Tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bách Khoa: MỤC LỤC
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Công nghiệp hoá là vấn đề mang tính quy luật đối với tất cả các nước đang phát triển. Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hoá đã diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển và thực tế cho thấy rằng, trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế; trong xu hướng hội nhập, đan xen phát triển, thì việc tạo vốn cho công nghiệp hoá bằng việc huy động, khai thác, nâng cấp nguồn vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế là hết sức cần thiết và ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Từ năm 1986, sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ đã đưa ra chương trình đổi mới quản lý nền kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển với sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là những nguồn nhân lực mạnh nhất và t...
92 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 973 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bách Khoa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Công nghiệp hoá là vấn đề mang tính quy luật đối với tất cả các nước đang phát triển. Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hoá đã diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển và thực tế cho thấy rằng, trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế; trong xu hướng hội nhập, đan xen phát triển, thì việc tạo vốn cho công nghiệp hoá bằng việc huy động, khai thác, nâng cấp nguồn vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế là hết sức cần thiết và ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Từ năm 1986, sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ đã đưa ra chương trình đổi mới quản lý nền kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển với sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là những nguồn nhân lực mạnh nhất và trong tương lai không xa chính họ sẽ tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ cho nền kinh tế nước nhà, là tiền đề để phát triển nền kinh tế mũi nhọn, phát triển cơ chế công nghiệp hoá hiện đại hoá của toàn xã hội. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả nền kinh tế quốc dân đã đề ra, đồng thời để hội nhập với xu hướng hội nhập quốc tế, các thành phần kinh tế phải biết khai thác toàn diện và hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là phải tận dụng được sự hỗ trợ của hệ thống NH. Muốn vậy, ngành NH phải giải quyết hàng loạt khó khăn mà hiện nay doanh nghiệp đang gặp phải. Đây cũng đang là mỗi quan tâm đặc biệt của các NHTM, bản thân các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng.
Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng NH đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhiều. Một phần là do khách hàng truyền thống và do mục tiêu của các NHTM chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, mặt khác do doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta sử dụng vốn tín dụng còn chưa hợp lý và hiệu quả. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNO&PTNT chi nhánh Bách Khoa, em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNO&PTNT B ách Khoa” làm đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chọn hoạt động cho vay các DNV&N tại NHTM làm đối tượng để nghiên cứu. Từ đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại NHNO&PTNT Bách Khoa
Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xem xét ở các khía cạnh về chính sách, giải pháp và trạng thái cụ thể về quy trình cho vay tại NHNO&PTNT Bách Khoa
3. Phương pháp nghiên cứu:
Quá trình thực hiện đề tài đã vận dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp kết hợp lịch sử với logic, phương pháp kết hợp phân tích với tổng hợp, phương pháp thống kê và so sánh... đồng thời tham khảo các tài liệu và các luận văn của những lớp trước để rút ra những kết luận có tính phổ biến chung về quá trình cho vay DNV&N.
4. Kết cấu đề tài
Ch¬ng 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với DNV&N của NHTM
Ch¬ng 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHNO&PTNT Bách Khoa
Ch¬ng 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNO&PTNT Bách Khoa
Danh mục những chữ viết tắt
NHTM: Ng ân Hàng Thương Mại
NHNO &PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHNN: Ngân hàng nhà nước
DNV&N: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
CHƯƠNG 1
NH ƯNG VẤN Đ Ề CƠ BẢN V Ề TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DNV&N CỦA NHTM
1.1.NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế.
1.1.1.Khái niệm về ngân hàng thương mại.
* Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
* Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
-Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt đông tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm có: Vốn chủ sở hữu và vốn nợ
Vốn chủ sở hữu chủ yếu bao gồm có nguồn vốn góp ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động có thể là do đóng góp thêm hoặc trích từ lợi nhuận giữ lại, các quỹ và cuối cùng là nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Vốn nợ là nguồn vốn lớn nhất mà ngân hàng có được để sử dụng kinh doanh. Theo luật các tổ chức tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với các ngân hàng thương mại là 10%, riêng có ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là 8%, tức là nguồn vốn này có thể chiếm tới 90% tổng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn nợ bao gồm có:
Thứ nhất là tiền gửi của khối dân cư và các doanh nghiệp các loại như tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của dân cư… Đây là nguồn vốn huy động được nhiều nhất trong số vốn huy động được của ngân hàng. Dân cư và các doanh nghiệp nhận thấy rằng mình có một lượng vốn không dùng đến tạm thời hoặc cũng có thể họ có nhu cầu nhờ chi đối với ngân hàng để thuận tiện cho hoạt động của mình nên họ quyết định gửi số tiền của mình để nhận được khoản phần thưởng của ngân hàng cho việc đã sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền cho ngân hàng sử dụng. Đây là các khách hàng của ngân hàng và đối với khách hàng mà nói thì đây cũng là một phương pháp vừa tiết kiệm lại vừa sinh lời từ khoản tiền nhàn rỗi của mình chính là những khoản tiền gửi.
Thứ hai, tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của ngân hàng nhưng không chỉ thế, vốn nợ của ngân hàng còn được hình thành từ các khoản tiền vay, ngân hàng thương mại có thể vay tiền ngân hàng trung ương bằng cách chiết khầu hoặc tái chiết khấu thương phiếu. Các thương phiếu đã được ngân hàng chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trỏ thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này tới ngân hàng nhà nước tái chiết khấu lại, như vậy trong ngắn hạn làm cho lượng tiến mặt trong két của ngân hàng thương mại tăng lên đồng nghĩa với thương phiếu của họ cũng giảm đi. Cũng có thể ngân hàng thương mại vay các tổ chức tín dụng khác trong thị trường liên ngân hàng tuy nhiên việc đi vay các tổ chức tín dụng khác thường ít được áp dụng hơn do chi phí của các khoản vay này cao hơn là vay ngân hàng trung ương. Nếu vay các ngân hàng khác thì dự trữ của ngân hàng thiếu vốn đi vay sẽ tăng lên và ngược lại với ngân hàng thừa vốn cho vay trong ngắn hạn. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn đi vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành các loại giấy nợ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Nhờ vậy mà các nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng có thể tăng lên đảm bảo.
Thứ ba, ngân hàng cũng còn một lượng vốn nợ khác hình thành từ các hoạt động như ủy thác thanh toán, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có thể nhận được những khoản ủy thác đầu tư, ủy thác giải ngân, ủy thác chi hộ … từ những cá nhân hay tổ chức khác trong nền kinh tế làm cho nguồn vốn nợ của ngân hàng tăng lên; nguồn vốn nợ cũng có thể tăng lên nhờ nguồn trong thanh toán như khoản tiền ký quỹ trong thanh toán L/C
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng
Đây là hoạt động phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn quan trọng nhất là hoạt động tín dụng, bao gồm các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế. Lợi nhuận thu từ hoạt động này là thường là cao nhất trong tổng lợi nhuận, tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hạng. Tuy nhiên, đây là hoạt động chứa đựng độ rủi ro cao nên các ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng của hoạt động này.
Ngoài ra còn các hoạt động sử dụng vốn khác như hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư tài chính, đầu tư vào trụ sở và những trang thiết bị kỹ thuật phục vụ quá trình hoạt động của bản thân ngân hàng, chi phí thường xuyên cho quá trình vận hành ngân hàng.
1.1.2.3. Các hoạt động kinh doanh khác
Ngoài các hoạt động cho vay và đầu tư tạo ra lợi nhuận, ngân hàng thương mại còn đóng vai trò là trung gian thực hiện các dịch vụ và hoạt động ngân hàng khác theo yêu cầu của khách hàng như: dịch vụ kinh doanh ngoại hối, dịch vụ thanh toán, thu hô, chi hộ, chuyển tiền, ủy thác, bảo quản vật có giá, nghiệp vụ bảo lãnh, tư vấn… Các hoạt động trung gian này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn mang lại nguồn thu lớn cho ngân hàng. Ở một số ngân hàng lớn trên thế giới như Citibank, HSBC..thì tỷ trọng lợi nhuận thu từ dịch vụ lên đến 20%. Ngày nay, lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ này ngày càng tăng cao và chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động ngân hàng
1.2 Khái quát về DNV&N
1.2.1.Khái niệm DNNVV:
Phát triển DNV&N là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội nước ta .Bởi vì sự thành đạt của các doanh nghiệp
DNNVV là khái niệm tương đối đối với doanh nghiệp lớn. Phương thức phân loại DNNVV thường là căn cứ các chỉ tiêu chuẩn như số lượng nhân viên, tổng số vốn, tổng tài sản, thị phần của doanh nghiệp v.v… Vì vậy, trình độ phát triển kinh tế ở các nước là khác nhau, dẫn đến các trị số của các chỉ tiêu trên cũng khác nhau. Do đó, khái niệm DNNVV ở mỗi nước là không giống nhau.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ- CP ngày 23/11/2001 tại điều 3 đã đưa ra khái niệm mới về DNN&V: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không vượt quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Khu vực DNN&V ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ kinh doanh độc lập.
- Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ đăng kí hoạt động theo luật hợp tác xã.
- Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ kinh doanh độc lập đăng kí hoạt động theo luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí hoạt động theo Nghị định số 02/2000/NĐ - CP ngày 03/02/2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Các DNN&V luôn chiếm số lượng lớn so với các khu vực khác và tốc độ phát triển ngày càng tăng. Bằng chứng là cộng đồng DNN&V có khoảng 230 000 doanh nghiệp, trong đó chiếm đến 90% là DNN&V, đóng góp khoảng gần 30% vào GDP mỗi năm. DNN&V cũng là đội ngũ chính cung cấp khoảng trên 30% tổng sản lượng công nghiệp và tạo ra khoảng 40% lao động việc làm, chưa kể các hợp tác xã, các hộ kinh doanh có thể chuyển lên được thành doanh nghiệp.
1.2.2.Đặc điểm của DNV&N ở Việt Nam.
Các DNV&N ở Việt Nam được phát triển một cách chính thức kể từ khi có sự ra đời của luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty áp dụng từ năm 1990 và sửa đổi năm 1994. Một loạt các bộ luật khác đã thực sự hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực này. Theo các số liệu thống kê cùng kết quả điều tra các tổ chức kinh tế thì đến cuối năm 1999 số lượng các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thuộc DNV&N là 43.772 doanh nghiệp chiếm 91%trong tổng số các doanh nghiệp, trong đó DNV&N thuộc DNNN là 3.672 chiếm 64% tổng số DNNN và số DCV&V ngoài quốc doanh là 40.100 doanh nghiệp chiếm 94,5% trong tổng số doanh nghiệp. Trong năm 2000, số doanh nghiệp mới được thành lập theo luật doanh nghiệp dưới dạng doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có số vốn đăng ký trung bình trên dưới 1 tỷ đồng nên hầu hết các doanh nghiệp này cũng có quy mô vừa và nhỏ.
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006 do tổng cục thống kê ( GSO) và ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam công bố ngày 6/12/2006, số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động tính đến 31/12/2005 là 113.352 doanh nghiệp, tăng 23,54% so với 31/12/2004. Trong đó, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp chiếm 22,55%, doanh nghiệp hoạt động trong thương nghiệp chiếm 41,59%, trong xây dựng chiếm 13,46%.
1.2.2.1. Những điểm mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Trong nền kinh tế của một quốc gia, hệ thống các doanh nghiệp đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển và tăng trưởng. Hệ thống các doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp lớn, các DNV&N. Mỗi loại doanh nghiệp đó đều có những điểm mạnh, những khó khăn của mình trong quá trình hoạt động. Các doanh nghiệp lớn họ gặp nhiều những khó khăn về mức độ rủi ro; bất lợi về quy mô dẫn đến khả năng thay đổi mẫu mã sản phẩm, khả năng đa dạng hóa đầu tư, kinh phí cao, kênh phân phối, khả năng xâm nhập thị trường; hạn hẹp trong các lĩnh vực kinh doanh; cồng kềnh về mô hình tổ chức; khả năng hợp tác kém. Nếu như ở các doanh nghiệp khó khăn như vậy thì ở các DNV&N họ lại có những lợi thế về những mặt đó và đang ngày càng phát huy được những thế mạnh đó của mình
-Năng đông, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh:
Do có quy mô cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ nên khi có một sự thay đổi thị trường các doanh nghiệp có quy mô lớn thường kém linh hoạt và nhanh nhậy đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hơn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trước sự thay đổi liên tục của thị trường, các doanh nghiệp có thể chuyển hướng kinh doanh, thay đổi mặt hàng nhanh chóng, đồng thời có thể tăng giàm lao động hay sử dụng lao động thời vụ, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, khi chuyển địa điểm sản xuất các doanh nghiệp vừa và nhỏ không gặp khó khăn như các doanh nghiệp lớn. DNV&N có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa phương. DNV&N có thể dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh. Điều này càng làm cho DNV&N khai thác hết năng lực của mình, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
-Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi vốn nhanh.
