Tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà Nội: MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DN: Doanh nghiệp
DNV&N: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
KT: Kinh tế
LĐ: Lao động
NĐ: Nghị định
NH: Ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TCTD: Tổ chức tín dụng
TD: Tín dụng
TDNH: Tín dụng ngân hàng
SX: Sản xuất
SXKD: Sản xuất kinh doanh
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng II.1: Tình hình tín dụng tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà nội
Biểu đồ II.2: Cơ cấu cho vay trong năm 2008
Bảng II.3: Tín dụng phân loại theo thời gian tại chi nhánh ngân hàng Á Châu trong hai năm gần đây
Bảng II.4: Dư nợ DNV&N phân loại theo thời hạn cho vay trong hai năm tại chi nhánh Ngân hàng Á châu Hà Nội
Bảng II.5: Doanh số cho vay trung và dài hạn trong hai năm tại Ngân hàng Á Châu- chi nhánh Hà Nội
Bảng số II.6: Dư nợ DNV&N phân loại theo thành phần kinh tế trong hai năm tại chi Nhánh ngân hàng Á Châu Hà Nội
Bảng II.7: Vòng quay vốn tín dụng
Bảng II.8: Thu nhập lãi thuần của chi nhánh ngân hàng Á Châu Hà Nội
Bảng II.9: ...
94 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1016 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DN: Doanh nghiệp
DNV&N: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
KT: Kinh tế
LĐ: Lao động
NĐ: Nghị định
NH: Ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TCTD: Tổ chức tín dụng
TD: Tín dụng
TDNH: Tín dụng ngân hàng
SX: Sản xuất
SXKD: Sản xuất kinh doanh
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng II.1: Tình hình tín dụng tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà nội
Biểu đồ II.2: Cơ cấu cho vay trong năm 2008
Bảng II.3: Tín dụng phân loại theo thời gian tại chi nhánh ngân hàng Á Châu trong hai năm gần đây
Bảng II.4: Dư nợ DNV&N phân loại theo thời hạn cho vay trong hai năm tại chi nhánh Ngân hàng Á châu Hà Nội
Bảng II.5: Doanh số cho vay trung và dài hạn trong hai năm tại Ngân hàng Á Châu- chi nhánh Hà Nội
Bảng số II.6: Dư nợ DNV&N phân loại theo thành phần kinh tế trong hai năm tại chi Nhánh ngân hàng Á Châu Hà Nội
Bảng II.7: Vòng quay vốn tín dụng
Bảng II.8: Thu nhập lãi thuần của chi nhánh ngân hàng Á Châu Hà Nội
Bảng II.9: Nợ quá hạn trong năm 2009
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực được coi là năng động nhất thế giới. Việt Nam có các điều kiện thuận lợi để phát triển, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới; đồng thời đây cũng là cơ hội để chúng ta có thể tiếp thu những thành tựu tiên tiến cũng như những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Để đưa Việt Nam tiến lên cùng với các nước khác, Đảng và nhà nước ta đã tiến hành các công cuộc đổi mới, trong đó vai trò, vị trí của các DNV&N là hết sức quan trọng cần phải tổ chức và sắp xếp lại cho phù hợp hơn, để cho các DNV&N có thể là nền tảng thúc đẩy nền công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Theo số liệu thống kê của bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, cho đến nay ở Việt Nam đã có hơn 2 triệu DNV&N chiếm trên 90% trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước. Với số vốn kinh doanh chiếm 20% tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, DNV&N đã đóng góp 30-36% GDP cho nền kinh tế quốc dân.
Với đặc điểm chung là không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, linh hoạt thích ứng nhanh với môi trường kinh doanh nhiều đầy biến động, bộ máy tổ chức gọn nhẹ, thích ứng với yêu cầu của thị trường, là phương tiện hiệu quả giải quyết công ăn việc làm. Loại hình doanh nghiệp này đang có những bước phát triển khá thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, hiện nay các DNV&N đang phải đối mặt với nhiều khó khăn mà nhất là khó khăn về vốn.
Để DNV&N phát huy được vai trò của mình, thì một yêu cầu được đặt ra đó là nguồn vốn để phát triển và nâng cao năng lực sản xuất... Và vai trò của ngân hàng là không thể thiếu được để đáp ứng nhu cầu vốn này. Nhưng đi đôi với việc ngân hàng cho các doanh nghiệp vay ngày càng nhiều là việc nâng cao chất lượng của công tác cho vay có hiệu quả hơn. Như vậy, chất lượng cho vay đối với các DNV&N không chỉ là quan tâm với các ngân hàng mà còn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Sau một thời gian thực tập ở chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà nội, em nhận thấy khách hàng là DNV&N là đối tượng mà ngân hàng quan tâm đến nhiều, và với những lý do trên em đã chọn đề tài: " Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà Nội ".
Do phạm vi đề tài rộng, thời gian thực tập có hạn, nhất là trình độ lý luận và sự hiểu biết còn chưa nhiều nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ ngân hàng.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Dương Thị Ngân , toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Thương mại-Kinh tế quốc tế, ban lãnh đạo, tập thể cán bộ phòng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà nội đã tận tình hướng dẫn, cung cấp tài liệu và đóng góp ý kiến giúp em hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này.
Kết cấu của chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận (DNV&N- tín dụng Ngân hàng đối với các DNV&N)
Chương II: Thực trạng về chất lượng tín dụng đối với các DNV&N tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu- chi nhánh Hà nội.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNV&N tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà nội.
CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ LUẬN DOANH NGHIỆP VÀ VÀ NHỎ- TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
I. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong một nền kinh tế, nếu chỉ dựa vào quy mô hoạt động có thể chia doanh nghiệp thành hai loại: doanh nghiệp lớn, DNV&N.Các DNV&N là loại hình doanh nghiệp phổ biến ở hầu hết các nước. Tuy nhiên, không có một tiêu chuẩn chung nào cho việc phân định ranh giới quy mô doanh nghiệp ở các nước. ở mỗi nước khác nhau, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể.
Hầu hết các nước trên thế giới đếu xác định DNV&N theo hai tiêu thức: tổng số vốn kinh doanh, số lượng lao động của doanh nghiệp để phân biệt quy mô lớn, vừa và nhỏ.
Ở Việt Nam, theo quyết định của Chính Phủ tại NĐ 90/ 2001/NĐ- CP ra ngày 23/11/2001 về trợ giúp và phát triển DNV&N có định nghĩa sau: "DNV&N vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành. Có vốn đăng ký không quá 10 tỷ VNĐ hoặc số lao động hàng năm không quá 300 người". Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
Với tiêu chí xác định DNV&N theo NĐ 90/ 2001/ NĐ- CP thì số lượng doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể. Theo số liệu thống kê đến hết năm 2001 có tổng cộng 77.784 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh: riêng trong năm 2000-2001 thực hiện luật doanh nghiệp mới tăng vượt bậc 35.481 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký kinh doanh là 41.882 tỷ đồng.
2. Đặc điểm và phân loại
2.1. Phân loại
Tuỳ theo các tiêu thức ta có thể phân loại DNV&N như sau:
-Theo hình thức sở hữu bao gồm:
+Doanh nghiệp nhà nước.
+ Doanh nghiệp tư nhân.
+Công ty TNHH.
+ Doanh nghiệp cổ phần.
-Phân loại theo mục tiêu SXKD:
+ Doanh nghiệp SXKD hàng hoá công cộng không vì mục tiêu lợi nhuận.
+ Doanh nghiệp SXKD vì mục tiêu lợi nhuận.
-Phân loại theo mục tiêu ngành nghề và lĩnh vực SXKD:
+ Doanh nghiệp công nghiệp.
+ Doanh nghiệp nông nghiệp.
+ Doanh nghiệp xây dựng.
+ Doanh nghiệp thương mại dịch vụ...
-Phân loại theo quy mô (về lao động,Vốn, sản lượng, doanh thu, mức lợi nhuận...)
+ Doanh nghiệp vừa.
+ Doanh nghiệp nhỏ.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoả mãn hai tiêu thức: Vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, lao động trung bình hàng năm không quá 300 người đều được coi là DNV&N.
2.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thứ nhất, các doanh nghiệp này có quy mô hoạt động nhỏ bé.
Phần lớn các DNV&N có quy mô bé với số vốn dưới 1 tỷ đồng và lao động dưới 50 người. Chỉ xét riêng về DNV&N thì đến ngày 1/9/2008 có tới 65% DN có số vốn dưới 5 tỷ đồng, trong đó 1341 DN có số vốn dưới 1 tỷ đồng, chiếm 23% tổng số DNV&N. Do quy mô nhỏ dẫn tới nguồn vốn cũng hạn hẹp, kéo theo nhữmg khó khăn về mặt bằng SXKD, trình độ công nghệ và năng lực quản lý hạn chế, thiếu thông tin gây ra nhiều yếu kém trong sản xuất, trong đó thiếu vốn là đặc điểm nổi bật.
Thứ hai, Sức cạnh tranh của các DNV&N còn thấp
Do DNV&N là những DN có quy mô nhỏ, vốn đầu tư cho hoạt động SXKD còn ít làm cho hoạt động SXKD gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm như là: chất lượng chưa cao, sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ còn yếu do đó không mở rộng được thị trường, hàng hoá ngày càng khó tiêu thụ. Tất yếu dẫn đến lợi nhuận thấp, cản trở việc SXKD, dễ có những hành vi gian lận thương mại, kinh doanh trái với quy định của pháp luật.
Thứ ba, Quản lý và điều hành hoạt động SXKD của DNV&Nthấp.
Hầu hết các DNV&N được thành lập có nguồn vốn dựa vào tiền tích luỹ cá nhân cộng với tích luỹ của gia đình (đối với các DN ngoài quốc doanh). Do vậy, những người điều hành DN hầu hết có thế mạnh về vốn lớn hơn thế mạnh về năng lực quản lý. Các DNV&N nhà nước còn rất nhiều nhà quản lý yếu kém về trình độ điều hành. Nên chưa đáp ứng được nhu cầu kinh tế của thị trường, không đủ sức để DN đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt.
Bên cạnh đó số người của DNV&N có trình độ, được đào tạo còn ít, khó khăn đối với các DNV&N là không thu hút được cán bộ kỹ thuật giỏi và những công nhân có tay nghề cao. Từ đó, dẫn đến năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả vốn vay và bảo toàn vốn thấp. Cho nên khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các DNV&N bị hạn chế.
Thứ tư, Môi trường kinh doanh bên ngoài ảnh hưởng không nhỏ tới DNV&N
Thật vậy, những tác động từ bên ngoàitới DN cũng gây không ít khó khăncho DNV&N.Trước hết, là sự tác động quản lý của nhà nước về hoàn thiện luật DN, thực thi luật DN, các chính sách thuế, chính sách, thương mại, chính sách khoa học- công nghệ, cơ sở giáo dục đào tạo, lao động và việc làm...còn nhiều bất cập. Tác động quản lý của nhà nước đối với DNV&N trong khâu tổ chức còn nhiều bức xúc, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ công chứng quản lý nhà nước. Sự thiếu hụt và rối loạn của thị trường như: thị trường vốn, thị trường thông tin, thị trường dịch vụ và nạn hàng giả, hàng lậu tràn lan gây nhiều khó khăn cho hoạt động SXKD của DNV&N.
3. Vai trò của DNV&N trong nền KT thị trường
Mặc dù còn có các quy định khác nhau về DNV&N nhưng sự phát triển của DNV&N ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới đã khiến cho các nhà KT và Chính Phủ các nước nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của DNV&N trong nền KT thị trường. Hiện nay ở hầu hết các nước, DNV&N đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển KT-XH của đất nước.
3.1. DNV&N cung cấp một khối lượng lớn sản phẩm, dịch vụ đa đạng, phong phú về chủng loại đáp ứng nhu cầu SX và tiêu dùng.
Các DNV&N hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền KT quốc dân từ SX công nghiệp, xây dựng..., Thương mại đến dịch vụ có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa đạng, phong phú của người tiêu dùng. Ngay ở các nước phát triển, sự phát triển mạnh mẽ của các siêu thị cũng không thể thay thế được các DN bán lẻ, những sản phẩm có tính chất lặt vặt, nhỏ không thích hợp với các DN lớn. Số liệu điều tra cho thấy DNV&N đem lại 78% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá, SX gần 100% sản lượng công nghiệp của nhiều mặt hàng tiêu dùng như: đồ mỹ nghệ, đồ mộc, mây tre...
3.2. DNV&N đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm phù hợp với nhiều đối tượng, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần ổn định xã hội.
Nhất là những nước đông dân lại sống chủ yếu bằng nghề nông, thu nhập thấp như nước ta. Hàng năm có thêm khoảng 1 triệu người gia nhập lực lượng lao động mà khả năng thu hút lao động mới này vào các DN lớn thuộc khối quốc doanh là rất hạn chế. Sự tồn tại và phát triển DNV&N là phương tiện có hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp, là nguồn lực chủ yếu tạo ra việc làm. Lý do thật đơn giản là DNV&N thường được dễ dàng tạo lập với một khối lượng không lớn, thường xuyên đáp ứng được nhu cầu thay đổi của thị trường. Vì vậy, mặc dù số lao động làm việc trong một DNV&N không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng lớn DNV&N đủ tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho xã hội. Cho đến nay ở Việt Nam tổng số LĐ làm việc trong các DNV&N khoảng hơn 9 triệu người chiếm 26-27% lực lượng LĐ cả nước.
3.3. DNV&N phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính
Sự ra đời và phát triển của DNV&N với nhiều loại hình như: DNNN, công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần... đã khơi dậy và đưa vào hoạt động nhiều khoản vốn đang nằm phân tán trong dân cư, góp phần phát triênt SX. DNV&N góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương.
