Đề tài Giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam

Tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam: MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đánh dấu bước tiến dài trong qúa trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, mở ra một chương mới trong kế hoạch đổi mới, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện kế hoạch lớn của đất nước là tới năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện đó thì đất nước đang tiến hành nhiều công cuộc xây dựng đất nước, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các doanh nghiệp Việt Nam luôn tự hào là mình hoạt động trong thị trường có nhiều tiềm năng như: thị trường rộng lớn, được Nhà Nước đầu tư, hỗ trợ, thu hút nhiều nguồn vốn từ bên ngoài (đặc biệt là vốn FDI và ODA) và đặc biệt là nguồn lao động dồi dào, rẻ. Nhưng khi các doanh nghiệp nước ta còn chưa tận dụng được ưu thế này thì các doanh nghiệp phải đối mặt sự cạnh tranh khắc nghiệt, rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam luôn tự hào là lao động của nước ta dồi dào, như thế sẽ giúp cho các doanh nghiệp sẽ tận dụng ưu thế này để có thể c...

doc38 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đánh dấu bước tiến dài trong qúa trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, mở ra một chương mới trong kế hoạch đổi mới, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện kế hoạch lớn của đất nước là tới năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện đó thì đất nước đang tiến hành nhiều công cuộc xây dựng đất nước, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các doanh nghiệp Việt Nam luôn tự hào là mình hoạt động trong thị trường có nhiều tiềm năng như: thị trường rộng lớn, được Nhà Nước đầu tư, hỗ trợ, thu hút nhiều nguồn vốn từ bên ngoài (đặc biệt là vốn FDI và ODA) và đặc biệt là nguồn lao động dồi dào, rẻ. Nhưng khi các doanh nghiệp nước ta còn chưa tận dụng được ưu thế này thì các doanh nghiệp phải đối mặt sự cạnh tranh khắc nghiệt, rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam luôn tự hào là lao động của nước ta dồi dào, như thế sẽ giúp cho các doanh nghiệp sẽ tận dụng ưu thế này để có thể cạnh tranh tốt hơn, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, công ty lớn trên thế giới, nhưng mọi người hãy nhìn lại nguồn lao động của nước ta hiện nay xem như thế nào. Theo thống kê thì hiện nay thì lao động của Việt Nam có năng suất thấp, chưa được đào tạo kĩ (có khoảng 37% lao động được đào tạo) còn lại là lao động phổ thông, có năng suất thấp. Điều đó ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nước ta trong quá trình sản xuất, kinh doanh, gây khó khăn cho quá trình đổi mới đất nước của nước ta hiện nay. Thấy được thực trạng trên nên chúng em muốn thông qua quá trình nghiên cứu về vấn đề năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam để hiểu thêm được tình hình năng suất lao động của người lao động nước ta và đưa ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng suất lao động của lao động Việt Nam trong quá trình đổi mới, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế của nước ta. Vì vậy chúng em quyết định chọn đề tài “giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam”. 2. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Qua quá trình nghiên cứu đề tài này chúng em đã hiểu thêm về vấn đề lớn của lao động Việt Nam hiện nay là luôn có năng suất thấp. Điều đó là động lực thôi thúc chúng em học tập để có thể cải thiện năng suất lao động của Việt Nam, có những giải pháp cải thiện năng suất lao động của lao động, điều đó sẽ góp một phần sức vào quá trình hội nhập của Việt Nam một cách nhanh hơn, tốt đẹp hơn. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 1.1 THẾ NÀO LÀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện hiệu quả sử dụng lao động trong doanh nghiệp. Nó là cơ sở để nghiên cứu đánh giá kết quả sử dụng lực lượng sản xuất và kết quả sản xuất kinh doanh. Không ngừng tăng nâng suất lao động là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, giảm giá thành sản phẩm dịch vụ, tăng lợi nhuận và cải thiện đời sống của người lao động. 1.2 CÁC CHỈ TIÊU CỦA NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG 1.2.1 Căn cứ phương pháp tính năng suất lao động Năng suất lao động thuận: phản ánh kết quả tính cho một đơn vị lao động hao phí W Năng suất lao động nghịch: phản ánh lượng lao động hao phí để tạo ra một đơn vị kết quả. W Trong đó: Q: kết quả quá trình lao động. T: lượng lao động hao phí,được biểu diễn bằng thời gian hao phí lao động hoặc số lao động bình quân. 1.2.2 Căn cứ vào đơn vị biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất Năng suất lao động hiện vật: là chỉ tiêu năng suất lao động mà kết quả quá trình sản xuất được tính theo hiện vật nhhuw lượng sản phấm sản xuất, khối lượng công việc hoàn thành… Ưu điểm: đánh giá trực tiếp năng suất lao động và có thể dùng để so sánh trực tiếp năng suất lao động giữa các đơn vị cùng sản xuất ra một loại sản phẩm. Nhược điểm: không tổng hợp được các loại sản phẩm khác nhau nên không thể tính năng suất lao động cho cả doanh nghiệp, không thể hiện toàn bộ kết quả lao động của đơn vị (như bộ phận sản phẩm dở dang) mà chủ yếu chỉ tính cho thành phần sản phẩm, nửa thành phẩm và khối lượng công việc hoàn thành. Năng suất lao động biểu hiện bằng giá trị (tiền): giúp xác định được toàn bộ kết quả của lao động bao gồm thành phẩm, nửa thành phẩm, sản phẩm dở dang, dịch vụ…ngoài ra chỉ tiêu này có thể xác định cho một loại sản phẩm hay nhiều loại sản phẩm. Chỉ tiêu năng suất lao động biểu hiện bằng tiền được sử dụng rộng rãi ở nước ta hiện nay là giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, giá trị thành phẩm tính cho một đơn vị lao động hao phí. Chú ý: chỉ tiêu nắng suất lao động biểu hiện bằng tiền phụ thuộc vào sự biến động của gía cả, có thể khắc phục bằng cách sử dụng giá so sánh hoặc giá cố định, ngoài ra tỉ trọng lao động quá khứ trong kết quả sản xuất của các ngành khác nhau cùng ảnh hưởng đến tính so sánh của chỉ tiêu năng xuất lao động, năng suất lao động dựa trên giá trị tăng thêm khắc phục được nhược điểm này và là chỉ tiêu năng suất lao động chủ yếu. 1.2.3 Căn cứ phạm vi của lao động Chỉ tiêu năng suất lao động có thể tính cho toàn bộ lao động của đơn vị hoặc tính cho lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh, lao động từng ngành, từng phân xưởng, từng công việc… Chý ý khi tính chỉ tiêu này cần phải đảm bảo quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất và phạm vi lao động. 1.2.4 Căn cứ biểu hiện của lao động hao phí Lượng lao động hao phí của doanh nghiệp trong 1 thời kì được thể hiện bằng số giờ-người, ngày–người làm việc thực tế, hoặc bằng số lao động bình quân tháng, quí, năm do đó năng suất lao động có thể được xác định theo đơn vị thời gian tương ứng. Hoặc Năng suất lao động ngày= năng suất lao động giờ số giờ làm việc thực tế bình quân 1 ngày Hoặc Năng suất lao động bình quân tháng = số lao động làm việc thực tế bình quân 1 ngày x số ngày làm việc thực tế bình quân tháng (quí, năm). 