Đề tài Giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa của công ty dịch vụ thương mại số I (trasco)

Tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa của công ty dịch vụ thương mại số I (trasco): Mục lục lời mở đầu Mỗi quốc gia phát triển ổn định không thể tách rời hoạt động thương mại quốc tế. Giữa các quốc gia có sự trao đổi của thương mại quốc tế thông qua hành vi mua bán, hay là hành vi kinh doanh xuất nhập khẩu, hành vi mua bán này phản ánh mối quan hệ lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Thương mại quốc tế mang tính chất sống còn cho mỗi quốc gia vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, phát huy được lợi thế so sánh của một quốc gia so với các nước khác. Thương mại quốc tế thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội một cách hợp lý và tạo nên sự chuyên môn hoá trong nền sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả của nhiều ngành. Lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu là một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất xã hội, nó làm thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm và làm thay đổi hàng hóa lưu thông giữa các quốc gia. Bởi vậy, quan hệ mua bán quốc tế đã xuất hiện và trở nên quan trọng ở Việt Nam. Từ một nước nhập siêu mà chủ yếu qua con đường viện trợ thì nay đã vươn lên ...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa của công ty dịch vụ thương mại số I (trasco), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục lời mở đầu Mỗi quốc gia phát triển ổn định không thể tách rời hoạt động thương mại quốc tế. Giữa các quốc gia có sự trao đổi của thương mại quốc tế thông qua hành vi mua bán, hay là hành vi kinh doanh xuất nhập khẩu, hành vi mua bán này phản ánh mối quan hệ lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Thương mại quốc tế mang tính chất sống còn cho mỗi quốc gia vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, phát huy được lợi thế so sánh của một quốc gia so với các nước khác. Thương mại quốc tế thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội một cách hợp lý và tạo nên sự chuyên môn hoá trong nền sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả của nhiều ngành. Lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu là một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất xã hội, nó làm thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm và làm thay đổi hàng hóa lưu thông giữa các quốc gia. Bởi vậy, quan hệ mua bán quốc tế đã xuất hiện và trở nên quan trọng ở Việt Nam. Từ một nước nhập siêu mà chủ yếu qua con đường viện trợ thì nay đã vươn lên thành nước xuất khẩu và tiến tới cân bằng các cân thanh toán xuất nhập khẩu. Trong sự lớn mạnh của lĩnh vực xuất nhập khẩu của đất nước, các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu đóng vai trò rất quan trọng vì đó là các doanh nghiệp cấu thành nên hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh đó Công ty Dịch vụ Thương mại số I đã và sẽ góp phần không nhỏ trong quá trình mở rộng và tăng cường hiệu quả kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, cùng với sư giúp đỡ hướng dẫn của Thầy giáo, PGS,TS Hoàng Minh Đường và các cán bộ phòng nghiệp vụ 2, em đã chọn đề tài: “giai phap hoan thien hoat dong nhap khau hang hoa cua cong ty dich vu thuong mai so i (trasco)” làm chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần: Phần I: Cơ sở lý luận của hoạt động nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường. Phần II: Phân tích thực trạng nhập khẩu hàng hóa của Công ty Dịch vụ Thương mại số I. Phần III: Những giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Công ty Dịch vụ Thương mại số I trong những năm tới. Do trình độ kinh nghiệm có hạn, thời gian thực tập không nhiều, đồng thời đây cũng là vấn đề phức tạp nên chuyên đề này còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các cán bộ ở Công ty và đóng góp của những người có tâm huyết với vấn đề xuất nhập khẩu hàng dệt may và nguyên vật liệu chính cho sản xuất hàng dệt may. Em xin chân thành cảm ơn PGS, TS Hoàng Minh Đường và các cô chú phòng Nghiệp vụ II, Công ty Dịch vụ Thương mại số I đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Phần I Cơ sở lý luận của hoạt động nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường I. Vai trò của hoạt động nhập khẩu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. 1. Khái niệm nhập khẩu. Nhập khẩu là khâu cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế. Có thể hiểu nhập khẩu là sự mua hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc tái xuất khẩu nhằm thu lợi nhuận. Kinh doanh nhập khẩu là sự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các chủ thể thuộc các quốc gia khác nhau thông qua hành vi mua nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới, nó cũng quyết định sự sống còn của một nền kinh tế. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Hoạt động nhập khẩu nhìn chung có những vai trò chủ yếu sau: Thứ nhất, nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hóa nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, nghĩa là làm tăng mức sống của người dân. Đồng thời nhập khẩu làm tăng đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, cho phép thoả mãn nhu cầu một cách tốt hơn. Thứ hai, nhập khẩu góp phần vào việc đưa các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại của thế giới vào trong nước. Thông qua nhập khẩu các công nghiệp hiện đại. Các sáng kiến kỹ thuật sẽ được chuyển giao giữa các quốc gia, do đó nó tạo ra sự phát triển vượt bậc của các nhà sản xuất trong nước. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước kém phát triển. Thứ ba, nhập khẩu xóa bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt đề nền kinh tế đóng, chế độ tự cung tự cấp. Nhập khẩu các hàng hoá dịch vụ vào trong nước, nghĩa là làm cho nguồn cung cấp đa dạng hơn, do đó bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu, tình trạng độc quyền phải xoá bỏ. Thứ tư, nhập khẩu góp phần đẩy mạnh xuất khẩu. Thông qua nhập khẩu các máy móc thiệt bị nguyên vật liệu sẽ được nhập về, những yếu tố này sẽ nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm của xuất khẩu. Trên góc độ này, nhập khẩu đã góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh xuất khẩu. Thứ năm, nhập khẩu góp phần làm nâng cao hiệu qủa của nền kinh tế trong nước. Như chúng ta đã biết, nhập khẩu nhất thiết dẫn đến cạnh tranh trong nước và cạnh tranh sẽ là yếu tố quan trọng để thanh lọc các chủ thể kinh doanh kém hiệu qủa, đồng thời quá trình áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được thường xuyên hơn và có ý thức hơn. Thứ sáu, nhập khẩu đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của sản xuất và tiêu dùng, đặc biệt là đối với các hàng hóa quý hiếm hoặc hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được. Thông qua nhập khẩu, sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu sẽ dần dần được khắc phục. Nghĩa là nó góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra một cách thường xuyên, ổn định. Thứ bảy, nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được các lợi thế so sánh của quốc gia trên cơ sở chuyên môn hóa. * Đối với Việt Nam hiện nay, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội khắc phục những hậu quả của chiến tranh, các chiến lược quan liêu bao cấp thì ngoài những vai trò trên, nhập khẩu còn có những vai trò lớn như: + Nhập khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh vì hoạt động nhập khẩu cung cấp cho nền kinh tế 60%-100% nguyên nhiên vật liệu chính yếu, mặt khác nhập khẩu đem lại cho đất nước những công nghệ ở nhiều trình độ khác nhau. Phù hợp với từng vùng, từng địa phương và mỗi quy mô hay khả năng sản xuất nhất định, nhờ đó trình độ sản xuất được nâng cao, năng suất lao động tăng lên đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. + Nhập khẩu phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá, thúc đầy cơ giới hoá nông nghiệp, tác động đẩy mạnh thủy lợi hóa, sinh học hoá, phục vụ phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Thúc đẩy sự ra đời của công nghiệp lắp ráp điện tử, công nghiệp may mặc, phục vụ phát triển đa dạng các ngành nghề, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có gía trị cao. + Hoạt động nhập khẩu có vai trò trong việc cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân, bởi thông qua nhập khẩu sản xuất trong nước mới đủ nguyên liệu vật liệu, thiết bị máy móc hoạt động nên công nhân mới có công ăn việc làm, có thu nhập. Mặt khác nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhập sách báo khoa học và văn hóa sẽ góp phần nâng cao dân trí cho nhân dân. Như vậy hoạt động nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và có ý nghĩa quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu với mục đích thay thế những hàng hóa mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ. Hai là nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế đất nước. Trong đó cân đối trực tiếp các yếu tố của quá trình sản xuất (chủ yếu là đối tượng lao động và tư liệu lao động). Đó chính là vai trò quan trọng nhất của nhập khẩu. 3. Các hình thức hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Hoạt động xuât nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng thường chỉ tiến hành ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp. Do