Đề tài Giải pháp khai thác vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần xây dựng Miền Tây

Tài liệu Đề tài Giải pháp khai thác vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần xây dựng Miền Tây: mục lục Lời mở đầu Từ năm 1986, khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa có sự quản lý của nhà nước, thì cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp ngày càng lớn hơn. Để có thể tồn tại trong một môi trường mà cạnh tranh là một qui luật phổ biến đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tạo cho mình tiềm lực và thế mạnh để tham gia và chiến thắng trong cạnh tranh, tồn tại và tiếp tục phát triển. Để giải quyết những vấn đề đó một trong các nguồn lực đó là vốn. Kinh tế thị trường càng phát triển, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp càng được đẩy mạnh thì nhu cầu về vốn cho đầu tư càng tăng lên mạnh mẽ. Có thể nói, với những áp lực của xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, vốn kinh doanh đã trở thành vấn đề sống còn của mọi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Vấn đề đặt ra là d...

doc83 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp khai thác vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần xây dựng Miền Tây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục lục Lời mở đầu Từ năm 1986, khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa có sự quản lý của nhà nước, thì cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp ngày càng lớn hơn. Để có thể tồn tại trong một môi trường mà cạnh tranh là một qui luật phổ biến đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tạo cho mình tiềm lực và thế mạnh để tham gia và chiến thắng trong cạnh tranh, tồn tại và tiếp tục phát triển. Để giải quyết những vấn đề đó một trong các nguồn lực đó là vốn. Kinh tế thị trường càng phát triển, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp càng được đẩy mạnh thì nhu cầu về vốn cho đầu tư càng tăng lên mạnh mẽ. Có thể nói, với những áp lực của xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, vốn kinh doanh đã trở thành vấn đề sống còn của mọi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp cần huy động vốn từ những nguồn nào để vừa đáp ứng được nhu cầu đầu tư của mình cả về quy mô và thời gian cung ứng vốn đảm bảo hiệu quả sử dụng cao nhất cho số vốn đã huy động. Giải quyết vấn đề này chính là nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của nhà quản trị tài chính doanh nghiệp. Cơ chế kinh tế mới đã có những tác động tích cực. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã tăng nhanh cả số lượng lẫn chất lượng. Song do nền kinh tế nước ta còn khó khăn, khả năng tích luỹ từ nội bộ còn thấp, trừ một số doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là có qui mô lớn, còn lại các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ chiếm phần lớn trong hệ thống các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt nam. Do qui mô nhỏ và các khó khăn của nền kinh tế cho nên các doanh nghiệp ở nước ta thường xuyên bị thiếu vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi đó đã xảy ra một nghịch lý là vốn ứ đọng ở các Ngân hàng thương mại tới hàng ngàn tỉ đồng. Rõ ràng doanh nghiệp thiếu vốn không phải do Ngân hàng thiếu vốn mà là do doanh nghiệp chưa có các giải pháp khai thác các nguồn và huy động vốn một cách hợp lý. Do đó, việc tìm ra các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng đã trở nên cấp thiết ! Thực tế cho thấy, để cung và cầu về vốn gặp nhau trên thị trường, cả hai phía người cung ứng vốn và người có nhu cầu về vốn đều phải cố gắng tìm đến nhau, đồng thời cần có sự hỗ trợ tích cực của nhà nước trong việc tạo điều kiện , môi trường thuận lợi cho các luồng vốn đến đúng địa chỉ người nhận. Về phía doanh nghiệp, họ khkông thể cứ ngồi đợi tình trạng thiếu vốn mà trước hết phải dựa vào năng lực bản thân để tự tìm kiếm và khai thác có hiệu quả các nguồn vốn hiện đang tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trên thị trường. Đây cũng là mục tiêu được công ty Cổ phần xây dựng Miền Tây đặt ra và quyết tâm thực hiện trong thời gian tới. Vì thế, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu tình hình, với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tăng cường khai thác các nguồn vốn phục vụ nhu cầu kinh doanh của công ty, em đã chọn đề tài: “Giải pháp khai thác vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần xây dựng Miền Tây” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình. Chương I Tổng quan về vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 1.1. Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.1.1. Khái niệm: Có rất nhiều quan niệm khác nhau khi nói về vốn của một doanh nghiệp. Tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau mà có nhận định về vốn khác nhau. K-Marx cho rằng vốn là một trong ba yếu tố của sản xuất: đất đai, lao động và vốn, là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Quan điểm này hạn chế ở chỗ cho rằng chỉ có khu vực trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mới tạo ra được giá trị thặng dư. Theo trường phái tân cổ điển, Paul A.SamuPson lại cho rằng vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới: là đầu vào cho hoạt động sản xuất của mỗi doanh nghiệp như: máy móc, vật tư, trang thiết bị, nguyên vật liệu… Quan điểm này lại không bao gồm các tài sản chính, các giấy tờ có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vậy có thể nói một cách tổng quát về khái niệm của vốn đó là: Vốn là toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp được dùng vào sản xuất kinh doanh, số vốn này được hình thành từ khi thành lập doanh nghiệp và được bổ xung trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, vốn là tiền vì muốn có vốn thì phải có tiền song chưa hẳn tiền là vốn. Tiền chỉ có thể trở thành vốn khi nó hoạt động trong lĩnh vực sản xuất lưu thông. Tức là nó phải kèm theo các điều kiện: -Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. -Tiền phải được tích tụ vốn và tập trung đến một lượng hàng hoá nhất định. - Khi đã có đủ về phương tiện phải nhằm được mục đích sinh lời: Một doanh nghiệp dùng để sản xuất kinh doanh thì đòi hỏi có các yếu tố đầu vào. Đó là tiền dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cũng như trả lương cho công nhân. Sau quá trình kinh doanh, doanh nghiệp thu được các hình thái vật chất khác nhau và nó lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Số tiền thu được này một phần được dùng cho tiêu dùng cá nhân, nộp thuế và còn lại tiếp tục chuyển hoá thành các điều kiện sản xuất cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Như vậy, toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện bằng cả tiền mặt lẫn giá trị các vật tư, tài sản và hàng hoá. 1.1.2. Phân loại và đặc điểm vốn trong doanh nghiệp. 1.1.2.1. Căn cứ theo hình thái của vốn. Vốn đầu tư là số tiền mà nhà đầu tư phải bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư. Vốn đầu tư là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh quy mô của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn thường có khả năng cạnh tranh lớn, thị phần càng cao và có uy tín đáng kể trên thị trường. Những doanh nghiệp có số vốn nhỏ, quy mô sản xuất kinh doanh bé dễ bị phá sản. Trong mọi loại hình doanh nghiệp vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn cố định và vốn lưu động, mỗi bộ phận này được chia nhỏ thành nhiều yếu tố hoặc khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Tuy nhiên, các nguồn vốn của doanh nghiệp không giống nhau do quá trình huy động và sử dụng vốn phụ thuộc vào một loạt các yếu tố khác nhau. 1.1.2.1.1. Vốn cố định. a. Khái niệm. “Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định” . Tài sản cố định là những tư liệu có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều quá trình sản xuất kinh doanh và trong quá trình đó bị hao mòn dần. Giá trị của tài sản cố định được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm theo số năm sử dụng tài sản cố định. Tài sản cố định tham gia nhiều lần vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và giữ nguyên hình thái giá trị ban đầu. b.Đặc điểm của vốn cố định - Thời gian sử dụng ít nhất một năm - Giá trị tối thiểu là năm triệu đồng. Vốn cố định giữ vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh, nó quyết định trình độ trang thiết bị cơ sở kỹ thuật, quyết định thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, là nhân tố quan trọng để đảm bảo tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống cho người lao động. Tuỳ theo đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành, khả năng về vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, trên cơ sở nhu cầu thị trường đối với từng sản phẩm trong từng thời kỳ trên cơ sở tiến bộ khoa học của mỗi doanh nghiệp cần có kế hoạch đúng đắn cho việc mua sắm máy móc, đảm bảo hiệu quả trong việc sử dụng vốn cố định trong sản xuất. Vốn cố định có hai mặt là mặt hiện vật và mặt giá trị vì thế khi quản lý chúng ta cần phải chú ý đến cả hai mặt này. Về mặt hiện vật, vốn cố định bao gồm những tài sản cố định như: Nhà cửa, thiết bị máy móc, phương tiện vận tải… Tài sản cố định tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh về hình thái hiện vật thì không thay đổi, xong về mặt giá trị thì giảm dần sau mỗi chu kỳ sản xuất do giá trị của nó được chuyển dần vào gía trị sản phẩm qua hình thái khấu hao. 1.1.2.1.2. Vốn lưu động. a. Khái niệm. “Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư được ứng ra để mua sắm các tàI sản lưu động sản xuất và tàI sản lưu thông nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh”( . Để tiến hành sản xuất, ngoài tài sản cố định doanh nghiệp còn phảI có tàI sản lưu động. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu tàI sản lưu động cũng khác nhau. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì tài sản lưu động thường được cấu tạo bởi hai phần là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. b.Đặc điểm vốn lưu động Vốn lưu động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, qua mỗi chu kỳ sản xuất vốn lưu động chuyển qua nhiều hình thái khác nhau như: Tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, thành phẩm, nguyên vật liệu… và chở lại hình thái tiền tệ sau khi tiêu thụ sản phẩm. Khác với vốn cố định, vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Sự lưu thông về mặt giá trị được biểu hiện bằng công thức: T – H – S – X… H’ – T’ … Trong quá trình vận động, vốn lưu động biến đổi từ hình thái này sang hình thái khác sau đó trở về hình thái ban đầu. Một vòng khép kín đó là chu kỳ vận động của vốn lưu động. 1.1.2.2. Căn cứ theo nguồn hình thành của vốn đầu tư. Nếu phân phối theo nguồn hình thành, vốn đầu tư trong doanh nghiệp được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. 1.1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu. Là số tiền vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Tuỳ theo loại hình của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo những cách thức khác nhau. Thông thường vốn chủ sở hữu bao gồm: - Vốn góp: “Là số vốn của các bên tham gia thành lập liên doanh tiến hành đóng góp và được sử dụng vào mục đích kinh doanh”( . Số vốn này có thể được bổ sung thêm hoặc bớt trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Lãi chưa phân phối: Lãi là một phần chênh lệch giữa một bên là toàn bộ doanh thu của các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và các khoản thu nhập bất thường với một bên là toàn bộ chi phí kinh doanh, chi phí tài chính. Chi phí bất thường, số lãi này khi chưa phân phối cho lĩnh vực được sử dụng cho kinh doanh sẽ được coi như vốn chủ sở hữu. 1.1.2.2.2. Vốn vay. Là số tiền vốn mà doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các tổ chức, đơn vị, cá nhân. Bởi vậy, doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả. Phần vốn này doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định (thời hạn sử dụng, lãi suất…) nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn vay có thể huy động từ hai nguồn chính: vay các tổ chức tài chính (ở Việt Nam chủ yếu là ngân hàng, một phần vay dưới dạng tài trợ phát triển và phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 1.1.2.3. Căn cứ vào phạm vi hoạt động. 1.1.2.3.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp. Là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ, dự phòng các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. 1.1.2.3.2. Nguồn vốn ay từ bên ngoài doanh nghiệp. Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được từ bên ngoài để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của mình bao gồm: Vay vốn của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. 1.2. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. 1.2.1. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc thành lập hoạt động và phát triển của từng loại hình doanh nghiệp. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp lớn hay nhỏ là một trong những điều quan trọng nhất để xếp loại hình doanh nghiệp vào quy mô lớn, trung bình hay nhỏ và cũng là điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về sức lao động, nguồn hàng hoá, thị trường. Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh, sau đó được sử dụng vào kinh doanh, và sau một chu kỳ hoạt động nó được thu về để tiếp ứng cho chu kỳ hoạt động sau. Vốn của doanh nghiệp không thể bị mất đi vì đồng nghĩa với mất vốn là nguy cơ phá sản. Tại bất kỳ một Công ty nào, ba vấn đề quan trọng đầu tiên cần giải quyết đó là: xác định được mục tiêu cho đầu tư dài hạn, tìm được nguồn tài trợ cho đầu tư đó và đưa ra các quyết định tài chính ngắn hạn như thế nào cho hợp lý: Như vậy, các vấn đề quan trọng này đều gắn liền với các hoạt động liên quan tới vốn. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh các Công ty muốn tồn tại phải có được các bí quyết, các công nghệ tiên tiến để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, tăng năng suất, mở rộng quy mô sản xuất… Để thực hiện được điều đó thì họ cần đến vấn đề hoạt động và đầu tư. 1.2.2. Vốn là một yếu tố cơ bản trong các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn là một điều kiện sản xuất không thể thiếu cho mọi hoạt động. Vốn là một trong những điều kiện tiên quyết để sử dụng nguồn lực hiện có và trong tương lai sẽ có như: sức lao động, nguồn hàng hoá, kiến thức khoa học kỹ thuật, tài nguyên… Công ty muốn sử dụng hiệu quả các yếu tố trên thì không thể thiếu yếu tố vốn, vốn ở đây gồm cả hình thái vật chất và hình thái giá trị. Nói cách khác muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì điều đầu tiên cần phải có là vốn và đi liền với nó là các yếu tố đầu vào khác. Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập chủ yếu nhằm mục đích kinh doanh. Đối với doanh nghiệp, vai trò của vốn được thể hiện chủ yếu dưới những khía cạnh chính sau đây: - Trước hết, vốn là điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của doanh nghiệp. Theo qui định của pháp luật của tất cả các nước trên thế giới thì điều kiện để thành lập doanh nghiệp là chủ doanh nghiệp phải có một mức vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật đối với mỗi ngành nghề kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, vốn của chủ doanh nghiệp có thể tăng, có thể giảm nhưng không được giảm xuống dưới mức vốn pháp định. Trong trường hợp vốn của chủ doanh nghiệp giảm xuống dưới mức tối thiểu hoặc là không đủ khả năng thanh toán nợ đến hạn mà chủ sở hữu không tăng được mức vốn chủ sở hữu để đảm bảo mức vốn pháp định hoặc đảm bảo khả năng thanh toán nợ tới hạn thì doanh nghiệp bị giải thể (lâm vào tình trạng phá sản). - Thứ hai, vốn là đầu vào không thể thiếu được của sản xuất. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn được sử dụng để trang trải các khoản chi phí như mua sắm nguyên vật liệu, trả lương công nhân, mua sắm trang thiết bị và các chi phí khác. Kết thúc một chu kì sản xuất, vốn đó lại tiếp tục được sử dụng để tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Các chu kì vận động này của vốn được thực hiện trong suốt vòng đời của doanh nghiệp. - Trên góc độ quản trị thì vốn là điều kiện tiền đề để thực hiện các quyết định kinh doanh mà quan trọng nhất là các quyết định đầu tư. Vốn là điều kiện để đảm bảo cho dự án có thể thực hiện được. Mọi quyết định đầu tư đều phải dựa trên tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu không thì quyết định đầu tư đó rất dễ rơi vào một trong hai trường hợp sau: một là, dự án thực hiện sẽ hứa hẹn đem lại hiệu quả rất tốt nhưng doanh nghiệp không thực hiện được do vốn đầu tư đòi hỏi quá lớn, doanh nghiệp không có khả năng huy động được; hai là, dự án lựa chọn có mức vốn đầu tư quá nhỏ so với tình hình tài chính của doanh nghiệp trong khi đó lại bỏ qua các dự án cần mức vốn đầu tư cao hơn và đem lại hiệu quả cao hơn. Ta thấy rằng, các quyết định đầu tư rơi vào một trong hai trường hợp trên đều không có tính hiệu quả. Vốn còn là điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện các chính sách cạnh tranh như chính sách giá cả, chính sách quảng cáo, xâm nhập thị trường...Thực tế cho thấy doanh nghiệp nào trường vốn hơn thì sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn. Qui mô của vốn cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp; tuy vốn không phải là yếu tố duy nhất đóng vai trò quyết định nhưng vốn lớn sẽ đem lại lợi nhuận lớn. 1.2.3. Các hình thức và điều kiện huy động vốn : 1.2.3.1. Các hình thức huy động vốn đối với doanh nghiệp công nghiệp. Như đã biết ở trên vốn cho tăng trưởng và phát triển đã trở thành vấn đề thời sự đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, trước những cơn đói vốn triền miên nếu doanh nghiệp tích cực, chủ động tìm nguồn thì hoàn toàn vẫn có thể thu hút được một lượng vốn đáng kể cho sản xuất kinh doanh. Sản xuất kinh doanh trong nề kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại một lượng tiền tệ như là một tiền đề bắt buộc. Không có vốn sẽ không có bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Một lượng tiền vốn như thế chỉ có thể có được thông qua con đường ghép nhiều nguồn vốn mà thành. Đó chính là quá trình huy động, tập trung vốn trong sản xuất kinh doanh. Quá trình này có thể tiến hành bằng một số hình thức sau : a.Vốn do ngân sách cấp : Vốn ngân sách cấp cho các doanh nghiệp Nhà Nước có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó thường được sử dụng cho đầu tư dài hạn, mở rộng doanh nghiệp. Tuy nhiên thực tế hiện nay nguồn vốn này đang có chiều hướng giảm. b. Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Trong thực tế nền kinh tế thị trường không một doanh nghiệp nào hoạt động mà không vay vốn ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất. Tất nhiên nhu cầu vốn vay đối với mỗi doanh nghiệp là khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp đó. Nguồn vốn vay ngân hàng có thể chia thành hai loại chính là vốn vay ngắn hạn và vốn vay dài hạn. Trong đó vay ngắn hạn là những khoản vay có thời hạn trong vòng một năm, vay dài hạn là những khoản vay có thời hạn lớn hơn một năm. b.1. Vay ngắn hạn. Vay ngắn hạn là phương thức huy động vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp từ vài ngày cho tới cả năm với lượng vốn theo nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn vay ngắn hạn được huy động theo các phương thức sau: Vay theo hạn mức tín dụng Theo phương thức này, doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận trước về hạn mức tín dụng, tức là ngân hàng cho doanh nghiệp vay trong một hạn mức mà không phải thế chấp. Trong hạn mức này, doanh nghiệp có thể vay bất cứ lúc nào mà ngân hàng không cần thẩm định. Hạn mức tín dụng được ngân hàng tạo sẵn cho doanh nghiệp do mối quan hệ kinh tế giữa hai bên, thông thường hạn mức này mỗi năm được thoả thuận lại một lần tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nhưng đôi khi gây ra trục trặc: khi ngân hàng gặp khó khăn về tài chính hay thanh toán thì công ty phải hoàn trả hoặc không được vay. Vay theo hợp đồng: Theo hình thức này khi doanh nghiệp có những hợp đồng về sản xuất gia công cho khách hàng thì ngân hàng có thể cho vay căn cứ vào các hợp đồng đã được ký kết trước đó. - Vay có đảm bảo: bao gồm các hình thức sau: + Huy động vốn bằng cách bán nợ: Một công ty có thể huy động vốn bằng cách bán các khoản nợ của mình. Các tổ chức mua nợ thường là các ngân hàng hoặc các công ty tài chính. Sau khi việc mua bán được hoàn tất, bên mua nợ căn cứ vào hoá đơn chứng từ để thu hồi nợ và quan hệ kinh tế lúc này là của của người nợ và chủ nợ mới lúc này là bên mua nợ. + Huy động vốn vay bằng cách thế chấp các khoản phải thu: Các công ty trong quá trình hoạt động có thể đem các hoá đơn thu tiền làm vật đảm bảo cho khoản vay. Số tiền mà các ngân hàng cho vay tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của các hoá đơn thu tiền nhưng thông thường tỷ lệ giá trị cho vay chiếm khoảng 30- 90% giá trị danh nghĩa của các hoá đơn thu tiền. + Huy động vốn vay bằng cách thế chấp hàng hoá: Hàng hoá cũng thường được sử dụng để thế chấp cho các khoản vay ngắn hạn, giá trị của khoản vay phụ thuộc vào giá trị thực của hàng hoá. Trong trường hợp chấp nhận cho vay, ngân hàng phải tính đến tính chất chuyển đổi của các tài sản thành tiền và tính ổn định về giá cả của hàng hoá đó. b.2. Vay dài hạn. Vay dài hạn là hình thức huy động vốn bằng cách đi vay các tổ chức tài chính dưới dạng hợp đồng tín dụng và doanh nghiệp phải hoàn trả khoản vay theo lịch trình đã thoả thuận. Sử dụng nguồn vốn vay dài hạn thường được trả vào các thời hạn định kì với các khoản tiền bằng nhau, đó là sự trả dần khoản vay cả gốc và lãi trong suốt thời hạn vay. Loại giao dịch này rất linh hoạt vì người vay có thể thiết lập lịch trả nợ phù hợp với dòng thu nhập của mình. Lãi suất của nguồn vốn vay dài hạn được áp dụng theo hai cách, tuỳ theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Lãi suất cố định: Là lãi suất không biến đổi theo biến đông của thị trường. Được áp dụng khi người vay tiền muốn có hợp đồng cố định và không lo lắng trước những biến động của thị trường. Lãi suất cố định căn cứ vào mức độ rủi ro và thời gian đáo hạn của khoản vay. Lãi suất thả nổi: Là lãi suất có thể thay đổi theo sự biến động của thị trường. Lãi suất thả nổi được thiết lập dựa trên phần trăm lãi suất ban đầu ổn định cộng với tỷ lệ phần trăm nào đó tuỳ thuộc vào mức rủi ro có liên quan đến khoản vay. c. Huy động vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận để lại. Lợi nhuận để lại là phần lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi đã nộp các khoản cần thiết và trích lập các quỹ của doanh nghiệp. Huy động vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận giữ lại là hình thức tài trợ nội bộ. Đối với công ty cổ phần quyền lợi của các cổ đông bao gồm phần cổ tức chia hàng năm và phần tăng giá trị cổ phiếu trên thị trường. Các cổ đông chỉ chấp nhận mở rộng qui mô công ty khi quyền lợi của họ không bị ảnh hưởng. Với phương thức huy động vốn từ lợi nhuận để lại các cổ đông không bị chia sẻ quyền kiểm soát công ty và họ thể hưởng toàn bộ cổ tức tăng thêm và chênh lệch giá cổ phiếu. Một công ty khi thực hiện phương thức huy động vốn từ lợi nhuận để lại, phải đặt ra mục tiêu có một khối lượng lợi nhuận đủ lớn để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.Việc tái đầu tư có thể thực hiện bằng cách ghi tăng giá trị sổ sách của cổ phiếu từ đó làm tăng thị giá cổ phiếu hoặc phát hành thêm cổ phiếu thường và cổ đông sẽ nhận cổ phiếu thay bằng nhận thu nhập dưới dạng cổ tức. Đối với một doanh nghiệp không phải là một công ty cổ phần, lợi nhuận để lại sẽ được tăng cường vào quỹ đầu tư và phát triển. Không như các quỹ khác, nguồn vốn từ quỹ đầu tư phát triển sẽ tiếp tục tham gia vào quá trình sản xuất trực tiếp mang lại lợi nhuận mới cho doanh nghiệp. Tựu chung lại, một doanh nghiệp nếu muốn huy động vốn theo phương thức này phải thực sự làm ăn có lãi, đạt đến mức lợi nhuận để lại cao. Lợi nhuận thể hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời là cơ hội cho doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng hoạt động của mình trong thời gian tới. d. Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Trái phiếu là một công cụ vay nợ trung và dài hạn, phát hành trái phiếu là phương thức huy đông vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp. Phát hành trái phiếu tức là doanh nghiệp đã tăng nợ trong tổng nguồn vốn của mình, trên trái phiếu có ghi đầy đủ các yếu tố: mệnh giá, thời hạn và lãi suất.Có nhiều loại trái phiếu, mỗi loại có đặc điểm riêng, căn cứ vào đó doanh nghiệp lựa chọn và quyết định phát hành loại trái phiếu nào là phù hợp. d.1. Trái phiếu có đảm bảo và trái phiếu không có đảm bảo. Trái phiếu có đảm bảo: Là một loại trái phiếu được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp. Tài sản đảm bảo thường là các bất động sản, trong một số trường hợp có thể là nhà xưởng hay những thiết bị sản xuất đắt tiền. Khi phát hành trái phiếu có đảm bảo, doanh nghiệp có trách nhiệm duy trì, giữ gìn tài sản đảm bảo ở tình trạng tốt nhất. Một tài sản có thể đảm bảo cho nhiều lần phát hành trái phiếu nhưng tổng tất cả các trái phiếu không thể lớn hơn giá trị tài sản. Loại trái phiếu này đem lại độ an toàn khá cao cho trái chủ. Trái phiếu không có đảm bảo: Đây là loại trái phiếu được sử dụng phổ biến ở các doanh nghiệp. Nó không được bảo đảm bằng bất cứ loại tài sản nào nhưng nó được bảo đảm bằng thu nhập tương lai và giá trị thanh lý của các tài sản doanh nghiệp theo thứ tự ưu tiên theo luật phá sản. d.2. Trái phiếu có qui định khác nhau về lãi suất. Trái phiếu trả theo thu nhập: Là trái phiếu mà tiền lãi chỉ được trả khi doanh nghiệp làm ăn có lãi. Khi lợi nhuận thấp hơn tiền vay thì trái chủ chỉ nhận được tiền trả bằng thu nhập đó, số tiền thiếu được chuyển sang năm sau, tuỳ theo thoả thuận qui định trong khế ước vay. Đối với doanh nghiệp thì loại trái phiếu này có ưu điểm là rất linh hoạt, phù hợp với doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính. Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu phổ biến nhất, trên mặt trái phiếu ghi rõ lãi suất và không thay đổi trong suốt kì hạn của nó. Trái phiếu có lãi suất thả nổi: Loại trái phiếu này phù hợp cho việc huy động vốn trong thời kỳ nền kinh tế không ổn định, lãi suất trên thị trường biến động liên tục. Lãi suất của loại trái phiếu này phụ thuộc vào lãi suất cơ bản, thông thường lấy lãi suất của trái phiếu kho bạc làm chuẩn và được điều chỉnh sau khoảng thời gian nhất định theo qui định. d.3. Trái phiếu có thể thu hồi sớm. Phát hành trái phiếu có thể thu hồi sớm tức là trái phiếu mà công ty có thể mua lại trước khi đáo hạn, trong trường hợp đó người mua sẽ không nhận được lãi đáo hạn. Loại trái phiếu này được qui định rõ về thời gian, giá cả khi công ty mua lại ngay từ khi phát hành. d.4. Trái phiếu có thể chuyển đổi. Trái phiếu có thể chuyển đổi là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định cổ phiếu thông thường. Trái phiếu này có ưu điểm nổi bật sau: Trái phiếu có thể chuyển đổi có thể đem lại cho trái chủ cơ hội kiếm được lợi nhuận cao. Khi giá cổ phiếu tăng trái chủ có thể đổi trái phiếu lấy cổ phiếu vừa được hưởng lợi do tăng giá vừa được hưởng lãi cổ phần. Do vậy trái chủ chấp nhận mức lãi suất thấp của trái phiếu chuyển đối hơn là trái phiếu thông thường. Điều này rất có lợi cho những doanh nghiệp cho những doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính. Nếu giá trị cổ phiếu sẽ giảm trong thời gian gần đây và sẽ tăng trong thời gian tới mà công ty muốn tăng vốn cổ phần, thì trái phiếu có thể chuyển đổi là công cụ huy động vốn hữu hiệu, vì doanh nghiệp vừa phải trả chi phí thấp vừa không tốn chi phí phát hành cổ phiếu thường. Tuy nhiên nếu giá cổ phiếu không tăng thì sự chuyển đổi không xảy ra và doanh nghiệp phải trả một mức lãi suất cao hơn lãi suất thông thường. Các công ty ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường phát hành những chứng khoán kèm theo các điều kiện có thể chuyển đổi. Sự chuyển đổi đó có thể đem lại cho công ty một phương thức huy động vốn thích hợp. Công cụ để tiến hành hình thức này là giấy đảm bảo, giấy đảm bảo thường được phát hành kèm với các cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu theo phương thức bán trọn gói để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Thực chất giấy đảm bảo là một tờ giấy mà người sở hữu nó có thể mua một lưọng cổ phiếu thường với giá cả và thời gian được qui định trước.Khi giá thị trường của cổ phiếu cao hơn so với mức giá ghi trên giấy đảm bảo thì người sở hữu giấy đảm bảo có quyền mua cổ phiếu của công ty tại mức giá thấp hơn đó, ngược lại nếu giá trên thị trường của cổ phiếu cao thấp hơn giá ghi trên giấy đảm bảo thì giấy đảm bảo không có ý nghĩa. Đây là một hình thức tăng tính hấp dẫn để huy động vốn của công ty, nó giúp công ty huy động vốn dễ dàng hơn. Khi tiến hành phát hành trái phiếu để huy động vốn, doanh nghiệp phải lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện của mìmh và tình hình thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu phù hợp là quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu, từ đó, nó sẽ ảnh hưởng đến số lượng vốn có thể huy động được và lợi nhuận của doanh nghiệp. e. Tín dụng thuê mua. Tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản, máy móc thiết bị. Thuê mua là sự thoả thuận theo hợp đồng được kí kết giữa hai hay nhiều bên có liên quan đến một hay nhiều tài sản, trong đó người cho thuê ( chủ sở hữu tài sản) chuyển giao tài sản cho người thuê ( người sử dụng tài sản) được sử dụng trong một khoảngthời gian nhất định và người thuê phải trả cho người cho thuê một khoản tiền thuê tương xứng với quyền sử dụng. Tín dụng thuê mua có hai phương thức chủ yếu: e.1. Thuê vận hành. Thuê vận hành là một thoả thuận mà theo đó người cho thuê chuyển cho người thuê quyền sử dụng tài sản trong một thời gian để lấy tiền thuê. Trong hình thức thuê vận hành người ta không dự kiến là quyền sở hữu tài sản sẽ được chuyển giao khi hết thời hạn thuê và thông thường người thuê chỉ sử dụng tài sản một của thời kì hữu ích của tài sản. Hết thời hạn thuê, bên thuê trả lại tài sản này cho người cho thuê. Thuê vận hành có hai đặc trưng chính: Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian hữu ích của tài sản, điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần thông báo trước một thời gian ngắn. Người thuê chỉ trả tiền thuê theo thoả thuận, người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản cùng với những rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản. Cho thuê vận hành thường hạn chế trong các tài sản có thời gian sử dụng lâu dài hoặc có một thị trường thiết bị cũ năng động. Người cho thuê vận hành thường hiểu biết rất rõ về tài sản cho thuê. e.2. Thuê tài chính. Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua lại tài sản từ người cho thuê. Trong nhiều trường hợp bên thuê có thể bán tài sản của mình cho người cho thuê rồi thuê lại. Trong hợp đồng thuê tài chính thì thời gian thuê chiếm phần lớn thời gian hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp các chi phi mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Một hợp đồng thuê tài chính thông thường được chia làm ba phần: Phần 1: Thời hạn thuê chính thức: Đây là khoảng thời gian quan trọng nhất của hợp đồng thuê, trong thời gian này các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng trừ trường hợp đặc biệt được cả hai bên chấp nhận. Hết thời hạn này hầu như người cho thuê đã thu hồi đủ số tiền đầu tư ban dầu. Phần 2: Thời gian thuê tự chọn: Là khoảng thời gian mà người thuê có thể tiếp tục thuê tài sản với chi phí thuê rất thấp. Phần 3: Thực hiện giá trị còn lại: Bên cho thuê sẽ bán thanh lý tài sản Trong hợp đồng thuê tài chính, các chi phí cũng như các rủi ro của tài sản do bên thuê chịu tương tự như như các tài sản mà công ty mua sắm. f. Vốn liên doanh, liên kết hoặc sát nhập các doanh nghiệp nhỏ thành một doanh nghiệp lớn: Liên doanh là một hoạt động mà trong đó hai hay nhiều bên cùng góp vốn để kinh doanh và thu lợi nhuận và chịu trách nhiệm, rủi ro trong phạm vi góp vốn. Huy động vốn bằng hai hình thức này có ưu điểm giúp cho doanh nghiệp tranh thủ được vốn, nhân công, kinh nghiệm của các đối tác để thực hiện sản xuất, kinh doanh nhưng có nhược điểm là phải phân chia thành quả hoạt động, nhiều khi không thống nhất được mục tiêu quan điểm, có thể dẫn đến “ tan vỡ” liên doanh. g. Tín dụng thương mại : Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp có thể sử dụng tài trợ bằng cách mua chịu, mua trả chậm hay trả góp của các nhà cung cấp. Phương thức này thường gọi là tín dụng của nhà cung cấp hay còn gọi là tín dụng thương mại. Trong bảng cân đối kế toán của công ty nó thể hiện ở khoản mục "phải trả người bán". Công cụ để thực hiện tín dụng thương mại là các kỳ phiếu, hối phiếu và các hợp đồng kinh tế. Tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và thông dụng trong kinh doanh. Một mặt nó là một phương thức huy động vốn của doanh nghiệp, mặt khác nó còn tạo cho doanh nghiệp khả năng mở rộng các mối quan hệ hợp tác lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể được qui định khi hai bên kí kết hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung, tuy nhiên tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại bộc lộ rõ ràng khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn. Qui mô của khoản tín dụng này phụ thuộc vào thời gian mua chịu, tức là phụ thuộc vào tính chất kinh tế của sản phẩm, tình trạng tài chính của người bán, tình trạng tài chính của người mua, và giảm giá hàng bán trên thị trường. h. Các nguồn khác: Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, nguồn vốn được thể hiện trong khoản mục phải nộp và phải trả công nhân viên chiếm tỷ trọng không lớn và cũng không đóng vai trò quan trọng lắm. Tuy nhiên trong một thời điểm nào đó nó cũng có thể giúp doanh nghiệp giải quyết những nhu cầu vốn mang tính chất tạm thời. Các khoản phải nộp và phải trả của doanh nghiệp bao gồm: - Các khoản thuế phải nộp nhưng chưa nộp. - Các khoản phải trả cán bộ công nhân viên nhưng chưa đến kỳ chưa trả. - Các khoản đặt cọc của khách hàng. - Phải trả cho các đơn vị nội bộ. Chương II thực trạng huy động vốn ở công ty cổ phần xây dựng miền tây II.Giới thiệu chung: Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây đã chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang Công ty cổ phần theo quyết định số 999/QĐ-BGTVT ngày 16/04/2004 của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải và bắt đầu hoạt động chính thức vào ngày 23/07/2004 theo con dấu, mã số thuế và tài khoản mới. Công ty CPXD Miền Tây tiền thân là Công ty xây dựng Miền Tây được thành lập theo quyết định số 2409/QD-GTVT của Bộ giao thông vận tải. 10 năm qua là trang sử đẹp với công ty CPXD Miền Tây, sự hình thành và duy trì phát triển cũng mang đậm nét riêng của Ban xây dựng 64 nay là Tổng công ty XDCTGT 8 – Bộ Giao thông vận tải. Vùng đất Tây Bắc do điều kiện địa hình và xa các trung tâm kinh tế văn hóa đòi hỏi sự phát triển để tiến kịp miền xuôi. Bộ chính trị có nghị quyết 22/BCT, Thủ tướng chính phủ có quyết định 72/CP về phát triển kinh tế xã hội miền núi. Nhận thức rõ chủ trương này, liên hiệp các xí nghiệp giao thông 8( nay là Tổng công ty XDCTGT 8) đã cử một ban đại diện Tây Bắc và đây chính là tiền thân của công ty xây dựng Miền Tây. Tổng công ty đã cử các cán bộ lên giúp đỡ và đề nghị Bộ giao thông vận tải cho phép thành lập công ty xây dựng Miền Tây và Bộ đã có quyết định thành lập số 2409 QĐ/TCCB-LB ngày 21/11/1994. Như vậy điều kiện về tư cách pháp nhân đã có, công ty đã sử dụng hình thức lấy ngắn nuôi dài, vận động các thành phần đem vốn vào thi công đẻ phát triển dần công ty. Ngoài gần 10 công trình tại Sơn La đặc biệt là nhà khách Tỉnh và đường Mai Sơn – Tà - Hộc, tiến tới phát triển lên tỉnh Lai Châu và một số công trình ở các tỉnh khác như Hà Tĩnh, Yên Bái, Nam Định... Đến cuối năm 1989 Đảng và nhà nước có chủ trương sắp xếp và tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước thành các loại hình doanh nghiệp khác chỉ giữ lại một số DN lớn thuộc ngành chủ chốt với mục đích tăng hiệu quả hoạt động và khẳng định vị trí then chốt của thành phần kinh tế nhà nước.Đồng thời huy động các nguồn lực đang nằm trong dân để nâng cao sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Hưởng ứng sự đổi mới này công ty chính thức chuyển công ty cổ phần xây dựng Miền Tây. Đây thực sự là bước chuyển lớn trong lịch sử hình thành và phát triển của công ty. Việc cổ phần hóa đã thay đổi hình thức sở hữu công ty, nếu như trước đây công ty thuộc sở hữu nhà nước thì hiện nay người lao động là chủ sở hữu của công ty, tất cả cùng chung mục đích là làm công ty lớn mạnh, đời sống người lao động được cải thiện và nâng cao. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, do yêu cầu quản lí và phù hợp với nền kinh tế thị trường và sự phát triển của đất nước, ngày 23/03/2004 Công ty chính thức đổi thành công ty cổ phần xây dựng Miền Tây trực thuộc của Tông công ty công trình giao thông 8 của Bộ giao thông vận tải. Công ty đã chính thức có con dấu riêng và là một pháp nhân độc lập. Công ty : cổ phần xây dựng miền tây. Trụ sở : Mã số thuế : 0100109081-1 Văn phòng đại diện : Tại Lai Châu : 2 người Tại ban điều hành ở Sơn La: 2 người Công ty có chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là nhận thầu thi công xây các công trình dân dụng, xây dựng các loại công trình giao thông như: làm nền, mặt đường bộ, các loại cầu vừa và nhỏ, các công trình thoát nước... 2.1. Tổ chức bộ máy Quản lý và hoạt động của công ty 2.1.1 Đặc điểm về cơ cấu bộ máy. Căn cứ vào nhiệm vụ chức năng, đặc điểm của quá trình sản xuất kinh doanh, tính phức tạp của kỹ thuật cũng như tiêu chuẩn của quá trình thi công mà công ty CPXD Miền Tây thành lập cơ cấu quản lí trực tuyến, tổ chức định biên và nhiệm vụ trong phòng ban lãnh đạo và các phòng ban, đơn vị sản xuất của công ty hiện nay theo sơ đồ số 01 2.2.2. Tổ chức bộ máy Quản lý của công ty. BAN KIểM SOáT BAN GIáM Đốc ĐH Phòng KHKT - TT Phòng VTTB Phòng TCKT Văn phòng đại diện Điện Biên Phòng TCCB-LĐ Phòng Hành Chính Xí nghiệp XDCT Số 1 Đội XDCT Số 1 Đội XDCT Số 7 Đội XDCT Số 8 Đội XDCT Số 9 Đội XDCT Số 11 Đội XDCT Số 15 Đội XDCT Số 18 Đội XDCT Cầu Trạm BTN ASPHALT Hội đồng quản trị Sơ đồ tổ chức công ty cổ phần xây dựng miền tây 2.2.1.Ban Giám đốc: a, Giám đốc công ty. - Chịu trách nhiệm toàn diện về kết quả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty theo quy định của pháp luật. - Trực tiếp phụ trách các công tác sau: + Tổ chức cán bộ – Lao động, Kế hoạch – Kỹ thuật, Tài chính – Kế toán, Vật tư – Thiết bị. + Phụ trách khối cơ quan văn phòng công ty. b, Các Phó giám đốc công ty. * Nhiệm vụ chung của các Phó giám đốc: - Giúp giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Giám đốc phân công thực hiện. - Thay mặt Giám đốc giải quyết các công việc được Giám đốc giao và ủy quyền. - Chịu trách nhiệm về công tác điều hành và hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, hợp đồng kinh tế và hợp đồng giao nhận khoán. * Trách nhiệm và quyền hạn cụ thể: - Trách nhiệm cụ thể: + Chỉ đạo các Phòng, Ban, Đơn vị sản xuất phối hợp nhằm điều hành sản xuất các công trình theo đúng tiến độ, chất lượng, an toàn lao động và hiệu quả. + Tổ chức nghiệm thu, thanh toán và bàn giao công trình với chủ đầu tư. + Trực tiếp phụ trách các công trình. . Đ/C Nguyễn Văn Bảo: Phó giám đốc thường trực phụ trách các công trình thuộc khu vực Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Dự án R4 và B4 cũ, Yên Bái cũ. . Đ/C Nguyễn Văn Hương: phụ trách các công trình khu vực Yên Bái, Lào Cai, Đường 7, Đường 20, Đường Xuyên á, Dự án B4( giai đoạn 2), Lai Châu – Mường Tè cũ. - Quyền hạn: + Duyệt phương án tổ chức thi công, kế hoạch tiền vốn, kế hoạch vật tư thiết bị, lao động tại các công trình được phân công phụ trách căn cứ vào hợp đồng kinh tế A-B, hợp đồng giao khoán của công ty. + Kí kết các hợp đồng kinh tế, các văn bản của công ty theo ủy quyền của Giám đốc. + Thay mặt Giám đốc giải quyết các công việc với chủ đầu tư, ban quản lí, tư vấn giám sát và các cơ quan hữu quan... + Phối hợp với chủ đầu tư và các cơ quan liên quan tổ chức nghiệm thu, thanh toán, bàn giao công trình. 