Tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty Phát hành sách Hà Nội: A. lời nói đầu
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay mỗi Doanh nghiệp phải tự tạo cho mình thế đường riêng sao cho vững chắc nhất. Muốn được như vậy thì Doanh nghiệp phải có vốn, nhưng có vốn không thôi thì chưa đủ, mà phải làm sao cho mỗi đồng vốn khi được sử dụng sẽ tạo lên hiệu quả cao nhất. Hiệu quả sử dụng vốn là yếu tố quan trọng cần được xem xét trong mỗi công ty, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay.
Xuất phát từ vấn đề đó, sau một thời gian thực tập tại công ty phát hành sách Hà Nội được sự hướng dẫn tận tình của thầy giaó TS.Vũ Duy Hào cùng sự chỉ bảo ân cần của các cô chú trong phòng kế toán và phòng hành chính tổng hợp của công ty Phát hành sách Hà Nội tôi đã hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này
Với đề tài : " Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty Phát hành sách Hà Nội" Luận văn của tôi có nội dung được chia làm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về vốn và hiệu quả sử dụng vốn ở Doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng ...
72 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1037 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty Phát hành sách Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. lời nói đầu
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay mỗi Doanh nghiệp phải tự tạo cho mình thế đường riêng sao cho vững chắc nhất. Muốn được như vậy thì Doanh nghiệp phải có vốn, nhưng có vốn không thôi thì chưa đủ, mà phải làm sao cho mỗi đồng vốn khi được sử dụng sẽ tạo lên hiệu quả cao nhất. Hiệu quả sử dụng vốn là yếu tố quan trọng cần được xem xét trong mỗi công ty, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay.
Xuất phát từ vấn đề đó, sau một thời gian thực tập tại công ty phát hành sách Hà Nội được sự hướng dẫn tận tình của thầy giaó TS.Vũ Duy Hào cùng sự chỉ bảo ân cần của các cô chú trong phòng kế toán và phòng hành chính tổng hợp của công ty Phát hành sách Hà Nội tôi đã hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này
Với đề tài : " Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty Phát hành sách Hà Nội" Luận văn của tôi có nội dung được chia làm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về vốn và hiệu quả sử dụng vốn ở Doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty Phát hành sách Hà Nội
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty Phát hành sách Hà Nội
Mặc dù đã có sự cố gắng hết sức, nhưng do thời gian có hạn và kiến thức chuyên môn còn hạn chế, cho nên Luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy, cô giáo và các cô chú trong công ty Phát hành sách Hà Nội và các bạn để tôi hoàn thiện hơn kiến thức cho bản thân.
ChươngI: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của
Doanh nghiệp
1.1.. Vốn và vai trò của vốn đối với Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm về vốn
Trước khi một hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện thì các Doanh nghiệp phải tìm kiếm, huy động các yếu tố, các nguồn lực đầu vào cho hoạt động đó. Một trong những nguồn lực quan trọng mà các Doanh nghiệp đều phải huy động đó là nguồn vốn.
Theo Marx, vốn là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Quan điểm này của Marx có tính chất khái quát lớn nhưng nó cũng có chỗ hạn chế đó là cho rằng vốn luôn tạo ra giá trị thặng dư và chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau cũng có những quan điểm khác nhau về vốn. Theo P.Samuelson thì vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là một trong ba yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp (vốn, lao động, đất đai) như vậy vốn ở đây được xem xét ở hình thái hiện vật, là tài sản cố định của Doanh nghiệp
Trong cuốn 'kinh tế học' của David Begg, tác giả đưa ra hai định nghĩa về vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất ra hàng hoá. Vốn tài chính là tiền và các loại giấy tờ có giá khác của Doanh nghiệp
Các quan điểm về vốn của Doanh nghiệp ở trên tuy đã thể hiện được vai trò, tác dụng của vốn trong những điều kiện lịch sử cụ thể phù hợp với yêu cầu, mục đích nghiên cứu nhưng vẫn bị hạn chế bởi sự thống nhất giữa vốn với tài sản của Doanh nghiệp. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà Doanh nghiệp đang nắm giữ, vốn và tài sản là hai mặt giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn nhân lực sản xuất mà Doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, vốn được quan niệm là một yếu tố đầu vào của không chỉ một quá trình sản xuất riêng lẻ mà của cả quá trình sản xuất và tái sản xuất ra liên tục trong suốt thời gian tồn tại của Doanh nghiệp. Theo đó vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo, vốn được biểu hiện bằng cả tiền mặt lẫn các giá trị vật tư, hàng hoá tài sản của Doanh nghiệp
Như vậy, vốn là một yếu tố rất quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi các Doanh nghiệp phải có nhận thức đúng đắn về vốn cũng như những đặc điểm của vốn từ đó mà làm cho công tác quản lý sử dụng vốn một cách hiệu quả nhằm giúp Doanh nghiệp có được một cơ sở vững chắc để đạt được nhiều thành công trên thương trường. Căn cứ vào khái niệm trên ta có thể thấy vốn có những đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn được biểu hiện bằng tài sản của Doanh nghiệp, nó có thể ở dưới dạng hữu hình hoặc vô hình
- Vốn đưa vào sản xuất kinh doanh là nhằm mục đích sinh lời, đem lại lợi nhuận cho Doanh nghiệp, mà để Doanh nghiệp đạt được mục tiêu sinh lợi và lợi nhuận thì đòi hỏi Doanh nghiệp phải huy động được một số vốn đạt đến mức độ nhất định tuỳ theo quy mô, đặc điểm và loại hình Doanh nghiệp
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, ở các thời điểm khác nhau thì giá trị của một đồng vốn cũng khác nhau. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tính toán, lựa chọn phương án đầu tư và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ. Vì vậy đòi hỏi xác định được ai là chủ sở hữu đích thực của vốn và phải thực hiện công tác quản lý vốn một cách chặt chẽ hơn.
- Vốn là một hàng hoá đặc biệt nó có thể đem trao đổi trên thị trường, tạo nên sự sôi động hơn trên thị trường vốn nói riêng và thị trường tài chính nói chung.
1.1.2. Phân loại vốn
Để tiến hành phân loại vốn thì có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại như theo phương thức chu chuyển, theo nguồn hình thành, theo thời gian huy động và sử dụng vốn…tuỳ theo mục đích của việc nghiên cứu mà ta lựa chọn tiêu thức phân loại sao cho phù hợp nhất. Chẳng hạn để phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp, người ta thường phân loại theo phương thức chu chuyển, tức là chia vốn làm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động.
1.1.2.1. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển
1.1.2.1.1. Vốn cố định
a.Vốn cố định có hình thái biểu hiện vật chất là các tài sản cố định của Doanh nghiệp, vì vậy việc nghiên cứu vốn cố định trước hết dựa trên cơ sở nghiên cứu về tài sản cố định.
Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc
Loại 2: Máy móc, thiết bị dùng trong sản xuất kinh doanh
Loại 3: phương tiện vận tải, truyền dẫn
Loại 4: Thiết bị và dụng cụ quản lý
Loại 5: Cây lâu năm, súc vật làm việc cho sản phẩm
Loại 6: Tài sản cố định khác
- Tài sản cố định vô hình: là những tư liệu lao động không có hình thái vật chất cụ thể nhưng có đủ điều kiện tài sản cố định. Chẳng hạn như : lợi thế thương mại, uy tín công ty, nhãn hiệu sản phẩm
b. Vốn cố định
Vốn cố định là bộ phận vốn ứng ra hình thành tài sản cố định. Nói cách khác vốn cố định là giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp để đầu tư vào tài sản cố định nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì thế quy mô của vốn cố định sẽ quyết định đến quy mô của tài sản cố định, song chính sự vận động của tài sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
Vốn cố định tham gia vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, sở dĩ có đặc điểm này là do tài sản cố định tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào sản xuất, tài sản cố định không bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu, nhưng tính năng và công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng bị giảm dần, mặt khác giá trị của tài sản cố định bị giảm đi còn do sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra các tài sản cố định cùng loại rẻ hơn hoặc tốt hơn, hiện đại hơn. Bộ phận giá trị hao mòn này chuyển vào giá trị của sản phẩm, điều đó quyết định đến hình thái biểu hiện của vốn cố định trên hai góc độ: Vốn dưới hình thái hiện vật và vốn bằng tiền.
- Phần giá trị tài sản cố định ứng với mức hao mòn được chuyển dần dần vào giá trị của sản phẩm gọi là khấu hao và được tích luỹ lại thành quỹ khấu hao sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ. Bộ phận giá trị này là yếu tố chi phí sản xuất và cấu thành lên giá thành của sản phẩm. Hình thành tiền tệ của giá trị này được gọi là tiền khấu hao tài sản cố định. Tiền khấu hao tài sản cố định được tích luỹ lại qua nhiều quá trình sản xuất kinh doanh của tài sản cố định nhằm duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của Doanh nghiệp, và vốn tiền tệ của Doanh nghiệp được tăng dần lên qua các chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Phần giá trị còn lại tài sản cố định được "cố định" lại trong hình thái hiện vật của tài sản cố định. Phần giá trị này giảm dần qua các chu kỳ cùng với sự tăng lên của phần vốn tiền tệ. Khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng cũng là lúc phần vốn hiện vật bằng không và phần vốn tiền tệ đạt đến giá trị ứng ra ban đầu về tài sản cố định. Vốn cố định đã hoàn thành một vòng luân chuyển.
Thông thường vốn cố định là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn trong toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân theo quy luật riêng. Do đó việc quản lý và sử dụng vốn cố định có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp.
1.1.2.1.2. Vốn lưu động
a. Tải sản lưu động
Trong qúa trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh tài sản cố định thì Doanh nghiệp còn có một lượng tài sản nhất định nằm trong các khâu của quá trình kinh doanh, dự trữ vật tư hàng hoá chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân phối tiêu thụ sản phẩm….đây chính là tài sản lưu động của Doanh nghiệp
Tài sản lưu động chủ yếu là đối tượng lao động, ngoài ra còn có các tư liệu lao động nhưng không đủ điều kiện để trở thành tài sản cố định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tài sản lưu động này không giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu của nó. Bộ phận chủ yếu của tài sản lưu động sẽ thông qua quá trình sản xuất để trở thành thực thể của sản phẩm, bộ phận ít khác thì sẽ mất đi trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh, do đó giá trị của chúng được chuyển giao toàn bộ vào sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá.
Để cho quá trình sản xuất kinh doanh là liên tục thì tài sản lưu động phải không ngừng vận động. ở các khâukhác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động cũng được biểu hiện dưới những hình thức khác nhau và được phân thành ba loại.
- Tài sản lưu động trong khâu dự trữ : là bộ phận tài sản lưu động dùng để chuẩn bị cho quá trình sản xuất kinh doanh như : nguyên vật liệu, phụ tùng dùng để thay thế sửa chữa…nhằm để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục.
- Tài sản lưu động trong khâu sản xuất. Là những tài sản lưu động tham gia vào quá trình sản xuất. Dưới tác động của tư liệu lao động và sức lao động, thì hình thái vật chất của những tài sản lưu động sẽ bị thay đổi và chuyển vào sản phẩm hay bị mất đi.
- Tài sản lưu động trong khâu lưu thông: là các tài sản lưu động đang được hoàn thiện ở khâu cuối cùng, kết thúc quá trình này thì giá trị của tài sản lưu động được thực hiện.
b. Vốn lưu động của Doanh nghiệp
Vốn lưu động của Doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh ứng ra để mua sắm tải sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp được thực hiện một cách thường xuyên liên tục.
Trong qúa trình sản xuất, vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thức khác nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư, hàng hoá và sau đó quay trở về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục do đó vốn lưu động cũng vận động tuần hoàn không ngừng theo chu kỳ. Đó là chu chuyển của vốn lưu động
Căn cứ vào công dụng của tải sản lưu động, người ta tiến hành phân chia vốn lưu động thành ba loại là:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ: đó là giá trị nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng…
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất: đó là giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các phí tổn được phân bổ…
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông: là gía trị thành phẩm, hàng hoá mua ngoài….
1.1.2.2. Phân loại vốn theo nguồn hình thành
1.1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là số vốn do những người sở hữu Doanh nghiệp, những nhà đầu tư ra để thành lập và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Những người chủ sở hữu của Doanh nghiệp có thể là Nhà nước hay chủ Doanh nghiệp, các tổ chức hay cá nhân….
Có thể chia vốn chủ sở hữu ra làm ba loại sau:
- Vốn góp: là số vốn do các tổ chức cá nhân (chủ Doanh nghiệp) đóng góp và được ghi vào vốn điều lệ của Doanh nghiệp (số vốn điều lệ naỳ phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định là mức vốn tối thiểu để Doanh nghiệp được thành lập do Nhà nước quy định). Đối với các Doanh nghiệp cổ phần thì phần lớn vốn góp là do do các thành viên hoặc cổ đông đóng góp được ghi trong điều lệ của công ty.
- Lợi nhuận không chia: là phần lợi nhuận không chia cho các chủ sở hữu mà được dùng để tái đầu tư vào Doanh nghiệp, do đó làm tăng vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp. Đây là một nguồn vốn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay đặc biệt là ở các công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Vốn chủ sở hữu khác: là vốn lấy từ các qũy của Doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính…để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra đối với các Doanh nghiệp Nhà nước còn có phần khấu hao tài sản cố định được để lại Doanh nghiệp để đầu tư, thay thế, đổi mới tài sản cố định.