1.3 CÁC CHỈ SỐ CỦA NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Chỉ số năng suất lao động là chỉ tiêu qian trọng để đánh giá biến động và hiệu quả sử dụng lao động và qua đó phản ánh hiệu quả lao động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, thống kê sử dụng các chỉ số năng suất lao động sau: 1.3.1 Chỉ số năng suất lao động bình quân Chỉ số năng suât lao động bình quân: phản ánh biến động năng suất lao động của cả hiện tượng nghiên cứu. với 1.3.2 Chỉ số bản thân năng suất lao động Chỉ số bản thân năng suất lao động: phản ánh biến độngvề năng suât của các bộ phận, đơn vị trong các doanh nghiệp biến động năng suất bình quân chung. Đối với năng suât lao động theo đợn vị tiền tệ, đơn giá có thể tính theo giá hiện hành hoặc giá cố định (trường hợp muốn loại trừ ảnh hưởng của biến động). Đối với năng suất lao động hiện vật chỉ tính cho những lao động sản xuất một loại sản phẩm, một loại công việc. Trường hợp sản xuất nhiều loại sản phẩm ta sử dụng chỉ số của năng suất lao động nghịch với quyền số là sản lượng sản phẩm ở kì nghiên cứu. Chênh lệch tuyệt đối phản ánh lượng lao động tiết kiệm (+) hay lãm phí (-) do năng suất lao động tăng hoặc giảm. Nếu là thời gian hao phí lao động định mức cho từng sản phẩm, công việc, chỉ số trên phản ánh mức độ hoàn thiện định mức thời gian hao phí lao động của đơn vị. 1.4 TẦM QUAN TRỌNG CỦA NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Nâng cao năng suất lao động là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế đến việc tạo ra giá trị thặng dư, tạo điều kiện cho tích lũy tái đầu tư và nâng cao thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán và cải thiện đời sống. Việc năng suất lao dộng tăng se giúp cho quá trình sản suất được nhanh hơn, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng hơn. Khi năng suất lao động được cải thiện thì quá trình tuyển chọn lao động, nhân viên sẽ được triển khai một cách nhanh chóng cà có chất lượng. Không những thế thì khi lao động Việt Nam được cải thiên về năng suất thì se thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư nghiên cứu và kinh doanh tại Việt Nam, lúc trước các doanh nghiệp luôn muốn vào nước ta đầu tư xây dựng nhà máy, xí nghiệp nhưng vẫn lo lắng về chất lượng lao động của Việt Nam, giải quyết được tình trạng trên thì nước ta sẽ thu hút được một nguồn vốn rất lớn từ bên ngoài. Hơn nữa, năng suất lao động cao là yếu tố quyết định đến hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia, tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các doanh nghiệp Việt Nam luôn bị các đối thủ nước ngoài chèn ép, sức cạnh tranh không cao, mặc dù nước ta có nguồn lao dộng dồi dào (gần 46 triệu lao động). Khi đó, ưu thế của Việt Nam sẽ rất lớn, có thể cạnh tranh với những nước trong khu vực và trên thế giới, tạo ra những thế mạnh lớn trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 1.5. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ TRONG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong năng suất lao động của doanh nghiệp: Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự coi tăng năng suất lao động như một yếu tố có tính quyết định đối với doanh nghiệp. Họ chưa thấy được những tầm quan trọng mà năng suất của người lao động mang lại, thông thường thì các doanh nghiệp thường tuyển nhân viên lao động phổ thông thì ít chú trọng đến việc xem họ có đủ trình độ chuyên môn và năng suất tạo ra sản phẩm của lao động mà chỉ cần tuyển dụng đủ số lao động, không những thế thì các doanh nghiệp cũng ít có chế độ đãi ngộ để cho người lao động có cơ hội nâng cao năng suất lao động của mình. Hạn chế trong tổ chức, đầu tư thiết bị, công nghệ, sử dụng con người, nắm bắt thị trường, thiếu nguồn lao động được đào tạo nghề bài bản, chuyên nghiệp… được cho là những nguyên nhân dẫn tới NSLĐ của Việt Nam thấp. Chất lượng lao động chưa đạt chuẩn, thiếu kỹ năng chuyên môn để đạt năng suất cao, do vậy, thu nhập của người lao động thấp, không bảo đảm mức sống. Hệ lụy là thị trường lao động phát triển lệch pha, biến động và độ dịch chuyển cao. Sự biến động mạnh về giá cả vật tư đầu vào, hay việc cung ứng đầu ra còn nhiều trở ngại cũng là những nguyên nhân đáng kể dẫn tới NSLĐ của Việt Nam thấp hơn so các nước trong khu vực. Sự lạc hậu của công nghệ, máy móc, thiết bị. Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, thuỷ sản… Nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Ngay Thành phố Hồ Chí Minh, nơi các khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều dự án đầu tư nước ngoài hoạt động rất hiệu quả, thì trong một kết quả khảo sát “đánh giá trình độ công nghệ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và khu chế xuất Thành phố Hồ Chí Minh”, tại 429 doanh nghiệp thuộc 17 ngành, nghề khác nhau, năm 2009 cho thấy những điểm rất bất ngờ về trình độ công nghệ. Kết quả chỉ rõ, điểm mạnh của các doanh nghiệp này là yếu tố tổ chức, nhân lực. Còn điểm yếu thuộc về thông tin và thiết bị. Xét về thiết bị, trong 1.300 thiết bị được đánh giá, có 20% thiết bị mới với thời hạn sử dụng dưới 3 năm, 81% thiết bị có thời hạn sử dụng dưới 10 năm. 85% thiết bị hoạt động bán tự động hoặc tự động hoàn toàn, trên 40% dây chuyền hoàn toàn mới khi đầu tư và trên 70% dây chuyền hiện vẫn đang hoạt động tốt. Đây mới là khảo sát các doanh nghiệp có quy mô lớn, trang thiết bị nhập khẩu với nguồn vốn đáng kể, nhưng kết quả vẫn rất khiêm tốn. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, trình độ công nghệ nhìn chung ở mức lạc hậu, thậm chí có nơi rất lạc hậu. Năng suất lao động của các doanh nghiệp hạn chế còn có nguyên nhân từ môi trường kinh doanh như sự biến động mạnh về giá cả thị trường các vật tư đầu vào, việc cung ứng các đầu vào còn nhiều trở ngại, đặc biệt là lao động có trình độ. Thực tế cho thấy, cơ cấu đào tạo giữa các cấp học mất cân đối "thừa thầy, thiếu thợ". Tỷ lệ đào tạo ở nước ta hiện nay giữa đại học, cao đẳng - trung cấp chuyên nghiệp - học nghề là 10 : 9,8 : 30,3 (so với các nước là 1 : 4 : 10). Ngoài ra, các yếu tố làm hạn chế tăng doanh thu như kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đến nhiều yếu tố khác đang là những trở ngại không nhỏ. 1.6. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Theo những nghiên cứu gần đây thì có nhiều nhân tố tác động đến tăng năng suất lao động như: chất lượng nguồn nhân lực và tác phong làm việc của người lao động; khoa học, kỹ thuật và công nghệ; tổ chức và cơ cấu sản xuất; quản lý lao động; tài nguyên thiên nhiên và khí hậu; ổn định chính trị xã hội quốc gia và ổn định của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất... Trong các nhân tố đó, chất lượng nguồn nhân lực và tác phong làm việc của người lao động có tác động mạnh nhất đến năng suất lao động, vì việc kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất và đối tượng lao động để tạo ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ xã hội. Trình độ lành nghề và tác phong làm việc của người lao động được thể hiện ra khi họ sử dụng các công cụ sản xuất thành thạo, đáp ứng những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, cùng những sản phẩm hàng hoá có tính chuyên nghiệp hoá. Người lao động có trình độ nghề nghiệp không những cần có kỹ năng lao động mà còn phải có sáng tạo trong quá trình sản xuất. Thực tế cho thấy chỉ khi nào người lao động, người quản lý có kiến thức và trình độ nghề nghiệp thì mới tiếp cận, nhanh chóng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, có ý thức và tinh thần sáng tạo. Có thể nói, thành tựu trong sản xuất nông nghiệp của nước ta trong hơn 20 năm qua quan trọng nhất chính là do tăng năng suất lao động xã hội mà có. Gắn liền với người lao động để tăng năng suất lao động là công cụ sản xuất với trang bị công nghệ và kỹ thuật ngày càng cao. Đó là máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất tiên tiến cùng các quy trình sản xuất và quản lý hiện đại, giảm bớt những chi phí trung gian. Khoa học, công nghệ, kỹ thuật luôn gắn với tổ chức bộ máy quản lý, quá trình hợp lý hoá sản xuất nhằm thúc đẩy sản xuất mang tính cạnh tranh hơn và người lao động làm việc hiệu quả hơn, sản phẩm nhiều hơn, chất lượng cao hơn, tiêu thụ được nhiều hơn... Việc tăng năng suất lao động xã hội có tác động rất lớn đến cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới quản lý nền kinh tế và thực hiện những chính sách an sinh xã hội. Chính vì vậy mà tăng năng xuất lao động xã hội là yêu cầu thường xuyên và cấp thiết để nền kinh tế của các quốc gia phát triển nhanh và bền vững. Như Lê-nin từng chỉ rõ: Suy cho cùng thì năng suất lao động là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho chế độ xã hội này chiến thắng chế độ xã hội khác. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 2.1 THỰC TRẠNG VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng, trong đó đặc biệt là năng suất lao động (NSLĐ). Đặc biệt là khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải linh hoạt và chủ động trong quá trình đổi mới công nghệ, trang thiết bị, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên ngày càng có chuyên nghiệp hơn, có trình độ chuyên môn cao, đủ khả năng tiếp nhận những công nghệ tiên tiến, hiện đại của các nước tiên tiến, phát triển trước. không chỉ thế, khi nền kinh tế thế giới đã dần bước đến ngưỡng cửa bão hòa về giá cả và chất lượng thì các doanh nghiệp cần phải biết phát huy những thế mạnh của mình để có thể cạnh trannh với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Thế nhưng, khi các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được những ưu thế về lực lượng lao động dồi dào của đất nước thì các doanh nghiệp lại phải đối mặt với một thực trạng đáng buồn là trình độ lao động của lao động Việt Nam thấp, năng suất lao động không cao, luôn bị các đối tác nước ngoài đánh giâ thấp. Vốn có thể vay được, công nghệ có thể mua được, còn lao động là yếu tố nội lực, lại đang có lợi thế về số lượng dồi dào, tỷ lệ lao động trẻ cao, có tính chịu khó và giá nhân công rẻ... Chính vì thế, giải quyết việc làm để sử dụng số lượng lao động đã và đang là mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu để giảm nhanh tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm. Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng trưởng kinh tế 8,5%, thì dù việc tăng trưởng số lượng lao động có đạt 2,4% (là tốc độ tăng bình quân năm trong thời kỳ 2001-2006), thì gánh nặng sẽ dồn cho việc tăng năng suất lao động đã lên đến 6%, mới đạt được mục tiêu. Nâng cao năng suất lao động là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế đến việc tạo ra giá trị thặng dư, tạo điều kiện cho tích lũy tái đầu tư và nâng cao thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán và cải thiện đời sống. Hơn nữa, năng suất lao động cao là yếu tố quyết định đến hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia, tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Theo công bố của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động xã hội (tính bằng GDP theo giá thực tế chia cho một lao động làm việc) năm 2006 của Việt Nam là 22,46 triệu đồng/người (trong đó nông, lâm nghiệp 7,09 triệu, thủy sản 24,59 triệu, công nghiệp 58,25 triệu, xây dựng 26,45 triệu, thương nghiệp 25,29 triệu, khách sạn, nhà hàng 45,78 triệu, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 36,15 triệu, văn hóa, y tế, giáo dục 27,37 triệu, các ngành dịch vụ khác 57,55 triệu). Trước hết, năng suất lao động của Việt Nam nếu tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái năm 2006 (bình quân khoảng 15.958 VND/USD) đạt 1.407 USD/người, còn thấp xa so với mức năng suất lao động năm 2005 của nhiều nước trong khu vực (Indonesia 2.650 USD, Philippines 2.689 USD, Thái Lan 2.721 USD, CHND Trung Hoa 2.869 USD, Malaysia 12.571 USD, Hàn Quốc 33.237 USD, Singapore 48.162 USD, Brunei 51.500 USD, Nhật Bản 70.237 USD...). Nếu chia theo nhóm ngành thì năng suất lao động thuộc nhóm ngành nông, lâm, nghiệp thấp nhất, chỉ bằng một phần ba mức năng suất lao động chung của cả nước, chỉ bằng một phần tám mức năng suất lao động của nhóm ngành cao nhất là ngành công nghiệp, chưa bằng một phần ba mức năng suất lao động của ngành thủy sản. Theo số liệu đăng kí kinh doanh, hiện nay có khoảng 250.000 doanh nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra tổng thể doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê giai đoạn 2003 - 2006, thì hiện chỉ có 113.352 doanh nghiệp thực tế đang hoạt động trong cả nước, trong đó có 4.086 doanh nghiệp nhà nước, 105.569 doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước, 3.697 doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Theo lĩnh vực kinh tế, có 2.429 doanh nghiệp trong nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; có 40.799 doanh nghiệp trong công nghiệp, xây dựng và có 70.124 doanh nghiệp thương mại, dịch vụ (Bảng 1). Bảng 1. Số doanh nghiệp theo khu vực và ngành kinh tế trong cả nước Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 Tổng số doanh nghiệp 62.908 72.012 91.755 113.352 Trong đó, chia theo khu vực: - Doanh nghiệp nhà nước 5.663 4.845 4.596 4.086 - Doanh nghiệp ngoài nhà nước 55.237 64.526 84.003 105.569 - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.308 2.641 3.156 3.697 Chia theo lĩnh vực: - Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 3.379 2.405 2.369 2.429 - Công nghiệp 23.703 27.915 34.217 40.799 - Dịch vụ 35.826 41.692 55.169 70.124 Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2005 và 2007 Năng suất lao động bình quân của các doanh nghiệp tính theo doanh thu thuần giai đoạn 2000-2005 như bảng 2 dưới đây. Trong 6 năm qua, năng suất lao động bình quân của các doanh nghiệp tăng 8,7%/ năm. Nếu loại trừ tác động của yếu tố giá thì tăng trưởng năng suất bình quân của các doanh nghiệp đạt 8,4%/ năm, cao hơnnhiều so với tăng trưởng năng suất lao động toàn bộ nền kinh tế (khoảng 6%/ năm). Bảng 2. Năng suất bình quân của các doanh nghiệp, 2000 - 2005 Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp 809786 897856 1194902 1436451 1719401 2159400 Tổng số lao động DN 3537,0 3933,2 4657,8 5175,1 5770,2 6243,5 Năng suất lao động 228,9 228,3 256,5 277,57 298,0 345,9 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trong các loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp liên doanh có năng suất cao nhất - năm 2005 đạt 1.357,2 triệu đồng/ lao động với mức tăng năng suất 10%/ năm, tiếp đó là các doanh nghiệp nhà nước Trung ương - đạt 473,2 triệu đồng/ lao động với mức tăng 14,2%/ năm, công ty cổ phần có vốn nhà nước đạt 380 triệu đồng/ lao động với mức tăng 18%/ năm, doanh nghiệp tư nhân đạt 360,9 triệu đồng/ lao động với mức tăng 3,7%/ năm. Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã tích cực đổi mới tổ chức quản lí, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, cải tiến quy trình sản xuất, nâng cao trình độ quản lí và trình độ tay nghề của người lao động cho nên đã đạt được sự tăng trưởng mạnh về năng suất lao động. Tuy nhiên, cần phải nói rằng nhìn chung năng suất lao động của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn rất thấp. NSLĐ của doanh nghiệp Việt Nam thấp hơn 2-5 lần so với các nước ASEAN. Năm 1996, năng suất lao động bình quân của Nhật Bản cao gấp 124,6 lần của Việt Nam, Thái Lan gấp 26,8 lần, Malaysia gấp 17 lần, Inđônêxia gấp 6,9 lần... Trong khi đó, chi phí về lao động trên giá trị mới của Việt Nam rất cao, bằng 47,38%, tương đương với Nhật Bản và Mỹ. Chẳng hạn, trong lĩnh vực dệt thoi, một côâng nhân Việt Nam đứng 10 máy, hiệu suất là 80%, trong khi một công nhân Đài Loan đứng 30 - 40 máy, hiệu suất 90%. Năng suất lao động trong ngành dệt của Việt Nam chỉ bằng 90% của Trung Quốc, 85% của Thái Lan. 2.2 MỘT SỐ SO SÁNH, PHÂN TÍCH, NHẬN ĐỊNH VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM Tỷ số người tốt nghiệp các cấp đào tạo theo chuẩn mực của thế giới là 1 cao đẳng, đại học/4 trung cấp chuyên nghiệp/10 học nghề, thì ở nước ta các tỷ số tương ứng là 1 - 0,98 - 3,03, gây ra tình trạng "thiếu thợ nhiều hơn thiếu thầy". Đó là chưa kể trình độ đào tạo cũng còn không ít vấn đề: lý thuyết nhiều hơn tay nghề, thực tế; trung cấp chuyên nghiệp thì nửa thầy nửa thợ, cao đẳng, đại học thì khoa học cơ bản chưa đủ, còn khoa học ứng dụng còn yếu. Ngay cả giáo sư, tiến sĩ thì có tới gần một phần ba là danh nhiều hơn thực. Cán bộ khoa học, kỹ thuật ở cơ sở, ở thực tiễn thì ít. Ngoài ra còn tình trạng mua bán bằng cấp,... Trình độ kỹ thuật - công nghệ còn thấp. Biểu đồ về năng suất lao động của một số nước khu vực Đông Á,được Tiến sĩ Christian H.M. Ketels, nghiên cứu viên trưởng của Học viện Chiến lược và Cạnh tranh Harvard, công bố tại hội thảo bên lề Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Á 2010, cho thấy trong suốt 25 năm kể từ 1975, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có năng suất thấp ngang bằng nhau và luôn ở phần đáy, mức năng suất thấp nhất. Nhưng từ năm 2000, năng suất lao động của hai nước này đã có sự thay đổi khác biệt. Trung Quốc bắt đầu vọt lên mạnh mẽ và đến 2008 đã bắt kịp và vượt Indonesia . Trong khi đó, Việt Nam vẫn ì ạch ở cuối bảng. Dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê và kết quả tính toán của Học viện Cạnh tranh châu Á, từ năm 2000-2008, năng suất lao động tính trên một nhân công của Việt Nam chỉ tăng được 3,63 triệu đồng/năm (theo giá cố định năm 1994), lên 10,91 triệu đồng/năm. Trong một thời gian dài, năng suất lao động ở Việt Nam tuy thay đổi chậm chạp, nhưng nhìn chung vẫn có tăng trưởng. Tuy nhiên, nếu nhìn vào những bộ phận hẹp hơn, nhất là ở lĩnh vực chế tạo thì số liệu mà nhóm nghiên cứu chỉ ra thật sự đáng ngại. Ông Christian H.M. Ketels cho rằng, tốc độ mở cửa về thương mại, đầu tư khá nhanh của Việt Nam đã có tác dụng lớn trong thu hút nguồn vốn FDI. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu là khai thác lợi thế nhân công giá rẻ nhưng có năng suất thấp để sản xuất hàng hoá phục vụ cho thị trường trong nước và thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp FDI, tuy góp phần đáng kể tạo ra việc làm, tăng xuất khẩu nhưng lại không giúp ích nhiều cho việc tăng mức độ thịnh vượng của quốc gia, do tiền lương người lao động được trả quá thấp, chỉ bằng 30% so với lương công nhân ở Bangkok (Thái Lan), Manila (Philippines) và 42% lương công nhân ở Thâm Quyến (Trung Quốc). “Nếu Việt Nam không tăng được năng suất lao động, thì sẽ không thể tăng được mức sống cho người dân và sự thịnh vượng của quốc gia”, Tiến sĩ Ketels nhấn mạnh. Theo đánh giá của Economist Intelligence Unit (EIU), Việt Nam là quốc gia có độ mở về thương mại và đầu tư cao trong khu vực Đông Á. Đây là yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư FDI. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thuộc Học viện Cạnh tranh châu Á và Viện Quản lý kinh tế Trung ương lo ngại sự mở cửa mạnh mẽ trong điều kiện năng suất lao động và giá trị gia tăng thấp sẽ làm tăng thêm nguy cơ mất cân đối vĩ mô. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư giảm sút cũng làm cho tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc hơn vào dòng vốn bên ngoài. “Sự tăng trưởng nhu cầu đang vượt quá năng lực vi mô của nền kinh tế về mặt kỹ năng lao động và hạ tầng kỹ thuật; sự chênh lệch giữa vốn FDI cam kết và vốn thực hiện ngày càng lớn”, Tiến sĩ Ketels khẳng định. Báo cáo năng lực cạnh tranh của Việt Nam 2010 đưa ra khuyến nghị: Việt Nam có thể đạt được bước phát triển mới hay không phụ thuộc vào khả năng giải quyết ngay những vấn đề đang đặt ra. Chẳng hạn như giải quyết các nút thắt cổ chai trong yếu tố đầu vào liên quan đến cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ hậu cần và nguồn nhân lực có kỹ năng phù hợp; tạo ra những nền tảng cơ bản để tăng năng suất lao động như cải tổ hệ thống giáo dục. Bên cạnh đó, Việt Nam cần nâng cao năng lực của khu vực công, tạo ra sự thông suốt trong việc phối hợp thực hiện chính sách giữa trung ương và địa phương; hoạch định lại chiến lược thu hút FDI, chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng với các chính sách ngành. Báo cáo kết luận: “Phát triển kinh tế dựa vào lợi thế nhân công giá rẻ, năng suất lao động thấp không phải là hướng đi lâu dài. Đã đến lúc Việt Nam cần một chiến lược kinh tế tổng thể, toàn diện để vừa duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, vừa tăng cường năng lực vi mô của nền kinh tế”. Xét về tổng thể, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đánh giá chất lượng và so sánh các tiêu chí cơ bản tính theo thang điểm 10 của Việt Nam và một số nước châu Á như sau(4): Nước Tiêu chí Hàn Quốc Trung Quốc Indonesia Malaisia Thái Lan Việt Nam Hệ thống GD 8.0 5.12 0.5 4.5 2.64 3.25 Lao động chất lượng cao 7.0 7.12 2.0 4.5 4.0 3.25 Tiếng Anh 4.0 3.62 3.0 4.0 2.82 2.62 Sự thành thạo công nghệ cao 7.0 4.37 2.5 5.5 3.27 2.5 Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những năm qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn, từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, đời sống của nhân dân cũng từng bước được cải thiện, bộ mặt của xã hội đã có những thay đổi đáng kể. Một trong những tiền đề để tạo ra sự thành công đó là Đảng ta đã đánh giá đúng vị trí và vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế tri thức đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.  