòng KH-KD
Năm 1995, có thể coi là điểm khởi đầu cho chiến lược đa dạng hoá của công ty và bước đầu đã đem lại những kết quả đáng khích lệ. Vào thời điểm này, nhà nước đang có một số chính sách ưu tiên đối với ngành Dược như trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, bao tiêu một sản phẩm thông qua các trương trình chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân... để góp phần tăng khả năng sản xuất của các doanh nghiệp và ngăn chặn thuốc ngoại nhập lậu tràn lan. Vì vậy thủ tục đăng ký mặt hàng sản xuất đơn giản và thuận tiện hơn so với các năm trước. Nhận thấy điều kiện thuận lợi trước mắt, năm 1995, công ty đã xây dựng kế hoạch hai năm nhanh chóng thiết lập dài các danh mục sản xuất của mình. Đây là năm có sự tăng trưởng đột biến về chủng loại mặt hàng với gần 40 loại mặt hàng.
Biểu 9 : Tình hình tiêu thụ các sản phẩm mới của công ty năm 1995
STT
Tên mặt hàng
ĐVT
Sản lượng
Doanh thu
1
Atropin 0,5mg
viên
2.500.000
70.000.000
2
Benzosali
tuýp
100.000
80.000.000
3
Fluco- C
tuýp
300.000
350.000.000
4
Flucocin
viên
2.000.000
42.000.000
5
Griscofulvin
tuýp
100.000
130.000.000
6
Clorxit 0,4%
lọ
5.000.000
80.000.000
7
Ketoconazol
tuýp
200.000
6.500.000
8
Kem chống nẻ Hoa hồng
hộp
75.000
220.000.000
9
Haloperidol
viên
1.000.000
250.000.000
10
Menbendazol
viên
1.000.000
80.000.000
11
Sunfarin
hộp
50.000
150.000.000
12
Casoran
gói
400.000
100.000.000
13
Tranictazol
viên
500.000
280.000.000
14
Omerpazol
viên
7.800.000
200.000.000
15
Trafemol
viên
1.000.000
780.000.000
Tổng số
2.818.500.000
Theo biểu trên ta có thể nhận thấy rằng: để thiết lập chủng loại làm phong phú mặt hàng của mình, công ty đã chú trọng sản xuất phần lớn các sản phẩm tân dược, chủ yếu là thuốc chữa bệnh. Đây được coi là một hướng đi đúng đắn trong chính sách phát triển sản phẩm của công ty. Giai đoạn này, thu nhập của người dân đã được cải thiện nhiều ( tuy vậy vẫn chưa phải là cao nên họ có tâm lý chỉ mua thuốc chữa bệnh chứ không mua nhiều các loại thuốc bổ dưỡng), nhu cầu thuốc tăng cao đã bước đầu mang lại những kết quả khả quan cho doanh nghiệp.
Sơ đồ 2 : Biểu đồ phản ánh tiền thuốc sử dụng ( USD/1người/năm )
Doanh số của năm 1995 đã tăng lên rất lớn so với năm 1994 tạo đà phát triển cho doanh nghiệp sau này.
Biểu 10 :Kết quả kinh doanh của công ty năm 1994-1995
Doanh số 1994
Doanh số 1995
Chênh lệch
±
%
Sản phẩm cũ
1.100
1278
178
16,18
Sản phẩm mới
2968,5
2968,5
Tổng
1.100
4246,5
3146,5
286,04
Các sản phẩm mới của công ty lúc này không phải là sản phẩm mới đích thực vì nó đã được các doanh nghiệp khác đưa vào sản xuất và đưa ra thị trường. Trên cơ sở nghiên cứu thị phần các mặt hàng đã có, công ty quyết định đưa vào sản xuất những mặt hàng dễ sản xuất, mang tính thời cơ đáp ứng ngay lập tức nhu cầu thị trường, mà thị trường còn trống do các doanh nghiệp lớn bỏ ngỏ, phù hợp với số vốn kinh doanh lúc này chỉ là 15.981.548.659 VNĐ. Các sản phẩm này hầu hết có vốn đầu tư không cao, quay vòng nhanh, điều kiện sản xuất đơn giản và linh hoạt, dần tái đầu tư mở rộng, nâng cấp thiết bị để tái đầu tư mở rộng, để phát triển sản phẩm công nghệ cao, tăng cạnh tranh về sau.
