Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình

Tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình: PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, đặc biệt khi nước ta đã chính thức gia nhập WTO, các doanh nghiệp (DN) trong nước nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn. Hội nhập, một mặt mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhưng cũng đặt các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp nước ngoài trên cả thị trường trong và ngoài nước. Việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những vấn đề được quan tâm nhất ở Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã từng chỉ ra bốn điểm yếu của doanh nghiệp nước ta là: “số lượng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất kinh doanh nhìn chung lạc hậu; khả năng quản trị doanh nghiệp còn yếu kém”. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề cần được ưu tiên xem xét khi đổi mới các DN Nhà nước. Khi DN Nhà nước đảm bảo được vốn...

doc155 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, đặc biệt khi nước ta đã chính thức gia nhập WTO, các doanh nghiệp (DN) trong nước nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn. Hội nhập, một mặt mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhưng cũng đặt các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp nước ngoài trên cả thị trường trong và ngoài nước. Việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những vấn đề được quan tâm nhất ở Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã từng chỉ ra bốn điểm yếu của doanh nghiệp nước ta là: “số lượng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất kinh doanh nhìn chung lạc hậu; khả năng quản trị doanh nghiệp còn yếu kém”. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề cần được ưu tiên xem xét khi đổi mới các DN Nhà nước. Khi DN Nhà nước đảm bảo được vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn thì sẽ có nhiều điều kiện để thực hiện vai trò chủ đạo của mình; đồng thời giúp cho DN duy trì và đứng vững trên thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Cũng như các DN trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, đối với công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, việc nghiên cứu và đánh giá quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình sử dụng các nguồn lực trở nên cấp bách và cần thiết; trong đó vấn đề hiệu quả sử dụng vốn là nội dung quan trọng cần phải xem xét. Xuất phát từ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sỹ. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Luận văn "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình" được lựa chọn nhằm giải quyết các mục tiêu cơ bản sau: - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp; - Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại; - Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty trong thời gian tới. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp thống kê mô tả; phương pháp thống kê so sánh; phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch; phương pháp dự báo; phương pháp toán kinh tế và một số phương pháp khác. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng và nội dung nghiên cứu của luận văn là hiệu quả sử dụng vốn và các vấn đề có liên quan. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Công ty trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006 và đề xuất giải pháp đến năm 2010. - Về không gian: Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, tỉnh Quảng Bình. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP 1.1. VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm, bản chất của vốn trong doanh nghiệp Trong phạm vi của doanh nghiệp, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng nhất định các yếu tố sản xuất như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sức lao động,…. Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do đó để có được các yếu tố nói trên đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước nhất định, được gọi là vốn sản xuất kinh doanh [38]. Vậy có thể hiểu, vốn là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản dùng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời. Gọi là số tiền ứng trước vì nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ thu hồi lại được số vốn bỏ ra ban đầu và làm sinh lời vốn. Tài sản được hiểu là nguồn lực do DN kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Tài sản trong DN được biểu hiện dưới hình thái hữu hình như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hoá,… hoặc thể hiện dưới hình thái vô hình như quyền sử dụng đất, bản quyền, bằng sáng chế… Tài sản trong doanh nghiệp cũng có thể phân thành tài sản hiện vật (vật chất) như máy móc thiết bị, nhà xưởng … và các tài sản tài chính như chứng khoán và các giấy tờ có giá khác. Vốn là một yếu tố cơ bản, là tiền đề không thể thiếu được của mọi quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời sử dụng vốn có hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự tăng trưởng của các DN và của nền kinh tế ở các nước đang phát triển như ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đối với toàn bộ nền kinh tế, vốn được ví như “máu” trong một cơ thể sống. Theo Mác: vốn là giá trị đem lại lợi nhuận [14]. Biểu hiện cụ thể của vốn trong các DN là tài sản mà DN sở hữu hoặc kiểm soát. Ở nước ta hiện nay, khái niệm về vốn cũng được hiểu khác nhau. Một số cho rằng vốn là số tiền đầu tư ứng trước vào tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn của DN. Cụ thể hơn vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn của DN. Một số khác có quan điểm cho rằng vốn gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Quan điểm này có sự đồng nhất giữa vốn và nguồn vốn. Họ cho rằng vốn và nguồn vốn chỉ là những cách gọi khác nhau để chỉ ra nguồn vốn của tài sản trong DN. Theo tác giả, vốn và nguồn vốn là hai mặt của cùng một lượng tài sản do DN quản lý, sử dụng; trong đó vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản của DN, còn nguồn vốn chỉ ra nguồn gốc hình thành các tài sản này. Khi nói đến vốn tức là muốn nói đến giá trị những tài sản mà DN đang nắm giữ, sử dụng để phục vụ SXKD. Như vậy, trong phạm vi của luận văn nói đến hiệu quả sử dụng vốn có thể hiểu đồng nghĩa với hiệu quả sử dụng tài sản của DN. Vốn trong doanh nghiệp có các đặc trưng sau: - Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và vô hình như nhà xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin, vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền phát minh sáng chế,… - Vốn có giá trị về mặt thời gian, một đồng vốn ngày hôm nay có giá trị cao hơn một đồng vốn trong tương lai, bởi vì có thể đầu tư tiền của ngày hôm nay để thu được những khoản thu nhập trong tương lai. Tỷ lệ lãi suất là sự đo lường thời giá của tiền tệ, nó phản ảnh chi phí cơ hội mà người sử dụng vốn phải bỏ ra để thu lợi nhuận. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chính xác hiệu quả của đầu tư. - Vốn luôn vận động vì mục tiêu sinh lời. Nếu coi hình thái khởi đầu của vốn là tiền thì sau một quá trình vận động vốn có thể biến đổi qua các hình thái vật chất khác nhau, nhưng kết thúc chu kỳ vận động vốn lại trở lại trạng thái ban đầu là tiền. Theo quy luật, để DN tồn tại và phát triển thì lượng tiền này phải lớn hơn lượng tiền mà DN bỏ ra ban đầu, có nghĩa là DN phải có lợi nhuận. - Vốn luôn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có vốn vô chủ, vì nó sẽ dẫn đến chi tiêu lãng phí và kém hiệu quả. - Vốn được xem là một hàng hóa đặc biệt. Khác với hàng hoá thông thường, hàng hoá vốn được bán sẽ không bị mất quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng, người mua được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định và phải trả cho người sở hữu một khoản tiền được gọi là lãi. Như vậy, lãi suất là giá phải trả cho việc được quyền sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định. Việc mua bán diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán vốn cũng tuân theo quan hệ cung - cầu trên thị trường. Các đặc trưng của vốn cho thấy, vốn là nguồn lực có hạn cần phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả. Đây là vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho việc hoạch định chính sách quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn DN. 1.1.2. Sự vận động của vốn trong doanh nghiệp Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn thường xuyên chuyển hoá từ hình thái tiền tệ ban đầu sang các hình thái hiện vật, như: tư liệu sản xuất, sức lao động... hàng hoá và cuối cùng lại chuyển hoá về hình thái ban đầu. Nếu coi xuất phát điểm ban đầu của vốn là tiền tệ người ta có thể khái quát quá trình hoạt động của vốn trong DN bằng công thức [14]: T - H ...... H' - T' Quá trình luân chuyển của vốn biểu hiện như một quá trình vận động của giá trị, phản ánh về mặt giá trị của quá trình sản xuất kinh doanh. Ứng với ba giai đoạn luân chuyển vốn trong công thức này là ba giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm: Giai đoạn I ( T - H): DN mua các yếu tố đầu vào cho quá trình SXKD như tư liệu sản xuất, thuê mướn, đào tạo nhân công,... Trong giai đoạn này vốn ứng ra ban đầu dưới hình thái tiền tệ (T) được chuyển sang hình thái hiện vật là tư liệu sản xuất và sức lao động (H) khi DN mua tư liệu sản xuất và thuê lao động. Giai đoạn II (H...H'): đây là giai đoạn DN sử dụng các yếu tố đầu vào kết hợp với công nghệ và kỹ năng của công nhân để sản xuất sản phẩm phục vụ cho tiêu thụ ở giai đoạn sau. Trong giai đoạn này, vốn từ hình thái tư liệu sản xuất (H) chuyển sang hình thái thành phẩm (H') thông qua quá trình sản xuất. Giai đoạn III (H' - T'): DN tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra thu được tiền, vốn kết thúc quá trình vận động trở về trạng thái ban đầu là tiền. Để DN có thể phát triển và tiếp tục SXKD tức là vốn tiếp tục vận động ở các chu kì sau, thì lượng tiền thu được ở giai đoạn này phải lớn hơn lượng tiền mà DN bỏ ra ban đầu ở giai đoạn mua hàng, có nghĩa là DN kinh doanh có lãi. 1.1.3. Phân loại vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Có nhiều cách phân loại vốn, sau đây chỉ xem xét một số cách phân loại vốn chủ yếu, có liên quan nhiều đến nội dung phân tích hiệu quả sử dụng vốn của DN. 1.1.3.1. Phân loại vốn theo quan hệ sở hữu Theo quan hệ sở hữu, vốn của DN được phân thành vốn chủ sở hữu và nợ. - Vốn chủ sở hữu: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của DN, bao gồm các bộ phận chủ yếu: vốn góp ban đầu; lợi nhuận không chia; vốn tăng thêm bằng phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo hình thức sở hữu của DN mà tính chất và hình thức tạo vốn của từng DN là khác nhau. Đối với DN Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Vốn góp ban đầu của công ty cổ phần là vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn là do các thành viên của công ty đóng góp. Đối với DN tư nhân là chủ DN bỏ vốn... Vốn chủ sở hữu được xác định như sau: Vốn chủ sở hữu = Tài sản DN - Nợ phải trả - Nợ: là số vốn mà DN đi vay, chiếm dụng của tổ chức, cá nhân khác và do vậy DN phải có trách nhiệm thanh toán. DN có thể vay ngân hàng, sử dụng tín dụng thương mại... Theo thời gian thanh toán, nợ được chia thành nợ ngắn hạn, nợ trung hạn và nợ dài hạn. Thông thường, nợ ngắn hạn là khoản nợ mà DN có trách nhiệm thanh toán trong thời hạn 1 năm, nợ trung hạn từ 1 đến 3 năm và nợ dài hạn từ 3 năm trở lên. Cách phân loại vốn theo quan hệ sở hữu vốn có ý nghĩa quan trọng đối với DN trong việc thiết lập cơ cấu vốn hợp lý, vì DN sử dụng vốn chủ sở hữu hay nợ để tài trợ cho hoạt động của mình đều phải chịu chi phí sử dụng vốn. Chi phí sử dụng vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Chi phí sử dụng vốn có thể xem như tỷ xuất sinh lợi mà DN phải tạo ra từ những dự án đầu tư để đảm bảo duy trì giá cổ phiếu trên thị trường hoặc có thể hiểu như mức tỷ suất sinh lời tối thiểu mà các nhà cung ứng vốn trên thị trường yêu cầu nhằm đảm bảo sự cung ứng vốn của họ đối với DN. Mỗi DN có một cơ cấu vốn tối ưu cho phép DN tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn và tối đa hoá giá trị của DN. 1.1.3.2. Phân loại vốn theo công dụng kinh tế Theo công dụng kinh tế, vốn của DN được chia thành vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính. - Vốn cố định là lượng tiền ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn dùng vào hoạt động kinh doanh của DN. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc... đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn sau: về thời gian: có thời gian sử dụng từ một năm trở lên; về giá trị: ở nước ta hiện nay tài sản cố định phải có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên. - Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản ngắn hạn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của DN. Tài sản ngắn hạn là những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh như: nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá, các khoản phải thu... - Vốn đầu tư tài chính của DN là một bộ phận vốn kinh doanh của DN được đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lời. Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: DN bỏ vốn mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, hoặc góp vốn liên doanh với các DN khác,... Mục đích của đầu tư tài chính ra bên ngoài là nhằm thu lợi nhuận và đảm bảo an toàn về vốn nhờ đa dạng hoá đầu tư. Phân loại vốn theo cách này có ý nghĩa quan trọng đối với DN trong việc lựa chọn loại nguồn vốn thích hợp với từng loại tài sản cần tài trợ, trong việc đề ra các biện pháp quản lý vốn thích hợp, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và bảo toàn số vốn đã bỏ ra. 1.1.3.3. Phân loại vốn theo nguồn huy động Căn cứ vào phạm vi huy động các nguồn vốn, vốn của DN có thể chia thành nguồn vốn bên trong DN và nguồn vốn bên ngoài DN. - Nguồn vốn bên trong DN là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt động của bản thân DN. Đó là tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản dự phòng... Nguồn vốn bên trong DN có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp cho DN tự chủ trong việc sử dụng vốn này, đồng thời tiết kiệm chi phí sử dụng vốn. - Nguồn vốn bên ngoài DN là nguồn vốn có thể huy động được từ bên ngoài DN để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đó là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ phải trả. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn bên ngoài rất đa dạng và các hình thức huy động cũng rất phong phú. Mỗi hình thức huy động vốn từ bên ngoài đều có một số thuận lợi và khó khăn nhất định, tạo cho DN có một cơ cấu vốn linh hoạt, kịp thời đáp ứng được nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông thường DN có mức doanh lợi cao thì sử dụng nguồn vốn bên ngoài sẽ đem lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, khi huy động vốn từ bên ngoài thì thường phải có tài sản thế chấp và DN phải trả lãi tiền vay. Nếu DN sử dụng vốn kém hiệu quả thì lãi tiền vay sẽ trở thành gánh nặng mà DN phải chịu. Với cách phân loại này, cho phép DN lựa chọn các phương án huy động vốn sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình trong phạm vi khuôn khổ pháp luật cho phép. 1.1.4. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp Vốn có vai trò rất quan trọng đối với DN, là yếu tố không thể thiếu của mọi quá trình kinh doanh. Vai trò quan trọng của vốn đã được Các Mác khẳng định: Tư bản đứng ở vị trí hàng đầu, vì tư bản tạo ra giá trị thặng dư. Trong nền kinh tế thị trường muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, DN phải có vốn. Vốn là điều kiện để thực hiện các hoạt động tạo nguồn vì thế các chiến lược hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ trở thành hiện thực nếu được đảm bảo bằng vốn. Như vậy, có thể nói vốn có vai trò quyết định quy mô của DN, quyết định năng lực sản xuất của DN. Vốn càng lớn thì quy mô DN càng lớn, nâng cao khả năng tài chính của DN, tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ, nâng cao trình độ của người lao động, nâng cao năng lực sản xuất của DN. Vốn có vai trò nâng cao vị thế, uy tín của DN, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hợp tác phát triển của DN. Quy mô của DN càng lớn sẽ tạo điều kiện để thực hiện mở rộng thị trường trong và ngoài mước, tạo lợi thế trong cạnh tranh, là điều kiện tồn tại và phát triển của DN. Vốn còn tạo điều kiện cho DN tham gia tốt các chính sách xã hội, các đóng góp với chính phủ, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, công tác quản lý và sử dụng vốn sao cho hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động quản lý của DN. 1.1.5. Quá trình huy động, tạo vốn trong doanh nghiệp Quá trình huy động, tạo vốn trong DN đòi hỏi xác định được nhu cầu vốn cần huy động trong từng thời kỳ nhất định, từ đó phân tích lựa chọn các hình thức huy động vốn phù hợp. 1.1.5.1 Xác định cơ cấu vốn Cơ cấu vốn là sự kết hợp của nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu được sử dụng để tài trợ cho tài sản của DN. Các nhân tố chính cần phải xem xét khi xác định cơ cấu vốn là: -Rủi ro kinh doanh: rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của DN trong trường hợp DN không sử dụng nợ. Rủi ro kinh doanh phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu như: chi phí cố định của DN, khả năng thay đổi của cầu, khả năng biến thiên của giá bán, khả năng biến thiên của giá đầu vào, khả năng điều chỉnh giá đầu ra khi giá đầu vào thay đổi. - Thuế thu nhập DN: chi phí sử dụng nợ vay là chi phí sau thuế. Giả sử gọi Kd là chi phí nợ vay sau thuế, I là lãi suất nợ vay, T là thuế suất thuế thu nhập DN, lúc đó Kd = I(1- T). Nếu thuế suất thuế thu nhập DN càng cao thì càng hạ thấp chi phí thực tế của nợ (Kd càng thấp). Khi sử dụng nợ, DN tiết kiệm được một khoản bằng lãi suất vay nợ nhân với thuế suất thuế thu nhập DN (I * T). Vì vậy, thuế suất càng cao sẽ khuyến khích DN sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên. - Khả năng linh hoạt tài chính: là khả năng điều chỉnh nguồn vốn tăng hay giảm đáp ứng với các thay đổi quan trọng trong nhu cầu vốn. DN cần duy trì được tính linh hoạt tài chính nhằm đảm bảo cho DN vẫn có thể huy động được vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu, bởi vì quyết định huy động vốn ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn phương thức huy động vốn trong tương lai. - Quan điểm của các nhà quản lý: việc xác định cơ cấu vốn mục tiêu của DN còn phụ thuộc vào quan điểm của các nhà quản lý. Thực tế, có một số nhà quản lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn; trong khi đó, một số nhà quản lý khác lại muốn sử dụng vốn chủ sở hữu. 1.1.5.2 Lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn Để lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn phù hợp, trước hết cần phải xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của DN trong kỳ kế hoạch. Nghĩa là trong mỗi kỳ kế hoạch phải xác định rõ DN cần bao nhiêu vốn cho những việc gì. Việc xác định nhu cầu vốn phải dựa trên các cơ sở tính toán chính xác, có căn cứ khoa học. Đặc biệt, DN phải tập trung nhu cầu vốn do tìm được cơ hội kinh doanh mới cần đầu tư. DN cần xác định nhu cầu vốn trong thời kỳ dài hạn và từng thời kỳ ngắn hạn. Đồng thời phải xác định được nhu cầu từng loại vốn cố định, vốn lưu động là bao nhiêu. Cụ thể hơn là xác định nhu cầu vốn cho mỗi hình thức, dự án đầu tư là bao nhiêu.v.v.. Khi đã xác định lượng tiền cần huy động, tiếp đến là lựa chọn các hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của DN được thực hiện một cách liên tục với chi phí sử dụng vốn thấp nhất, rủi ro thấp nhất. Việc lựa chọn hình thức huy động vốn trong các DN nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các nhân tố như: trạng thái của nền kinh tế; triển vọng của thị trường vốn; ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực huy động của DN; quy mô, loại hình của DN; chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của DN; uy tín của DN và khả năng thích ứng trong các tình huống cụ thể của người quản lý.v.v.. Phân tích và lựa chọn hình thức huy động vốn thích hợp trong từng kỳ kế hoạch, cần phải xem xét các vấn đề sau: cơ cấu tài chính mà DN đã chọn; chi phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn huy động cụ thể; tình hình thị trường tài chính và các điều kiện để DN có thể huy động được vốn theo từng hình thức huy động; khả năng đáp ứng của mỗi nguồn vốn huy động cụ thể. Tuỳ theo từng loại hình DN và đặc điểm cụ thể mà có thể có các hình thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các hình thức huy động vốn của DN cần được đa dạng hóa nhằm khai thác tốt nhất các nguồn vốn trong nền kinh tế. DN có thể lựa chọn các hình thức huy động vốn chủ yếu sau đây: 1.1.5.2.1. Hình thức tự tài trợ (tự cung ứng vốn) Hình thức tự tài trợ là hình thức DN tự đáp ứng nhu cầu vốn của mình bằng nguồn vốn do DN tạo ra trong quá trình hoạt động kinh doanh, bao gồm quỹ khấu hao tài sản cố định và lợi nhuận giữ lại. Quỹ khấu hao của DN được hình thành trên cơ sở trích khấu hao tài sản cố định sử dụng trong quá trình kinh doanh, dùng để tái đầu tư thay thế, đổi mới tài sản cố định. Tuy nhiên, khi chưa có nhu cầu tái tạo lại tài sản cố định, DN có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của mình. Tự tài trợ bằng lợi nhuận giữ lại là một hình thức tạo vốn quan trọng và hấp dẫn của DN. Rất nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại. Thực chất tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại là hình thức tăng vốn đầu tư các chủ sở hữu DN. Hình thức này hấp dẫn và được coi trọng vì nó giảm được chi phí sử dụng vốn, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài và tăng tiềm lực tài chính cho DN. Tuy nhiên, DN chỉ có thể tự tài trợ bằng lợi nhuận giữ lại khi DN hoạt động có hiệu quả. 1.1.5.2.2. Phát hành cổ phiếu Phát hành cổ phiếu để huy động vốn là một hình thức huy động vốn chỉ có các công ty cổ phần đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán sử dụng. 1.1.5.2.3. Phát hành trái phiếu công ty Trái phiếu công ty còn gọi là chứng khoán nợ, là một loại giấy chứng nhận nợ có kỳ hạn do công ty phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc và lãi của công ty phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Phát hành trái phiếu là một hình thức huy động vốn quan trọng đối với DN trong thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên, chỉ có những DN đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán mới được phép phát hành. 1.1.5.2.4. Vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác Vay vốn từ ngân hàng là hình thức huy động vốn rất quan trọng đối với các DN. Đây cũng chính là hình thức huy động vốn chủ yếu của các DN nước ta trong thời gian qua. Theo thời hạn vay, vốn vay ngân hàng bao gồm: vay dài hạn (từ 3 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). 1.1.5.2.5. Sử dụng tín dụng thương mại Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các DN, được biểu hiện dưới các hình thức mua bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hoá được xem là hình thức tín dụng, bởi vì người bán chuyển giao cho người mua sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến thời hạn đã được thoả thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi. 1.1.5.2.6. Tín dụng thuê mua (Leasing) Thoả thuận thuê mua là một hợp đồng giữa hai hay nhiều bên, liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê (chủ sở hữu tài sản) chuyển giao tài sản cho người thuê (người sử dụng tài sản) độc quyền sử dụng và hưởng những lợi ích kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Đổi lại, người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hướng dụng đó. 1.1.5.2.7. Huy động vốn bằng liên doanh, liên kết Theo hình thức này, DN liên doanh, liên kết với một (hoặc một số) DN khác nhằm tạo vốn cho một (một số) hoạt động hay dự án liên doanh nào đó. Các bên liên doanh ký kết hợp đồng liên doanh thoả thuận về các vấn đề như phương thức hoạt động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, thời hạn hợp đồng. Có ba hình thức liên doanh chủ yếu: Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức hoạt động kinh doanh được đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn kinh doanh; Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức liên doanh tài sản được đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn liên doanh; Hợp đồng liên doanh dưới hình thức thành lập cơ sở kinh doanh mới được đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn kinh doanh. 1.1.5.2.8. Điều chỉnh cơ cấu tài sản Do môi trường kinh doanh biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa loại tài sản này nhưng lại thiếu tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có giải pháp bán các tài sản cố định dư thừa, không sử dụng đến; mặt khác, trên cơ sở thường xuyên kiểm tra, tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản lưu động, ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng tài sản lưu động lưu kho không cần thiết. Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất kinh doanh, nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. 