Điều này hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này. DNV&N có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
Để cho một doanh nghiệp lớn đi vào hoạt động được thì cần lượng vốn đầu tư ban đầu rất lớn, mặt khác các doanh nghiệp lớn chu kỳ sản xuất kinh doanh thường dài, khả năng thu hồi vốn chậm, rủi ro lớn. Trong khi đó đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chỉ cần lượng vốn ít hơn. Ngoài ra, với quy mô vừa, nhỏ nên các doanh nghiệp chỉ đa số là sản xuất các mặt hàng có khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm thiểu được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn. Đây chính là lợi thế cho các DNV&N khi vay vốn tại các ngân hàng. Các ngân hàng khi thực hiện cho vay họ thường phải xem xét kĩ những khoản vay và đặc biệt khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm thiểu được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn sẽ đóng góp một phần cho quyết định cho vay của ngân hàng
-Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNV&N gọn nhẹ, linh hoạt, ti ết ki ệm đ ư ợc chi ph í . Nhờ có bộ máy quản lý ngọn nhẹ, việc điều hành được thực hiện được một cách trực tiếp không phải qua các khâu trung gian nên việc ra quyết định hay việc thực hiện công việc được thực hiện được một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bên cạnh đó, công tác giám sát diễn ra trực tiếp, đảm bảo hiệu quả công việc. Nhờ đó nên có thể tiết kiệm được chi phí quản lý doanh nghiệp.
-Các DNV&N dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại:
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ nê nhiều khi thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại của thế hệ máy móc sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị công nghệ mới. Trong trường hợp này các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại sẽ có lợi thế hơn. Hơn nữa việc phải thay đổi những tư bản cố định để chuyển hướng kinh doanh cũng thuận lợi hơn do không phải chịu nhiều thiệt hại và có thể nhanh chóng ứng dụng và đưa vao hoạt động những công nghệ tiên tiến, hiện đại.
-Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý trong các DNV&N khá chặt chẽ:
Do số lượng lao dộng trong các DNV&N là không nhiều nên lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để hiểu rõ trình độ năng lực cũng như mong muốn nguyện vọng của người lao động, từ đó sẽ có những biện pháp thích hợp để tạo động lực lao động, từ đó có thể nâng cao trình độ quản lý cũng như tận dụng triệt đế năng lực lao động, nâng cao hiệu quả công việc.
DNV&N có tinh thần tự lực tự cường cao
Số lượng doanh nghiệp quá lớn, nhà nước không thể kiểm soát chắt chẽ được hết cũng như khổng thể quan tâm hay có những tài trợ dễ dàng. Do vậy mà buộc các doanh nghiệp phải nâng cao tinh thần tự chủ, đi lên trong cạnh tranh.
Những điểm mạnh đó của các DNV&N đã và đang là lợi thế của họ và với lợi thế đó họ dễ dàng hơn tiếp cận với các nguồn vốn của ngân hàng
-Sự hội nhập kinh tế toàn cầu đã tạo ra một lợi thế không nhỏ đối với các DNV&N.
Trong bối cảnh mới, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam được hưởng quy chế quan hệ bình thường (MNF) và đối sử quốc gia (NT) giữa các nước thành viên của WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các DNV&N ngày càng đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Bởi, hầu hết các sản phẩm của DNV&N của Việt Nam có giá thành cao, khối lượng nhỏ lẻ, tiêu thụ ở thị trường nội địa nên khó thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch. Do đó, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc được dỡ bỏ, các sản phẩm của các DNV&N sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn nhờ đó sẽ khai thác được lao động rẻ.
Hội nhập WTO khiến cho hàng hóa nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam với giá rẻ và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về nguyên liệu ngoại nhập và các DNV&N cũng sẽ biết được nhu cầu của thị trường thế giới do được tiếp xúc trực tiếp với các nhà phân phối của nước ngoài.
Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam, tính minh bạch trong quản lý của các cơ quan, tổ chức đối với các DNV&N cũng sẽ được nâng cao. Mặt khác hiện tượng phân biệt đối sử giữa các DNNN với các DNV&N (chủ yếu là khu vực tư nhân) sẽ không còn, nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nguồn lực tài chính, gia nhập thị trường hỗ trợ kinh doanh.
1.2.2.2 Những hạn chế và khó khăn của DNV&N:
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô vừa và nhỏ trong những năm gần đây ở mức rất thấp, mới ở trung bình trên 2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Nguyên nhân là do các DNV&N phải đối mặt với nhiều bất lợi. Cụ thể:
-Quy mô về vốn và lao động còn quá nhỏ bé:
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động các số liệu thống kê cho thấy, trong tổng số 88.222 DNV&N năm 2004 có 2.211.795 lao động, tương đương với tỷ lệ bình quân mỗi doanh nghiệp có 25 lao động như vậy quy mô về vốn và lao động của DNV&N của Việt Nam còn quá nhỏ so với các nước phát triển và đây cũng là lý khiến cho các Ngân hàng thương mại còn e dè trong việc cấp tín dụng đối với các DNV&N bởi lẽ họ chưa có kinh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, nguồn trả nợ bé đội rủi ro khá cao. Việc mở rộng kinh doanh trang thiết bị công nghệ hay cải thiện chất lượng lao động đối với các DNV&N là rất khó khăn. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập WTO.
-Hiệu quả kinh doanh thấp:
Do quy mô của các DNV&N như vậy kéo theo kết quả kinh doanh không cao. Theo thống kê, lợi nhuận bình quân của DNV&N là 240 triệu đồng. Các tiêu chí về tỷ suất lợi nhuận trên vốn và lợi nhuận trên doanh thu cũng thấp ở mức 3 tỷ đồng và 2,57 tỷ đồng so với các mức bình quân chung các doanh nghiệp cả nước là 4,85 tỷ đồng và 5,99 tỷ đồng.
Bên cạnh đó các DNV&N chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa động cơ, xe máy ( chiếm 40,6% doanh nghiệp cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến, 20,9%, xây dựng, 13,2%, các ngành kinh doanh tài sản tư vấn, khách sạn nhà hàng 25,3%. Việc tập trung như vậy sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các DNV&N với nhau. Chính điều này sẽ làm giảm sự đa dạng của thị trường, giảm thị phần bản thân của các doanh nghiệp.
Phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh:
Các DNV&N gặp khó khăn do các thủ tục và điều kiện cạnh tranh khốc liệt ở thị trường trong nước mà nguyên nhân chủ yếu là bản quyền trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc bên cạnh đó, sự độc quyền của các doanh nghiệp lớn cũng ngăn chặn sự mở rộng thị trường của các DNV&N.
Không chỉ các đối thủ cạnh tranh trong nước, theo quy định của WTO Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà phân phối nước ngoài, do đó, với quy mô lớn, mạng lưới phân phố toàn cầu và có tính chuyên nghiệp cao, các công ty nước ngoài sẽ là những đối thủ lớn phải đe dọa sự tồn tại của nhiều DNV&N trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam.
- Hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu:
Một số thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu, khoảng 10-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Đây chính là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường đặc biệt trong sản xuất công nghiệp. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến việc tăng chi phí đầu vào cao hơn từ 30-50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp.
-Trình độ của người quản lý và của người lao động còn hạn chế:
Nhiều DNV&N rất yếu kém trong việc tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc, và đội ngũ quản lý doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường. Vì thế nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của Việt Nam chịu áp lực cạnh tranh quốc tế.
Tóm lại: DNV&N hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị hạn chế, và thực lực kinh tế yếu nên khả năng vay vốn càng khó khăn. Bên cạnh đó môi trường thể chế, chính sách kinh tế còn nhiều khiếm khuyết không tạo điều kiện bảo vệ và bảo đảm cho sự phát triển của khu vực này. Tất cả tạo ra một vòng luẩn quẩn không thể thoát ra được đối với các DNV&N.
-khả năng tiếp cận và xử lý thông tin trên thị trường hạn chế
Do quy mô nhỏ, hoạt động trong phạm vi hẹp, thiếu mạng lưới thu thập thông tin và các mỗi quan hệ rộng, các DNV&N thường gặp khó khăn trong việc phân tích các thông tin thị trường về nguyên liệu, xu hướng phát triển kinh doanh, đối thủ cạnh tranh, các chính sách hỗ trợ của nhà nước cũng như của nước ngoài,…Hơn nữa, ngay cả khi có những thông tin thì các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc phân tích, đưa ra dự đoán do khả năng có hạn.
1.2.2.3. Vai trò của các DNV&N ở Việt Nam.
Trên thực tế các DNV&N đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân với nhiều hình thức đa dạng phong phú, hoạt động trong hầu hết các hoạt động kinh tế. Cùng với những lợi thế và không đòi hỏi vốn đầu tư, quản lý đơn giản, dễ thay đổi linh hoạt theo thị trường, các DNV&N đã và đang phát huy những mặt tích cực và khảng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Đường lối kinh tế đúng đắn, các doanh nghiệp này đã và đang phát triển một cách mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng ở Việt Nam cụ thể như sau:
Tăng việc làm và thu nhập cho người lao động.
Chúng ta có thể thấy rằng, tác động kinh tế lớn của các DNV&N là tạo việc làm cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Do sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa là không đòi hỏi trình độ quá cao, DNV&N đã và đang thu hút rất nhiều lao động ở thành thị và nông thôn từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống và hạn chế các tệ nạn xã hội. Rõ ràng giải quyết việc làm là một thế mạnh của các DNV&N và là nguyên nhân chủ yếu khiến ta phải quan tâm đặc biệt tới đối tượng này.
Khai thác, tận dụng các nguồn lực xã hội.
Hiện nay còn rất nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác như tiềm năng của trí tuệ, tay nghề cao, lao động, vốn, điều kiện thực hiện, bí quyết sản xuất… do đó việc phát triển doanh nghiệp sản xuất, các ngành nghề trong nông thôn hiện nay là một hướng quan trọng để khai thác nguồn lực nói trên, thu hút lao động nông thôn, nhằm phát huy lợi thế của từng vùng nhằm phát triển kinh tế.
Khu vực DNV&N thu hút được phần lớn nguồn vốn trong dân do tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán, đi sâu vào các gõ ngách bản làng. Do yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều nên các DNV&N có thế tận dụng từ số vốn của bản thân, vay gia đình, bạn bè thậm chí còn vay của các tổ chức tín dụng. Do dễ khởi sự và nguồn vốn ít nên các DNV&N có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ nhà rỗi trong dân cư để đầu tư sản xuất kinh doanh sự phát triển của các DNV&N ở nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động chưa có việc làm hoặc lực lượng lao động tạm thời nhàn rỗi theo mùa vụ vào hoạt động sản xuất, rút dần lực lượng lao động trong nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn sống tại quê hương không phải di chuyển sang lơi khác. Đây là yếu tổ chỉ đạo góp phần phát huy các ngành nghề truyền thống đã và đang bị mai một, một phần nhằm khôi phục nền văn hóa dân gian mặt khác làm thay đổi bộ mặt nông thôn, từng bước hiện đại hóa nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Ngoài ra, lực lượng lao động ở khu vực này không những rất dồi dào mà còn rất dẻ, do đó sẽ giúp cho các DNV&N giảm chi phí sản xuất từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
DNV&N thường áp dụng kỹ thuật phù hợp với kỹ thuật thủ công và kỹ thuật phổ biến để nhanh chóng tiếp thu và làm chủ ít sử dụng kỹ thuật tiên tiến đòi hỏi lượng vốn lớn vì vậy tận dụng được kỹ thuật trong nước, thúc đẩy công nghệ cải tiến kỹ thuật.
Tạo sự năng động, hiệu quả và thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng CNH –HĐH đất nước :với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, DNV&N có khả năng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ cho phù hợp với môi trường kinh doanh. Vì vậy các DNV&N làm cho nền kinh tế thêm năng động hơn trên thực tế các DNV&N có tốc độ gia tăng lớn hơn rất nhiều các doanh nghiệp lớn. Sự gia tăng về số lượng các DNV&N làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc có nhiều nguồn lực được huy động vào mục tiêu phát triển kinh tế. Nói cách khác DNV&N giúp nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả hơn.