Công ty đã quyết định đưa vào sản xuất “ Kem chống nẻ Hoa hồng” năm 1995 và sản phẩm này có thể coi là một trong những sản phẩm đạt hiệu quả cao trong chiến lược “đa dạng hoá sản phẩm” của công ty. Những năm này, các mặt hàng bảo vệ da chủ yếu nhập từ bên ngoài vào với giá bán cao (từ 17.000 - 18.000 đồng/ 1 hộp / 50g ). Do thành phần của những loại kem này có nhiều chất dưỡng chứ không có nhiều chất bảo vệ da, chỉ phù hợp với những loại da ở khí hậu khô và phù hợp với người có thu nhập cao. Công ty đã đầu tư bổ sung xây dựng dây chuyền sản xuất “kem chống nẻ hoa hồng” có công dụng phù hợp với loại da ở xứ nóng ẩm với giá bán 3.000đ /1 hộp/ 50g dựa trên cơ sở vật chất đã có của phân xưởng sản xuất thuốc mỡ.
Biểu 11 : Tình hình sản xuất và tiêu thụ "Kem chống nẻ hoa hồng"
Năm
1995
1996
1997
1998
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
Sản xuất
75
79
80
85
150
157
150
160
Tiêu thụ
37
68
107
130
Sơ đồ 3 : Tình hình sản xuất và tiêu thụ “Kem chống nẻ hoa hồng”
Tốc độ tiêu thụ “kem chống nẻ Hoa hồng “ tăng mạnh từ năm 1995 đến năm 1998 do bảo vệ được da khỏi khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và có giá cả hợp với thu nhập của người Việt Nam. Khi tung ra thị trường sản phẩm này, công ty nhận được nhiều sự khen ngợi của người tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên , sản phẩm này cũng chỉ mới giới hạn trong thị trường nội địa, chứ chưa xuất khẩu được ra thị trường nước ngoài vì lý do mẫu mã, và đặc biệt là chất lượng chưa cạnh tranh nổi với sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới.
Xuyên suốt chính sách sản phẩm là nghiên cứu sản phẩm mới, coi đó là vấn đề sống còn và hiệu quả. Việc nghiên cứu phát triển sản phẩm mới là nhiệm vụ thường xuyên của công ty để thực hiện tốt đa dạng hoá sản phẩm, nội dung này được khái quát trong số mặt hàng đăng ký và được cấp mới của Bộ y tế từ năm 1994 đến nay.
Biểu 12 : Khảo sát số lượng mặt hàng nghiên cứu và xin phép lưu hành
qua các năm 1994 - 2000
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Mặt hàng nghiên cứu
18
20
26
14
7
25
17
Mặt hàng cấp số ĐK
21
19
19
16
11
40
23
Mặt hàng đưa vào sản xuất
35
40
42
48
70
80
82
Sơ đồ 4 : Tình hình nghiên cứu và sản xuất mặt hàng mới.
Với đặc điểm sản phẩm thuốc tân dược đòi hỏi một chất lượng cũng như yêu cầu cao trong quy trình sản xuất, công ty đã chủ yếu đầu tư phát triển sản xuất thuốc uống, do dạng thuốc này được sử dụng rộng rãi còn thuốc tiêm hiện nay có xu hướng giảm và hơn nữa đầu tư đòi hỏi vốn cao khó cạnh tranh với hàng ngoại.
Số lượng mặt hàng mới đưa vào sản xuất của công ty tăng trưởng rõ rệt trong giai đoạn 1994 - 2000
Sơ đồ 5 : Số lượng mặt hàng đưa vào sản xuất từ năm 1994 - 2000.
Qua khảo sát ta nhận thấy, công ty luôn duy trì và khai thác các tiềm năng của mình, không ngừng tạo ra nhiều sản phẩm, hay nói cụ thể hơn: để chiếm thị phần lớn và lâu dài trên thị trường, công ty đã phải có các mặt trong tay là các sản phẩm đang chiếm lĩnh trên thị trường, bên cạnh đó phải có các sản phẩm đã định hình để đăng ký sẽ được đưa ra thi trường để tiêu thụ từ nay về sau căn cứ vào sự phát triển của thị trường dược phẩm.
Công ty có thể có được các sản phẩm mới theo các cách sau:
- Sưu tầm, mua công thức, hợp tác với các tổ hợp cá nhân và có thể thông qua các vùng gieo trồng chế biến dược liệu, hợp tác với các công ty khác như: công ty Bình Lục, công ty dược Nam Hà, công ty dược Hải Dương... ( hướng này được áp dụng cho các sản phẩm đông dược như: các loại trà thuốc, viên ích mẫu, hoạt huyết dưỡng lão, nhân sâm tam thất...)