1.1.5.3. Điều hoà vốn Điều hoà vốn là việc lưu chuyển vốn từ nơi thừa vốn tạm thời, sử dụng kém hiệu quả sang nơi thiếu vốn và có khả năng sử dụng vốn có hiệu quả cao trong phạm vi nội bộ DN, nhằm đảm bảo vốn được phân bố hợp lý, mang lại hiệu quả cao. Đây là một vấn đề quan trọng trong quản lý vốn nói chung, đặc biệt ở những DN lớn có nhiều đơn vị kinh doanh. Bởi vì trong một DN vẫn có thể xảy ra hiện tượng ở đơn vị, bộ phận này thừa vốn tạm thời; trong khi ở đơn vị, bộ phận khác lại thiếu vốn tạm thời. Hoặc vốn bị phân bổ, đầu tư vào chỗ có hiệu quả thấp, trong khi DN lại cần vốn cho những dự án có tiềm năng mang lại tỷ suất sinh lời cao hơn... Việc điều chuyển vốn trong DN phải đáp ứng được yêu cầu về khả năng tập trung vốn cho các cơ hội đầu tư tốt hơn, đồng thời đảm bảo khai thác tốt tiềm lực tài chính trong DN, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của DN được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả. 1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP 1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn Có vốn mới chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để đạt mục đích kinh doanh. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa tiếp theo là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động. Sử dụng vốn có hiệu quả trước hết là điều kiện để DN bảo đảm đạt được lợi ích của các nhà đầu tư, người lao động, của nhà nước về mặt thu nhập và đảm bảo sự tồn tại phát triển của bản thân. Mặt khác đó cũng chính là cơ sở để DN có thể huy động vốn được dễ dàng trên thị truờng tài chính để mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh. Xét về bản chất hiệu quả sử dụng vốn, trong các quan điểm trước đây, về lý luận cũng như thực tiễn đều coi giá trị thặng dư là do kết quả của lao động sống sáng tạo ra; yếu tố đất đai, tài nguyên không tính đến, yếu tố vốn bị xem nhẹ. Vì vậy khi xét các yếu tố tác động đến kết quả sản xuất, người ta chỉ đánh giá phân tích theo ba yếu tố cơ bản: Lao động, thiết bị, nguyên vật liệu, trong đó yếu tố lao động là cơ bản nhất. Từ đó đòi hỏi, bản chất về hiệu quả sử dụng vốn được đề cập một cách đầy đủ hơn. Trước hết các DN sản xuất kinh doanh tuân thủ theo quy tắc: "đầu vào" và "đầu ra" được quy định bởi thị trường. Sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai ? không xuất phát từ chủ quan DN hay từ mệnh lệnh cấp trên, mà xuất phát từ nhu cầu thị trường, từ quan hệ cung - cầu và lợi ích DN. Quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau. Hay nói một cách khác mọi yếu tố sản xuất cùng các quan hệ sản xuất của DN đều dựa vào thị trường. Thị trường không chỉ là thị trường hàng hoá, dịch vụ mà còn bao gồm cả thị trường sức lao động, thị trường vốn. Như vậy, bản chất hiệu quả sử dụng vốn là một mặt của hiệu quả kinh doanh, nó là một đại lượng so sánh giữa một bên là kết quả đạt được với bên kia là số vốn bỏ ra; trong đó chỉ tiêu so sánh giữa lợi nhuận ròng với số vốn chủ sở hữu được coi là chỉ tiêu tổng hợp có ý nghĩa quan trọng về hiệu quả sử dụng vốn DN. Tuy nhiên, khi đi vào nghiên cứu các tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn DN trong cơ chế thị trường lại có nhiều quan điểm khác nhau. Thứ nhất, quan điểm của các nhà đầu tư, tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn như sau: Với các nhà đầu tư trực tiếp (những người mua cổ phiếu, góp vốn) tiêu chuẩn hiệu quả vốn đầu tư là tỷ suất sinh lời trên một đồng vốn cổ đông và chỉ số tăng giá cổ phiếu mà họ nắm giữ. Với các nhà đầu tư gián tiếp (những cá nhân, tổ chức cho vay vốn) ngoài tỷ suất lợi tức vốn vay, họ rất quan tâm đến sự bảo toàn giá trị thực tế của đồng vốn cho vay qua thời gian. Đối với Nhà nước là chủ sở hữu về cơ sở hạ tầng, đất đai, tài nguyên môi trường,... tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn DN đồng nghĩa với hiệu quả kinh doanh, đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nghĩa là tiêu chuẩn về hiệu quả được xác định thông qua tỷ trọng về thu nhập mới sáng tạo ra, tỷ trọng các khoản thu về ngân sách, số chỗ làm việc mới tăng thêm,... so với số vốn DN đầu tư sản xuất kinh doanh. Thứ hai, dựa vào điểm hoà vốn trong kinh doanh có một số quan điểm cho rằng: tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn khác với tiêu chuẩn kinh doanh ở chỗ, tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn phải dựa trên cơ sở điểm hoà vốn xác định. Tức là kết quả hữu ích thực sự được xác định khi mà thu nhập bù đắp hoàn toàn số vốn bỏ ra. Phần vượt trên điểm hoà vốn mới là thu nhập để làm cơ sở xác định hiệu quả sử dụng vốn. Thứ ba, dựa trên lợi nhuận kinh tế một số nhà nghiên cứu lại đưa ra quan điểm: Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, DN đã bỏ ra những chi phí được phản ánh vào giá thành sản phẩm nhưng còn một số chi phí khác như: tiền lương của chủ DN, đất đai, nhà cửa, lợi thế cửa hàng, uy tín,... của anh ta không được hoạch toán vào giá thành sản phẩm. Tất cả các khoản này gọi là chi phí ngầm. Mặt khác còn một khoản chi phí được xét đến nếu giả thiết số vốn đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh được đầu tư vào một phương án khác có hiệu quả hơn, gọi là chi phí thời cơ hay chi phí cơ hội. Theo quan điểm này tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn của DN được xác định trên cơ sở lợi nhuận kinh tế. Lợi nhuận kinh tế = Tổng doanh thu kế toán - Tổng chi phí - Chi phí ngầm và chi phí thời cơ Hay Lợi nhuận kinh tế = Tổng doanh thu - Tổng chi phí kinh tế Đây là quan điểm xác định tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn mang tính chất toàn diện, nhưng nó chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu hoặc quản lý, còn về mặt hạch toán cụ thể thì không thể xác định được chi phí ngầm và chi phí thời cơ. Thứ tư, dựa trên thu nhập thực tế, một số quan điểm lại đưa ra tiêu chuẩn hiệu quả như sau: Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, cái mà nhà đầu tư quan tâm là lợi nhuận ròng thực tế chứ không phải lợi nhuận ròng danh nghĩa. Lợi nhuận ròng thực tế được đo bằng khối lượng giá trị hàng hoá có thể mua được từ lợi nhuận ròng để thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng của các nhà đầu tư. Do đó, tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn của quan điểm này là tỷ suất lợi nhuận thực tế được xác định bằng cách loại trừ tỷ lệ lạm phát trong tỷ suất lợi nhuận ròng. Với quan điểm này đã phản ánh được tiêu chuẩn đích thực cuối cùng về kết quả lợi ích tạo ra của đồng vốn. Qua nghiên cứu các quan điểm trên, theo chúng tôi để đi đến thống nhất về bản chất và tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn của DN hiện nay, cần giải quyết các vấn đề sau: Hiệu quả sử dụng vốn chỉ là một mặt của hiệu quả kinh doanh mà không phải là toàn bộ hiệu quả kinh doanh, do vốn chỉ là một yếu tố của quá trình kinh doanh. Ngược lại, nói đến hiệu quả kinh doanh có thể có một trong các yếu tố của nó không đạt hiệu quả. Còn nói đến hiệu quả sử dụng vốn, không thể nói sử dụng có kết quả nhưng lại bị lỗ vốn. Tức là, tính hiệu quả sử dụng vốn thể hiện trên hai mặt: Bảo toàn được vốn và tạo ra được các kết quả theo mục tiêu kinh doanh, trong đó đặc biệt là kết quả về sức sinh lời của đồng vốn. Kết quả lợi ích tạo ra do sử dụng vốn phải thoả mãn hai yêu cầu: Đáp ứng được lợi ích của DN, lợi ích của các nhà đầu tư ở mức độ mong muốn cao nhất, đồng thời nâng cao được lợi ích của nền kinh tế xã hội. Hai yêu cầu này cùng tồn tại đồng thời phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, bất kỳ một DN nào hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận cho mình, nhưng làm tổn hại đến lợi ích chung của nền kinh tế xã hội sẽ không được phép tồn tại. Ngược lại, nếu DN đó hoạt động đem lại lợi ích cho nền kinh tế, còn bản thân nó bị thua thiệt lỗ vốn sẽ làm cho DN bị phá sản. Như vậy kết quả tạo ra do việc sử dụng vốn phải là kết quả phù hợp với lợi ích DN và lợi ích của nền kinh tế xã hội. Trong các quan điểm trước đây, khi xét "đầu vào" của chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn chủ yếu đề cập đến khả năng tối thiểu hoá về số lượng vốn, còn vấn đề thời gian sử dụng dài hay ngắn, ít hoặc không đề cập đến. Thực tế cho thấy, cùng với một kết quả như nhau mà sử dụng một lượng vốn ít hơn nhưng kéo dài thời gian sử dụng thì việc sử dụng số vốn đó chưa hẳn là đã có kết quả. Theo chúng tôi yếu tố đầu vào cần đề cập trên cả hai mặt là: tối thiểu hoá số vốn và thời gian sử dụng. Từ sự phân tích trên, theo chúng tôi bản chất và tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng vốn DN được hiểu như sau: Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu biểu hiện một mặt về hiệu quả kinh doanh, phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn DN trong việc tối đa hoá kết quả lợi ích hoặc tối thiểu hoá số vốn và thời gian sử dụng theo các điều kiện về nguồn lực xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Khái niệm này chỉ rõ: Hiệu quả sử dụng vốn là gì? Tiêu chuẩn của nó như thế nào và điều kiện xác định ra sao? cả ba yêu cầu đó là cơ sở để thống nhất nhận thức về hiệu quả sử dụng vốn DN. 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn Công tác sử dụng vốn kinh doanh trong DN chịu tác động của nhiều nhân tố bên ngoài và bên trong DN. Các nhân tố này tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau và tác động đến hoạt động sử dụng vốn kinh doanh nói riêng và hoạt động quản lí sản xuất kinh doanh nói chung. Các tác động này cũng có thể là các tác động tích cực, nhưng cũng có thể là các tác động tiêu cực làm hạn chế và ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Do đó, các nhà quản trị DN phải luôn nắm bắt và quan tâm tới các nhân tố này. 1.2.2.1. Nhân tố con người Con người là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Con người được đề cập đến ở đây là bộ máy quản lí và lực lượng lao động trong DN, mà trước hết là giám đốc DN. Giám đốc là người toàn quyền quản lí và sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn của DN, là người chịu trách nhiệm quyết định mọi vấn đề về tài chính của DN. Quyết định sử dụng đồng vốn kinh doanh của giám đốc mà đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển của DN thì DN kinh doanh có lãi, đồng vốn được sinh sôi nảy nở, được sử dụng một cách tiết kiệm sẽ mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, nếu quyết định đó là sai lầm, không phù hợp với xu hướng phát triển của DN thì sẽ dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh, vốn kinh doanh sử dụng không có hiệu quả, thậm chí mất vốn. Đội ngũ cán bộ quản lí của DN, đội ngũ tham mưu chính cho DN trong việc ra các quyết định kinh doanh cũng có tác động to lớn. Một đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ chuyên môn cao, vững vàng, tinh thông nghiệp vụ, năng động sáng tạo, phản ánh trung thực, đầy đủ chính xác kịp thời sẽ giúp nhà quản trị DN có những quyết định đúng đắn với tình hình sản xuất kinh doanh của DN. 1.2.2.2. Nhân tố chi phí vốn Chi phí vốn là những chi phí mà DN phải trả cho việc huy động vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế chi phí vốn cao hay thấp sẽ có tác động làm tăng hay giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của DN. Chi phí vốn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Chẳng hạn, chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cao sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, giá cả hàng hoá vì thế sẽ cao hơn, dẫn đến hàng hoá khó tiêu thụ hoặc thậm chí không tiêu thụ được, vốn bị ứ đọng chậm thu hồi, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của DN. Chi phí quản lí tài chính cao hay thấp, hợp lí hay không hợp lí sẽ cho thấy việc sử dụng vốn của DN là tiết kiệm hay lãng phí, có hiệu quả hay kém hiệu quả. Do vậy, các DN phải luôn phấn đấu để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, thu hồi vốn nhanh, từ đó tăng vòng quay của vốn kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. 1.2.2.3. Nhân tố phương pháp tổ chức huy động vốn Đây cũng là một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì, nếu có phương pháp tổ chức huy động vốn kinh doanh hợp lí, luôn đảm bảo đáp ứng các nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, không xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, và với mức chi phí huy động hợp lí không những có tác dụng ổn định sản xuất, tránh tình trạng sản xuất bị đình trệ do thiếu vốn kinh doanh mà còn có tác dụng tiết kiệm vốn , hạn chế sự lãng phí trong sử dụng vốn, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. 1.2.2.4. Nhân tố cơ cấu vốn Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ một DN sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi nguồn tài trợ cho tổng tài sản của nó. Nói cách khác đó là tỷ trọng giữa các khoản nợ với tổng vốn kinh doanh của DN. Do chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau nên cơ cấu vốn trong các DN khác nhau sẽ khác nhau. Cơ cấu vốn kinh doanh có vai trò quan trọng đối với DN, nó ảnh hưởng đến chi phí vốn, đến khả năng đầu tư kinh doanh và do đó đến khả năng sinh lời của đồng vốn. Chính vì vậy, cơ cấu vốn kinh doanh là nhân tố tuy chủ yếu tác động gián tiếp song rất quan trọng đối với hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của DN. Do đó, việc xác định một cơ cấu vốn tối ưu - một cơ cấu vốn hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất sẽ giúp cho DN tiết kiệm chi phí vốn kinh doanh, tăng lợi nhuận, nâng cao được hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình. 1.2.2.5. Nhân tố quy trình tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Một quy trình sản xuất kinh doanh hợp lí, có hiệu quả sẽ hạn chế được sự chồng chéo các chức năng, nhiệm vụ giữa các khâu, tăng năng suất lao động, tiết kiệm được các nguồn lực sản xuất, đẩy nhanh tiến độ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tăng vòng quay vốn, từ đó hạn chế các chi phí bất hợp lí, các chi phí phát sinh không cần thiết, giảm thiểu sự lãng phí trong sử dụng vốn kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, từ đó mới làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 1.2.3.1.1. Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh Tổng doanh thu Vốn kinh doanh Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. 1.2.3.1.2. Tỷ suất sinh lợi vốn kinh doanh Tỷ suất sinh lợi vốn kinh doanh Lợi nhuận sau thuế Vốn kinh doanh Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 1.2.3.1.3. Suất hao phí vốn kinh doanh Suất hao phí vốn kinh doanh Tổng doanh thu Vốn kinh doanh Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu trong kỳ cần bao nhiêu đồng vốn kinh doanh. 1.2.3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định 1.2.3.2.1. Tỷ suất sinh lợi vốn cố định Tỷ suất sinh lợi vốn cố định Lợi nhuận sau thuế Vốn cố định bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định sử dụng trong kỳ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 1.2.3.2.2. Hiệu suất sử dụng vốn cố định Hiệu suất sử dụng vốn cố định Tổng doanh thu Vốn cố định bình quân Chỉ tiêu sức sản xuất của vốn cố định cho biết một đồng vốn cố định sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. 1.2.3.2.3. Suất hao phí vốn cố định Suất hao phí vốn cố định Tổng doanh thu Vốn cố định bình quân Hệ số này cho biết để có một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng vốn cố định. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao, số vốn cố định tiết kiệm được càng nhiều. 1.2.3.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 1.2.3.3.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động Lợi nhuận sau thuế Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động sử dụng trong kỳ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 1.2.3.3.2. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động Hiệu suất sử dụng vốn lưu động Tổng doanh thu Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu sức sản xuất của vốn lưu động hay số vòng quay của vốn lưu động cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 1.2.3.3.3. Suất hao phí vốn lưu động Suất hao phí vốn lưu động Tổng doanh thu Vốn lưu động bình quân Hệ số này cho biết để có một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. 1.2.3.3.4. Độ dài một vòng quay vốn lưu động D = 360 ngày / S VLĐ Trong đó: D là độ dài một vòng quay vốn lưu động. S VLĐ là số vòng quay vốn lưu động. 1.2.3.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu Tỷ suất sinh lợi vốn chủ sở hữu Tỷ suất sinh lợi vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu 1.3. Tình hình sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước 1.3.1. Tình hình sử dụng vốn của các doanh nghiệp ở một số nước châu Á * Trung Quốc Quy định khu vực DNNN gồm doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn nhà nước; các doanh nghiệp do Nhà nước kiểm soát (Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn cổ phần) DNNN vẫn giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Việc đầu tư vốn của Nhà nước có phân biệt mức độ quan trọng của từng ngành trong nền kinh tế: - Những doanh nghiệp đóng vai trò then chốt trong quốc phòng, an ninh quốc gia, Nhà nước đảm bảo vốn đầu tư, cấp bù lỗ (nếu doanh nghiệp bị lỗ), không cho các nhà đầu tư khác tham gia. - Doanh nghiệp do Nhà nước cần ưu tiên đầu tư: Công trình thuỷ điện, các ngành dịch vụ Tài chính, Bảo hiểm, Đường sắt, Bưu chính viễn thông... thì Nhà nước có thể đầu tư toàn bộ vốn hoặc cùng các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư. - Những doanh nghiệp có thời gian thu hồi vốn chậm không muốn để nhà đầu tư nước ngoài chiếm cổ phần chi phối như khai thác dầu khí, than... thì vốn nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, giữ vai trò chủ đạo [18]. Hiện nay, Trung Quốc tiếp tục tập trung cho việc cải cách cơ cấu đầu tư, tích cực đẩy mạnh triển khai chính sách Tam nông (nông nghiệp – nông thôn và nông dân), tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng về năng lượng, giao thông, thuỷ lợi và thông tin, tích cực thúc đẩy các ngành kỹ thuật cao và ưu tiên đặc biệt cho các lĩnh vực dịch vụ. Các giải pháp kinh tế tài chính đều tuân theo và giải quyết các mục tiêu trên. Theo đó: Thứ nhất, Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã tăng lãi suất đồng Nhân dân tệ thêm 0,27% và nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở các ngân hàng thương mại. Thứ hai, ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới. Luật này có hiệu lực bắt đầu từ năm mới, trong đó mức thuế đối với các công ty trong nước và nước ngoài là đồng nhất, cụ thể nâng mức thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các công ty nước ngoài từ mức 15% lên 25% và giảm thuế suất đối với các công ty trong nước từ mức 35% xuống còn 25%. Thứ ba, tiếp tục mở cửa thị trường tài chính “một cách năng động và an toàn” thông qua mở rộng dần phạm vi tham gia của các luồng vốn nước ngoai vào thị trường tài chính trong nước. Theo đó từ ngày 11/12/2006 đã mở cửa hoàn toàn thị trường tài chính cho đầu tư nước ngoài, chấm dứt giai đoạn quá độ 5 năm sau khi gia nhập WTO vào năm 2001. Thứ tư, áp dụng cơ chế cấp phép để kiềm chế xuất khẩu, nếu các biện pháp cắt giảm các mức bồi hoàn thuế hiện nay không giúp hạ nhiệt được ngành xuất khẩu thép. Thứ năm, phấn đấu cắt giảm 10% chi tiêu ngân sách quản lý hành chính và tăng chi tiêu cho quảng cáo. Theo đó, quảng cáo sẽ tăng chi ở mức 20% so với năm 2006 và còn phải phấn đấu đạt mức cao hơn trong năm 2008. Chi quảng cáo năm 2006 đã tăng 18% so với năm 2005 và đã đạt tương đương 36,9 tỷ USD. Thứ sáu, đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động đối ngoại, phục vụ lợi ích quốc gia. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ hạn chế số lượng công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồng Kông. Về tổng thể Chính phủ Trung Quốc đã đề ra 8 định hướng cải cách thể chế kinh tế cho năm 2007 như sau: Một là, tiến hành “cải cách giá cả”.Từng bước đưa giá dầu thành phẩm và khí đốt tương đương với mức giá trên thế giới. Thực hiện thu phí xử lý rác và phí ô nhiễm nước. Hai là, thực thi “cải cách thể chế đầu tư”. Cải tiến trình tự duyệt dự án doanh nghiệp đầu tư, sửa “danh mục dự án DN đầu tư được Nhà nước cho phép”, chuẩn hoá chế độ đăng ký dự án đầu tư, xây dựng chế độ truy cứu trách nhiệm về ra quyết định đầu tư. Ba là, đẩy mạnh “cải cách DN”.Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá, thông qua các phương thức như niêm yết trên thị trường để thu hút vốn, thực hiện đa dạng hoá chủ đầu tư. Bốn là, tiến hành “cải cách các ngành nghề then chốt”. Năm là, thực hiện “cải cách kinh tế phi sở hữu nhà nước”. Trung Quốc đã cho phép các thành phần ngoài sở hữu nhà nước từng bước kinh doanh các ngành bưu chính viễn thông, hàng không, dường sắt… Sáu là, tiến hành “cải cách thu nhập”. Kiện toàn cơ chế lương hiệp thương. Nghiêm khắc thực hiện chế độ lương tối thiểu, chuẩn hoá thu nhập của các đơn vị sự nghiệp và các ngành mũi nhọn. Bảy là, đẩy mạnh “cải cách an sinh xã hội”. Phổ cập bảo hiểm y tế, bảo hiểm dưỡng lão, bảo hiểm an toàn lao động tại tất cả các DN, thí điểm y tế cơ sở cho cư dân thành phố có bệnh hiểm nghèo. Tám là, thực thi “cải cách thể chế y tế” [42]. * Hàn Quốc Có nhiều đơn vị có vốn đầu tư của Nhà nước như: - Doanh nghiệp của Chính phủ, Chính phủ chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với hoạt động của các doanh nghiệp này. Mục tiêu đầu tư vào doanh nghiệp này mang ý nghĩa dịch vụ công ích hơn là vì lợi nhuận. - Doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn. Nhà nước đầu tư trên 50% vốn điều lệ và giữ vai trò chi phối được tổ chức theo hình thức công ty, Nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp này chủ yếu vì mục tiêu kinh doanh và thu lợi nhuận. Ngoài hai loại hình chủ yếu trên, ở Hàn Quốc còn có: - Các doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước: chủ yếu là các công ty công ty cổ phần; trong đó cổ phần Nhà nước không giữ mức chi phối hoạt động theo Luật Công ty; - Doanh nghiệp có vốn đầu tư gián tiếp của Nhà nước: Phần lớn là các doanh ngiệp có quy mô nhỏ, làm các hoạt động mang tính chất đặc thù [18]. Hiện nay Chính phủ đã có nhiều biện pháp mới về kinh tế tài chính để phát triển đất nước: Thứ nhất, Quốc hội Hàn Quốc đã phê chuẩn hiệp định khung tự do thương mại ASEAN – Hàn Quốc (FTA) với lộ trình miễn thuế 90% hàng hoá từ ngày 1/1/2010, giảm thuế ít nhất 5% đối với 7% số mặt hàng tiếp theo vào năm 2016, số 3% còn lại sẽ bao gồm 200 mặt hàng nông sản được coi là những mặt hàng “đặc biệt nhạy cảm”. Trong thời gian tới nền kinh tế Hàn Quốc phải có các chính sách tạo ra các cơ hội đầu tư mới cho các DN do hiện nay cơ hội đầu tư đã không còn cao như giai đoạn trước đây. Chính vì vậy Chính phủ Hàn Quốc đã có những chiến lược và kế hoạch, tập trung vào một số lĩnh vực như cải thiện môi trường đầu tư, quản lý và điều tiết thị trường bất động sản, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, quản lý và điều tiết các dòng vốn nhằm ngăn ngừa khủng hoảng và tạo điều kiện thu hút đầu tư cho các DN trong xúc tiến thương mại. Thứ hai, về môi trường đầu tư: Chính phủ Hàn Quốc chủ trương tạo ra một môi trường đầu tư có tính khích lệ cao, tăng cường cho nghiên cứu và phát triển giáo dục để tạo thêm các cơ hội đầu tư mới trong tương lai. Thứ ba, về lĩnh vực bất động sản: chính sách đối với thị trường bất động sản được chú trọng nhằm hạn chế nguy cơ tăng giá trên thị trường bất động sản vốn là một khu vực rất nhạy cảm của nền kinh tế. Thứ tư, có nhiều biện pháp mạnh về các chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài: gần đây, Bộ Tài chính và Kinh tế Hàn Quốc đã đưa ra hàng loạt các giải pháp trong chương trình khuyến khích đầu tư ra nước ngoài cho các DN của Hàn Quốc. Mục tiêu của chương trình này là mở rộng quy mô và thị trường ra nước ngoài cho các DN đóng vai trò quan trọng nhằm củng cố khả năng cạnh tranh và cải thiện cơ cấu công nghiệp trong nước trong môi trường kinh doanh cạnh tranh toàn cầu đồng thời củng cố quá trình tái cơ cấu công nghiệp trong nước và chuyển sang lĩnh vực tạo ra giá trị thặng dư (R&D, phát triển sản phẩm) vốn dẫn tới nền kinh tế phát triển. Ba ngành mũi nhọn đã được chọn lựa cho các ưu tiên của chính phủ là phát triển nguồn năng lượng, các dự án cơ sở hạ tầng ra nước ngoài và ngành tài chính. Về chính sách quản lý luồng vốn: Hàn Quốc vẫn tiếp tục chính sách tự do hoá đối với các luồng vốn vào cũng như các luồng vốn ra. Tuy nhiên, chính phủ cũng vẫn có các chính sách can thiệp thông qua điều tiết trên thị trường ngoại hối khi có những biến động bất thường và nguy cơ bất ổn định tài chính. Những biện pháp can thiệp chỉ được thực hiện khi cần thiết do chi phí của những can thiệp này là khá cao. Về hỗ trợ xúc tiến thương mại: Trong bối cảnh cạnh tranh thương mại toàn cầu ngày càng khốc liệt, chính phủ Hàn Quốc đã rất chú trọng tới công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt là thương mại điện tử [41]. Hai yếu tố quan trọng giúp Hàn Quốc phát triển nhanh chóng là chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và chính sách tạo nguồn vốn hợp lý, trong đó đầu tư của nhà nước nói chung, của tín dụng đầu tư nhà nước nói riêng đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ các ngành kinh tế phục vụ chiến lược để huy động các nguồn lực, trong đó có vốn của tín dụng đầu tư nhà nước [36]. 