Thật vậy, Việc thành lập DNV&N không cần quá nhiều vốn. Điều đó đã tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Mặt khác, trong quá trình hoạt động các DNV&N có thể dễ dàng huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại được phân tán ở hầu khắp các địa phương, các vùng lãnh thổ nên DNV&N có khả năng tận dụng các tiềm năng về LĐ, về nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế không đáp ứng đủ nhu cầu quy mô lớn nhưng sẵn có ở địa phương, sử dụng các sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các DN lớn. Ngoài ra, những ngành mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh từ giá thành sức LĐ (như may mặc, chế biến lương thực, thuỷ hải sản, sản xuất đồ mỹ nghệ...) đều là những ngành không có lợi ích từ quy mô lớn.
3.4. DNV&N hỗ trợ cho các DN lớn trong SXKD
Các DNV&N có thể nhận gia công, sản xuất cung ứng nguyên liệu đầu vào, nhận làm đại lý phân phối tiêu thụ các sản phẩm đầu ra cho các DN lớn. Từ đó phát huy thế mạnh của từng loại hình DN, tăng tính chuyên môn hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm, thúc đẩy sự phát triển của các DN. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới hội nhập của đất nước vai trò hỗ trợ cho các DN lớn của DNV&N sẽ ngày một khẳng định và phát huy thêm.
3.5. DNV&N góp phần thúc đẩy tăng trưởng KT
Toàn bộ khu vực DNV&N cả nước chỉ chiếm 20% vốn kinh doanh của tất cả các DN. Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp vào GDP không nhỏ đạt xấp xỉ 36,6% (trong đó: DNV&N quốc doanh đóng góp 7%, DNV&N ngoài quốc doanh đóng góp 19,6% GDP). Nếu so với kết quả đánh giá của tổng cục quản lý vốn và tài sản của nhà nước, các tổng công ty nhà nước chiếm gần 80% về vốn nhưng doanh thu chỉ đạt 49,8% thì kết quả đạt được của khu vực DNV&N thật đáng quan tâm hơn nữa.
3.6. DNV&N góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ, những nhà kinh doanh, những nhà quản trị mới trong nền KT thị trường.
Thực tế cho thấy, có những DN giữ quy mô vừa và nhỏ vì đó là quy mô có hiệu quả nhất phù hợp với khả năng kinh doanh và tiềm năng của DN, nhưng cũng có nhiều DNV&N phát triển thành DN lớn. Với sự phát triển trong tất cả các lĩnh vực tài công nghiệp, xây dựng, đến nhà hàng, khách sạn... ở quy mô nào các DNV&N cũng vẫn là vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển đất nước.
Ngoài những vai trò chủ yếu trên, DNV&N còn một số vai trò khác như là: DNV&N góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu KT; DNV&N đóng góp vào việc duy trì và phát triển các ngành thủ công nghiệp; DNV&N góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
4. Ưu điểm và hạn chế của các DNV&N trong nền KT thị trường
4.1. Ưu điểm:
-DNV&N năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Với quy mô vừa và nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ DNV&N dễ dàng và đáp những yêu cầu có hạn trong thị trường chuyên môn hoá. Mặt khác, DNV&N luôn có mối liên hệ trực tiếp với thị trườngvà người tiêu dùng nên có phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị trường.
-DNV&N được tạo lập dễ dàng, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp. Với quy mô vốn đầu tư ban đầu không nhiều, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng không lớn là có thể thành lập được một DNV&N. Các DNV&N rất linh hoạt trong việc học hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác động lên.
-DNV&N tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh. Khác với các DN lớn, cần thi trường hoạt động lớn, có sự bảo hộ của Chính Phủ, có sự độc quyền. Các DNV&N hoạt động với số lượng dông, không có tình trạng độc quyền, các DN ngày nay dễ dàng chấp nhận sự cạnh tranh tự do. So với các DN lớn, DNV&N có tính tự chủ cao hơn, các DNV&N không ỷ lại vào sự giúp đỡ của nhànước mà sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển không ngại rủi ro. Nói chung, DNV&N buộc phải duy trì sự phát triển nếu không sẽ bị phá sản.
-DNV&N có thể phát huy các tiềm lực trong nước. Thành công của các DNV&N là nắm bắt được các điều kiện cụ thể của đất nước về tài nguyên, lao động.
-DNV&N đóng góp một phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong một quốc gia, DNV&N có thể phát triển rộng rãi khắp nơi, mội vùng lãnh thổ và tạo ra nhiều sản phẩm phong phú, đa dạng, đồng thời tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong một đất nước.
Bên cạnh những ưu thế trên DNV&N cũng có nhiều hạn chế vốn có.
4.2. Hạn chế chủ yếu của các DNV&N
-Khả năng tài chính của DNV&N hạn chế. Với ưu thế tạo lập dễ dàng do chỉ cần một lượng vốn ít DNV&N gặp phải một hạn chế là năng lực tài chính thấp từ đó dẫn đến một loạt bất lợi cho DNV&N trong SXKD.
-Thiếu thông tin, trình độ quản lý thường bị hạn chế. Do khả năng tài chính hạn chế mà DNV&N khó khăn trongviệc tiếp cận thi trường, tiếp cận công nghệ SX và công nghệ quản lý tiên tiến.
-DNV&N ít có khả năng thu hút được những nhà quản lý và người LĐ giỏi. Với quy mô SX không lớn, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, DNV&N khó có thể trả lương cao cho người LĐ.
-Hoạt động của DNV&N thiếu vững chắc. Mặc dù có ưu thế linh hoạt nhưng do khả năng tài chính hạn chế, khi có biến động lớn trên thị trường, DNV&N dễ rơi vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên, phần lớn các nước có số lượng phá sản lớn, nhưng đi đôi với việc phá sản lại có các DN mới được thành lập, và số lượng các DN mới được thành lập luôn lớn hơn số bị phá sản. Do vậy, đã không dẫn đến tình trạng xáo động nền KT- XH và cũng chính hiện tượng đó đã phản ánh sức sống mãnh liệt của các DNV&N nói chung trong nền kinh tế.
Cùng với những hạn chế nêu trên, trong quá trình hoạt động của các DNV&N còn có thể nảy sinh một số hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới đời sống KT- XH như trốn thuế, chạy theo lợi nhuận quá mức mà không chú ý đến hậu quả xã hội phải gánh chịu ( VD: làm hàng giả không đảm bảo chất lượng, gây ô nhiễm môi trường...) Một số DNV&N do chạy theo lợi nhuận quá mức đã tìm mọi cách để kiếm lời, kể cả các hành vi vi phạm pháp luật.
II. TDNH VÀ VAI TRÒ TDNH ĐỐI VỚI CÁC DNV&N
1. Đại cương về TDNH
1.1. Khái niệm:
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn với một chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian khác), ví như TDNH thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Việc xác định như thế này là cần thiết để định lượng tín dụng trong các hoạt động KT.
TD là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Đây là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng sổ tài sản và tạo thu nhập từ lãi lớn. Tín dụng còn là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (được gọi là TDNH).
Quan hệ TD phần lớn được xác định thông qua hợp đồng TD với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận TD trong việc thực hiện hợp đồng.
1.2. Các nguyên tắc TDNH
Hoạt động TD của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm bảo đảm tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của ngân hàng nhà nước và các NHTM.
Nguyên tắc thứ nhất: Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc), lãi với thời gian xác định. Các khoản TDNH chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản vay mà ngân hàng đi vay. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận TD phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Nguyên tắc thứ hai: Khách hàng phải cam kết sử dụng TD theo đúng mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồngTD đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó không phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
Nguyên tắc thứ ba: Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ cho ngân hàng, các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.3. Phân loại TD (các hình thức TDNH)
TD là loại tài sản lớn nhất ở phần lớn các NHTM phản ánh hoạt động đậc trưng của ngân hàng. Loại tài sản này được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
1.3.1. Tín dụng phân loại theo thời gian (TD ngắn hạn, trung hạn, dài hạn)
TD ngắn hạn- thời hạn từ 12 tháng trở xuống, trung hạn- trên 1 năm đến 5 năm, dài hạn- trên 5 năm. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia TD theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tài sản.
Tỷ trọng TD ngắn hạn tại các NHTM thường cao hơn TD trung và dài hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. TD trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn nhưng rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn...
1.3.2. Hình thức tài trợ TD được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê...
Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục TD. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính (thời điểm), cho vay được ghi dưới hình thức dư nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ phần trích lập dự phòng tổn thất hoặc lãi được nhận trước. Các ngân hàng cũng ghi như vậy với chiết khấu. Cho thuê tài sản trung và dài hạn được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền mà ngân hàng thu được (dư nợ cho thuê). Bảo lãnh được ghi vài tài sản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng (mục cho vay bắt buộc, tính vào nợ quá hạn).
1.3.3. TD được phân chia theo đảm bảo:
Không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Về nguyên tắc mọi khoản TD của ngân hàng dều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng TD loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả được nợ. Do đó, các khoản tài trợ có đảm bảo trên quan điểm của khách hàng là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ hai từ đảm bảo. Các khoản tài trợ không gắn với hợp đồng đảm bảo được ngân hàng xếp vào tài trợ không đảm bảo. Việc phân chia này không nói lên tính an toàn của khoản tài trợ của ngân hàng, mà chỉ giúp ngân hàng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, đưa ra các biện pháp xử lý khi cần thiết.
1.3.4. TD phân loại theo rủi ro:
TD ngân hàng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để phân chia rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro TD, tức là xếp loại TD theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. Cách phân loại này giúp cho ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục TD, dự trù quỹ cho các khoản TD rủi ro cao, đánh giá chất lượng TD...
1.3.5.TD theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp...) hoặc theo đối tượng tài trợ (hàng hoá, hoặc bất động sản...) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng...).
2.Sự cần thiết và vai trò của TDNH đối với các DNV&N
2.1.Sự cần thiết- TDNH trong nền kinh tế thi trường
TD với đặc trưng cơ bản của nó tồn tại trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì các quan hệ này càng được mở rộng. Bên cạnh việc mở rộng các quan hệ TD thì các hoạt động TD cũng ngày càng phát triển đa dạng như TD thương mại, TDNH, TD Nhà nước. Tuy nhiên, Với những ưu việt của mình phục vụ cho SXKD thì TDNH đóng một vai trò quan trọng hơn hết.
Như ta đã biết, TDNH là quan hệ TD giữa các ngân hàng, các tổ chức TD khác với các DN và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng đóng vai trò tổ chức trung gian. Vì vậy trong mối quan hệ TD với các DN và cá nhân, ngân hàng vừa là người cho vay vừa là người đi vay. Đối tượng cho vay trong các quan hệ TD là tiền tệ. Cho nên, TDNH ra đời đã khắc phục được hạn chế của TD thương mại về quy mô, thời gian và phương thức vận động... Để có được điều này là do TDNH đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường đối với lĩnh vực SX, lưu thông hàng hoá cũng như lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
Với vai trò là trung gian tài chính, trong quá trình tập trung và phân phối vốn ngân hàng đã biến các nguồn vốn tạm thời dư thừa trong quá trình SXKD cũng như vốn nhàn rỗi trong dân cư thành nguồn vốn cho vay, góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện cho các DN đầu tư vào tài sản cố định, mua sắm máy móc, trang thiết bị... Hoặc bổ sung vào nhu cầu vốn lưu động, giúp cho quá trình SXKD được thuận lợi hơn. Có thể nói, nhu cầu hoạt động TD cũng như mọi hoạt động của ngân hàng đều xuất phát từ nhu cầu của nền KT, nếu đáp ứng có hiệu quả thì ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển tốt hơn. Và đó cũng chính là sự cần thiết phải có TDNH.
2.2. Vai trò của TDNH đối với các DNV&N
2.2.1. TDNH góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DN
Trong nền KT thị trường hiếm có DN nào chỉ sử dụng vốn tự có để hoạt động SXKD có hiệu quả. Việc này không những hạn chế khả năng mở rộng SXKD của DN mà còn làm tăng giá vốn của DN. Vậy nên, trong hoạt động SXKD hiện nay cơ cấu vốn của DN bao gồm hai nguồn cơ bản: vốn tự có và vốn đi vay. Nhưng không phải DN nào muốn vay bao nhiêu cũng được mà còn phụ thuộc vào điều kiện và theo yêu cầu luật định. Cơ cấu vốn ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho kinh doanh của một DN nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của DN tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
Nếu vốn vay quá lớn thì chi phí tính vào giá thành sẽ tăng, đồng thời lợi nhuận giảm, và làm cho khả năng thanh toán của DN giảm, rủi ro dẫn tới nguy cơ phá sản tăng lên. Do vậy, tỷ lệ vốn vay càng lớn DN càng phải chịu sự kiểm soát sát sao và các điều kiện vay vốn chặt chẽ của ngân hàng. Trước tình hình này buộc các ngân hàng và các DN phải cân nhắc kỹ lưỡng trong việc quyết định tỷ trọng vay vốn trong tổng vốn hoạt động của DN, từ đó hình thành nên một cơ cấu vốn tối ưu cho kinh doanh.
2.2.2. TDNH tạo điều kiện cho DN mở rộng SXKD
TDNH mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn bộ nền KT để tài trợ cho các thành phần KT nói chung và DNV&N nói riêng. Để đảm bảo cho các DNV&N không chỉ duy trì sản xuất mà còn tái SX mở rộng, đặc biệt trong các ngành KT mũi nhọn của đất nước TDNH tài trợ vốn cho các DN không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung và dài hạn. Muốn mở rộng SXKD thì phải có thi trường. Ngoài thi trường tiềm năng trong nước các DN còn phải chú trọng tới thị trường nước ngoài,TDNH thông qua các nghiệp vụ như: bảo lãnh, tài trợ cho nghiệp vụ xuất nhập khẩu để giúp cho DN thực hiện tốt hoạt động này. Khi DN là người xuất khẩu, ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng thông báo thu hồi vốn cho họ. Còn khi DN là người nhập khẩu máy móc thiết bị, thì ngân hàng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh thư tín dụng tạo điều kiện cho hoạt động SXKD của DN trong quá trình mở rộng thị phần cũng như mở rộng hoạt động SXKD của DNV&N.