1.1.2.2.2. Vốn huy động của Doanh nghiệp
Đối với Doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì vốn chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng nhưng không phải là tất cả nguồn vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp đều là vốn chủ sở hữu. Để đáp ứng nhu cầu về vốn, Doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới dạng các hình thức khác nhau: vay nợ, liên doanh liên kết, đi thuê và các hình thức khác.
Vốn vay: là vốn mà Doanh nghiệp huy động được bằng cách đi vay các cá nhâ, đơn vị kinh tế hoặc đi vay thị trường tài chính. Trong vốn vay thì vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng là rất quan trọng đối với Doanh nghiệp, nguồn vốn này rất linh hoạt, nó có thể là vốn vay ngắn hạn trung dài hạn tuỳ theo nhu cầu của Doanh nghiệp và sự thoả thuận giữa Doanh nghiệp với ngân hàng Doanh nghiệp có thể đi vay thông qua thị trường tài chính bằng cách phát hành trái phiếu của công ty.
Vốn liên doanh liên kết: là vốn do các bên tham gia liên doanh, liên kết hợp tác sản xuất với Doanh nghiệp đóng góp. Đây là hình thức huy động quan trọng vì hoạt động tham gia góp vốn liên doanh liên kết thường gắn liền với việc chuyển giao công nghệ thiết bị giữa các bên tham gia nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động đổi mới sản phẩm…tăng khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Vốn tín dụng thương mại: là vốn có nguồn gốc từ các khoản mua chịu từ người cung cấp các yếu tố đầu vào cho Doanh nghiệp hay là các khoản ứng trước của khách hàng mà Doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng thương mại là hình thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Vốn tín dụng thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng được huy động tốt thì sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu về vốn lưu động cho Doanh nghiệp. Và khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hình thức tín dụng thương mại này cũng phát triển theo.
Vốn tín dụng thuê mua: là phần giá trị tài sản có được do đi thuê trên thị trường trong hoạt động kinh doanh, tín dụng thuê mua là một phương thức giúp Doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có được tài sản cần thiết để sử dụng vào hoạt động kinh doanh của mình. Đây là phương thức huy động thông qua hợp đồng thuê giữa người đi thuê và người cho thuê. Người đi thuê được sử dụng tài sản và phải trả tiền cho người cho thuê, người cho thuê là người chủ sở hữu và nhận được tiền cho thuê tài sản.
1.1.2.3. Phân loại vốn theo thời gian huy động và sử dụng .
Căn cứu vào thời gian huy động và sử dụng vốn, người ta phân chia vốn của Doanh nghiệp thành hai loại : vốn thường xuyên và vốn tạm thời
1.1.2.3.1. Vốn thường xuyên
Vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn của Doanh nghiệp đây là nguồn vốn ổn định và lâu dài. Doanh nghiệp có thể sử dụng nó để mua sắm tài sản cố định và một phần tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp
Tài sản lưu động
Tài sản cố định
Nợ ngắn hạn
Vốn tạm thời
Nợ dài hạn
Vốn thường xuyên
Vốn chủ sở hữu
1.1.2.3.2. Vốn tạm thời
Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà Doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dung, các khoản nợ ngắn hạn khác.
Việc phân loại vốn thành vốn thường xuyên và vốn tạm thời giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian và mục đích sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp
Cách phân loại này còn gíup cho nhà quản lý Doanh nghiệp lập các kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô, lượng vốn cần thiết lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng nguồn vốn đó để tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
Trên đây là một số cách phân loại vốn cơ bản thường được sử dụng trong các Doanh nghiệp ngoài ra còn tuỳ thuộc vào các mục đích nghiên cứu và mục tiêu quản lý vốn mà sẽ có các các phân loại vốn khác nữa.
1.1.4. Vai trò của vốn đối với Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp dù ở bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời là cơ sở để mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp
Mỗi Doanh nghiệp khi muốn thành lập thì một trong những điều kiện đầu tiên là Doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định. Khi đó thì về mặt pháp lý Doanh nghiệp mới được công nhận. Ngược lại thì việc thành lập Doanh nghiệp là không thể thực hiện được. Trường hợp trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn của Doanh nghiệp không đủ điều kiện mà pháp luật quy định thì Doanh nghiệp sẽ bị dừng hoạt động. Như vậy vốn có thể được xem như là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại về tư cách pháp lý của Doanh nghiệp trước pháp luật.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng Doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo cho khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp và xác lập vị thế của Doanh nghiệp trên thương trường .
Điều này càng thể hiện rõ hơn trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt các Doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ….tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi Doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp cho Doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được thường xuyên liên tục, Doanh nghiệp có thể chớp thời cơ kinh doanh và có lợi thế hơn trong cạnh tranh.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng quy mô của Doanh nghiệp để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh vốn của Doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của Doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để Doanh nghiệp tiếp tục đầu tư để mở rộng quy mô, phạm vi sản xuất và thâm nhập được vào thị trường tiềm năng từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của Doanh nghiệp trên thương trường.
Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn của Doanh nghiệp đều được bao cấp qua nguồn vốn cấp phát của ngân hàng Nhà nước và qua nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi của ngân hàng. Hơn nữa các Doanh nghiệp đều sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh bởi vậy vốn không được coi là vấn đề cấp bách, điều này đã làm thủ tiêu tính chủ động và sáng tạo của Doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với nhiều thành phần kinh tế, các Doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn là một bộ phận song song tồn tại với các thành phần kinh tế khác. Để tồn tại và phát triển tất yếu các Doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm và tìm cách hạ giá thành hợp lý nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm đã trở thành động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các Doanh nghiệp.
Nó quyết định cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự sống còn cho Doanh nghiệp
Tuy nhiên, có đủ lượng vốn kinh doanh nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả vẫn đang còn là vấn đề mà tất cả các nhà quản trị chính Doanh nghiệp hết sức quan tâm.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn trong Doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một Doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ : hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý Doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của Doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn Doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của Doanh nghiệp có tác dụng rất lớn tới hiệu qủa sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp . Vì thế việc nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với Doanh nghiệp . Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và quản lý sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khái thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của Doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn…nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả th u được với chi phí bỏ ra thì hiệu qủa sử dụng vốn càng cao, do đó nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để Doanh nghiệp phát triển vững mạnh.
Ngoài ra, Doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của Doanh nghiệp trong công tác quản lý và sử dụng vốn.
Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ.
Phương pháp so sánh: để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung tính chất và đơn vị tính toán..) và theo mục đích phân tích mà xác định so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch giá trị so sánh có thể được chọn bằng số tuyệt đối, số tương đói hoặc số bình quân, nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hưỡng thay đổi về tình hình tài chính của Doanh nghiệp, đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của Doanh nghiệp só sánh số thực hiện của Doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, của các Doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của Doanh nghiệp mình tốt hay xấu, được hay chưa được…
Phương pháp tỷ lệ : trong phân tích tài chính Doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của Doanh nghiệp, đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận lcủa hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp người ta thường dùng một số chỉ tiêu mà ta sẽ trình bày cụ thể trong phần sau.
1.2.2. Các chỉ tiêu xác định hiệu quả sử dụng vốn
1.2.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn của Doanh nghiệp
Các Doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vào từng giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu được ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó thì Doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.
Một Doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của một Doanh nghiệp là kết quả tổng thể của hàng loạt các hoạt động bên trong cũng như bên ngoài Doanh nghiệp. Việc đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp có tác dụng mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp vì một số lý do chủ yếu sau:
- Tất yếu các hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp ở bất cứ quy mô, lĩnh vực nào đều cần thiết có một lượng vốn nhất định
- Việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển nhanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, đầy đủ và kịp thời. Do đó việc tổ chức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi Doanh nghiệp.
- Việc huy động vốn đầy đủ và kịp thời giúp cho các Doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh, tạo lợi thế trong cạnh tranh.
- Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp giúp giảm bớt được chi phí sử dụng vốn, điều đó tác động rất lớn đến việc tăng lợi nhuận của Doanh nghiệp, đặc biệt ở các Doanh nghiệp có tỷ lệ vốn vay lớn
Do đó đòi hỏi mỗi Doanh nghiệp phải tìm cách để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay.
Trước đây trong cơ chế cũ, các Doanh nghiệp coi nguồn cấp phát từ ngân sách Nhà nước đồng nghĩa với " cho không" nên khi sử dụng vốn, nhiều Doanh nghiệp không quan tâm đến hiệu quả của nó, kinh doanh thua lỗ thì đã có Nhà nước bù đắp gây nên tình trạng vô chủ trong việc quản lý và sử dụng vốn dẫn tới lãng phí vốn và hiệu quả kinh tế thấp.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát của ngân sách không còn nữa, Doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Do đó đòi hỏi Doanh nghiệp phải có quản lý và sử dụng vốn một cách chặt chẽ hơn. Mặt khác việc quản lý và sử dụng vốn của các Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay còn khác trước là Doanh nghiệp phải bảo toàn vốn kể cả khi trượt giá và phải đầu tư để mở rộng, phát triển quy mô sản xuất kinh doanh, cạnh tranh là một quy luật của kinh tế thị trường, để tăng khả năng cạnh tranh của mình thì đòi hỏi Doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm nguồn vốn để đảm bảo đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ …nhằm đa dạng hàng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Chỉ có như vậy Doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy vốn trở thành động lực cho sự phát triển của Doanh nghiệp và việc huy động quản lý sử dụng hiệu quả vốn đã trở thành yêu cầu bức bách.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính Doanh nghiệp đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp, Việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ giúp Doanh nghiệp huy động các nguồn tài trợ dễ dàng hơn, khả năng thanh toán của Doanh nghiệp được đảm bảo, Doanh nghiệp có đủ tiềm lực để khắc phục những khó khăn và hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn sẽ giúp Doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của Doanh nghiệp. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm….đòi hỏi Doanh nghiệp phải có vốn đủ lớn, trong khi vốn của Doanh nghiệp chỉ có hạn vì thế tìm cách nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn là rất cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp Doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu các mục đích khác nhau của Doanh nghiệp như nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động…vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì Doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. ĐIều đó giúp cho năng suất lao động của Doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho Doanh nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
12.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
Mục đích của Doanh nghiệp là làm tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Muốn vậy, các Doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc đối với các Doanh nghiệp. Để đạt được điều đó, các Doanh nghiệp cần có một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đảm bảo phản ánh và đánh giá được hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
1.2.2.2.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng vốn cố định
=
Doanh thu thuần
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Trong đó vốn cố định bình quân trong kỳ là bình quân giá trị còn lại của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ
Hiệu suất sử dụng vốn cố định phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ. Đối với Doanh nghiệp chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng và lượng vốn cố định bình quân trong kỳ
Hiệu suất sử dụng vốn cố định
=
Lợi nhuận
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đối với Doanh nghiệp thì chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
Hai chỉ tiêu trên dùng để đánh giá trực tiếp hiệu quả sử dụng vốn cố định ngoài ra chúng ta có thể đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định gián tiếp thông qua đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định do tài sản cố định là hình thái biểu hiện vật chất của vốn cố định như ta đã trình bày ở phần trước
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng Tài sản cố định
=
Doanh thu thuần
Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Trong đó nguyên giá tài sản cố định bình quân trong kỳ là bình quân nguyên giá của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ.
Hiệu suất này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ và chỉ tiêu này càng lớn thì càng tốt.
- Sức sinh lời của tài sản cố định
Sức sinh lời của tài sản cố định
=
Lợi nhuận
Nguyên giá tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng tài sản cố định là có hiệu quả.
1.2.2.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
=
VLĐ bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ càng chứng tỏ hiệu qủa sử dụng vốn lưu động càng cao, càng tiết kiệm được vốn cho Doanh nghiệp và ngược lại.
- Sức sinh lợi của vốn lưu động
Sức sinh lợi của vốn lưu động
=
Lợi nhuận
VLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Đồng thời để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn vì trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động không ngừng qua các hình thái khác nhau. Do đó nếu đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho Doanh nghiệp, góp phần nâng cao, hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển người ta dùng các chỉ tiêu sau.
Số vòng quay của vốn lưu động
Số vòng quay của vốn lưu động
=
Doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, nó cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Thời gian của một vòng luân chuyển
Thời gian của một vòng luân chuyển
=
Thời gian của một kỳ phân tích
Số vòng quay VLĐ trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay được nhiều vòng hơn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn
1.3.1. Các nhân tố khách quan
1.3.1.1. Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên có tác động đến Doanh nghiệp, như khí hậu thời tiết, môi trường…ngày nay khoa học càng phát triển thì sự lệ thuộc của con người vào tự nhiên ngày càng giảm đi, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cũng ít hơn. Tuy nhiên nếu được hoạt động sản xuất kinh doanh trong môi trường tự nhiên phù hợp thì năng suất lao động sẽ được tăng lên, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu qủa sử dụng vốn cũng được nâng lên.