1.3.2. Tình hình sử dụng vốn của các doanh nghiệp ở trong nước Nước ta đang trong quá trình thực hiện mạnh mẽ việc đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trước đây, trong nền kinh tế, hầu hết chỉ có các DNNN, phương thức đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp tiến hành theo cơ chế "Nhà nước cấp phát vốn, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm và kết quả sản xuất". Những chỉ tiêu pháp lệnh mà Nhà nước giao, doanh nghiệp phải chấp hành, tính kế hoạch được thực hiện tập trung cao độ, tự chủ tài chính của doanh nghiệp bị hạn chế. Việc tài trợ vốn cho các doanh nghiệp chủ yếu từ hai kênh là Ngân sách và Ngân hàng với việc cấp phát vốn và tín dụng ưu đãi. Trong thời kỳ này, hầu hết các doanh nghiệp sử dụng thừa vốn, chỉ có một số ít doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Doanh nghiệp được sử dụng vốn rộng rãi nên nảy sinh hiện tượng lãng phí vốn, vốn sử dụng từ Ngân sách không phải trả chi phí sử dụng; vốn nhà nước giao không được bảo toàn và phát triển. Hiệu quả sử dụng đồng vốn quá thấp, tình trạng sản xuất hàng hoá đơn điệu, nghèo nàn cũng diễn ra ở thời kỳ bao cấp này. Để tránh được hiện tượng nêu trên, ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, Nhà nước đã đưa ra chủ trương giao vốn, bảo toàn và phát triển vốn tại các DNNN, nghĩa là Nhà nước là đại diện chủ sở hữu tiến hành giao vốn. Sau mỗi thời kỳ, sẽ có sự kiểm tra so sánh giữa số vốn kiểm kê tại thời kiểm cuối năm cùng với hệ số trượt giá về tài sản hoặc vật tư, so với số vốn được giao ở thời điểm đầu năm có tính tới hệ số. Trong thời kỳ này, Nhà nước thực hiện việc thu toàn bộ khấu hao TSCĐ về cho Ngân sách, điều đó làm vốn của doanh nghiệp bị giảm dần, TSCĐ lạc hậu, ít được đổi mới thay thế. Đối với vốn lưu động và TSCĐ cũng bị giảm dần do thông qua việc nộp NSNN dưới dạng chênh lệch giá hoặc phân chia cho người lao động dưới hình thức tiền lương hay tiền thưởng, từ đó có thể thấy rằng cơ chế đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp còn mang tính bao cấp, chưa thực sự đúng với ý nghĩa là đầu tư vốn. - Khi Luật DNNN ra đời (1995), có một sự thay đổi quan trọng theo đó, quy định DNNN là tổ chức kinh tế được Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ; tổng công ty là DNNN độc lập, có tư cách pháp nhân, được nhà nước giao vốn, có trách nhiệm bảo toàn và sử dụng vốn có hiệu quả. Theo luật này thì DNNN chia ra làm hai loại là DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. Đối với DNNN hoạt động công ích, NSNN cấp 100% vốn và được hỗ trợ để thực hiện mục tiêu mà nhà nước giao. DNNN vẫn phải thực hiện các quy định về bảo toàn vốn. Doanh nghiệp được trích lập các khoản dự phòng như: dự phòng hàng hoá tồn kho, nợ phải thu khó đòi. Việc trích lập nợ phải thu khó đòi không vượt quá 20% tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp. - Từ khi có Luật DNNN sửa đổi (2003) và Nghị định 199/2004/NĐ-CP thì Nhà nước chỉ đầu tư vốn cho công ty nhà nước độc lập và Tổng công ty nhà nước mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn hoặc các doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ vốn chi phí được chuyển đổi từ Tổng công ty Nhà nước. Thông qua công ty Nhà nước, Nhà nước sẽ đầu tư vốn vào doanh nghiệp khác. Các công ty nhà nước lại sử dụng vốn nhà nước đầu tư, vốn vay và các khoản nợ phải trả khác để đầu tư, góp vốn thành lập các công ty con, công ty liên kết... Không khống chế tổng mức vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác: Công ty nhà nước có toàn quyền lựa chọn và quyết định việc đầu tư vốn vào doanh nghiệp khác trên nguyên tắc hiệu quả. Vốn của Nhà nước được đầu tư vào các công ty Nhà nước và các doanh nghiệp khác. Tính đến cuối tháng 12/2005, số lượng công ty nhà nước là 3.067 công ty và số lượng tổng công ty nhà nước là 101, một số tổng công ty được thành lập mới theo mô hình công ty mẹ, công ty con[17]. Vốn Nhà nước đầu tư cho các công ty kinh doanh có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, cung cấp dịch vụ, các sản phẩm công ích, trong đó nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận sau thuế chiếm 17,2% so với tổng số vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Vốn bổ sung trực tiếp từ ngân sách nhà nước chỉ bằng 1,4% số vốn hiện có. Đại bộ phận các công ty Nhà nước hàng năm được bổ sung vốn từ lợi nhuận sau thuế. Tổng số vốn Nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần là 17.910 tỷ đồng, vốn Nhà nước đầu tư vào 1.941 doanh nghiệp có loại hình sở hữu khác (cuối 2004) doanh nghiệp có vốn Nhà nước đầu tư trên 51% vốn điều lệ là 35%; doanh nghiệp có vốn Nhà nước đầu tư dưới mức 50% vốn điều lệ chiếm 65%. Tuy số lượng công ty nhà nước có giảm, nhưng các công ty nhà nước đã giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Năm 2005 các DNNN đã tạo ra 680.000 tỷ đồng doanh thu, đóng góp 40% GDP cho Nhà nước, tỷ suất lợi nhuận vốn tăng 16% so với năm 2004. Số doanh nghiệp có lãi là 83%, số doanh nghiệp hoà vốn là 7%. Các doanh nghiệp, công ty Nhà nước có lợi nhuận cao tập trung nhiều ở các ngành như: Bưu chính viễn thông, dầu khí, cao su, điện lực, rượu, bia... Hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước tăng lên là một điều đáng mừng, song, một số lĩnh vực, một số ngành, một số tổng công ty Nhà nước, hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn cũng còn kém, một số tổng công ty còn để mất vốn, chi phí sản xuất quá cao, nợ phải thu, nợ khó đòi phát sinh nhiều. Năm 2005, nợ phải trả tăng từ 1% đến 3% so với năm 2004; nợ quá hạn phải trả chiếm khoảng 56.000 tỷ đồng. Có tới 20 tổng công ty hiệu quả kinh doanh thấp, những ngành sử dụng vốn kém hiệu quả như nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở như: dệt, giấy, dâu tằm tơ, mía đường, thuỷ sản, cầu đường. Hiện nay, quá ít DNNN có đủ vốn tự có theo quy định và thực tế hơn 50% vốn tự có không phát huy hiệu quả, đang nằm trong tài sản chờ thanh lý (38% thiết bị chờ thanh lý) và trong nợ khó đòi. Hầu hết DNNN có tổng tài sản gấp 10 đến 20 lần vốn tự có, tổng nợ ngân hàng bình quân gấp 6 đến 8 lần, trong lĩnh vực thương mại, xây dựng gấp 10 đến 20 lần. Trong khi hệ số an toàn vốn vay / vốn tự có ở Mỹ và EU từ 2,5 – 3,5 lần, ở Singapo và Thái Lan từ 3 – 4 lần [17]. Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là vấn đề các doanh nghiệp đều phải quan tâm; không chỉ đối với vốn doanh nghiệp tự huy động mà cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; không thể sử dụng vốn với bất cứ giá nào, hoặc sử dụng một cách tràn lan kém hiệu quả. Chương 2 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY LÂM CÔNG NGHIỆP LONG ĐẠI Ngày 24 tháng 02 năm 1982 đơn vị được thành lập và trực thuộc Bộ Lâm nghiệp theo Quyết định số 123/QĐ- BLN của Bộ Lâm nghiệp với tên gọi ban đầu là Liên hiệp Lâm Công nghiệp Long Đại. Ngày 13 tháng 8 năm 1996 Liên hiệp Lâm Công nghiệp Long Đại đổi tên thành Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại trực thuộc UBND tỉnh Quảng Bình theo Quyết định số 933/ QĐ-UB của UBND tỉnh Quảng Bình. Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại là doanh nghiệp hạng I và hoạt động theo luật Doanh nghiệp Nhà nước. Tên công ty: Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại. Trụ sở chính: Tiểu khu 11, Đồng Sơn - Đồng Hới - Quảng Bình. Điện thoại: 052.826026 - 052.826115 Fax: 052.826347 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Từ khi thành lập đến nay, Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại đã không ngừng phát triển, từng bước đạt được những thành quả đáng kể trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty đã vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất của thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường và đã khẳng định được vị thế của mình. Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, có trụ sở chính đặt tại tiểu khu 11, phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Hiện nay, Công ty có các đơn vị cơ sở hạch toán báo sổ sau đây: - Lâm trường Khe Giữa; - Lâm trường Trường Sơn; - Lâm trường Ba Rền; - Lâm trường Long Đại; - Lâm trường Kiến Giang; - Lâm trường Đồng Hới; - Lâm trường Rừng thông Bố Trạch; - Xí nghiệp chế biến Nhựa thông; - Xí nghiệp Khai thác Vận chuyển lâm sản; - Xí nghiệp Cầu đường; - Xí nghiệp chế biến gỗ Đồng Hới; - Xí nghiệp Vật tư kinh doanh Lâm đặc sản; - Xưởng chế biến lâm sản Nam Long; - Xí nghiệp Khai thác chế biến vàng Xà Khía. Với sự nỗ lực của Ban Giám đốc, các cấp quản trị và toàn bộ tập thể lao động đã mang lại cho Công ty nhiều thành quả đáng phấn khởi, cụ thể: - Doanh thu và lợi nhuận tăng dần qua hàng năm; - Thị phần được mở rộng; - Sản phẩm, hàng hoá do Công ty sản xuất và kinh doanh ngày càng được thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài chấp nhận và tin cậy về chất lượng, mẫu mã, giá cả; - Về mặt xã hội, Công ty đã giải quyết việc làm được một số lượng khá lớn ở trên địa bàn tỉnh nhà, đến nay Công ty có hơn 1.000 lao động thường xuyên, trong đó cán bộ và nhân viên quản lý khoảng 150 người. 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại là một đơn vị kinh doanh tổng hợp trên các lĩnh vực: trồng rừng, quản lý và bảo vệ rừng; khai thác và chế biến lâm sản; kinh doanh các mặt hàng lâm sản và các dịch vụ khác [3]. Do đó, Công ty có các chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Trồng rừng, quản lý và bảo vệ rừng (Bao gồm rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất); - Khai thác và chế biến gỗ; - Khai thác và chế biến nhựa thông; - Sản xuất vật liệu xây dựng; - Thăm dò và khai thác khoáng sản; - Kinh doanh các mặt hàng lâm sản và các dịch vụ khác [3]. Sản xuất, kinh doanh và thực hiện cung ứng dịch vụ thuộc các lĩnh vực nói trên cho thị trường nội tỉnh, trong toàn quốc và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, một mặt giải quyết các nhu cầu quốc kế dân sinh cho nhân dân tỉnh Quảng Bình nói riêng và toàn quốc nói chung; mặt khác tăng kim ngạch xuất khẩu cho địa phương và cho đất nước góp phần cân bằng cán cân thương mại và ổn định kinh tế vĩ mô. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty 2.1.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và mạng lưới quản lý của Công ty 2.1.3.1.1. Cơ cấu tổ chức mạng lưới quản lý của Công ty Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại có cơ cấu tổ chức mạng lưới bao gồm [3]: - Văn phòng Công ty; - Các đơn vị trực thuộc: * 07 Lâm trường; * 04 Xí nghiệp Chế biến; * 02 Xí nghiệp Khai thác; * 01 Xí nghiệp Cầu đường. 2.1.3.1.2. Bộ máy quản lý của Công ty Bộ máy quản lý của Công ty bao gồm: - Ban giám đốc: có Giám đốc và 02 Phó Giám đốc; - Phòng Tài chính - Kế toán; - Phòng Tổ chức - Hành chính; - Phòng Kỹ thuật quản lý, bảo vệ rừng; - Ban quản lý Trồng rừng nguyên liệu. Bộ máy quản lý của Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại được xây dựng dựa trên các yêu cầu, nguyên tắc và điều kiện cụ thể của Công ty, nên hoạt động của nó đã đạt được kết quả nhất định. Cơ cấu tổ chức bộ máy được tổ chức theo mô hình trực tuyến - chức năng và được thể hiện cụ thể qua Sơ đồ 2.1 dưới đây. Giám đốc Các XN Kinh doanh Các XNKTLS Phó giám đốc kinh doanh Phó giám đốc kỹ thuật Phòng Hành chính - Tổ chức Phòng Tài chính - Kế toán Phòng KTQLBVR Ban QLTRNL XN Cầu đường Các Lâm trường Các XNCBLS Quan hệ trực tuyến; Quan hệ chức năng. Sơ đồ 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty 2.1.3.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng, ban trong Công ty 2.1.3.2.1. Giám đốc Công ty Là người đứng đầu Công ty được UBND tỉnh Quảng Bình ra quyết định bổ nhiệm trên cơ sở xem xét năng lực, trình độ tổ chức, quản lý và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị do mình quản lý. Giám đốc là người thay mặt Nhà nước quản lý vốn, tài sản của Công ty, đồng thời là người đại diện cho công nhân viên chức khi làm nghĩa vụ với Nhà nước, mang lại quyền lợi cho mọi cán bộ công nhân viên trong Công ty. 2.1.3.2.2. Phó Giám đốc phụ trách nội chính, hoạt động chế biến Là người giúp việc cho Giám đốc, thừa ủy quyền của Giám đốc trong một số công việc khi được Giám đốc uỷ quyền. Phó giám đốc này phụ trách mảng hoạt động chế biến của công ty, phụ trách công tác nội chính. 2.1.3.2.3. Phó Giám đốc phụ trách Quản lý, bảo vệ rừng Là người giúp việc cho Giám đốc, thừa ủy quyền của Giám đốc trong một số công việc khi được Giám đốc uỷ quyền; phụ trách khâu quản lý, bảo vệ rừng. Các phòng, ban chức năng của Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại được tổ chức theo mô hình cơ cấu trực tuyến - chức năng, dựa trên cơ sở những yêu cầu và tính chất của công việc quản lý sản xuất, kinh doanh tại Công ty và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty. 2.1.3.2.4. Phòng Tài chính - Kế toán Thực hiện công tác tài chính-kế toán theo Luật kế toán do Nhà nước ban hành; nghiên cứu và tham mưu cho Giám đốc trong công tác quản lý, sử dụng và điều tiết nguồn vốn của Công ty; tập hợp các báo cáo kế toán - thống kê, phân tích hoạt động kinh tế, cung cấp thông tin tổng thể về tình hình hoạt động SXKD và tình hình tài chính của Công ty cho Giám đốc, cho các cơ quan chức năng theo chế độ quy định; lập kế hoạch tài chính, kế hoạch huy động vốn, xác định nhu cầu vốn lưu động hàng năm. Kiểm tra, hướng dẫn các hoạt động tài chính của các đơn vị trực thuộc theo chế độ tài chính và các quy định nội bộ. 2.1.3.2.5. Phòng Kỹ thuật, quản lý bảo vệ rừng Lập kế hoạch về công tác quản lý, bảo vệ rừng cho toàn công ty; xây dựng định mức kỹ thuật chế biến cho từng loại lâm sản; xây dựng kế hoạch khai thác lâm sản để tham mưu cho Giám đốc đưa ra quyết định về phương án sản xuất, kinh doanh và quản lý có hiệu quả. Theo dõi tình hình thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy rừng, biện pháp ngăn chặn tình trạng chặt phá, đốt rừng, khai thác rừng trái phép... 2.1.3.2.6. Phòng Tổ chức - Hành chính Thực hiện và chịu trách nhiệm trong việc theo dõi quản lý hồ sơ cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. Nghiên cứu đệ trình Ban giám đốc cải tiến tổ chức bộ máy quản trị. Tham mưu trực tiếp cho Giám đốc về tổ chức, sắp xếp và tuyển dụng lao động, công tác đề bạt cán bộ, thuyên chuyển và điều động cán bộ, nhân viên trong nội bộ Công ty một cách hợp lý. Tổ chức công tác an ninh quốc phòng, khánh tiết, lễ tân. Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và đào tạo lại, thực hiện sát hạch nâng bậc lương, tuyển chọn nhân viên cho giám đốc Công ty. 2.1.3.2.7. Ban quản lý Trồng rừng nguyên liệu Theo dõi công tác quy hoạch, trồng rừng nguyên liệu cho từng loại: rừng phòng hộ, rừng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng của từng vùng rừng trồng, nghiên cứu đề xuất giám đốc Công ty về việc mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất trồng rừng nguyên liệu. 2.1.3.2.8. Các đơn vị trực thuộc Đứng đầu là Giám đốc của mỗi đơn vị hoạt động tuân thủ theo Quy chế nội bộ và chịu sự điều hành trực tiếp của Giám đốc Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại. 2.1.4. Đặc điểm về sản phẩm và tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty Lĩnh vực kinh doanh chính của công ty là nghề rừng, bao gồm khai thác gỗ rừng tự nhiên, trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng; chế biến gỗ, chế biến nhựa thông; thăm dò và khai thác khoáng sản…ngoài ra còn sản xuất vật liệu xây dựng [3]. Trong những năm gần đây, chỉ tiêu khai thác gỗ rừng tự nhiên ngày càng giảm, vì vậy công ty đặt ra mục tiêu chuyển đổi sản xuất kinh doanh theo hướng chú trọng phát triển trồng rừng nguyên liệu, đẩy mạnh khai thác và chế biến nhựa thông, chế biến các sản phẩm từ rừng trồng…đẩy mạnh liên doanh, hợp tác tìm kiếm đối tác để thực hiện chiến lược trên. Đặc điểm sản phẩm: do lĩnh vực kinh doanh rộng nên, sản phẩm hàng hoá của Công ty là rất đa dạng và phức tạp. Với đặc điểm này việc tổ chức SXKD của Công ty được chia thành các đơn vị hoạt động tương đối độc lập. Sản phẩm được sản xuất, kinh doanh ở nhiều địa điểm. Do đó, trong quá trình SXKD cơ sở VCKT, lao động của Công ty phải có sự điều chuyển giữa các đơn vị. Với đặc điểm sản phẩm của Công ty mang tính chất đa dạng hoá, Công ty phải sử dụng nhiều loại dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị, vật tư và lao động đòi hỏi phải được đào tạo theo yêu cầu tương ứng. Đây là một vấn đề cần được quan tâm và quản lý chặt chẽ, góp phần hạ thấp chi phí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD cho Công ty. Các đặc điểm này chi phối rất lớn đến hiệu quả SXKD của Công ty thể hiện ở một số điểm sau: - Các đơn vị nằm trên địa bàn rộng phi tập trung hoá, điều kiện giao thông đi lại khó khăn do vậy nếu quản lý về tài sản cũng như về nhân lực không chặt chẽ sẽ mang lại năng suất lao động thấp, dễ thất thoát tài sản, vật tư và tiền vốn dẫn đến thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả. - Một số mặt hàng kinh doanh chịu sự phụ thuộc vào tính chất mùa vụ và thời tiết nên việc lập kế hoạch huy động vốn gặp nhiều khó khăn. Bởi vì, có thời điểm Công ty cần phải huy động một lượng vốn lớn để tranh thủ thời tiết, có thời điểm nhu cầu thị trường giảm, vốn lại bị ứ đọng, có khi hàng hoá không vận chuyển hay lưu thông được do thời tiết xấu gây ra. Vì vậy, công tác huy động vốn đòi hỏi sẽ phải đi sát thực tế và đáp ứng nhu cầu vốn phát sinh hàng năm. - Sản phẩm của Công ty đa dạng hoá, do đó Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh, nhất là các chiến lược kinh doanh dài hạn. Để khắc phục khó khăn này Công ty phải không ngừng hoàn thiện mình, tạo ra uy tín trên thương trường, nâng cao vị thế của DN. 2.1.5. Đặc điểm về lao động Hoạt động trong những năm qua của Công ty tương đối ổn định, nhiều sản phẩm được khách hàng biết đến và thừa nhận về chất lượng, về giá bán. Tổng số lao động có trên 1.000 người. Do đặc thù của ngành nghề kinh doanh, nên lực lượng lao động của DN đã có những biến động nhất định. Tuy nhiên, so với quy mô của DN thì sự biến động là không lớn. Tình hình sử dụng lao động của Công ty qua ba năm 2004 - 2006 được thể hiện ở Bảng 2.1. Qua số liệu ở Bảng 2.1 cho thấy rằng, lực lượng lao động của Công ty có những biến động cả về số lượng và về chất lượng. Đến cuối năm 2004 số lượng lao động toàn Công ty sử dụng là 1158 người trong đó số đã qua đào tạo (từ trung cấp trở lên) chiếm khoảng 21,07%; đến cuối năm 2005 tổng số lao động là 1153 người trong đó đã qua đào tạo chiếm khoảng 21,67%; song đến cuối năm 2006 số lượng lao động lại giảm xuống còn 1050 người trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo chiếm 24,85% . Sở dĩ có sự biến động như vậy là do Công ty đã tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại lao động, mặt khác Công ty đã xác định chiến lược nâng cao sức cạnh tranh thông qua đầu tư kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất đúng mức nên trong năm 2006 đã giải quyết chế độ cho 103 người thuộc diện dôi dư và đã đủ tuổi nghỉ hưu. Bảng 2.1: Tình hình lao động của Công ty giai đoạn 2004-2006 Nội dung chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 2005/2004 2006/2005 2006/2004 +/- (người) (%) +/- (người) (%) +/- (người) (%) Tổng số lao động 1.158 100,00 1.153 100,00 1.050 100,00 -5 -0,43 -103 -8,93 -108 -9,33 1 Theo tính chất giới tính - LĐ nam 812 70,121 820 71,1188 722 68,762 8 0,99 -98 -11,95 -90 -11,08 - LĐ nữ 346 29,879 343 29,7485 328 31,238 -3 -0,87 -15 -4,37 -18 -5,20 2 Theo tính chất lao động - Lao động trực tiếp 1.017 87,824 1.012 87,771 910 86,667 -5 -0,49 -102 -10,08 -107 -10,52 - Lao động gián tiếp 141 12,176 141 12,229 140 13,333 0 0,00 -1 -0,71 -1 -0,71 3 Theo trình độ lao động - Đại học 113 9,76 115 9,97398 126 12 2 1,77 11 9,57 13 11,50 - Trung cấp (gồm TC KT) 131 11,313 135 11,7086 135 12,857 4 3,05 0 0,00 4 3,05 - Công nhân phổ thông 914 78,929 903 78,3174 789 75,143 -11 -1,20 -114 -12,62 -125 -13,68 Nguồn số liệu: Phòng Tổ chức – Hành chính Công ty 41 Mặc dầu, lực lượng lao động có sự biến động qua các năm, song tỷ trọng số lượng cán bộ trình độ đại học ổn định và có chiều hướng tăng lên (năm 2004 chiếm 9,76%; năm 2005 là 9,97% và năm 2006 chiếm 12%); chứng tỏ chất lượng của đội ngũ càng được nâng cao. Trong khi đó tỷ trọng lao động phổ thông có xu hướng ngày một giảm: năm 2004 chiếm 78,93%; năm 2005 giảm xuống còn 78,33% và đến năm 2006 tiếp tục giảm và còn 75,15%. Như vậy, Công ty đã chăm lo công tác đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân nhằm nâng cao năng suất lao động, đồng thời tạo điều kiện cho họ tiếp cận kỹ thuật tiên tiến trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Tổng số lao động bình quân đến cuối năm 2006 là 1050 người, trong đó đội ngũ cán bộ quản lý có 140 người; đa số là lao động nam (86,66%), khoảng 12% cán bộ có trình trung cấp trở lên. Công ty cũng đã chú trọng công tác đào tạo lực lượng lao động, nếu như năm 2004 số công nhân có trình độ trung cấp (chủ yếu là trung cấp kỹ thuật) chiếm 11,31% thì đến cuối năm 2006 con số này đã tăng lên 12,85%. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo phần lớn được đào tạo cơ bản, thích ứng với cơ chế thị trường nên nắm bắt tình hình kinh doanh tương đối nhanh nhạy. Tuy nhiên, Công ty cũng có một số khó khăn: đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo quá ít (tính đến năm 2006 lực lượng lao động có trình độ trung cấp chiếm 12,85%); số chưa qua đào tạo tuy có giảm, song vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn (đến năm 2006 chiếm tỷ lệ 75,15%), hơn nữa nhiều người trong số đó trình độ văn hóa thấp nên việc tiếp thu kỹ thuật công nghệ mới sẽ gặp khó khăn. 2.1.6. Đặc điểm về vốn và cơ chế quản lý tài chính nội bộ 2.1.6.1. Đặc điểm về vốn Sự phát triển nguồn vốn kinh doanh của Công ty được thể hiện qua biểu đồ 2.1. Biểu đồ 2.1: Sự biến động nguồn vốn của Công ty giai đoạn 2002 – 2006 Số liệu cho thấy nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn: năm 2002 chiếm 52%; năm 2004 là 50,3% và năm 2006 tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức 46,38%. Tổng nguồn vốn qua các năm tăng lên khá nhanh, bình quân mỗi năm tăng 4,644 tỷ đồng tương ứng với giá trị tương đối là 8,78%. Về cơ cấu nguồn vốn có những biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi, tỷ trọng nguồn vốn vay tăng: năm 2004 là 49,7%; năm 2005 là 53,02% và năm 2006 lên 53,62% trong khi đó tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu lại có xu hướng giảm xuống: năm 2004 chiếm 50,3% sang năm 2005 là 46,98% và đến năm 2006 còn 46,38% trong tổng số nguồn vốn. Mặc dù trong những năm qua, để đảm bảo đủ vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ yếu Công ty sử dụng vốn vay của ngân hàng thương mại. Trong đó chủ yếu là vay ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động là rất lớn: năm 2004 tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ chiếm 85,35%; năm 2005 tỷ trọng này là 98,87% và năm 2006 là 98,63%. 2.1.6.2. Cơ chế quản lý tài chính nội bộ Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm và từ đặc thù về tổ chức sản xuất-kinh doanh, công ty đã xây dựng cơ chế quản lý theo hướng tập trung - linh hoạt - công khai, nhằm lành mạnh hoá và tăng năng lực tài chính cho đơn vị. - Tính tập trung được biểu hiện: Phòng Tài chính - Kế toán của Công ty nghiên cứu và tham mưu cho Giám đốc trong công tác quản lý, sử dụng và điều tiết nguồn vốn của toàn bộ công ty; cân đối các nguồn để lập kế hoạch tài chính, kế hoạch vay vốn và điều chuyển vốn cho các đơn vị theo kế hoạch sản xuất kinh doanh đã xác định; kiểm tra, đôn đốc và trực tiếp chủ trì đối chiếu và thu hồi nợ, thanh quyết toán công nợ. Kịp thời phát hiện các đơn vị SXKD kém hiệu quả để đề xuất Giám đốc có biện pháp xử lý. - Tính linh hoạt được thể hiện: Công ty giao trực tiếp cho các đơn vị trực thuộc lập kế hoạch nhu cầu vốn trên cơ sở kế hoạch tài chính của toàn Công ty. Các đơn vị này lập kế hoạch vốn, đề nghị và được Công ty điều chuyển vốn theo kế hoạch sản xuất, kinh doanh đúng tiến độ mục tiêu kế hoạch đề ra. Các đơn vị trực thuộc thực hiện chế độ hạch toán nội bộ bằng hình thức báo sổ, tự mua vật tư và trả lương cho người lao động và tự chịu trách nhiệm về kết quả SXKD của mình: lãi hưởng, lỗ chịu. Với cơ chế này thực sự phát huy được tính chủ động sáng tạo của các đơn vị trực thuộc, tiết kiệm được chi phí sản xuất, đồng vốn được sử dụng hợp lý và có hiệu quả hơn. - Tính công khai tài chính thể hiện qua việc công khai minh bạch về tình hình tài chính của các đơn vị trực thuộc và của Công ty trong các dịp hội nghị công nhân viên chức đầu năm, hội nghị tổng kết đánh giá thực hiện kế hoạch, hàng quý, sáu tháng và hàng năm của Công ty. Đặc điểm về cơ chế quản lý tài chính nội bộ của Công ty sẽ có những ảnh hưởng tích cực trong việc quản lý điều hành nói chung và quản lý chi phí SXKD nói riêng. Nếu các đơn vị thực hiện đúng theo định mức kinh tế kỹ thuật và theo phương hướng hạ thấp giá thành của Công ty thì nhất định sẽ tăng được năng lực cạnh tranh và tăng lợi nhuận, ngược lại sẽ gây ra các tổn thất, mất mát và lãng phí vốn làm tăng giá thành bất hợp lý. 2.1.7. Đặc điểm về trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ Do địa bàn hoạt động của công ty phân bố rộng, nhiều đơn vị ở vùng sâu vùng xa, giao thông đi lại rấy khó khăn. Song cơ sở hạ tầng ở đây chưa được Nhà nước đầu tư nên thực sự đó là một trở ngại rất lớn mà công ty phải tự gánh vác. Mức độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty được thể hiện qua Bảng 2.2 sau đây: Bảng 2.2: Mức độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ năm 2006 TT Tên tài sản Nguyên giá GTCL đến cuối năm 2006 Giá trị (tr.đ) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr.đ) Tỷ trọng (%) Tổng trị giá 39.270 100,00 19.357 100,00 1 Nhà cửa vật kiến trúc 15.731 40,05 7.797 40,28 2 Phương tiện vận tải, vật truyền dẫn 7.529 19,17 2.342 12,10 3 Máy móc thiết bị 12.024 30,62 6.204 32,05 4 Dụng cụ quản lý 3.986 10,16 3.014 15,57 Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Công ty Như vậy, mức độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ cho toàn bộ Công ty còn gặp nhiều khó khăn, nếu xem xét theo giá trị đầu tư ban đầu (nguyên giá): nhà cửa vật kiến trúc (chủ yếu là văn phòng làm việc) chiếm 40,05% trong tổng số; phương tiện vận tải vật truyền dẫn chiếm 19,17%; máy móc thiết bị 30,62%; dụng cụ phục công tác quản lý 10,16%. Điều này thể hiện Công ty đã đầu tư TSCĐ chủ yếu tập trung cho nhà cửa vật kiến trúc; đầu tư cho máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ còn hạn chế. Nếu xem xét giá trị còn lại vào cuối năm, cho thấy năng lực sản xuất hiện tại của TSCĐ chưa được 50%, trong đó đặc biệt là phương tiện vận tải giá trị còn lại quá thấp ( 31,1 %). Trong thời gian tới, công ty cần quan tâm hơn nữa vấn đề đầu tư và nâng cấp TSCĐ; đổi mới máy móc thiết bị, đẩy mạnh việc đưa dây chuyền công nghệ mới vào sản xuất. Đây là một trong những khó khăn được coi là lớn nhất của Công ty trong giai đoạn hiện nay. 2.2. ĐỐI THỦ CẠNH TRANH Cạnh tranh là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ trong tình hình hiện nay khi mà xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu của khách hàng cũng đòi hỏi khắt khe hơn. Trên thị trường cả nước, hiện nay có 289 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp và các dịch vụ liên quan, trong đó 107 DN có quy mô vốn từ 10 tỷ đồng trở lên [43] . Các DN hoạt động trong lĩnh vực này có tổng số vốn kinh doanh là 3.292 tỷ đồng, trong đó giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn là 1.467 tỷ đồng; tổng số lao động có 22.025 người; tổng doanh thu 1.698 tỷ đồng [43]. Đặc biệt một đối thủ trên cùng địa bàn là Công ty Lâm Công nghiệp Bắc Quảng Bình. Quy mô và hiệu quả hoạt động của công ty trong năm 2006 được thể hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản như sau: Tổng nguồn vốn là 91.370 triệu đồng, trong đó vốn chủ sở hữu là 43.263 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 47,35%; giá trị TSCĐ là 30.999 triệu đồng, chiếm 33,92%; tổng doanh thu đạt 17.036 triệu đồng; lợi nhuận sau thuế 117 triệu đồng; hiệu suất sử dụng vốn là 0,186 lần; tỷ suất sinh lợi trên doanh thu đạt 0,686%; tỷ suất sinh lợi vốn kinh doanh đạt 0,128%; các chỉ tiêu hiệu quả của Công ty đạt ở mức rất thấp, sử dụng vốn chưa có hiệu quả. 2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN Để giải quyết các mục tiêu đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng các phương pháp sau: 2.3.1. Phương pháp luận Luận văn vận dụng cách tiếp cận theo phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; vận dụng quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới để làm rõ thực trạng. Từ đó rút ra một số nhận xét và đề xuất các giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty. 2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu Việc điều tra và thu thập số liệu được tiến hành theo phương pháp điều tra thu thập các số liệu thứ cấp về tình hình sử dụng vốn của Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, tỉnh Quảng Bình và một số đơn vị có liên quan. Chọn lọc tổng hợp từ các tài liệu sau: Các báo cáo tài chính, các bảng cân đối kế toán, các báo cáo về tình hình hoạt động SXKD hàng năm của Công ty; Các báo cáo quyết toán định kỳ của các đơn vị thành viên trong Công ty; Các báo cáo của Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Bình; Các báo cáo tổng kết năm của Cục Thuế Quảng Bình, Sở Tài chính Quảng Bình. 2.3.3. Phương pháp phân tích Dựa vào đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp chính sau đây: 2.3.3.1. Phương pháp thống kê mô tả Dùng các chỉ tiêu tương đối, số tuyệt đối và số bình quân để đánh giá sự biến động cũng như mối quan hệ giữa các hiện tượng. 2.3.3.2. Phương pháp thống kê so sánh, đối chiếu Được sử dụng nhằm mục đích so sánh, đối chiếu, đánh giá và kết luận về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Từ đó tiến hành so sánh hệ thống các chỉ tiêu qua các năm nghiên cứu. 2.3.3.3. Phương pháp thay thế liên hoàn Phương pháp này dùng để lượng hoá sự ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả và hiệu quả sử dung vốn của Công ty. Nội dung của phương pháp thay thế liên hoàn: Gọi K1 và K0 là kết quả kỳ phân tích và kỳ gốc; Gọi a1, a0, b1, b0 và c1, c0 lần lượt là các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích. Đối tượng phân tích: * Chênh lệch tuyệt đối: ΔK = a1b1c1 – a0b0c0 Mức độ ảnh hưởng của nhân tố a: Δa = (a1 – a0)b0c0 Mức độ ảnh hưởng của nhân tố b: Δb = a1(b1 – b0)c0 Mức độ ảnh hưởng của nhân tố c: Δc = a1b1(c1 – c0) Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố: Δa + Δb + Δc = ΔK * Chênh lệch tương đối: 2.3.3.4. Phương pháp số chênh lệch Phương pháp này dùng để lượng hoá sự ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu suất sử dụng vốn của Công ty. 2.3.3.5. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo Giúp thu thập, chọn lọc những thông tin từ những ý kiến trao đổi và đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh của Công ty. 2.3.3.6. Phương pháp toán kinh tế * Dự báo bằng phương trình đường thẳng thống kê: Phương trình dự báo: Các hệ số a, b được tính như sau: ; Trong đó: t - Thứ tự thời gian - Nhu cầu dự báo trong tương lai n - Số lượng các số liệu có được trong quá khứ Y - Số liệu nhu cầu thực tế trong quá khứ * Dự báo bằng phương trình đường hồi quy tương quan tuyến tính: Phương trình dự báo: Yt = ax + b Trong đó: Yt - Lượng nhu cầu dự báo x - Biến độc lập (nhân tố ảnh hưởng đến Yt) a, b - Các hệ số của phương trình Các hệ số được tính như sau: ; * Giải bài toán quy hoạch tuyến tính để tìm phương án tối ưu: Mô hình bài toán như sau: - Hàm mục tiêu f(x) = a1x1 + a2x2 + ... + anxn → max (hoặc min) Trong đó a1, a2, ..., an là các hệ số; x1, x2, ..., xn là các biến độc lập. - Các điều kiện ràng buộc cho bởi hệ phương trình: a1x1 + a2x2 + a3x3 + a4x4 + ..... ≥ (≤) b1 (1) a1x1 + a2x2 + a3x3 + a4x4 + ..... ≥ (≤) b2 (2) a1x1 + a2x2 + a3x3 + a4x4 + ..... ≥ (≤) b3 (3) ........................................................................ xi ≥ 0 (i: 1,n) Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp mô hình hóa nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu như: mô hình mô tả và giải thích, mô hình hướng dẫn, thực hiện, áp dụng … Chương 3 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY LÂM CÔNG NGHIỆP LONG ĐẠI 3.1. TÌNH HÌNH VỔN VÀ NGUỒN VỐN CỦA CÔNG TY 3.1.1. Quy mô, cơ cấu vốn của Công ty Để xét quy mô, cơ cấu vốn của Công ty giai đoạn 2004 - 2006 chúng ta căn cứ vào số liệu ở bảng 3.1. Từ đó cho thấy, tổng số vốn của công ty năm 2004 là 53.762 triệu đồng, năm 2005 tăng lên 9.029 triệu đồng (tương ứng với 16,79%). Đến năm 2006, tổng tài sản công ty đạt 65.196 triệu đồng, so với năm 2005 tăng 2.405 triệu đồng (tương ứng với 3,83%), nhưng so với năm 2004 tăng 11.434 triệu đồng (tương ứng với 21,27%). Điều đó có thể đánh giá chung rằng, quy mô về tài sản của công ty ngày càng gia tăng qua các năm. Nguyên nhân quy mô vốn tăng do: Tài sản cố định và đầu tư dài hạn đều tăng qua các năm; cụ thể năm 2005 tăng so với năm 2004 là 529 triệu đồng (tương ứng 2,23%), năm 2006 so với năm 2005 tăng 8.702 triệu đồng (tương ứng với 37,25%) và so với năm 2004 tăng 9.231 triệu đồng (tương ứng với 40,43%). Về cơ cấu, tỷ trọng của nhóm tài sản này cũng có xu hướng tăng lên, từ 42,47% năm 2004 tăng lên 49,18% trong năm 2006. Trong khi đó, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng số tài sản, lại có xu hướng giảm xuống qua các năm. Điều này chứng tỏ thời gian qua công ty đã chú trọng tăng cường cơ sở vật chất, song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Hàng tồn kho tăng lên qua các năm: năm 2004 là 11.171 triệu đồng, năm 2005 là 11.329 triệu đồng và năm 2006 tăng lên 14.148 triệu đồng, tăng 24,88% so với năm 2005 và tăng 26,65% so với năm 2004. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp thu hồi công nợ chưa tốt và chưa có các biện pháp phù hợp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá. Từ đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc quay vòng vốn lưu động của doanh nghiệp. Bảng 3.1: Biến động quy mô, cơ cấu vốn của Công ty giai đoạn 2004 - 2006 Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh Số tiền (tr.đ) Tỷ trọng (%) Số tiền (tr.đ) Tỷ trọng (%) Số tiền (tr.đ) Tỷ trọng (%) 2005/2004 2006/2005 2006/2004 +/- % +/- % +/- % Tổng tài sản 53.762 100,00 62.791 100,00 65.196 100,00 9.029 16,79 2.405 3,83 11.434 21,27 A. TSLĐ và ĐTNH 30.929 57,53 39.429 62,79 33.132 50,82 8.500 27,48 -6.297 -15,97 2.203 7,12 I. Tiền 805 2,60 3.612 9,16 5.483 16,55 2.807 348,70 1.871 51,80 4.678 581,12 II. Các khoản phải thu 13.683 44,24 20.286 51,45 11.799 35,61 6.603 48,26 -8.487 -41,84 -1.884 -13,77 III. Hàng tồn kho 11.171 36,12 11.329 28,73 14.148 42,70 158 1,41 2.819 24,88 2.977 26,65 IV. TSLĐ khác 5.270 17,04 4.202 10,66 1.702 5,14 -1.068 -20,27 -2.500 -59,50 -3.568 -67,70 B. TSCĐ và ĐTDH 22.833 42,47 23.362 37,21 32.064 49,18 529 2,32 8.702 37,25 9.231 40,43 I. TSCĐ 22.833 42,47 23.362 37,21 32.064 49,18 529 2,32 8.702 37,25 9.231 40,43 Tỷ suất đầu tư (%) 42,5 - 37,2 - 49,2 - -5,3 - 12,0 - 6,7 - Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty 52 Các khoản phải thu và hàng tồn kho chiếm tỷ lệ lớn trong tài sản lưu động: năm 2004 chiếm 80,36%, năm 2005 chiếm 80,18% và năm 2006 chiếm 78,31%; trong đó: các khoản phải thu năm 2006 so với năm 2005 giảm 8.487 triệu đồng (tương ứng với 41,84%), so với năm 2004 giảm 1.884 triệu đồng (tương ứng với 13,77%) nhưng vẫn còn rất lớn (cuối năm 2006 là 11.799 triệu đồng). Điều này dẫn đến, Công ty có thể gặp rủi ro trong thanh toán và thu đòi công nợ, làm giảm vòng quay của vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung. Qua việc phân tích vốn, chúng ta xác định được tỷ suất đầu tư. Tỷ suất đầu tư phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc, thiết bị của doanh nghiệp nói riêng. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Số liệu ở bảng 3.1 cho thấy tỷ suất đầu tư có xu hướng tăng lên nhưng không ổn định qua các năm. Cụ thể năm 2004 là 42,47%, năm 2005 chỉ còn 37,2% nhưng đến năm 2006 lại đạt 49,18%. Rõ ràng năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có xu hướng tăng lên, tuy còn thấp nhưng phù hợp với quá trình đổi mới và xu hướng phát triển sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo. 3.1.2. Quy mô, cơ cấu nguồn vốn của công ty Xác định cơ cấu vốn phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và đặc điểm tình hình hoạt động của công ty trong từng thời kỳ là một vấn đề quan trọng, giúp định hướng cho quá trình huy động vốn của doanh nghiệp nhằm đảm bảo đáp ứng được nhu cầu vốn với chi phí và rủi ro là nhỏ nhất. Vốn của Công ty được huy động từ nhiều nguồn, trong đó chủ yếu từ vay ngân hàng, vốn chủ sở hữu (nguồn dài hạn), vốn chiếm dụng của khách hàng (nguồn vốn ngắn hạn). Có thể xem xét, nghiên cứu quy mô và cơ cấu vốn qua số liệu ở bảng 3.2. * Cơ cấu nguồn vốn và tình hình biến động Trước hết cho thấy tổng số nguồn vốn huy động của Công ty tăng lên qua các năm. Bảng 3.2: Biến động quy mô, cơ cấu nguồn vốn của Công ty giai đoạn 2004 - 2006 Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 2006/2005 2006/2004 Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) +/- (tr.đ) % +/- (tr.đ) % +/- (tr.đ) % Tổng nguồn vốn 53.762 100,00 62.791 100,00 65.196 100,00 9.029 16,79 2.405 3,83 11.434 21,27 Nợ phải trả 26.720 49,70 33.293 53,02 34.960 53,62 6.573 24,60 1.667 5,01 8.240 30,84 Nợ ngắn hạn 22.806 85,35 32.919 98,87 34.483 98,63 10.113 44,34 1.564 4,75 11.677 51,20 Nợ dài hạn 3.914 14,65 374 1,13 477 1,37 -3.540 -90,44 103 27,54 -3.437 -87,81 Nguồn vốn chủ sở hữu 27.042 50,30 29.498 46,98 30.236 46,38 2.456 9,08 738 2,50 3.194 11,81 Nguồn vốn kinh doanh 13.382 49,48 19.260 65,29 20.705 68,48 5.878 43,92 1.445 7,50 7.323 54,72 Các quỹ 13.660 50,52 10.238 34,71 9.531 31,52 -3.422 -25,05 -707 -6,91 -4.129 -30,23 Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Công ty 54 Năm 2005 tăng so với năm 2004 là 9.029 triệu đồng (tương ứng với 16,79%); năm 2006 tăng 2.405 triệu đồng (tương ứng với 3,83%) so với năm 2005 và tăng 11.434 triệu đồng (tương ứng với 21,27%) so với năm 2004. Quy mô tài sản tăng lên chứng tỏ rằng Công ty đã có bước phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh thời kỳ 2004 - 2006. Xét tổng thể thì nợ phải trả chiếm tỷ trọng 52% trong tổng nguồn vốn của công ty và xu hướng tăng lên. Năm 2005 tăng so với năm 2004 là 6.573 triệu đồng (tương ứng với 24,6%); năm 2006 tăng 1.667 triệu đồng (tương ứng với 5,01%) so với năm 2005 và tăng 8.240 triệu đồng (tương ứng với 30,84%) so với năm 2004. Như vậy, huy động nguồn vay nợ đã đáp ứng phần quan trọng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, trong đó chủ yếu là vay tín dụng ngân hàng. Trong cơ cấu nợ phải trả, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn và tăng qua các năm: năm 2005 tăng 10.113 triệu đồng (tương ứng với 44,34%) so với năm 2004; năm 2006 tăng 1.564 triệu đồng (tương ứng với 4,75%) so với năm 2005 và tăng 11.677 triệu đồng (tương ứng với 51,2%) so với năm 2004. Nguyên nhân là do việc huy động vốn chủ sở hữu bị hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh ngày càng gia tăng của Công ty, khả năng tự tài trợ bằng lợi nhuận giữ lại thấp. Số liệu trong bảng còn cho thấy tỷ trọng nguồn chủ sở hữu giảm dần, trong khi tỷ trọng nợ phải trả có xu hướng tăng lên: năm 2004 chiếm 49,7% trong tổng nguồn