Tóm lại: DNV&N giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Phát triển hướng đi này là một hướng đi đúng đắn trong điều kiện nước ta hiện nay do đó các Ngân hàng thương mại phải có những biện pháp hỗ trợ DNV&N góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
1.3.Tín dụng ngân hàng đối với các DNV&N
1.3.1.Khái niệm và phân loại tín dụng.
1.3.1.1 Khái niệm về tín dụng.
Theo luật ngân hàng các nước định nghĩa:” Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng bất cứ động tác nào, qua đó một người đưa vốn hoặc hứa đưa vốn cho người khác dùng, các cam kết cho người này bằng bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”. (Nguồn từ phòng tín dụng..)
Theo đó, tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn, hoàn trả. Trong quan hệ này thể hiện những nội dung sau:
+Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định.
+Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất đinh, sau khi khoản vay đó hết thời hạn sử dụng theo thỏa thuận giữa người đi vay và người cho vay, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay phần vốn gốc cộng với khoản chi phí cơ hội mà người cho vay mất đi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt hơn.
+Thông thường giá trị hoàn trả được lớn hơn lúc hai bên kỹ kết hợp đồng tín dụng.
1.3.1.2. Khái niệm về tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phổ biến và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời đây là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
Như vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với định nghĩa trên ta có thể hiểu khi đề cập tới tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả hai hoạt động: đi vay, và cho vay.
-Đi vay: huy động vốn. Hoạt động này do bộ phận nguồn vốn đảm nhận.
-Cho vay: hoạt động này do bộ phận tín dụng đảm nhận.
Như vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là các tổ chức cá nhân, xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thỏa thuận.
Theo định nghĩa này tín dụng ngân hàng ở đây mang nghĩa hẹp hơn, giới hạn bên cho vay là ngân hàng.
1.3.1.3. Phân loại tín dụng.
* Phân loại theo thời gian cấp tín dụng.
-Tín dụng có kỳ hạn: là khoản tín dụng có thời hạn xác định ngày trả nợ. Theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với quyết định cùng với quyết định 1627/2001/QD-NHNN-31/12/2000 của Thống đốc, khi phân loại theo thời hạn cấp tín dụng thì:
+Cho vay ngắn hạn: tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
+Cho vay trung hạn: từ trên 12 – 60 tháng thời gian cho vay được xác định phù hợp với thời gian thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng.
+Cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
-Tín dụng không kỳ hạn: là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay mà không xác định thời hạn trả nợ.
*Phân loại theo thành phần kinh tế.
Trên cơ sở văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 10, khi phân theo thành phần kinh tế, ta có thể các khoản cho vay thành.
-Cho vay DNNN.
-Cho vay kinh tế tư nhân.
-Cho vay kinh tế tập thể.
-Cho vay kinh tế cá thể.
-Cho vay kinh tế hỗn hợp.
Mỗi thành phần kinh tế đều có một đặc điểm riêng do đó ngân hàng cần phải có thái độ ứng sử rất khác nhau khi cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế này vay vốn. Đây là cách phân loại không được nhấn mạnh trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nhưng đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta thì việc phân loại này rất có ý nghĩa thực tế bởi lẽ đối với nước ta thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết và định hướng và sẽ quyết định đến khối lượng cũng như cơ cấu cho vay đối với các thành phần kinh tế còn lại.
*Phân loại theo phương thức hoàn trả:
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn được phân loại theo hai loại sau: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp.
-Cho vay hoàn trả một lần: các khoản cho vay sẽ được hoàn trả một lần vào thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thể được hoàn trả theo thỏa thuận trong hợp đồng , chẳng hạn theo tháng,quý hoặc năm .
-Cho vay trả góp: ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.
Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn,tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền .Cho vay hoàn trả một lần thường được áp dụng đối với các khaonr vay ngán hạn.
*Phân loại theo theo tài sản đảm bảo
Trong nhiều trường hợp ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng.Lí do khách hàng luôn phải đối đầu với rủi do trong kinh doanh có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Chính vì vậy, trừ những ngân hàng có uy tín cao nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng ngân hàng.
-Cho vay có tài sản đảm bảo: Các tài sản được đem thế chất thường là các bất động sản trong khi các tài sản được đem cầm cố thướng là các động sản nhỏ, vật tư hàng hóa, chứng khoán và các giấy tờ khác. Yêu cầu cơ bản đối với các tài sản được đem thế chấp, cầm cố là chúng phải có tính thị trường tức phải có khả năng thanh lý được.
- Cho vay không có tài sản đảm bảo:Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có tình hình tài chính vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án xin vay là khả quan thì ngân hàng có thể cho vay không cần đảm bảo, điều này các ngân hàng Việt Nam gọi là cho vay tín chấp. Nó giải thích tại sao các ngân hàng có thể cung cấp cho một số khách hàng những khoản tín dụng lớn mà không cần phải đảm bảo đó là những doanh nghiệp có quan hệ vay trả xòng phẳng thường xuyên với ngân hàng, có tình hình tài chính tương đối vững mạnh, lợi nhuận tương đối ổn định với hệ thống quản lý có hiệu quả, sản phẩm dịch vụ được thị trường chấp nhận. Trong thời gian vừa qua các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam cung cấp tín dụng cho các DNNN thông qua hình thức này.
* Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây
- Chiết khấu thương phiếu: nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, cổ điển của các NHTM dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và người ký tên trên thương phiếu. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi số tiền lãi.
- Tín dụng thấu chi: thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn.
- Tín dụng thuê mua: trong nền kinh tế thị trường tín dụng thuê mua rất quan trọng. đây là hình thức cho thuê bất động sản như: nhà cửa, máy móc thiết bị, xe chuyên dụng, thiết bị văn phòng. Các chủ thể thuê có thể là các ngân hàng trực tiếp, các công ty con của ngân hàng hoặc các công ty chuyên doanh thuê mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Ngân hàng cũng có thể liên kết với các nhà kinh doanh bất động sản để đầu tư dưới hình thức tín dụng thuê mua.
Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí ,thuế và lãi kinh doanh tùy từng loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuế mua được tinh khác nhau.
Thời gian thuê mua có thể là ngắn,trung hoặc dài hạn.Tuy nhiên, thời hạn trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua ngắn hạn thường it được sử dụng.
-Tín dụng trả góp:ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đố với các khoản vay trung và dài hạn,tài trợp cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Tín dụng trả góp có ưu điểm là không những phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn vay mà còn kích thích được lưu thông hàng hóa, mở rộng sản xuất và tiêu dùng.mặt khác,người vay phải trả một khoản tiền cố định bao gồm cả gốc và lãi vào những thời điểm xác định nên họ dễ dàng tính được số tiền phải trả từ đó lập được kế hoạch trả nợ.
-Tín dụng bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thu bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết.Bảo lãnh của ngân hàng sữ tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro với khách hàng.
-Tín dụng vãng lai,hoạt động vay mượn thường xuyên giữa khách hàng và ngân hàng với nội dung thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.Điều kiện vay vốn đối với loại tài khoản vãng lai là người vay có tài sản thế chấp,cầm cố hoặc bảo lãnh.trong một số trường hợp người vay có uy tín cao thì có thể không cần tài sản đảm bảo.
Đặc điểm của hình thức nay là ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vay vừa dư nợ, vừa dư có. Toàn bộ thu nhập của người vay được thu nhập của người vay đều được ghi vào bên có của tài khoản, toàn bộ chi tiêu ghi vào bên nợ của tài khoản. Khi không có số dư có, khách hàng sử dụng một khoản tín dụng như đã thỏa thuận trong HĐTD với một mức dư nợ tối đa nào đó. Ngân hàng khống chế số dư nợ mà không khống chế số dư có trong tài khoản.Khách hàng được sử dụng vốn vay rất linh hoạt dưới dạng tiền mặt, chuyển khoản.
*Phân loại theo cách thức cấp tín dụng
-Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra, ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay
-Cho vay gián tiếp:là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức xã hội nhưng ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay.
1.3.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNV&N
- Theo số liệu của Bộ kế hoạch đầu tư và tổng cục thống kê, mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô về vốn của các DNV&N trong những năm gần đây, mới ở mức trung bình trên 2 tỷ đồng trên một DN. Như vậy, quy mô về vốn của DNV&N của Việt Nam còn quá nhỏ so với quy mô của một DN thông thường của các nước phát triển và có nền kinh tế mới nổi. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào WTO. Theo quy định của WTO, Việt Nam phải mở rộng thị trường bán lẻ cho nhà phân phối nước ngoài, do đó với quy mô lớn, mạng lưới phân phối toàn cầu và có tính chuyên nghiệp cao các công ty nước ngoài sẽ là đối thủ lớn, đe dọa sự tồn tại của nhiều DNV&N trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam. Một thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình ở Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới, kỹ thuật công nghệ làm tăng chi phí tiêu hao 1.5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30-50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, gián thành cao và năng suất thấp. Nhiều DNV&N rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý DN, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường. Trong bối cảnh mới, với việc trở thành viện của WTO, Việt Nam được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường ( MNF) và đối xử quốc gia (NT) giữa các nước thành viên WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các DNV&N ngày càng đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Hiện nay, nguồn vốn của các DNV&N chủ yếu dựa vào VCSH và vốn vay của thị trường phi chính thức. Tuy nhiên, VCSH luôn có một giới hạn nhất định và chủ yếu dùng cho các đầu tư máy móc ban đầu, thiết bị, nhà xưởng, còn khoản vay từ người thân, bạn bè tuy dể dàng nhưng cũng có nhiều bất lợi. Như vậy, các DNV&N luôn trong tình trạng thiếu vốn để thực hiện nhu cầu mua máy móc thiết bị hiện đại, thu hút nhân công và quản lý giỏi… muốn thay đổi tình trang yếu kém náy thì nguồn vốn vay từ các ngân hàng thực sự có vay trò khá quan trọng đối với các DNV&N.
- Trước tiên, ngân hàng có nguồn vốn huy động rất lớn, đủ khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế, trong đó có các DNV&N. Đồng thời, ngân hàng có nhiều phương thức cho vay để các DNV&N lựa chọn sao cho phù hợp với khả năng sản xuất và thanh toán.
- Ngân hàng còn có khả năng tư vấn các hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế qua các dịch vụ hiện đại của ngân hàng như: tín dụng, bảo lãnh… Để hỗ trợ hoạt động của các DN đạt hiệu quả hơn.
- Bên cạnh đó, ngân hàng còn có vai trò thúc đẩy các DN sử dụng vốn hiệu quả hơn thông qua việc hướng dẫn sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, đồng thời đôn đốc các chủ DN trả đúng gốc và lãi.
- Chính các điều kiện trên sẽ giúp cho các DNV&N nâng cao khả năng kinh doanh của mình. Vì vậy, ngân hàng không chỉ là tổ chức cung cấp vốn thông thường mà còn là người bạn đồng hành lý tưởng của mỗi DN.
1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N của NHTM
Mở rộng hoạt động tín dụng chịu tác động của nhiều nhân tố. Mỗi nhân tố đều có những ảnh hưởng nhất định nhưng nhìn chung có 3 nhân tố sau: Nhân tố về phía ngân hàng, nhân tố về phía DNV&N và góp phần quan trọng không kém là các nhân tố từ môi trường, các quy chế, chính sách của nhà nước.
* Về phía ngân hàng:
-Chính sách tín dụng :
+Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý là để thống nhất, đảm bảo hiệu quả,an toàn và phát triển bền vững nhằm nâng cao sức mạnh cạnh tranh, tạo được vị thế, đạt được hiệu quả tốt trong kinh doanh tín dụng.
+Bên cạnh đó chính sách tín dụng cũng phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, quy định của NHTW. Do đó chính sách tín dụng trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng,tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
+Chính vì vậy, để mở rộng hoạt động tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải xây dựng chính sách tín dụng hợp lý,đúng đắn ,linh hoạt, phù hợp từng giai đoạn phát triển.Để mở rộng cho vay đối với DNV&N thì ngân hàng phải có những chính sach tín dụng đáp ứng nhu cầu của DNV&N, đồng thời mang lại hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.