1.3.1.2. Môi trường pháp lý
Là hệ thống các chủ trương chính sách, luật pháp…liên quan đến hoạt động của Doanh nghiệp
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết nhưng tác động của Nhà nước chỉ thực hiện thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, các điều luật chứ không can thiệp trực tiếp mà giao quyền của động sản xuất kinh doanh cho các Doanh nghiệp, nếu môi trường pháp lý thuận lợi sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho các Doanh nghiệp.
1.3.1.3. Môi trường kinh tế
Là tổng thể các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, như lạm phát, thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá…các yếu tố này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp
1.3.1.4. Môi trường chính trị văn hoá xã hội
Tất cả các hoạt động của Doanh nghiệp là đều nhằm tạo ra sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của khách hàng, do đó phong tục tập quán thói quen tiêu dùng của khách hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp. Nếu như hoạt động trong môi trường văn hoá lành mạnh chính trị ổn định thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được nâng cao. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp cũng sẽ chịu tác động của yếu tố này.
1.3.1.5. Môi trường kỹ thuật công nghệ
Sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với xu thế chuyển giao công nghệ đặt ra cho các Doanh nghiệp nhiều cơ hội và thách thức mới. Việc sử dụng vốn của Doanh nghiệp cũng phải có sự điều chỉnh tính toán sao cho có hiệu quả để phù hợp với xu thế này.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Trình độ của lực lượng lao động
Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo vai trò của người lãnh đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh là rất quan trọng sự điều hành và quản lý sử dụng vốn hiệu quả ở sự kết hợp cách tối ưu các yếu tố sản xuất giảm chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho Doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển.
Trình độ tay nghề của người lao động, nếu công nhân sản xuất có trình độ tay nghề phù hợp với trình độ công nghệ của dây truyền sản xuất thì việc sử dụng máy móc thiết bị sẽ tốt hơn, sẽ khai thác được tối đa công suất của máy móc thiết bị là tăng năng suất lao động nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn của Doanh nghiệp.
Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh: đây cũng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp trải qua giai đoạn là cung ứng, sản xuất va tiêu thụ.
Cung ứng là quá trình chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất cũng như nguyên vật liệu, nó bao gồm các hoạt động mua và dự trữ. Một Doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh tức là Doanh nghiệp đó xác định được lượng phù hợp của từng loại nguyên nhiên liệu vật liệu, số lượng lao động cần thiết và Doanh nghiệp đã kết hợp tối ưu các yếu tố đó. Ngoài ra để đảm bảo hiệu quả kinh doanh thì chất lượng hàng hoá đầu vào phải được đảm bảo, chi phí mua hàng giảm đến mức tối ưu. Còn mục tiêu của dự trữ là đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh nên đồng vốn được sử dụng có hiệu quả thì phải xác định được mức dự trữ hợp lý để tránh trường hợp dự trữ quá nhiều dẫn đến ứ đọng vốn và tăng chi phí bảo quản.
Khâu sản xuất (đối với Doanh nghiệp thương mại không có khâu này) trong giai đoạn này phải sắp xếp dây truyền sản xuất cũng như lượng nhân công sao cho việc sử dụng máy móc thiết bị là có hiệu quả nhất, khai tác tối đa công suất, thời gian làm việc của máy móc đảm bảo kế hoạch sản xuất sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì vậy, Doanh nghiệp phải xác định giá bán tối ưu đồng thời cũng phải có những biện pháp thích hợp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng. Khâu này quyết định đến doanh thu, là cơ sở để Doanh nghiệp tiến hành việc tái sản xuất.
Trình độ quản lý và sử dụng vốn: đây là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu qủa sử dụng vốn của Doanh nghiệp, công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý sử dụng vốn là hệ thống kế toán tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của Doanh nghiệp nói chung cũng như việc sử dụng vốn nói riêng trên cơ sở đó đưa ra những quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc điểm hạch toán, kế toán nội bộ Doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản xuất của Doanh nghiệp nên cũng tác động tới việc quản lý vốn của Doanh nghiệp, sớm tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp giải quyết.
1.3.2.2. Đặc điểm của sản xuất kinh doanh
Các Doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau sẽ khác nhau về đặc điểm sản phẩm, quy trình sản xuất thị trường…do dó hiệu quả sử dụng vốn khác nhau. Chẳng hạn nếu thời gian một chu kỳ sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp dài thì Doanh nghiệp sẽ lâu thu hồi được vốn nên phải gánh chịu một chi phí vốn nhất định nào đó. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng nhất là sản phẩm như rượu, bia, thuốc lá…thì sẽ có vòng đòi ngắn, sản phẩm tiêu thụ nhanh và qua đó giúp Doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc thiết bị dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị không quá lớn do đó Doanh nghiệp dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại nếu sản phẩm có vòng đời dài có giá trị lớn, được sản xuất trên dây truyền công nghệ có giá trị lớn như máy móc thiết bị…việc thu hồi vốn sẽ lâu hơn.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty Phát hành sách Hà Nội
2.1. Khát quát về công ty
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Phát hành sách Hà Nội
- Tên công ty: Công ty phát hành sách Hà Nội là đơn vị thuộc Sở văn hoá thông tin Hà Nội
- Ngày tháng năm thành lập :Thành lập từ năm 1954, tiền thân chi sở phát hành sách Hà Nội thuộc chi sở phát hành sách Trung ương.
- Ngày 14/6/1960, được chuyển về thành phố Hà Nội, thuộc Sở văn hoá thông tin Thành phố với tên gọi là quốc doanh phát hành sách Hà Nội.
- Năm 1980 đổi tên thành Công ty phát hành sách Hà Nội.
- Ngày 2/3/1993, UBND thành phố Hà Nội ra quyết định thành lập lại công ty phát hành sách Hà Nội .
Từ đó cho đến nay, với 10 năm phấn đấu và trưởng thành, mặc dù thời gian chưa dài nhưng Công ty đã có những đóng góp đáng kể, tạo công ăn việc làm ổn định cho 226 người với thu nhập bình quân là 950.000đ/người/tháng (1999) và 1.050.000đ/người/tháng (2002) góp phần nâng cao dân trí , phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu khuyến học ... của mọi tầng lớp nhân dân.
Theo Quyết định 877/QĐ - UB ngày 2/3/1993 của UBND thành phố Hà Nội, Công ty phát hành sách Hà Nội có chức năng và nhiệm vụ chủ yếu sau đây.
+ Được phép tổ chức mua và phát hành các loại sách ,Văn hoá phẩm, văn phòng phẩm trong nước và nhập ngoại, các loại giấy tờ chứng từ phục vụ công tác quản lý hành chính kinh tế - xã hội.
+ Kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, mỹ thuật, vật tư, vật phẩm văn hoá thông tin dụng cụ thể dục thể thao, dụng cụ học tập, các sản phẩm phục vụ thiếu nhi.
- Làm đại lý tiêu thụ các sản phẩm văn hoá cho các đơn vị, cá nhân có nhu cầu.
Được xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng của nhà nước .
- Liên doanh liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để mở rộng khả năng kinh doanh .
- Cho thuê nhà làm văn phòng, hội nghị, hội thảo, nhà khách cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
Công ty phát hành sách Hà Nội quản lý trực tiếp toàn diện các đơn vị trực thuộc bao gồm: Các phòng ban - các cửa hàng - các hiệu sách nhân dân nội, ngoại thành theo đúng chế độ, nguyên tắc hiện hành và pháp luật của nhà nước.
Sơ đồ 1: Mô hình bộ máy quản lý của Công ty phát hành sách Hà Nội
Giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế toán tài
vụ
Phòng nghiệp vụ kinh doanh
Phòng kho XBP
Các cửa hàng
Trên đây là mô hình gọn nhẹ, phù hợp với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm của công ty phát hành sách Hà Nội. Mọi sự chỉ đạo kinh doanh đều do Giám đốc chỉ đạo. Phó giám đốc có chức năng giúp việc và là cộng sự của giám đốc.
Với cơ cấu này, giúp giám đốc và các nhân viên có điều kiện để trực tiếp trao đổi với nhau, tạo ra sự nhịp nhàng trong công việc, sự trao đổi thông tin được nhanh chóng.
Theo mô hình trên, Công ty có 4 phòng và mạng lưới phát hành bao gồm 19 hiệu sách nhân dân nằm rải rác tại các Quận - Huyện của thành phố Hà Nội. Cụ thể là:
1. Phòng tổ chức hành chính
- Bao gồm 8 nhân viên: 1 trưởng phòng và 1 phó phòng
- Chức năng của phòng: là phòng tham mưu giúp việc và tổ chức thực hiện của giám đốc về các mặt.
+ Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, kiện toàn quy chế giúp giám đốc hướng dẫn và kiểm tra thực hiện.
+ Quản lý hồ sơ cán bộ công nhên viên, thực hiện các chính sách về cán bộ, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, lao động tiền lương, khen thưởng, kỷ luật. Đề xuất việc quy hoạch bồi dưỡng đào tạo cán bộ công nhên viên về quản lý nghiệp vụ chuyên môn phục vụ cho nhu cầu phát triển của Công ty.
+ Hướng dẫn và tổng hợp tình hình hoạt động của Công ty, làm các báo cáo và công văn (định kỳ hoặc bất thường) phục vụ cho hoạt động chung của Công ty có liên quan đến nhiệm vụ chức năng của phòng.
+Tiếp nhận, quản lý, phân phối và lưu trữ các tài liệu công văn (đến và đi), quản lý kho văn phòng phẩm, các thiết bị phương tiện vận chuyển (ô tô, xe máy). Mua sắm trang thiết bị, vật tư, đồ dùng, sửa chữa nhỏ nhà cửa, điện nước phục vụ cho nhu cầu chung. Hướng dẫn và kiểm tra việc trang trí tuyên truyền trong các ngày lễ, tết và phục vụ chính trị.
+ Hướng dẫn, theo dõi và kiểm tra công tác bảo vệ nội bộ, quản lý con dấu của Công ty, bảo vệ cơ quan, phòng chống cháy nổ, thực hiện các hoạt động dịch vụ, phục vụ trong và ngoài giờ làm việc tại khu vực cơ quan theo quy định của giám đốc Công ty. Kiểm tra giám sát việc thực hiện nội quy, quy chế của Công ty và pháp luật của nhà nước tại các phòng ban và các đơn vị trực thuộc.
2. Phòng kế hoạch tài vụ
- Phòng kế hoạch - tài vụ có 8 nhân viên: 1 trưởng phòng, 1 phó phòng.
- Chức năng của phòng: là phòng tham mưu cho giám đốc về các mặt.
+ Hướng dẫn tổ chức và kiểm tra giám sát thực hiện công tác kế toán, tài chính và thống ke trong Công ty và các đơn vị phụ thuộc Công ty theo đúng quy định và pháp luật của nhà nước.
+ Nghiên cứu xây dựng kế hoạch, quy hoạch dài hạn và ngắn hạn về hoạt động kinh doanh của Công ty. Giúp giám đốc Công ty hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra và xét duyệt việc thực hiện kế hoạch được giao của các đơn vị, cửa hàng.
+ Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty phản ánh thường xuyên hoặc định kỳ cho giám đốc có biện pháp, phương hướng chỉ đạo kịp thời. Tham gia xét duyệt hoàn thành kế hoạch, quyết toán tài chính, phân tích hoạt động kinh tế của Công ty và các đơn vị cửa hàng trực thuộc.
+ Tham gia xây dựng nội dung các hợp đồng kinh tế của Công ty với các chủ hàng và khách hàng. Có trách nhiệm theo dõi chặt chẽ tình hình thực hiện các hợp đồng kinh tế đã ký.
3. Phòng nghiệp vụ - kinh doanh
- Phòng nghiệp vụ kinh doanh có 7 nhân viên: 1 trưởng phòng, 1 phóng phòng.
- Chức năng: là phòng tham mưu và tổ chức thực hiện của giám đốc Công ty về các mặt.
+ Nắm phương hướng, kế hoạch kinh doanh của Công ty đã đề ra, tìm hiểu nắm bắt nhu cầu của thị trường và xã hội. Đề xuất với giám đốc Công ty ký các hợp đồng mua bán với số lượng, giá cả thích hợp và hình thức thanh toán phù hợp giữa các bên đối tác.
+ Tổ chức khai thác, liên kết sản xuất, in ấn, mua bán các mặt hàng theo đăng ký kinh doanh và quy định của nhà nước với các cá nhân, đơn vị có tư cách pháp nhân và thanh toán bằng những phương thức thanh toán thích hợp.
+ Nắm vững tình hình xuất nhập hàng hoá, tình hình tiêu thụ, nhu cầu thị hiếu của thị trường và hàng tồn kho các loại theo định kỳ, đề xuất bổ khuyết kịp thời các biện pháp tiêu thụ.
+ Tổ chức hướng dẫn và kiểm tra giám sát các đơn vị trực thuộc về mặt nghiệp vụ kinh doanh .
+ Báo cáo kịp thời mọi hoạt động của Công ty và các biến động của thị trường giúp giám đốc định hướng kinh doanh chính xác, hiệu quả.
+ Dự thảo ký và theo dõi quá trình thực hiện các hợp đồng kinh tế phát hiện và báo cáo kịp thời với giám đốc những vướng mắc cần giải quyết.
+ Thực hiện công tác tuyên truyền quảng cáo, giới thiệu hoạt động, mặt hàng của Công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng.