2.2.2 Các phòng ban công ty: 2 2.2.1. Phòng tổ chức cán bộ, lao động và tiền lương * Nhiệm vụ : - Xây dựng quy chế quản lý cán bộ, quy hoạch cán bộ tham mưu cho giám đốc và cấp uỷ về công tác sắp xếp, bố trí, điều động cán bộ, tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ… - Phối hợp cùng các phòng ban tổ chức sắp xếp các mô hình sản xuất phù hợp nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty qua từng thời kỳ và điều lệ quản lý đầu tư XDCB của nhà nước. Phân tích, đánh giá mô hình cơ cấu sản xuất trong đó có biện pháp phát triển, sát nhập, giải thể để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ sản xuất. - Thực hiện chế độ chính sách của Đảng, nhà nước đối với người lao động - Thực hiện chế độ báo cáo của công ty, báo cáo cấp trên - Kiểm tra, theo dõi thực hiện việc trả lương, thưởng cho người lao động. - Quản lý và đề ra các qui chế tiền lương, tiền thưởng, kiểm tra việc thực hiện an toàn lao động, nội qui lao động tập thể của người lao động. - Tổ chức nâng lương, nâng bậc, thi thợ giỏi… cho người lao động. Thực hiện chế độ thi đua khen thưởng, kỷ luật hàng năm đối với CBCNV. - Căn cứ vào một số nhiệm vụ cơ bản đó, định biên phòng TCCB_TL gồm 4 người và phân công nhiệm vụ chủ yếu như sau, trong quá trình thực hiện căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất phòng sẽ xem xét, sửa đổi bổ sung cho phù hợp. a. Trưởng phòng: Dương MạnhThắng, năm sinh 1964 – kỹ sư KTXD, Cầu đường ) - Tham mưu đề xuất cho cấp uỷ,ban giám đốc công ty về bố trí, sắp xếp, đề bạt, công tác nâng lương, nâng bậc, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo…đối với CBCNV - Xây dựng các quy chế quản lý cán bộ, tiền lương, đề xuất phương án tách nhập, giải thể các đơn vị sản xuất phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh và sự phát triển chung trong toàn công ty, tổng công ty và xã hội - Xây dựng chiến lược phát triển chung và dài hạn về công tác cán bộ và lao động - Nghiên cứu các văn bản, qui phạm pháp luật, luật, điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng… ể đưa ra các mô hình sản xuất, cơ cấu sản xuất phù hợp, hợp lý. - Tổ chức biên soạn các tài liệu, văn bản hướng dẫn về công tác cán bộ lao động, tiền lương, an toàn lao động. Đồng thời bồi dưỡng, hướng dẫn cho cán bộ chuyên môn nghiệp vụ cấp dưới các công tác nghiệp vụ b. Cán bộ phụ trách về định mức lao động và tiền lương: - Xây dựng được định mức lao động chi tiết, định mức lao động tổng hợp cho đơn vị sản phẩm theo qui định của nhà nước , ngành, định mức nội bộ áp dụng cho công ty - Lập quỹ tiền lương, xây dựng đơn giá tiền lương đồng thời tổ chức triển khai, giao đơn giá tiền lương cho các đơn vị thực hiện, cân đối và điều chỉnh thực hiện quỹ lương theo từng thời kỳ - Kiểm tra, kiểm soát duyệt tiền lương cho các đơn vị sản xuất và người lao động - Phối hợp với các phòng ban chuyên môn theo dõi bổ sung, sửa đổi định mức lao động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ sản xuất từng thời kỳ, từng địa bàn thi công - Làm báo cáo với cơ quan cấp trên về tình hình thực hiện định mức lao động, tiền lương và thu nhập thực hiện từng thời kỳ một cách đầy đủ, chính xác. - Lập sổ theo dõi tình hình thực hiện tiền lương hàng năm, từng loại công trình để có cơ sở phân tích đánh giá. Đồng thời tổ chức mạng lưới báo cáo thống kê, hướng dẫn phương pháp làm việc của cán bộ cấp đơn vị đảm bảo thông tin báo cáo được nhanh, đầy đủ, chính xác. - Tính toán theo dõi thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, ăn ca đối với người lao động và văn phòng công ty. - Nắm vững đầy đủ, kịp thời chính xác số lượng CBCNV, tiền lương thực hiện trong từng thời điểm và có số liệu báo cáo chính xác khi cần thiết của từng đơn vị sản xuất trong công ty. - Thực hiện chế độ kiểm tra tình hình thực hiện tiền lương và các chế độ khác của các đơn vị, theo dõi đôn đốc các đơn vị báo cáo thống kê về công tác TCCB - LĐ - TL - Kiểm tra, giám sát và chịu trách nhiệm về chi phí lao động tiền lương tại một số đơn vị được phân công phụ trách c. Cán bộ làm công tác chế độ chính sách, BHXH, BHYT, HĐLĐ và quản lý hồ sơ - Theo dõi và nắm vững đầy đủ danh sách trích ngang CBCNV trong công ty - Lập kế hoạch mua BHXH, BHYT hàng năm - Thực hiện các chế độ đối với người lao động như : nghỉ hưu, mất sức lao động, thôi việc, TNLĐ… - Tập hợp và thanh toán chế độ: ốm đau, thai sản trong toàn công ty. - Làm sổ lao động, sổ BHXH, thẻ BHYT cho CBCNV - Theo dõi HĐLĐ, quyết định, hồ sơ, lưu trữ công văn, công tác y tế. - Đôn đốc kiểm tra các đơn vị thực hiện HĐLĐ - Soạn được các công văn hướng dẫn thực hiện luật lao động, chế độ BHYT, BHXH… về công tác lao động. - Báo cáo đầy đủ chính xác số lượng CBCNV: hợp đồng ngắn hạn, dài hạn, đề xuất các phương án thanh lý hợp đồng lao động khi hết hạn - Theo dõi, đề xuất công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật CBCNV trong toàn công ty. - Kiểm tra, giám sát và chịu trách nhiệm về chi phí lao động tiền lương tại một số đơn vị được phân công phụ trách d. Cán bộ chuyên trách công tác BHLĐ: - Căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty lập kế hoạch về BHLĐ hàng năm trình giám đốc công ty và báo cáo cấp trên. - Triển khai việc thực hiện công tác ATVSLĐ và mạng lưới an toàn viên đến các đơn vị - Kết hợp với các phòng ban chuyên môn xây dựng biện pháp, qui định, qui chế về BHLĐ và người lao động thực hiện - Lập và kiểm tra việc thực hiện các văn bản hướng dẫn về công tác BHLĐ đI kèm với biện pháp tổ chức thi công của các công trình và đơn vị sản xuất. Thường xuyên bám sát hiện trường để kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện an toàn lao động ở các đơn vị, đội sản xuất. - Kiểm tra, giám sát việc cung cấp và sử dụng trang thiết bị BHLĐ trong đơn vị và người lao động. - Đề xuất các biện pháp đảm bảo an toàn trong sản xuất và nêu ra được các biện pháp xử lý kỷ luật với các trường hợp vi phạm - Tổ chức và làm các thủ tục điều tra khai báo khi TNLĐ xảy ra, đồng thời đề xuất phương án thực hiện chế độ với người bị TNLĐ. - Kết hợp với các phòng chức năng để đăng kiểm, đăng ký các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động. - Bảo quản và lưu giũ hồ sơ, văn bản thuộc diện quản lý và báo cáo công ty và cấp trên tình hình thực hiện an toàn lao động - Kiểm tra, giám sát và chịu trách nhiệm về chi phí lao động tiền lương tại một số đơn vị được phân công phụ trách 2.2.2.2: Phòng vật tư – thiết bị - Tổ chức, quản lý sử dụng, bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị, xe máy trong toàn công ty - Theo dõi, quản lý, cân đỗi vật tư, vật liệu cho từng công trình (từ khâu ký kết hợp đồng, sử dụng vật tư, vật liệu, từ giá cả đến số lượng thực hiện và thời gian thực hiện) Trên cơ sở đó thực hiện quyết toán vật tư trong các kỳ theo quy định của công ty. - Xây dựng hệ thống định mức nội bộ về tiêu hao nhiên liệu cho từng loại xe máy, thiết bị về tỷ lệ vật liệu, vật tư công trình. Trên cơ sở đó tổng kết, đánh giá hiệu quả sử dụng xe máy, thiết bị cũng như vật tư, vật liệu ở các công trình. - Tham mưu cho lãnh đạo công ty về đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị - Tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho công nhân chuyên nghiệp như thợ vận hành máy thi công, công nhân lái xe , công nhân sửa chữa. a. Trưởng phòng : Nguyễn Hữu Huyên, sinh năm 1965 – Kỹ sư cơ khí nông nghiệp – Phó phòng phụ trách - Tổ chức chỉ đạo công tác quản lý thiết bị, vật tư trong toàn công ty như xây dựng qui chế nội bộ, định mức nội bộ, định ngạch bảo dưỡng sửa chữa… - Giám sát thực hiện các công tác quản lý vật tư, thiết bị thông các cán bộ giúp việc, từ khâu tìm nguồn hàng, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng trong công tác cung ứng vật tư, vật liệu, công tác bảo dưỡng, sửa chữa xe máy thiết bị. - Tham mưu cho lãnh đạo công ty về các hợp đồng mua bán vật liệu, vật tư, về đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ. Đề nghị điều chỉnh hoặc điều chỉnh trong phạm vi quyền hạn được giao những điều trái với quy định hiện hành của công ty, nhà nước và chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định của mình. - Tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho công nhân chuyên nghiệp b. Phó phòng: Nguyễn Thế Cường, sinh năm 1957 – Kỹ sư kinh tế vận tải – Phó phòng VTTB - Trực tiếp làm công tác quản lý vật tư, thiết bị trong toàn công ty. Lập kế hoặch cung ứng vật tư, vật liệu, tìm nguồn hàng, tham mưu cho phòng và lãnh đạo công ty ký kết các hợ đồng mua bán vật tư, vật liệu và theo dõi việ thực hiện các hợp đồng đó. - Tổng kết, dánh giá hiệu quả sử dụng vật tư, vật liệu, nguyên nhiên liệu và quá trình khai thác thiết bị tại các công trường phát hiện các sai phạm trong các quá trình trên - Tham gia đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho công nhân chuyên nghiệp - Chịu trách nhiệm cá nhân về công việc của mình. Thay thế trưởng phòng khi cần thiết c. Thống kê - Lập các bảng biểu báo cáo công ty, tổng công ty đúng thời hạn đảm bảo chất lượng. - Theo dõi, tổng hợp các báo cáo về vật tư, thiết bị của các đơn vị trong toàn công ty - Phối hợp với phòng TCKT đối chiếu giá trị tàI sản, vật tư, vật liệu, phụ tùng… hàng kỳ - Lưu trữ số liệu, viết hoá đơn xuất nhập d. Nhân viên kỹ thuật, mua sắm - Kiểm tra, lên phương án sửa chữa, phục hồi các thiết bị hư hỏng bất thường. Đồng thời lập kế hoạch bảo dưỡng định kỳ cho cac s thiết bị, báo cáo cho lãnh đạo phòng, công ty một cách kịp thời, chính xác. - Cùng thợ sửa chữa khắc phục những hư hỏng nhỏ - Giám sát việc thực hiện bảo dưỡng định kỳ cũng như các hợp đồng sửa chữa - Mua sắm vật tư, phụ tùng và chịu trách nhiệm cá nhân về các công việc này 2.2.2.3: Phòng hành chính (2 người) a. Trưởng phòng : Hoàng Văn Hiếu, năm sinh 1947 – Trung cấp LĐ - TL - Phụ trách chung, thảo công văn qui chế của văn phòng, theo dõi điều động xe đi công tác - Theo dõi tham mưu sửa chữa các thiết bị đồ điện bị hư hỏng - Theo dõi tham mưu sửa chữa nhà cửa bị hư hỏng dột nát - Theo dõi và phụ trách toàn bộ hệ thống điện của văn phòng, cơ quan b. Văn thu: - Quản lý con dấu, vào sổ công văn, lưu trữ, tiếp nhận công văn đến và gửi công văn đi các nơI khi giám đốc và các phòng van ngiệp vụ yêu cầu - Quản lý máy phô tô, máy điện thoại đường dài - Quét dọn phòng, phục vụ nước cho ban giám đốc, đảng uỷ, công đoàn và các cuộc họp, hội nghị - Theo dõi và mua văn phòng phẩm, đặt báo cho văn phòng công ty - Mua sắm và theo dõi vật rẻ mau hỏng phục vụ cho văn phòng làm việc - Thanh toán tiền điện thoại hàng tháng, tiền điện làm việc và sinh hoạt của công ty - Đánh máy các văn bản cho lãnh đạo và đoàn thể, đảng uỷ công đoàn và một số công việc khác. 2.2.2.4: Phòng kế toán tài chính. * Nhiệm vụ: - Tổng hợp các số liệu, thông tin về công tác tài chính kế toán, thực hiện việc xử lí thông tin trong công tác hạch toán theo yêu cầu thể lệ tổ chức kế toán nhà nước. * Định biên: - Kế toán trưởng. - Kế toán chi tiết và theo dõi công nợ. - Kế toán tiền lương, BHXH và TSCĐ. - Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành. - Kế toán ngân hàng Để phù hợp với cơ cấu tổ chức của công ty và quản lí tốt công tác kế toán, bộ máy kế toán ở công ty được tổ chức theo hình thức kế toán tập trung. Theo hình thức này mọi công việc hạch toán