- Quy trình tín dụng: Là việc quyết định các bước cụ thể được thực hiện trong quá trình vay, từ lúc tiếp nhận hồ sơ đến khi thu hồi nợ và kết thúc hợp đồng. Vì vậy để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay thì ngân hàng phải tạo ra quy trình tín dụng gọn nhẹ nhưng đầy đủ, phù hợp với điều kiện DNV&N. Song song đó, quy trình cũng phải đảm bảo việc thực hiện món vay khả thi tránh việc rủi ro cho ngân hàng
- Tình hình huy động vốn và chính sách lãi suất: nguồn vốn huy động đóng vai trò quan trọng trong mở rộng cho vay của ngân hàng vì ngân hàng hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở đi vay để cho vay. Muốn có nguồn vốn ổn định thì lãi suất đối với tiền gửi ngân hàng và tạo ra lợi nhuận. Đối với mở rộng cho vay DNV&N thì lãi suất cho vay của ngân hàng phải căn cứ đến khả năng đáp ứng của doanh nghiệp trên cơ sở vẫn đảm bảo có lợi nhuận và phù hợp với DNV&N.
- Phương thức cho vay: hiện nay các NHTM chỉ tập trung cho vay theo một vài phương thức nhất định như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư. Còn các phương thức khác ít được sử dụng. Do vậy các ngân hàng càng mở rộng theo các phương thức cho vay mới để khách hàng có thể lựa chọn được phương thức phù hợp nhất với tình hình sử dụng vốn của mình.
- Công nghệ, trang thiết bị ngân hàng và chiến lược Marketing:
+ Công nghệ, trang thiết bị hiện đại là điều kiện hiện đại là điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho cả khách hàng và ngân hàng. Đó là tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Trang thiết bị hiện đại cũng là cũng là vũ khí cạnh tranh hiệu quả giữa các ngân hàng.
+ Bên cạnh đó, chiến lược marketing sẽ giới thiệu các thông tin cần thiết như: các sản phẩm mới các thủ tục, các điều kiện vay vốn… đến khách hàng. Từ đó, khách hàng sẽ có thông tin hiểu biết về ngân hàng. Nếu chất lượng thông tin tốt sẽ tạo lòng tin từ phía khách hàng, mà lòng tin của khách hàng là rất quan trọng trong tìm kiếm khách hàng tiềm năng cho ngân hàng.
* Về phía DNV&N:
- Nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất: các nhu cầu đầu tư của DNV&N đặt ra đòi hỏi ngân hàng phải tiếp cận, tìm hiểu và gợi mở nhu cầu đó để đáp ứng.
- Năng lực của các DNV&N: để có thể vay vốn, các DNV&N phải thỏa mãn các điều kiện vay vốn. Khó khăn lớn nhất của DNV&N là về tài sản đảm bảo và có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Điều đó thể hiện trên năng lực thị trường và năng lực sản xuất của DNV&N. Ngoài ra, năng lực tài chính và khả năng quản lý của DN cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng cho vay của ngân hàng
* Về nhân tố môi trường, quy chế chính sách của Nhà Nước.
- Môi trường kinh tế luôn tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của DN. Khi nền kinh tế ổn định, môi trường thuận lợi sẽ tạo nhiều cơ hội cho các DN mở rộng sản xuất, tìm kiếm thị trường. Từ đó, làm tăng nhu cầu phát triển nguồn vốn để mua sắm thiết bị hiện đại, chi phí giao dịch, quản lý trong quá trình mở rộng sản xuất
- Một nhân tố khá quan trọng khác đó là chính sách của Nhà Nước đối với các DNV&N. Nếu thiếu sự quan tâm của Nhà Nước tức là thiếu chính sách hổ trợ cần thiết cho các DNV&N, sẽ gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THỐN BÁCH KHOA
2.1 Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
2.1.1 Quá trình phát triển của chi nhánh
` Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ta,hệ thống NHNo&PTNT đóng một vai trò quan trọng đó là phát triển khu vực nông thôn cho phù hợp với sự hội nhập của đất nước tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Chi nhánh Nông nghiệp Báck Khoa, Chi nhánh cấp 2 trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp Láng Hạ, được hình thành trên cơ sở phát triển từ Phòng giao dịch Bách Khoa theo quyết định thành lập số 22/HĐQT-TCCB ngày 20/02/2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị - NHNo & PTNT Việt Nam.
Chi nhánh Bách Khoa được thành lập từ 8/2001,được nâng cấp từ phòng giao dich đến chi nhánh cấp 2 loại 4với hai phòng giao dịch trực thuộc: Phòng giao dịch số 04 và Phòng giao dịch số 09. Trụ sở của chi nhánh Bách Khoa chuyển từ 42 Lê Thanh Nghị về 92 Võ Thị Sáu.Ngày đầu thành lập, hoạt động kinh doanh gặp không ít khó khăn, số lượng công nhân viên ít ỏi, điều kiện vật chất thiếu thốn, thị trường mới hoạt động còn nhiều lạ lẫm... Đến nay sau hơn 5 năm hoạt động Chi nhánh NHNo & PTNT Bách Khoa đã không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong số ít các chi nhánh cấp 2 trên toàn quốc được phép thanh toán quốc tế trực tiếp trên mạng SWIFT, tổng số lượng nhân viên của Chi nhánh NH Nông nghiệp Bách Khoa đã là 32 người và có hai Phòng giao dịch trực thuộc (Phòng Giao dịch Số 04 và Phòng Giao dịch Số 09).
2.1.2 Cơ cầu tổ chức
Cơ cấu và tổ chức của Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
Sơ đồ mô hình tổ chức:
Ban Giám đốc
Phòng Kế toán ngân quỹ
Phòng Tín dụng
Phòng Hành chính
Phòng Giao dịch số 4
Phòng Giao dịch số 9
b. Chức năng của các phòng ban:
*Phòng kế toán- Ngân quỹ:
Phòng Kế toán- Ngân quỹ có nhiệm vụ say đây:
- Trực tiếp hách toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam.
- Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi, chi tài chính, quỹ tiền lương đối với các chi nhánh trên địa bàn trình Ngân hàng Nông nghiệp cấp trên phê duyệt.
- Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của NHNo &PTNT trên địa bàn.
- Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu và hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định.
- Thực hiện các khoản nộp ngân sách Nhà nứơc theo luật định.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước.
- Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định.
- Quản lý, sử dụng thiết bị thông tin, điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc chi nhánh giao.
*Phòng tín dụng:
Phòng tín dụng có nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tin ding khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng sản xuất, lưu thông và tiêu dung.
- Phân tích kinh tế theo nghành, nghề kinh tế kỹ thuật, danh mục khách hàng lựa trọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao.
- Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền.
- Thẩm định các dự án, hoàn thiện hồ sơ trình ngân hàng cấp trên theo cấp phân uỷ quyền.
- Tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguốn vốn thuộc Chính phủ, bộ, ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước.
- Xây dựng và thực hiện các mô hình tín dụng thí điểm, thử nghiệm địa bàn, đồng thời theo dõi đánh giá, sơ kết, tổng kết, đề xuất tổng giám đốc cho phép nhân rộng
- Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất phương hướng khắc phục
- Giúp giám đốc chi nhánh chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín dụng của các chi nhánh trực thuộc trên địa bàn.
- Tổng hợp, báo cáo và kiểm tra chuyên đề theo quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao
*Phòng hành chính có nhiệm vụ sau đây:
- Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quý của các chi nhánh và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được Giám đốc chi nhánh phê duyệt.
- Xây dựng và triển khai chương trình giao ban nội bộ chi nhánh và các NHNo&PTNT trực thuộc trên địa bàn. Trực tiếp làm thư kí tổng hợp cho Giám đốc NHNo&PTNT.
- Tư vấn pháp chế trong việc thực thi các nhiệm vụ cụ thể về giao kết hợp đồng, hoạt động tố tụng, tranh chấp dân sự, hình sự, kinh tế, lao động, hành chính liên quan đến cán bộ, nhân viên và tài sản của chi nhánh.
- Thực thi pháp luật có liên quan đến an ninh, trật tự, phòng cháy, nổ tại cơ quan.
- Lưu trữ các văn bản pháp luật có liên quan đến nhân hàng và văn bản định chế của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Đầu mối giao tiếp với khách đến làm việc, công tác tại chi nhánh.
- Trực tiếp quản lý con dấu của chi nhánh; thực hiện công tác hành chính, văn thư, lễ tân, phương tiện giao thông, bảo vệ, y tế của chi nhánh.
- Thực hiện công tác xây dựng cơ bản, sửa chữa TSCĐ, mua sắm công cụ lao động, vật rẻ mau hỏng; quản lý nhà tập thể, nhà khách, nhà nghỉ của cơ quan.
- Đầu mối trong việc chăm lo đời sống vật chất, văn hoá tinh thần và thăm hỏi ốm, đau, hiếu, hỷ cán bộ, nhân viên.
-Thực hiện nhiệm vụ khác được Giám đốc chi nhánh giao.
* Phòng giao dịch.
Phòng giao dịch 04 đặt tại 224 Lò Đúc phòng giao dịch số 09 đặt tại 114 Lê Thanh Nghị trực thuộc chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa, hạch toán kế toán phụ thuộc, có con dấu riêng, thực hiện các nhiệm vụ do Giám đốc chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
2.1.3 Kết quả hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Nguồn vốn:
Nguồn vốn đến 31/12/2007 của chi nhánh đạt 508 tỷ đồng so KH đạt 101,6% tăng so với số liệu theo cân đối 31/12/2006 là 169 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng 149.8%.
*Phân theo thời gian huy động:
Tiền gửi không kỳ hạn và dưới 12 tháng 160 tỷ giảm 1 tỷ đồng và = 99% so với 2006.
Tiền gửi > 12 tháng đến <24 tháng là 55 tỷ tăng 1 tỷ đồng và = 102% so với 2006
Tiền gửi >24 tháng là 294 tỷ đồng tăng 169 tỷ đồng và = 236% so với 2006
*Phân theo tính chất nguồn vốn:
Tiền gửi dân cư: 214 tỷ đồng chiếm 42% tổng nguồn tương đối đủ để đảm bảo nguồn vốn ổn định trong thanh toán. Trong đó ngoại tệ quy đổi là 72 tỷ đồng.
Tiền gửi tổ chức kinh tế xã hội: 294 tỷ đồng chiếm 58% tổng nguồn. Trong đó nguồn ngoại tệ quy đổi là 6 tỷ đồng.
Tổng nguồn vốn nội tệ là 430 tỷ đồng chiếm 84,6 %, nguồn ngoại tệ là 78 tỷ đồng chiếm 15,4 %. So với kế hoạch giao( 500 tỷ đồng) đạt 101,6% KH.
Dư nợ : + Năm 2005 Tổng dư nợ đạt 126.801 triệu đồng .
+ Năm 2006 Tổng dư nợ đạt 255.419 triệu đồng
+ Năm 2007 Tổng dư nợ đạt 299.026 triệu đồng
Bảng 1 : Chỉ tiêu về kết quả kinh doanh
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Doanh thu
4.928
17.412
25.211
Chi phí
3.377
14.822
18.425
Lợi nhuân
1.551
2.590
6.786
(Nguồn từ ngân hàng nông nghiệp chi nhánh Bách Khoa)
Qua bảng số liệu trên lợi nhuận của chi nhánh phát triển liên tục qua các năm, năm 2005 là 1.551 triệu đồng, năm 2006 là 2.590 triệu đồng, năm 2007 là 6.786 triệu đồng .
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
* Các hình thức cấp tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
Hiện nay, tại chi nhánh đang và đã mở rộng các hình thức cấp tín dụng đối với các DNV&N để có thể thu hút các doanh nghiệp đến với chi nhánh, nâng cao hiệu quả và uy tín của chi nhánh trên địa bàn Hà Nội. Chi nhánh hiện nay có các hình thức cấp tín dụng sau:
-Cho vay:
Là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của tổ chức tín dụng, chiếm phần lớn tổng tài sản và nguồn thu của ngân hàng, đồng thời những rủi ro trong hoạt động ngân hàng chủ yếu tập trung vào danh mục các khoản vay. nghiệp vụ cho vay cũng bao gồm nhiều loại khác nhau trong đó có:
-Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được cho trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh chóng, kịp thời.
thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo. nhìn chung hình thức này chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
-Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi hay khi khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn theo thời vụ như mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay vốn ngân hàng.
Khách hàng khi có nhu cầu vay vốn phải làm thủ tục vay vốn cần thiết, ngân hàng xem xét, phân tích khách hàng để xác định quy mô cho vay, thời hạn trả nợ, thời hạn giải ngân, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. các món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau và ngân hàng kiểm soát tách biệt từng hồ sơ đó.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng khoản vay, ngân hàng sẽ kiểm soát nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng có thể thu nợ trước hạn hoặc chuyển thành nợ quá hạn.