4. Phòng kho xuất bán phẩm.
- Phòng kho xuất bán phẩm gồm có 7 nhân viên: 1trưởng phòng, 1 phó phòng
- Chức năng của phòng kho xuất bán phẩm: là phòng giúp việc và tổ chức thực hiện của giám đốc về các mặt.
+ Quản lý, kiểm tra, theo dõi việc xuất nhập, xuất bán phẩm nhanh gọn - chính xác và đúng quy định.
+ Bảo quản, giữ gìn tốt và phân loại xuất bán phẩm khoa học để đảm bảo xuất bán phẩm sử dụng được tốt và dễ lấy, dễ thấy, dễ kiểm tra.
+ Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy về nhập xuất hàng bảo vệ tài sản, an toàn trong bốc xếp, vận chuyển, làm tốt công tác phòng chóng cháy nổ và vệ sinh công nghiệp.
5. Các cửa hàng và hiệu sách nhân dân nội ngoại thành:
Là các đơn vị kinh doanh dưới sự chỉ đạo của giám đốc Công ty thông qua các phòng chức năng giúp việc.
- Bao gồm 15 cửa hàng nội thành và 6 cửa hàng ở các huyện ngoại thành đây là nơi tiêu thụ những hàng hoá, xuất bán phẩm của Công ty là nơi cung cấp thông tin về nhu cầu của khách hàng trên thị trường và sự chênh lệch giữa các mặt hàng xuất bán phẩm của Công ty với các đơn vị cá nhân kinh doanh xuất bán phẩm cùng cạnh tranh trên thị trường thủ đô.
- Các cửa hàng và hiệu sách nhân dân nội ngoại thành phải tiến hành tổ chức thực hiện các kế hoạch được giám đốc Công ty giao.
- Các cửa hàng và hiệu sách nhân dân ngoại thành phải chấp hành các chế độ chính sách quy định của Công ty và pháp luật của nhà nước phù hợp vơi sự phân cấp quản lý của Công ty.
6. Mối quan hệ giữa các đơn vị trong Công ty
+ Trong các phòng chuyên môn phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo chức năng - nhiệm vụ được giao, để phục vụ cho mục tiêu cuối cùng là hiệu quả kinh doanh của Công ty.
- Nếu phòng ban chuyên môn nào có nhu cầu sử dụng nhân lực tài sản, công cụ của phòng ban, bộ phận khác để phục vụ cho nhiệm vụ chung do phòng mình đảm nhiệm thì phải báo với lãnh đạo phòng có liên quan biết để có sự phối hợp.
Với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, mạng lưới tiêu thụ rộng rãi, hoạt động theo sự chỉ đạo tập trung của giám đốc, giám đốc đã giao quyền tự chủ kinh doanh và các trách nhiệm, quyền hạn nhất định cho các phòng ban. Do đó quyền lực của giám đốc không bị phân tán, các quyết định kinh doanh đề ra được trực tiếp thi hành, không phải thông qua nhiều khâu trung gian. Chính vì vậy mỗi cán bộ công nhân viên trong Công ty phát hành sách Hà Nội đều đem hết khả năng của mình trong việc thực hiện các nhiệm vụ đã được giao phó, góp phần thúc đẩy sự nghiệp hoạt động kinh doanh và làm cho Công ty ngày càng phát triển, đời sống cán bộ công nhân viên trong Công ty ngày càng được cải thiện.
2.1.2. Tình hình huy động vốn tại công ty Phát hành sách Hà Nội
Trong mấy năm gần đây, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải chịu sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường văn hóa phẩm, đòi hỏi công ty phải luôn chú ý đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, để có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, công ty phải có vốn để tiến hành hoạt động một cách bình thường và có hiệu quả, bên cạnh đó còn mở rộng quy mô sản xuất.
Nếu nói về nguồn huy động vốn thì hiện nay công ty phát hành có một số nguồn huy động sau đây:
2.1.2.1. Nguồn vốn từ ngân sách cấp.
Do là một đơn vị thuộc sở hữu của Nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa phẩm, nên nhà nước đã có những đầu tư về vốn cho công ty. Trong mấy năm trở lại đây, giá trị của vốn ngân sách cấp đều tăng, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1:
Năm 2000 (trđ)
Năm 2001 (trđ)
Chênh lệch (trđ)
So sánh (%)
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
930
1.130
1.130
1.480
200
350
122%
131%
Nguồn: Báo cáo Tài chính công ty PHS Hà Nội
Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy đầu năm 2001 so với đầu năm 2000 số vốn ngân sách cấp đã tăng từ 930 (trđ) đầu năm 2000 lên 1130 (trđ) đầu năm 2001 tức là đã tăng 200 (trđ) tương ứng với 1 tỷ lệ tăng là 22%, cuối năm 2000 số vốn ngân sách cấp cho công ty đạt con số 1140 (trđ) thì đến cuối năm 2001 con số này đã lên tới 1.480 (trđ), vốn Ngân sách cấp đã tăng lên 350 (trđ), tương ứng với 1 tỷ lệ tăng là 31%.
Từ đó chúng ta thấy: con số vốn ngân sách mà nhà nước cấp cho công ty ngày càng tăng thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với lĩnh vực kinh doanh của công ty. Vốn ngân sách tăng là một nguồn quan trọng giúp công ty có thể tự chủ hơn về vốn trong kinh doanh, đặc biệt là trong thời buổi cơ chế thị trường hiện nay.
2.1.2.2. Nguồn vốn tự có bổ sung
Tuy là một doanh nghiệp nhà nước, nhưng cũng như bất kỳ một doanh nghiệp, một đơn vị nào hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện nay, công ty phát hành sách Hà Nội không thể chủ động chờ vào nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp, công ty phải tự mình tạo lập lên các nguồn vốn tự bổ sung cho vốn kinh doanh của mình. Đó là những điều cần thiết bởi vì hiện nay qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi không ngừng mở rộng, trong khi đó nguồn vốn sử dụng lại bị hạn chế, vì vậy mỗi một doanh nghiệp phải tự mình tìm kiếm nguồn để tự chủ phần nào về vốn.
Bảng 2: Vốn tự có bổ sung của công ty phát hành sách Hà Nội
Năm 2000 (trđ)
Năm 2001 (trđ)
Chênh lệch (trđ)
So sánh (%)
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
534
534
534
534
0
0
100%
100%
Nguồn: Báo cáo tài chính công ty phát hành sách Hà Nội.
Qua bảng trên cho ta thấy: đầu năm 2001 so với đầu namư 2000, số vốn tự có bổ sung của công ty ổn định ở mức 534 (trđ). Cuối năm 2001so với cuối năm 2000, số tự có bổ sung cũng không có sự biến đổi, ổn định ở mức 534 (trđ)
Đây là một sự cố gắng nỗ lực rất lớn của công ty, trong điều kiện như hiện nay khi mà hoạt động kinh doanh đang gặp nhiều khó khăn, số vốn tự có bổ sung mặc dù không tăng lên được nhưng công ty cũng đã không để giảm.
2.1.2.3. Nguồn vốn vay ngân hàng.
Có thể nói trong cơ chế thị trường, ít có doanh nghiệp nào trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình lại không phải sử dụng đến nguồn vốn vay ngân hàng. Bên cạnh những tiện ích mà các dịch vụ ngân hàng mang lại cho các doanh nghiệp, các doanh nghiệp còn sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng như là một nguồn bổ sung sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh của mình.
Công ty phát hành sách Hà Nội cũng là một công ty mà trong quá trình hoạt động của mình cũng đã sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng với số lượng tương đối lớn.
Bảng 3: Nguồn vốn vay ngân hàng của công ty phát hành sách Hà Nội
Năm 2000 (trđ)
Năm 2001 (trđ)
Chênh lệch (trđ)
So sánh (%)
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
7.622
1.150
1.150
1.670
-6.472
540
15%
145%
Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty Phát hành sách Hà Nội
Qua bảng trên chúng ta thấy rằng đầu năm 2000 công ty đã sử dụng một số lượng tiền vay rất lớn lên tới 7 tỷ 622 (trđ), tuy nhiên đến cuối năm 2000 thì con số này đã giảm xuống chỉ còn có 1 tỷ 150 (trđ), tức là đã giảm đi 6 tỷ 472 (trđ) tiền vay ngân hàng cuối năm đã giảm đi tới 85% so với đầu năm 2000.
Trong năm 2001, đầu năm công ty đã sử dụng 1 tỷ 150 (trđ) tiền vay, trong khi đó cuối năm 2001, số tiền này đã lên tới 1.670 (trđ), tức là đã tăng lên 520 (trđ), tương ứng với 1 tỷ lệ tăng là 45%.
Như vậy ta thấy lượng vốn vay của công ty là tương đối lớn, đều đã đạt trên 1 tỷ đồng tiền vay, điều đó cho thấy bên cạnh nguồn bổ sung vốn kinh doanh từ vốn ngân sách cấp và vốn tự có bổ sung thì nguồn vốn vay ngân hàng cũng chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu tổng nguồn tài trợ cho vốn kinh doanh của công ty.
2.1.2.4. Nguồn vốn vay khách hàng và nhà cung cấp
Trong cơ chế thị trường, khi mà giao lưu buôn bán được mở rộng tới tất cả mọi đối tượng thì tín dụng thương mại hay nguồn vốn vay khách hàng và nhà cung cấp cũng trở thành nguồn tài trợ quan trọng cho vốn kinh doanh. Bất kỳ một công ty nào cũng đều gặp phải những tình huống như: bán chịu cho khách hàng, mua chịu của nhà cung cấp, trả tiền trước và được đối tác trả tiền trước; chính những hình thức đó đã làm cho mỗi doanh nghiệp có những lúc có được những khoản vốn lớn phục vụ cho kinh doanh.
Bảng 4: Nguồn vốn vay khách hàng và nhà cung cấp
Năm 2000 (trđ)
Năm 2001 (trđ)
Chênh lệch (trđ)
So sánh (%)
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
8.363
16.428
16.428
21.937
8.065
+5.509
196%
133%
Nguồn: Báo cáo tài chính công ty phát hành sách
Qua số liệu trên ta thấy một thực tế là nguồn vốn vay khách hàng và nhà cung cấp đã không ngừng gia tăng. năm 2000, đầu năm công ty mới chỉ chiếm dụng được có 8.363 (tr.đồng), nhưng đến cuối năm thì công ty đã chiếm dụng được tới 16 tỷ 428 (trđ), tăng 8 tỷ 065 (trđ), tương ứng với một tỷ lệ tăng rất cao 96% (gần gấp 2 lần).
Năm 2001 do đầu năm đã ở con số khá cao: 16 tỷ 428 (trđ), nên dù có tăng nên khi kết toán ở thời điểm cuối năm nhưng tăng chậm hơn so với năm 2000. Cuối năm 2001, con số này đã đạt được 21 tỷ 937 (trđ); tác là đã tăng lên 5.509 (trđ), tương ứng với một tỷ lệ tăng là 33%. Nhìn vào bảng trên ta thấy khả năng chiếm dụng vốn của công ty đối với khách hàng là khá cao, đó là những dấu hiệu tốt nếu như đánh giá theo giác độ huy động vốn khi cần cho kinh doanh, tuy nhiên cũng phải thấy rằng chiếm dụng nhiều thì trách nhiệm của công ty đối với khách hàng của mình sẽ càng lớn, tất yếu đòi hỏi các nhà lãnh đạo công ty phải xem xét.
2.1.2.5. Các nguồn vốn khác.
Bên cạnh các nguồn huy động vốn cơ bản ở trên thì cũng còn có một số con đường huy động vốn khác nữa mà các công ty, các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay đang áp dụng để nâng cao năng lực vốn cho mình. Ví dụ như: chệnh lệch đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỉ giá, nhận kí quĩ, ký cược dài hạn, khoản phải thanh toán nhưng nhưng chưa đến kỳ thanh toán… chúng tạo nên nguồn huy động cho doanh nghiệp và ở đây chúng được xếp vào khoản: các nguồn huy động vốn khác.
ở Công ty phát hành sách Hà Nội, theo báo cáo tài chính thì có khá nhiều khoản được xếp vào phần này, tuy nhiên qui mô của các khoản này thường khá nhỏ, không diễn ra thường xuyên; nhưng khi cần thiết thì việc huy động có hiệu quả các nguồn này sẽ giúp cho công ty có thêm những khoản vốn nhất định để có thể bổ sung cho lượng vốn hạn hẹp của mình. Năm 2000 và năm 2001, lượng tiền nhận kí quỹ, kí cược dài hạn của công ty đã không thay đổi ở mức 65 (trđ), đây là khoản mục không có sự biến động duy nhất trong 2 năm 2000 - 2001 (theo số liệu của báo cáo tài chính), các khoản mục khác có qui mô từ vài triệu cho đến vài chục triệu đồng, tuy nhiên ở đó sự biến động là khá lớn.
Đây là nguồn huy động không thường xuyên, qui mô không lớn, nhưng bất kể một công ty, một doanh nghiệp nào cũng đều phải lưu ý tới nó, nếu như có khả năng khai thác thì phải triệt để khai thác và khai thác có hiệu quả.
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty.