tác động của điều kiện kinh doanh, môi trường thực tế, sự sáng tạo của người kinh doanh mà đã tạo ra nhiều hình thức nhập khẩu đa dạng khác nhau. Dưới đây là một vài hình thức thông dụng đang được áp dụng trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước Việt Nam hiện nay như sau: a. Nhập khẩu uỷ thác: * Khái niệm nhập khẩu uỷ thác: Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu phải thông qua bên trung gian mà bên trung gian là người có quyền nhập khẩu trực tiếp để giao dịch ký kết với nước ngoài trên cơ sở hợp đồng uỷ thác. Hợp đồng nhập khẩu uỷ thác là hợp đồng hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoài tệ riêng và có nhu cầu muốn nhập khẩu một số loại hàng hóa nhưng lại không có quyền tham gia các hoạt động nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch trực tiếp và tiến hành nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài và làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa theo yêu câù của bên uỷ thác. Bên nhận uỷ thác sẽ được hưởng một phần thù lao được gọi là phí uỷ thác. * Nhập khẩu uỷ thác có những đặc điểm sau: -Bên nhận uỷ thác (doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu): Không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường do không phải tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất hay sự vi phạm hợp đồng. Khi nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác được hưởng một phần thủ lao gọi là chi phí uỷ thác trị giá từ 0.5% đến 1.5% tổng gía trị hợp đồng và phải nộp thuế thu nhập trên nguồn thu này, khi tiến hành nhập khẩu doanh nghiệp nhận uỷ thác chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính vào doanh số và nộp thuế giá trị gia tăng (VAT) trước đó là thuế doanh thu. b. Nhập khẩu trực tiếp. * Khái niệm nhập khẩu trực tiếp. Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp, trực tiếp nghiên cứu thị trường, tính toán chi phí, ký kết và thực hiện hợp đồng, chịu trách nhiệm về lỗ, lãi đảm bảo đúng phương hướng chính xác luật pháp quốc gia cũng như quốc tế. * Hoạt động nhập khẩu trực tiếp có những đặc điểm cơ bản như sau: + Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi mặt hoạt động, phải tự nghiên cứu thị trường, chịu mọi chi phí giao dịch, giao nhận lưu kho, quảng cáo, chi phí tiêu thụ hàng hóa và chịu thuế GTGT. + Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu sẽ được tính doanh số và doanh số đó phải chịu thuế GTGT. + Thông thường doanh nghiệp chỉ cần một hợp đồng với bên nước ngoài (bên nhập khẩu) còn hợp đồng bán hàng trong nước thì có thể lập khi hàng về hay khi tìm được nơi tiêu thụ. c. Nhập khẩu liên doanh * Khái niệm nhập khẩu liên doanh: Nhập khẩu liên doanh là hình thức nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện trong đó được ít nhất một doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp nhằm cùng phối hợp kỹ năng, cùng giao dịch và để ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này, phát triển theo hướng có lợi cho cả hai bên cùng hưởng lợi nhuận và cùng chịu rủi ro. * Hoạt động nhập khẩu liên doanh có những đặc điểm sau: + Doanh nghiệp nhập khẩu chịu rủi ro (nếu có) sẽ ít hơn bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, đồng thời quyền hạn và trách nhiệm của hai bên, cũng tỷ lệ theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi và lỗ hai bên phân chia theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. + Doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính kim ngạch XNK nhưng đến khi tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế GTGT trên doanh số đó. + Doanh nghiệp XNK trực tiếp trong liên doanh phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng mua hàng với nước ngoài và một hợp đồng liên doanh vơi các doanh nghiệp khác nhưng không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước. d. Nhập khẩu đối lưu * Khái niệm nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là một hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu. Thanh toán trong trường hợp này không phải dùng tiền mà bằng chính hàng hóa. ở đây mục đích của nhập khẩu không những chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhập khẩu được hàng hóa để thu lãi. * Họat động nhập khẩu đối lưu có những đăc điểm sau: + Hoạt động này mang lại lợi ích lớn cho cả hai bên bởi cùng một hợp đồng mà có thể cung một lúc xuất khẩu và nhập khẩu, thu lãi từ cả hai hoạt động. + Hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu tương đương nhau với giá trị, mức độ qúy hiếm và cân bằng về giá cả. + Bạn hàng xuất khẩu cũng chính là bạn hàng nhập khẩu. + Doanh nghiệp XNK trực tiếp tính cả kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu, tính doanh số tiêu thụ trên cả hàng nhập và hàng xuất. + Trong quá trình buôn bán, ký kết hợp đồng, thanh quyết toán phải dùng tiền làm vật ngang giá chung. e. Nhập khẩu tái xuất. * Khái niệm nhập khẩu tái xuất là một hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào trong nước nhưng không phải để tiêu dùng mà để xuất khẩu sang một nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không qua chế biến lại ở nước tái xuất khẩu. * Hoạt động nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm sau: + Doanh nghiệp XNK ở nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, đàm bảo sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra. + Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu và không phải chịu thuế XNK. + Để đảm bảo thanh toán hợp đồng tái xuất thì các nhà nhập khẩu tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C). + Hàng hóa không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng tiền trả phải luôn do người tái xuất thu từ bên nhập khẩu trả cho nước xuất khẩu. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp tái xuất có một hệ thống thông tin và có mối quan hệ rộng giữa các bạn hàng. II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Hoạt động nhập khẩu hàng hóa không phải là một hành động đơn lẻ mà là một qúa trình bao gồm nhiều khâu có tính chất nghiệp vụ, bắt đầu từ khâu nghiên cứu tiếp cận thị trường, lựa chọn phương thức giao dịch cho đến khâu tiếp nhận hàng hóa tại cảng nước mình. Quá trình nhập khẩu hàng hóa phải được thực hiện một cách hệ thống và hợp lý, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. 1. Nghiên cứu thị trường Thị trường là khâu tất yếu của khâu tái sản xuất hàng hóa, ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có thị trường. Thị trường đối với doanh nghiệp là điều kiện sống còn để sản xuất và kinh doanh. Thị trường theo nghĩa cổ điển là nơi diễn ra các mối quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa. Theo nghĩa này thị trường được thu hẹp ở ( cái chợ ). Vì ta có thể hình dung được thị trường cả về không gian, thời gian, dung lượng .... Còn theo nghĩa hiện đại, thị trường là một qúa trình trong đó người mua, người bán tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa mua bán. Vậy thị trường theo nghĩa rộng được hiểu là tổng thể các mối quan hệ về lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ, các giao dịch mua bán và các dịch vụ. Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại vượt ra khỏi biên giới mỗi nước. Thị trường quốc tế hết sức phức tạp và nhiều biến động. Mỗi nước, mỗi thị trường lại có những đặc điểm khác nhau về quy mô, về phong tục, tập quán, văn hoá giáo dục, thị hiếu và luật pháp. Muốn hoạt động xuất nhập khẩu có hiệu quả trên thương trường quốc tế cần phải nghiên cứu tìm hiểu thị trường một cách kỹ lưỡng, thu thập xử lý thông tin cần thiết và nắm bắt kịp thời cơ hội kinh doanh để từ đó đưa ra phương án kinh doanh tốt nhất và thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường ta mới có thể trả lời các câu hỏi: Kinh doanh nhập khẩu hàng hoá gì ? Kinh doanh với ai ? Kinh doanh ở đâu ? vào thời điểm nào ? Kinh doanh với số lượng bao nhiêu ? Giá cả, lợi nhuận như thế nào ? Khác với kinh doanh hàng hóa trong nước, nghiên cứu thị trường đối với hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu phải tiến hành nghiên cứu đồng thời cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. a. Nghiên cứu thị trường trong nước: Việc nghiên cứu thị trường trong nước giúp cho chủ thể kinh doanh hàng nhập khẩu lựa chọn được mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Thông thường việc nghiên cứu thị trường trong nước thường tập trung vào các nội dung sau: - Nghiên cứu nhu cầu của thị trường: Nhu cầu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định tới hoạt động kinh doanh trên thị trường. Mọi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu nhu cầu rồi mới tổ chức quá trình kinh doanh để thoả mãn các nhu cầu đó. Đối với hoạt động nghiên cứu thị trường trong nước kinh doanh hàng nhập khẩu thì nghiến cứu nhu cầu thị trường là nội dung quan trọng nhất, nó quyết định tới hoạt động kinh doanh sau này. Nghiên cứu nhu cầu thị trường phải căn cứ vào cả sản xuất và tiêu dùng, về quy cách từng loại, kích cỡ, thị hiếu, tập quán tiêu dùng. Đồng thời phải dự báo được nhu cầu trong thời gian tới. Tóm lại qua nghiên cứu thị trường phải chỉ ra được thị trường đang cần loại hàng gì? Với số lượng bao nhiêu ? Giá cả ra sao ? Từ đó có cơ sở để tiến hành các bước tiếp theo. - Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu: Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu không những phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường mà còn phải dựa trên các yếu tố như: + Tình hình mặt hàng đó như thế nào hay khả năng sản xuất và tiêu dùng trong nước. Mỗi mặt hàng đều có những đặc điểm riêng, nó thể hiện bằng giá trị, công dụng, phẩm chất ... tương ứng với đặc điểm đó ta nghiên cứu khả năng của từng đối tượng, thời gian tiêu dùng. Đồng thời phải xác định được khả năng cung ứng các mặt hàng đó với thị trường trong nước. Rồi từ đó mới quyết định xem có nên kinh doanh hay không. + Chu kỳ sống của sản phẩm: Như chúng ta đã biết, mỗi hàng hoá lại có một chu kỳ sống riêng. Xác định xem hàng hóa đang ở giai đoạn nào là một việc làm rất cần thiết. Một sản phẩm đang ở giai đoạn bão hoà ở thị trường này chưa chắc đã thống lĩnh ở thị trường khác nếu như nó đang ở giai đoạn giới thiệu ở thị trường đó. Thực tế đã chứng minh rất nhiều trường hợp một sản phẩm đang bán rất chạy ở thị trường này được giới thiệu vào một thị trường khác lại gặp ngay thất bại. + Chính sách của nhà nước đối với mặt hàng kinh doanh cần phải xác định xem mặt hàng doanh nghiệp định kinh doanh có nằm trong danh mục mặt hàng cấm nhập hoặc mặt hàng khuyến khích nhập khẩu hay không ? Sự khuyến khích hay hạn chế nhập khẩu sẽ được thể thiện qua hạn ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu đánh vào từng mặt hàng. Điều này sẽ tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn đối với doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh sau này. - Nghiên cứu giá cả trong nước Doanh nghiệp phải xác định xem giá cả mặt hàng doanh nghiệp sẽ nhập khẩu hiện đang được thị trường trong nước chấp nhận vơí mức giá bao nhiêu. Đối thủ cạnh tranh đang cung ứng với mức giá thế nào. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp thông qua hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Giá cả sẽ bị tác động bởi rất nhiều yếu tố khác nhau như: chi phí, cạnh tranh, khách hàng và quy định của chính phủ. Cho nên để xác định được chính xác, giá cả trong nước của mặt hàng nhập khẩu, doanh nghiệp phải nắm bắt được các yếu tố tác động tới nó. - Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh Bước sang cơ chế thị trường, có rất nhiều doanh nghiệp được phép tham gia kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh trong kinh doanh. Cho nên doanh nghiệp cần phải nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh của mình nghĩa là cần phải xác định có bao nhiêu đối thủ, họ cung ứng mặt hàng gì với giá sao, chính sách khuyếch trương, xúc tiến của họ như thế nào, điểm mạnh điểm yếu của họ là gì. Từ đó xây dựng các kế hoạch cụ thể để tạo ưu thế so với đối thủ. b. Nghiên cứu thị trường nước ngoài. Một điều khác biệt rất lớn giữa kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất nhập khẩu đó là phải nghiên cứu thị trường nước ngoài, điều này đặc biệt quan trọng ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn chung khi nghiên cứu thị trường nước ngoài phải tập trung vào các nội dung sau: - Nghiên cứu mức cung của thị trường: Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất cần phải chú ý khi tiến hành nghiên cứu thị trường nước ngoài. Cần phải xác định xem có bao nhiêu đối tác có thể cung ứng mặt hàng doanh nghiệp định nhập khẩu, giá cả như thế nào, các điều kiện thanh toán ra sao, khối lượng cung ứng là bao nhiêu, có những điều kiện ưu đãi gì, có thể cung ứng vào lúc nào? Các yếu tố này không chỉ ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua hoạt động nhập khẩu mà còn ảnh hưởng tới tính liên tục và ổn định của quá trình kinh doanh. Cho nên doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu một cách chi tiết và tỉ mỉ. Nhưng đồng thời phải tiến hành nhanh chóng để kịp thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh khi chúng xuất hiện. - Nghiên cứu giá cả hàng hoá quốc tế là cần thiết đối với mọi doanh nghiệp khi muốn tham gia kinh doanh nhập khẩu. Giá cả hàng hóa thế giới phản ánh quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường đó. Do đó vấn để xác định đúng đắn giá cả quốc tế sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả kinh doanh. Giá cả ở đây là giá cả quốc tế, giá đó phải là giá cả của những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. Giá cả hàng hóa quốc tế chịu tác động của rất nhiều các yếu tố khác nhau, có thể kể ra như sau: + Giá trị quốc tế: Giá trị quốc tế được hình thành do chi phí sản xuất của các quốc gia tham gia vào kinh doanh thương mại quốc tế. Giá trị quốc tế chính là cơ sở để đưa ra giá cả quốc tế. Cho nên để xác định được chính sách giá cả quốc tế ta phải nắm bắt được giá trị của chúng. Điều này là rất khó vì chi phí sản xuất của mỗi nước là khác nhau, quy mô sản xuất cũng khác nhau cho nên khó xác định chính xác được giá trị của chúng. + Nhân tố lũng loạn: Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và biến động của giá cả hàng hoá quốc tế, nó làm xuất phát nhiều mức giá khác nhau cùng một mặt hàng. + Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh là nhân tố cần phân tích trong việc hình thành giá cả trên thị trường quốc tế. Nhân tố cạnh tranh tác động tới giá cả quốc tế dưới góc độ số lượng các doanh nghiệp, quy mô tương đối của các doanh nghiệp, sự khác biệt sản phẩm và khả năng ra nhập thị trường. Ngoài ra nhân tố cạnh tranh cũng tác động đến giá cả tuỳ thuộc vào vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Thông thường yếu tố cạnh tranh xảy ra khi cung và cầu về một loại hàng hóa lệnh nhau. Nếu cung lớn hơn cầu thì cạnh tranh xảy ra sẽ làm cho giá cả giảm xuống, còn cung nhỏ hơn cầu thì cạnh tranh có xu hướng đầy giá cả lên cao. + Nhân tố chu kỳ: Nhân tố này cho thấy sự vận động có tính chất quy luật của giá cả hàng hóa quốc tế, nó làm thay đổi quan hệ cung cầu do đó làm biến đổi dung lượng thị trường. + Nhân tố lạm phát: Giá cả hàng hóa không chỉ chịu ảnh hưởng của gía trị tiền tệ của các nước có vị trí quan trọng trong mậu dịch quốc tế. Giá trị của tiền tệ luôn thay đổi, nó gắn liền với lạm phát. Lạm phát làm cho giá cả hàng hóa biểu hiện bằng tiền giấy tăng lên với những mức độ khác nhau. Trên đây là những nhân tố cơ bản tác động tới giá cả hàng hóa quốc tế. Các doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng cần phải cố định mức độ tác động cuả chúng tới giá cả hàng hóa quốc tế và từ đó có thể lựa chọn cho mình một mức giá phù hợp nhất. Nhìn chung khi nghiên cứu giá cả hàng hóa quốc tế cần phải tập trung vào các vấn đề sau: * Thứ nhất, giá hàng định nhập trên thị trường thế giới. Người ta thường chọn giá ở trung tâm giao dịch truyền thống, ở những nước sản xuất chủ yếu hay những hãng sản xuất tập trung. Thông qua các trung tâm giao dịch này, các doanh nghiệp định nhập hàng phải xác định cho mình một mức giá tối ưu. * Thứ hai, nghiên cứu tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu. Ta có thể hiểu tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ (VND ) có thể thu về được khi bỏ ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Tỷ suất ngoại tệ có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Nếu như tỷ suất ngoại tệ một mặt hàng nào đó (chẳng hạn tính bằng VND/USD ) mà còn lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc chọn mặt hàng đó nhập khẩu là có hiệu quả, và ngược lại. - Nghiên cứu môi trường chính trị, luật pháp, tập quán buôn bán và hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia có thị trường hàng hóa mà doanh nghiệp định tiến hành nhập khẩu. Mỗi quốc gia lại có một chế độ chính trị, luật pháp khác nhau, chính yếu tố này sẽ quyết định tới tính chất của quan hệ giao dịch này. Cho nên trong nghiên cứu thị trường cần phải nghiên cứu cụ thể yếu tố này. Mặt khác ở mỗi quốc gia lại có những tập quán buôn bán khác nhau. Như vậy khi muốn thiết lập mối quan hệ với một quốc gia nào hoặc định nhập hàng hóa từ một quốc gia nào ta cần phải nghiên cứu kỹ môi trường chính trị, luật pháp và tập quán buôn bán của họ, đồng thời phải tiến hành nghiên cứu cả hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia đó để rút ra những đặc điểm cơ bản nhằm điều chỉnh quan hệ giao dịch cho phù hợp. Trên đây là những nội dung cơ bản mà khi tiến hành nghiên cứu thị trường chúng ta cần phải làm rõ. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng loại thị trường mà ta quyết định xem nên tập trung vào nội dung nào hơn. Nên lựa chọn phương pháp nghiên cứu nào để có hiệu qủa nhất. 2. Lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu. Dựa trên cơ sở nghiến cứu thị trường trong và ngoại nước ta tiến hành lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu. Phương án kinh doanh là kế hoạch hành động cụ thể của một thương vụ giao dịch mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ. Muốn lập được phương án giao dịch sát với thực tế và có tác dụng chỉ đạo cụ thể cho hoạt động kinh doanh, nhà kinh doanh cần phải tiến hành tốt công việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Phương án kinh doanh sẽ là cơ sở cho các cán bộ nghiệp vụ thực hiện các nhiệm vụ được giao. Nó phân đoạn các mục tiêu lớn thành các mục tiêu cụ thể để lãnh đạo doanh nghiệp quản lý và điều hành công việc được liên tục, chặt chẽ. Phương án kinh doanh được lập một cách đầy đủ và chính xác sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể lường trước được những rủi ro và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Trình tự lập một phương án kinh doanh hàng nhập khẩu gồm các bước sau: a. Nhận định tổng quát về diễn biến tình hình thị trường: Trên cơ sở thông tin thu nhận được từ quá trình nghiên cứu thị trường doanh nghiệp tiến hành nhận định tổng quát về diễn biến thị trường rút ra những nét tổng quát về cung cầu, giá cả, đối thủ cạnh tranh cũng như dự báo được những biến động có thể xảy ra, lường trước được những rủi ro tiềm ẩn. ở bước này cần phải chỉ ra được các cơ hội kinh doanh hấp dẫn cho doanh nghiệp đồng thời đưa ra được những thông tin tổng quát nhất về diễn biến của thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. b. Đánh giá khả năng của doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp đều có những điểm mạnh và điểm yếu của mình. Trước những diễn biến thực tế của thị trường, doanh nghiệp cần phải tự đánh giá khả năng của mình xem có thể kinh doanh đạt hiệu quả cao hay không. Điều này có giải thích bằng một lý do cơ bản đó là: Mọi cơ hội kinh doanh sẽ chỉ trở thành cơ hội hấp dẫn khi nó phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. ở đây doanh nghiệp cần phải cân đối nguồn vốn của mình xem có đủ khả năng chi trả cho hoạt động nhập khẩu hay không. Đồng thời tiến hành đánh gía đội ngũ cán bộ nghiệp vụ cũng như hệ thống cơ sở vật chất của doanh nghiệp xem có đủ khả năng kinh doanh hay không. Kết thúc bước này doanh nghiệp cần phải đưa ra được quyết định có nên tham gia kinh doanh nhập khẩu hay không? Nếu tham gia thì phải bổ sung những yếu tố gì? c. Xác định thị trường, mặt hàng nhập khẩu và số lượng mua bán: Trên cơ sở những nhận định tổng quát về thị trường và kết qủa đánh giá khả năng của mình, doanh nghiệp phải xác định được một thị trường, mặt hàng dự định kinh doanh là gì?, yếu cầu về quy cách, phẩm chất, nhãn hiệu, bao bì ... của hàng hóa đó như thế nào? Nghĩa là giai đoạn này doanh nghiệp phải chỉ ra được một thị trường phù hợp với mình và các mặt hàng dự định kinh doanh tôí ưu nhất. Một vấn đề khá quan trọng ở giai đoạn này là xác định số lượng hàng hóa nhập khẩu. Để xác định số lượng hàng hóa nhập khẩu, doanh nghiệp phải xác định số lượng đặt hàng tối ưu. Số lượng đặt hàng tối ưu là số lượng nhập về vừa thoả mãn được nhu cầu trong nước vừa tiết kiệm được chi phí đặt hàng. Thông thường lượng tiết kiệm được tính như sau: Gọi A là nhu cầu nhập khẩu hàng năm Q là lượng đặt hàng của mỗi đơn hàng. P là chi phí nhập khẩu cho mỗi đơn hàng. S là chi phí vận chuyển trong nước và lưu kho ( stockolding ) Do đó S/2 là chi phí bình quan vận chuyển và lưu kho Ta tính được chi phí thu mua (D) là: D = A.P/Q2+S/2 Khi tìm vi phân của hàm số D và cho nó bằng 0 để tìm được cực tiểu, ta sẽ xác định được lượng đặt hàng tối ưu của mỗi đơn hàng: (Mô hình I) d. Xác định đối tượng giao dịch để tiến hành nhập khẩu. Như chúng ta đã biết, đối với một mặt hàng có thể được nhiều doanh nghiệp khác cung cấp. Cho nên trong buôn bán ta phải xác định được đâu là nhà cung cấp hay đối tượng giao dịch, phù hợp nhất với mình. ở đây ta phải nghiên cứu các nội dung như: quan điểm kinh doanh của đối tượng giao dịch, lĩnh vực kinh doanh của họ, khả năng tài chính và cơ sở vật chất của họ, thái độ kinh doanh của họ ( thể hiện qua uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh ). Những người chịu trách nhiệm thay mặt để kinh doanh và phạm vì trách nhiệm của họ. Đồng thời cũng phải xác định phương thức giao dịch cụ thể, có các hình thức giao dịch như: Giao dịch trực tiếp, giao dịch qua trung gian, mua đứt bán đoạn, buôn bán đối lưu ... Tất cả những lựa chọn trên cần phải có cơ sở khoa học chính xác để kiểm chứng. e. Xác định thị trường và khách hàng tiêu thụ: Đối với doanh nghiệp thương mại (chuyên xuất nhập khẩu ), hàng hóa nhập khẩu về, không phải là để tiêu dùng cho bản thân doanh nghiệp mà là để đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Cho nên việc xác định đúng đắn thị trường và khách hàng tiêu thụ là rất quan trọng, nó ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. ở giai đoạn này, doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi: + Bán hàng ở thị trường nào? + Khách hàng là những ai? Đâu là người tiêu thụ chính? + Bán hàng vào thời điểm nào? Khối lượng là bao nhiêu? ở đây cần phải có sự hỗ trợ của các công cụ Marketing, đặc biệt là trong việc xác định được đâu là người tiều thụ chính đối với những hàng hóa mà doanh nghiệp nhập khẩu, từ đó có những biện pháp để xúc tiến đối với những đối tượng này. f. Xác định giá cả mua bán trong nước. Đối với người đi đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu phải được duyệt giá với giá tối đa, giá tối thiểu và giá tới hạn. Người làm nhiệm vụ này có quyền được định giá trong khoảng giá tối đa và tối thiểu đó tuỳ theo từng trưòng hợp cụ thể. Giá cả buôn bán trong nước phải được dựa trên cơ sở phân tích giá cả quốc tế, giá chào hàng, điều kiện thanh toán, hoặc giá của hàng cùng loại trước đây đã nhập. Giá bán trong nước phải đảm bảo được mục tiêu lợi nhuận đã để ra sau khi đã trừ đi những khoản chi phí. Đồng thời phải căn cứ vào đặc điểm của từng loại hàng mà tiến hành định giá bán trong nước. Nếu như hàng hóa mà doanh nghiệp định nhập về đã từng xuất hiện ở thị trường trong nước thì việc đạt giá bán cao hơn giá cũ là một điều không thuận lợi cho công tác tiêu thụ. Còn nếu là hàng khan hiếm thì việc đặt giá hơi cao một chút để tăng lợi nhuận là điều có thể chấp nhận được. g. Đề ra các biện pháp thực hiện: Như chúng ta đã biết phương án kinh doanh nhập khẩu hàng hóa là kế hoạch hành động cụ thể của một nhà giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ. Cho nên ta phải tiến hành lập các phương án để thực hiện các kế hoạch đó. Mặt khác phương án kinh doanh là cơ sở để cho các cán bộ nghiệp vụ thực hiện những nhiệm vụ của mình cho nên nó phải chỉ ra các bước tiến hành cụ thể để đạt được những mục tiêu của phương án. Đề ra biện pháp thực hiện phải dựa trên cơ sở những thông tin phân tích của những bước trước đó. Đồng thời phải dựa vào đặc điểm của hàng hóa, khả năng của doanh nghiệp cũng như trong từng giai đoạn cụ thể mà đề ra các biện pháp thực hiện cho phù hợp. ở bước này cần phải tránh rời xa thực tế, không sát với tình hình cụ thể của thị trường, hàng hóa và doanh nghiệp như: tổ chức nhập khẩu hàng hóa, kiểm định chặt chẽ hàng hóa về chất lượng, số lượng và thời gian, thực hiện công tác tiếp nhận, xúc tiến bán hàng và quảng cáo để đẩy mạnh tiêu thụ ... h. Sơ bộ đánh giá kết quả hoạt động nhập khẩu. Kết quả của bước này sẽ trả lời cầu hỏi doanh nghiệp có nên tiến hành nhập khẩu hay không, nếu nhập khẩu thì phải chú ý vào những điểm gì? kết quả hoạt động nhập khẩu dự kiến thường được đánh giá qua các chỉ tiêu sau đây: + Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ: Nếu tỷ suất hàng nhập khẩu lớn hơn tỷ giá hiện hành thì tiến hành nhập khẩu là có lợi. + Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi: Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp bỏ ra một đồng vốn hoặc đồng chi phí sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. + Chỉ tiêu điểm hoà vốn: Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp phải kinh doanh nhập khẩu với số lượng bao nhiêu mới có thể hoà được vốn, nếu vượt được danh số đó thì doanh nghiệp là có lãi. + Chỉ tiêu số lần luân chuyển vốn lưu động, chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy doanh thu tiêu thụ hàng nhập khẩu chia cho vốn lưu động bình quan, kết quả là nó cho biết hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Đặc biệt dựa vào mức giá dự kiến ta có thể tính được lãi dòng trong kinh doanh nhập khẩu theo công thức sau: Tổng lãi ròng= Số lượng nhập khẩu x lãi ròng một đơn vị hàng nhập Trong đó: Ta có thể tính lãi ròng một đợn vị nhập khẩu như sau: = - - - - - Chi phí gồm: * chi phí nhập khẩu * Chi phí vận chuyển, bốc xếp, lưu kho bãi * Chi phí khác Trên đây là những bước cơ bản của quá trình lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu. Doanh nghiệp cần phải tiến hành lập phương án kinh doanh một cách chu đáo, cụ thể và chính xác, để làm cơ sở cho qua trình thực thi các nghiệp vụ kinh doanh sau này. 3. Tổ chức tiến hành nhập khẩu hàng hóa. Tổ chức tiến hành nhập khẩu hàng hóa là nội dung quan trọng nhất của nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu. Nó quyết định tới sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Cho nên các doanh nghiệp cần phải có sự đầu tư thích đáng vào nội dung này. Tổ chức nhập khẩu hàng hóa bao gồm các vấn đề sau: a. Giao dịch và đàm phán: Một điểm khác biệt giữa buôn bán trong nước với kinh doanh xuất nhập khẩu đó là phạm vi buôn bán vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Cho nên các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng phải tiến hành giao dịch để gặp gỡ, tiếp xúc với bạn hàng nhằm tìm ra bạn hàng phù hợp nhất. b. Ký kết hợp đồng nhập khẩu: Trong thương mại quốc tế, khi các bên đối tác đàm phán thống nhất được với nhau về các điều kiện mua bán thì phải tiến hành ký kết hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng ngoại thương là hợp đồng mua bán đặc biệt. Trong đó người bán (nhà xuất khẩu ) có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua (nhà nhập khẩu ) vượt qua biên giới quốc gia, còn người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán một khoản tiền ngang gía trị hàng hóa bằng các phương thức thanh toán quốc tế. - Những điều khoản cơ bản của