- Đầu tư cho bộ phận nghiên cứu và phát triển, áp dụng cho các sản phẩm mới thực sự hoặc các sản phẩm đồng loại trên thị trường.
- Hợp tác với Viện nghiên cứu như với Viện Công nghệ Sinh học, viện dược liệu
Biểu 13 : Các mặt hàng đã có trên thị trường được công ty xin cấp SĐK đưa vào sản xuất và tiêu thụ năm 1996 - 1997 - 1998.
TT
1996
1997
1998
1
Tra-sturon
Caporil
Viên ích mẫu
2
Trapha
Trafedin
Paphemin-fort
3
Nước xúc miệng T-B
Tranidazol
Vermox
4
Atropinsunfat
Gluco
Dimenhydrinat
5
Benzosail(mỡ)
Aspyrin
Grisecofunvin
6
Traseptol
7
Flucocin(mỡ)
8
Rifampicin(mỡ)
9
Cloroxit0,25g
10
Tranicin
Tổng số
10
5
5
Ta thấy qua các năm, số lượng các sản phẩm đồng loại trên thị trường được đưa vào sản xuất tương đối nhiều. điều đó thể hiện sự nghiên cứu khả năng tình hình sản xuất, xu thế phát triển, nhu cầu thị trường và tình hình cạnh tranh của các doanh nghiệp khác đối với công ty. Với điều kiện của mình, công ty thấy khó có thể đi tiên phong với sản phẩm mới đích thực được mà trước hết là phải hoàn thiện và cải tiến ít nhiều các sản phẩm đồng loại sẽ dễ hơn nhiều mà tiết kiệm được các chi phí thời gian, hơn nữa, thị trường đã mở ra rồi, người tiêu dùng đã chấp nhận sản phẩm đó. Như vậy, có thể coi doanh nghiệp khác là người sửa đường cho mình đẩy ra các sản phẩm sau tốt hơn rồi chiếm lĩnh thị trường của họ. Bởi vì, khách hàng không quan tâm quyền khai thác mặt hàng đó thuộc về ai, mà chỉ quan tâm đến mặt hàng đó tốt hay xấu, hàng của ai chất lượng tốt, giá rẻ thì họ mua của người ấy vì vậy công ty thực hiện chiến lược cải tiến chính các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh hay còn gọi là “xoá vết cho lành ngọc”. Con đường giành thắng lợi một cách khôn ngoan trong phát triển sản xuất, phù hợp với điều kiện của công ty Traphaco, trong đó phải xét những mặt hàng nào thích ứng với điều kiện, khả năng sản xuất, xoay quanh ưu thế và sản phẩm chủ đạo của công ty, tránh tình trạng khi thấy một sản phẩm nào đó bán chạy là đổ xô vào sản xuất dẫn đến tình trạng thất bại khôn lường.
Biểu 14: Một số mặt hàng chính của công ty.
Mặt hàng truyền thống
(CK sống dài)
Mặt hàng thời vụ
(CK sống ngắn)
Sáng mắt
Trapha
Trasturon
Co-tremoxazol
Nước xúc miệng T_B
Viên ngậm Gluco-C
Viên ngậm nhân sâm, tam thất
Nostravin
Caporil
Dimenhydrinat
Trafedin
Kem chống nẻ
Aspirin
Các sản phẩm được coi là “xoá vết cho lành ngọc”của công ty gồm có: Trastu ( điều trị bệnh dị ứng da ), Astemizol ( điều trị dị ứng tai, mũi, họng), Vitamin B1, VitaminB2...
Đây là các thuốc dạng viên nén có các thành phần chính là hoạt chất, chất độn, chất dính, chất ra, chất trơn trảy. Với đặc tính của các loại thuốc là chữa bệnh liên quan trực tiếp đến sức khoẻ con người, vì vậy công ty không thể vì muốn cạnh tranh về giá cả mà giảm liều lượng hoạt chất chính mà tập trung vào cải tiến các loại tá dược.
Ví dụ như sản phẩm Dimenhydrinat để chữa các biểu hiện về dị ứng tai, mũi, họng, nổi mề đay có thành phần chính là hoạt chất Cronnasion 25g, công ty tập trung vào nghiên cứu thành phần các loại phụ liệu. Dựa trên sự nghiên cứu sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh như: XNDPTW I, XNDPTW II, công ty HAPHACO, công ty tăng độ rã của thuốc, giảm bớt tỉ lệ bột từ 15% xuống còn 10%, tăng mức độ tác dụng của thuốc.