2.2.3. TDNH giúp cho các DNV&N tổ chức SXKD
Đặc trưng của TDNH không phải chỉ là cấp phát vốn mà còn là nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi theo thời gian quy định. Do đó, không phải chỉ thu hồi vốn là đủ mà các DN còn phải tìm kiếm các biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới trả được nợ và kinh doanh có lãi, đảm bảo tiến trình hoạt động và có tích luỹ để mở rộng SXKD.
Theo nguyên tắc TDNH chỉ cấp tín dụng cho các DN có phương án SXKD có hiệu quả, như vậy DN muốn vay được vốn của ngân hàng thì phải tự khẳng định mình làm ăn có hiệu quả.
Hơn nữa, TDNH với quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của DN đi đúng hướng đã chọn nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận cao nhất. TDNH cũng góp phần buộc DN làm ăn đứng đắn thông qua việc kiểm tra định kỳ các báo cáo tài chính DN. Vì quá trình tạo ra lợi nhuận của ngân hàng liên quan chặt chẽ đến sự SXKD của DN, nên để đảm bảo lợi ích của mình cũng như của DN ngân hàng luôn cùng DN tháo gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép và tư vấn cho DN hoạt động hiệu quả hơn.
III. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N
1. Chất lượng tín dụng
1.1. Khái niệm chất lượng TD:
Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất, ngay cả những khoản vay có thế chấp, cầm cố cũng được xác định là có hệ số rủi ro 50%. Trong thực tế, nhiều nhân viên ngân hàng quan niệm cho vay có tài sản thế chấp và không vượt quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất. Thực ra quan niệm này là hết sức sai lầm, bởi vì khi cho vay chú ý đến tình hình hoạt động và khả năng tài chính của khách hàng mới là vấn đề quan trọng nhất, còn thế chấp chỉ là một trong những điều kiện cần phải có để đảm bảo khả năng thu hồi khi khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng.
Đối với các NHTM Việt Nam hoạt động TD đang là lĩnh vực chủ đạo chiếm tỷ trọng từ 85-95% doanh thu, nên việc đảm bảo chất lượng TD sẽ là vấn đề có tính quyết định đến kết quả kinh doanh của NHTM. Chínhvì vậy mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng TD luôn là mục, đồng thời là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại.
Trước tiên có thể hiêủ đơn giản chất lượng TD là hiệu quả của việc cho vay (đầu tư, bảo lãnh) mang lại, là khả năng thu hồi vốn đầy đủ cả gốc và lãi (hoặc phí) theo dự định. Chất lượng TD cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình hoạt động TDNH.
Một cách chung nhất, chất lượng TD được hiểu là sự đáp ứng các yêu cầu hợp lý của khách hàng có lựa chọn, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Cụ thể hơn, chất lượng TD là các món vay được đánh giá là có chất lượng tốt khi các khoản tiền đó sử dụng đúng mục đích phục vụ cho hoạt động SXKD đem lại hiệu quả KT để trả nợ đúng hạn, bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Cũng có nghĩa là vừa mamg lại hiệu quả KT vừa đem lại hiệu quả xã hội.
Nếu xét từ phía ngân hàng: chất lượng TD được phản ánh qua phạm vi, mức độ giới hạn TD phải phù hợp với khả năng thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng, phải đảm bảo được sự cạnh tranh, tuân thủ quy tắc hoàn trả đúng hạn. Đó là sự gia tăng hợp lý của các chỉ tiêu như: chỉ tiêu lợi nhuận, mức dư nợ và chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn phải ở mức thấp đồng thời đảm bảo mức cân đối nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn.
Nếu xét trên quan điểm của khách hàng: Thì chất lượng TD là sự thoả mãn yêu cầu của họ về mức lãi suất hợp lý, thủ tục cho vay đơn giản, điều kiện cho vay thông thoáng...
Nếu xét trên giác độ KT- XH: Chất lượng TD phải tạo ra được các hiệu quả xã hội như phục vụ nhu cầu SXKD, thúc đẩy phát triển KT- XH, giải quyết một phần vấn đề việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác các nguồn lực một cách tối ưu nhất.
Qua những phân tích trên đây ta thấy:
-Chất lượng TD là một trong những chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự thay đổi của môi trường, thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong cạnh tranh.
-Chất lượng TD được xem qua nhiều yếu tố như khả năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn vốn TD, doanh thu, cho phí, lợi nhuận...
-Chất lượng TD là kết quả của quá trình kết hợp hoạt động của các tổ chức vì mục đích chung. Do đó để có chất lượng tốt cần phải có sự quản lý khoa học chặt chẽ. Vậy hoạt động TD phải có hiệu quả và quan hệ TD phải được thiết lập dựa trên cơ sở tin cậy, uy tín.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng TDNH
Hiện nay ngân hàng đang áp dụng nhiều giải pháp cũng như biện pháp để đảm bảo chất lượng TD. Tổng thể được biểu hiện qua hai nhóm chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng.
1.2.1. Nhóm chỉ tiêu định tính:
Được thể hiện thông qua các quy chế, chế độ, thể lệ TD...
- Cho vay tuân thủ 3 nguyên tắc: vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư, hàng hoá tương đương; cho vay hoàn trả vốn và lãi đúng thời hạn; sử dụng vốn vay đúng mục đích.
- Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như: lập hồ sơ cho vay, có phương án SXKD, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có tài sản thế chấp hợp pháp... Kèm theo đó là việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ tương đồng lẫn nhau.
1.2.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng:
Nhầm phân tán rủi ro, đảm bảo các thông số chuẩn đánh giá chất lượng TD.
- Xét về khả năng sinh lãi cho ngân hàng: gồm có các chỉ tiêu như vòng quay vốn, lợi nhuận, lãi treo.
+ Vòng quay vốn: là chỉ tiêu dánh giá tần suất sử dụng vốn (hiệu quả sử dụng vốn) của ngân hàng trong một thời kỳ.
Nếu vòng quay vốn càng lớn thì ngân hàng sẽ có một số tiền càng lớn. do vậy, lãi thu được từ vốn vay cao hơn tức là đồng vốn sử dụng cói hiệu quả hơn và ngược lại. Với một lượng vốn nhất định nhưng do vòng quay vốn TD nhanh nên ngân hàng đủ đáp ứng được nhu cầu cho các DN. Mặt khác, ngân hàng có nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho các DN khác thực hiện SXKD.
+ Chỉ tiêu về lợi nhuận (chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tổng tài sản): Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng nói chung. Nó đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tài sản của nhà quản lý.
Đây là lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động cho vay đối với DNV&N. Trong kinh doanh TD phải thực hiện được lãi suất dương, có nghĩa lãi suất đầu ra phải cao hơn lãi suất đầu vào cộng với các chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động kinh doanh là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Ngân hàng có thể tuỳ thời gian điều kiện kinh doanh cụ thể để có chính sách khách hàng hợp lý, nhằm mở rộng đầu tư TD thu hút khách hàng nhưng vẫn đảm bảo cho hoạt động TD đạt hiệu quả cao nhất. Lợi nhuận do TD đem lại chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được gốc mà thu được cả lãi, đảm bảo được an toàn đồng vốn cho vay. Bằng việc so sánh các chỉ tiêu này giữa các ngân hàng cùng cấp ta có thể đánh giá xếp loại chất lượng TD của các ngân hàng.
+ Lãi treo: Đây là thuật ngữ chỉ số tiền lẽ ra là nguồn thu cho ngân hàng nhưng thực tế DN chưa trả, nó phản ánh mặt trái của chất lượng TD. Số lượng và tốc độ tăng của lãi treo là một trong những dấu hiệu tiềm ẩn sự giảm sút chất lượng TDNH.
- Xét về khả năng thu hồi và tổn thất ta có các chỉ tiêu như: hệ số nợ qúa hạn, tỷ lệ vốn có khả năng tổn thất, tỷ trọng dư nợ TD...
+ Hệ số nợ quá hạn: Đây là chỉ tiêu quan trọng nó cho biết chất lượng TD cũng như khả năng tìm kiếm của ngân hàng.
Hệ số dư nợ quỏ hạn = *100
Chỉ tiêu này dùng để phản ánh tình trạng khó đòi, nợ quá hạn để có các biện pháp xử lý kịp thời. Nếu tỷ trọng này quá cao thì sẽ ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của .ngân hàng
+ Tỷ lệ vốn có khả năng tổn thất:
CT: Tỷ lệ cho vay có khả năng tổn thất = *100
Tỷ lệ này phản ánh vốn có nguy cơ bị mất.
+ Tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản có: Chỉ tiêu này phản ánh quy mô TD cũng như cơ cấu vốn của ngân hàng.
Ngoài ra, chất lượng TD còn được thể hiện qua các chỉ tiêu: Khả năng thu hút vốn của ngân hàng, mức độ an toàn TD (>=8%).
Về phía khách hàng (DN) nhận đồng vốn của ngân hàng: Người ta đánh giá hiệu quả cho vay thông qua: Việc DN giải quyết việc thiếu vốn để sản xuất kinh doanh, mức độ phát triển, mức độ cạnh tranh, khả năng mở rộng DN, mở rộng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh... khi DN chưa nhận được vốn tài trợ của ngân hàng.
Về mặt xã hội: Người ta có thế đánh giá hiệu quả của công tắc cho vay thông qua các chỉ tiêu sau (thông qua các đơn vị tiếp nhận vốn của ngân hàng tác động tới nền kinh tế): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Sự gia tăng số hộ giàu, giảm số hộ nghèo; Góp phần giải quyết công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân; Sự đóng góp chung vào quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế đất nước; giảm bớt sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị tiến tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn...
2. Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng TD đối với DNV&N
Như ta đã biết, chất lượng TD là chỉ tiêu để đánh giá tình hình hoạt động TD của một ngân hàng có ý nghĩa lớn đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để có thể thực hiện được mục tiêu hoạt động của mình là tìm kiếm lợi nhuận dựa trên chức năng nhiệm vụ của ngân hàng, cụ thể ở đây là hoạt động TD của mỗi ngân hàng phải làm sao để nâng cao được chất lượng TD. Để thực hiện được điều này ta cần nghiên cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động TD, đó là 3 nhóm nhân tố sau đây:
2.1. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng
Bao gồm các nhân tố như: Chính sách tín dụng, công tác tổ chức, công tác tổ chức, chát lượng cán bộ, quy mô vốn của ngân hàng, thông tin TD, quy trình nghiệp vụ tín dụng...
* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp có liên quan đến việc khuyếch trương TD hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng thương mại đó.
Do đó, việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đén sự thành công hay thất bại của mỗi ngân hàng. Một chính sách TD đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của họat động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ chấp hành đúng luật pháp và đường lối của ngân hàng nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Bất kỳ một ngân hàng nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thì phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thi trường chứa đựng nhiều rủi ro. Khi ngân hàng gặp những rủi ro thì có thể đi đến phá sản hoặc bị thiệt hại lớn, mất uy tín với khách hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy khi hoạch định chính sách tín dụng, các nhà hoạch định luôn coi trọng việc đảm bảo mục tiêu phải đạt được, nên ta có thể nói rằng: Chất lượng TD của một ngân hàng có tốt hay không còn phù thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng ngân hàng có đúng đắn, phù hợp không.
* Công tác tổ chức ngân hàng
Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các nguồn vốn TD thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự thống nhất đoàn kết từ trên xuống, từ ban lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên. Điều đó có ý nghĩa là công tác tổ chức ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa thực hiện tốt công tác này, ngân hàng đã làm cho guồng máy của mình hoạt động một cách uyển chuyển linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động ngân hàng nên luôn chú trọng công tác này để ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
* Thông tin tín dụng
Cho vay không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa nói tới những kẻ mạo danh, mạo nhận là DN để cho vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro và tổn thất cho ngân hàng. Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nắm bắt kịp thời và chính xác luồng thông tin là điều kiện để xem xét, phân tích, nhằm tìm ra cơ hội tốt nhất trong kinh doanh cũng như đề phòng những rủi ro có thể xẩy ra trong các hoạt động của ngân hàng.
Trên thương trường có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, nếu người nào nắm bắt được thông tin nhanh nhất, chính xác nhất nhất thì đã nắm được đa phần thắng. Rõ ràng, Việc xây dựng và hoàn chỉnh một hệ thống thông tin TD với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp thông tin cùng với việc đào tạo cán bộ có đủ năng lực chọn lọc và xử lý thông tin kịp thời là một trong những điều kiện quyết định tới sự thành công trong công tác kinh doanh và thực hiện hoạt động tín dụng của ngân hàng.
* Quy trình cho vay
Quy trình cho vay bắt đầu từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi thu hồi nợ vay. Việc thực hiện quy trình này như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của việc cho vay. Quy trình cho vay gồm rất nhiều khâu, nếu không được chấp hành một cách đúng đắn, chính xác nhịp nhàng thì rất dễ xảy ra rủi ro gây thất thoát vốn của ngân hàng, mặt khác quy trình này phải đảm bảo được tính thuận tiện, gọn nhẹ không gây khó khăn, mất thời gian cho khách hàng thì mới thu hút được đông đảo khách hàng tới vay vốn.
Trong quy trình cho vay một khâu đặc biệt quan trọng quyết định tới hiệu quả công tác cho vay đó chính là khâu thẩm định. Công việc này cần tiến hành một chặt chẽ, xác thực và hoàn thiện. Cán bộ TD khi tiến hành thẩm định không chỉ thu thập thông tin phân tích mà phải đi vào thực tế để kiểm tra. Kết quả của công tác thẩm định để đưa ra quyết định có cho vay hay không, kết quả thẩm định càng chính xác bao nhiêu thì hiệu quả cho vay càng cao bấy nhiêu. Đi đôi với việc mở rộng cho vay ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng thẩm định.