2.2.1. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có các loại tài sản, bao gồm tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, đầu tư dài hạn và TSCĐ. Để hình thành các nguồn tài sản này, thì doanh nghiệp phải có những nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn để tài trợ. Tất cả những nguồn vốn đó hình thành lên nguồn vốn kinh doanh của công ty.
Bảng 5: Tình hình vốn kinh doanh tại cuối các năm.
STT
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm2001
1
- Vốn dài hạn
3.035
3.170
+ Vốn chủ sở hữu
1.885
2.301
+ Nợ dài hạn
1.150
869
2
- TSCĐ và đầu tư dài hạn
1.107
1.174
+ TSCĐ
1.107
1.174
+ Các khoản đầu tư dài hạn
0
0
+ Xây dựng cơ bản dở dang
0
0
3
- Vốn ngắn hạn
24.763
23.226
+ Nợ khác
55
65
+ Nợ ngắn hạn
24.698
23.163
4
Tài sản lưu động
26.691
25.224
5
Vốn lưu động thường xuyên
1.928
1.996
Nguồn: Báo cáo tài chính
Nhìn vào số liệu trên ta thấy: Nguồn vốn dài hạn của công ty đã tăng lên từ 3 tỷ 35 trđ tới 3 tỷ 170 (trđ), tức là đã tăng lên 135 (trđ), nguồn tăng này là do vốn chủ sơ hữu tăng lớn, từ 1 tỷ 885 (trđ) lên tới 2 tỷ 301 (trđ), tức là đã tăng 416 (trđ), trong khi đó nợ dài hạn của công ty đã giảm xuống từ 1 tỷ 150 (trđ) vào năm 2000 đã xuống còn 869 (trđ) tứ là trong năm 2001 công ty đã trả 281 (trđ) tiền nợ dài hạn.
Bên cạnh đó thì TSCĐ và đầu tư dài hạn của công ty cũng đã có sự tăng lên tức mức 1 tỷ 174 (trđ), tức là đã tăng lên 67 (trđ). (ở đây là tính theo giá trị còn lại tới thời điểm cuối năm). Nguồn tăng này hoàn toàn do TSCĐ tăng, còn các khoản đầu tư dài hạn và xây dựng cơ bản dở dang của công ty đều không có. TSCĐ tăng về số tuyệt đối chứng tỏ công ty đã có sự chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nâng cấp trang thiết bị, mặc dù con số này còn rất nhỏ.
Vốn ngắn hạn của công ty lại có sự giảm xuống, cuối năm 2000, con số vốn ngắn hạn của công ty đạt 24 tỷ 763 (trđ), tuy nhiên đến cuối năm 2001, con số này đã giảm xuống chỉ còn có 23 tỷ 228 (trđ), tức là đã giảm đi 1 tỷ 535 (trđ). Sự giảm đi này hoàn toàn là do nợ ngắn hạn đã bị giảm từ 24 tỷ 698 (trđ) cuối năm 2000 xuống còn 23 tỷ 163 trđ đồng nghĩa với giảm 1 tỷ 535 (trđ). Còn các khoản nợ khác của công ty thì không có sự thay đổi ổn định ở mức 65 (trđ).
Đồng nghĩa với việc vốn ngắn hạn bị giảm trong cuối 2 năm 2000 và 2001 thì tài sản lưu động của công ty cũng đã có sự giảm xuống. Cuối năm 2000, tài sản lưu động của công ty đạt 26 tỷ 691 (trđ), tuy nhiên đến cuối năm 2001 thì nó chỉ còn 25 tỷ 224 (trđ), tức là đã giảm đi một khoản 1 tỷ 467 (trđ).
Vốn lưu động thường xuyên của công ty đã có sự tăng lên (cuối năm 2000, vốn lưu động thường xuyên đạt 1 tỷ 928 (trđ), đến cuối 2001 đạt 1 tỷ 996 (trđ), tức là đã tăng lên một lượng là 68 (trđ). Điều đó qua bảng có thể thấy rõ theo 2 xu hướng:
+ Vốn dài hạn của công ty tăng, TSCĐ và đầu tư dài hạn của công ty cũng tăng, tuy nhiên mức độ tăng của vốn dài hạn của công ty cao hơn mức độ tăng của TSCĐ và đầu tư dài hạn.
+ Vốn ngắn hạn của công ty giảm, TSLĐ của công ty cũng bị giảm nhưng mức độ giảm của TSLđ ít hơn mức độ giảm của vốn ngắn hạn.
Bây giờ chúng ta đi xem xét cơ cấu nguồn vốn của công ty. Theo bảng số liệu trên ta thấy một số nét nổi bật sau:
+ Tài sản lưu động của công ty chiếm một tỷ trọng lớn: năm 2000, tài sản lưu động đã chiếm tới 96%, tức là TSCĐ của công ty chỉ có chiếm 4%. Điều này có thể giải thích là do công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất bản văn hóa phẩm cho nên lượng vốn lưu động lớn để phục vụ cho việc xuất bản, liên doanh liên kết và mua văn hóa phẩm nước ngoài.
+ Vốn ngắn hạn của công ty cũng chiếm một tỷ trọng rất lớn, năm 2000, vốn ngắn hạn chiếm tới 89% tổng nguồn vốn, tức là vốn dài hạn chỉ chiếm có 11%. Nguồn vốn ngắn hạn lớn như vậy chủ yếu là do lượng nợ ngắn hạn là khá lớn. Năm 2001, vốn ngắn hạn chiếm 88% tổng nguồn vốn, vốn dài hạn chỉ chiếm 12%. ở đây ta cũng thấy nợ ngắn hạn lớn. Năm 2000, tổng nợ ngắn hạn /tổng nguồn vốn =88,85%; tỷ lệ này trong năm 2001 là 87,75%.
Bên cạnh đó một xu hướng được thể hiển rõ trong bảng trên là: Khi mà vốn dài hạn tăng thì tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng. Khi nguồn vốn ngắn hạn giảm thì tài sản lưu động cũng giảm, mặc dù số tăng (giảm) này là không khớp nhau nhưng đó cũng là một xu hướng hợp lý.
Tóm lại, qua các số liệu đã có của công ty và các số liệu vừa phân tích ta thấy tài sản lưu động của công ty là rất lớn, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mà để tài trợ cho TSLĐ này thì ngoài lượng vốn ngắn hạn là chủ yếu còn có lượng vốn lưu động thường xuyên bổ trợ. Như vậy cần phải xem xét nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty.
Bảng 6: Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên.
STT
Chỉ tiêu
Năm 2000 (trđ)
Năm 2001 (trđ)
1
Nợ ngắn hạn
24.763
23.228
2
Các khoản phải thu
14.984
9.765
3
Hàng tồn kho
9.724
14.135
4
Nhu cầu VLĐTX [=(2)+(3)-(1)]
- 55
672
Nguồn: Báo cáo tài chính của công ty.
Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy: năm 2000, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là âm, tức là công ty không cần có nhu cầu vốn lưu động thường xuyên.
Năm 2001 con số này đã tăng lên tới 672 (trđ, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên lớn thể hiện cơ cấu vốn của công ty đã có sự thay đổi. Trong năm 2001, các khoản phải thu và hàng tồn kho đã lớn hơn nợ ngắn hạn, do vậy phải bổ sung nguồn vốn lưu động cho hoạt động của công ty.
2.2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định
Để xem xét thực trạng sử dụng vốn cố định của công ty, ta căn cứ vào năng lực hoạt động của TSCĐ thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định, mức sinh lợi của TSCĐ…
Bảng 7: Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Đơn vị: triệu động
STT
Chỉ tiêu
Năm
So sánh
2000
2001
Tuyệt đối
Tương đối (%)
1
Doanh thu thuần
35.106
35.088
- 18
- 0,05
2
Lợi nhuận trước thuế
163
203
40
24,54
3
NG TSCĐ bình quân
1.348
16.88
340
25,2
4
Vốn cố định bình quân
892
1.091
199
22,31
5
Hiệu suất sử dụng VCĐ
39,35
32,16
- 7,19
- 18,27
6
Hiệu quả sử dụng VCĐ
0,183
0,186
0,003
1,64
7
Suất hao phí VCĐ
0,02
0,031
0,006
24
8
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
26,04
20,79
- 5,25
- 20,16
9
Mức sinh lợi của TSCĐ
0,121
0,12
- 0,001
- 0,83
10
Suất hao phí TSCĐ
0,038
0,048
0,01
26,32
(Nguồn: Báo cáo tài chính công ty)
Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy: năm 2001 so với năm 2000, các chỉ tiêu về hiệu suất sử dụng TSCĐ và mức sinh lợi TSCĐ đều giảm, tương ứng với một lượng giảm là 20,16% và 0,83%.
Năm 2000, bình quân 1 đồng TSCĐ bỏ vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra được 0,121 đồng lợi nhuận trước thuế. Đến năm 2001, bình quân 1 đồng TSCĐ bỏ vào kinh doanh tạo ra được 0,12 đồng lợi nhuận trước thuế. Tức là mức sinh lợi của TSCĐ năm 2001 đã giảm đi 0,83% so với năm 2000. Ta thấy rằng mặc dù lợi nhuận trước thuế có tăng trong 2 năm, tuy nhiên TSCĐ cũng tăng lên và tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng của lợi nhuận trước thuế. Vì vậy mà mức sinh lợi TSCĐ bị giảm xuống.
Bên cạnh đó, năm 2000, bình quân 1 đồng TSCĐ bỏ vào kinh doanh tạo ra được 26,04 đồng doanh thu doanh thu thuần. Đến năm 2001 bình quân 1 đồng TSCĐ bỏ vào hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ tạo ra được có 20,79 đồng doanh thu thuần. Như vậy hiệu suất sử dụng TSCĐ năm 2001 đã giảm đi 20,10% so với năm 2000. Năm 2000, bình quân đồng vốn TSCĐ bỏ vào sản xuất kinh doanh tạo ra được nhiều hơn so với năm 2001 là 5,25 đồng doanh thu thuần.
Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy: lí do làm hiệu suất sử dụng TSCĐ của công ty bị giảm đi là vì doanh thu năm 2001 sơ với năm 2000 đã bị giảm đi 0,05% khi đó nguyên giá TSCĐ bình quân năm 2001 so với năm 2000 tăng lên 25,2%.
Suất hao phí TSCĐ của công ty năm 2001 đã tăng 26,32% so với năm 2000 ( từ mực 0,083d/đ năm 2000 đã lên tới 0,048 đ/đ năm 2001
Ta thấy hiệu suất sử dụng TSCĐ, mức sinh lợi của TSCĐ bị giảm xuống trong khi đó suất hao phí TSCĐ lại tăng lên điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng TSCĐ của công ty là chưa cao.
Năm 2000, hiệu suất sử dụng vốn cố định của công ty đã đạt 39,35 đ/đ, tức là cứ 1 đồng cố định bỏ vào kinh doanh thì tạo ra được39,35 đồng doanh thu thuần.
Năm 2001, hiệu suất sử dụng vốn cố định của công ty đạt 32,16 đ/đ tức là cứ một đồng vốn cố định bỏ ra hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra được 32,16đồng doanh thu thuần.
So sánh 2 năm 2001 và năm 2000 ta thấy hiệu suất sử dụng vốn cố định đã giảm đi 7,19 đ/đ, nghĩa là bình quân 1 đồng vốn cố định bỏ vào sản xuất kinh doanh thì lượng doanh thu thuần năm 2000 tạo ra nhiều hơn năm 2001 là 7,19 đồng, tức là đã giảm đi 18,27%.
Năm 2000, hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty đạt 0,183 đ/đ tức là bình quân cứ 1 đồng vốn cố định bỏ vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ tạo ra được 1,183 đồng lợi nhuận trước thuế. Năm 2001 chỉ tiêu này đã đạt 0,186 đ/đ, nghĩa là bình quân 1 đồng vốn cố định bỏ vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra được 0,186 đồng lợi nhuận trước thuế.
So sánh 2 năm 2000 và 2001 ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty đã tăng 0,003 đ/đ nghĩa là bình quân 1 đồng vốn cố định bảo vào sản xuất kinh doanh thì lượng lợi nhuận trước thuế tạo ra được năm 2001 đã tăng 0,003 đ/đ, tức là tăng 1,64%.
Sở dĩ hiệu suất sử dụng vốn cố định của công ty bị giảm là vì năm 2001 so với năm 2000 tổng doanh thu thuần bị giảm đi, trong khi đó thì vốn cố định bình quân lại tăng lên, do vậy mà thương số giữa doanh thu thuần và vốn cố định có bình quân (tức là hiệu suất sử dụng vốn cố định) bị giảm. Hiệu quả sử dụng vốn cố định năm 2001 tăng so với năm 2000 là do mặc dù lợi nhuận trước thuế (24,54%) cao hơn tốc độ tăng của vốn cố định bình quân (23,31%).
Đánh giá về suất hao phí vốn cố định chúng ta thấy một thực tế là năm 2000 để tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần, chúng ta phải sử dụng 0,025 đồng vốn cố định.
Tuy nhiên đến năm 2001, để tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần trước thuế, công ty đã phải sử dụng tới 0,031 đồng vốn cố định.
Như vậy, để cùng tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần năm 2001 chúng ta phải sử dụng 1 lượng vốn cố định nhiều hơn 0,006 đồng so với năm 2000 tương ứng với tỷ lệ tăng là 24%.