+ Ưu điểm của phương thức cho vay từng lần.
Phương thức này linh hoạt trong quá trình sử dụng vốn của ngân hàng.Khi nào khách hàng có nhu cầu vay vốn NH mới xem xét đáp ứng (mỗi lần vay NH đều định thời gian cho các khoản vay đó ,đến thời hạn trả nợ, người vay phải có trách nhiệm trả nợ đối với NH ).Do đó, phương thức cho vay này NH kiểm tra chặt chẽ được từng món vay ,tính toán được hiệu quả kinh tế của từng đối tượng cho vay, từ đó đảm bảo khả năng an toàn vốn cho ngân hàng . Ngoài ra, ngân hàng có thể lập kế hoạch được nguồn vốn của mình bằng cách thông qua định kỳ hạn nợ cho mỗi món vay, từ đó có kế hoạch cho vay các khoản tiếp theo một cách chính xác để tránh tình trạng ứ đọng vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Đây là một phương thức cho vay đơn giản phù hợp với trình độ, năng lực qunar lý và tổ chức của các tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn và cũng rất thích hợp kể cả những trường hợp khi tổ chức kinh tế vốn là những hàng lớn nhưng đang trong tình trạng thiếu khả năng thanh toán, mất tín nhiệm trong quan hệ giao dịch, hay đối với các tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, buộc các ngân hàng thương mai phỉa cho vay từng lần khi có nhu cầu.
+Nhược điểm của phương thức cho vay từng lần.
Thủ tục rườm rà phức tạp gây khó khăn cho người vay.Mỗi lần vay tiền người vay phải làm thủ tục gửi ngân hàng xem xét quyết định cho vay. Việc định kỳ hạn nợ đối với mỗi món vay còn mang tính chủ quan của con người, đặc biệt là khi đối tượng cho vay là các thiết bị, vật tư hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại. Nếu đối tượng vay vốn có vòng quay vốn nhanh thì doanh nghiệp dùng vốn đó vào nhiều mục đích mà Ngân hàng không kiểm soát được, điều này sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau gây ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ và ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng.
-Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một thời gian nhất định. Hạn mức tín dụg có thể tính cho cả đầu kỳ hoặc cuối kỳ. đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay - trả nhiều lần, song dư nợ không được vươt quá hạn mức tín dụng. mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Hình thức này thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn trả nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
+ Ưu điểm
Thủ tục đơn giản nhanh chóng đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng. Khách hàng chỉ cần lập hồ sơ vay vốn lần đầu, những lần rút vốn sau chỉ cần lập giấy nhận nợ kèm theo chứng từ phù hợp với quy định. Thông qua hình thức cho vay này Ngân hàng có thể kiểm soát được các khoản thu nhập của khách hàng và nắm bắt được tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng tương đối chính xác, đặc biệt là khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó ngân hàng có những định hướng đúng đắn cho những lần vay tiếp theo.
+ Nhược điểm:
Trong hợp đồng cho vay HMTD, ngân hàng cùng khách hàng thỏa thuận HMTD, thời hạn của HMTD. Điều này cho thấy, ngân hàng phải luôn duy trì một lượng vốn nhất định để giải ngân cho người vay dẫn đến ngân hàng bị động trong sử dụng vốn. Nếu khoản vay lớn dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn của ngân hàng, điều này gây bất lợi cho ngân hàng bởi đó là nguồn vốn chết, không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà ngân hàng còn phải trả lãi huy động cho khoản vay vốn đó.
Phương thức cho vay này chỉ áp dụng cho vay đối với những khách hàng có đủ tín nhiệm với ngân hàng, phải có nhu cầu vay vốn thường xuyên, khả năng tài chính tốt, trình độ quản lý phải đáp ứng được nhu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh ổn định. Mặt khác trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, việc kinh doanh gặp nhiều khó khăn, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt… Do đó, các doanh nghiệp khó có đủ khả năng để đáp ứng đủ điều kiện của phương thức cho vay này.
-Cho vay luân chuyển:là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. đầu năm hoặc đầu quý doanh nghiệp làm đơn xin vay luân chuyển và thoả thuận với ngân hàng về phương thức vay, hạn mức tín dụng các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ.
-Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. số tiền mỗi lần trả được tính toán phù hợp với khả năng trả nợ.
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng thanh toán cho người bán lẻ số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp. Hình thức này là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
-Cho vay gián tiếp: phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp bên cạnh đó các ngân hàng còn phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. cho vay gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Hình thức này áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết, nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
Tình hình thực hiện cấp tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
* Kết quả dư nợ của NHNo&PTNT Bách Khoa 2005-2007
Bảng 1.Kết quả dư nợ của NHNo&PTNT Bách Khoa 2005-2007
Đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
ST
%
ST
%
ST
%
Tổng dư nợ
126.801
255.419
299.026
Phân theo thơi
gian
- Ngắn hạn
- Trung hạn
- Dài hạn
48.253
15.432
1.001
74,6
23,9
1,5
82.797
20.145
2.010
78,9
19,2
1,9
113.112
20.407
5.060
81,6
14,7
3,7
Phântheo thành phần kinh tế
- DNNN
- DNNQD
- Hộ GĐ, cá thể
16.357
25.374
9.550
31,9
49,5
18,6
40.079
66.835
16.795
31,4
52,3
13,3
50.090
78.180
21.238
33,5
52,3
14,2
C. Ngoại tệ
10.834
22.758
10.930
Qua bảng số liệu trên ta thấy dư nợ tín dụng của ngân hàng nông nghiệp Bách Khoa có xu hướng tăng qua 3 năm.Cụ thể, năm 2005 tổng dư nợ tín dụng đạt 126.801 triệu đồng ,Năm 2006 đạt 255.419 triệu đồng , năm 2007 đạt 299.026 triệu đồng .Dư nợ cho vay đối với các thành phần kinh tế có xu hướng tăng lên đặc biệt doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm phần lớn trong tổng dư nợ, bên cạnh đó việc cho vay ngắn hạn có xu hướng tăng lên đáng kể,còn dư nợ trung hạn, dài hạn thì tăng không đáng kể
+Thực hiện chủ trương mở rộng quy mô cho vay nên NHNo&PTNN Bách Khoa đã chủ động cho vay trong việc tìm kiếm đối tác có độ tin cậy cao và là những khách hàng truyền thống cho nên những món nợ hầu hết đã thu đươc, số món cơ cấu lại ít hơn và giảm hẳn.
+Ngay từ đâu NHNo&PTNT Bách Khoa luôn tìm kiếm nguồn thông tin về phía khách hàng một cách tối đa,hầu hết các món vay đều được thẩm định kỹ càng, khách hàng phải có tai sản thế chấp, không mở rộng đối với khách hàng không có tài sản thế chấp xếp loại theo văn bản 1261 của NHNo&PTNT Việt Nam do vây dư nợ năm 2006 tăng 128.618 triệu đồng , tỷ lệ tăng 101,4% , năm 2007 dư nợ cũng tăng 43.607 triệu đồng, tỷ lệ tăng 17,1% .
* Dư nợ cho vay đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Bảng 2.2 T ình hình dư nợ tín dụng
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng dư nợ tín dụng
128.801
255.419
299.026
Dư nợ tín dụng
DNV&N
36.772
89.397
119.610
Tỷ trọng
29
35
40
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy như sau: Dư nợ cho vay các DNV&N trong các năm 2005, 2006, 2007 .Cụ thể năm 2005 dư nợ đạt 36.722 triêu đồng, năm 2006 dư nợ đạt 89.397 triệu đồng, năm 2007 dư nợ đạt 119.610 triệu đồng. Tỷ trọng cho vay các DNV&N trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng cũng không ngừng tăng lên từ 29% năm 2005 lên 35% năm 2006 và 40% năm 2007. Điều này chứng tỏ NH đã chú trọng cho vay đối với các DNV&N đã có cái nhìn thông thoáng hơn đối với loại hình doanh nghiệp này.
Tuy nhiên cũng có thể nhận thấy rằng mặc dù dư nợ cho vay của các DNV&N trong các năm tăng nhưng vẫn chưa chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ (Dư nợ cho vay DNV&N luôn 50%). Sở dĩ như vậy là do quy nô loại hình doanh gnhiệp này nhỏ nên lượng vón này vay không nhiều thực tế trong quy định cho vay của ngân hàng bắt buộc vốn tự có của khách hàng tối thiểu là có 30% trong tổng nhu cầu vốn. Mặt khác, khách hàng chỉ được vay không vượt quá 70% giá trị tài sản đảm bảo. DNV&N một mặt vốn tự có thấp, giá trị tái sản đảm bảo chưa cao chưa hoàn chỉnh về thủ tục pháp lý vì vậy ít có khoản vay lớn.
Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với DNV&N
Đơn vị : triêụ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dư nợ cho vay DNV&N
36.772
89.397
119.610
Mức tăng dư nợ
52.625
30.213
Tốc độ tăng trưởng (%)
143%
33,8%
(nguồn từ ngân hàng và phát triển nông thôn chi nhánh Bách Khoa)
* Số lượng DNV&N có quan hệ tín dụng với Ngân hàng
Thực trạng về tốc độ tăng trưởng số lượng các DNV&N tại NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa được đo lường thông qua 2 chỉ tiêu quan trọng nhất : số lượng khách hàng là DNV&N tăng qua các năm và tỷ trọng DNV&N dược vay vốn tại NHNo&PTNT Bách Khoa.
Bảng 2.4: Số lượng khách hàng là DNV&N của Ngân hàng qua 3 năm 2005-2007
Đơn vị: Số lượng DN
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số lượng DNV&N có quan hệ tín dụng
80
95
125
Số lượng DNV&N tăng so với năm trước
7
15
30
(nguồn từ ngân hàng và phát triển nông thôn chi nhánh Bách Khoa)
Qua bảng số liêu trên số lượng các DNV&N có quan hệ tín dụng với NH khá đều đặn qua các năm đặc biệt tăng vào năm 2007 số lượng DNV&N đã đạt tới con số 125 tăng mạnh so với năm 2005 và năm 2006. Điều này có thể lý giải được bởi chính sách tín dụng rất nóng do ngân hàng đề ra trong năm 2007 đã giúp các DNV&N có thể giải tỏa được tình hình thiếu vốn trầm trọng của các DN. Chính vì vậy số lượng các DNV&N có quan hệ tín dụng với ngân hàng đã tăng lên rõ rệt .Điều đó thể hiện sự mở rộng cho vay DNVN&N là rất nhanh chóng chứng to chi nhánh rất quan tâm đến mở rộng cho vay ở khu vực này, nhân tháy rõ được tiềm năng của khu vực này trong nền kinh tế .
* D ư n ợ DNV&N theo l ĩnh v ực
Bảng 2.5 : T ình hình dư nợ đối với DNV&N theo l ĩnh v ực
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
ST
%
ST
%
ST
%
1/Nông –lâm nghiệp
2/ thủy sản
3/ Công nghiệp và xây dựng
4/Thương mại và dịch vụ
5/ Nghành khác
4.670
605
11.207
17.525
2.765
12.7
1.6
30.5
47.7
7.5
15.027
2.780
20.575
39.650
11.365
16.8
3.1
23
44.4
12.7
18.200
3.305
59.427
23.056
15.422
15.2
2.9
49.7
19.3
12.9
Tổng
36.772
100
89.397
100
119.610
100
(nguồn từ ngân hàng và phát triển nông thôn chi nhánh Bách Khoa)
Qua bảng số liệu trên ngân hàng Nông nghiệp đã thực hiện cấp tín dụng đối với các ngành nghề kinh doanh khá đa dạng .Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến vay vốn ngân hàng chủ yếu là các DNV&N hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, năm 2005 chiếm 47,7%, năm 2006 chiếm 44,4%, năm 2007 chiếm 19,3%. Công nghiệp và xây dựng năm 2005 chiếm 30,5%, năm 2006 chiếm 23%, năm 2007 chiếm 49,7%. Các ngành khác chiếm tỷ trọng nhỏ.
Bên cạnh đó ngành lâm nghiệp chiếm một tỷ trọng vay vốn tại Ngân hàng cũng tăng lên nhưng dự kiến nó có thể giảm trong những năm tới. Điều này có thể lý giải bởi địa bàn hoạt động chủ yếu của Ngân hàng nông nghiệp Bách Khoa là khu vực thành thị, người dân thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Thêm vào đó đất nước ta nói chung cũng như thành phố Hà Nội nói riêng đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, mức sống của người dân ngày càng tăng họ có xu hướng mở rộng hoạt động và có nhu cầu hơn trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Chính vì vậy mà tỷ trọng các DNV&N đến vay vốn trong các lĩnh vực này luôn chiếm đa số trong tỷ trọng cho vay của Ngân hàng.