* Chất lượng đào tạo cán bộ
Nhân tố con người là nhân tố trọng tâm trong mọi hoạt động, con người là yếu tố quyết định tới sự thành công hay thất bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thực tế cho thấy một trong những vấn đề có tính quyết định lới chất lượng TD cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều từ việc hoạch định các chủ trương, chính sách tới việc thẩm định dự án, xét duyệt hồ sơ, kiểm tra việc sử dụng vốn, thu đòi nợ... của ngân hàng mà nhân tố con người là không thể thiếu được. Trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của những khoản vay ngân hàng, từ đó quyết định tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng được thể hiện qua khả năng hiểu biết về nghiệp vụ tín dụng, kỹ năng làm việc nhanh và có hiệu quả, khả năng phán đoán được các tình huống, kinh nghiệm làm việc... Ngoài ra cán bộ TD cần phải có kiến thức về quản trị kinh doanh, kinh tế học, kiến thức tài chính- kế toán... Một các bộ tín dụng có trình độ chuyên môn cao được thể hiện qua kết quả làm việc và đặc biệt là qua các quyết định chính xác khi tiếp cận với mỗi nghiệp vụ phát sinh.
Chất lượng cán bộ là "cơ sở vật chất " để thực hiện những kế hoạch kinh doanh trong cơ chế thị trường xuyên thay đổi và có nhiều biến động như hiên nay. Do vậy trong quá trình tuyển chọn cán bộ ngân hàng cần phải ưu đãi những người có tư cách đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, năng động sáng tạo. Trong quá trình hoạt động thường xuyên tiến hành đào tạo và đào tạo lại cán bộ để năng cao chất lượng cán bộ, đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ được nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong xử lý những sai sót có thể xẩy ra.
Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ được đào tạo với chất lượng, trình độ chuyên môn giỏi thì việc quản lý thực hiện các nghiệp vụ TD ngân hàng nói riêng và các nghiệp vụ ngân hàng nói chung sẽ trở nên quy củ, có hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, nó còn giúp cho ngân hàng tránh được các rủi ro có thể xẩy ra.
* Những vấn đề thuộc về kiểm tra, thanh tra, kiểm soát
Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không tính đến rủi ro, bất chắc có thể xẩy ra thì sẽ dễ dàng dẫn đến sự sụp đổ giải thể của mỗi ngân hàng.
Một trong những hoạt động có mục đích cho ngân hàng tránh được những rủi ro đó là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ được thực hiện đối với khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay) mà còn được thực hiện đối với bản thân ngân hàng (như quy trình thực hiện cho vay, quá trình quản lý vốn vay, loại trừ cán bộ mất phẩm chất có hiện tượng tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Cán bộ tín dụng không những thực hiện kiểm tra trước khi cho vay mà diễn ra trong suốt quá trình cho vay và thi nợ. Vì chỉ có thực hiện công tác kiểm tra này thì ngân hàng mới có thể nắm bắt được mình cho vay có đúng đối tượng không, khách hàng sử dụng vốn vay có đúng mục đích không và hiệu quả vốn vay như thế nào. Thông qua kiểm tra ngân hàng có thể đảm bảo được các khoản vay như mong muốn và đồng thời có những biện pháp kịp thời xử lý những sai sót bất hợp pháp, nhằm nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng TD cũng đồng thời là ngân hàng phải kịp phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động cuả ngân hàng. Muốn vậy, việc đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực trình độ và trách nhiệm thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là một vấn đề mà không ngân hàng nào coi nhẹ.
2.2. Nhân tố thuộc về khách hàng
Khách hàng vừa là đại diện cho bên cung ứng vốn tín dụng, vừa là đại diện cho bên cầu vốn tín dụng. Với tư cách là người cung ứng vốn TD, họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản lãi vay từ tiền gửi hay các dịch vụ thanh toán tiện lợi, do đó sự tín nhiệm của ngân hàng đói với khách hàng sẽ tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động. Với tư cách là người vay, họ mong muốn được đáp ứng đầy đủ vốn phù hợp với yêu cầu kinh doanh có thời hạn vay và lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhanh chóng.
* Yếu tố con người
Nhân tố con người: bao gồm đạo đức của khách hàng, mục tiêu kinh doanh, nhiệm vụ, động cơ của người vay...
Những thông tin sai trái về người vay là một dấu hiệu nguy hiểm ảnh hưởng đến chất lượng TD, ảnhhưởng đến hiệu quả của người vay.
Một nhân tố khác không kém phần quan trọng là tính quyết tâm trong kinh doanh của khách hàng. Một người vay có tính quyết tâm cao sẽ là một điều kiện giúp cho phương án kinh doanh có thể thắng lợi từ đó có nguồn trả nợ cho ngân hàng đúng hạn và đầy đủ, chất lượng TD của ngân hàng sẽ được đảm bảo và uy tín của ngân hàng được nâng cao.
Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng cũng là một dấu hiệu cho khả năng đảm bảo chất lượng TD của ngân hàng. Một nhà quản trị kinh doanh tốt là một người quản lý tốt đồng tiền vào ra của DN, kiểm soát được các chi phí, nhận biết các cơ hội kiếm lời và đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác, từ đó kiếm được lợi nhuận, có nguồn để trả nợ cho ngân hàng.
* Uy tín và khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng
Ngân hàng sẽ chỉ đồng ý cho vay nếu khách hàng chứng tỏ được khả năng tài chính và khả năng trả nợ của mình đối với ngân hàng. Ngân hàng không giám mạo hiểm cho vay đối với khách hàng nào mà uy tín bị giảm sút, khả năng tài chính đang có vấn đề. Vì vậy tài sản đảm bảo là một đòi hỏi của ngân hàng để đáp ứng cho nguồn trả nợ thứ hai bổ sung cho món vay. Giá trị tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền mà khách hàng được vay, vì ngân hàng căn cứ vào giá trị tài sản đảm bảo để xác định số tiền cho vay tối đa chỉ được 70% giá trị tài sản đảm bảo (nếu như không có quy định khác).
* Tính khả thi của dự án vay vốn
Khi dự án có khả thi thì các cán bộ sẽ dựa vào đó để quyết định cho vay, quy mô tín dụng sẽ được mở rộng. Đây còn là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng món vay, ảnh hưởng tới chất lượng tín dung của ngân hàng.
Mặt khác, nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc sử dụng vốn vay ngắn hạn cho đầu tư sản xuất cố định hoặc kinh doanh bất động sản thì sẽ không thu hồi kịp vốn để hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động TD.
2.3. Những nhân tố khách quan
* Môi trường kinh tế
Để ngân hàng có thể huy động được nhiều vốn mở rộng hoạt động tín dụng phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì cần có một nền kinh tế ổn định. Một nền kinh tế phát triển ổn định, sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình, làm giá cả luôn giữ ở mức ổn định, tránh được tình trạng lạm phát hoặc giảm phát...
Môi trường kinh tế có thể chi phối đến hoạt động SXKD của tất cả các thành phần kinh tế. Ngay cả bản thân ngân hàng trong quá trình kinh doanh tiền tệ của mình mà không dự doán trước được sự biến động của thi trường tiền tệ, tỷ giá hối đoái, giá trị đồng tiền... cũng sẽ dẫn đến kinh doanh thua lỗ và sụp đổ. Môi trường kinh tế ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền, sự sút giảm của tiền tệ chính là hao mòn của đồng tiền. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng là một lượng tiền cho vay thì sau một thời gian nhất định sẽ thu về một lượng tiền lớn hơn. Tuy nhiên sự chênh lệch giữa lượng giá trị mà ngân hàng thu về với lượng giá trị mà ngân hàng cấp ra lúc trước mới chỉ phản ánh sự lớn lên về mặt lượng, còn giá trị thực sự có tăng lên hay không lại phụ thuộc vào sự biến động của giá trị đồng tiền trong thời gian cấp tín dụng. Sự gia tăng giá trị nàythực sự tăng lên khi đồng tiền ổn định và tăng lên. Ngược lại, sự phát triển trên chỉ là danh nghĩa nếu sức mua của đồng tiền tại thời điểm cấp tín dụng lớn hơn nhiều so với sức mua của đồng tiền tại thời điểm hoàn trả thì sẽ gây tổn thất cho ngân hàng.
Ngân hàng sẽ khó tránh khỏi rủi ro nếu nền kinh tế không ổn định, chu kỳ KT có tác động không nhỏ đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Trong thời kỳ nền KT thị trường bị suy thoái, sản xuất bị đình trệ, kinh doanh bị thu hẹp thì nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn TD đã được thực hiện thì cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hay khó có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh SXKD được mở rộng dẫn đến nhu cầu về vốn tăng, từ đó chất lượng TD được nâng lên, giảm bớt rủi ro tín dụng. Như vậy, chu kỳ kinh tế ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của các khoản vốn TDNH.
Ngoài ra, các chính sách và sự điều tiết của các cơ quan có thẩm quyền ở mỗi ngành, mỗi vùng đều có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
* Môi trường Xã hội- Chính trị
Khách hàng và ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa hai bên. Vì vậy sự tín nhiệm là cầu nối mỗi quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Uy tín của ngân hàng trên thị trường ngày càng cao thì sẽ thu hút được lượng khách hàng ngày càng đông. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa ngân hàng và khách hàng là nhân tố không kém phần quan trọng quyết định tới quy mô, phạm vi hoạt động của mỗi ngân hàng, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng.
Nhân tố chính trị cũng có ảnh hưởng khá nhiều tới hoạt động TD. Thật vậy, một quốc gia không có sự biến động về chính trị hay không xẩy ra chiến tranh là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài bởi các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn chú trọng tới an toàn của vốn đầu tư. Tình hình kinh tế chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đất nước. Riêng đối với ngân hàng, nó có ảnh hưởng tới việc huy động, cho vay và đầu tư vốn của ngân hàng. Điều đó có ý nghĩa là nhân tố này ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
* Môi trường pháp lý
Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng TD nói riêng.
Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ một nền kinh tế nào. Không có pháp luật hoặc các chính sách ban hành không phù hợp sẽ khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, nếu hệ thống pháp luật ban hành không đầy đủ, không đồng bộ, các văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn trong khi thực hiện và chưa thật phù hợp với các ban ngành, các đơn vị có liên quan đến hoạt động tín dụng thì có ảnh hưởng tới chất lượng TD.
Pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động SXKD của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Nó còn là cơ sở pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Các DN cũng như ngân hàng phải tuân thủ những quy định nghiêm chỉnh của pháp luật thì hiệu quả và lợi ích sẽ được đảm bảo. Môi trường pháp luật này luôn được điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hơn để nó ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng.
* Các nhân tố khác:
Ngoài những nhân tố nêu trên, hiệu quả của công tác cho vay của ngân hàng còn chịu ảnh hưởng nhiều của nhân tố chủ quan, khách quan khác như: Thái độ phục vụ khách hàng, đạo đức xã hội, trang thiết bị phục vụ hoạt động hay những yếu tố môi trường như thời tiết, bệnh dịch..., và các biện pháp trong bảo vệ môi trường sinh thái.
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU- CHI NHÁNH HÀ NỘI
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC DNV&N Ở VIỆT NAM (TRÊN ĐỊA BÀN)
1.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DNV&N
1.1. Khái quát hoạt động SXKD cua DNV&N
Sau khi các chính sách "đổi mới" được đưa ra, khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam phát triển rất mạnh, góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện bộ mặt của khối DNV&N trong nền kinh tế.
Tính tới thời điểm này, ở Việt Nam có khá nhiều DNV&N (khoảng hơn 2 triệu DN), các DNV&N ở Việt Nam phát triển nhanh về số lượng nhưng quy mô khá nhỏ. Theo tính toán, toàn bộ khu vực DNV&N chiếm khoảng 20% tổng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp (trong đó, DNV&N quốc doanh: 13,4%, DNV&N ngoài quốc doanh: 6,6% tổng vốn kinh doanh).
Theo số liệu thống kê, trong 4 tháng đầu năm 2008, riêng T.P Hồ Chí Minh có 2.027 DNV&N được thành lập với tổng số vốn đăng ký là 2.981 tỷ đồng. Tăng trên 20% về số lượng và hơn 14% về vốn so với cùng kỳ năm 2007. ở Hà nội, đến hết tháng 3/2008 đã có 812 DNV&N được thành lập với tổng số vốn 1.405 tỷ đồng. Trong 4 tháng đầu năm 2008, cả nước có gần 6000 doanh nghiệp tư nhân thuộc loại DNV&N được thành với tổng số vốn đăng ký là 8.767 tỷ đồng. Cũng trong tháng 3 qua có 820 DN đăng ký bổ sung vốn với số tiền 2.350 tỷ đồng. Như vậy, đến hết tháng 3/2008 đã có 81.584 DNV&N được thành lập và đăng ký hoạt động với tổng số vốn trên 70.000 tỷ đồng.
Các số liệu trên cho thấy, vốn đăng ký kinh doanh của một DN bình quân dưới 1 tỷ đồng. Vậy có thể thấy số lượng DNV&N được thành lập trong 2 năm qua chiếm tỷ trọng lớn. Theo kết quả điều tra gần đây của chương trình hỗ trợ DNV&N của ngân hàng thế giới thì trong số doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh sau khi áp dụng luật doanh nghiệp có tới 98% là DNV&N.