Ngày nay, sự ứng dụng ngày càng rộng rãi những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất đã làm năng suất lao động tăng nhanh. Tuy nhiên, khoa học và công nghệ dù có sức mạnh thế nào cũng không thể thay thế hoàn toàn vai trò của con người. Nguồn nhân lực vẫn đóng một vai trò quan trọng, quyết định quá trình sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội. Thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền kinh tế dựa vào sự giàu có của các nguồn tài nguyên sang kinh tế tri thức. Trong bối cảnh như vậy, nguồn lực con người càng trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển nhanh và bền vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng đã chỉ rõ: con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định sự cần thiết phải thực hiện một cách có hiệu quả chiến lược phát triển con người. Tiếp tục thực hiện đường lối đúng đắn và khoa học đó, Đại hội lần thứ X của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từ nay đến năm 2010 là “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức[nguồn 1]. 2.3 Vai trò quyết định của chất lượng nguồn nhân lực đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức chỉ giành được những thắng lợi khi chúng ta biết khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả tất cả các nguồn lực. Song, yếu tố giữ vai trò quyết định nhất, đảm bảo cho sự thắng lợi của quá trình đó chính là nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Điều này được khẳng định dựa trên những cơ sở sau: Thứ nhất, các nguồn lực khác (ngoại trừ nguồn nhân lực), xét về mặt số lượng và trữ lượng, có thể là rất phong phú, dồi dào, nhưng nếu khai thác và sử dụng không hợp lý thì đến một lúc nào đó, chúng sẽ trở nên cạn kiệt. Khi ấy, nền kinh tế vốn cơ bản dựa vào nguồn lực này sẽ gặp khó khăn, nếu không nói là bị đe doạ. Trái lại, nguồn lực con người với tiềm năng trí tuệ, chất xám thì luôn sinh sôi và phát triển không ngừng. Xét trên bình diện xã hội, có thể khẳng định nguồn lực con người là vô tận và do vậy, là nguồn lực cơ bản của sự phát triển bền vững. Đây là một ưu điểm nổi trội của nguồn nhân lực so với các nguồn lực khác trong hệ thống nguồn lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức. Thứ hai, nếu trước đây, một trong những nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước là do tình trạng nghèo nàn về cơ sở vật chất, sự thiếu hụt về nguồn vốn… thì ngày nay, trở ngại chủ yếu nhất được xác định chính là sự hạn chế về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người. Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; cùng với đó là quá trình toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các nước đang phát triển có thể khắc phục sự yếu kém về trình độ khoa học – kỹ thuật của mình thông qua con đường hợp tác, có thể giải quyết các vấn đề khó khăn như thiếu hụt nguồn vốn dựa trên quan hệ đầu tư, vay vốn và bằng nhiều hình thức khác. Nhưng, có một vấn đề đặc biệt quan trọng mà để đảm bảo sự phát triển bền vững, các nước phải nhanh chóng giải quyết một cách có hiệu quả, đó là xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Có thể nói, việc xây dựng và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo của con người, trước hết và chủ yếu là nỗ lực tự thân thông qua nhiều biện pháp khác nhau của từng quốc gia. Chất lượng nguồn nhân lực là một sự tổng hợp, kết tinh của rất nhiều yếu tố và giá trị cùng tham gia tạo nên. Trong đó, gồm ba yếu tố cơ bản: thể lực, trí lực và tâm lực. Thể lực là tình trạng sức khoẻ của con người, biểu hiện ở sự phát triển bình thường, có khả năng lao động. Đây là cơ sở quan trọng cho hoạt động thực tiễn của con người, có thể đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao động trong quá trình sản xuất với những công việc cụ thể khác nhau và đảm bảo cho con người có khả năng học tập và lao động lâu dài. Trí lực là năng lực trí tuệ, khả năng nhận thức và tư duy mang tính sáng tạo thích ứng với xã hội của con người. Nói đến trí lực là nói đến yếu tố tinh thần, trình độ văn hoá và học vấn của con người, biểu hiện ở khả năng vận dụng những điều kiện vật chất, tinh thần vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao, đồng thời là khả năng định hướng giá trị hoạt động của bản thân để đạt được mục tiêu. Trí lực là yếu tố chiếm vị trí trung tâm chỉ đạo hành vi của con người trong mọi hoạt động, kể cả trong việc lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm phát huy tác dụng của các yếu tố khác trong cấu trúc chất lượng nguồn nhân lực. Trí lực là yếu tố quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người, là yếu tố ngày càng đóng vai trò quan trọng và quyết định trong chất lượng nguồn nhân lực nói riêng và sự phát triển của nguồn lực con người nói chung. Tâm lực là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và sự hoàn thiện nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao động sản xuất và sáng tạo cá nhân. Những giá trị đó gắn liền với năng lực tư duy và hành động cụ thể của con người, tạo nên chất lượng của nguồn nhân lực. Tâm lực tạo ra động cơ bên trong của chủ thể, thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của con người. Nói cách khác, tâm lực góp phần vào việc phát huy vai trò của các yếu tố thể lực và trí lực của con người với tư cách nguồn nhân lực của xã hội. Nguồn nhân lực của nước ta trong thời gian qua đã tăng một cách đáng kể về mặt lượng do sự gia tăng dân số ở mức cao và liên tục trong nhiều năm. Theo Niên giám thống kê 1995 – 1997 của Tổng cục thống kê, dân số nước ta từ 59.872.000 người (năm 1986) lên 76.709.000 người (năm 1997); trong đó, lực lượng lao động từ 27.389.000 người (năm 1986) lên 36.994.000 người (năm 1997) [nguồn 2]. Quy mô dân số đông và lực lượng lao động dồi dào vốn được coi là một thế mạnh của nước ta, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Tất nhiên, để khai thác được lợi thế này, đòi hỏi phải có rất nhiều điều kiện tương ứng. Người Việt Nam được đánh giá là có nhiều tư chất thông minh và sáng tạo, nhạy bén trong tiếp thu và tiếp cận tri thức. Đây là điểm nổi trội của nguồn nhân lực nước ta. Theo Báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam có sự tăng nhanh và liên tục. “Năm 1995 Việt Nam mới chỉ đứng thứ 7/10 trong khu vực Đông Nam Á, 35/50 ở châu Á và 122/175 nước trên thế giới được xếp hạng theo chỉ số HDI, thì đến năm 2001, đã vượt lên thứ 6/7 ở khu vực Đông Nam Á, 28/36 ở châu Á và 109/130 trên thế giới”[nguồn3]. Tuy vậy, xét về mặt chất lượng, nguồn nhân lực nước ta còn khá nhiều hạn chế. Điều này biểu hiện ở chỗ, thể lực, mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn ở mức thấp, đặc biệt là trẻ em – nguồn cung cấp nhân lực chính cho xã hội. Sự hạn chế về thể lực ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu tri thức và trí thông minh của trẻ. Xu hướng này có chiều hướng ngày càng tăng lên. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm, đầu tư thích đáng để cải thiện và nâng cao thể chất của người Việt Nam nói chung, của trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề này không thể khắc phục ngay được trong “một sớm một chiều”, mà cần phải có thời gian. Bên cạnh đó, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn ở mức thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới (640 USD/người) và điều này ảnh hưởng đáng kể đến khả năng tái sản xuất của người lao động. Tất nhiên, thể lực không phải là yếu tố chính quyết định chất lượng nguồn nhân lực; song, cũng không thể phủ nhận một thực tế là, nếu con người không được nâng cao thể lực thì cũng khó có thể phát triển được trí tuệ, khả năng sáng tạo trong học tập và lao động. Mặt trí lực của người lao động được biểu hiện ở nhiều phương diện khác nhau. Tiêu chí đầu tiên để đánh giá trí lực là trình độ học vấn, kiến thức khoa học, khả năng vận dụng kiến thức khoa học kỹ thuật và những kinh nghiệm trong sản xuất mà họ tích luỹ, học tập được. Trí lực của nguồn nhân lực nước ta còn nhiều điểm hạn chế. Biểu hiện ở những khía cạnh, như phần lớn lực lượng lao động là lao động phổ thông, số lao động được đào tạo chuyên môn còn thấp, thợ lành nghề ít… Do vậy, năng lực thực hành và làm việc độc lập của người lao động chưa cao. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương đúng đắn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, như tích cực xoá bỏ tình trạng mù chữ và tái mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục… Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo hiện vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tập trung đào tạo chuyên sâu và năng lực thực hành. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 3.1 NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG – BÀI TOÁN KHÓ GIẢI Khi nói về khả năng cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam, người ta thường nhắc đến số đông, sự dồi dào của lực lượng lao động và giá nhân công rẻ. Tuy nhiên, số lượng lao động không đi đôi với chất lượng lao động, năng suất lao động. Năng suất luôn là yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như khả năng cạnh tranh của một quốc gia hoặc một ngành sản xuất. Người ta không thể nói một quốc gia có sức cạnh tranh cao nếu như năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng đồng vốn kém, thiếu năng lực quản lý và các tiến bộ khoa học, kỹ thuật không được ứng dụng. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ đóng góp của lao động Việt Nam vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2000 – 2008 là 21,46%. Hay nói cách khác, trong 7,47% tăng trưởng của GDP thì lao động chỉ đóng góp 1,57%. Như vậy trong cơ cấu GDP tỷ lệ đóng góp của lao động rất khiêm tốn. Cũng theo số liệu thống kê, năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam tăng trung bình hằng năm thời kỳ 2000-2008 là 4,73%, thấp hơn tốc độ tăng trung bình của giai đoạn 1992-1999 (bình quân: 5,38%). Song xét về giá trị tuyệt đối thì 1% tăng NSLĐ của giai đoạn 2000-2008 bằng 89.000 đồng, bằng 1,53 lần so với 1% tăng của giai đoạn 1992-1999 (xấp xỉ 58.000 đồng). Đây là điều bình thường vì những năm 90, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu sự tác động của sự chuyển đổi cơ chế quản lý nên từ một nền kinh tế có điểm xuất phát thấp khi được đầu tư, thay đổi phương thứcquản lý, tốc độ tăng trưởng sẽ nhanh hơn nhiều so với những năm về sau. Công nghiệp vẫn là lĩnh vực có NSLĐ cao nhất trong ba khu vực nhưng lại là khu vực có tốc độ tăng NSLĐ thấp nhất (1,31%), đặc biệt là năm 2001 tốc độ tăng chỉ đạt con số âm (-2.04%). Trong khi đó, lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là những ngành có mức năng suất thấp nhất so với các ngành khác, song lại là lĩnh vực có tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hằng năm cao nhất, đạt 4,29%. Khoảng cách chênh lệch về mức năng suất của các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản so với các ngành công nghiệp giảm dần qua các năm. Nếu như năm 2000 khoảng cách này là 7,6 lần thì đến năm 2008 khoảng cách này chỉ còn xấp xỉ 6 lần. Như vậy là hoạt động khu vực này vẫn đang có hiệu quả và cần được đầu tư nhiều hơn trong thời gian tới. Đối với các ngành dịch vụ, tốc độ tăng NSLĐ tương đối nhanh qua các năm, năm 2001 tăng so với 2000 là 1,89%, thì năm 2008 so với năm 2007 là 3,69%. Điều này chứng tỏ khu vực dịch vụ của Việt Nam trong những năm gần đây tương đối phát triển và có khả năng cạnh tranh tốt hơn so với các ngành khác. Trong các loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp liên doanh có năng suất cao nhất, năm 2005 đạt 1.357,2 triệu đồng/lao động với mức tăng năng suất 10%/năm, tiếp đến là các doanh nghiệp Nhà nước trung ương đạt 473,2 triệu đồng/lao động, với mức tăng 14,2%/năm; công ty cổ phần có vốn nhà nước đạt 380 triệu đồng/lao động với mức tăng 18%/năm, doanh nghiệp tư nhân đạt 360,9 triệu đồng/lao động với mức tăng 3,7%/năm. Có thể nói, trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã tích cực đổi mới tổ chức quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, cải tiến quy trình sản xuất, nâng cao trình độ quản lý và trình độ tay nghề của người lao động nên đã đạt được sự tăng trưởng mạnh về NSLĐ. Tuy nhiên, nhìn chung NSLĐ của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước. Đơn cử, trong lĩnh vực dệt thoi, một công nhân Việt nam đứng 10 máy, hiệu suất là 80%, trong khi một công nhân Đài Loan đứng 30 – 40 máy, hiệu suất 90% hay NSLĐ trong ngành dệt chỉ bằng 90% của Trung Quốc, 85% của Thái Lan… Theo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, so với các nước khác trong khu vực, mức tăng NSLĐ của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 – 2008 chưa bằng một nửa mức tăng NSLĐ của Trung Quốc. Đo lường bằng đô-la Mỹ cho thấy: sản lượng trung bình của Việt Nam trên mỗi lao động là 5.702 USD năm 2008, tương đương với 61,4% mức trung bình của các nước ASEAN, 22% của Ma-lay-xi-a, 12,4% của Xinh-ga-po. Như vậy, có thể thấy, NSLĐ của Việt Nam có sự chênh lệchvới các nước trong khu vực 3.2 LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tăng năng suất lao động có ý nghĩa quyết định sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp. Trong những năm từ 2001 đến 2008 năng suất lao động ở Việt Nam tăng gấp năm lần, nhưng còn nhỏ bé vì GDP và thu nhập bình quân đầu người thấp. Năng suất lao động tuy tăng nhưng không ổn định, không đều ở các ngành và thành phần kinh tế. Năng suất lao động ở thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm sút, thành phần kinh tế ngoài nhà nước tăng liên tục với mức cao, thành phần kinh tế nhà nước tăng nhưng không ổn định. So với các nước thì năng suất lao động ở nước ta còn thấp, thí dụ năm 2006, so với Xin-ga-po chỉ bằng 4,5%, so với Mỹ bằng 4,2% và bằng 53,2% so với Trung Quốc và với Lào chỉ bằng 82,3%. Qua những thông tin trên chúng em xin đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động của người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam. Rà soát lại từ tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất, thiết bị, công nghệ, lao động, vật tư, nguyên liệu... đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (theo phương pháp SWOT) đối với từng khâu, từng bộ phận, từng vấn đề quan trọng trong doanh nghiệp và toàn bộ doanh nghiệp. Trên cơ sở đó để tìm biện pháp khắc phục cho từng vấn đề cụ thể, từ khâu và từng bộ phận cụ thể cũng như tổng thể doanh nghiệp. Đổi mới tổ nghiệp cho phù hợp với điều kiện hiện nay, bao gồm đổi mới hình thức doanh nghiệp, bộ máy quản lí doanh nghiệp và tổ chức sản xuất - kinh doanh trong doanh nghiệp cho phù hợp với xu thế phát triển thời kỳ hội nhập kinh tế hiên nay, nhất là chiến lược đối với các công ty đa quốc gia. Sử dụng nhân lực có hiệu quả, chú trọng từ khâu tuyển chọn, bố trí, sử dụng lao động, bảo đảm lao động có trình độ, năng lực phù hợp; đồng thời, tăng cường đào tạo và đào tạo lại đến nâng cao trình độ, kỹ năng của người quản lí và lao động; tạo môi trường làm việc thân mật, cởi mở nhằm làm cho nhân viên gắn bó hơn với doanh nghiệp, phát huy sáng kiến, tăng khả năng làm việc theo nhóm. Áp dụng các công cụ quản lí năng suất trong doanh nghiệp hiện đang được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp trên thế giới, trong đó có các mô hình, quy trình, hệ thống quản lí như công cụ quản lí lãng phí (7W), mô hình Kaizen của Nhật Bản (5S), hệ thống quản lí chất lượng ISO,TQM... Chú trọng đầu tư thiết bị, công nghệ phù hợp, lựa chọn công nghệ phù hợp với điều kiện, khả năng của doanh nghiệp, chú ý đến yếu tố dài hạn và thân thiện với môi trường. Trong xu hướng phát triển bền vững hiện nay, các doanh nghiệp cần chú trọng thực hiện "năng suất xanh" - là một chiến lược tăng năng suất gắn với bảo vệ môi trường do Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) đề xướng. Tạo lập môi trường, bao gồm môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lí, công nghệ...điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi. Mỗi môi trường sẽ có những thế mạnh riêng, tạo nên phong cách, Để năng suất lao động tăng tốc hơn nữa, một vấn đề có ý nghĩa tiên quyết là nhận thức đầy đủ vai trò của năng suất lao động trong điều kiện mới. Năng suất lao động là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời kỳ dài, chứ không chỉ trong ngắn hạn. Suốt mấy thập kỷ qua, nền kinh tế nước ta chủ yếu phát triển theo chiều rộng, dựa trên khai thác lao động giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên, tăng cường độ lao động và tăng vốn đầu tư chứ chưa thật sự tính toán đầy đủ đến những hệ luỵ cùng những hạn chế nên năng suất lao động tăng không ổn định, dẫn đến năng lực cạnh tranh quốc gia ở mức thấp. Hiện nay, việc cơ cấu lại nền kinh tế đặt ra rất bức thiết vì sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, xuất khẩu hàng hoá đang gặp khó khăn. Do vậy phải đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế trong các ngành kinh tế, nghề, sản phẩm, thành phần kinh tế, vùng kinh tế và cả về mô hình phát triển kinh tế theo hướng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng của Nhà nước ngày một tăng (tiêu dùng nội địa) và nhu cầu xuất khẩu. Việc tái cơ cấu kinh tế cần xuất phát từ lợi thế có tầm dài hạn, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đóng góp nhiều cho xã hội, tăng thu nhập cho người lao động để tái sản xuất sức lao động. Coi trọng cơ cấu lại kinh tế của các ngành vì năng suất lao động đóng góp hơn 55% là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành có năng suất lao động thấp sang ngành lao động có năng suất cao. Trong bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, Nhà nước, các ngành chức năng cần nghiên cứu để bổ sung những chính sách, luật pháp liên quan đến người lao động ở mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế ngoài Nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động cũng như lợi ích hợp pháp của những chủ sở hữu. Những chính sách phù hợp có tác dụng khuyến khích người lao động làm việc có năng suất cao, có thêm thu nhập, hạn chế được đình công, lãn công và cũng động viên những chủ sở hữu đầu tư máy móc và công nghệ để làm ra các sản phẩm mới có chất lượng. Việc phải tăng năng suất cá nhân, bằng huấn luyện và đào tạo tay nghề cho công nhân cũng là điều quan trọng, việc này ở Việt Nam chưa được chú trọng nhiều, đồng thời cần phải cải tiến cách thức điều hành cho khoa học, hợp lý để người lao động yên tâm làm việc và đạt được hiệu quả cao nhất, cần phải tiết kiệm nhiên liệu đầu vào, và áp dụng công nghệ tiên tiến vào dây chuyền sản xuất.… Tóm lại, năng suất lao động là một chỉ tiêu chất lượng có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Để nâng cao năng suất lao động, ngoài sự nỗ lực toàn diện trên nhiều mặt và thường xuyên liên tục của các doanh nghiệp, cần có sự hỗ trợ của Chính phủ và các cấp chính quyền theo tinh thần hướng về doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp hoạt động. 3.3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG SUẤT CỦA MỘT SỐ CÔNG TY VIỆT NAM VÀ NHẬN ĐỊNH CỦA CÁC CHUYÊN GIA Làm gì để tăng năng suất lao động? Đó là vấn đề bức thiết đặt ra trước yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững của TPHCM nói riêng và cả nước nói chung. 3.3.1 Chủ động sáng tạo Trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp (DN) đã chú trọng các giải pháp phát triển bền vững, tăng năng suất lao động, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn. Trăn trở về bài toán này, bà Nguyễn Thị Điền, Tổng Giám đốc Công ty May Thêu Dệt An Phước bộc bạch: “Trước thực trạng thiếu hụt lao động, chúng tôi đầu tư trang thiết bị, công nghệ sản xuất mới thay cho việc phải sử dụng nhiều lao động. Cụ thể như ở khâu mổ túi may gia công, thay vì phải cần 3 lao động, công ty nhập máy tự động với giá từ 10.000-15.000 USD nên giảm bớt 2 lao động”. Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố đổi mới thiết bị, công nghệ thì giải pháp tổ chức quy trình sản xuất hợp lý cũng góp phần tăng năng suất lao động. Một điển hình khác là Toyota Bến Thành - Trung tâm dịch vụ bảo trì của Hãng Toyota tại VN. Nhờ áp dụng chương trình cải tiến rút ngắn thời gian bảo trì ô tô và tập trung huấn luyện đội ngũ công nhân - kỹ thuật viên sửa chữa xe hơi thành thục, trung tâm đã loại bỏ các yếu tố làm giảm năng suất lao động như thời gian chết, quy trình di chuyển chưa hợp lý… Thay vì phải chờ đợi bảo trì xe hơi đến 4 giờ như trước đây, hiện tại khách hàng chỉ tốn 1 giờ. Như vậy, việc tăng năng suất lao động ở Toyota Bến Thành chủ yếu từ bước đột phá là tổ chức lại quy trình sản xuất hợp lý hơn, chứ không phải tốn kinh phí đầu tư thay đổi trang thiết bị, công nghệ (trung tâm này chỉ phải đầu tư thêm 10.000 USD mua một số thiết bị bảo trì như xe chuyên dụng, xe chứa dầu thải, bộ dụng cụ cung cấp nước làm mát…). Phải thừa nhận trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp trong nước đã chủ động đổi mới quản lý, đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, cải tiến quy trình sản xuất, huấn luyện nâng cao tay nghề, trình độ kỹ thuật cho công