được tập trung về phòng kế toán của công ty. ở các tổ đội thi công chỉ có nhân viên kinh tế thu nhận chứng từ nộp về phòng kế toán của công ty để xử lý hạch toán. Nói chung bộ máy kế toán tại công ty gọn nhẹ, đơn giản nhưng hoạt động có hiệu quả, đảm bảo sự chỉ đạo sâu sát của Kế toán trưởng kết hợp với việc tạo điều kiện cho nhân viên kế toán nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn hóa từng phần. Phòng kế toán bao gồm: a. Kế toán trưởng: - Tổ chức công tác kế toán và bộ máy kế toán phù hợp vơi sản xuát kinh doanh của công ty theo yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý, không ngừng cải tiến tổ chức bộ máy và công tác kế toán. - Tổ chức quản lí chi phí, tính toán và phản ánh chính xác trung thực, kịp thời, đầy đủ toàn bộ tài sản, vốn và phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. - Tinh toán và trích nộp đúng, đủ, kịp thời các khoản nộp Ngân sách, nộp cấp trên, các quĩ để lại công ty và thanh toán đúng hạn các khoản tiền vay, các khỏa công nợ phải thu, phải trả. - Lập đầy đủ và đúng hạn các báo cáo kế toán và quyết toán công ty theo chế độ qui định. - Tổ chức kiểm tra kế toán trong nội bộ công ty. - Tổ chức phổ biến và hướng dẫn thi hành kịp thời các chế độ Tài chính kế toán của nhà nước và qui định trên về công tác tài chính kế toán cho các đơn vị trong công ty. - Tổ chức bảo quản, lưu giữ các tài liệu kế toán của công ty. b. Kế toán chi tiết và theo dõi công nợ: - Kiểm tra chứng từ vào sổ sách chi tiết các tài khỏa, tiểu khoản theo mẫu biểu qui định. - Hàng tháng đối chiếu với kế toán tổng hợp số dư các tài khoản lên báo biểu chi tiết phuc vụ công tác quyết toán tài chính. - Theo dõi công nợ các khoản phải thu, phải trả gồm: + Phải thu chủ đầu tư. + Phải thu nội bộ. + Phải thu khác. + Phải trả cho thầu phụ và người bán. + Phải trả khác. - Theo dõi kê khai thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp. c. Kế toán tiền lương, BHXH và TSCĐ: - Theo dõi tính lương của CBCNV văn phòng công ty theo quy chế trả lương của công ty. - Theo dõi các khoản tiền thưởng của công ty. - Theo dõi việc trích nộp và thu BHXH, BHYT, KPCĐ trong năm. - Theo dõi TSCĐ gồm: + Tình hình tăng giảm TSCĐ. + Trích khấu hao TSCĐ. + Sửa chữa lớn TSCĐ. d. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: - Kiểm tra chứng từ, vào sổ sách tổng hợp các tài khoản tháng, quý, năm. - Lên báo cáo biểu quyết toán quý, 6 tháng và cả năm đúng thời hạn gửi cấp trên và các cơ quan nhà nước. - Hướng dẫn, kiểm tra và tập hợp về chứng từ chi phí, sổ sách của các đội sản xuất đảm bảo chứng từ hợp lý, hợp lệ, hợp pháp theo chế độ tài chính kế toán qui định. - Theo dõi các khoản phải nộp ngân sách và cấp trên. - Đôn đốc thu thập chứng từ các đội sản xuất theo định kỳ. - Tập hợp, phân tích chi phí trực tiếp, gián tiếp, chi phí chung lên bảng tính giá thành công trình, tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. e. Kế toán Ngân hàng, thủ quỹ: - Thủ quỹ tiền mặt: quản lý tiền mặt căn cứ vào chứng từ hợp pháp, hợp lệ để tiến hành nhập, xuất và ghi sổ quỹ. - Kế toán ngân hàng: theo sự chỉ đạo của Giám đốc và kế toán trưởng, tiến hành các thủ tục để vay vốn của ngân hàng. Theo dõi số vốn đã vay, thời hạn trả lãi và gốc, lập phiếu thu, phiếu chi, tổng hợp các chứng từ gốc hàng ngày, tháng, quý, năm. * Tổ chức công tác kế toán tại công ty. Để đảm bảo việc tổ chức kế toán phù hợp với quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, công ty cổ phần xây dựng Miền Tây đã lựa chọn hình thức kế toán Chứng từ – Ghi sổ. Chứng từ kế toán công ty áp dụng theo chế độ hiện hành. Sổ sách kế toán của công ty gồm các loại như sau: + Chứng từ ghi sổ. + Nhật kí – sổ cái. + Sổ quỹ. + sổ kế toán chi tiết. Chứng từ gốc Sổ quỹ Bảng tổng hợp chứng từ gốc Chứng từ ghi sổ Sổ chi tiết Nhật kí – Sổ cái Bảng cân đối số phát sinh Báo cáo tài chính Bảng tổng hợp chi tiết 2.2.2.5: Phòng kế hoạch – kỹ thuật – tiếp thị (5 người) a. Trưởng phòng : Nguyễn Quang Trung, sinh năm 1969 – kỹ sư đường bộ - Chịu trách nhiệm chung trong toàn phòng và trước lãnh đạo công ty về các hoạt động nghiệp vụ của phòng - Căn cứ nhiệm vụ của phòng và năng lực cán bộ bố trí công việc phù hợp - Triển khai các chủ trương của cấp trên, các nhiệm vụ ban giám đốc giao đến các cá nhân trong phòng, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện. - Tổ chức việc xây dựng kế hoạch sản xuất của công ty, đơn giá giao khoán, xây dựng định mức lao động nội bộ, kế hoạch tổ chức thi công, kế hoạch vay vốn sản xuất các công trình và trình ban giám đốc duyệt. - Định kỳ kiểm tra công trường và thực hiện kế hoạch sản xuất của đội thi công. Tập trung ý kiến của phòng và của đội, đề xuất với ban lãnh đạo công ty các giải pháp kỹ thuật, các biện pháp đẩy nhanh tiến độ thi công, nghiệm thu thanh toán … - Tổng hợp các báo cáo kế hoạch và thực hiện kế hoạch tháng, quý, năm trình ban giám đốc công ty - Tham gia công tác tiếp thị chung của công ty. Tổ chức và phân công cán bộ trong phòng lập hồ sơ sơ tuyển, hồ sơ đấu thầu, có thể tham gia thực tiếp hoặc một phần công tác đấu thầu. b. Cán bộ thống kê kế hoạch - Chủ biên các tài liệu bồi dưỡng tay nghề công nhân, tham gia tổ chức lớp học bồi dưỡng và kiểm tra sát hạch nâng bậc cho công nhân kỹ thuật cầu đường - Nghiên cứu và đề xuất việc mua, phổ biến các quy trình công nghệ mới, tài liệu mới thuộc phạm vi chuyên môn trong toàn công ty - Nghiên cứu ký và nắm chắc các hợp đồng kinh tế, hồ sơ dự toán các công trình đã và đang thi công - Làm công tác thống kế, tổng hợp báo cáo kế hoạch hàng tuần, tháng, năm. Dự thảo các mẫu biểu báo cáo và hướng dẫn thực hiện. Tổng hợp các tài liệu liên quan đến sản lượng, doanh thu công ty, sẵn sàng đáp ứng khi có yêu cầu - Hàng tháng đi hiện trường kiểm tra tiến độ thực hiện chất lượng công trình và kiểm tra tính xác thực của báo cáo - Tham gia xây dựng các báo cáo kế hoạch năm, kế hoạch tác nghiệp cho từng công trình theo sự chỉ đạo của trưởng phòng - Trực tiếp làm công tác thanh toán lại. Cung cấp các số liệu liên quan đến sản lượng, doanh thu cho các bộ phận liên quan với sự đồng ý của phụ trách phòng - Chịu trách nhiệm về các số liệu sản lượng, doanh thu, giúp đỡ trưởng phòng trong việc lập kế hoạch vay vốn sản xuất của đội sản xuất - Quản lý và lưu trữ hồ sơ, tài liệu kế hoạch kỹ thuật, phát hành các hồ sơ thiết kế kỹ thuật phục vụ cho đội thi công khi có sự đồng ý của trưởng phòng. Lưu trữ toàn bộ tài liệu liên quan đến công tác đấu thầu. Chuẩn bị sẵn các hồ sơ giới thiệu năng lực của công ty và cung cấp cho bộ phận làm hồ sơ thầu hay các địa chỉ cần tiếp thị theo sự chỉ đạo của giám đốc công ty thông qua phòng nghiệp vụ - Tham gia đoàn kiểm tra kết quả sản xuất kinh doanh của công ty tới các đội sản xuất theo định kỳ 3 tháng, 6 tháng, 1 năm - Tham gia một phần công tác lập hồ sơ đấu thầu theo sự phân công cụ thể trong phòng - Theo dõi chấm công nội bộ phòng, hàng tháng lập kế hoạch văn phòng phẩm, nhận và cấp phát. c. Cán bộ kế hoạch kỹ thuật: 3 người - Tham gia xây dựng đơn giá khoán các công trình chuẩn bị triển khai thi công - Trực tiếp làm công tác nghiệm thu khối lượng, tính toán giá trị, thanh toán giá trị xây lắp hoàn thành với các chủ đầu tư. - Trực tiếp tham gia công tác đấu thầu, tiếp thị, tính toán, hoàn chỉnh hồ sơ đấu thầu theo quy định, nộp hồ sơ… - Soạn thảo các văn bản nghiệp vụ trong phòng: hợp đồng kinh tế, thanh lý hợp đồng , phiếu bàn giao nhiệm vụ, công văn liên quan tới chủ đầu tư, đội sản xuất, phòng nghiệp vụ khác… theo nhóm công trình được phân công - Tham gia công tác thanh toán lại - Làm công tác thống kê báo cáo trong phạm vi những công trình đựơc phân công phụ trách. - Giám sát kỹ thuật, chất lượng, đôn đốc tiến độ công trình. Thường xuyên báo cáo về phòng nghiệp vụ tình hình thực hiện tiến độ, các đề nghị xử lý kỹ thuật, xin ý kiến chỉ đạo của công ty nhằm thực hiện kế hoạch sản xuất đề ra. - Kết hợp với đội sản xuất lập phương án tổ chức thi công công trình. Rà soat hiệu chỉnh trong quá trình thi công cho phù hợp với thực tế. - Chịu trách nhiệm về chất lượng và tính kỹ thuật của công trình với tư cách giám sát kỹ thuật nhà thầu - Chịu trách nhiệm về các khối lượng thực hiện và dự kiến thực hiện của đội thi công báo về. Thường xuyên bám sát hiện trường kiểm tra xác nhận khối lượng báo cáo của đội sản xuất về công ty. - Theo dõi, thống kê năng xuất thực tế của máy móc, nhân công, định mức vật tư phục vụ cho tính toán hồ sơ đấu thầu, xây dựng định mức nội bộ, xây dựng đơn giá giao khoán - Đề xuất các giải pháp xử lý kỹ thuật, các biện pháp cải tiến lao động. Trực tiếp soạn thảo các tài liệu bồi dưỡng nâng cao tay nghề công nhân 2.2.2.6: Các ban điều hành công trình, văn phòng đại diện a. Văn phòng đại diện tại Lai Châu : 02 người b. Ban điều hành công trình tại Sơn La : 02 người 2.2.2.7: Các đội sản xuất - Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các đội sản xuất, bộ máy gián tiếp đội gồm các thành phần chủ yếu sau : + Đội trưởng + Đội phó – kỹ thuật + Kế toán + Cán bộ vật tư - Nhiệm vụ: trực tiếp thực hiện thi công các công trình xây dựng theo dự toán thiết kế kỹ thuật đã duyệt trong hợp đồng xây dựng công trình, đảm bảo chất lượng tiến độ. 2.2.3: Nhận xét chung Bộ máy của công ty được bố trí theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Đặc điểm của cơ cấu trực tuyến chức năng là sự điều hành theo phương pháp hành chính mệnh lệnh, mọi quyết định đưa ra từ trên xuống dưới và giám đốc là người đưa ra các quyết định, các phòng ban triển khai thực hiện quyết định. Vì công ty là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên áp dụng và bố trí theo cơ cấu này là hợp lý. Giải quyết công việc theo hệ đường thẳng, cho phép sự phân công lãnh đạo theo tính chất công việc, các phòng ban phụ trách từng mảng vấn đề và trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, thực hiện công việc chịu sự chi phối của cấp trên.Vì vầy chưa tạo được tính linh hoạt đối với cấp dưới trong công việc. 2.2. Thực trạng huy động vốn ở công ty 2.3.1.Tình hình huy động vốn của công ty trong những năm qua. Để đánh giá được tình hình huy động vốn, trước tiên ta đi nghiên cứu về kết cấu tài sản – nguồn vốn của công ty : Tình hình biến động tài sản và nguồn vốn của công ty tương đối rõ nét, tổng tài sản của công ty thấp nhất là năm 1998 (53.176.259.866đ) và cao nhất là năm 2000 (103.395.957.410đ). Mức độ chênh lên đến 50.219.697.544đ, sự biến động này là khá lớn, mà ta cần phải đi sâu vào nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó tiến hành điều chỉnh, đảm bảo sự phù hợp và điều kiện sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, và để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Bảng cân đối kế toán. Đơn vị tính: VNĐ Tài sản 1998 1999 2000 1 2 3 4 A.TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 30.780.753.667 38.325.668.680 70.546.596.523 I. Tiền 1.040.484.479 3.820.356.146 3.017.192.088 + Tiền mặt tại quỹ 604.106.228 646.189.291 1.021.470.569 + Tiền gửi ngân hàng 436.378.251 3.156.166.855 1.995.721.519 + Tiền đang chuyển 0 0 0 II.Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 0 0 0 III. Các khoản phải thu 16.636.899.797 14.258.900.946 39.703.069.909 1. Phải thu của khách hàng 15.505.149.615 12.836.987.702 35.317.857.251 2. Trả trước cho người bán 25.360.000 13.636.300 340.631.906 3. Thuế GTGT được khấu trừ 678.450.544 2.261.687.543 4. Phải thu nội bộ 0 0 0 5. Các khoản phải thu khác 1.106.390.182 729.826.400 1.782.839.209 IV. Hàng tồn kho 9.674.784.294 17.060.423.804 23.545.327.995 1. Hàng mua đang đi đường 0 0 0 2. Nguyên liệu, vật liệu 1.596.484.204 2.579.867.133 2.371.265.553 3. Công cụ dụng cụ trong kho 714.735.845 446.461.824 382.074.497 4. Chi phí SXKD dở dang 5.941.082.338 13.038.472.958 18.864.445.773 5. Thành phẩm tồn kho 1.422.481.907 995.621.889 1.927.542.172 6. Hàng hoá tồn kho 0 0 0 7. Hàng gửi bán 0 0 0 8. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho 0 0 0 V. ứng trước và trả trước 3.428.585.097 3.203.987.784 4.281.006.531 1. Tạm ứng 1.313.626.868 713.435.436 1.522.134.143 2. Chi phí trả trước 2.114.958.229 2.196.795.658 2.683.192.788 3. Chi phí chờ kết chuyển 0 271.621.185 53.544.095 4. TàI sản thiếu chờ xử lý 0 22.135.505 22.135.505 B. TSCĐ và đầu tư dài hạn 22.395.506.199 24.824.426.819 32.849.360.887 I.TSCĐ 19.324.585.716 19.259.111.046 30.280.906.388 1. TSCĐ hữu hình 47.292.585.381 19.259.111.046 30.280.906.388 + Nguyên giá 47.024.691.591 63.398.531.051 + Giá trị hao mòn luỹ kế(*) 27.738.580.545 33.117.624.663 2. TSCĐ thuế tài chính 0 0 0 3. TSCĐ vô hình 406.394.000 406.394.000 406.394.000 + Nguyên giá 406.394.000 406.394.000 406.394.000 + Giá trị hao mòn luỹ kế(*) II.Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 2.169.991.975 2.490879.101 2.521.609.347 1. Đầu tư CK dài hạn 0 0 0 2. Góp vốn liên doanh 2.169.991.975 2.490879.101 2.521.609.347 III. chi phí đầu tư XDCB dở dang IV. Các khoản ký quỹ ký cước dài hạn 0 0 0 Tổng cộng tài sản 53.176.259.866 63.150.095.499 103.395.957.410 Nguồn vốn 1998 1999 2000 Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn Vay ngắn hạn Nợ dài hạn đến hạn trả Phải trả cho người bán Người mua trả tiền trước Thuế và các khoản phải nộp Phải trả công nhân viên Phải trả nội bộ Phải trả phải nộp khác II. Nợ dài hạn Vay dài hạn Nợ dài hạn khác III. Nợ khác Chi phí phải trả Tài sản thừa chờ xử lý Nhận ký quỹ ký cước dài hạn 39.465.194.255 39.457.969.403 6.480.279.240 0 1.241.894.536 718.918.963 1.011.059.617 659.088.656 19.847.443.049 3.499.285.342 0 0 0 7.224.852 7.244.852 0 0 51.561.225.461 51.561.225.461 12.513.738.956 0 14.766.496.936 2.704.930.564 1.124.182.213 775.151.759 13.523.851.687 6.152.873.353 0 0 0 0 0 0 0 91.285.449.888 79.045.461.793 18.372.688.641 0 26.300.586.250 9.251.796.756 1.641.795.133 1.401.751.425 15.979.269.438 6.097.574.150 12.239.988.095 12.239.988.095 0 0 0 0 0 Nguồn vốn chủ sở hữu Nguồn vốn- quỹ Nguồn vốn kinh doanh Chênh lệch đánh giá lại tài sản Chênh lệch tỷ giá Quỹ đầu tư phát triển Quỹ dự phòng tài chính Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc Lãi chưa phân phối Quỹ khen thưởng phúc lợi Vốn đầu tư XDCB 13.711.065.611 13.711.065.611 12.751.113.084 0 0 373.414.510 0 96.138.729 11.588.870.038 11.588.870.038 10.827.722.688 0 0 302.014.703 0 3.245.446 495.666.580 -39.779.379 0 12.110.507.522 12.110.507.522 9.834.000.631 0 0 452.773.462 30.151.752 18.321.316 1.476.494.717 289.765.644 0 Tổng cộng nguồn vốn 53.176.259.866 63.150.095.499 103.395.957.410 * Về tài sản Năm 1998, tổng tài sản là 53.176.259.866đ, trong đó, tài sản lưu động chiếm phần lớn có tỉ lệ 57,88%, tương đương với số tiền là 30.780.753.866đ. Còn TSCĐ chiếm tỉ trọng nhỏ hơn là 42,12% tương ứng với 22.395.506.199đ. Trong TSLĐ và ĐTNH,so với năm 1988, năm 1999 có tăng một chút ít về tỉ trọng(60,69% - 57,88% = 2,81%) còn về mặt lượng, cũng là một số không nhỏ (38.325.668.680 - 30.780.753.667 = 7.544.915.013đ) phần tăng này, tập trung chủ yếu vào tăng vốn bằng tiền, trong đó thì tiền gửi ngân hàng chiếm chủ yếu. Thứ hai là tăng hàng tồn kho, trong đó chủ yếu là tăng CF SX KD dở dang. Có thể nói, tài sản 1999 tuy tăng hơn năm 1998, nhưng tính hiệu quả của việc tăng này thì đi ngược lại vì tăng CF SX-KD dở dang (trong hàng tồn kho) có nghĩa là công ty đang bị ứ đọng vốn, điều này sẽ gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, đến giá thành, đến lợi nhuận... Đến năm 2000, có một sự thay đổi khá lớn trong tổng tài sản, lượng tài sản đã tăng 38,92% so với năm 1999, và về lượng tăng là 40.245.861.911đ. Nhìn một cách khái quát, việc tăng tổng tài sản chứng tỏ hoạt động SXKD đạt hiệu quả cao, như đã phân tích hiệu quả sử dụng vốn, thì tình hình tài chính năm 2000 rõ ràng khả quan hơn rất nhiều so với 1999, nó đánh dấu sự ổn định và phát triển. Nhìn chung, tình hình tài sản của công ty tuy còn đang biến động nhưng bắt đầu đi vào ổn định hơn, tuy nhiên, công ty cần phải chú trọng lưu tâm hơn nữa đến việc điều chỉnh các khoản phải thu, đến hàng tồn kho và đến TSLĐ khác, ba khoản này luôn chiếm tỉ trọng lớn và nó sẽ gây khó khăn nếu như không được quản lý và kiểm soát tốt. * Về nguồn vốn Năm 1998, Tổng nguồn vốn của công ty là 53.176.259.866đ, trong đó, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 25,78%, tương ứng với 13.711.065.611đ còn các khoản nợ phải trả là 39.465.194.255đ tức là 74,22%. Năm 1999, tổng nguồn vốn là 63.150.095.499đ, nhưng vốn CSH thì giảm xuống, kể cả về mặt số lượng (11.588.870.038đ) hay mặt tỉ lệ (18,35%). Như vậy, so với 1998, vốn CSH bị giảm đi (11.588.870.038 - 13.711.065.611 = -2.122.195.573đ) tức là giảm (-15,48%) còn 84,52% so với 1998, còn nợ phải trả lại tăng lên đến 12.096.031.206đ tương đương với 30,65%. Điều này là không tốt, vì vốn chủ sở hữu thể hiện khả năng độc lập về mặt tài chính của công ty, nếu quá thấp thì khả năng tự đảm bảo về tài chính thấp, do đó ảnh hưởng đến lòng tin của bạn hàng. Nguồn vốn chủ sở hữu giảm chủ yếu do giảm nguồn vốn kinh doanh (về cả vốn lưu động và vốn cố định). Đến năm 2000, vốn CSH có tăng lên chút ít so với 1999, về mặt lượng là 12.110.507.522đ, việc tăng này là do lãi chưa phân phối tăng lên. Nhưng tỉ trọng vốn CSH năm 2000 cũng chỉ chiếm 11,71% tổng nguồn vốn, nhưng nó cho thấy khả năng tự chủ của xí nghiệp về tài chính bắt đầu được tăng lên. Một vấn đề nữa trong nguồn vốn cần phải xem xét, đó là nợ phải trả, nhìn chung thì lượng này giữ vai trò chủ đạo trong nguồn vốn, và dù cho năm 2000 có tăng lên so với 1999, thì tỉ trọng của nó trong tổng NV vẫn chiếm gần 90%. - Phân tích tình hình huy động và sử dụng vốn của công ty : + Tình hình chung : Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây, vốn sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu được huy động từ các nguồn sau : - Nguồn ngân sách và Tổng công ty cấp. - Nguồn vốn tự bổ sung. - Nguồn vốn vay tín dụng Trong những năm qua tình hình huy động vốn của công ty như sau : Từ số liệu trong bảng 2.2.1.2 cho thấy : Về huy động vốn cố định : Nguồn vốn ngân sách và Tổng công ty cấp chiếm 28,5% năm 1998, 27% năm 1999 và đến năm 2000 chỉ còn có 5,7%. Điều đó cho thấy vốn ngân sách Nhà Nước ngày càng giảm, do đó gây ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của công ty. Vì vậy công ty cần phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để huy động đủ vốn cho hoạt đông sản xuất kinh doanh của mình So với năm 1998, năm 1999 tổng số vốn cố định đã giảm đi về số tuyệt đối là 1.530 triệu đồng và về số tương đối là - 23,5%. Cụ thể : nguồn vốn ngân sách và Tổng công ty ngày càng giảm, với mức giảm là 511 triệu đồng, tương ứng với - 27,5%. Nguồn vốn tự bổ sung cũng bị giảm 1.019 triệu đồng (- 21,9%). Qua số liệu phân tích cho ta thấy, năm 1999 công ty đã bị giảm nguồn vốn cố định, điều đó chứng tỏ việc huy động vốn không đạt hiệu quả. Đến năm 2000, tổng vốn cố định của công ty đã tăng vọt từ 4.974 triệu đồng lên 16.228 trtiệu đồng, lượng tăng là 11.254 triệu đồng, tương ứng 226,25%. Nguồn tăng này chủ yếu là do huy động từ nguồn vay tín dụng. Năm vừa qua nguồn ngân sách giảm 415 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 30,9%. Nguyên nhân là do không được cấp trên cấp vốn, mà ngày càng giảm đi. Bên cạnh đó nguồn vốn tự bổ sung cũng giảm, mức giảm là 570 triệu đồng (giảm 15,7%). Điều đó nói lên rằng năm vừa qua công ty làm ăn có chiều hướng đi xuống. Về huy động vốn lưu động Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh, các năm vừa qua công ty đã chủ động huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau : +Nguồn từ ngân sách và Tổng công ty : Như chúng ta đã biết nguồn vốn ngân sách ngày càng có xu hướng giảm, năm 1999 giảm so với năm 1998 là 339 triệu đồng tương ứng với -9,89%. Đến năm 2000 nguồn vốn ngân sách của công ty vẫn không thay đổi, chỉ đạt 3.581 triệu đồng. + Nguồn vốn tự bổ sung : So với năm 1998, năm 1999 nguồn vốn tự bổ sung của công ty giảm 1 triệu đồng, tương ứng giảm 0,04%. Điều đó chứng tỏ năm 1999 công ty hoạt động sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả. Khả năng tích luỹ còn thấp. Đến năm 2000 tình hình cũng không mấy sáng xủa. Vốn tự bổ sung chỉ tăng 1 lượng không đáng kể. Điều này cho thấy công ty cần có biện pháp tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh . + Vốn vay : So với năm 1998, năm 1999 số vốn lưu động vay tăng 1 lượng đáng kể : từ 6.480 triệu đồng lên 12.513 triệu đồng. Lượng tăng là 6.033triệu đồng tương ứng giảm 93,1%. Điều đó cho thấy rằng trong năm 1999 công ty đã mạnh dạn vay vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Đến năm 2000 nguồn vốn lưu động vay tăng so với năm 1999, giá trị tăng là 5859 triệu đồng (tăng 46,8%). Chứng tỏ năm 2000 vòng quay vốn lưu động lớn, hiệu quả sản xuất tăng. Như vậy trong năm 2000 khả năng huy động vốn của công ty có xu hướng tăng. + Tình hình VCĐ Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn cố định giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định quá trình đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, đồng thời là nhân tố cơ bản đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng. Gắn với đặc điểm kinh doanh của công ty chủ yếu là xây dựng các công trình xây dựng công nghiệp, dân dụng; các công trình giao thông cầu đường bộ, đường sắt,sân bay, bến cảng, các công trình thuỷ điện...nên vốn cố định chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh.(Bảng2.2.1.3 : Tình hình VCĐ năm 1998, 1999, 2000) Qua số liệu thực tế cho thấy vốn cố định năm 1999 giảm so với năm 1998 là 1.530 triệu đồng (giảm 23,5%).Chi tiết cụ thể, kết cấu của từng loại vốn cố định có những thay đổi theo xu hướng trái ngược nhau. + Đối với nguồn ngân sách và Tổng công ty : Giảm về mặt giá trị là 511 triệu đồng, tương ứng với số tương đối là -27,52% . Nguyên nhân giảm là do trích khấu hao. Trong khi nhà xưởng giảm 352,3 triệu đồng về mặt giá trị thì tỷ trọng cũng giảm 37,8%. Máy móc thiết bị giảm cả số tuyệt đối và số tương đối. Cụ thể về số tuyệt đối giảm 53,1 triệu đồng, số tương đối giảm –9,43%. Về phương tiện vận tải cũng giảm 105,6 triệu đồng về mặt giá trị và cả tỷ trọng cũng giảm –29,3%. + Đối với nguồn vốn tự bổ sung giảm cả về mặt giá trị 1.019 triệu đồng và cả về mặt tỷ trọng –21,9%. Nguyên nhân chủ yếu là do công ty làm ăn không mấy hiệu quả. Nguồn vốn tự bổ sung trong vốn cố định giảm sẽ gây khó khăn, mất cân đối trong cơ cấu vốn của công ty.Tuy nguồn vốn tự bổ sung giảm nhưng lượng tiền đầu tư vào máy móc thiết bị lại tăng lên, tỷ lệ tăng thêm là 73% (870,6 triệu đồng). Điều đó chứng tỏ công ty đã chu trọng vào việc đổi mới thiết bị máy móc nhằm đáp ứng nhu cầu của hoạt động SXKD. + Đối với nguồn vốn vay thì trong năm 1999 công ty không vay vốn cố định mà chỉ vay vốn lưu động. Qua phân tích ở trên cho thấy, tổng nguồn vốn cố định của công ty đã giảm xuống, nguồn vốn ngân sách và Tổng công ty ngày càng giảm mà không được bổ sung thêm. Đây cũng là một khó khăn đối với công ty, do vậy công ty cần sử dụng nhiều biện pháp để huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Đến năm 2000 tình hình huy động vốn cố định của công ty có chút sáng sủa, đạt 16.228 triệu đồng, tăng hơn so với năm 1999 là 11254triệu đồng (+ 226,25).Nguyên nhân là do năm 2000 công ty đã mạnh dạn vay vốn cố định để đầu tư vào SXKD. Chi tiét cụ thể được phản ánh như sau : + Đối với nguồn ngân sách và Tổng công ty : Giảm về mặt giá trị là 415 triệu đồng, tương ứng với số tương đối là -30,9%. Do nguồn vốn ngân sách không được bổ sung thêm mà có xu hướng ngày càng giảm, từ đó dẫn đến tình trạng thiếu vốn NSNN đầu tư vào máy móc thiết bị nên năm 2000 giảm so với năm 1999 là 35 triệu đồng, tương ứng với – 6,8%.Tình hình về phương tiện vận tải và nhà xưởng cũng giảm nhiều. + Đối với nguồn vốn tự bổ sung giảm cả về mặt giá trị 570 triệu đồng và cả về mặt tỷ trọng 15,7%. Cụ thể là : Đầu tư vào phương tiện vận tải giảm 192,5 triệu đồng (- 33,27%). Nhưng đầu tư vào nhà xưởng để mở rộng sản xuất lại tăng 35,7 triệu đồng (+3,6%). + Đối với nguồn vốn vay, năm 2000 công ty đã vay 12.239 triệu đồng để đầu tư vào mua sắm máy móc thiết bị và phương tiện vận tải.Điều đó cho thấy công ty rất quan tâm tới công tác đầu tư, nhằm kịp thời phục vụ cho các công trình trọng điểm của công ty. Đơn vị tính : 1.000.000 đ Nguồn : Báo cáo tài chính của công ty năm 2000 Qua việc phân tích tình hình huy động vốn cố định của công ty, ta thấy lượng vốn cố định của công ty qua các năm rất thất thường, có xu hướng giảm dần, do vậy công ty cần xây dựng cho mình một kế hoạch huy động và sử dụng vốn một cách hiệu quả thì mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường .` + Tình hình vốn lưu động : Thực hiện huy động VLĐ năm 2000 Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện Chênh lệch Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1. NS và TCT 3.581 15,5 3.581 13 0 0 2. Tự bổ sung 2.272 9,8 2.273 8,2 +1 0,04 3. Nguồn tín dụng 17.000 73,4 21.040 76,3 +4040 +23,76 4.Nguồn khác 315 1,3 702 2,5 387 +122.8 Tổng 23.168 100 27.596 100 + 4428 +19,1 Qua bảng số liệu ta rút ra nhận xét về tình hình huy động vốn lưu động của công ty như sau : So với kế hoạch, số VLĐ thực hiện tăng cả về mặt giá trị lẫn tỷ trọng, mức tăng là 4.428 triệu đồng (+ 19,1%). Đối với nguồn ngân sách và Tổng công ty, việc thực hiện đúng như kế hoạch đã đề ra về mặt giá trị, còn về tỷ trọng thì lại giảm, chỉ chiếm 13% trong tổng số VLĐ. Nguồn vốn tự bổ sung tăng so với kế hoạch về mặt giá trị là 1 triệu đồng, nhưng về tỷ trọng lại giảm (9,8 – 8,2 = 1,6%). Nguồn vay tín dụng : Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất tong cơ cấu VLĐ, chủ yếu là nguồn vay ngắn hạn ngân hàng. Nguồn VLĐ tín dụng kế hoạch là 17.000 triệu đồng chiếm 73,4%, thực hiện huy động được 21.040 triệu đồng, chiếm 76,3%. Như vậy thực tế huy động tăng 4040 triệu đồng tương ứng với 23,76%. Để bù đắp lại lượng thiếu hụt, công ty đã chủ động huy động vốn từ các nguồn khác như nguồn chiếm dụng hợp pháp... vì trong quá trình sản xuất kinh doanh cảu công ty có phát sinh các khoản nợ của các đơn vị khác, của công nhân viên trong công ty như tiền lương phải trả, phí tổn phải trả, thuế phải nộp nhưng chua đến hạn nộp...Song vì số nợ này thường xuyên và tương đối ổn định theo chế độ thanh toán quy định nên công ty có thể chiếm dụng dùng thường xuyên như một nguồn VLĐ. Đối với công ty cổ phần xây dựng Miền Tây, khoản chiếm dụng chủ yếu là các khoản phải trả coong nhân viên, các khoản phải trả cho khách hàng. Nguồn này so với kế hoạch tăng 387 triệu đồng (tăng 122,8%). Qua việc phân tích tình hình huy động VLĐ của công ty cổ phần xây dựng Miền Tây năm 2000, cho thấy nhu cầu vốn lưu động của công ty ngày càng lớn, trong khi đó nguồn vốn NSNN và nguồn vốn tự bổ sung lại không tăng, do đó công ty phải đi vay ngân hàng để có đủ vốn lưu động cho SXKD, vì vậy công ty cần sủ dụng nhiều biện pháp huy động VLĐ khác nhau nhằm đáp ưng đủ nhu cầu VLĐ của công ty trong thời gian tới cũng như sau này. 2.3.2.