vốn Công ty; năm 2005 tăng 6.573 triệu đồng (tương ứng 24,6%) so với năm 2004; đến năm 2006 là 34.960 triệu đồng, chiếm 53,62%; tăng 1.564 triệu đồng (tương ứng 5,01%) so với năm 2005 và tăng 8.240 triệu đồng (tương ứng 30,84 %) so với năm 2004. Trong nợ phải trả thì nợ ngắn hạn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng trên 85% và đều tăng qua các năm. Trong khi đó nợ dài hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ và có xu hướng giảm: năm 2004 mức vay 3.914 triệu đồng, chiếm 14,65%, năm 2006 chỉ còn 477 triệu đồng, chiếm 1,37%. Qua đó cho thấy hoạt động của Công ty có xu hướng phải dựa chủ yếu vào vốn vay ngân hàng. Sở dĩ Công ty có tỷ lệ nợ vay ngân hàng khá lớn và xu hướng tăng lên là vì Nhà nước đã tạo điều kiện ưu đãi cho Công ty vay vốn để phục vụ SXKD. Đây chính là một trong những ưu thế của doanh nghiệp nhà nước so với các loại hình doanh nghiệp khác trong thời gian qua. Mặt khác, ta thấy nợ phải trả trong tổng nguồn vốn của Công ty tăng dần và chiếm tỷ trọng trên 50%. Điều này đặt ra vấn đề cho thời gian tới là mức độ rủi ro tài chính của Công ty có thể sẽ tăng cao, dẫn đến phải chịu chi phí trả lãi vay lớn, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Huy động vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng đối với một doanh nghiệp. Quy mô, tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn thể hiện sức mạnh tài chính và ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định, lâu dài của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu của Công ty trong thời gian qua được huy động từ các nguồn sau: vốn do Nhà nước đầu tư ban đầu khi mới thành lập doanh nghiệp và đầu tư tăng thêm trong quá trình hoạt động SXKD; nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận giữ lại tái đầu tư. Nguồn vốn này cũng tăng lên qua các năm: năm 2004 là 27.042 triệu đồng, đến năm 2005 tăng lên 29.498 triệu đồng (tương ứng với 9,08%) và năm 2006 là 30.236 triệu đồng, tăng 738 triệu đồng (tương ứng với 2,5%) so với năm 2005, tăng tăng 3.194 triệu đồng (tương ứng 11,81%) so với năm 2004; chủ yếu do nguồn vốn kinh doanh tăng. Kết quả phân tích cho thấy tổng nguồn vốn chủ sở hữu qua các năm đều tăng lên, đặc biệt nguồn vốn kinh doanh tăng cho thấy khả năng tự tài trợ và chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp là khá cao. Để thấy rõ ý nghĩa của điều đó, chúng ta cần phân tích tỷ suất tự tài trợ, đây là chỉ tiêu cho phép các nhà đầu tư và các đối tượng quan tâm thấy được mức độ tự chủ về vốn của doanh nghiệp. Tỷ suất tự tài trợ là tỷ lệ giữa nguồn vốn chủ sở hữu so với tổng nguồn vốn. Bảng 3.3: Phân tích tỷ suất tự tài trợ của Công ty giai đoạn 2004 – 2006 ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 2006/2005 2006/2004 +/- % +/- % +/- % Tổng nguồn vốn 53.762 62.791 65.196 9.029 16,79 2.405 3,83 11.434 21,27 Nguồn vốn chủ sở hữu 27.042 29.498 30.236 2.456 9,08 738 2,50 3.194 11,81 Tỷ suất tự tài trợ (%) 50,3 47,0 46,4 -3,3 - -0,6 - -3,9 - Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty 57 Số liệu ở bảng 3.3 cho thấy năm 2004 doanh nghiệp có thể tự bảo đảm trang trải tài sản bằng vốn của mình là 50,3%, nhưng đến năm 2005 giảm xuống chỉ còn 46,98% và năm 2006 tiếp tục giảm, còn 46,38%, so với năm 2004 thì tỷ suất tự tài trợ năm 2005 giảm 6,6%; năm 2006 giảm 1,28% so với năm 2005 và giảm 7,8 % so với năm 2004. Tuy có giảm nhưng tỷ suất tự tài trợ với mức như vậy cho thấy doanh nghiệp có khả năng trang trải các khoản nợ và chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. * Tình hình nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp cho công ty Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước nên việc huy động, tạo lập vốn chủ sở hữu của công ty chủ yếu dựa vào nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp. Từ các số liệu phản ánh ở Bảng 3.4, ta có thể xem xét tình hình vốn đầu tư của Nhà nước vào công ty trong giai đoạn 2004 - 2006. Số vốn ngân sách Nhà nước cấp ban đầu khi thành lập doanh nghiệp là điều kiện quan trọng để công ty tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tổng số vốn Nhà nước đầu tư cho đơn vị vào thời gian này chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Tỷ trọng vốn ngân sách cấp cho công ty trong tổng nguồn vốn là không cao. Năm 2004 nguồn vốn ngân sách cấp là 11.920 triệu đồng, chiếm 22,17% trong tổng nguồn vốn, năm 2005 và năm 2006 không được ngân sách cấp thêm, lần lượt chiếm tỷ trọng 18,98% và 19,28% trong tổng nguồn vốn. Trong khi nhu cầu về vốn của DN tăng lên qua các năm, song mức đầu tư của Nhà nước không tăng, đã gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của công ty. Bảng 3.4: Tình hình vốn ngân sách nhà nước của Công ty giai đoạn 2004 – 2006 Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 2006/2005 2006/2004 +/- % +/- % +/- % 1. Tổng nguồn vốn (tr.đ) 53.762 62.791 65.196 9.029 16,79 2.405 3,83 11.434 21,27 2. Nguồn vốn NSNN cấp (tr.đ) 11.920 11.920 11.920 0 0,00 0 0,00 0 0,00 3. Tỷ trọng vốn NSNN cấp (%) 22,2 19,0 18,3 -3,2 - -0,7 - -3,9 - Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty 59 * Tình hình huy động vốn bằng vay nợ Để mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh, do nguồn vốn chủ sở hữu huy động được không đủ đáp ứng, nên công ty phải vay vốn ngân hàng, sử dụng tín dụng thương mại và nợ chiếm dụng. - Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Có thể nói nguồn tài trợ quan trọng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua là vốn vay ngân hàng, gồm vay ngắn hạn và vay dài hạn, trong đó vay ngắn hạn là chủ yếu. Vốn vay ngân hàng đã giúp công ty tăng trưởng và phát triển sản xuất kinh doanh.Tuy nhiên, nó có hạn chế là Công ty không thể vay vượt quá hạn mức tín dụng mà ngân hàng quy định đối với những khoản vay ngắn hạn, chi phí trả lãi vay lớn, mức độ rủi ro tài chính cao. Vốn vay ngân hàng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn vì thế DN phải chịu áp lực rất lớn trong việc quản lý, thanh toán nợ đúng hạn, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh; việc lệ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng khiến công ty khó có thể đáp ứng được nhu cầu vốn lớn cho hoạt động kinh doanh của mình. - Nguồn vốn tín dụng thương mại: Ngoài vốn vay ngân hàng, công ty còn sử dụng tín dụng thương mại, cụ thể là mua chịu vật tư, hàng hoá từ các nhà cung cấp và một phần là khách hàng ứng trước tiền hàng cho công ty. Ưu điểm của nguồn vốn tín dụng thương mại là Công ty không phải chịu chi phí sử dụng vốn. - Nợ chiếm dụng (nợ ngắn hạn khác): Nợ ngắn hạn khác của công ty bao gồm: Phải trả công nhân viên, thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước, các khoản phải trả phải nộp khác. Hình thức huy động này cũng không phải chịu chi phí sử dụng vốn. Nó chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nợ phải trả. Tình hình huy động vốn bằng phương thức vay ngân hàng, tín dụng thương mại và nợ chiếm dụng của công ty giai đoạn 2004-2006 thể hiện ở Bảng 3.5. Bảng 3.5: Tình hình huy động nguồn vốn tín dụng ngân hàng của Công ty giai đoạn 2004 - 2006 Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 2006/2005 2006/2004 Giá trị (tr.đ) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr.đ) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr.đ) Tỷ trọng (%) +/- (tr.đ) % +/- (tr.đ) % +/- (tr.đ) % I. Nợ phải trả 26.720 100,00 33.293 100,00 34.960 100,00 6.573 24,60 1.667 5,01 8.240 30,84 1. Vay dài hạn ngân hàng 3.914 14,65 374 1,12 0 -3.540 -90,44 -374 -100,00 -3.914 -100,00 2. Vay ngắn hạn ngân hàng 9.810 36,71 16.225 48,73 16.810 48,08 6.415 65,39 585 3,61 7.000 71,36 3. Phải trả cho người bán 413 1,55 622 1,87 59 0,17 209 50,61 -563 -90,51 -354 -85,71 4. Khách hàng ứng trước 0 0,00 200 0,60 0 0,00 200 -200 -100,00 0 0,00 5. Nợ ngắn hạn khác 12.583 47,09 15.872 47,67 18.091 51,75 3.289 26,14 2.219 13,98 5.508 43,77 II. Tổng nguồn vốn 53.762 100,00 62.791 100,00 65.196 100,00 9.029 16,79 2.405 3,83 11.434 21,27 1. Nợ phải trả 26.720 49,70 33.293 53,02 34.960 53,62 6.573 24,60 1.667 5,01 8.240 30,84 2. Nguồn vốn chủ sở hữu 27.042 50,30 29.498 46,98 30.236 46,38 2.456 9,08 738 2,50 3.194 11,81 Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Công ty 61 Nợ ngắn hạn khác là nguồn tài trợ tự động, thường xuyên rất quan trọng cho hoạt động kinh doanh của công ty (chiếm tỷ trọng bình quân hơn 47% trong tổng nợ phải trả của công ty) và tăng lên qua các năm. Năm 2005 là 15.872 triệu đồng, tăng 26,14% so với năm 2004; năm 2006 là 18.091 triệu đồng, tăng 13,98% so với năm 2005 và tăng 43,77% so với năm 2004. Công ty khai thác nguồn vốn này bằng cách như chậm thanh toán lương cho công nhân viên, hoặc trì hoãn việc nộp thuế, chậm thanh toán các khoản phải trả phải nộp khác. Tuy nhiên, điều đó có thể ảnh hưởng không tốt đến tinh thần và động lực làm việc của công nhân viên, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp hoặc có thể phải chịu phạt vì nộp thuế chậm. Trong tổng nợ phải trả của công ty thì vốn vay ngân hàng chiếm tỷ trọng gần 50% qua các năm, trong đó vay ngắn hạn ngân hàng biến động tuỳ thuộc vào sự thay đổi nhu cầu vốn lưu động của công ty, có xu hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn, bình quân khoảng 45% trong tổng nợ phải trả. Năm 2006 mức vay lên đến 16.810 triệu đồng, tăng 585 triệu đồng (tương ứng 3,61%) so với năm 2005 và tăng 7.000 triệu đồng (tương ứng 71,36%) so với năm 2004. Điều này chứng tỏ vay ngân hàng là phương thức huy động nợ chủ yếu của công ty. Nguồn vốn tín dụng thương mại là nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho nhu cầu tài sản lưu động tạm thời của DN, giúp công ty giảm bớt sự lệ thuộc quá lớn vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Trong thời gian qua, công ty đã chú trọng khai thác tốt nguồn vốn này. 3.2. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÔNG TY 3.2.1. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Vốn là nhân tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động SXKD, nếu thiếu vốn hoạt động sản xuất sẽ bị ngưng trệ và gián đoạn, nếu dư thừa sẽ lãng phí vốn; việc sử dụng vốn hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý vốn của doanh nghiệp. Bảng 3.6: Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty giai đoạn 2004 - 2006 Chỉ tiêu ĐVT Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 2006/2005 2006/2004 +/- % +/- % +/- % 1. Tổng doanh thu tr.đ 59.684 73.867 89.747 14.183 23,76 15.880 21,50 30.063 50,37 2. Lợi nhuận sau thuế tr.đ 544 960 2.002 416 76,47 1.042 108,54 1.458 268,01 3. Vốn kinh doanh bình quân tr.đ 59.812 67.583 68.585 7.771 12,99 1.002 1,48 8.773 14,67 4. Các chỉ tiêu hiệu quả 4.1. Hiệu suất sử dụng VKD lần 0,9979 1,0930 1,3086 0,0951 - 0,2156 - 0,3107 - 4.2. Tỷ suất sinh lợi VKD lần 0,0091 0,0142 0,0292 0,0051 - 0,0150 - 0,0201 - 4.3. Suất hao phí VKD lần 1,0021 0,9149 0,7642 -0,0872 - -0,1507 - -0,2379 - Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty 63 Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty trong thời gian qua có thể dựa trên cơ sở tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ở bảng 3.6 cho thấy, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty có chiều hướng tốt, tuy nhiên thật sự chưa đạt hiệu quả cao. Năm 2005 hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh của Công ty đạt 1,093 lần, so với 2004 tăng lên 0,0951 lần; năm 2006 chỉ tiêu này đạt 1,3086 lần, nếu so sánh với năm 2005 tăng 0,2156 lần và so với năm 2004 tăng lên 0,3107 lần. Điều này có nghĩa là năm 2004, một đồng vốn kinh doanh tham gia vào sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra 0,9979 đồng doanh thu. Năm 2005, tạo ra 1,093 đồng doanh thu, tăng lên so với năm 2004 là 0,0951 đồng. Đến năm 2006, một đồng vốn kinh doanh tạo ra 1,3086 đồng doanh thu, so với năm 2005 tăng 0,2156 đồng và so với năm 2004 tăng 0,3107 đồng. Nếu chỉ dừng lại ở chỉ tiêu này thì chúng ta chưa thể kết luận đầy đủ được việc sử dụng vốn kinh doanh của Công ty có hiệu quả hay chưa. Để đánh giá toàn diện hơn cần tìm hiểu các chỉ tiêu về tỷ suất sinh lợi và suất hao phí vốn kinh doanh của nó. Trước hết, tỷ suất sinh lợi vốn kinh doanh tăng qua các năm, thực tế là: năm 2004, cứ 1.000 đồng vốn tham gia vào hoạt động kinh doanh trong kỳ tạo ra 9,1 đồng lợi nhuận; tương ứng ở năm 2005 là 14,2 đồng lợi nhuận, tăng lên 5,1 đồng lợi nhuận so với năm 2004 và ở năm 2006 là 29,2 đồng lợi nhuận, tăng 15 đồng so với năm 2005 và tăng 20,1 đồng so với năm 2004. Hai là, suất hao phí vốn kinh doanh có chiều hướng giảm, biểu hiện sự tiết kiệm chi phí trong việc sử dụng vốn của Công ty; cụ thể: năm 2004, để tạo ra được một đồng doanh thu, Công ty phải cần bỏ ra 1,0021 đồng vốn kinh doanh; con số này ở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc03 Gi7843i php nng cao hi7879u qu7843 s7917 d7909ng v7889n tamp7841.doc