Về ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Hiện nay, ngoài một số lĩnh vực ngành nghề mà nhà nước độc quyền thì các DNV&N tham gia hầu hết trong tất cả khu vực sản xuất công nghiệp, kinh doanh, thương mại. Dịch vụ...Trong đó, có một số lĩnh vực mà các DN chiếm tỷ trọng rất lớn (như sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm, nuôi trồng hải sản, những ngành nghề truyền thống, hàng tiêu dùng, dệt may, giầy dép, sành sứ, mây tre đan...) là những ngành sử dụng vật liệu đã có sẵn và lấy giá thành lao động rẻ là lợi thế cạnhh tranh. Trong số các DNV&N thì có khoảng 46,2% số hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ; 18% trong các ngành công nghiệp và xây dựng; 10% trong các ngành du lịch vận tải, kho bãi... Số DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chưa nhiều, 55% số DN sản xuất công nghiệp là các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống và hàng tiêu dùng. Có thể thấy DN Việt Nam có xu hướng tập trung kinh doanh vào những lĩnh vực cần ít vốn, tỷ suất lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh...
Từ đây có thể nhận xét rằng đại bộ phận các DN Việt Nam là DNV&N. Các DNV&N đã đóng góp vào khoảng 30-36% GPD, khu vực này đang có những bước phát triển khá nhất là sau khi luật doanh nghiệp được ban hành. Ngoài những ưu điểm chung là không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, quản lý đơn giản, linh hoạt, khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh biến động cao... DNV&N nước ta còn có tác dụng hết sức quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động, đang là sức ép cho nền kinh tế. Hiện nay, các DNV&N thu hút khoảng 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Sự phát triển về số lượng các DNV&N trong các năm qua và đặc biệt ttrong năm 2008 là kết quả của các chính sách hợp lý, của môi trường kinh tế nói chung có những bước tăng trưởng khá, và nhất là do hiệu quả kinh tế có được từ quy mô vừa và nhỏ.
1.2.Những khó khăn mà DNV&N thường gặp trong quá trình hoạt động SXKD
Do đặc thù riêng của DNV&N và xét trong hoàn cảnh chung của nền kinh tế, hiện tại các DNV&N đang đứng trước những khó khăn cần tháo gỡ và quá trình phát triển DNV&N đã và đang bộc lộ một số khó khăn, hạn chế. Thực tế trong nhiều năm qua, các DNV&N ở Việt Nam đã đạt được những thành quả nhất định, điều đó khẳng định rõ DNV&N có nhiều vai trò tích cực trong nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên bên cạnh đó, các DNV&N vẫn đang phải đương đầu với nhiều vấn đề trong qúa trình đổi mới, hội nhập phát triển của đất nước. Các vấn đề đó là: thông tin, khả năng tiếp cận thị trường, môi trường pháp lý, khả năng quản lý, công nghệ và đặc biệt là các khó khăn về vốn.
1.2.1. Thông tin và khả năng tiếp cận thị trường (đặc biệt là thi trường xuất khẩu):
Các DNV&N rất thiếu thông tin về thị trường, do đó họ tham gia các hoạt động thị trường không mang tính định hướng chiến lược.Trong số các DNV&N hiện nay, chỉ có một số ít các DNV&N quốc doanh có cơ hội tiếp cận với thông tin thực sự giá trị từ bộ chủ quản, còn phần lớn các DNV&N ngoài quốc doanh ít có điều kiện nắm bắt những thông tin cụ thể về ngành nghề, thị trường và giá cả hàng hoá... Các doanh nghiệp hầu như mới chỉ hoạt động ở một vài địa bàn nhất định cấp địa phương, các thông tin về thị trường nước ngoài chưa được khai thác, cả thị trường nguyên vật liệu đầu vào và thị trường sản phẩm đầu ra. Bên cạnh đó, phần lớn các DNV&N chưa chủ động tham gia vào các tổ chức, hiệp hội để nắm bắt thêm các nguồn thông tin cần thiết cho chiến lược kinh doanh lâu dài. Một số đại diện của các DNV&N phải thừa nhận rằng họ hầu như có rất ít thông tin về thị trường liên quan đến họ, nếu có thì nguồn thông tin đó cũng khó đảm bảo độ chính xác và kịp thời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quyết định sản xuất kinh doanh của DN. Đặc biệt là thị trường xuất khẩu đối với các DNV&N, những vấn đề như yêu cầu cấp giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu và các thủ tục xuất khẩu rườm rà tạo nên một trở ngại, trên thực tế buộc các DNV&N phải xuất khẩu hàng của mình thông qua các tổng công ty ngoại thương của nhà nước hoặc các DN nhà nước (mặc dù gần đây đã có quyết định cho phép các DNV&N trực tiếp xuất khẩu hàng hoá của mình). Chế độ tài trợ dành cho xuất khẩu đối với các DNV&N còn chưa rõ ràng cộng với thông tin về thị trường quốc tế còn không cập nhật đã gây nên khó khăn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, Internet là một công cụ tiềm năng đối với các doang nghiệp Việt Nam trong việc tìm ra thông tin hữu ích và cho phép các DN trưng bày sản phẩm khắp nơi trên thế giới với chi phí thấp. Tuy nhiên, việc sử dụng Iternet ở Việt Nam vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, các trang web phù hợp và tiện ích bằng tiếng việt chưa nhiều.
1.2.2. Môi trường pháp lý:
Hệ thống chính sách, văn bản, các quy định của pháp luật và nhà nước còn chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập và không được thông tin rộng rãi cũng gây ra nhiều khó khăn cho các DNV&N. Theo các DNV&N, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, có rất nhiều quy định liên quan đến các mặt hoạt động kinh doanh của họ song nội dung không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều cách, thường xuyên thay đổi và không được thông báo đầy đủ. Những quy định về tài sản thế chấp, tài sản cầm cố gây ra nhiều rắc rối nhất. Các nghị định, định hướng của nhà nước có ý nghĩa rất tích cực đối với sự phát triển của DNV&N nhưng hiếm khi được cụ thể hoá đầy đủ để có hiệu lực thực thi ở cấp địa phương. Về vấn đề này, cho đến thời điểm cuối năm 2002, một loạt các văn bản quan trọng được đưa ra nhằm tạo moi trường kinh doanh tốt hơn cho các DNV&N. Đó là: NĐ 90/ 2001/ NĐ- CP ra ngày 23/11/2001 của chính phủ "về trợ giúp phát triển các DNV&N"; quyết định của thủ tướng chính phủ, này 20/12/2001 về ban hành quy chế thành lập. Tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNV&N; chỉ thị số 28/2001/CT- Ttg ngày 28/11/2001 của thủ tướng chính phủ về tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp.
1.2.3. Khả năng quản lý
Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, ký năng quản lý hiện đại là một khách thức mà các DN phải đối mặt. Thực tế cho thấy, một số chủ DN chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm về thị trường và quản lý chưa nhiều... là những yếu tố tác động không nhỏ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Để trợ giúp vấn đề này, NĐ 90/2001 cũng đã đề cập đến việc thành lập các "vườn ươm doanh nghiệp" nhằm cung cấp cho các doanh nhân các kiến thức ban đầu về thành lập DN, tư vấn lựa chọn các phương án sản xuất, công nghệ, máy móc thiết bị, kỹ năng quản lý DN... Ngoài ra, để tăng cường trang bị kiến thức cho mình, các chủ DN có thể tham gia vào các khoá học đào tạo, các hội thảo, các chương trình thông tin do Dự án phát triểnDNV&N thuộc phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cung cấp.
1.2.4. Khó khăn về vốn
Theo đánh giá của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, thì tình trạng thiếu vốn đang là khó khăn lớn nhất đói với các DN Việt nam (đặc biệt là các DNV&N). Và đây cũng chính là vấn đề mà em tập trung nghiên cứu ở trong bài luận văn.
Xét về vấn đề này, ông tổng thư ký phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cho biết "không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước trên thế giới, các DNV&N đêù gặp khó khăn về tài chính".Tại buổi toạ đàm giữa phòng thương mại, công nghiệp Việt Nam và khối DNV&N với chủ đề tín dụng cho DNV&N, hầu hết các chủ DNV&N khi được hỏi đều cho biết, họ đã bỏ khá nhiều cơ hội làm ăn lớn vì thiếu vốn và không có đủ điều kiện tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng; tốc độ tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của họ bị hạn chế nhiều do không có được nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Thiếu vốn các DN này không những ảnh hưởng đến quy mô, công nghệ sản xuất từ khi mới thành lập mà khi đi vào hoạt động, khả năng bảo trì, thay thế máy móc...khả năng hiện đại hoá và mở rộng sản xuất cũng bị hạn chế.
Các DNV&N lâm vào tình trạng này trước hết là do bản thân DN thiếu tài sản thế chấp ngân hàng trong khi đó mức vay dường như vẫn bị hạn chế. Do vậy, các DNV&N cũng như các DN hoạt động độc lập có kế hoạch mở rộng sản xuất thì họ lại thiếu vốn để đưa kế hoạch đó vào thực hiện. Hơn nữa, hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với lãi suất không cao nên các DNV&N mặc dù được phép vay nhưng vẫn khó tìm được nguồn vốn trung và dài hạn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo các DN của ta có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên ngoài một cách rộng rãi và ổn định hơn.
1.2.5. Khó khăn về công nghệ.
Bắt nguồn từ nguồn vốn hạn hẹp của các DN, nên các DNV&N ít có điều kiện tập trung đầu tư nhiều cho tài sản cố định, máy móc... đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cấp công nghệ sản xuất để mở rộng năng lực sản xuất. Các DNV&N hầu như sử dụng công nghệ cũ, gây ra một số ảnh hưởng đến môi trường, đặc biệt trong tương lai với dây truyền sản xuất cũ, các DNV&N sẽ không tạo ra được các sản phẩm có tính cạnh tranh trong nước và trên thế giới. Bên cạnh đó, yếu tố công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất lao động thấp. Chất lượng sản phẩm nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường.
*Ngoài những khó khăn trên, nguồn nhân lực trong hoạt động của các DNV&N cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Nhiều chủ DN chưa đào tạo được đội ngũ chuyên môn bài bản, đội ngũ công nhân lành nghề và kỹ sư bậc cao bị thiếu hụt cũng là những khó khăn gây cản trở sự phát triển của DN. Và nhất là trong quá trình cạnh tranh mang tính toàn cầu như hiện nay thì vấn đề "chảy máu chất xám " nói chung, hay nói một cách khác là vấn đề thu hút nhân tài vào làm việc trong các DNV&N của Việt Nam cũng là một vấn đề được đặt ra.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra khó khăn trong hoạt động SXKD của DNV&N.Nhưng nguyên nhân chính đó là do sự tiếp cận nguồn vốn của các DNV&N còn nhiều hạn chế.
2. Thực trạng tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của DNV&N
Mặc dù các chính sách của nhà nước đã nêu rõ: tạo một sân chơi công bằng, bình dẳng cho các loại hình DN (DN nhà nước và DN dân doanh), nhưng thực tế, các quy chế cho vay của ngân hàng về tài sản đảm bảo tiền vay như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, yêu cầu vốn tự có của DN tham gia vào dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ... lại là vấn đề khó khăn cho DN dân doanh. Cùng xét trong khu vực DNV&N nhưng các DNV&N thuộc sở hữu nhà nước vẫn có khả năng tiếp cận với tín dụng ngân hàng hơn là DNV&N dân doanh.
Một kết quả nghiên cứu của chương trình phát triển dự án Mêkông (MPDF) sẽ làm rõ hơn điều này: Khi đưa ra câu hỏi sau cho hơn 160 cán bộ trong mẫu điều tra: nếu anh / chị nhận dược hai đơn xin vay- một của DN nhà nước, một của DN dân doanh và vả hai đều thoả mãn mọi tiêu chuẩn tín dụng cơ bản nhưng anh/ chị chỉ có thể chấp nhận được một đơn xin vay thì anh/ chị sẽ chọn đơn của ai? 80% cán bộ tín dụng chọn đơn xin vay của DN nhà nước, chỉ có 18% số cán bộ tín dụng nói rằng họ sẽ cho DN dân doanh vay, 2% không có quyết định gì. Các cán bộ tín dụng cũng nêu lên lý do lý giải cho sự ưu ái của mình đối với các DN nhà nước là:
- Các DN dân doanh không trung thực trong báo cáo tài chính của mình vàv thường sử dụng vốn vay sai mục đích.
- Chính sách của ngân hàng là nên thận trọng khi làm việc với DN dân doanh và quan niệm cho DN dân doanh vay bị coi là rủi ro cao hơn.
- Các DN dân doanh không có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước
- Các ngân hàng khó giám sát được các khoản vay của DN dân doanh trong quá trình sử dụng vốn.
- Đã có những kinh nghiệp không tốt về các đơn vị xin vay dân doanh...
Có rất nhiều lý do khiến cho các DNV&N (đặc biệt là khu vực dân doanh) khó tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng nhưng chủ yếu vẫn là việc các DN này không đáp ứng đầy đủ các diều kiện vay vốn (như yêu cầu về vốn từ có, về tài sản thế chấp...) một số DN có tài sản thế chấp song không đáp ứng đủ tính chất pháp lý. Do vậy, việc cung ứng vốn cho các DNV&N dân doanh hiện nay được đánh giá là chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ DN thường dựa vào những khoản tiền tự có, vốn vay của thân nhân, bạn bè và vay của những người cho cho vay lấy lãi, đẩy chi phí vốn và giá thành lên cao.
Như vậy, thực trạng tín dụng cho khu vực DNV&N chưa thực sự được quan tâm, phát triển tương xứng với tiềm năng của khu vực này, các nhóm nguyên nhân có thể kể đến như sau:
- Hệ thống ngân hàng yếu kém, chưa tiếp cận được yêu cầu về cầu tín dụng. Trong những năm qua, dư nợ của hệ thống ngân hàng nói chung chủ yếu là dành cho các DN Nhà nước và nhất là DN nhà nước có quy mô lớn. Các ngân hàng chưa thực sự quan tâm đến khách hàng của khu vực DNV&N. Quan điểm trong nhận thức, trong chỉ đạo và trong điều hành kinh doanh của một số ngân hàng chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, còn sự phân biệt rất lớn giữa DN lớn và DNV&N, giữa DN nhà nước và DN dân doanh.