Biểu 15 :Tình hình tiêu thụ thuốc Dimenhydrat.
Chỉ tiêu
ĐVT
1998
1999
2000
Số lượng
Tr.vỉ
73,2
82,2
97,4
Doanh số
Tr.đ
54,,2
60,8
72,04
Như vậy tốc độ tiêu thụ của sản phẩm này tăng 12% năm 1999 so với 1998, tăng 18,5 % năm 2000 so với 1999. Doanh số tăng lên tuy chưa nhiều nhưng do công ty có rất nhiều chủng loại sản phẩm nên sản phẩm đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của công ty.
Để tận dụng mặt bằng (chủ yếu đi thuê) đảm bảo ổn định việc làm cho cán bộ công nhân viên, giảm chi phí cố định chung cho giá thành sản phẩm, trong danh mục sản phẩm của công ty có thêm nhiều mặt hàng phụ doanh số thấp đáp ứng nhu cầu nhất định cho thị trường ( thuốc dùng ngoài : cồn sát trùng, cồn Iốt, ASA, ôxy già, xanh mêtylen ) bên cạnh các mặt hàng chủ lực doanh số lớn hiệu quả cao (Tra sturon, nước súc miệng, viên sáng mắt, trapha, nhân sâm tam thất, hoạt huyết dưỡng não...)
1.1.2. Mở rộng danh mục sản phẩm theo hướng đưa ra thị trường những sản phẩm mới đích thực :
Như đã phân tích ở phần trên, các sản phẩm tân dược của công ty phải cạnh tranh gay gắt với các Xí nghiệp Dược phẩm TW I, Xí nghiệp Dược phẩm TW II và các sản phẩm nhập ngoại rất có uy tín trên thị trường mà thị phần của công ty trên thị trường chỉ là 3%. Hiện nay nhà nước ta có hơn 30 xí nghiệp Dược phẩm nhà nước, 5 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất tân dược, 113 công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân được cấp phép hành nghề Dược tư nhân, đến nay tổng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Dược phẩm tại Việt nam là 185 công ty. Trước tình hình cạnh tranh gay gắt của thị trường Dược phẩm, công ty TRAPHACO đã tìm được một hướng đi mới, biến đổi chủng loại sản phẩm của mình bằng cách tập trung vào sản xuất các sản phẩm thuốc Đông dược, thuốc Đông dược có rất nhiều ưu điểm so với thuốc Tân dược. Trong xu thế chung của khu vực, người tiêu dùng có nhu cầu dùng thuốc Đông dược nhiều hơn thuốc Tân dược để chữa cùng một loại bệnh mà nguyên liệu làm thuốc Đông dược vốn là một thế mạnh của các nước Châu á. Thuốc Đông dược có nguồn gốc từ các cây con như: nhân sâm, tam thất, yếm rùa, nhung hươu. các nguyên liệu này có sãn trong thiên nhiên, không độc hại, sẵn có, dễ kiếm và hầu hết các sản phẩm này đều không cần kê đơn khi sử dụng. Khi sản xuất những loại sản phẩm này, công ty có một lợi thế là được thừa hưởng các bài thuốc kinh nghiệm lâu đời của ông cha ta từ khi cuộc sống còn lạc hậu nhưng con người đã biết sử dụng những cây cỏ từ thiên nhiên để chữa những chứng bệnh đơn giản thường gặp. Hơn thế nữa thị trường thuốc Đông dược còn bỏ trống dễ thâm nhập, mới có sự tham gia của các công ty Dược địa phương.
Biểu 16 : Các mặt hàng Đông dược của công ty được bổ sung sản xuất qua các năm 1995 - 1996 - 1997
TT
Sản phẩm
Công dụng
1
Viên sáng mắt
Sáng mắt
2
Hoàn điều kinh bổ huyết
Điều kinh
3
Viên nhân sâm - tam thất
Thuốc bổ
4
Trà thủ ô
Trà thuốc
5
Trà gừng
_
6
Trà tam thất
_
7
Trà Casorran
_
8
Viên ích mẫu
Điều kinh
9
Hoạt huyết dưỡng não
Dưỡng não
10
Kađép
Ngừa ung thư
Biểu 17 : Doanh số của nhóm các sản phẩm Đông dược và các sản phẩm còn lại trong các năm 1995 -1996 - 1997
TT
Nhóm sản phẩm
Năm 1995
Năm 1996
Năm 1997
DT(tr)
TT(%)
DT(tr)
TT(%)
DT(tr)
TT(%)
1
Nhóm đông dược
1.575
32,8
6.429
53,5
14.166
67,5
2
Còn lại
3.225
67,2
5.571
46,5
6.834
32,5
Tổng số
4.800
100
12.000
100
21.000
100
Như vậy, tỉ trọng doanh thu của mặt hàng Đông dược rất lớn, tổng doanh số tăng nhanh từ năm 1995 đến năm 1997. Công ty đã xác định đây là một hoạt động không thể thiếu được của công ty trong chính sách sản phẩm mới nhằm mục tiêu kinh tế với những sản phẩm đặc thù đó.
Biểu 18 : Kết quả kinh doanh một số mặt hàng Đông dược mới tiêu thụ trên thị trường 1998
TT
Mặt hàng
Đơn vị
Số lượng
bán
Doanh số
(Tr. vnđ)
Lợi nhuận
(Tr.vnđ)
Tỷ suất
LN(%)
1
Nhân sâm tam thất
Hộp
12.733
3.820,0
1.008,5
26,4
2
Trà hà thủ ô
Hộp
280.825
2.527,4
649,5
25,7
3
Trà tam thất
Hộp
111.555
1338,7
468,9
35
4
Trà gừng
Hộp
132.651
663,2
79,5
11,9
5
Hoạt huyết dưỡng não
Hộp
55.835
547,8
138,9
25,4
Tổng số
8917,1
2.363,2
Các sản phẩm “nhân sâm tam thất” ngậm bổ dưỡng cho cơ thể hoặc “hoạt huyết dưỡng não” giúp lưu thông máu đã được đông đảo người tiêu dùng biết đến và sử dụng trên thị trường. Các sản phẩm này đặc biệt hợp với tâm lý người già vì họ luôn có quan niệm thuốc Tây có nhiều tác dụng phụ, dùng các sản phẩm thuốc từ dược liệu thiên nhiên cây cỏ sẽ lành tính và có độ tin cậy cao hơn. Theo điều tra của bộ phận nghiên cứu thị trường của công ty năm 1999 với một nhóm khách hàng là người cao tuổi thì có đến 85 % trong số người được hỏi đã biết đến hai sản phẩm này của công ty. Ngay từ năm đầu tiên đưa ra thị trường, sản phẩm đã có doanh số và tỷ suất lợi nhuận cao chứng tỏ hướng đi đúng đắn của công tỷ trọng chiến lược “đa dạng hoá sản phẩm”, sản xuất các mặt hàng mới chưa được giới thiệu và tiêu thụ trên thị trường, các sản phẩm này đã thể hiện được tính đặc thù, nổi trội đi trước của nó trên thị trường, đã góp phần rất lớn vào mục tiêu lợi nhuận cho công ty. Chỉ với 5 mặt hàng mới trong một năm đã thu được lợi nhuận là 2.363,3 triệu đồng trong tổng lợi nhuận năm 1998 là 5743 triệu đồng của 50 mặt hàng (chiếm 41,15%).
Sơ đồ 6 : Cơ cấu doanh thu năm 1998
Các sản phẩm Đông dược vừa được đưa ra thị trường đã có tốc độ tiêu thụ nhanh, doanh số cao, trở thành sản phẩm chủ chốt, truyền thống để thực hiện chính sách kéo dài danh mục sản phẩm về mặt hàng ( nhiều kiểu trong một loại sản phẩm). Theo khảo sát doanh thu năm 2000 thì chỉ với 28 mặt hàng đông dược trong 82 loại sản phẩm của công ty nhưng đã chiếm tới 75% doanh số của công ty. Cùng với sản phẩm Boganic, ba sản phẩm đông dược Viên sáng mắt (điều trị các bệnh về mắt ), nhân sâm, tam thất ( bồi dưỡng tăng sinh lực ), hoạt huyết dưỡng lão ( lưu thông máu, phục hồi trí nhớ ) đã trở thành nhóm sản phẩm chiến lược chiếm 65% doanh số giai đoạn 1998 - 2000.