nhân nên năng suất lao động không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì năng suất lao động của VN còn thấp hơn nhiều lần. Điển hình như ở ngành dệt may, công nhân VN chỉ có thể đứng được trên chục máy, trong khi đó công nhân một số nước tiên tiến khác đứng được đến 30, 40 máy. Tương tự, năng suất lao động xã hội của VN (tính bằng GDP theo giá trị thực tế chia cho 1 lao động việc làm) cũng khá thấp. Trong đó, các ngành nông, lâm nghiệp thấp nhất. Nguyên nhân chủ yếu khiến cho năng suất lao động trong các ngành nông, lâm nghiệp, buôn bán nhỏ… thấp là do số lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhưng thời gian sử dụng chưa hết và việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới, công tác quản lý còn hạn chế. 3.3.2 Tăng chất lượng lao động Bà Nguyễn Thị Như Thuỷ, Trưởng ban Thi đua - Khen thưởng TPHCM cho biết: “Để các phong trào thi đua ở cơ sở đi vào thực chất, gắn với mục tiêu tăng năng suất lao động thì mỗi người lao động phải làm tốt nhất công việc của mình. Song song đó người lao động phải năng động, sáng tạo, chủ động cải tiến thói quen và lề lối làm việc cũ để tạo ra năng suất và hiệu quả cao từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ... Chính vì thế, việc chú trọng cải thiện chất lượng lao động là vấn đề then chốt tạo cơ sở cho việc tăng năng suất lao động, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà TPHCM đã đề ra”. Theo các chuyên gia kinh tế, nâng cao năng suất lao động là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững.Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động ở VN thấp thì chất lượng lao động chưa đạt tiêu chuẩn, thiếu kỹ năng chuyên môn là rào cản lớn nhất. Năng suất lao động thấp thì thu nhập thấp và dẫn đến hệ quả khó lường là thị trường lao động phát triển “lệch pha”, biến động, độ dịch chuyển cao. Tại một hội thảo quốc gia mới đây, các chuyên gia kinh tế cho rằng, mức lương tối thiểu ở VN thấp hơn các nước 40% nên thu nhập của công nhân lao động không đủ đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Tại hội thảo báo cáo cạnh tranh VN năm 2009-2010 do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức, các chuyên gia kinh tế cảnh báo rằng, so sánh các yếu tố để đo năng lực cạnh tranh theo chuẩn quốc tế thì hầu hết các chỉ số của VN đều thấp. Như vậy, muốn tăng trưởng nhanh thì bên cạnh các giải pháp đầu tư về cơ sở hạ tầng, đầu tư vốn, công nghệ, chúng ta phải ưu tiên cho giải pháp cải thiện năng suất lao động ở nước ta. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Võ Hồng Phúc cho rằng: “Muốn rút ngắn khoảng cách với các nước thì 10 năm tới sẽ là giai đoạn nền kinh tế phải tăng tốc với mục tiêu gắn chất lượng tăng trưởng với tăng nhanh năng suất lao động, lấy tốc độ tăng năng suất lao động là thước đo chính. Năng suất càng cao thì thu nhập càng cao và khi đó quan hệ lao động cũng được cải thiện tốt hơn. Để nâng cao năng suất lao động, ngoài nỗ lực toàn diện của doanh nghiệp (đổi mới công nghệ, chất lượng hoá lao động, đổi mới phương pháp quản lý) rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ, các cấp chính quyền theo tinh thần hướng về DN, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN hoạt động hiệu quả”. 3.4 DANH SÁCH CÁC 10 CÔNG TY CÓ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CAO Năng suất lao động thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp, thể hiện sự năng động và hiệu quả của người lao động. Doanh nghiệp đạt doanh thu cao, giảm chi phí, tăng lợi nhuận phụ thuộc phần lớn vào năng suất lao động của mỗi người lao động. Năng suất lao động là một trong những tiêu chí đánh giá quan trọng nhất đối với mỗi doanh nghiệp. Năm nay lần đầu tiên website www.doanhnghiep1000ty.com công bố Top doanh nghiệp có năng suất lao động cao nhất Việt Nam. Đây sẽ là bảng công bố hàng năm của website. Và năm sau bảng Top 10 này sẽ phát triển thành Top 100 doanh nghiệp có năng suất lao động cao nhất Việt Nam. Hi vọng đây sẽ là hoạt động được sự quan tâm chú ý của tất cả các doanh nghiệp. Top 10 doanh nghiệp có năng suất lao động cao nhất năm nay đều là những tập đoàn, tổng công ty, công ty nhà nước lớn. Năng suất lao động trung bình của 10 doanh nghiệp có năng suất lao động lớn nhất này đạt 10 tỷ\người\năm. Doanh nghiệp có năng suất lớn nhất đạt 63.1 tỷ\người\năm. Năm 2008, tổng doanh thu của 10 doanh nghiệp này là 559,580 tỷ, đóng góp vào ngân sách nhà nước gần 130 nghìn tỷ chiếm khoảng 30% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong đó doanh thu lớn nhất là tập đoàn dầu khí quốc gia PVN với 280,050 tỷ, tiếp theo là TCT Xăng dầu Việt Nam với 98,000 tỷ. Tổng số lao động của 10 doanh nghiệp là 55,946 người. Hầu hết các doanh nghiệp có số lao động trên 1,000 người. Doanh nghiệp có số lao động lớn nhất là tập đoàn dầu khí quốc gia PVN với gần 24,000 người. Doanh nghiệp có số lao động ít nhất là Công ty thương mại và Kỹ thuật đầu tư PETEC với gần 500 người. Dưới đây là danh sách Top 10 doanh nghiệp có năng suất lao động lớn nhất Việt Nam năm 2008: STT Doanh nghiệp 1 Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn – SJC 2 Công ty thương mại và Kỹ thuật đầu tư PETEC 3 Tổng công ty Hàng không Việt Nam 4 TCT viễn thông quân đội Viettel 5 Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia Việt Nam 6 Công ty Dầu thực vật-hương liệu -mỹ phẩm VN 7 TCT Xăng dầu Việt Nam 8 TCT Bia - Rượu - NGK Sài Gòn 9 Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam 10 Tập đoàn Bảo Việt PHỤ LỤC Phụ lục 1. Lao động có trình độ thấp hoạt động trong lĩnh vực may, giày dép. Nguồn: www.google.com.vn Phụ lục 2. Lao động phổ thông nước ta tập trung đông đảo ở lĩnh vực chế biến thủy sản Nguồn: www.google.com.vn Phụ lục 3. Hội thảo về giải pháp nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam Nguồn: www.google.com.vn Phụ lục 4. Lao động việt Nam luôn làm việc với năng suất không cao [Nguồn: 9] Phụ lục 5. Lao động nước ta chủ yếu là lao động phổ thông [Nguồn: 6] Phụ lục 6. Lao động Việt Nam tập trung nhiều ở nông thôn và các ngành nông nghiệp. [Nguồn: 7] Phụ lục 7. Biểu đồ thể hiện năng suất lao động qua nhiều năm của nước ta [Nguồn: 8] TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.187. 2. TS. Nguyễn Thanh. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.86. 3. Vũ Minh Mão – Hoàng Xuân Hoà. Dân số và chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế. Tạp chí Cộng sản, số 709, 2004, tr.65. 4. Trần Khánh Đức. Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo ISO & TQM. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.26. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.94-95. 6. Để nâng cao nâng suất lao động của nguồn lao động, www.sggp.org.vn, Sĩ công, 2009. 7. Việt Nam: Năng suất lao động ở mức thấp, www.xalotintuc.vn , Phạm Thanh, 2010. 8. Làm gì để tăng năng suất lao động ?, www.tinkinhte.com , Phạm Văn Khánh, 10 tháng trước. 9. Việt Nam: Năng suất lao động ở mức thấp, www.dantri.vn , Phạm Thanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTHỐNG KÊ KINH DOANH.doc
Tài liệu liên quan