- Bản thân DN chưa đáp ứng đầy đủ các đòi hỏi của ngân hàng về quy mô vốn, thủ tục lập dự án, thủ tục thế chấp, tính bất hợp pháp của tài sản thế chấp... Các DNV&N, đặc biệt là các DNV&N ngoài quốc doanh chưa thật sự hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán theo pháp lệnh HTKT, tài chính của DN không minh bạch nên đã gây khó khăn cho ngân hàng trong khâu thẩm định, đánh giá DN khi xem xét giải quyết cho vay, bản thân một số DN dân doanh cũng thường e ngại khi vay ngân hàng, vì vậy buộc phải xuất trình các báo cáo tài chính, điều mà nhiều DN không muốn làm vì các nguyên nhân trên.
- Hệ thống chính sách, quy chế, quy định còn chưa thực sự hỗ trợ cho các DNV&N, một số quy chế về tài sản thế chấp đối với doanh nghiệp dân doanh quá chặt chẽ, thiếu bình đẳng trong khi các DN Nhà nước không cần thế chấp cũng có thể vay được những khoản vốn lớn; ngoài ra, các quy định về quyền sở hữu đất đai, về thủ tục, điều kiện bảo lãnh... cũng đang là những nguyên nhân khiến cho khối DNV&N khó tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng.
3.Chủ trương của Đảng, quản lý của nhà nước đối với DNV&N- các văn bản pháp luật có liên quan.
Trước những đóng góp và khó khăn mà DNV&N đang phải đối mặt, đã đến lúc nhà nước thể hiện sự quan tâm của mình đến khu vực kinh tế này.
Cho đến nay, phát triển DNV&N đang là vấn dề được nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt. Với chương 4, 20 điều, NĐ 90/2001 ngày 23/11/2001 "Về trợ giúp phát triển DNV&N" là khung pháp lý đầu tiên ở nước ta, tạo nhiều thuận lợi cho các DNV&N phát huy khả năng của mình, đóng góp vào sự phát triển kinh tế đất nước.
Từ lịch sử phát triển kinh tế của nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Đức Nhật Bản và một số nước Châu Á khác; đặc biệt là từ thực trạng phát triển kinh tế của đất nước, Chính phủ đã chỉ rõ:"Phát triển DNV&N là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho DNV&N phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát trtiển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng mối liên kết với các loại hình DN khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản suất kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đới sống cho người lao động ".
Từ đó, các DNV&N được hưởng các chính sách ưu đãi hiện hành đối với các DN đầu tư SXKD theo đúng ngành nghề (bao gồm cả ngành nghề truyền thống). Tất cả các cơ chế, chính sách ưu đãi sẽ được vận dụng một cách tập trung, thể hiện trong các chương trình trợ giúp được bố trí trong kế hoạch hàng năm hoặc năm năm của Nhà nước, của mỗi tỉnh, thành phố.
Nghị định cũng nêu rõ chủ trương khuyến khích thành lập các tổ chức trợ giúp DNV&N như hiệp hội DN, câu lạc bộ DN, là các tổ chức xã hội nghề nghiệp nhằm trợ giúp các DNV&N về cung cấp thông tin tư vấn đào tạo... Là cầu nối giữa hội viên với các cơ quan của Chính phủ, đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp của DNV&N. Nghị định cũng quy định thành lập hai tổ chức mới: cục phát triển DNV&N và hội đồng khuyến khích phát triển DNV&N.
Để trợ giúp về công nghệ cho các DNV&N, bước đầu sẽ thành lập 3 trung tâm trợ giúp ký thuật DNV&N ở Tp. Hà nội, Tp. HCM, Tp. Đà Nẵng. Các trung tâm này có nhiệm vụ tư vấn cho cục phát triển DNV&N và là nơi tư vấn cho các DN về công nghệ và kỹ thuật, về trang thiết bị, hướng dẫn quản lý kỹ thuật và bảo dưỡng trang thiết bị kỹ thuật, tạo điều kiện cho DNV&N tiếp cận được với công nghệ mới.
Trong số các chính sách trợ giúp, cũng đã quy địnhh việc thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNV&N "để bảo lãnh cho các DNV&N khi không có đủ tài sản thế chấp cầm cố, vay vốn của các tổ chức tín dụng", để tháo gỡ một phần khó khăn cho DNV&N khi thiếu vốn kinh doanh. Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNV&N cũng được ban hành kèm theo quyết định củ Thủ tướng Chính phủ, ngày 20/12/2001. Đây là một loại quỹ tương hỗ do các tổ chức tín dụngvà DNV&N góp vốn lập nên, ngoài ra còn có vốn cấp từ ngân sách, vốn góp từ các hiệp hội... nhằm chia sẻ rủi ro với ngân hàng khi cấp tín dụng cho DNV&N, giúp cho DN có vốn thực hiện các kế hoạch SXKD.
Ngoài ra, chỉ thị số 28/2001/ CT- Ttg ngày28/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ "về tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN" cũng góp phần tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho DN thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản suất kinh doanh, đó chính là tạo ra một sân chơi bình đẳng và công bằng cho các loại hình DN, không phân biệt các hình thức sở hữu. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu cơ chế đơn giản hoá thủ tục cho vay đối với DN dân doanh( chủ yếu là DNV&N) để loại hình DN này có điều kiện thuận lợi tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng.
Nếu xét riêng trên địa bàn Hà Nội. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ thành phố Hà Nội có nêu nội dung cơ bản của kế hoạch năm 2001-2005 như sau: "Khuyến khích đầu tư cho các ngành công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất truyền thống... phát triển ngành dệt- may- da giầy để tạo nhiều việc làm, góp phần làm tăng giá trị công nghiệp, ưu tiên các cơ sở chế biến nông sản quy mô vừa và nhỏ, hỗ trợ và xây dựng các cụm công nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ cho các DNV&N về phương thức sản xuất kinnh doanh, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ và tìm kiếm thi trường... tạo điều kiện cho các DN ngoài quốc doanh phát triển".
Có thể thấy năm 2007, là năm đánh dấu nhiều thuận lợi cho các DNV&N thông qua định hướng phát triển của nhà nước, thành phố. Qua các Nghị định, Chỉ thị, chính sách mới, bảo đảm môi trường kinh doanh công bằng và bình đẳng hơn cho các DN, không phân biệt hình thức sở hữu, chú trọng vào phát triển DN quy mô vừa và nhỏ. Như vậy, loại hình DNV&N là phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta, và lại nhận được sự quan tâm từ phái các cơ quan Nhà nước, ta có thể tin tưởng rằng các DNV&N sẽ ngày càng phát triển, thể hiện vay trò tích cực của mình trong nền kinh tế.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU- CHI NHÁNH HÀ NỘI
1. Kết quả cho vay thu nợ
Trong thời gian qua, hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà Nội đã không ngừng phát triển, đáp ứng một khối lượng lớn vốn tín dụng phục vụ cho nền kinh tế.
Trong cơ cấu đầu tư tín dụng chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà nội vẫn luôn chú trọng tới khối DNV&N. Ngân hàng luôn quan tâm nâng cao tỷ trọng cho vay đối với DNV&N, tập trung mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có năng lực tài chính, có tín nhiệm trong quan hệ vay trả đối với ngân hàng.(Xem các số liệu trong bảng dưới)
Bảng II.1: tình hình tín dụng
tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà nội
(Đơn vị: Triệu đồng)
CHỈ TIÊU
Thực hiện 2007
Thực hiện 2008
So sánh 07/08
Số tiền
%
Số tiền
%
(+/-) tiền
(+/-)%
Tổng dư nợ
202.400
100
255.521
100
DN lớn
121.012
59,78
147.513
57,73
DNV&N
32.205
15.91
68.925
26,97
+36.720
+11,06
Đối tượng khác
42.183
20,84
39.083
15,29
Doanh số cho vay trong năm 2008 đối với các DNV&N tăng lên 68.952 chiếm 26,97%. Như vậy là dư nợ đối với các DNV&N tăng mạnh, bởi lẽ đây là những bước thử nghiệm đối với loại hình doanh nghiệp này(Công ty TNHHvà cổ phần). Ta sẽ thấy rõ điều đó trong biểu đồ sau (số liệu 2008):
Biểu đồ II.2 Cơ cấu cho vay trong năm 2008:
Ta thấy dư nợ năm 2007của DNV&N chỉ đạt 15,91% nhưng đã tăng lên 26,91%trong năm 2008.
Để có được điều này, chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội luôn chú trọng đầu tư vào các dự án khả thi của các DNV&N. Vì thực tế việc đầu tư cho các DNV&N đã đem lại hiệu quả cho cả khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng có điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng khi mà cạnh tranh giữa các ngân hàng hết sức gay gắt có nhiều cơ hội bất lợi cho các ngân hàng cổ phần. Đồng thời các DNV&N tháo gỡ khó khăn trong hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn.
Hiện nay, nếu xét đến tổng số DNV&N đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội là khoảng hơn 3000 DN, thì vẫn còn nhiều DNV&N là các khách hàng tiềm năng chưa tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Với kế hoạch và các kết quả đã đạt được của ngân hàng thì có thể khẳng định khả năng phục vụ, cung cấp tín dụng cho các DNV&N của cho nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội còn là rất lớn.
Đồng thời, cũng như các DN khác, các DNV&N trên địa bàn Hà nội cũng đang gặp phải khó khăn là thiếu vốn. Do đó trong quá trình SXKD, để duy trì sự hoạt động liên tục, vốn của DN phải liên tục cùng tồn tại trong cả ba giai đoạn: Dự trữ- Sản xuất và lưu thông nên hiện tượng thiếu vốn xẩy ra thường xuyên hơn, tín dụng sẽ góp phần điều tiết nguồn, tạo điều kiện cho SXKD không bị gián đoạn. Như vậy ta đã thấy xu hướng tăng số lượng khách hàng là DNV&N tại chi nhánh trong những năm qua và xu hướng này còn tiếp tục tăng trong những năm tới.
Một trong những nguyên nhân là tăng tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNV&N có thể kể đến là do số lượng DN mới thành lập, có đăng ký trên địa bàn tăng nhanh, chủ yếu là khối khu vục quốc doanh kể từ sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực. Do vậy mà số lượng DNV&N có quan hệ tín dụng với ngân hàng cũng tăng lên, nâng cao tỷ trọng dư nợ của DNV&N trong tổng dư nợ. Đây cũng là giai đoạn nền kinh tế khu vục cả nước nói chung cũng như trên địa bàn Hà Nội có những dấu hiệu khả quan, nền kinh tế hướng mạnh ra xuất khẩu, nhiều dự án của thành phố được triển khai, cùng với nó là sự khởi sắc của DNV&N. Ngoài ra cũng phải nói rằng ngân hàng đã lưu ý hơn đến khối khách hàng tiềm năng này là do thấy được khả năng phát triển của khu vực DNV&N.
1.1.Phân loại tín dụng theo thời hạn vay
1.1.1.Nghiệp vụ cho vay ngắn hạn đối với DNV&N
Các DN vay vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng yêu cầu vốn lưu động bị thiếu trong quá trình SXKD. Hình thức cho vay chủ yếu là tín dụng ngắn hạn.
Trong năm 2007, 2008 trong tổng dư nợ của chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà nội, dư nợ ngắn hạn luôn chiếm phần chủ yếu nhưng xét về xu thế vận động thì dư nợ ngắn hạn đang trong tình trạng giảm xuốngvà dư nợ dài hạn tăng lên. Ta có thể thấy rõ điều nay thông qua bảng số liệu sau:
Bảng II.3: Tín dụng phân loại theo thời gian
tại chi nhánh Ngân hàng Á Châu trong hai năm gần đây
(Đơn vị: Triệu đồng)
CHỈ TIÊU
Thực hiện 2007
Thực hiện 2008
Kế hoạch 2008
So sánh
TH2008/KH2008
TH2008/TH2007
Vay ngắn hạn
95.011
63.312
153.100
41,4
66.6
Vay trung và dài hạn
107.389
192.209
265.980
72,3
179
Nhìn vào bảng ta thấy cho vay ngắn hạn năm 2008 giảm đi so với năm 2007 nhưng tỷ trọng tín dụng và dài hạn lại tăng lên 192.209 triệu đồng chiếm 179% so với cùng kỳ năm trước.
Điều này chứng tỏ sự đầu tư mở rộng sản xuất cho các DN( trong đó có cả các DNV&N) thông qua các dự án đã được thực hiện.
Cho vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Á Châu- chi nhánh Hà nội được thể hiện thông qua bảng sau:
Bảng II.4: Dư nợ DNV&N phân loại theo thời hạn cho vay
trong hai năm tại chi nhánh Ngân hàng Á châu Hà Nội
(Đơn vị: Triệu đồng)
CHỈ TIÊU
2007
2008
So sánh 08/07
Số tiền
%
Số tiền
%
+/-(Tiền)
+/-(%)
Dư nợ DNV&N
32.205
100
68.925
100
-Ngắn hạn
15.177,03
46,94
17.079,62
24,78
+1.962,59
-22,16
-Trung & dài hạn
17.078,97
53,06
51.845,39
75,22
+34.757,41
+22,16
Nhận xét:
- Doanh số cho vay: Trong năm 2007 doanh số cho vay ngắn hạn giảm từ 46,94% xuống 24,78% trong năm 2008. Từ đó có thể thấy tỷ trọng cho vay ngắn hạn giảm xuống chuyển tỷ trọng cho vay dài hạn tăng lên 34.757,41 triệu đồng chiếm 22,16% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên ta vấn có thể khẳng định chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội vẫn luôn chú trọng đáp ứng vốn tín dụng đối với các DNV&N.
- Doanh số thu nợ: Doanh số thu nợ cho vay ngắn hạn đối với các DN nói chung và DNV&N nói riêng trong thời gian qua đều có xu hướng tăng lên...