Qua một vài sự phân tích sơ bộ trên, chúng ta thấy rằng trong 2 năm 2000 và 2001 thực tế hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty là chưa thật sự có hiệu quả, bởi các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty là chưa thật sự có hiệu quả, bởi các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định hầu hết là bị giảm, chỉ có chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định là tăng nhưng tăng với một tỷ lệ thấp. Bên cạnh đó các chỉ tiêu phản ánh mức hao phí lại tăng với tốc độ cao.
Chính vì hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty là chưa thật cao cho nên trong mấy năm tới đây, công ty cần có các biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Một trong các biện pháp mà công ty chủ trương áp dụng đó chính là công tác khấu hao thu hồi vốn cố định nhằm để tái mở rộng sản xuất, bởi vì nếu khấu hao hợp lý chúng ta sẽ thu hồi đủ và nhanh các nguồn vốn cố định, từ đó bổ sung nguồn vốn kinh doanh cho phép công ty có thể cải tạo, sửa chữa và mua sắm mới các tài sản cố định phục vụ cho hoạt động của mình.
Như chúng ta đã biết, trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một bộ phận của tài sản cố định được chuyển hóa vào giá trị của sản phẩm, bộ phận còn lại được lưu giữ trong tài sản. như vậy sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, một bộ phận của vốn cố định được chuyển hóa hành hình thái tiền tệ và được doanh nghiệp thu hồi lại dưới hình thức trích khấu hao TSCĐ. Để đảm bảo cho việc bảo toàn và phát triển năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giá trị trích khấu hao phải phù hợp với giá trị hao mòn thực tế của tài sản (kể cả hao mòn hữu hình cũng như hao mòn vô hình) và doanh nghiệp phải có kế hoạch sử dụng quỹ khấu hao để đầu tư trang bị TSCĐ một cách có hiệu quả.
Việc trích khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp chỉ có thể thực sự chính xác khi đáp ứng được 3 yêu cầu trong việc quản lý vốn cố định:
Thứ nhất, doanh nghiệp phải thường xuyên đánh giá và đánh giá lại TSCĐ, thông qua kiểm kê, theo dõi TSCĐ để giá trị TSCĐ thực tế khớp đúng với giá trị trên sổ sách. Nguyên giá và giá trị còn lại TSCĐ là cơ sở quan trọng để điều chỉnh việc tính khấu hao đảm bảo phù hợp chính xác.
Thứ hai, doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp tính khấu hao phù hợp. Lựa chọn phương pháp tính khấu hao, doanh nghiệp phải căn cứ trên mức độ hao mòn thực tế, đặc biệt là hao mòn vô hình của tài sản, những tài sản có thể nhanh chóng được cải tiến, thay thế bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật cần phải được khấu hao nhanh để tránh rủi ro hao mòn vô hình lớn.
Thứ ba, doanh nghiệp phải đặt ra mức khấu hao hợp lý, mức khấu hao phải phụ thuộc vào phương pháp tính khấu hao và tình hình sử dụng tài sản trong thực tế hoạt động kinh doanh. Những tài sản hoạt động liên tục hao mòn hữu hình của nó. Những tài sản tạm thời không được sử dụng cũng có mức khấu hao riêng để đảm bảo giá trị thực tế phù hợp với giá trị sổ sách.
Tại công ty phát hành sách Hà Nội, trong thời gian qua, việc quản lý và thu hồi vốn cố định đã được chú ý, công ty đã xây dựng định mức kế hoạch cho TSCĐ hàng năm được thể hiện trong công tác kế hoạch hóa việc thu hồi, bảo toàn và phát triển vốn cố định. Về việc xây dựng phương pháp tính khấu hao thì công ty áp dụng phương pháp tính khấu hao tuyến tính.
Bảng 8: Tình hình trích khấu hao TSCĐ của công ty phát
hành sách Hà Nội
Đơn vị: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
1
Nguyên giá
1.084
1.613
1.613
1.703
2
Hao mòn lũy kế
407
506
506
589
Nguồn: Báo cáo tài chính công ty phát hành sách Hà Nội
2.2.3. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.2.3.1. Cơ cấu TSLĐ của công ty phát hành sách Hà Nội
Bảng 8: Cơ cấu TSLĐ của công ty phát hành sách Hà Nội cuối
mỗi năm
Đơn vị: Triệu đồng
Khoản mục
Năm
Lượng tăng giảm
% tăng giảm
2000
2001
1. Tiền
808
1.262
454
56,2
2. Đầu tư tài chính ngắn hạn
-
-
3. Các khoản phải thu
14.984
9.765
-5.219
-34,83
- Các khoản phải thu khách hàng
11.024
8.297
-2727
-24,74
- Trả trước cho người bán
3.587
465
-3.122
-87,04
- Thuế GTGT được khấu trừ
3
-
-3
-
- Phải thu nội bộ
324
430
106
32,72
- Các khoản phải thu khác
46
573
527
1.145,65
- Dự phòng các khoản thu khó đòi
-
-
-
-
4. Hàng tồn kho
9.724
14.135
4.411
45,36
- Hàng mua đang đi đường
-
-
-
-
- NL, VL tồn kho
-
-
-
-
- Công cụ, dụng cụ trong kho
38
23
-15
-39,47
- Chi phí SXKD dở dang
-
-
-
-
- Thành phẩm tồn kho
-
-
-
-
- Hàng hóa tồn kho
9.686
14.112
4.426
45,69
- Hàng gửi bán
-
-
-
-
- Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
-
-
-
-
5. Tài sản lưu động khác
1.175
62
-1.113
-94,72
- Tạm ứng
50
41
-9
-18
- Chi phí trả trước
-
3
3
-
- Chi phí chờ kết chuyển
1.125
-
-1.125
-
- Tài sản thiếu chờ xử lý
-
18
18
-
- Các khoản thế chấp, ký cược
-
-
-
-
Cộng
26.691
25.224
-1.467
-5,5
Nguồn: Báo cáo tài chính công ty phát hành sách Hà Nội
Qui mô vốn lưu động của công ty là rất lớn, năm 2000 tổng lượng vốn lưu động của công ty đạt con số 20.691 triệu đồng. Năm 2001, con số này là 25.224 (trđ). Như vậy có qui mô rất lớn so với tổng vốn của công ty, tuy nhiên ta thấy năm 2001, lượng vốn lưu động đã giảm đi 1.467 trđ so với năm 2000, tương ứng với một mức giảm 5,5%. Sự giảm xuống này chủ yếu là do sự giảm xuống của 2 khoản mục: Tài sản lưu động khác và các khoản phải thu.
Năm 2000, lượng tiền của công ty có là 808 trđ, đến năm 2001 con số này đã lên tới 1.262 trđ, tức là đã tăng lên 454 triệu tương ứng với một tỷ lệ tăng lên là 56,2%. Đây là một tỷ lệ tăng cao, phản ánh sự chú ý đến việc sử dụng tiền mặt và các khoản tương đương tiền của công ty, đó cũng là một điều hoàn toàn hợp lý bởi vì sử dụng tiền thì sẽ có nhiều lợi thế trong cạnh tranh, buôn bán.
Năm 2000, khoản mục các khảon phải thu xuất hiện trên sổ sáhc kế toán của công ty là 14.984 trđ. Đến năm 2001, con số này ở mức 9.765 trđ. Như vậy khoản mục các khoản phải thu vào cuối năm 2001 so với năm 2000 đã giảm đi một lượng là 4.411 trđ, tương ứng với một tỷ lệ giảm là 45,36%. Đây là một điều đáng mừng đối với công ty, bởi vì các khoản phải thu giảm xuống thể hiện rằng công ty đã không bị khách hàng và các đối tác chiếm dụng vốn của mình. Tuy nhiên qua bảng trên chúng ta thấy rằng: mặc dù về tổng thể thì phải thu là giảm xuống, tuy nhiên sự tăng giảm của các tiểu khoản là không đồng đều, có tiểu khoản tăng, có tiểu khoản giảm.
+ Năm 2000, khoản mục phải thu khách hàng là 11.024 trđ; đến năm 2001, con số này là 8.297 trđ, tức là đã giảm đi 2.727 trđ tương ứng với một tỉ lệ giảm là 24,74%.
+ Năm 2000, khoản mục thuế GTGT được khấu trừ là 3 (trđ), con số này ở cuối năm 2001 là không có, như vậy khoản mục này đã giảm đi 3 (trđ).
+ Năm 2000, các khoản phải thu nội bộ là 324 (trđ), và cuối năm 2001 là 430 (trđ), tăng 106 (trđ) so với cuối năm 2000, tương ứng với một tỷ lệ tăng là 32,72%.
+ Năm 2000, các khoản phải thu khác đạt ở mức 46 (trđ), đến cuối năm 2001, con số này đã lên tới 573 (trđ), tức là đã tăng lên 527 (trđ), tương ứng với 1 tỷ lệ tăng là 1.145,65%. Tốc độ tăng này là quá lớn.
Như vậy các tiểu khoản trong phần các khoản phải thu biến động là không giống nhau, mỗi khoản mục có sự lên xuống khác nhau. Tuy nhiên tổng hợp lại thì các khoản phải thu giảm xuống là một tín hiệu đáng mừng cho hoạt động của công ty.
Năm 2000, khoản mục hàng tồn kho của công ty đạt con số 9.724 (trđ), đến cuối năm 2001, con số này đã lên tới 14.135 (trđ), nghĩa là đã tăng lên 4.411 (trđ), tương ứng với một tỷ lệ tăng là 45,36%. Hàng tồn kho có xu hướng tăng lên là một tín hiệu không tốt đối với công ty, đòi hỏi công ty phải có chính sách thích hợp để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tìm kiếm thị trường mới, đồng thời cần xem xét nghiên cứu kỹ thị trường để có thể tìm ra những chính sách nhằm sản xuất, xuất bản những thứ thị trường cần.
Nhìn vào báo cáo trên chúng ta thấy trong khoản mục hàng tồn kho chỉ xuất hiện ở 2 tiểu khoản, đó là công cụ dụng cụ trong kho và hàng hóa tồn kho.
Năm 2000, lượng công cụ, dụng cụ trong kho đạt con số 38 (trđ), đến cuối năm 2001, lượng này đã bị giảm xuống còn 23 (trđ), tức là giảm xuống 15 (trđ), tương ứng với một tỷ lệ giảm là 39,47%.
Năm 2000, tiểu khoản hàng tồn kho đạt con số 9.686 (trđ), đến cuối năm 2000, tiểu khoản này có giá trị là 14.112 (trđ), tức là đã tăng lên 4.426 (trđ), tương ứng với một tỷ lệ tăng là 45,69%.
Khoản mục TSLĐ khác trên báo cáo tài chính công ty cũng có sự giảm xuống rõ rệt, năm 2000, TSLĐ khác của công ty chiếm 1.175 (trđ), đến cuối năm 2001, khoản mục này chỉ còn có 62 (trđ), tức là đã bị giảm đi 1.113 (trđ), tương ứng với một tỷ lệ giảm là 94,72%. Các tiểu khoản cũng có sự biến động nhất định. Tiểu khoản tạm ứng năm 2000 là 50 (trđ) nhưng đến cuối năm 2001 chỉ còn có 41 (trđ) tức là đã bị giảm đi 9 (trđ), tương ứng với một tỷ lệ giảm tạm ứng là 18%.
Tiểu khoản chi phí trả trước ở năm 2000 là không có, tuy nhiên đến cuối năm 2001, con số này là 3 (trđ). Như vậy so với năm 2000, thì năm 2001 tiểu khoản này đã tăng lên 3 (trđ). Tiểu khoản chi phí chờ kết chuyển cũng có sự biến động lớn, năm 2000, chỉ tiêu này có giá trị là 1.125 (trđ) nhưng đến cuối năm 2001, thì không có tiểu khoản này. Như vậy so với năm 2000 thì năm 2001 chi phí chờ kết chuyển giảm đi 1.125 (trđ).
Tiểu khoản tài sản thiếu chờ xử lý cũng có sự biến động. Năm 2000, tiểu khoản này là không có nhưng đến cuối năm 2001 tiểu khoản này đã tăng lên đến 18 (trđ). Như vậy so với cuối năm 2000, thì năm 2001, tiểu khoản tài sản thiếu chờ xử lý đã tăng lên 18 trđ.
Trên đây là các khoản mục chủ yếu có tác động lớn đến cơ cấu vốn lưu động của công ty. Tuy nhiên đó mới chỉ là phản ánh về mặt lượng, chưa nói đến mức độ hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty. Để phân tích kĩ hơn điều đó ta phải xem xét các chỉ tiêu cụ thể ở phần tới.
2.2.3.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty.
Để xem xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp ta dùng các chỉ số như hệ số đảm nhiệm, mức sinh lời và các chỉ tiêu phản ánh tốc độ chu chuyển VLĐ như số vòng quay VLĐ, thời gian của một vòng quay VLĐ, thời gian của vòng luân chuyển.