Tốc độ đầu tư vốn chô các DNV&N tăng dần qua các năm và hiện nay đã chiếm 40% trong tổng số dư nợ cho vay nhưng bên cạnh đó số lượng các DNV&N của Hà Nội thì vẫn quá nhỏ vì vậy sẽ thúc đẩy NH trong thời gian tới có những chiến lược dài hạn nhằm đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư vốn và tạo điều kiện cho các DNV&N mở rộng sản xuất kinh doanh
* Diễn biến dư nợ đối với DNV&N phân theo thời gian
Bảng 2.6: Dư nợ đối với DNV&N Phân theo thời gian
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
ST
%
ST
%
ST
%
Ngắn hạn
24.420
66.4
50.032
56
90.727
76
Trung và dài hạn
12.352
33.6
39.365
44
28.883
24
Tổng dư nợ DNV&N
36.772
100
89.397
100
119.610
100
( Nguồn báo cáo NHNO&PTNT Bách Khoa )
Năm
Triệu đồng
Ngân hàng Nông nghiệp Bách Khoa tài trợ vốn cho DNV&N vẫn chủ yếu là hình thức tín dụng ngắn hạn .Năm 2005 tín dụng ngắn hạn chiếm 66,4% trong tổng dư nợ cho vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ . trong năm 2006 thì dư nợ ngắn hạn là 56% có chiều hưóng giảm chuyển dần sang tín dụng trung và dài hạn là 44% trong tổng dư nợ. Tuy nhiên năm 2007 tín dụng ngắn hạn lại tăng lên chiếm 76% trong tổng dư nợ .Các số liệu trên cho thấy ngân hàng vẫn tập trung vào đầu tư ngắn hạn cho các DNV&N. Sở dĩ như vậy là do tín dụng ngắn hạn đáp ứng đượ nhu cầu vốn của cho doanh nghiệp vừa và nhỏ mua nguyên vật liệu , bổ sung vào vốn lưu động ,những khoản có khả năng quay vòng vốn nhanh. Đây là những khoản vốn mà doanh nghiệp luôn cần trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Dư nợ trung và dài hạn lại giảm ,các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần nhu cầu vốn trung và dài hạn để mua sắm tài sản cố định như máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ hiện đại hóa công nghệ thực hiện chiến lược kinh doanh lâu dài. Tuy nhiên cho vay trung và dài hạn chứa đựng nhiều rủi ro cao hơn ngắn hạn do thời gian thu hồi vốn lâu dễ dẫn đến nợ quá hạn, để mở rộng hơn nữa hoat động cho vay trung và dài hạn ngân hàng chủ đọng tim kiếm những dự án đầu tư cho DNV&N có thể hướng phát triển theo chiều sâu, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường . Bên cạnh đó ngân hàng luôn giữ cho mình những khách hàng truyền thống có uy tín chất lượng .Trong chiến lược kinh doanh của mình ngân hàng cần chú ý đến chiến lược khách hàng, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên không chỉ mở rộng cho vay ngắn hạn mà còn chú trọng mở rộng cho vay trung và dài hạn.
*Dư nợ của các DNV&N phân theo loại hình doanh nghiệp
Bảng 2.7: Dư nợ của các DNV&N phân theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
ST
%
ST
%
ST
%
1.DNNN
14.656
39,9
40.325
45,1
55.278
46,2
2. Công ty cổ phần
8.123
22.1
20.356
22,8
25.191
21.1
3. Công ty TNHH
4.456
12,1
12.524
14
17.321
14,5
4. DN có vốn ĐTNN
0
0
6.HTX
0
0
7. Hộ gia đình cá thể
9.547
25,9
16.192
18,1
21.820
18,2
Tổng
36.772
100
89.397
100
119.610
100
(nguồn từ ngân hàng và phát triển nông thôn chi nhánh Bách Khoa)
Qua bảng số liệu trên ta thây Ngân hàng Nông nghiệp Bách Khoa đã đầu tư vốn vào các loại hình kinh tế khá đa dạng. Dư nợ cho vay đối với các DNNN chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay các DNV&N cụ thể trong 2005 chiếm 39,9% , năm 2006 chiếm 45,1%, năm 2007 chiếm 46,2% trong tổng dư nợ .Ngân hàng đã mở rộng quy mô nay vì những doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn tai các ngân hàng thường là có quy mô và tài sản thế chấp cao ,có uy tín và thường là những khách hàng quen của ngân hàng nên việc cho vay các DNNN đảm bao an toan hơn.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những chính sách mở rộng tín dụng với các doanh nghiệo ngoài quốc doanh .Những doanh nghiệp này đang làm ăn có hiệu quả hơn xây dựng chỗ đứng của mình trong nền kinh tế .Ngân hàng đã rất mạnh dạn mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp này ,một só doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô nhỏ ,tài sản thế chấp,chưa đủ điều kiện ,uy tín vẫn chưa cao .Ngân hàng vẫn chưa mạnh dạn đầu tư vào cũng chưa thu hút được các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó cho vay về tiêu dùng cũng chiếm tỷ trọng lớn vì đời sống của người dân được nâng lên rõ rệt nên việc mua sắm phục vụ cho đời sống càng tăng ,do đó việc cho vay ngân hàng là điều tất
* Chất lượng tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Chỉ tiêu này phản ánh trực tiếp đến chất lượng tín dụng , tỷ lệ này cao hay thấp nói nên chất lượng tín dụng của chi nhánh cao hay thấp, có thể nói tỷ lệ nơ quá hạn là con số phản ánh một cách toàn diện hoạt động tín dụng của chi nhánh .
Nợ quá hạn được chia làm 2 loại đó là : thứ nhất nợ quá hạn không phải là nợ quá hạn xấu, nó vấn có khả năng thu hồi được .Thứ hai , đó là nợ quá hạn xấu là nợ quá hạn mà không có khả năng thu hồi.Khi khoản nợ được coi là nợ quá hạn xấu thì những khoan nợ đó có khả năng mất vốn toàn bộ , ngân hàng không có khả năng thu hồi không những không có lãi mà NH phải trích thu nhập để bù vào khoản đã mất đó
Bảng 2.8: Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNV&N
Đơn vị: triệu đồngNn
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
ST
%
ST
%
ST
%
Nợ xấu(nhóm 3+4+5)
1.103
3
2.234
2,5
2.511
2,1
Tổng dư nợ
36.772
100
89.397
100
119.610
100
HNkậk(nguồn từ ngân hàng và phát triển nông thôn chi nhánh Bách Khoa)
%
Năm
Nhìn vào kết quả trên ta thấy tỷ lệ nợ xấu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất nhỏ trong tổng dư nợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa tỷ lệ nay đều có xu hướng giảm trong 3 năm tới đây. Cụ thể năm 2005 là 1.103 triệu đồng chiếm 3% trong tổng dư nợ , năm 2006 là 2234 triệu đồng chiếm 2.5%, năm 2007là 2551 chiếm 2.1% trong tổng dư nợ
Kết quả cho thấy nợ nhóm 3,4,5 chủ yếu tập trung vào loại hình doanh nghiệp là công ty TNHH, công ty cổ phần , hộ kinh doanh cá thể .Các doanh nghiệp nhà nước ,các doanh nghiệp tư nhân thì chiếm một số it là nợ khó đòi .Như vậy ngân hàng cần phải có những biện pháp thích hợp nhằm quản lý việc cấp tín dụng sao cho ngày một chặt chẽ hơn nữa .
Nhìn chung tỷ lệ nợ qúa hạn của đối với các DNV&N tại ngân hàng nông nghiệp Bách Khoa dã được cải thiện đáng kể . Điều đó chứng tỏ rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Bách Khoa được giảm dần
Bảng 2.9: Tình hình nợ quá hạn cho vay đối với các DNV&N qua các thời kỳ
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
1. NQH phân theo thời gian quá hạn
- NQH đến 180 ngày có khả năng thu hồi.
375.87
34.07
1026.72
45.95
1167.6
46.5
- NQH từ 181 ngày đến 360 ngày có khả năng thu hồi.
551.25
49.95
1063.92
47.62
1216.38
48.4
- NQH trên 360 ngày.
175.88
15.98
143.36
6.43
127.02
5.1
2. NQH phân theo loại cho vay
- NQH cho vay ngắn hạn.
489.51
44.4
1086.24
48.6
1124.8
44.8
- NQH cho vay trung và dài hạn
613.49
55.6
1147.76
51.4
1386.2
55.2
Tổng dư NQH
1.103
100
2.234
100
2.511
100
( Nguồn: Báo cáo phân tích nợ quá hạn )
Nhìn vào biểu đồ ta thấy nợ quá hạn phân theo loại cho vay đối với DNV&N tăng mạnh qua các năm cụ thể như sau:
Năm 2005 nợ quá hạn cho vay ngắn hạn là 489.51 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 44,4% trong tổng nợ quá hạn đối với DNV&N. Nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn là 613,49 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 55,6% trong tổng dư nợ quá hạn đối với DNV&N.
Năm 2006 nợ qúa hạn cho vay ngắn hạn là 1086,4 triệu đồng tăng 596,89 triệu đồng so với năm 2005, tỷ trọng tăng từ 44,4% năm 2005 lên 48,6% năm 2006. Nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn tăng 534,27 triệu đồng so với năm 2005, tuy nhiên tỷ trọng giảm 4,2% so với năm 2005.
Năm 2007 nợ quá hạn cho vay ngắn hạn là 1124,8 triệu đồng tăng 38,56 triệu đồng so với năm 2006, tỷ trọng trong tổng dư nợ quá hạn đối với DNV&N tăng 0,4% so với năm 2006. Nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn tăng từ 1147,6 triệu đồng năm 2006 lên 1386,2 triệu đồng năm 2007, tỷ trọng tăng 3,8% so với năm 2006.
2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
2.3.1.Những kết quả đạt được
-Ngân hàng nông nghiệp chi nhánh Bách Khoa đã nhận tháy tầm quan trọng của khách hàng DNV&N đới với nền kinh tế nói chung, hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng. vì vây NH đã tập trung tiếp cận , đầu tư vốn cung cấp các dịch vụ ngày một nhiều hơn thể hiện qua tốc độ tăng trưởng hàng năm .
Một trong những thành công của chi nhánh là đã mở rộng mạng lưới cho vay đối với các DNV&N, Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệo nay ngay càng được nâng cao tỷ lệ nợ qua hạn ở khu vưc doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm dần qua các năm . Kết quả nay phản ánh sự nỗ lực của chi nhánh trong việc phát triển hoạt động cho vay đối với DNV&N, đa dạng hóa cơ cấu khách hàng và giảm rủi ro trong danh mục cho vay của ngân hàng.Nhờ những chính sách khách hàng hợp lý giúp cho chi nhánh vùa giữ được khách hàng truyền thống vừa thu hút được khách hàng mới đến giao dịch với chi nhánh. Số lượng các DNV&N có quan hệ với chi nhánh ngày càng tăng qua các năm 2005 có 80 doanh nghiệp, năm 2006 có 95 doanh nghiệp, năm 2007 có 125 doanh nghiệp .
Công tác cho vay đạt được như vậy là nhờ ban lãnh đã của chi nhánh đã đưa ra chiến lược kinh doanh đúng đắn đối với các DNV&N các khoản cho vay đều đuuược thẩm định kiểm tra rõ ràng, giám sát chặt chẽ. Mặt khác đội ngũ cán bộ ngân hàng đã áp dụng linh hoạt các quy chế trong hoạt động cho vay, tích cực thực hiện công tác tiếp thị với khách hàng, chủ động nâng cao kiến thức về nghiệp vụ để nâng cao chất lượng cho vay.
2.3.2. Những hạn chế, ngưyên nhân của hạn chế trong việc mở rộng tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
2.3.2.1 Những mặt còn hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động cho vay DNV&N tại chi nhánh vẫn còn nhiều hạn chế , chất lượng hoạt động cho vay đối với các DNV&N chưa cao , đây là những khó khăn mà chi nhánh phải đối mặt và có những biện pháp khắc phục
Hoạt động cho vay đối với các DNV&N vẫn chỉ tập chung vào cho vay ngắn hạn, dư nợ cho vay chiếm khoảng 60% tổng dư nợ cho vay DNV&N tỷ trọng cho vay dài hạn còn thấp
Tỷ lệ nợ xấu đã giảm nhưng còn chứa nhiều rủi ro. Mặt khác nhiều doanh nghiệp còn lợi dụng vốn vay để tư lợi cá nhân sử dụng vốn vay không đúng mục đích.