1.1.2. Nghiệp vụ cho vay vốn trung và dài hạn đối với DNV&N
Trong những năm gần đây, chi nhánh Ngân hàng Á châu Hà nội luôn từng bước cải cách hoạt động kinh doanh của mình, tăng cường cho vay vốn trung và dài hạn đối với các DNV&N. Ngân hàng đã chủ động khai thác nguồn vốn để tăng trưởng cho vay trung và dài hạn. Chính vì vậy mà tỷ trọng cho vay trung và dài hạn tăng lên
Để thấy rõ tình hình đầu tư vốn trung và dài hạn tại chi nhánh ta nghiên cứu bảng sau:
Bảng II.5: Doanh số cho vay trung và dài hạn
trong hai năm tại Ngân hàng Á Châu- chi nhánh Hà Nội
(Đơn vị: Triệu đồng)
Chỉ tiêu
2007
2008
So sánh 08/07
Tiền
%
Tiền
%
+/-Tiền
%
Dư nợ trung & dài
107.389
100
192.209
100
+84.820
78,98
DN lớn
64.100
59,69
110.770,05
57,63
DNV&N
20.919
19,84
52.069,42
27,09
+31.150,4
+7,61
Đối tượng khác
22.370
20,83
29.639,54
15,28
NhËn xÐt:
C¸c sè liÖu trªn cho thÊy: Chi nh¸nh Ng©n hµng Á Châu- Hà Nội đã chú trọng đến đầu tư dài hạn, phục vụ cho đổi mới máy móc thiết bị trong các DNV&N nhằm mở rộng sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra tiềm mới cho nền kinh tế. Nhìn vào bảng trên có thể thấy tỷ trọng đầu tư vốn trung và dài hạn cho các DNV&N và mức độ tương đối đối với từng ngành kinh tế.
Nhìn chung, dư nợ vốn trung và dài hạn càng ngày tăng, nhưng dư nợ vốn cố đinh đối với các DNV&N tăng chậm hơn so với các DN lớn. Nhưng tỷ trọng dư nợ vốn cố định đối với các DNV&N cũng đã tăng lên nhiều.
- Xét cơ cấu cho vay theo ngành nghề kinh tế: Tại chi nhánh tỷ trọng trung và dài hạn đối với DNV&N tăng lên qua các năm. Cụ thể năm 2008 tăng thêm 31.150,4 triệu đồng chiếm 7,61% so với năm 2007. Lý do xuất phát từ chính mục đích vay vốn, nhu cầu sử dụng vốn. Thực tế cho thấy, trên địa bàn Hà Nội trong năm 2007, 2008 các ngành hạ tầng cơ sở như xây dựng, giao thông, điện, và các ngành khác có điều kiện phát triển, vì đây là những ngành có nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định, máy móc thiết bị lớn cần có những khoản vốn trung và dài hạn .
Qua phân tích trên ta thấy, cơ cấu cấp tín dụng phân loạitheo thời gian cho vay tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà Nội là tỷ trọng vốn trung và dài hạn cao hơn tỷ trọng vốn ngắn hạn. Các khoản vốn tín dụng ngắn hạn nhằm cung ứng nhu cầu về vốn lưu động cho các DN, phục vụ quá trình SXKD như mua nguyên vật liệu, chi trả lương, các khoản vay cho mục đích thương mại và du lịch với đặc điểm thu hồi vòng quay vốn nhanh... Còn các khoản vốn tín dụng trung và dài hạn nhằm tài trợ cho DN mua sắm máy móc, thiết bị, đổi mới dây truyền công nghệ, nâng cao nhà xưởng... Để nâng cao tính cạnh tranh cho các DNV&N, việc đầu tư vào tài sản cố định sử dụng công nghệ hiện đại là yêu cầu tất yếu. Chủ trương của ngân hàng trong thời gian tới là giữ vững mức độ ổn định và tăng trưởng tín dụng ngắn, trung và dài hạn.
1.2.Tín dụng DNV&N phân loại theo thành phần kinh tế
Chỉ xét trong khối DNV&N, thì giữa khu vực DNV&N quốc doanh và DNV&N ngoài quốc doanh cũng có một số khác biệt. Điều đó sẽ được chứng tỏ ở bảng sau:
Bảng số II.6: Dư nợ DNV&N phân loại theo thành phần kinh tế
trong hai năm tại chi Nhánh ngân hàng Á Châu Hà Nội
(Đơn vị: Triệu đồng)
CHỈ TIÊU
Thực hiện 2007
Thực hiện 2008
So sánh 08/07
Tiền
%
Tiền
%
+/-Tiền
%
Dư nợ DNV&N
32.205
100
68.925
100
DN quốc doanh
23.509,65
73,0
46.869
68,0
+23.359,4
+99,36
Ngoài quốc doanh
8.695,4
27.0
22.056
32,0
+13.360,4
+153,6
Từ các số liệu trên, ta có thể nhận xét: Dư nợ của DNV&N quốc doanh chiếm tỷ trong lớn hơn rất nhiều so với dư nợ của DNV&N ngoài quốc doanh. Có thể lý giải là số DNV&N quốc doanh nhiều hơn số DNV&N ngoài quốc doanh.
Nhận xét:
Các ngân hàng nói chung cũng như chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà nội nói riêng vẫn có sự ưu đãi hơn đối với các DN Nhà nước vốn được coi là con đẻ của nền kinh tế. Khi có dự án hoặc nhu cầu vay vốn các DN quốc doanh chỉ cần đưa ra các thông tin về báo cáo tài chính, chứng minh tính khả thi thì sẽ được cán bộ tín dụng thẩm định và ngân hàng xét duyệt cho vay vốn mà không cần tài sản thế chấp. Trong khi đó, có nhiều DN ngoài quốc doanh có dự án khả thi nhưng không có tài sản thế chấp, không đủ báo cáo tài chính theo yêu cầu cuả ngân hàng thì ngân hàng không cho vay vốn ví như vậy là làm sai quy chế. Và như vậy là DN mực dù có nhu cầu vay vốn, có dự án hiệu quả nhưng cũng không thể tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
Về vấn đề phân biệt giữa DN quốc doanh và DN ngoài quốc doanh, tại buổi toạ đàm do phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam tổ chức ngày 27/11/2007, Ông Nguyễn Kế Sửu, Giám đốc một doanh nghiệp kinh doanh hoá chất cho biết: Công ty có doanh thu khảng 30 tỷ đồng trên một năm nhưng hầu như chưa vay được một đồng vốn nào của ngân hàng. Thậm chí có vay nhưng lại phải núp qua bóng một DN quốc doanh khác, và phải chịu một khoản phí và đẩy chi phí vốn lên cao. Những khó khăn kiến cho công ty không tiếp cận được vốn của ngân hàng bao gồm: Chưa có uy tín, mới thành lập nên chưa có báo cáo tài chính, tăng trưởng trong hai ba năm liền, bất động sản chưa được cấp sổ đỏ... Trong khi đó doanh nghiệp không thể mang hàng hoá ra thế chấp do kinh doanh tới trên 2000 mặt hàng mà lại là hàng nhỏ, đặc biệt ngân hàng không thể kiểm soát và quản lý được.
Trên đây chỉ là ý kiến của một chủ DN nhưng thiết nghĩ có nhiều DNV&N khác đặc biệt là DN ngoài quốc doanh trong đó cũng có cả khách hàng và khách hàng tiềm năng của chi nhánh Ngân hàng Á Châu- Hà nội cũng có chung tình trạng trên. Các vấn đề về tài sản thế chấp như tài sản quyền sở hữu trí tuệ, giá trị quyền sử dụng đất, tính pháp lý của bất động sản, tài sản hình thành từ vốn vay dùng để bảo đảm tiền vay...hiện đang là trở ngại chính khiến cho DNV&N ngoài quốc doanh khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
Mặc dù dư nợ của các DNV&N ngoài quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng thấp hơn dư nợ của các DNV&N quốc doanh nhưng cũng phải nhìn nhận một thực tế là tỷ trọng đó đã tăng lên trong năm gần đây.
Các yếu tố giải thích cho sự tăng trưởng đó kể trên là:
- Số lượng DNV&N ngoài quốc doanh là khách hàng giao dịch của chi nhánh đã tăng hơn. Đây là xu thế chung của các DN mới hình thành trong cả nước cũng như trong thành phố Hà Nội.Trong số các DN hình thành năm 2008 chủ yếu là các loại hình DN như Cty TNHH, Cty tư nhân, cty cổ phần...
- Cùng với xu hướng của cả nền kinh tế,cũng như của các ngân hàng thương mại khác, chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà nội đã quan tâm hơn nhiều đến khu vực dân doanh. Điều này được thể hiện rõ trong báo cáo tổng kết năm của chi nhánh: "chi nhánh đang mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh, một lĩnh vực rộng lớn, có nhiều khả năng phát triển, đang được chú ý".
- Để tiến hành trôi chảy các hoạt động SXKD, nhu cầu vay vốn của các DN là rất lớn, đồng thời các DNV&N ngoài quốc doanh cũng đã dần dần chứng tỏ khả năng và vai trò của mình thông qua các dự án, đơn xin vay có hiệu quả kinh tế cao, các khoản tín dụng hoàn trả đúng hạn, vai vốn đầu tư tài sản cố định, đổi mới trang thiết bị dây truyền công nghệ...
2. Chất lượng tín dụng
2.1. Xét về khả năng sinh lãi cho ngân hàng
* Vòng quay vốn:
Bảng II.7: Vòng quay vốn tín dụng
Đơn vị: (Triệu đồng)
CHỈ TIÊU
Năm 2008
Năm 2007
Doanh số thu nợ
492.406
684.580
Dư nợ bình quân
202.400
255.521
Vòng quay vốn
2,4328
2,67915
Từ bảng trên ta thấy rằng, tốc độ vòng quay vốn của ngân hàng năm 2008 tăng hơn so với năm 2007. Điều đó chứng tỏ nguồn vốn vay của ngân hàng luân chuyển nhanh, lãi thu được từ vốn vay cao dẫn đến đồng vốn sử dụng có hiệu quả.
Vòng quay vốn tín dụng đối với DN nói chung và DNV&N nói riêng tăng là do tốc độ tăng của doanh số thu nợ cao hơn tốc độ tăng của dư nợ bình quân.Từ đây có thể thấy công tác thu hồi nợ có hiệu quả cao đã là tăng vòng quay vốn tín dụng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng đồng vốn cao. Doanh số thu hồi nợ cao còn do các cán bộ tín dụng có trách nhiệm trong việc đôn dốc thu hồi nợ, và việc giám sát kiểm tra chặt chẽ.
Do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên khả năng đáp ứng nhu cầu cho DN vay cũng tăng.Do vậy các DN làm ăn có hiệu quả, có phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi dễ vay vốn của ngân hàng để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh.
* Lợi nhuận cho vay:
Bảng II.8: Thu nhập lãi thuần của
chi nhánh ngân hàng Á Châu Hà Nội
(Đơn vị: triệu đồng)
CHỈ TIÊU
Thực hiện 2007
Thực hiện 2008
So sánh 08/ 07
(+/-)Tiền
%
-Thu nhập trong hoạt động NH
44.565
37.573
(-)6.992
84,3
+Doanh thu lãi cho vay
17.643
15.411
(-)2.232
+Doanh thu lãi tiền gửi
26.922
22.162
(-)4.760
-Chi phí trả lãi tiền gửi và tiền vay
38.088
26.292
(-)11.796
69,03
-Thu nhập lãi thuần
6.477
11.281
(+)4.804
74,17
Nhân xét: Từ bảng số liệu ta thấy năm 2008 các khoản thu lãi tín dụng đã giảm 6.992 triệu đồng chiếm tỷ trọng 84% trong tổng thu nhập. Số thu về lãi cho vay giảm 2.232 triệu đồng và thu về lãi tiền gửi giảm 4.760 triệu đồng. Việc giảm này hoàn toàn phù hợp với thực trạng của chi nhánh như đã nêu trong phần nghiệp vụ nguồn vốn và sử dụng vốn. Thật vậy, do các nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động đã làm ảnh hưởng tới việc huy động vốn của chi nhánh; nguồn vốn huy động giảm kéo theo thu nhập từ nguồn vốn sinh lời cũng giảm.
Chi phí trả lãi tiền gửi và tiền vay giảm 11.796 triệu đồng. Số giảm chi phí này lớn gấp hai lần số giảm về thu nhấp sử dụng vốn chính vì vậy đã đóng góp đáng kể để tạo thêm lợi nhuận cho chi nhánh. Nguyên nhân giảm chi phí huy động vốn trong năm đó là:
- Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ có tức động làm cho lãi suất trên thị trường quốc tế giảm mạnh buộc các NHTM trong nước phải giảm lãi suất huy động vốn.
- Do lãi trong nước giảm mạnh, trong khi đó giá vàng và bất động sản ở đô thi tăng rất nhanh đã có tác động mạnh đến tâm lý cuả các nhà đầu tư. Mặc dù các khoản tiền gửi chưa đến hạn nhưng các nhà đầu tư đã rút vốn ra để đầu tư vào lĩnh vực khác mong kiếm được lợi nhuận nhiều hơn; đây cũng là nguyên nhân làm giảm chi phí huy động vốn.
- Do làm tốt công tác tiếp thị và nâng cao hình ảnh của ngân hàng chính vì vậy ngày càng có nhiều DN mở tài khoản hoạt động tại chi nhánh. Đây chính là những khách hàng đem lại cho chi nhánh nguồn vốn có chi phí huy động đầu vào thấp.
2.2. Khả năng thu hồi và tổn thất
Bảng II.9: Nợ quá hạn
trong năm 2007 phân loại theo quy mô
(Đơn vị : triệu đồng)
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Tổng nợ quá hạn
52,42
100
DN lớn
38,843
74,1
DNV&N
13,1574
25,1
Đối tượng khác
0,4194
0,8
Nợ quá hạn của DNV&N là 13,1574 triệu đồng, chiếm 25,1% tổng nợ quá hạn, chủ yếu là các khoản tín dụng trung và dài hạn.