Bảng 9: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
So sánh
2000
2001
Lượng tăng giảm
% tăng giảm
1
Doanh thu thuần
tr.đ
35.106
35.088
-18
-0,05
2
Lợi nhuận trước thuế
tr.đ
163
203
40
24,54
3
Vốn lưu động bình quân
tr.đ
19.183
21.966
2783
14,5
4
Mức sinh lời của VLĐ
-
0,0085
0,0092
0,0007
8,24
5
Hệ số đảm nhiệm VLĐ
-
0,546
0,626
0,08
14,65
6
Số vòng quay của VLĐ
vòng
1,83
1,6
-0,23
-12,57
7
Thời gian 1 vòng luân chuyển
ngày
197
225
28
14,2
Nguồn: Báo cáo tài chính công ty phát hành sách Hà Nội
Ta nhận thấy mức sinh lợi của VLĐ đã tăng qua 2 năm. Năm 2000, bình quân 1 đồng VLĐ bỏ vào hoạt động kinh doanh chỉ tạo ra được 0,0085 đồng lợi nhuận trước thuế. Đến năm 2001, bình quân 1 đồng VLĐ bỏ vào hoạt động kinh doanh tạo ra được 0,0092 đồng lợi nhuận trước thuế. Như vậy nếu so sánh 2 năm ta thấy, ở năm 2001 nếu như cùng bỏ ra 1 đồng VLĐ để kinh doanh thì năm nay sẽ tạo ra nhiều hơn 0,0007 đồng lợi nhuận trước thuế so với năm 2000, tương ứng với 1 tỷ lệ tăng là 8,24%.
Nhìn vào số liệu ta cũng thấy năm 2001 so với năm 2000 thì lượng lượng nhuận trước thuế và lượng vốn lưu động bình quân cũng tăng lên, tuy nhiên do tốc độ tăng của lợi nhuận trước thúê (ở đây là 24,54%) nhanh hơn tốc độ tăng của VLĐ bình quân (14,5%) do vậy mà mức sinh lợi VLĐ năm 2001 tăng so với năm 2000.
VLĐ bình quân tăng khá nhanh, năm 2001 so với năm 2000, tốc độ tăng đạt 14,5% tương gứng với số tuyệt đối là 2.783 (trđ). Trong khi đó doanh thu thuần lại có xu hướng giảm. năm 2001 so với năm 2000, doanh thu thuần giảm 0,05% tương ứng với giảm 18 (trđ). Vì vậy mà hệ số đảm nhiện VLĐ bị tăng.
Năm 2000, để tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần ta phải sử dụng bình quân 0,546 đồng VLĐ tuy nhiên đến năm 2001 để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần chúng ta phải dùng tới 0,626 đồng VLĐ, tức là đã tăng lên 14,65% so với năm 2000 tương ứng với tăng 1 số tuyệt đố là 0,08 đồng/đồng. Hệ số đảm nhiệm VLĐ năm sau cao hơn năm trước chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngày càng thấp dẫn, không tiết kiệm được VLĐ.
Ngoài 2 chỉ tiêu trên, để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta còn phải xem xét tới chỉ tiêu số vòng quay của VLĐ và thời gian của 1 vòng luân chuyển VLĐ vì nó cho ta biết khả năng quay vòng vốn lưu động của doanh nghiệp. Năm 2001 so với năm 2000, số vòng quay của VLĐ bị giảm, trong năm 2000, vốn lưu động quay được 1,83 lần thì đến năm 2001, vốn lưu động chỉ còn quay được có 1,6 lần. Doanh thu thuần của năm 2001 giảm 0,05% so với năm 2000 tương ứng với số tuyệt đối là 2.783 (trđ). Chính điều đó đã làm cho số vòng quay của VLĐ năm 2001 đã giảm 12,57% so với năm 2000 tương ứng với số tuyệt đối giảm là 0,23 vòng quay.
Đồng nghĩa với điều đó là thời gian của 1 vòng luân chuyển VLĐ cũng tăng lên. Năm 2000, thời gian này là 197 (ngày) và đến năm 201 thời gian này đã lên tới 225 ngày, tức là năm 2001, VLĐ quay 1 vòng lâu hơn năm 2000 là 28 ngày, tương ứng với số tương đối là 14,2%. Điều đó cho thấy việc thu hồi VLĐ là tương đối chậm và nó làm ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng VLĐ nói riêng.
2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty phát hành sách
2.3.1. Những kết quả đã đạt được
Qua việc phân tích thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn tại công ty phát hành sách Hà Nội có thể thấy những kết quả mà công ty đã đạt được trong việc sử dụng vốn là:
- Trong việc huy động các nguồn tài trợ: ngoài nguồn vốn do ngân sáhc cấp bổ sung, công ty còn tiến hành hàng loạt các biện pháp khác như vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, có các biện pháp nhằm chiếm dụng vốn của đối tác như mua chịu hay dùng các khoản được ứng trước để phục vụ cho hoạt động kinh doanh và sản xuất của công ty.
- Đã có sự linh hoạt trong việc điều hành sử dụng các nguồn vốn hiện có của công ty một cách hợp lý, do vậy mà vẫn đảm bảo được nhu cầu về vốn cho hoạt động của công ty.
- Đã xây dựng được kế hoạch sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu của đơn vị mình là đơn vị sản xuất kinh doanh văn hóa phẩm.
- Tình hình sử dụng vốn cố định của công ty mặc dù chưa phải đạt ở mức cao, nhưng cũng có những tín hiệu đáng mừng, lượng vốn cố định cần thiết để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần đã giảm qua 2 năm phân tích (2000 - 2001).
- Tình hình sử dụng VLĐ của công ty cũng có những kết quả đạt được nhất định, lượng lợi nhuận trước thuế được tạo ra khi ta sử dụng cùng 1 đồng VLĐ đã tăng lên qua 2 năm phân tích (2000 - 2001).
- Bên cạnh đó việc quản lý tốt "Các khoản phải thu" đã giúp cho công ty thu hồi được 1 lượng lớn VLĐ, hạn chế được lượng VLĐ của công ty bị đối tác chiếm dụng, tránh được tổn thất không đáng có cho công ty.
- Trong cơ cấu vốn của công ty thì VLĐ chiếm 1 tỷ trọng lớn hơn hẳn so với VCĐ, điều này là hợp lí bởi công ty là một đơn vị kinh doanh là chủ yếu, xuất bán và sản xuất không nhiều.
Từ những kết quả đạt được ở trên, chúng ta tin tưởng rằng công ty sẽ có một khả năng về nguồn vốn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty không ngừng ổn định và phát triển vững chắc. Chúng ta tin rằng trong những năm tới đây các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của công ty sẽ được cải thệin.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
Mặc dù nguồn vốn của công ty qua 2 năm phân tích đều tăng lên, tuy nhiên nguồn vốn chủ sở hữu lại tăng chậm hơn, điều này làm cho khả năng độc lập về tài chính của công ty là không lớn. Bên cạnh đó lượng vốn đầu tư cho TSCĐ lại chiếm một tỷ trọng nhỏ, chủ yếu tập trung vào VLĐ, từ đó mà làm cho lượng TSCĐ của công ty là tương đối nhỏ.
Khoản mục hàng tồn kho của công ty chiếm 1 tỷ trọng rất lớn trong nguồn VLĐ nói riêng và tổng nguồn vốn nói chung. Nó đã làm cho công ty không những bị đóng băng nguồn vốn ở đây mà còn phải tốn thêm các chi phí phụ khác như chi phí kho hàng, chi phí bảo quản…
Hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty cũng còn có những vấn đề chưa thật tốt, nó được thể hiện qua chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm VLĐ có xu hướng tăng, bên cạnh đó số vòng quay của VLĐ lại giảm đồng nghĩa với việc thời gian của 1 vòng luân chuyển bị tăng lên. Đó là 1 sự bất hợp lý trong một số khâu như tiêu thụ sản phẩm, xác định đúng 1 lượng vốn lưu động cần thiết. Trong việc quản lý và sử dụng TSCĐ thì mặc dù công ty đã có kế hoạch tu sửa, cải tạo theo định kỳ nhưng chưa thực hiện được với việc xác định hiệu quả của công tác sửa chữa đối với từng loại TSCĐ cụ thể. Mặt khác chi phí sửa chữa chưa được quản lý chặt chẽ và chưa có định mức.
Việc phân loại TSCĐ cũng chưa được hợp lý, điều này đã gây cho công ty khó khăn trong quản lý nguồn vốn và công tác trích khấu hao. Do vậy cần phải có các biện pháp khắc phục.
Trên đây là một số tồn tại và nguyên nhân trong việc sử dụng vốn tại Công ty phát hành sách trong thời gian qua. Từ đó tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty Phát hành sách Hà Nội
3.1. Định hướng phát triển của công ty
Thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị bám sát và tổ chức các hoạt động nhằm gây lí ngày kỉ niệm lớn của đất nước.
Mở rộng lưới phát hành sách tới các quận, huyện chưa có hoặc có ít các cơ sở phát hành sách của công ty.
Phấn đấu xây dựng được bốn siêu thị sách và hiệu sách hiện đại ở quận Cầu Giấy - Huyện Thanh Trì, huyện sóc sơn.
Tiếp tục xây dựng dự án xin cấp đất ở quận Đống Đa - Thanh Xuân- Tây Hồ
Tăng cường công tác Marketing nhằm nắm bắt nhanh nhạy cầu của thị trường khai thác được nhiều xuất bản phẩm có giá trị.
Từng bước công tác xuất nhập khẩu liên doan liên kết xuất bản nhằm chủ dodọng nguồn sách, tiến tới làm chủ thị trường phía Bắc. Xây dựng bộ phận xuất nhập khẩu có đủ năng lực trình độ đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ.
Giữ vững và không ngừng nâng cao đời sống cho người lao động, từng bước cải thiện điều kiện làm việc, đáp ứng ngày càng tốt hơn đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên thực hiện tốt quy chế dân chủ trong công ty giúp người lao động phát huy quyền làm chủ ngay càng gắn bó và công hiến nhiều cho công ty.
Tăng cường mở rộng thị phần đẩy mạnh tiêu thụ xuất bản phẩm ở cả thị trường trong nước và ngoài nước .
Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, chủ động vốn đầy đủ cho kinh doanh, chiếm lĩnh thời cơ trong kinh doanh để đạt được hiệu quả cao.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty Phát hành sách Hà Nội
3.2.1. Giảm chi phí lãi vay và lãi suất tiền vay.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, bất kỳ một công ty nào cũng phải sử dụng các khoản tiền vay, mà đã đi vay thì phải chịu lãi, chi phí lãi vay và lãi suất tiền vay là những chi phí của khoản vốn vay, tức là 1 chi phí của doanh nghiệp. Giảm chi phí lãi vay và lãi suất tiền vay sẽ làm cho công ty hạn chế được những khoản chi phí, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty.
Nguồn vốn vay cũng là 1 khoản mục tham gia vào việc hình thành nguồn vốn của công ty phát hành sách Hà Nội, do vậy để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty, công ty cần phải có các biện háp nhằm giảm chi phí lãi vay và lãi suất tiền vay.
3.2.2. Tăng tỉ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn.
Vốn chủ sở hữu thực tế là khoản vốn thuộc sở hữu trực tiếp của chủ doanh nghiệp. ở công ty phát hành sách Hà Nội, nguồn vốn chủ sở hữu cũng khá lớn. Tuy nhiên nếu như tăng được tỷ trọng vốn chủ sở hữu lên thì tỉ lệ nợ sẽ giảm, công ty có thể nâng cao được tính tực chủ về tài chính của mình. Bên cạnh đó thì việc tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn sẽ làm cho các phải vay vốn giảm xuống từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho công ty.
3.2.3. Tăng cường công tác thu hồi nợ.
ở công ty phát hành sách Hà Nội, số vốn mà công ty bị các đối tác chiếm dụng cũng khá lớn. Khi bị chiếm dụng thì nguồn vốn của công ty sẽ bị giảm xuống. Điều đó sẽ bất lợi cho công ty trong việc tự chủ vốn cho kinh doanh. Nếu như tăng cường được công tác thu hồi nợ thì rõ ràng nguồn vốn bị chiếm dụng sẽ giảm xuống, nguồn vốn bổ sung cho kinh doanh sẽ tăng lên. Đó là điều kiện tốt để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty.
3.2.4. Chủ động xây dựng kế hoạch huy động vốn.
Cũng như bất kỳ 1 công ty nào khác đang hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi thì phải có đủ vốn. Do vậy công ty phát hành sách nên có biện pháp cụ thể nhằm chủ động xây dựng kế hoạch huy động vốn cho kinh doanh, tự mình tự chủ về vốn thông qua các hình thức huy động đa dạng và có hiệu quả cao. Việc mở rộng các hình thức huyd dộng và huy động có kế hoạch cụ thể sẽ giúp cho công ty có nhiều vốn hơn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó chủ động xây dựng kế hoạch giúp công ty có thể huy động đủ lượng cần thiết, không bị thừa, bị thiếu.
3.2.5. Đẩy mạnh liên doanh liên kết với các đơn vị khác.