Đánh giá về tình hình huy động vốn ở công ty : Trong ba năm 1998, 1999, 2000 công ty cổ phần xây dựng Miền Tây đã thực sự vươn lên trên con đường phát triển, công ty đã gặt hái được những thành công lớn. Không chỉ hoàn thành những nhiệm vụ do Bộ xây dựng và Tổng công ty giao cho, công ty còn hướng tới thị trường bên ngoài, tự tìm kiếm những cơ hội mang lại cho công ty lợi nhuận. Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây được biết đến với các công trình lớn được Bộ xây dựng tăng bằng khen như: công trình nhà máy xi măng Bút Sơn, công trình thuỷ điện Yaly.. . Để đạt được những thành công đó, một trong các lý do là những thành tựu công ty đạt được trong công tác tạo nguồn và huy huy động vốn của mình. Những kết quả đó được ghi nhận như sau: Cơ cấu vốn ổn định với chi phí thấp: công ty đã tạo lập cho mình một cơ cấu vốn ổn định, đến năm 1999 100% vốn dài hạn là vốn chủ sở hữu, năm 2000 mới xuất hiện nguồn vốn vay dài hạn tuy nhiên tỷ trọng chưa cao, công ty đã tạo được sự ổn định về nguồn dài hạn, thêm vào đó cơ cấu này khẳng định quyền sở hữu Nhà nước đối với công ty ở mức cao nhất. Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây cũng như bất cứ doanh nghiệp Nhà nước nào cũng có thể sử dụng vốn chủ sở hữu lớn nhưng chỉ phải trả chi phí rất nhỏ ( nếu như thu sử dụng vốn được coi là chi phí vốn chủ sở hữu ),. công ty chỉ phải nộp với mức thu 0,4%/ tháng trên phần vốn ngân sách Nhà nước cấp cho công ty, phần vốn còn lại công ty không phải chịu chi phí mặc dù đó vẫn là vốn thuộc sở hữu ngân sách Nhà nước. Với những lợi thế do cơ chế tài chính doanh nghiệp mang lại tạo cho các doanh nghiệp Nhà nước huy động vốn chủ sở hữu với chi phí thấp, công ty đã tích cực bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận sau thuế. Vốn kinh doanh được bổ sung tăng liên tục trong 3 năm 1998, 1999, 2000 tạo điều kiện cho công ty mở rộng lĩnh vực hoạt động và đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Về nguồn vốn ngắn hạn: công ty cũng đã duy trì và hướng tới một xu hướng huy động các nguồn vốn an toàn và ổn định. Công ty đã sử dụng thế mạnh và mối quan hệ rộng rãi của mình để áp dụng các hình thức huy động vốn với chi phí thấp. Công ty đã đánh giá cao vai trò của nợ ngắn hạn trong tổng nguồn vốn của mình, sử dụng nợ ngắn hạn công ty có thể tài trợ cho các tài sản đáp ứng nhu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh và phải trả chi phí huy động rất thấp. Trong mối quan hệ mua bán rộng rãi với nhiều nhà cung cấp, công ty có khả năng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác thông qua hình thức tín dụng thương mại, người mua trả trước.. . công ty cũng tận dụng những nguồn vốn thực tế công ty không phải trả chi phí như: phải trả phải nộp khác, phải trả các đơn vị nội bộ. Với những nguồn này công ty đã sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn tức thời phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Công ty cũng đã phát huy được ưu thế trong mối quan hệ với các đơn vị nội bộ dù sự tận dụng đó còn tương đối nhỏ. 2.3.3. Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của công ty 2.3.3.1 Các nhân tố chủ quan : a.1. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp : Hiệu quả kinh doanh cũng là một yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng huy động của công ty. Để đánh giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh, có các chỉ tiêu kinh tế sau : Bảng 2.2.3: báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh phần I – báo cáo lãi lỗ Đơn vị :VNĐ STT Chỉ tiêu Mã số Năm 1999 Năm 2000 1 Tổng doanh thu bán hàng 1 64.343.451.923 114.525.201.550 2 Các khoản giảm trừ 3 4.386.620 9.949.232 Chiết khấu 4 Giảm giá 5 3.596.620 9.949.232 Giá trị hàng bán bị trả lại 6 790.000 3 Doanh thu thuần 7 64.339.065.303 114.515.252.318 4 Giá vốn hàng bán 10 59.315.848.679 105.609.896.771 5 Lợi tức gộp 11 5.023.216.624 8.905.355.547 6 Chi phí bán hàng 20 613.147.627 858.747.311 7 Chi phí QLDN 21 3.916.186.049 3.381.289.519 8 Lợi tức thuần tử HĐKĐ 22 493.882.948 4.665.318.717 Thu nhập HĐTC 30 415.941.781 43.646.220 Chi phí HĐTC 31 630.257.304 3.240.693.230 9 Lợi tức HĐTC 32 - 214.315.523 - 3.197.047.010 Các khoản TN bất thường 33 347.599.696 112.057.760 Chi phí bất thường 40 186.448.238 103.384.750 10 Lợi tức bất thường 41 161.151.458 8.223.010 11 Tổng lợi tức trước thuế 42 440.718.883 1.476.494.717 12 Thuế lợi tức phải nộp 43 13 Lợi tức sau thuế 50 440.718.883 1.476.494.717 Nguồn : Báo cáo tài chính năm 1999,2000 Lợi nhuận ròng 1.476.494.717 Chỉ số doanh = = = 0,122 lợi vốn chủ Vốn chủ 12.110.507.522 Đây là chỉ số mà doanh nghiệp quan tâm nhất bởi vì nó là mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp theo đuổi. Chỉ số này phải đạt mức sao cho doanh lợi trên vốn chủ đạt cao hơn tỷ lệ lạm phát và giá vốn. ở công ty cổ phần xây dựng Miền Tây, năm 2000 chỉ số này là 0,122, năm 1999 là 0,03 . Vậy đến năm 2000, một đồng vốn chủ sở hữu bỏ vào sản xuất kinh doanh đã mang lại cho công ty 0,122 đồng lợi nhuận sau thuế. Năm 1998, là một năm công ty hoạt động khá hiệu quả nên đến năm 1999 công ty đã giảm bớt được khoản phải trả cho nhà cung cấp, đồng thời, làm cho các bạn hàng tin tưởng hơn. Chính vì vậy mà trong năm 1999, vốn chủ sở hữu giảm xuống (11.588.870.038 – 13.711.065.611 = -2.122.195.573 đồng) nhưng tổng nguồn vốn lại tăng lên hơn so với năm 1998. Năm 1999 nguồn vốn chủ sở hữu giảm xuống vì hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm như đã phân tích ở trên, nhưng hiệu quả kinh doanh chỉ được đánh giá vào cuối năm, còn hoạt động đầu tư lại diễn ra từ đầu năm. Vì vậy, việc tăng nợ vay và giảm nguồn vốn chủ sở hữu là không có gì mâu thuẫn nhau. Đây là do nhân tố chủ quan và thuế VAT nên chưa quyết toán được hết như dự kiến. Hiệu quả SXKD có ảnh hưởng tới việc huy động vốn của công ty. Nếu kết quả SXKD mà thấp thì khó lòng thuyết phục được các nhà đầu tư hoặc các tổ chức tài chính cho vay vốn hay đầu tư vào công ty. a.2.Uy tín và quan hệ giữa công ty với các tổ chức tài chính : Mặc dù đã tạo được uy tín trên thị trường, có mối quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng TM, nhưng công ty vẫn chưa phát huy hết thế mạnh của các tổ chức tài chính trung gian nhằm khơi thông các nguồn vốn và huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để phục vụ nhu cầu phát triển... 2.3.3.2 Các nhân tố khách quan Sự phát triển của thị trường tài chính và các tổ chức tài chính : + Sự phát triển chậm của thị trường tài chính. Nói chung, ở Việt Nam, sự ra đời của TTCK còn là rất mới mẻ và xa lạ với hầu hết các doanh nghiệp. Hiện nay, sau 1 năm đi vào hoạt động nhưng thị trường chứng khoán không đạt hiệu quả cao. Số lượng công ty đủ điều kiện niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch là rất ít. Sự phát triển chậm của thị trường tài chính, của các tổ chức trung gian tài chính, làm hạn chế bớt cơ hội huy động vốn của công ty. Nếu như thị trường tài chính mà phát triển mạnh, tất yếu công ty sẽ dễ dàng tham gia phát hành trái phiếu hoặc thực hiện tín dụng thuê mua. + Tín dụng đang là nguồn vốn quan trọng nhất đối với công ty. Hiện nay việc huy động vốn từ nguồn này đang gặp phải những trở lực sau. Thứ nhất, thể lệ tín dụng qui định đơn vị vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc được bảo lãnh của người thứ ba đủ thẩm quyền, người được bảo lãnh phải thế chấp tài sản cho người bảo lãnh. Điều này làm cho nhiều công ty khó có thể vay được vốn từ ngân hàng nhất là vốn trung hạn và dài hạn. Đây không chỉ là ý kiến từ phía các DN mà cả của met số cán bộ tín dụng "nhận khoán" mức cho vay họ nói rằng trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp vay để xây dựng mới thì làm gì có tài sản để thế chấp. Thứ hai, để kiểm soát hoạt động tín dụng và lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Nhà nước qui định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở hạn mức tín dụng được duyệt ngân hàng thương mại phân phối hạn mức tín dụng cho các Tổ chức kinh tế (khách hàng) cả hai loại hạn mức tín dụng trên đều xây dựng cho met thời gian dài (thường là 1 năm) do vậy dù công ty có đủ các điều kiện vay vốn nhưng nếu hạn mức tín dụng không còn thì cũng không thể vay được vốn tín dụng ngân hàng. Thứ ba, chính sách lãi suất chưa thể hiện rõ vai trò là đòn bẩy kinh tế chưa thực sự điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Chính sách lãi suất có thay đổi nhưng thay đổi còn chậm so với biến động của giá cả. Hiện nay lãi suất ngắn hạn là 1%/ tháng lãi suất trung và dài hạn là 1,25%/ tháng. Mức lãi suất này vẫn còn cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận (khả năng sinh lời) của công ty cũng như nhiều DN, với mức lãi suất đó không mấy DN có thể vay đủ vốn của ngân hàng để sử dụng tiền vay có hiệu quả và trả nợ phần vay đúng hạn. Chính vì lãi suất đầu ra của ngân hàng cao nên hạn chế qui mô tín dụng, hạn chế khả năng vay vốn của công ty, trong khi đó công ty luôn ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Met nghịch lý khác là hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ huy động vốn ngắn hạn mà khước từ các khoản tiền gửi dài hạn trong khi nền kinh tế đang bị thiếu vốn dài hạn. Rút cuộc ngân hàng thương mại (NHTM) tồn một lượng khá lớn vốn ngắn hạn trong khi đó "mặt hàng" vốn dài hạn được nhiều doanh nghiệp vay mà không có. Thứ tư, năng lực và trình độ chuyên môn của met số cán bộ tín dụng trong các NHTM hiện còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới nền kinh tế nhất là các NHTM ở quận huyện, thủ tục cho vay vốn còn rườm rà đối với khách hàng và thường chậm chễ so với yêu cầu thời gian cần cấp vốn sản xuất kinh doanh. Các chính sách của Nhà Nước : Những khó khăn về cơ chế quản lý tài chính DN Nhà nước. Mặc dù, cơ chế quản lý tài chính ở DN đã được đổi mới rất nhiều nhưng vẫn còn một số tồn tại gây khó khăn cho việc huy động vốn của công ty. Cụ thể là: - Cơ chế quản lý tài chính hiện nay chưa xác định được rõ ràng quyền về tài sản, quyền sở hữu của doanh nghiệp đối với vốn. Cơ chế quản lý tài chính ở DN còn phức tạp rườm rà không tạo ra được tính linh hoạt trong hoạt động huy động vốn đặc biệt là sử dụng tài sản để thế chấp. - Việc Nhà nước qui định DNNN chỉ được huy động vốn với tổng mức dư nợ không vượt quá vốn điều lệ. Trong tình hình hiện nay điều này chưa phù hợp vì hiện nay việc huy động vốn bằng cách tăng vốn chủ sở hữu của DNNN là rất khó khăn do NSNN eo hẹp, tích luỹ từ hoạt động kinh doanh nhỏ doanh nghiệp chủ yếu huy động vốn bằng cách vay ngân hàng mà hiện nay nợ của DNNN đã vượt xa vốn tự có do đó nếu qui định tổng mức vốn huy động không được vượt quá vốn điều lệ thì rất ít DNNN có khả năng huy động được vốn. Đây cũng là một trong các nguyên nhân chủ yếu gây ra nghịch lý DNNN bị thiếu vốn trầm trọng, ngân hàng thừa hàng ngàn tỷ đồng. Đó là những nguyên nhân của tính bất cập trong công tác huy động vốn ở công ty cổ phần xây dựng Miền Tây Chương III một số kiến nghị nhằm huy động vốn đáp ứng nhu cầu SXKD của công ty 3.1. Nhu cầu vốn của công ty trong thời gian tới và khó khăn, thuận lợi trong việc huy động vốn của công ty : 3.1.1. Nhu cầu vốn của công ty trong thời gian tới Bước sang năm 2001 – năm đầu tiên của thế kỷ mới – thế kỷ của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển nhảy vọt, thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng đồng thời nó tác động sâu sắc tới sự phát triển về mọi mặt của Tôngr công ty nói chung và Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây nói riêng. Trước tình hình đó, để tiếp tục phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đáp ứng yêu cầu của thị trường công ty cổ phần xây dựng Miền Tây đã đặt ra cho mình mục tiêu, định hướng phát triển trong giai đoạn mới 2001 – 2005: - Xây dựng mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh hoàn chỉnh để có thể nhận thầu chính, tổng thầu đối với công trình có qui mô lớn, có kết cấu phức tạp với chất lượng cao. - Tập trung đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng lực của công ty trong lĩnh vực xây dựng các công trình thuỷ điện, xây dựng nhà cao tầng, các công trình hạ tầng xã hội, kết cấu hạ tầng kỹ thuật... Các mục tiêu này được cụ thể hoá qua các số liệu sau : Một số chỉ tiêu chủ yếu 5 năm 2001 - 2005 Đơn vị tính: triệu đồng TT Các chỉ tiêu chủ yếu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1 Tăng trưởng (%) 100 116 139 120 120 2 Tổng giá trị SXKD 145.000 151.100 210.400 251.900 301.900 3 Doanh thu 140.619 148.030 194.843 236.071 283.238 4 Vốn kinh doanh 60.866 78.247 102.865 124.153 129.434 5 Vòng quay VLĐ bq/năm 4,1 5 5 5 5,17 6 Nhu cầu VLĐ 32.766 35.815 49.915 60.613 65.022 7 Tổng giá trị đầu tư 19.300 23.800 23.000 25.000 15.000 7 Nộp ngân sách 1.874 2.334 4.987 6.778 8.161 8 Lợi nhuận 1.560 2.120 3.250 4.240 5.400 9 Lao động 1.206 1.350 1.600 1.800 2.000 10 Thu nhập bình quân(1000đ/người/tháng) 900 1.250 1.500 1.800 2.000 Nguồn : Nghị quyết của ban Thường vụ Đảng uỷ TCT - Công tác lập kế hoạch nhu cầu VLĐ định mức: Như chúng ta đã biết, VLĐ định mức tối thiểu có thể dự tính trước được, tuỳ theo đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành, tính chất sản xuất của từng doanh nghiệp mà cách thức xác định VLĐ định mức kế hoach là khác nhau. Đối với công ty cổ phần xây dựng Miền Tây, gắn liền với đặc điểm sản xuất kinh doanh là xây dựng các công trình thuỷ điện, xây dựng cầu đường...nên vốn lưu động định mức được xác định dựa trên doanh thu kế hoạch và số vòng quay VLĐ kế hoạch. Doanh thu kế hoạch được xác định căn cứ vào doanh thu thực hiện năm trước, khả năng ký kết các hợp đồng trong năm trên cơ sở cân đối với khả năng sản xuất và doanh thu. Từ doanh thu kế hoạch, công ty xác định tổng mức luân chuyển kế hoạch (doanh thu - thuế - chi phí khấu hao). Năm 2000, số vốn lưu động định mức được công ty xác định như sau: Mức luân chuyển kế hoạch VLĐ định mức = Số vòng quay kế hoạch + Doanh thu kế hoạch : 140.619.000.000 đ + Mức luân chuyển : 133.923.000.000.đ + Số vòng quay kế hoạch : 4,1 Vậy vốn lưu động định mức của công ty được xác định là : 133.923.000.000 Vđm = = 32.766.000.000 đ 4,1 Tóm lại, công ty áp dụng cách tính này thì việc xác định VLĐ định mức tương đối đơn giản giúp cho công ty nhanh chóng xác định được mức VLĐ cần thiết. Song kết quả chỉ mang tính tương đối, không sát với thực tế vì khó xác định cụ thể VLĐ định mức ở từng khâu, từng bộ phận. Trên cơ sở vốn lưu động định mức đã xác định được, công ty tiến hành xây dựng kế hoạch huy động vốn lưu động. Qua bảng ở trên cho thấy, nhu cầu vốn của công ty trong thời gian tới là rất lớn. Cụ thể năm 2001 cần một lượng vốn kinh doanh là 60.668 triệu đồng, trong khi đó đến cuối năm 2000 mới có 41.156 triệu đồng. Như vậy số vốn cần huy động thêm cho năm 2001 là (60.866 – 41.156 = 19.710 triệu đồng). Trong đó nhu cầu vốn lưu động của năm 2001 là 32.766 triệu đồng, mà hiện tại chỉ có 24.226 triệu đồng, thiếu 32.776 – 24.226 = 8.550 triệu đồng. Như vậy số vốn công ty cần huy động để đáp ứng nhu cầu của năm 2001 là rất lớn, do đó công ty phải sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp để huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. 3.1.2. Khó khăn, thuận lợi trong việc huy động vốn của công ty : a. Những khó khăn : Qua sự phân tích về sự phát triển của Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây không thể khẳng định công ty hoàn toàn không gặp khó khăn nào. Chỉ riêng về phía nguồn vốn, câu hỏi đặt ra là: Trong một thị trường xây dựng cạnh tranh gay gắt và sự vươn lên của tất cả các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, việc duy trì một nguồn vốn như vậy có đảm bảo cho công ty có đủ điều kiện để tiếp tục phát triển như hiện tại hay không? Sau đây là những phân tích chỉ rõ những khó khăn mà công ty cổ phần xây dựng Miền Tây đang gặp phải trong việc thiết lập nguồn vốn và công tác huy động vốn. Vì mới thành lập nên vốn cho sản xuất kinh doanh rất ít ỏi và hạn hẹp, nhất là vốn cố định, nhiều khi rất căng thẳng ảnh hưởng tới tiến độ và hiệu quả các công trình thi công. Mặt khác, địa bàn hoạt động của công ty phân tán, những công trình công ty đảm nhận hầu hết ở trên địa bàn xa xôi, hẻo lánh như : công trình thuỷ điện Yaly, công trình thuỷ điện Cần Đơn, dự án đường quốc lộ 10,quốc lộ 18, nhà máy xi măng Bút Sơn... do đó chi phí vận chuyển NVL đến tận nơi công trình lớn. Điều hành sản xuất cũng như sinh hoạt của CBCNV gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy công ty khó có thể giám sát quản lý vốn một cach chặt chẽ. Về quy mô, vốn của công ty thấp, khó có khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh trong cơchế mới, không đủ để đổi mới TSCĐ, cũng như đầu tư máy móc thiết bị.... a.1. Nguồn vốn còn đơn điệu và chứa nhiều rủi ro lớn. Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây có một cơ cấu vốn rất đơn điệu, xét trên cả tổng nguồn thì bao gồm cả nợ và vốn chủ sở hữu như bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhưng xét về nguồn dài hạn thì hầu như chỉ có vốn chủ sở hữu, nợ vay chiếm rất ít và đặc biệt đến năm 2000 mới xuất hiện nợ vay. Một danh nghiệp sử dụng nguồn vốn dài hạn là phần lớn vốn chủ sở hữu là quá rủi ro, khi khó khăn xảy ra thì người gánh chịu hoàn toàn thuộc về người chủ sở hữu. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh việc hướng tới một cơ cấu vốn có chi phí thấp là mục tiêu của bất kỳ một doanh nghiệp nào, nhưng nếu nhằm vào mục tiêu đó thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc hướng tới mục tiêu tăng trưởng, phát triển và lợi nhuận vì nếu chỉ cần huy động những nguồn vốn có chi phí thấp thì cơ hội mở rộng phát triển có thể bị bỏ qua, những lợi ích lâu dài không được tính đến. Tính đơn điệu được thể hiện như sau: Trong nguồn nợ phải trả, nợ ngắn hạn, công ty mới chỉ dành sự quan tâm đặc biệt của mình tới nguồn vốn được huy động dưới hình thức tín dụng thương mại. Cho dù nguồn tín dụng thương mại là phương thức tài trợ ngắn hạn phổ biến với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xây lắp như công ty cổ phần xây dựng Miền Tây, nhưng chỉ chú trọng đến nguồn này là chưa thoả đáng vì không phải nhà cung cấp nào cũng đồng ý bán chịu cho công ty. Như chúng ta đã biết, nguồn vốn vay ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường, ngân hàng được coi là bà đỡ của các doanh nghiệp.Trong những năm trước công ty đã không tận dụng nguồn vốn này một cách triệt để, thể hiện trong tổng nguồn là vốn vay ngân hàng rất thấp và chỉ có vay ngắn hạn. Trong quá trình huy động nợ vay chính công ty đã chuyển bớt rủi ro cho các chủ nợ, giảm rủi ro cho các chủ sở hữu doanh nghiệp. Việc không áp dụng được hình thức huy động vốn vay dài hạn là công ty chưa san sẻ được rủi ro của mình. Cho đến thời điểm này, công ty đã bắt đầu tận dụng những cơ hội đầu tư vào các dự án dài hạn thu được lợi nhuận cao hơn trong tương lai bằng nguồn vốn ổn định và có tính chủ động cao. Dù đây là nguồn vốn có chi phí vốn cao, nhưng trong tài chính doanh nghiệp đã kết luận rằng: “ việc sử dụng nợ ở một mức độ cao sẽ có tác động khuếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu”. Như vậy công ty có nên sử dụng nợ hay không? So với các doanh nghiệp khác, công ty cổ phần xây dựng Miền Tây có lợi thế đặc biệt hơn là có thể huy đông vốn trong nội bộ các thành viên công ty hay Tổng công ty. Nguồn vốn huy động có thể dưới hình thức vay nội bộ dưới các khoản “ phải trả các đơn vị nội bộ ”. Tuy nhiên công ty không coi đó là lợi thế của mình. Sử dụng nguồn vốn huy động từ các đơn vị nội bộ có ưu điểm là chi phí thấp, thậm chí có thể coi là không có chi phí, các điều kiện huy động không quá phức tạp và việc huy động được xét trên cả lợi ích chung của toàn hệ thống đến các đơn vị thành viên. Trên thực tế việc không huy động nguồn này cũng ít làm ảnh hưởng tới doanh thu và lợi nhuận mà công ty đạt được nhưng rõ ràng không tận dụng được là lãng phí, nếu sử dụng được nguồn đó cho hoạt động sản xuất kinh doanh trước hết sẽ mang lại những lợi ích tài chính nhất định và sau nữa là tạo cho công ty một cơ cấu nợ ngắn hạn đa dạng hơn. Việc công ty cổ phần xây dựng Miền Tây tăng cường sử dụng nguồn vốn chiếm dụng là phù hợp với điều kiện là một công ty làm việc trong lĩnh vực xây lắp. Những nguồn vốn chiếm dụng: phải trả người bán, người mua trả trước, phải trả phải nộp khác... có đặc điểm là luân chuyển rất nhanh, huy động các nguồn này công ty phải tính đến khả năng sẵn sàng thanh toán khi đến hạn. Theo nhận định mang tính chất kinh tế thì giữ tiền để đáp ứng khả năng thanh toán là đúng nhưng khi giữ quá nhiều tiền thì gây ra sự lãng phí vì tiền không bỏ vào kinh doanh thu lãi thì là vốn chết. Rõ ràng cân nhắc giữa việc giữ nhiều tiền mặt và cơ hội đạt được khi huy động vốn từ nguồn chiếm dụng thì chưa hẳn nguồn vốn chiếm dụng đã hoàn toàn là nguồn vốn tốt, nhưng đó lại là nguồn vốn có thể huy động nhằm đáp ứng nhanh chóng cho nhu cầu SXKD. Trong nguồn vốn chủ sở hữu công ty đã tích cực bổ sung nguồn vốn kinh doanh cũng như toàn bộ vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận sau thuế. Với số vốn ngân sách nhà nước cấp ban đầu còn nhỏ so với nhu cầu vốn của một công ty hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, công ty cổ phần xây dựng Miền Tây đã phải tăng cường bổ sung vốn kinh doanh để có thể mở rộng hoạt động của mình. Trên thực tế công ty thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty giao cho, công ty chưa có đủ điều kiện để bao thầu toàn bộ việc xây lắp các công trình lớn tự tìm kiếm, mà việc bao thầu đó vẫn dưới danh nghĩa Tổng công ty. Thêm vào đó, công ty chịu rủi ro lớn vì trong cơ cấu vốn chỉ có vốn chủ sở hữu, vốn vay ngắn hạn, đến năm 2000 mới có vốn vay dài hạn. Nếu tiếp tục tăng cường huy động vốn chủ sở hữu trong khi không huy động nợ dài hạn là lựa chọn rất mạo hiểm. Nhà nước có thể mất toàn bộ nếu công ty phá sản hay làm ăn không có lãi. Như vậy việc chủ động tăng cường huy động vốn chủ sở hữu chưa phải là phương thức huy động an toàn. a.2. Tỷ lệ vốn bị chiếm dụng cao. Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác và đồng thời cũng bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn. Thể hiện ở khoản phải thu của công ty tăng ngày càng nhanh và càng lớn hơn. Năm 1999, số vốn bị chiếm dụng là 14.258.900.946 đồng, thì đến năm 2000 là 39.703.069.909 đồng. Như vậy số vốn bị chiếm dụng mỗi năm chiếm khoảng 1/3 tổng nguồn vốn của công ty. Chấp nhận bị chiếm dụng vốn công ty sẽ bán được nhiều sản phẩm hơn và có khả năng tăng doanh thu của mình, nhưng bị chiếm dụng vốn quá lớn đôi khi là sự không hiệu quả. Vốn lưu động sinh lời trong quá trình luân chuyển, để vốn bị chiếm dụng quá lâu là công ty làm chậm sự luân chuyển của đồng vốn và làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn. Nguyên nhân chủ yếu là do chủ đầu tư (Bên A) chậm thanh toán các công trình. a.3.Khả năng thu hút vốn đầu tư của công ty so với nhu cầu đầu tư còn thấp : Ngoài các hình thức huy động truyền thống như vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng...thì vốn huy động bằng cách phát hành chứng khoán chưa được thực hiện. Nguồn vốn huy động bằng hình thức thuê, mua tài chính chưa phát huy triệt để, vốn tích luỹ và vốn ngân sách Nhà Nước chiếm tỷ trọng nhỏ, trong khi đó để đảm bảo sự phát triển bề vững thì công ty phải kết hợp nhiều hình thức huy động vốn khác nhau. Việc thực hiện tiến trình cổ phần hoá chậm đã làm giảm khả năng huy động vốn cho công ty và còn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế chung trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. a.4. Đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác tài chính của doanh nghiệp còn rất yếu về trình độ chuyên môn nhất là các nghiệp vụ huy động vốn mới như là tín dụng thuê mua, phát hành trái phiếu... b. Thuận lợi : Công ty cổ phần xây dựng Miền Tây tiền thân là một xí nghiệp thuộc tổng công ty xây dựng vinaconext, đã từng tham gia xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình nên có một đội ngũ CBCNV có trình độ chuyên môn cao, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của tổng công ty và của Nhà Nước giao cho. Bên cạnh việc được ngân sách Nhà Nước và Tổng công ty cấp vốn, công ty còn tạo được uy tín trên thị trường về chất lượng, giá trị cũng như thời gian thi công nên dễ dàng trong ký kết các hợp đồng đấu thầu cũng như trong công tác huy động vốn. Theo quyết định của HĐQT Tổng công ty thì công ty cổ phần xây dựng Miền Tây có quyền quản lý tài chính như sau :” Ngoài vốn NSNN và Tổng công ty, công ty có quyền tự huy động vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không thay đổi hình thức s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12800.DOC
Tài liệu liên quan