Sơ đồ 7 : Cơ cấu doanh thu theo nhóm sản phẩm
Tiếp tục khẳng định công ty như một điển hình của hướng đi tập trung vào mặt hàng đông dược là các sản phẩm tương đối, tạo sự đặc thù riêng cho công ty so với các công ty chuyên sản xuất tân dược như XNDPTW I, XNDPTW II và các công ty dược địa phương khác dựa trên các ưu thế về dược liệu.
Năm 2000 với tổng nguồn vốn là hơn 35 tỷ VNĐ trong đó vốn kinh doanh là 9 tỷ, công ty tiếp tục đầu tư đổi mới chủng loại sản phẩm với 5 sản phẩm như: hương liên hoàn minh mục, nhân sâm ngậm....Thu nhập bình quân của người dân Việt Nam năm 2000 là gần 300 USD/năm, mức sống của nhân dân được nâng cao. Người tiêu dùng không chỉ dùng thuốc khi có bệnh mà còn sử dụng nhiều loại thuốc bổ dưỡng để tăng cường sức lực và trí lực. Nắm bắt được xu hướng đó, công ty đã phát triển một xêri sản phẩm thuốc bổ dưỡng sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày như trà hà thủ ô, trà nhuận gan lợi mật, trà thanh nhiệt tiêu thực...
Biểu 19 : Kế hoạch bán hàng sản xuất năm 1998
TT
Tên mặt hàng
ĐVT
Số lượng
Giá bán
Thành tiền
1
Trà tam thất
Gói
1.500000
7000
1350000000
2
Trà khổ qua
Hộp
10000
8000
80000000
3
Trà Hà thủ ô
Gói
700000
1200
840000000
4
Trà Atiso
Gói
700000
1000
700000000
5
Trà nhân sâm
Gói
20000
10000
200000000
Nguồn:Phòng kế hoạch-kinh doanh
Các loại trà này đã nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường do không chỉ có tính chất giải khát mà còn bổ dưỡng nhờ thành phần là các loại thuốc chữa bệnh trong dân gian như gừng, khổ qua...
Người tiêu dùng sử dụng loại trà này tăng lên nhanh nhờ các phương tiện thông tin quảng cáo mà doanh nghiệp sử dụng để giới thiệu công dụng và nguồn gốc các loại trà thuốc. Công ty đã tạo thế mạnh trong cạnh tranh khi hợp tác với công ty dược Lào cai, công ty dược Thái nguyên để xây dựng xưởng chiết xuất dược liệu
1.2. Đa dạng hoá theo hình thức biến đổi chủng loại dựa trên sự cải tiến hoàn thiên sản phẩm hiện có :
Một trong những đặc điểm nổi bật của sản phẩm công ty là kiểu cách mẫu mã sản phẩm luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu của thị trường.Trong các năm 1999, 2000 bên cạnh việc liên tục đưa ra thị trường những sản phẩm mới, công ty đã không ngừng cải tiến các sản phẩm hiện có để đa dạng hoá chủng loại mặt hàng ngay trong một loại sản phẩm, đây chính là thực hiện đa dạng hoá theo việc biến đổi chủng loại. Sự cải tiến này tập trung chủ yếu vào cải tiến về bao bì.
Sản phẩm Viên sáng mắt là một sản phẩm đi đầu trong kế hoạch cải tiến về bao bì và đã đạt hiệu quả cao. Từ một sản phẩm được sản xuất với mục đích phục vụ cho công nhân lái tàu của ngành đường sắt sản phẩm được đưa ra thị trường và chiếm được cảm tình của khách hàng.
Khi sản phẩm mới ra đời vào năm 1995, Viên sáng mắt dưới dạng bào chế là viên hoàn cứng được đóng vào một túi PE với khối lượng 50 g. Sản phẩm đã không đạt được mức tiêu thụ và lợi nhuận như mong muốn ( chỉ tiêu thụ được 30% lượng sản xuất ra ) do những nhược điểm lớn như: mỗi liều thuốc uống một lần là 5g nên với 50g đóng chung trong một túi khi sử dụng người tiêu dùng phải tự ước lượng chia đều lượng thuốc cho mỗi lần uống, ngoài ra bao bì bằng PE có độ chống ẩm kém và tính thẩm mỹ thấp. Nhận thấy nhược điểm này, phòng nghiên cứu phát triển đã cải tiến bao bì của sản phẩm viên sáng mắt. Sản phẩm được đóng trong hộp catton có logo của công ty với biểu tượng con mắt làm cho người tiêu dùng dễ nhận biết sản phẩm của công ty. Ngoài ra một hộp thuốc 50g được đóng trong 1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT194.doc