Dưới tác động của cơ chế thị trường và sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, nhu cầu phải có sự liên doanh liên kết đã đặt ra cấp bách bởi những lợi thế to lớn bởi sự liên doanh liên kết, khó có thể có được công ty nào tự mình mà có thể đứng vững được trong thời buổi hiện nay. Vì vậy công ty phát hành sách Hà Nội lên đẩy manh liên doanh liên kết với các đơn vị khác để có thể tận dụng các lợi thế của đối tác, do có sự góp vốn của đối tác vào công ty, nguồn vốn kinh doanh của công ty sẽ được tăng lên, từ đó có cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
3.2.6. Lựa chọn phương pháp trích khấu hao.
Trong công tác khấu hao TSCĐ, Công ty phát hành sách Hà Nội đã chú trọng tới phương pháp trích khấu hao TSCĐ. Hiện nay công ty đang áp dụng phương pháp trích khấu hao TSCĐ cho tất cả các TSCĐ của công ty là phương pháp tuyến tính hay là phương pháp trung bình. Điều này là chưa thật hợp lý bởi có những TSCĐ có thể sử dụng rất lâu mà vẫn mang lại hiệu quả, bên cạnh đó cũng có những TSCđ chỉ mang lại hiệu quả trong giai đoạn đầu, đối với những TSCĐ loại này nếu tiến hành khấu hao trung bình là chưa thật hợp lý, đối với những TSCĐ nào mà hiệu quả đem lại không biến động nhiều qua các năm thì mới lên khấu hao theo đường thẳng, còn những TSCĐ nào hiệu quả đem lại bị giảm dần thì nên tiến hành khấu hao nhanh, để từ đó có được nguồn vốn tái đầu tư.
3.2.7. Thường xuyên đánh giá và đánh giá lại TSCĐ
Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển nhanh như hiện nay, TSCĐ thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ bị hao mòn vô hình. Do đó để có cơ sở cho việc tính khấu hao nhằm thu hồi đầy đủ vốn, công ty phải giảm thiểu sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị trên sổ sách giữa giá trị thực tế và giá trị tên sổ sách của tài sản. Muốn được như vậy thì công ty cần phải lập kế hoạch và có các biện pháp đánh giá và đánh giá lại TSCĐ của công ty một cách thường xuyên chính xác. Công ty có thể tự đánh giá bằng cách tạm thời lập ra một ban để đánh giá và đánh giá lại tài sản hoặc có thể phối hợp với các công ty kiểm toán để đánh giá tình hình tài chính của công ty nói chung và của TSCĐ nói riêng. Có như thế công ty mới xác định một cách chính xác giá trị thực của TSCĐ, đây là cơ sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn hoặc kịp thời xử lý những tài sản cố định bị mất giá để chống lại sự thất thoạt vốn. Tính hiệu quả của các quyết định cần phải đạt được của các quyết định xử lý là là phải bảo toàn được VCĐ trong mọi trường hợp biến động giá cả nói chung và hao mòn vô hình nói riêng.
3.2.8. Nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ.
Để có thể nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ thì cần phân cấp quản lý TSCĐ cho các bộ phận trong công ty, qui tráhc nhiệm đối với người quản lý và sử dụng TSCĐ, đưa ra các hình thức khen thưởng nhằm khuyến khích sự sáng tạo và cần cù của người lao động, giúp tiết kiệm các chi phí sản xuất. Bên cạnh đó cần đưa ra các hình thức kỷ luật đối với những cá nhân gây thiệt hại tới TSCĐ của công ty.
Cần tận dụng tối đa công suất của trang thiết bị, giảm thời gian tác nghiệp giữa các bộ phận hợp lý hóa các dây chuyền công nghệ trong xuất bản. Ngoài ra để nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ, công ty cần tổ chức tốt quá trình sản xuất, có nghĩa là tổ chức sản xuất trong công ty phải đảm bảo được 3 nguyên tắc: cân đối, nhịp nhàng và liên tục. Thực hiện tốt các nguyên tắc này sẽ đem lại lợi ích to lớn cho công ty như:
+ Tiết kiệm được thời gian trong sản xuất.
+ Sử dụng hợp lý công suất và thời gian hoạt động của máy móc thiết bị.
+ Đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất với hiệu quả cao.
3.2.9. Thường xuyên sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ
Công tác này có mục đích là duy trì khả năng hoạt động bình thường cho TSCĐ của công ty và cần được tiến hành định kỳ để có thể phát hiện, sửa chữa kịp thời những hỏng hóc chứ không phải đến lúc xảy ra sự cố mới xem xét sửa chữa. Tuy nhiên đôi khi chi phí sửa chữa còn cao hơn chi phí thay thế TSCĐ, trong trường hợp này cần cân nhắc giữa sửa chữa hay thay thế mới tài sản này.
3.2.10. Đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ của công ty.
Sau mỗi kỳ kế hoạch, công ty sẽ phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng TSCĐ và VCĐ thông qua những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó công ty có thể đưa ra các quyết định đầu tư, điều chỉnh lại quy mô, cơ cấu cho hợp lý, khai thác được những tiềm năng có sẵn và khắc phục được những tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng VCĐ.
3.2.11. Quản lý tốt VLĐ trong công ty
Trong cơ cấu tài sản của công ty thì tài sản lưu động chiếm 1 tỷ trọng rất lớn. Trong tài sản lưu động thì tỉ trọng hàng tồn kho chiếm rất cao. Năm 2000, tỉ trọng hàng tồn kho chiếm 36,43% tuy nhiên đến năm 2001, tỉ trọng hàng tồn kho đã chiếm tới 56,04% tổng giá trị của TSCĐ. Do đó việc quản lý tốt khoản mục hàng tồn kho sẽ giúp công ty nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của mình.
Cần phải tính toán chính xác nhu cầu của thị trường để từ đó có thể hạn chế hàng tồn kho và nhằm dự trữ, có như vậy VLĐ của công ty mới có thể không bị đón bàn ở đây mà sẽ được đưa vào quay vòng.
Thường xuyên đánh giá phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty tăng cường việc kiểm tra taì chính đối với việc sử dụng vốn lưu dodọng của vốn lưu động. Trên cơ sở đó biết rõ tình hình sử dụng vốn lưu động tại công ty páhạch toán hiện những vướng mắc nhằm kịp thoì sửa chữa nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
Công ty cần hạn chế những khoản trả trước cho người bán và phải thu của khách hàng, mặc dù những khoản này không thể không có trong điều kiện nền kinh tế nước ta phát triển như hiện nay nhưng công ty phải tính toán sao cho không có trong điều kiện nền kinh tế nước ta phát triển như hiện nay. Nhưng công ty phải tính toán sao cho lượng giá trị của các khoản phải thu của khách hàng và khoản trả trước cho người bán là hợp lý, càng nhỏ càng tốt, tránh cho công ty bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn, gây ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty nói chung.
Bên cạnh đó công ty cần phải quản lý chặt chẽ các khoản mục phải thu nội bộ và phải thu khác, mặc dù quy mô của các khoản này không lớn nhưng nói cũng ảnh hưởng tới tình hình tài chính của công ty, cũng có tác động tới hiệu qủa sử dụng vốn lưu động.
3.2.12. Mạnh dạn đầu tư dây truyền công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh
Trong điều kiện nền khoa hoạc kỹ thuật phát triển như hiện nay thì việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh là một trong những điều kiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của công ty khi đưa dây truyền công nghệ mới vầo sản xuất sẽ giúp công ty nâng cao được hiệu quả của xuất bản phẩm có thể góp phần hạ được giá thành tăng khả năng tiêu thụ xuất bản phẩm từ đó mà làm tăng tốc độ luân chuyển của vốn từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn taị công ty.
3.2.13. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên
Để việc sử dụng vốn có hiệu quả thì ngoài các công việc như mua sắm đối với tài sản cố định chuẩn bị đủ vốn lưu đôngj cho quá trình sản xuất kinh doanh thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên cũng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Vì khi máy móc được trang bị hiện đại nhưng lại không có khả năng sử dụng thì không những năng suất lao động sẽ không tăng lên được mà có khi bị giảm xuống, máy móc thiết bị hư hỏng. Bên cạnh việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật cũng phải chú ý đào tạo đội ngũ nhân viên bán hàng, bởi đội ngũ nhân viên này là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, hiểu được nhu cầu của khách hàng, từ đó giúp công ty có hưóng kinh doanh hợp lý. Vì vậy công ty phải thường xuyên mở các lớp nghiệp vụ, cử cán bộ đi học ở các trường trong và ngoài nước để nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và mọi công nhân viên trong công ty.
3.2.14. Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán
Trong mỗi một Doanh nghiệp kế toán là một bộ phận không thể thiếu, đây là nơi cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp về tình thình tài sản và nguồn vốn Doanh nghiệp sở hữu, tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán sẽ giúp cho công ty nắm bắt được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đồng thời biết được thực tế hiệu quả sử dụng vốn của mình. Tổ chức tốt công tác kế toán còn giúp cho công ty tạo được niềm tin ở các đối tác từ đó mà dễ dàng hơn trong việc huy động và chiếm dụng vốn của đối tác tạo cơ sở ch việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
3.2.15 Đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm
Là một đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực văn hoá phẩm, cũng như bao Doanh nghiệp khác hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vấn đề tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề then chốt đối với công ty, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty, bởi vì đã sản xuất ra thì phải tiêu thụ được. Tiêu thụ được sản phẩm của mình thì công ty sẽ có được doanh thu, tạo điều kiện nâng cao tốc độ quay vòng vốn. Bên cạnh đó sản phẩm của mình thì công ty sẽ có được doanh thu tạo nếu như sản phẩm của mình làm ra lại không bán được. Do vậy công ty cần phải nắm bắt nhu cầu của thị trường, nhu cầu của khách hàng để có thể sản xuất ra những mặt hàng xuất bán ra những đầu sách đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Tiêu thụ tốt sản phẩm cũng giúp cho công ty giảm bớt được lượng hàng tồn kho, từ đó có thể giảm được chi phí bảo quản.
3.2.16. Lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý
Trong cơ chế thị trường Doanh nghiệp nào muốn tồn tại phát triển được cũng phải có phương án kinh doanh phù hợp. Công ty cần nghiên cứu thị trường, xác định cụ thể khả năng và tiềm lực của mình từ đó xây dựng lên các phương án kinh doanh hợp lý, lựa chọn được phương án kinh doanh hơp lý sẽ giúp công ty đứng vững được trên thị trường mở rộng được thị phần đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tăng vòng quay của vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước
Trong những năm gần đây, việc quản lý cảu Nhà nước đối với các Doanh nghiệp được nới lỏng, các Doanh nghiệp hầu như hoàn toàn độc lập tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh chủ động trong việc huy động vốn và sử dụng vốn Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô thông qua việc ban hành các chính sách về kinh tế xã hội. Tuy nhiên, để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các Doanh nghiệp đồng thời phải phù hợp với thực tế của công ty, với thực tế nền kinh tế đất nước thì việc quản lý của Nhà nước nên có một số sửa đổi sau:
- Về lãi suất vay ngân hàng
Vốn vay ngân hàng là một trong nguồn tài trợ đắc lực hữu hiệu đối với bất kỳ một Doanh nghiệp nào đang hoạt động trong cơ chế thị trường
Mối quan tâm hàng đầu của các Doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng là vấn đề lãi suất và điều kiện thanh toán lãi suất được coi là một chi phí vốn, mà việc tăng hay giảm lãi suất sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của Doanh nghiệp và tổng chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó NH phải tính toán hợp lý sao cho lãi suất tiền vay phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của các Doanh nghiệp. Khung lãi suất cho Ngân hàng Nhà nước quy định phải khuyến khích được các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Tình hình công ty phát hành sách Hà Nội trong thời gian tới thì nhu cầu về vốn vay ngân hàng sẽ vẫn còn ở mức cao tuỳ thuộc vào chiến ược phát triển của công ty.
Vì vậy vấn đè lãi suất mà ngân hàng cho vay có ảnh hưởng rất lứon đếnt hình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
Nhà nước nên có chính sách về tỉ giá phù hợp
Nền kinh tế đất nước phát triển thì nhu cầu giao lưu trao đổi với nước ngoài là rất lớn là cả nguồn vốn mà các Doanh nghiệp trong nước huy động từ nước ngoài là tương đối lớn. Do đó chính sách tỉ giá của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp
Đối với các Doanh nghiệp huy động vốn bằng ngoại tệ thì tỉ giá tăng sẽ bất lợi, các Doanh nghiệp giao lưu buôn bán với nước ngoài cũng vậy, khi mà nhập khẩu thì tỉ giá tăng là bất lợi, công ty Phát hành sách Hà Nội cũng là công ty có sự giao lưu buôn bán với các nước khác do vậy chính sách tỉ giá có ảnh hưởng rất lớn đối với côngty, chính sách tỉ giá phù hợp sẽ giúp công ty mở rộng giao lưu buôn bán quốc tế giúp cho công ty ngày càng phát triển hơn, quy mô mở rộng thị phần tăng lên và hiệu quả sử dụng vốn do vậy cũng được cải thiện.
- Về thủ tục hành chính pháp lý
Nhà nước nên cải thiện các thủ tục hành chính để nó thuận tiện gọn nhẹ hơn nhằm giúp cho các Doanh nghiệp tận dungj được cơ hội trong kinh doanh và cần phải ban hành các quy định hỗ trợ sự phát triển của thị trường tài chính, sửa đổi và bổ sung các điều luật đã ban hành sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Căn cứ các thông tư, nghị định hướng dẫn thi hành luật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12588.DOC