2.3.2.2.Nguyên nhân
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
- Chất lượng cán bộ tín dụng chưa cao.
Cán bộ tín dụng là người ra quyết định có cho vay hay không, do đó chất lượng cán bộ tín dụng ảnh hưởng lớn đến chất lượng của các khoản vay. Mặt khác, nhiều cán bộ tín dụng còn có tâm lý e ngại khi cho vay đối với DNV&N vì lo ngại rủi ro cho ngân hàng. Công tác thẩm định là một bộ phận rất quan trọng trong quy trình tín dụng nhưng với trình độ còn hạn chế nên chất lượng thẩm định còn chưa cao.
- Chính sách tín dụng còn chưa linh hoạt.
Trước đây ngân hàng tập trung cho vay chủ yếu là các DN lớn, DNV&N có quan hệ lâu dài nhưng nay chuyển hướng sang các DNV&N có những chính sách tín dụng chưa hợp lý. Các quy trình về tài sản đảm bảo là những trở ngại rất lớn của các DNV&N, các chính sách tín dụng thiếu linh hoạt đã khiến cho các DNV&N khó tiếp cận với nguồn vốn từ ngân hàng. Mặt khác , các DNV&N có tài sản thế chấp nhưng cũng không được vay vốn ngân hang vì cán bộ tín dụng định giá tài sản thấp, không đủ số vốn mà họ cần.
- Các hình thức tín dụng chưa đa dạng
Mặc dù chi nhánh đã áp dụng nhiều hình thức cho vay nhưng trên thực tế các DNV&N chủ yếu vay theo hình thức vay truyền thống. do đó mà hạn chế rất nhiều đối với DNV&N khi vay. Đối với DNV&N có vốn chủ sở hữu bé, rất thích hợp vay theo hạn mức nhưng hầu như họ chưa tiếp cận được do năng lực tài chính bé, lại chưa có tín nhiệm với ngân hàng.
- Công tác thẩm định còn nhiều lỏng lẻo trình độ thẩm định chưa cao, chưa nắm bắt rõ thông tin từ khách hàng hay còn gọi là “ thông tin không cân xứng” . thủ tục cho vay còn rườm già mất thời gian chính vì vậy nợ xấu vẫn còn diễn ra phổ biến
2.3.3.2 Nguyên nhân từ phía DNV&N.
- Vốn chủ sở hữu của DNV&N, năng lực quản lý còn hạn chế
Với nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, các DNV&N bị hạn chế khi đi vay vốn của ngân hàng. Theo nghị định số 11/2000/NQ-CP thì tối thiểu vốn tự có và giá trị tài sản đảm bảo tiền vay bằng cầm cố, thế chấp so với vốn đầu tư của dự án khi áp dụng biện pháp đảm bảo tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay thì DN được vay 30%, với quy định này thì nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện này. Hơn nữa nhiều chủ ngân hàng không có kiến thức kinh doanh nên việc quản lý doanh nghiệp kém.
Thực tế nhiều DN không hiểu về quy trình tín dụng của ngân hàng, các DNV&N lập thủ tục vay vốn đều không đúng theo quy định của ngân hàng. Các DNV&N nắm bắt sự nhạy bén và khả năng phân tích thông tin còn yếu nên việc tiến hàng hoạt động sả xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, có nguy cơ bị thua lỗ.
- Uy tín của các DNV&N chưa cao.
Các DNV&N ở nước ta vẫn còn chịu ảnh hưởng nhiều lối tư duy cũ, cách làm ăn nhỏ lẻ, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường chưa cao nên chưa có được sự tin tưởng của ngân hàng. Có nhiều doanh nghiệp sau khi vay vốn xong thì không có ý thức trả nợ, thậm chí lấy vốn vay được sử dụng sai mục đích hay sự thiếu minh bạch trong sổ sách kế toán doanh nghiệp nên ngân hàng không thể dựa vào đấy để ra quyết định cho vay.
- khả năng lập dự án còn hạn chế
Hiện nay nhiều doanh nghiệp không có khả năng lập dự án phải đi thuê người khác lập hộ nên dẫn tình trang không phản ánh chính xác tình hình của doanh nghiệp vì trình độ cán bộ của họ thấp, mức lương họ trả cho nhân viên thấp nên không thể thu hút được người lao động có tay nghề.
2.3.3.3 các nguyên nhân từ phía môi trường.
Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được hoàn thiện dần để phù hợp với xu thế và bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nên tính ổn định kém còn nhiều điểm chồng chéo làm cho DN nói chung và DNV&N nói riêng khó khăn khi tìm hiểu, vận dụng và chấp hành. Công cuộc cải cách hành chính diễn ra chậm, thiếu đồng bộ cũng gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp khi giao dịch hành chính với cơ quan quản lý nhà nước.
Khi tiếp cận vấn đề trợ giúp DNV&N, hầu như các Bộ ngành chưa hoạch định được chiến lược, kế hoạch tổng thể về phát triển DNV&N.
Về môi trường kinh tế - xã hội trong những năm gần đây nền kinh tế tuy có sự phát triển nhưng giá các mặt hàng như điện, than, xăng dầu, thép, xi măng… đều có xu hướng tăng, dẫn đến chi phí đầu vào tăng, trong khi giá cả hàng hóa của doanh nghiệp không thể cao được, làm giảm thu nhập của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DNV&N TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BÁCH KHOA
3.1 Định hướng về mở rộng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
DNV&N trên địa bàn thành phố Hà Nội có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Hiện nay, tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong GDP của thành phố chiếm khoảng 53%, thu hút nhiều lao động tạo công ăn việc làm, hàng năm nộp cho ngân sách Nhà Nước hơn 100 tỷ đồng. DNV&N trên địa bàn Hà Nội đang thay đổi theo hướng tích cực, những khó khăn do cơ chế, chính sách chỉ là tạm thời khi các luật định đang từng bước hoàn thiện và phù hợp với thực tế hơn.
3.1.1. Định hướng phát triển chung của Chi nhánh.
Nhằm phát huy những kết quả đạt được, và tạo ra được bước đột phá tăng trưởng toàn diện về mọi mặt, chi nhánh xác định phương hướng hoạt động trong thời gian tới:
Trên cơ sở là một ngân hàng bán lẻ, thực hiện các nghiệp vụ của một ngân hàng hiện đại phục vụ cho các đối tượng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn Quận và các vùng lân cận; phục vụ phát triển kinh tế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng dân cư, khách hàng tiêu dùng trên cơ sở mở rộng các kênh phân phối.
Kiểm soát tốc độ tăng trưởng, đặc biệt kiểm soát phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng, trong thanh toán, an toàn kho quỹ. Nâng cao trách nhiệm ở các cấp lãnh đạo điều hành, cán bộ nghiệp vụ; chăm lo và giáo dục ý thức cán bộ gắn bó với ngành, với nghề.
Phát triển mạng lưới và tăng thêm kênh phân phối sản phẩm Ngân hàng.
Kinh doanh đảm bảo thực hiện theo đúng pháp luật của Nhà nước, của Ngành, đảm bảo hiệu quả, an toàn vốn.
Toàn thể cán bộ nhân viên trong chi nhánh thi đua lập thành tích chào mừng NHNo&PTNT Bách Khoa thực hiện thành công IPO và thành lập tập đoàn tài chính ngân hàng Việt Nam.
Trên cơ sở chính sách chiến lược phát triển kinh tế của quận, huyện, Chi nhánh tiến hành phân tích, đánh giá và xây dựng chính sách đầu tư tín dụng phù hợp với từng lĩnh vực phát triển của quận, huyện.
Tích cực chuyển dịch cơ cấu cho vay theo hướng giảm mạnh cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp và mở rộng, đa dạng hoá cho vay đối với các làng nghề truyền thống, các loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm tín dụng, triển khai các sản phẩm tín dụng tiêu dùng, tín dụng cá nhân (kết hợp với cung cấp dịch vụ) để dành riêng cho nhóm khách hàng tư nhân cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ (ngoài quốc doanh)…, gắn tăng trưởng tín dụng có hiệu quả với việc phát triển dịch vụ.
Chỉ tiếp cận và cho vay đối với các doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tình hình tài chính tốt.
Thực hiện phân loại, đánh giá khách hàng chính xác theo chương trình quản lý tín dụng nội bộ để làm căn cứ đưa ra quyết định cho vay.
Chủ động phối hợp với các chi nhánh thành viên của NHNo&PTNT để đẩy mạnh hoạt động cho vay đồng tài trợ, phân tán rủi ro tín dụng;
Chủ động tiếp cận với các ngành, các tổng công ty, chính quyền địa phương cấp quận huyện và thành phố để nắm kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, nắm được các dự án đầu tư phát triển cũng như các chủ đầu tư để lựa chọn các dự án đầu tư có đủ điều kiện, có hiệu quả để đầu tư.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án, các khoản vay
Tiếp tục thực hiện theo lộ trình tái cơ cấu do TW đề ra; Kiểm soát các khoản cho vay theo theo đúng nguyên tắc tín dụng, điều kiện tín dụng chặt chẽ để hạn chế rủi ro.
Nghiêm túc thực hiện các quy định, quy trình trong hoạt động tín dụng
Thực hiện phân loại nợ và trích lập đầy đủ, đúng qui định quỹ DPRR; Bổ sung và tăng cường thêm TSĐB; hoàn thiện về mặt pháp lý đối với TSĐB; có lộ trình triệt để xử lý nợ xấu, bằng mọi biện pháp tận thu nợ hạch toán ngoại bảng, nợ xấu, nợ quá hạn; hạn chế tối đa việc phát sinh nợ quá hạn mới, nợ xấu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
3.1.2. Định hướng phát triển đối với DNV&N.
Trong bối cảnh hiện nay, cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở nên gay gắt hơn, các ngân hàng luôn phải tìm cách để tăng được thị phần của mình. Do đó mà đối tượng cho vay được mở rộng hơn nhiều, nếu như trước đây các ngân hàng thường có xu hướng cho các doanh nghiệp lớn của nhà nước vay thì bây giờ đã có sự chuyển hướng sang các thành phần kinh tế khác, trong đó có sự mở rộng cho vay đối với các DNV&N.
Tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa cũng bắt kịp xu thế chung ấy. Để đạt được mục tiêu phát triển hoạt động cho vay đối với DNV&N, Chi nhánh đã đề ra một số phương hướng hoạt động đối với DNV&N như sau:
Chí nhánh cần duy trì và phát triển cho vay đối với các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lâu dài tại chi nhánh, phân công đủ cán bộ tín dụng nhằm mở rộng và phát triển chất lượng cho vay đối với các DNV&N.
Cần tiếp cận, rà soát để phân loại DNV&N nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, phân tích tình hình tài chính của khách hàng để lựa chọn những khách hàng đáp ứng đủ yêu cầu. Đẩy mạnh công tác tiếp thị để thu hút nhiều hơn nữa khách hàng đến giao dịch với chi nhánh, góp phần tăng cơ cấu và tỷ trọng gửi của doanh nghiệp, phấn đấu tăng trưởng dư nợ lành mạnh.
Từng bước giảm dần tỷ trọng cho vay DNV&N thuộc nhà nước, mở rộng cho vay đối với các DNV&N ngoài quốc doanh, nâng cao tỷ trọng dư nợ tài sản đảm bảo, áp dụng các biện pháp để đảm bảo và nâng cao chênh lệch sữa lãi suất đầu ra vơi đầu vào.
Tích cực trong công tác xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ xấu, đôn đốc các đơn vị có tiềm ẩn rủi ro để thu hồi nợ. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với những doanh nghiệp, dự án hiện nay đã và đang có dấu hiệu rủi ro tín dụng. Đặc biệt chú trọng những giới hạn an toàn trong hoạt động khả năng thanh khoản…
Nâng cao chất lượng công tác tự kiểm tra, kiểm soát các mặt nghiệp vụ, thực hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót phát sinh để đảm bảo kinh doanh an toàn và hiệu quả.