Trong số 52,42 triệu đồng nợ quá hạn của chi nhánh, thì chiếm tỷ trọng chủ yếu là các DN Nhà nước làm ăn thua lỗ, phá sản, nhưng xét trong khu vực DNV&N thì nợ quá hạn của DNV&N quốc doanh chiếm tỷ trọng ít hơn so với DNV&N ngoài quốc doanh.
Trong năm qua cùng với việc phối hợp với các cơ quan thi hành án đốc thúc khách hàng tự bán tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Chi nhánh còn thường xuyên động viên khách hàng tận dụng mọi nguồn thu nhập để trả nợ. Chính vì vậy kết quả thu hồi nợ quá hạn trong năm 2008 rất đáng kể và góp phần tăng thêm nguồn thu cho ngân sách.
3. Đánh giá chung
Qua xem xét thực trạng hoạt dộng cho vay, đầu tư tại Ngân hàng Á Châu- chi nhánh Hà nội, đặc biệt là đối với các DNV&N, ta có thể đưa ra những đánh giá chung về quan hệ tín dụng giữa chi nhánh với các DNV&N trong những năm qua thông qua những kết quả đã đạt được, tồn tại và nguyên nhân như sau:
3.1 Những kết quả đạt được
Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, đồng thời để phát triển hoạt động kinh doanh an toàn hiệu quả. Trong những năm qua, ngân hàng á CHâu- chi nhánh Hà Nội đã mở rộng hoạt động tín dụng đối với các DNV&N, đáp ứng đủ vốn cần thiết cho các DNV&N trên địa bàn và thực hiện tốt các chỉ thị cho vay đối khu vực kinh tế này. Kết quả là: Doanh số cho vay và dư nợ cho các DNV&N ngày càng tăng, số lượng khách hàng là DNV&N luôn có sự tăng trưởng qua các năm. Chi nhánh luôn chú trọng đầu tư vào những ngành kinh tế trọng điểm, thực hiện đường lối của Nhà nước trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, ngoài việc đầu tư vào những khoản tín dụng ngắn hạn, ngân hàng đã từng bước đầu tư vào vốn trung và dài hạn, hỗ trợ nhập khẩu máy móc dây truyền công nghệ để mở rộng sản xuất, nâng cao số lượng cũng như chất lượng sản phẩm, thu hút thêm và đảm bảo cuộc sống cho người lao động, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn đang được nâng lên qua các năm, phù hợp với nhu cầu của các DNV&N. Ngân hàng đã kịp thời tiến hành thẩm định các dự án đầu tư có khả thi và dư nợ trung và dài hạn sẽ còn tăng trong thời gian tới.
Ngân hàng đã thực hiện tốt các chính sách khách hàng, mở rộng thêm quan hệ với các đơn vị tín nhiệm kể cả khách hàng có tiền gửi và tiền vay. Ngân hàng cũng có sự sàng lọc với các DN trên cơ sở đó chính sách đầu tư phù hợp đảm bảo cho vay đúng hướng an toàn.
Ta thấy dư nợ quá hạn không phát sinh thêm những khoản mới. Trong năm 2008, Ngân hàng Á châu Hà nội đã thu hồi được 6.770 triệu đồng. Nợ quá hạn, nợ khó đòi giảm cả về tỷ trọng. Vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần đưa các DNV&N ngày càng phát triển và hoạt động kinh doanh của chi nhánh cúng dược mở rộng.
* Các chỉ tiêu tài chính trong năm 2008:
- Doanh thu lãi tín dụng đạt: 15.411 triệu đồng.
- Doanh thu lãi tiền gửi đạt: 22.162 triệu đồng.
- Tổng doanh thu dịch vụ phụ phí tín dụng đạt: 184 triệu đồng.
- Tổng chi phí hoạt động: 33.086 triệu đồng.
- Lợi nhuận thực tế năm 2002 tăng gấp hai lần so với năm trước.
3.2. Tồn tại và nguyên nhân
3.2.1. Những tồn tại
Mặc dù đã có sự tăng trưởng trong các năm qua nhưng tỷ trọng dư nợ đối với các DNV&N trong tổng dư nợ vẫn còn hạn chế. Số lượng DNV&N trong năm tăng lên rất đáng kể, nhưng số lượng DNV&N tiếp cận đượcvới ngân hàng thì vẫn là một con số chưa nhiều, chưa tương xứng với vai trò, vị thế của chi nhánh trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như đối với sự phát triển kinh tế thủ đô.
Số lượng các DNV&N, đặc biệt là các DNV&N ngoài quốc doanh trong các khách hàng của chi nhánh còn hạn chế, khảnăng tiếp cận còn nhiều khăn. Thực tế cho thấy, cùng là DNV&N nnhưng cac DN quốc doanh được ưu đãi hơn nhiều so với các DN ngoài quốc doanh. Sự phân biệt về thành phần kinh tế này đã ảnh hưởng đến sự phát triển của DNV&N ngoài quốc doanh khi không có đủ nhu cầu vốn cho SXKD, mà lại không có điều kiện tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với DN chưa cao, khả năng tiếp cận thẩm định dự án của cán bộ ngân hàng còn nhiều hạn chế.
3.2.2. Nguyên nhân
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Đối với vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước, hiệu quả giám sát và xử ký sau thanh tra còn hạn chế, không dứt điểm, do đó không phát huy dược tác dụng trong việc củng cố sự phát triển của các NHTM. Hoạt động của ngân hàng là hoạt động nhạy cảm nhất với những tình hình biến động của tình hình kinh tế xã hội, điều đó đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý hết sức nhạy bén. Thế nhưng, một số cơ chế quản lý của Ngân hàng Nhà nước lại chậm ban hành, hoặc được chậm củng cố bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế. Qua đó thấy được vai trò quản lý của NHNN nhất là các chi nhánh chưa thật đầy đủ, chưa thường xuyên giám sát, kiểm tra, nhắc nhở đối với các NHTM. Có thể thấy NHNN chưa có một văn bản riêng nào đối với việc cấp tín dụng cho các DNV&N để tạo điều kiện cho các DN này trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, đặc biệt có thể nhận được vốn vay của ngân hàng.
- Khi xem xét cho vay, một số cán bộ tín dụng còn chưa nghiên cứu kỹ dự án sản xuất, kinh doanh của người vay, dẫn đến hiệu qủa tín dụng chưa được như mong muốn.
- Trong việc xem xét các tài sản thế chấp, nhiều khi cán bộ tín dụng còn quá nặng về tục thủ thế chấp tài sản mà không xét đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Thực ra, tài sản thế chấp chỉ là vật bảo đảm điều kiện cho vay chứ không phải là cái cơ bản, quyết định cho vay. Mặt khác, Khi cho DNV&N vay là để tạo điều kiện cho các DN này hoạt động có hiệu quả, duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng chứ không phải để bắt nợ. Do đó, nếu ngân hàng chỉ nhàn vào tài sản thế chấp mà không nhìn vào khả năng, thực trạng kinh doanh của DN thì thật là nguy hiểm, rủi ro sẽ cao, vì vậy khi xem xét khách hàng dưới nhiều góc độ: khả năng tài chính, tính cách của người cho vay, khả năng tạo ra lợi nhuận, tài sản thế chấp...
- Ngân hàng thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin tín dụng không chính xác, không kịp thời. Các số liệu thống kê, các chỏ tiêu để phân tích, so sánh vai trò, vị trí của các DNV&N trong cùng ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng sử dụng đồng vốn cho vay của DN... Để từ đó đánh giá hiệu quả kinh tế, rủi ro khi cho DN vay chưa sát với thực tế.
- Quan điểm trong nhận thức trong điều hành, chỉ đạo kinh doanh của các cấp lãnh đạo về khách hàng DNV&N chưa thật đầy đủ, một phần do thiếu tầm nhìn chiến lược về khách hàng, về thị trường... mà nhiều dự án có hiệu quả đã bị bỏ lỡ do khách hàng không đáp ứng được yêu cầu về tài sản thế chấp. Trình độ năng lực nghiệp vụ, pháp luật công tác thẩm định cho vay... của một số cán bộ còn hạn chế. Ngoài ra, việc xử lý một số vụ án kinh tế gần đây làm cho cán bọ tín dụng có tư tưởng lo ngại, phòng thủ... do đó ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N.
* Nguyên nhân từ phía các DNV&N
- Do phải sắp xếp lại tổ chức, quản lý và kinh doanh, do định hạn trả không phù hợp với thực tế. Do kinh doanh thua lỗ, do sử dụn vốn sai mục đích, do lừa đảo chiếm đoạt vốn của ngân hàng...
- Do năng lực quản lý của các DNV&N còn hạn chế, nên hoạt động kinh doanh của họ còn kém hiệu quả, dẫn đến tình trạng các DN không trả được nợ. Mặt khác, các DNV&N có tình trạng chung là thiếu vốn, khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng còn nhiều khó khăn và hầu như vay được vốn của ngân hàng là rất ít, vì họ gặp phải khó khăn trong việc xây dựng phương án sản xuất có tính khả thi và tài sản thế chấp. Một số DNV&N trong xây dựng phương án SXKD đã không tính hết những biến động của thị trường hàng hoá hoặc trong khâu thẩm định kỹ thuật, khi mua dây truyền công nghệ mới còn nhiều yếu kém, mua phải máy móc lạc hậu nên khi sản xuất ra hàng hoá không được thị trường chấp nhận, sản phẩm khó tiêu thụ. Hơn nữa, do ảnh hưởng của thị trường, sản phẩm đưa ra khó tiêu thụ, không có thị trường đầu ra do không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường nên SXKD kém hiệu quả, dẫn đến thua lỗ không trả được nợ cho ngân hàng, làm hưởng đến tình trạng phát triển chung của kinh tế trên địa bàn.
- Các DNV&N, đặc biệt là các DNV&N ngoài quốc doanh chưa thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán theo pháp lệnh hạch toán kế toán. Tình hình tài chính của DN không minh bạch nên đã gây ra nhiều khó khăn trong khâu thẩm định, đánh giá DN khi xem xét giải quyết cho vay.
- Do một số DN sử dụng vốn sai mục đích như đã đăng ký hoạt động với ngân hàng trong hoạt động tín dụng, không trả đúng hạn gây ra những khoản nợ quá hạn cho ngân hàng, báo cáo tài chính thiếu tính trung thực, không kiểm soát được... Từ đó sẽ không tạo được thiện cảm đối với cán bộ tín dụng khi xin vay vốn. Bên cạnh đó, một số DN còn có hành vi lừa đảo ngân hàng nhằm chiếm đoạt khoản vốn vay đó.
- Do thiếu vốn tự có nên các DN thường chiếm dụng vốn lẫn nhau nên gây nợ dây dưa, khó đòi. Máy móc thiết bị lạc hậu nên các DNV&N sản xuất ra các sản phẩm kém sức cạnh tranh với những sản phẩm cùng loại trên thị trường do đó hiệu quả không cao. Ngân hàng sẽ ngần ngại trong việc cho vay vốn, đặc biệt là cho vay trung và dài hạn.
* Các nguyên nhân khách quan
Do môi trường pháp lý về kinh doanh ngân hàng, đặc biệt đối với DNV&N chưa thật đầy đủ và đồng bộ ở việc ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy định, các thông tư hướngdẫn chưa thống nhất giữa các liên ngành. Các quy chế, quy định, văn bản hướng dẫn thi hành của NHNN và NHTM cổ phần Á Châu cũng chưa quan tâm đến các DNV&N.
Đặc biệt trong cơ chế cho vay có sự phân biệt về thành phần kinh tế: các DN quốc doanh chỉ cần có dự án khả thi là sẽ được ngân hàng cho vay vốn mà không cần đến tài sản thế chấp; còn đối với DN ngoài quốc doanh, yêu cầu đầu tiên khi khách hàng đến vay vốn là phải có tài sản thế chấp hợp pháp, sau đó mới xét đến phương án kinh doanh, phương án sử dụng vốn vay. Thực tế cho thấy, nhiều khách hàng có tài sản đảm bảo tiền vay có giá trị lớn nhưng vẫn không vay được vốn của ngân hàng chỉ vì giấy tờ về tài sản đó chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật, mà để hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý lại nằm ngoài khả năng của họ, nhất là đối với bất động sản.
Như vậy, riêng về vấn đề tài sản thế chấp khi vay vốn đã có rất nhiều các văn bản pháp luật, quy định, quy chế liên quan đến, đồng thời cũng cần sự quan tâm, hỗ trợ của nhiều ban ngành, cơ quan quản lý Nhà nước, của NHNN, của Ngân hàng Á châu, để hoàn thành khung pháp lý hoàn thiện, hỗ trợ trực tiếp cho các DNV&N.
Các tổ chức xã hội- nghề nghiệp trong khu vực DNV&N (như các hiệp hội, câu lạc bộ, quỹ dầu tư...) chưa hoạt động tốt, chưa cung cấp các thông tin về thị trường, các dịch vụ hỗ trợ đào tạo, cung cấp công nghệ, máy móc thiết bị, kỹ năng quản lý... cho các DNV&N. Thực tế ở các nước có DNV&N phát triển mạnh, các tổ chức đó có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển các DNV&N, đặc biệt đưa các DNV&N tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
CHƯƠNG III:GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU CHI NHÁNH HÀ NỘI
I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DNV&N TẠI CHI NHÁNH
1. Kế hoạch hoạt động của ngân hàng
Với những kết quả kinh doanh đã đạt được trong những năm qua và với mục tiêu đưa chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội trở thành NHTM đa năng, có vị trí là một trong những NHTM cổ phần hàng đầu tại Việt Nam. ACB tiếp tục phát triển các chính sách và công cụ hỗ trợ khách hàng, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đồng bộ kết hợp với những chính sách cá biệt hoá dịch vụ đối với từng khách hàng dựa trên cơ sở phát huy sức mạnh củ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6200.DOC