3.2 Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các DNV&N tại NHNo&PTNT Bách Khoa:
3.2.1 Đa dạng hóa các hình thức tín dụng đối với DNV&N
DNV&N đa dạng hóa về quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời gian vay, phương thức trả vốn và lãi vay là không giống nhau. Chính vì vậy mà ngân hàng với phương châm: “lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu phục vụ”, phải đưa ra được loại hình tín dụng phù hợp với từng yêu cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay truyền thống thông qua việc thế chấp, cầm cố tài sản chi nhánh nên tiến hành các hình thức cho vay mới như:
Chiết khấu chứng từ có giá:
Các doanh nghiệp sở hữu các giấy tờ có giá như thương phiếu, tín phiếu trái phiếu chưa đến hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu đột xuất thì có thể đem những chứng từ có giá này đến Ngân hàng xin chiết khấu. Chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những chứng từ có giá chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và phí hoa hồng (nếu có).
* Công thức chiết khấu:
Trong đó:
- K: là số tiền phải trả cho khách hàng khi chiết khấu
- A: là giá trị của kỳ phiếu tại thời điểm đến hạn
- R: mức lãi suất chiết khấu (% tính theo tháng)
- T: thời gian chiết khấu (thời gian xin rút trước hạn)
Phương pháp này hiện nay chi nhánh chưa áp dụng, mà chủ yếu vẫn dừng lại ở hình thức cầm cố giấy tờ có giá để được vay vốn Ngân hàng. Việc chiết khấu trái phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu tạo điều kiện cho Ngân hàng chuyển dần từ hình thức cho vay ứng trước (nhiều rủi ro) sang co vay chiết khấu các trái phiếu này khi cần đưa thêm tiền vào lưu thông.
Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh, liên kết với khách hàng.
Để mở rộng tín dụng, ngân hàng không nhất thiết chỉ cho khách hàng vay vốn của mình mà có thể lựa chọn trong số khách hàng của mình xem doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả, có triển vọng tồn tại và phát triển lâu dài thì ngân hàng có thể thỏa thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với những doanh nghiệp đó để cùng sản xuất kinh doanh. Như vậy, ngân hàng không những mở rộng được tín dụng của mình mà còn có điều kiện xâm nhập thị trường, từ đó tìm ra được những mặt mạnh mặt yếu của khách hàng, đồng thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vứa có thu nhập cao do trực tiếp là người đầu tư vốn, hạn chế được rủi ro cho khách hàng và cả ngân hàng.
Cho vay bảo lãnh và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với DNV&N:
Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, có những DNV&N, hộ gia đình, cán bộ công nhân viên thiếu vốn phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc phục vụ đời sống nhưng không có tài sản hoặc không đủ tài sản làm đảm bảo. Khách hàng có thể vay vốn bằng việc bảo lãnh của bên thứ 3; hoặc đối với cán bộ công nhân viên thì tiến hành cho vay không có bảo đảm bảo bằng tài sản, nhưng được cơ quan quản lý cam kết đảm bảo trả bằng nguồn thu nhập từ tiền lương, trợ cấp…
Cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu:
Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua mua chịu, dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ đó. Việc cho vay này có thể thông báo hoặc không thông báo cho khách hàng thiếu nợ của doanh nghiệp, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của hai bên.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa dịch vụ và rút tiền mặt.
3.2.2 Thực hiện các biện pháp thẩm định kỹ trước khi cho vay và tăng cường kiểm tra trong và sau khi cho vay:
Trước khi giải ngân một khoản vay, ngân hàng cần phải hiểu rõ mọi chi tiết có liên quan đến khách hàng, nhằm đảm bảo cho món vay được sử dụng một cách có hiệu quả và có khả năng hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi. Ngân hàng phải tiến hành các biện pháp thẩm định, phân tích và đánh giá khách hàng. Đây là một việc làm cực kỳ quan trọng, vì khi đã giải ngân cho người vay thì ngân hàng chỉ có quyền sở hữu, còn quyền sử dụng khoản tiền đó hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng. Việc phân tích, đánh giá khách hàng ít nhất cần đảm bảo các nội dung:
- Tính khả thi của phương án hoặc dự án kinh doanh.
- Tình hình tài chính và khả năng thanh toán của khách hàng.
- Tài sản thế chấp và mức độ đảm bảo của tài sản thế chấp.
- Trình độ quản lý, uy tín và đạo đức của người lãnh đạo cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Cụ thể, trong khi phân tích, đánh giá khách hàng để cho vay ngân hàng cần chú ý các vấn đề sau:
- Sàng lọc, điều tra và giám sát khách hàng:
Sàng lọc là việc ngân hàng lựa chọn những khách hàng vay có triển vọng tốt để cho vay, đảm bảo thu hồi được gốc và lãi đúng hạn, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng thu thập thông tin khách hàng thông qua mối quan hệ của khách hàng, chính quyền địa phương, từ trung tâm thông tin về rủi ro tín dụng.
Tài liệu chứng minh tư cách pháp nhân hoặc thể nhân của người xin vay: Quyết đinh thành lập, điều lệ doanh nghiệp, (nếu khách hàng là một pháp nhân); giấy chứng minh nhân dân, số đăng ký hộ khẩu, (nếu khách hàng là một thể nhân), bảng cân đối tài khoản hiện tại và những năm trước đó, tình hình sản xuất kinh doanh trong nhiều năm liên tục, tình hình cung cấp nguyên vật liệu cũng như tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của các công ty cổ phần thì phương pháp hữu hiệu nhất để tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa khách hàng và ngân hàng là việc ngân hàng tham gia nắm giữ một số cổ phần của doanh nghiệp vay vốn. Sự gắn bó này hiện nay đang được áp dụng mạnh mẽ trong hệ thống tài chính của các nước phát triển như Nhật Bản, Đức…
Đối với các khách hàng là thể nhân thì việc đánh giá khả năng tài chính của khách hàng thường rất khó khăn, bởi vì rất khó có được những số liệu chính xác và ổn định của khách hàng, nhất là đối với chủ thể vay vốn các hộ tư thương. Tất cả số liệu từ nguồn vốn, doanh thu hàng tháng đến lợi nhuận thu được đều không rõ ràng. Vì vậy đối với những khách hàng thuộc loại hình này, ngân hàng cần hết sức coi trọng khâu xem xét, đánh giá chung về đạo đức và ý chí trả nợ của họ.
Đối với các khách hàng là các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh kế toán thống kê thì ngân hàng có thể căn cứ vào rất nhiều chỉ tiêu kinh tế và tài chính để đánh giá tình hình tài chính và khả năng thanh toán của họ. Trong số đó cần chú ý xem xét một số chỉ tiêu quan trọng như:
*Hệ số tài trợ:
Hệ số tài trợ của doanh nghiệp là một chỉ tiêu khái quát phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp đó. Hệ số này được tính như sau:
Nguồn vốn DN hiện có
Hệ số tài trợ =
Tổng nguồn vốn DN sử dụng
Qua công thức trên ta thấy, nguồn vốn của doanh nghiệp càng so với tổng số nguồn vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng thì khả năng rủi ro trong tín dụng ngày càng cao. Điều này thể hiện doanh nghiệp đang bị phụ thuộc lớn vào các nguồn vốn khác mà không phải là bản thân doanh nghiệp, do vậy rất khó chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh và thanh toán các nợ khi đến hạn.Nếu hệ số tài trợ càng lớn,thì tình hình tài chính doanh nghiệp càng vững chắc.Trên thực tế,theo kinh nghiệm của một số ngân hàng trên thế giới , nếu hệ số tài trợ của doanh nghiệp nhỏ hơn 0,5 thì khả năng tài chính của doanh nghiệp là rất khó khăn.Một doanh nghiệp được đánh giá là có tình hình tài chính tốt, khi hệ số tài trợ tăng liên tục qua các kỳ và lớn hơn hoặc bằng 0,5
* Tỷ xuất lợi nhuận:(khả năng sinh lời tài chính) là khả năng
Sinh lời của một đồng vốn huy động trong năm của doanh nghiệp. Tỷ xuất lợi nhuận có thể được tính chung cho cả vốn cố định và vốn lưu động hoặc tính riêng cho từng loại vốn. Nếu một doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận lớn hơn lãi xuất tiền vay ngân hàng, thể hiện doanh nghiệp đó làm ăn có lãi, có khả năng hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi và có tĩnh lũy.Nhưng doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn lãi suất tiền vay ngân hàng là nhưng doanh nghiệp có nhiều khả năng không hoàn trả được nợ vay, bởi lợi nhuận của các doanh nghiệp tạo ra trong kỳ không đủ để trả lãi tiền vay, chưa nói đến việc tạo ra lợi nhuận thuần túy cho bản thân các doanh nghiệp. Do vậy,để đảm bảo an toàn vốn ,các ngân hàng không nên cho vay đối với các doanh nghiệp loại này.
* Khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu. Để đánh giá chính xác khả năng thanh toán của một doanh nghiệp cần xem xét, phân tích các chỉ tiêu:
Khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp:Là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh khái quát khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó, chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Số tiền doang nghiệp dùng để thanh toán
=
Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán
Trong đó :
+Số tiền có thể dùng để thanh toán gồm toàn bộ số vốn bằng tiền, các khoản phải thu và thành phẩm hàng hoá tồn kho và đang gửi đi tiêu thụ.
+Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán gồm các khoản phải trả người bán, người mua , các khoản nợ ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác.
Nếu một đoang nghiệp có hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 chính tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán và tình hình tài chính bình thường và khả quan. Nhìn chung hệ số càng lớn thì khả năng thanh toán càng tốt.Cần chú ý rằng để đánh giá được khả năng thanh toán càng tốt cần chú ý rằng để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, khi tính toán số tiền của doanh nghiệp, khi tính toán số tiền của doanh nghiệp có thể dùng để thanh toán cần xem xét tới khả năng chuyển hóa thành tiền của sản phẩm hàng hóa và các khỏn phải thu để xác định một cách chắc chắn về nguồn vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra ta còn có thể sử dụng các chỉ tiêu về khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán cuối cùng để đánh giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhìn chung việc phân tích các chỉ tiêu tài chính càng được tiến hành một cách cụ thể và chính xác bao nhiêu thì càng phòng ngừa được những rủi ro cho nguồn vốn cho vay của ngân hàng bấy nhiêu.
Sau khi hoàn thành đầy đủ các bước phân tích tín dụng đói với khách hàng, nếu xét thấy phương án sản xuất kinh doanh là hợp lý, mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao đồng thời khả năng tài chính của khách hàng lành mạnh và ổn định, có khả năng hoàn trả tốt nợ gốc và lãi vay, ngân hàng sẽ xác định số lượng, thời hạn và lãi suất cho khoản tín dụng đó.
. Hiện nay NH đang sử dụng hệ số này và áp dụng hệ số này một cách phổ biến.
Thực hiện kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên và định kỳ giám sát khách hàng có sử dụng tiền vay đúng mục đích đề phòng những bất trắc có thể xảy ra. Qua kiểm tra sẽ phát hiện ra được những việc kinh doanh không bình thường để có biện pháp xử lý kịp thời, ngăn ngừa rủi ro.
Trên cơ sở kết quả công tác kiểm tra, quản lý tín dụng, Ngân hàng cần tiến hành phân loại chất lượng các khoản vay để từ đó có bienj pháp thu hồi nợ và lãi cho phù hợp:
Đối với những khoản vay có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi tiền vay đúng hạn, thì phải chú ý đôn đốc việc trả nợ khi thời điểm đáo hạn sắp đến.
- Đối với các khoản nợ vay có “vấn đề”, không được hoàn trả đúng hạn do những khó khăn phát sinh từ điều kiện khách quan đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng thì cần có những biện pháp điều chỉnh tình huống kịp thời, đảm bảo khả năng thu hồi vốn, tránh nợ quá hạn phát sinh.
- Với những hợp đồng tín dụng vay số tiền lớn, thời hạn dài thì phải có điều khoản “tình huống thay đổi”, ở đó phải quy định một số tình huống bất ngờ có thể sảy ra và cách xử lý kèm theo. Ví dụ như chính sách thuế, chính sách đầu tư, quản lý ngoại hối, quản lý động sản, bất động sản của Nhà nước. Khi có thay đổi thì quan hệ tín dụng được điều chỉnh như thế nào để bảo vệ cho quyền lợi của Ngân hàng và khách hàng vay.
- Đối với những khoản vay vi phạm hợp đồng tín dụng một cách nghiêm trọng hoặc có nguy cơ thua lỗ, phá sản trong kinh doanh dẫn đến khả năng thu hồi nợ vay rất khó khăn, Ngân hàng buộc phải chuyển nợ quá hạn và tìm mọi cách thu hồi nợ, ngay cả trong trường hợp khoản vay chưa đến hạn như đã quy định.
3.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M1098.DOC