hợp đồng nhập khẩu. Nội dung của hợp đồng xuất nhập khẩu cần có một số điều khoản căn bản bắt buộc. Ngòai ra hai bên có thể ghi thêm những điều khoản khác mà họ thấy cần thiết. Dưới đây là một số điều khoản căn bản của hợp đồng xuất nhập khẩu: * Những điều khoản về đối tượng của hợp đồng: + Tên hàng: cần ghi rõ tên thương mại, tên khoa học ( nếu có ) và tên thông dụng của hàng hóa để tránh sự hiểu lầm. + Phẩm chất: hợp đồng ngoại thương phải ghi rõ các tiêu chuẩn để qui định phẩm chất của hàng hóa, có thể căn cứ vào mẫu hàng, các tài liệu kỹ thuật. + Số lượng: có nhiều cách xác định số lượng và trọng lượng hàng hóa. Thông thường trong thực tiễn thương mại quốc tế có hai cách xác định số lượng hàng hóa, có thể xác định một số lượng hàng hóa chính xác hoặc số lượng hàng hóa có dung sai. * Những điều khoản về gía cả và phương thức thanh toán: + Đồng tiền tính giá. + Đồng tiền thanh toán. + Phương pháp qui định giá. + Phương thức thanh toán. * Những điều khoản về điều kiện giao hàng: + Thời hạn giao hàng: qui định người bán phải giao hàng vào một ngày cụ thể hoặc giao hàng trong một khoảng thời gian nhất định như giao theo quí, theo năm ... + Điều kiện giao hàng: đây là điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán ngoại thương. Điều khoản giao hàng thường chỉ rõ ràng hàng sẽ được giao ở đâu, ai thuê tàu, ai mua bảo hiểm ... Nó có thể được hai bên qui định rõ trong hợp đồng hoặc có thể được dẫn chiếu đến các điều kiện thương mại quốc tế như FOB, CIF, CIP, C&F ... c. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hóa: Khi hợp đồng nhập khẩu được ký kết tức là các bên đã gắn quyền lợi và trách nhiệm của mình vào hợp đồng. Dưới góc độ của doanh nghiệp nhập khẩu, sau khi ký kết thì phải tiến hành nhập khẩu hàng hóa. Đây là công việc rất phức tạp vì nó không chỉ liên quan đến luật pháp quốc gia mà còn liên quan đến quốc tế, nhưng lại có ý nghĩa hết sức lớn đối với doanh nghiệp. Nhìn chung để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu thì đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải tiến hành các khâu công việc sau đây: * Xin giấy phép nhập khẩu: Đây là tiền đề quan trọng nhất về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong mỗi chuyến hàng nhập khẩu. Muốn được cấp giấy phép nhập khẩu đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải làm theo một mẫu in sẵn kèm với bản sao hợp đồng mua bán ngoại thương và bản sao của thư tín dụng (L/C) nếu có một phiếu hạn ngạch ( nếu mặt hàng nhập khẩu được quản lý bằng hạn ngạch ) hoặc bản trích sao kế hoạch nhập khẩu đã được đăng ký và gửi đến bộ phận cấp giấy phép của BộThượng Mại. * Mở L/C: Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiền bằng L/C, thì việc đầu tiên bên mua ( nhập khẩu ) phải mở L/C. Về mặt thời gian, nếu hợp đồng không quy định gì thì phụ thuộc vào thời gian giao hàng, thông thường L/C được mở vào khoảng 15 đến 20 ngày trước thời hạn giao hàng. * Thuê tàu lưu cước nếu nhập giá FOB: ở đây cần lưu ý khi lựa chọn phương tiện vận tải. Phương tiện vận tải phải phù hợp với hàng hóa nhập khẩu. Thông thường, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu uỷ thác việc thuê tàu cho một công ty vận tải chuyên nghiệp. Trong điều kiện nước ta hiện nay thì các doanh nghiệp trong nước thường nhập khẩu theo điều kiện CIF. * Mua bảo hiểm: Trong kinh doanh thương mại quốc tế, bảo hiểm đường biển là loại bảo hiểm quan trọng nhất và phổ biến vì chuyên chở hàng bằng đường biển có xác suất rủi ro cao. * Làm thủ tục hải quan: gồm có 3 bước sau: + Khai báo hải quan: Chủ hàng phải khai báo chi tiết về hàng hóa trên tờ khai hải quan để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. + Xuất trình hàng hóa: Hàng hóa phải được sắp xếp, thuận tiện cho việc kiểm tra. Hải quan đối chiếu hàng hóa trong tờ khai với thực tế để quyết định có cho hàng hóa qua biên giới hay không. + Thực hiện các quy định của hải quan: Sau khi kiểm tra giấy tờ hàng hóa, hải quan quyết định có cho hàng hóa qua biên giới hay không hoặc qua với điều kiện chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của hải quan. Nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. * Giao nhận hàng hóa với tầu: Theo nghị định 200/CP ngày 31/12/1993, một việc giao nhận hàng hóa đều phải uỷ thác qua cảng. Các cơ quan vận tải, ga cảng phải có trách nhiệm tiếp nhận hàng hóa nhập khẩu từ các phương tiện vận tải vào ra cảng, xếp dỡ, bảo quản, lưu kho, lưu bãi và giao hàng cho đơn vị kinh doanh nhập khẩu hoặc giao cho đơn vị đặt hàng theo lệnh của đơn vị kinh doanh nhập khẩu đã nhập hàng đó. Đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải, ga cảng về giao nhận hàng. * Kiểm tra hàng hóa. Theo quy định của Nhà nước, hàng nhập khẩu khi về cửa khẩu phải được các cơ quan chức năng kiểm tra kỹ lưỡng. Đây là bước quan trọng, nó góp phần đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. * Làm thủ tục thanh toán: Đây là khâu trọng tâm và là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch thương mại quốc tế. Thủ tục thanh toán tuỳ thuộc vào hình thức thanh toán quy định trong hợp đồng. * Khiếu nại trọng tài ( nếu có ): Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu hàng hóa có tổn thất hoặc việc thanh toán có nhầm lẫn và tranh chấp xảy ra thì các bên có quyền khiếu nại. Hồi sơ khiếu nại phải kèm theo bằng chứng về tổn thất, hoá đơn, vận đơn, chứng từ hải quan và chứng từ khác. d. Vận chuyển hàng hóa về nơi tiêu thụ và tổ chức tiêu thụ hàng nhập khẩu: Đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu, họ tiến hành nhập khẩu không phải là để phục vụ nhu cầu tiêu dùng bản thân doanh nghiệp mà để tiến hành kinh doanh ( bán lại cho các đơn vị có nhu cầu ) hoặc nhập khẩu uỷ thác cho một đơn vị nào đó. Cho nên sau khi hàng về tới biến giới, cảng ga, đơn vị phải tiến hành vận chuyển hàng hóa về nơi tiêu thụ. Yêu cầu đối với công tác này là phải tính toán xác định chính xác đầu mối giao hàng, lượng hàng dự trữ, sắp xếp kho chứa khi lập kế hoạch vận chuyển. Hàng nhập khẩu từ nước ngoài về được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Để thực hiện việc tiêu thụ hàng hóa một cách có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc tái đầu tư vào quá trình nhập khẩu tiếp theo thì doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu cần phải: - Xác định các kênh phân phối và các hình thức bán. - Tổ chức phân phối hàng hóa vào các kênh khác nhau. - Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng. - Tổ chức nghiệp vụ bán hàng cụ thể tại các cửa hàng, quầy hàng. Trên đây là một số phương pháp nhằm thúc đẩy quá trình vận chuyển và tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp, như vậy để làm tốt khâu này doanh nghiệp có thể kết hợp với các yếu tố khác như sẽ trình bày ở dưới đây. 4. Xúc tiến bán hàng. Một hoạt động không thể thiếu được trong quá trình kinh doanh nhập khẩu đó là hoạt động xúc tiến. Như đã trình bày ở trên, doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu hàng hóa là để phục vụ kinh doanh. Cho nên xúc tiến bán hàng ( hàng hóa nhập khẩu ) sẽ góp phần đầy mạnh việc tiêu thụ các hàng hóa được nhập khẩu về. Thực tế đã chứng minh nhiều trường hợp hàng hóa nhập khẩu về không bán được. Điều này không phải do chất lượng hàng hóa kém, giá thành cao mà do tổ chức xúc tiến bán hàng không tốt. Ta có thể hiểu xúc tiến bán hàng là tập hợp các kỹ thuật, nghệ thuật bán hàng nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa. Hoạt động xúc tiến bán hàng thường được thực hiện qua các kỹ thuật sau: a. Quảng cáo: Quảng cáo là nghệ thuật sử dụng các phương tiện truyền tin để đưa các thông tin về hàng hóa, dịch vụ, danh tiếng và tiềm lực cho khách hàng. Mục đích của quảng cáo là nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng rồi dẫn đến quyết định mua hàng. Nghĩa là thông qua quảng cáo, doanh nghiệp sẽ nâng cao được danh số bán ra, đề cao uy tín của doanh nghiệp. Đối tượng của quảng cáo là khách hàng, tức là những người có nhu cầu, có khả năng thanh toán. Một hoạt động quảng cáo sẽ tác động đến đối tượng quảng cáo qua bốn giai đoạn: Thu hút chú ý ( Attention ) đ Gây nên sự quan tâm ( interest ) đ Làm cho thích thú ( disire ) đ Thúc đẩy hành động ( action ). Nhìn chung, quảng cáo thường được thực hiện qua các phương tiện quảng cáo như: + Báo chí, các ấn phẩm. + Các phương tiện truyền thông như: Radio, Tivi, Băng hình... + Quảng cáo bằng pano, áp phích ở những nơi đông người. + Quảng cáo thông qua bao bì và nhãn hiệu hàng hóa. + Quảng cáo bằng bưu điện. + Tổ chức giới thiệu hàng hóa ở các quầy hàng, cửa hàng, qua Catalog kết hợp với việc sử dụng đội ngũ nhân viên Marketing. + Và một số phương pháp khác. b. Chiêu hàng: Kỹ thuật này hiện nay cũng được sử dụng khá phổ biến. Chiêu hàng là phương pháp sử dụng hàng hóa tác động vào khách hàng gây cho họ sự thích thú, có thể sử dụng một số các phương pháp chiêu hàng sau: + Chiêu hàng thông qua yếu tố phi vật chất của sản phẩm: Tên gọi, hình dáng. + Chiêu hàng thông qua Catalog + Chiêu hàng thông qua trưng bày giới thiệu hàng hóa + Chiêu hàng thông qua nghệ thuật bán hàng + Gửi biếu mẫu sản phẩm cho những nhân vật nổi tiếng. c. Chiêu khách: Là phương pháp tác động vào tư tưởng, tình cảm để gây thiện cảm tạo dựng niềm tin ở khách hàng, kích thích tạo cảm giác mới lạ, thu hút và thuyết phục khách hàng mua hàng. Có các phương pháp chiêu khách như: + Chiêu khách thông qua văn phòng hay nơi làm việc. Muốn phương pháp này đạt hiệu quả cao phải có hệ thống địa điểm chiêu khách tốt với cơ sở vật chất hoàn chỉnh và hệ thống nhân viên được đào tạo chu đáo. + Chiêu khách thông qua đội ngũ tiếp viên bán hàng. Đòi hỏi đội ngũ trình bày phải có độ khá giỏi về giao tiếp và chuyên môn, cũng như phải có hình thức bên ngoài hấp dẫn có khả năng tạo dựng niềm tin. + Chiêu khách thông qua gửi quà biếu, tặng. + Chiêu khách thông qua hội nghị khách hàng. Trên đây là các kỹ thuật xúc tiến bán hàng cơ bản nhất, thường hay được sử dụng. Ngoài ra còn có một số kỹ thuật xúc tiến khách như bán hàng có thưởng, bán trả góp với lãi suất ưu đãi, giảm gía. 5. Hoạt động sau bán hàng. Hoạt động sau bán hàng là những hoạt động dịch vụ nhằm phục vụ và tiếp tục quá trình kinh doanh chính. Sau khi kết thúc việc mua bán không có nghĩa là doanh nghiệp sẽ quên hẳn khách hàng bởi nếu quên, khách hàng sẽ không mua hàng của doanh nghiệp trong các thương vụ tiếp theo, mặt khác doanh nghiệp cần quay trở lại với khách hàng sau khi kết thúc một thương vụ để bản thân doanh nghiệp yên tâm là không có trục trặc gì nảy sinh, nhu cầu đã được đáp ứng tốt. Vai trò của hoạt động sau bán hàng thể hiện ở các mặt như: Giúp cho doanh nghiệp bán được nhiều hàng hơn, thu được nhiều lợi nhuận. Mặt khác, nó lập nên một hàng rào ngăn cách sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh qua sự tin tưởng của khách hàng đối với doanh nghiệp. Đồng thời, đây cũng là lĩnh vực hoạt động thu được lợi nhuận ( lợi nhuận từ dịch vụ ) cho doanh nghiệp. Trong kinh doanh hàng nhập khẩu thường có các hoạt động bán hàng như sau: a. Bán hàng và vận chuyển hàng hóa theo yêu cầu của khách hàng: Việc doanh nghiệp thực hiện hoạt động này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các hộ tiêu dùng tập trung công việc chính của mình là đẩy mành sản xuất kinh doanh, sử dụng hợp lý lao động và phương tiện vận tải, giảm chi phí lưu thông. Đồng thời cho phép các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu làm tốt hơn các công tác nghiên cứu nhu cầu thị trường, phục vụ tốt hơn các nhu cầu của khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh. b. Tổ chức cung ứng đồng bộ dịch vụ kỹ thuật phục vụ khách hàng: Có nhiều mặt hàng mua về không thể đi vào sử dụng được ngay vì còn phải qua giai đoạn lắp ráp, điều chỉnh nhiều khi còn đòi hòi các chuyên gia kỹ thuật để hướng dẫn vận hành. Cho nên nếu một doanh nghiệp đứng ra bao thầu toàn bộ và cung ứng đầy đủ tất cả hàng hóa và dịch vụ trên cho khách hàng thì rất có lợi. Khách hàng chỉ cần quan hệ với một đầu mối (doanh nghiệp nhập khẩu ) là có thể có được tất cả hàng hóa và dịch vụ cần thiết kèm theo. Còn về phía doanh nghiệp nhập khẩu sẽ có thêm thu nhập, tạo ra được ưu thế so với đối thủ cạnh tranh. c. Tổ chức sửa chữa, bảo hành sản phẩm: Đối với hàng nhập khẩu là máy móc thiết bị hoặc hàng tiêu dùng có giá trị lớn thì hoạt động này rất có ý nghĩa. Nhiều khi nó trở thành một tiêu thức quan trọng để lựa chọn người cung cấp đối với khách hàng. Khách hàng sẽ yên tâm khi sử dụng hàng hóa vì biết rằng chúng đã được bảo lãnh và có một nơi sửa chữa được các hàng hóa đó khi xảy ra hỏng hóc. Nghĩa là các dịch vụ này sẽ làm tăng sự tin tưởng vào uy tín của doanh nghiệp, vào hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh, tăng được số lượng hàng hóa bán ra và tạo được ưu thế trong cạnh tranh. Trên đây là các hoạt động dịch vụ sau bán hàng mà doanh nghiệp nhập khẩu thường hay sử dụng trong kinh doanh. Ngoài ra còn có một số dịch vụ khác, nhưng doanh nghiệp có cung cấp chúng hay không là còn phụ thuộc vào khả năng và đội ngũ công nhân kỹ thuật của doanh nghiệp. III. Các chỉ tiêu của nhập khẩu và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu hàng hóa. 1. Các chỉ tiêu cuả hoạt động nhập khẩu hàng hoá. a. Nếu hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu bình thường (không kèm theo điều kiện tín dụng ) tức trường hợp không dùng hiện giá, ta dùng các chỉ tiêu sau đây để đánh giá hiệu quả tài chính hoạt động xuất nhập khẩu. * Đánh giá các tỷ lệ sinh lời như: tỷ suất ngoại tệ, tỷ suất doanh lợi, hệ số vòng quay của vốn. - Tỷ suất ngoại tệ Như đã trình bày hiệu quả kinh tế ngoại thương là một đại lượng so sánh giữa “ kết quả đầu ra’’ với “ chi phí đầu vào ”. Trong hoạt động xuất khẩu “kết quả đầu ra”thể hiện bằng số ngoại tệ thu được do xuất khẩu, và “chi phí đầu vào ”thì tính bằng bản tệ. Ngược lại, trong hoạt động nhập khẩu, “chi phí đầu vào” là số ngoại tệ phải chi ra để mua hàng, còn, “kết quả đầu ra” lại tính bằng bản tệ. Vì vậy, tỷ suất ngoại tệ được thể hiện bằng hai đơn vị tiền tệ : Ngoại tệ và bản tệ. + Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu là đại lượng so sánh giữa khoản thu ngoại tệ do xuất khẩu (DTxk) đem lại với số chi phí bản tệ phải chi ra (Cxk) để có được số ngoại tệ đó. Nếu đặt ký hiệu (Hxk) cho hiệu quả tài chính xuất khẩu, ta có: DTxk(bằng ngoại tệ) Hxk = Cxk(bằng bản tệ) Vì trong xuất khẩu, số chi phí bản tệ để xuất khẩu cũng bằng giá thành xuất khẩu cho nên : CPxk= Cxk Vậy ta có thể viết : DTxk Hxk= (1) CPxk + Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu là đại lượng so sánh giữa khoản thu (tính bằng bản tệ) do việc nhập khẩu đem lại (DTxk) với số chi phí (tính bằn ngoại tệ) đã phải bỏ ra để mua hàng nhập khẩu (Cxk). Nếu ta ký hiệu ( Hxk) là hiệu quả tài chính nhập khẩu được thể hiện thông qua tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu thì: DTnk(bằng bản tệ) Hnk= (2) Cnk(bằng ngoại tệ) Vì chi phí chuyên chở từ cửa khẩu về đến nơi tiêu thụ (Ccd) chưa được tính vào giá thành nhập khẩu (Cnk) cho nên chi phí bỏ ra để mua hàng nhập khẩu (đã được ký hiệu ở trên là (Cnk) có thể viết như sau : Cnk= CPxk+ Ccd Và : DTnk Hnk= CPnk+ Ccd - Tỷ suất ngoại tệ trong trường hợp xuất nhập khẩu liên kết Hoạt động xuất nhập khẩu liên kết còn gọi là buôn bán đối lưu gồm những hoạt động hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, trao đổi bồi hoàn và mua lại sản phẩm. Trong các hoạt động này, đồng tiền chỉ có vai trò rất hạn chế : Làm phương tiện tính toán giá cả và làm công cụ ghi chép. Hiệu quả tài chính của hoạt động xuất nhập khẩu liên kết Hnt là kết quả tổng hợp của hiệu quả tài chính xuất khẩu và hiệu quả tài chính nhập khẩu. Do đó ta có thể viết : Hnt=Hxk x Hnk Thấy công thức này bằng những kết quả của những công thức (1) và (2), ta có : DTxk DTnk Hnt= x Cxk Cnk Do tính chất liên kết của hoạt động, toàn bộ khoản thu về của xuất khẩu ngang bằng với khoản chi ra cho nhập khẩu, tức là : DTxk= Cnk Cho nên DTxk DTnk DTxk Hnt = x = Cxk Cnk Cnk - Tỷ suất doanh lợi : Doanh lợi là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện kết quả kinh doanh . Vì vậy, khi nói về hiệu quả kinh tế nói chung, hoặc hiệu quả tài chính nói riêng của một hoạt động xuất nhập khẩu, chúng ta không thể không nói tới doanh lợi. Doanh lợi biểu hiện giữa hai dạng : Số tuyệt đối (gọi là khoản doanh lợi) và số tương đối (gọi là tỷ suất doanh lợi). + ở dạng số tuyết đối : doanh lợi của một hoạt động kinh doanh là hiệu số giữa khoản doanh thu (viết tắt là DT) với khoản chi phí cho kinh doanh (viết tắt là CP) của hoạt động đó . Doanh nghiệp có thể xác định doanh lợi tổng hợp (của cả một thương vụ) hoặc doanh lợi của một đơn vị hàng hoá hoặc doanh lợi của một đơn vị ngoại tệ. + ở dạng tương đối : doanh lợi được thể hiện bằng tỷ suất doanh lợi P ,. Đó là tỷ số giữa doanh lợi thu về với số chi phí bỏ ra để kinh doanh, hoặc giữa doanh lợi thu về so với doanh thu. P P P’ = % hay P’= % C R - Hệ số sinh lợi của vốn Tổng số tiền lợi nhuận được phản ánh trên các báo cáo thu nhập cho ta biết kết quả kinh doanh ò doanh nghiệp. Tuy nhiên số lợi nhuận này chưa thể đánh giá đúng đắn chất lượng kinh doanh của đơn vị. Bởi vậy, ngoại việc xem xét các tỷ tệ sinh lợi như tỷ suất ngoại tệ, tỷ suất doanh lợi, ta còn phải xem xét tổng số lợi nhuậnvới số tài sản được sử dụng đeer sinh ra số lợi nhuận đó. Chỉ tiêu được sử dụng đánh giá là: + Hệ số sinh lợi của tài sản kinh doanh + Hệ số sinh lợi của tài sản lưu động + Hệ số sinh lợi của tài sản cố định. Hệ số sinh lợi của tài sản kinh doanh được tính theo công thức : P Tổng lợi nhuận từ kinh doanh Hkd = = C Tổng số tài sản kinh doanh bình quân Cách tính tài sản bình quân: Tài sản kinh doanh bình quân tháng C đầu tháng + C cuối tháng 2 Tài sản kinh doanh bình quân quý C1 + C2 + C3 3 C1, C2,, C3 là tài sản kinh doanh bình quân tháng 1, 2, 3. Nếu có số liệu tài sản kinh doanh vào đầu tháng thì cũng có thể xác định tài sản kinh doanh bình quân quý, năm theo công thức sau: C1 Cn + C2 + ... Cn – 1+ 2 C = n - 1 C = tài sản kinh doanh bình quân quý, năm. n = số thứ tự C1 , C2,..., Cn là tài sản kinh doanh hiện có vào đầu tháng Tài sản kinh doanh bình quân các quý Cnăm = 4 Hệ số sinh lợi của vốn kinh doanh là một chi tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn. Hệ số sinh lợi tài sản kinh doanh tính ra càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn càng lớn. Có thể dùng chỉ tiêu này để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của từng phương án kinh doanh, của các quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, và của thời kỳ kinh doanh này với thời kỳ kinh doanh trước. + Mức sinh lời của vốn lưu động. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng của một đồng vốn lưu động vào kinh doanh.Chỉ tỉệu này dùng để so sánh với kỳ trước (hoặc về kế hoạch dự định). Mức sinh lời của Tổng lãi kinh doanh đồng vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng của 1 đồng vốn lưu động vào kinh doanh. Chỉ tiêu này dùng để so sánh với kỳ trước để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động . Chỉ tiêu này tính ra càng cao càng tốt, tuy nhiên, chỉ tiêu này ngoài việc phụ thuộc vào mức lãi, còn phụ thuộc tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. + Mức sinh lời của vốn cố định Mức sinh lời Tổng lãi kinh doanh Vốn cố định = Vốn cố định bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số tiền lãi ( hoặc thu nhập thuần tuý) thu được trên một đồng vốn cố định, hoặc số vốn cố định cần thiết để tạo ra một đồng lãi (hoặc thu nhập thuần tuý ). * Thời gian hoàn vốn Thời gian hoàn vốn hoặc thời gian bù vốn là một chỉ số hiệu quả kinh tế đơn gian và được sử dụng tương đối phổ biến trong đánh giá các hoạt động ( dự án ) kinh doanh. Thời gian hoàn vốn hiện có nhiều cách hiểu khác nhau và do đó việc sử dụng chúng cho những kết qủa khác nhau. - Thời gian hoàn vốn ( viết tắt là TP ) là thời gian cần thiết để tổng doanh thu có thể đủ hoàn lại toàn bộ vốn bỏ ra để kinh doanh. Trong đó vốn kinh doanh (C) có thể cấu tạo từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn tự có, vốn vay,...Do đó, doanh thu (DT) cũng phải phân bổ cho nhiều hạng mục như: khấu hao, trả vay và trả lãi, lợi nhuận của doanh nghiệp... b.Hiệu quả tài chính của hoạt động ngoại thương trong điều kiện có tín dụng. * Đánh giá hiệu quả tài chính các hợp đồng mua, bán chịu cách tính lãi -- Trường hợp lãi tức đơn: Khi lãi tức chỉ tính theo số vốn gốc mà không tính thêm lãi tức tích luỹ phát sinh từ các thời đoạn trước đó thì ta gọi là lãi tức đơn : Lãi tức đơn được tính theo công thức : I = p.s.t I - Lãi tức đơn (đồng) p : Số vốn cho vay s : Lãi suất đơn (%) t : Số thời đoạn trước khi rút vốn ( thanh toán) - Trường hợp lãi tức ghép : Trường hợp người mua hàng vay theo từng thời đoạn chưa đủ sức trả lãi hoặc muốn dùng số lãi này để đập thêm vào vốn gốc để tăng vốn kinh doanh, hoặc chủ nợ ( người bán hàng ) không muốn cho vay theo kiểu lãi tức đơn, phải thu tiền về lẻ tẻ thì lúc đó việc vay mượn thường được tiến hành theo thể thức lãi tức ghép. Trong trường hợp này tiền lãi của thời đoạn trước sẽ được cộng vào vốn gốc để tính lãi cho thời đoạn tiếp theo. Ta thường gọi đây là trường hợp lãi mẹ đẻ lãi con. + Giá trị tương lai : Khái niệm lãi ghép trên đây cho ta thấy rõ cách tìm giá trị tương lai của một số tiền, được tính theo công thức. Pt = P (1 + i )t - Đánh giá hiệu quả tài chính hoạt đồng kinh doanh bằng phương pháp hiện giá Nếu đã biết giá trị tương lai Pt ta có thể tính được giá trị hiện tại P ở cuối năm t với lãi suất i% năm như sau : Pt P = (1 + i )t (i: là lãi suất chiết khấu, các ký hiệu khác vẫn như cũ) 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Các nhân tố bên ngoài Luật pháp và chính sách của Nhà nước. Đây là yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm chắc và tuân theo một cách vô điều kiện và nó thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền ở mỗi nước. Sự thống nhất chung của quốc tế sẽ bảo vệ các lợi ích của mỗi tầng lớp trong xã hội cũng như lợi ích của các nước trên thương trường quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau bởi vậy nó chịu tác động của các chính sách, chế độ luật pháp của mỗi quốc gia, đồng thời nó cũng phải tuân theo những quy định luật pháp quốc tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đẩy đủ trách nhiệm vì nghĩa vụ của mình trong hoạt động nhập khẩu. Do đó tạo được sự tin tưởng trong quan hệ thương mại quốc tế. Những chính sách quan trọng nhất của Việt nam hiện nay bao gồm: giấy phép, hạn ngạch nhập khẩu, thuế nhập khẩu, kiểm soát ngoại tệ và Tỷ giá hối đoái. - Thuế nhập khẩu: Đây là nhân tố làm đội giá thành hàng hóa nhập khẩu, nên các doanh nghiệp nhập khẩu cần phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng đến hiệu quả kinh doanh. Hai vấn đề cơ bản của nhập khẩu là cách đánh thuế và biểu thuế quan. - Hạn ngạch nhập khẩu: Là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị của mặt hàng được phép nhập khẩu từ thị trường nào đó trong một thời hạn nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép nhập khẩu. Đây là biện pháp hạn chế hoạt động nhập khẩu của một số loại hàng hóa khi Nhà nước nhận thấy việc nhập khẩu nhiều sẽ không có hiệu quả đối với nền kinh tế xã hội. - Giấy phép nhập khẩu: Mọi hoạt động nhập khẩu ở Việt nam qua các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà thuộc đối tượng đăng ký kinh doanh XNK thì doanh nghiệp đó không phải xin giấy phép nhập khẩu. Ngoài những mặt hàng này, nếu các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có nhu cầu nhập khẩu đều phải xin giấy phép nhập khẩu ở cơ quan quản lý của Nhà nước và ngành Hải quan. - Quản lý ngoại tệ và tỷ giá hối đoái: Đây là những biện pháp tác động trực tiếp tới vấn đề thanh toán trong hoạt động nhập khẩu. Đối với nước thiếu ngoại tệ như ở Việt nam áp dụng biện pháp kiểm soát ngoài tệ bằng cách điều tiết nhập khẩu một số loại hàng hóa thông qua việc phân phối ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hóa đó qua Ngân hàng quốc gia. Do vậy khi tiến hành nhập khẩu, các doanh nghiệp XNK phải xin được sử dụng ngoại tệ hoặc mua ngoại tệ từ Ngân hàng quốc gia để thanh toán cho khách hàng theo quy chế quản lý ngoại tệ của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để điều chỉnh hoạt động nhập khẩu bởi khi tỷ giá hối đoái giảm xuống, các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ nhập khẩu được hàng hóa với giá rẻ hơn và ngược lại. Nhóm nhân tố trên đây có vai trò hết sức quan trọng bởi bất kỳ một hoạt động nhập khẩu nào cũng đều phải tuân theo khuôn khổ của luật pháp và một sự thay đổi của chúng có thể gây ra những ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động nhập khẩu của cả nước nói chung và tình hình nhập khẩu của từng doanh nghiệp nói riếng. Nhân tố môi trườngkinh tế. - ảnh hưởng của biến động thị trường trong và ngoài nước: Có thể nói hoạt động nhập khẩu là cầu nối thông thừơng giữa hai nước, tạo ra sự gắn bó tác động qua lại giữa hai thị trường, phản ánh sự biến động của mỗi thị trường. Cụ thể là sự tồn động hàng hóa, giá cả giảm, nhu cầu về mặt hàng ở thị trường trong nước sẽ làm giảm lượng hàng nhập khẩu. Cũng như vậy thị trường ngoài nước quyết định sự thoả mãn các nhu cầu trên thị trường trong nước, sự biến động của nó về khả năng cung cấp sản phẩm mới. Sự đa dạng của hàng hóa và dịch vụ được phản ánh qua nhập khẩu để tác động vào thị trường nội địa. - ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước. Sự phát triển của nền sản xuất của những doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với những sản phẩm ngoài nhập, tạo ra những sản phẩm thay thế sản phẩm nhập khẩu, do vậy làm giảm nhu cầu về hàng hóa nhập khẩu. Mặt khác nếu như sản phẩm trong nước kém phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật chưa đạt đến mức độ nhất định thì không thể sản xuất được những mặt hàng trong nước có nhu cầu nhưng đòi hỏi công nghệ cao như các sản phẩm điện tử, tin học. ở Việt Nam hiện nay thì tất yếu nhu cầu về hàng hóa nhập khẩu không ngừng tăng lên vì sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài tạo ra những sản phẩm mới, hiện đại và ưu việt cũng là một nhân tố đẩy mạnh nhập khẩu. - Cơ sở hạ tầng: Hoạt động nhập khẩu là hoạt động mua bán hàng hóa giữa các thương nhân của các quốc gia khác nhau, chính vì vậy mà nó chịu sự chi phối rất lớn của các yếu tố cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông vận tải, hệ thống tài chính ngân hàng, hệ thống thông tin liên lạc. Khi mà cơ sở hạ tầng được tổ chức tốt hơn sẽ làm cho quá trình nhập khẩu diễn ra thuận tiện nhanh chóng, an toàn. Điều này làm giảm chi phí nhập khẩu cũng như tăng thêm tính hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. ở Việt Nam hiện nay, cơ sở hạ tầng đang ngày một cải thiện tốt hơn. Sự phát triển các đội tầu biển, máy bay, các tuyến đường sắt cũng như hệ thống dịch vụ giao nhận kho vận làm cho quá trình vận chuyển diễn ra nhanh hơn, an toàn hơn, với phi chí ít hơn. Ngành bưu chính viễn thông cùng với hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm đang từng bước hoà nhập vào hệ thống toàn cầu, do vậy mà các vấn đề như thanh toán, tìm kiếm thị trường, mua bảo hiểm, ký kết hợp đồng được diễn ra dễ dàng hơn. Việc phát triển cơ sở hạ tầng đang là mối quan tâm lớn của Nhà nước nhằm tạo tiền đề cho phát triển kinh tế. ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái: Nhân tố này quyết định việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương thức thanh toán, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh không chỉ của một doanh nghiệp XNK mà là của tất cả các doanh nghiệp XNK nói chung. Sự biến đổi của nó sẽ có ảnh hưởng lớn trong tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu. Chẳng hạn khi tỷ giá hối đoái thuận lợi cho nhập khẩu thì bất lợi cho xuất khẩu và ngược lại. ảnh hưởng của hệ thống tài chính, ngân hàng. Các hoạt động xuất nhập khẩu ngày nay sẽ không thực hiện được nếu không có hệ thống tài chính ngân hàng. Dựa trên mối quan hệ uy tín nghiệp vụ của mình các ngân hàng đã bảo đảm được lợi ích của doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Đồng thời với lòng tin của ngân hàng các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với khối lượng lớn kịp thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt được những thời cơ hấp dẫn. ảnh hưởng bởi môi trường văn hoá, phong tục tập quán. Mỗi quốc gia có một phong tục tập quán khác nhau. Thông thường các sản phẩm sản xuất ở nước nào cũng đều bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa của nước đó. Do vậy khi nhập khẩu hàng hóa các doanh nghiệp cần bảo đảm tính phù hợp về văn hóa của hàng hóa nhập khẩu đối với thị trường tiêu dùng trong nước. Việc nghiên cứu về đặc tính văn hoá của sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến việc bán hàng và quyết định đến hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. ảnh hưởng của môi trường chính trị, khoa học công nghệ. Cũng như môi trường luật pháp, kinh tế, môi trường chính trị, công nghệ cũng là yếu tố mà các doanh nghiệp cần phải cân nhắc khi tiến hành hoạt động nhập khẩu. Sự ổn định chính trị của một nước cũng như quan hệ của nước đó với các nước khác có liên quan, ví dụ như lệnh cấm vận của Mỹ với Việt Nam trước đây, đã hạn chế hoạt động nhập khẩu của Việt Nam, không chỉ với Mỹ mà cả những nước có quan hệ thương mại với Mỹ. Môi trường công nghệ đặc biệt quan trọng đối với hoạt động nhập khẩu của một nước có trình độ công nghệ còn lạc hậu như Việt Nam. Bởi vì nếu biết khai thác sử dụng tốt sản phẩm công nghệ tiên tiến được nhập từ nước ngoài về, thì nó sẽ là yêu tố thúc đẩy nền công nghệ trong nước phát triển và ngược lại. b. Các nhân tố bên trong. Tình hình tài chính của Công ty. Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động nhập khẩu. Theo quy định 57 ND của pháp luật, 200.000 USD là số vốn tối thiểu ban đầu khi thành lập doanh nghiệp để một doanh nghiệp được trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Một doanh nghiệp có vốn kinh doanh lớn thì sẽ nhập được sự ưu thế về sản phẩm, cũng như các lô hàng có trọng lượng lớn, như máy móc công nghệ hiện đại đắt tiền điều mà các doanh nghiệp nhỏ sẽ không thực hiện được. Trong một bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát triển nền kinh tế còn thiếu vốn trầm trọng như hiện nay, các doanh nghiệp nhập khẩu phải tích cực tìm kiếm các nguồn huy động vốn từ bên ngoài bằng hình thức vay hoặc liên doanh với nước ngoài, mới có thể đáp ứng nhu cầu cho hoạt động nhập khẩu của mình từ đó nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của Công ty. Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường đều có một môi trường kinh doanh nhất định, nó tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc kinh doanh, đồng thời nó cũng có tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong kinh doanh, nhân tố kinh tế xã hội và phong tục tập quán của mỗi dân tộc sẽ quyết định đến loại hàng, số lượng hàng cũng như phong cách hình thức của hàng hóa kinh doanh nhập khẩu như vậy các doanh nghiệp kinh doanh XNK cần phải cân nhắc cận thận đến vấn đề này trước khi tiến hành kinh doanh XNK. Hệ thống giao thông vận tải liên lạc. Hoạt động nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các nước với nhau nên đặc điểm nổi bật của nó là sự khác xa về mặt không gian, vì thế hoạt động này luôn gắn liền với hệ thống giao thông vận tải và liên lạc. Khi yêu cầu về cung ứng hàng hóa được đáp ứng kịp thời, chính xác thì sẽ là cơ sở tạo niềm tin, uy tín cho doanh nghiệp. Vì thế, một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu không thể không quan tâm áp dụng những công nghệ thông tin hiện đại và hệ thống giao thông vận tải phù hợp với hoạt động nhập khẩu của mình. Phần II Phân tích thực trạng hoạt động Nhập khẩu hàng hoá của Công ty dịch vụ-Thương mại số 1 I. Khái quát về qúa trình hình thành và phát triển của Công ty. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Công ty Dịch vụ Thương Mại số 1 ra đời ngày 26-9-1995 sau khi Tổng công ty Dệt May Việt Nam được thành lập, là đơn vị hạch toán phụ thuộc tổng công ty, công ty được thành lập từ việc sát nhập 4 đơn vị như xí nghiệp sản xuất và dịch vụ Dệt, Tổng kho Dệt Đức Giang, xí nghiệp Dệt kim thuộc tổng công ty Dệt May Việt Nam và xí nghiệp sản xuất và dịch vụ may thuộc liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu May. Đây là những đơn vị có hoàn cảnh ra đời giống nhau vào những năm đầu của thập kỳ 90 nhằm thu hút số cán bộ dôi dư thuộc cơ quan văn phòng Liên Hiệp các xí nghiệp Dệt và Liên Hiệp các xí nghiệp May. Sau 4 tháng hoạt động từ ngày 1-1-1996 đã xuất hiện dấu hiệu tổ chức của công ty không ổn định và lại có sự chia tách mới, cuộc chia này kéo dài suốt 2 năm kể từ tháng 5 năm 1996 đến 30-10-1996 kết qủa là: ngày 15-5-1996, xí nghiệp May Hà Nội được chuyển về công ty Dệt Vải công nghiệp, ngày 18-8-1997 xí nghiệp May Hồ Gươm tách ra hạch toán độc lập, ngày 20-4-1998 xí nghiệp May Thời Trang Trương Định sát nhập với xí nghiệp May Hồ Cươm, cuối cùng chỉ còn xí nghiệp Sản Xuất và Dịch Vụ Dệt trước đây ở lại và thêm một số lao động của Tổng Kho Đức Giang mang tên công ty Dịch Vụ Thương Mại số 1, tổng số vốn của công ty sau khi bàn giao chỉ còn 6 tỷ 650 triệu đồng, trong đó có 4 tỷ 825 triệu đồng là vốn lưu động, lao động có 85 người. 2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. Từ một công ty hoạt động trên hai lĩnh vực sản xuất dịch vụ, công ty chỉ còn hoạt động dịch vụ thương mại thuần tuý để thích ứng với nhiệm vụ này, công ty tiếp tực sắp xếp lại bộs máy tổ chức của công ty gồm: 2 phòng nhệm vụ, phòng tài chính kế toán và tổ chức hành chính, 5 cửa hàng, trung tâm bán buôn bán lẻ sản phẩm Dệt May, 1 nhà nghỉ 20 phòng khép kín. (Sơ đồ trang bên) Phòng nghiệp vụ 1: Có chức năng kinh doanh hàng nội địa các mặt hàng vải, sợi, hàng may mặc sẵn, vải Dệt kim, sợi dệt kim tuyn, len... với các phương thức bán buân bán lẻ, bán đại lý cho các Công ty đồng thời tại nguồn hàng bán lẻ tại các cửa hàng. Phòng nghiệp vụ 2: Là phòng chủ chốt của công ty thực hiện nhiệm vụ quan trọng mà Giám đốc giao, đó là kinh doanh nhập khẩu bông, xơ, tơ, sợi, kinh doanh nguồn sợi chính cho khách hàng truyền thống. Kết quả kinh doanh của phòng là quyết định sự tồn tại của công ty. Bởi vậy, phòng luôn được sự chỉ đạo chặt chẽ, trực tiếp của Ban Giám đốc, phòng được biên chế gọn nhẹ, có những chuyên gia về lĩnh vực bông sợi, hoá chất và có nghiệp vụ tốt trong những lĩnh vực xuất nhập, giao nhận hàng. Nhà nghỉ Hoa Lan: Nằm trên vị trí không thuận tiện cho kinh doanh, xa trâm tâm, xa khu thương mại, khách qua lại ít. Tuy vậy năm 2000 đã đạt kết quả chưa từng có từng có từ trước đến nay, bởi con số của năm 2000 là 250 triệu đồng và so với kế hoạch đạt 142%, so với năm 1999 vượt 47%. Phòng tổ chức hành chính: Với chức năng hành chính là quản lý con người phải giải quyết chế độ chính sách, quản lý tài sản công ty, phục vụ cho công tác kinh doanh, đồng thời quản lý một phần kinh doanh, đó là cho thuê mặt bằng và kinh doanh vải mex Phòng tài chính kế toán: tài chính kinh doanh như huyết mạch của cơ thể, nếu không làm tốt khâu này thì kinh doanh sẽ không thể đạt kết quả, trong công tắc thanh toán và ký kết hợp đồng mới. Phòng đã được chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc, ngoài ra trong công tắc là việc của phòng, phòng đã phân công rõ ràng cho từng cán bộ trong từng lĩnh vực, theo dõi, kiểm tra đinh kỳ hàng tháng hoạt động kinh doanh của các phòng và các cửa hàng. 3. Đặc điểm kinh doanh của Công ty. a. Đặc điểm về sản phẩm kinh doanh. Chức năng chủ yếu của Công ty là kinh doanh hàng nguyên liệu phục vụ cho các công ty Dệt và các ngành khác nếu có nhu cầu. Về mặt hàng kinh doanh Công ty đã có nhiều chuyển biến tích cực để hoà nhập vào thị trường nhưng vẫn còn có nhiều nét riêng của thương nghiệp quốc doanh đó là: gắn kinh doanh với phục vụ, đảm bảo chất lượng sản phẩm bán ra, giá cả được niêm yết rõ ràng. Cùng với phương thức phục vụ tốt nên Công ty luôn giữ được chữ tín đối với khách hàng. Trong khâu bán lẻ, đã có nhiều cửa hàng bán đại lý ở các điểm trong các trung tâm thành phố, với sự chuyển dịch trong từng lĩnh vực kinh doanh. b. Đặc điểm về thị trường và khách hàng của Công ty. Do Công ty có điểm bán hàng đặt ngay tại trung tâm thủ đô như cửa hàng bán giới thiệu sản phẩm 16 Lý Nam Đế Hà Nội, cửa hàng giới thiểu sản phẩm 85 Cầu Đông Hà Nội, Trung tâm thời trang Dệt May19-21 Đinh Tiên Hoàng Hà Nội, Trung tâm thời trang Dệt may ASEAN số 10 Phạm Ngọc Thạch Hà Nội, Trung tâm thời trang Quang Trung-Thành Phố Vinh-Nghệ An (đơn vị liên doanh) có một lợi thế rất lớn nằm tại đầu mút giao thông quan trọng, do đó đã thu hút được khối lượng lớn khách hàng trong và ngoài thành phố. Thị trường của công ty đã chia thành hai loại: Thị trường truyền thống: Đối với thị trường truyền thống Công ty đã có nhiều giải pháp thích hợp về chính sách với khách hàng, cập nhật kịp thời về giá cả đặc biệt là dịch vụ cung ứng kịp thời, nhất là khách hàng lớn như Dệt Nam Định, Dệt Kim Đông Xuân, Dệt Hà Nam, Dệt Hồng Quân .v.v.. nên đã duy trì và phát triển tốt. Thị trường tiềm năng: Công ty tăng cường mở rộng phạm vi kinh doanh, động viên khuyến khích việc khai thác thị trường mới, và thực tế năm 2000 Công ty đã đạt được một thành tích rất đáng khích lệ trong lĩnh vực này, đã nhập và tiêu thụ được trên 1000 tấn giấy và hạt nhựa đạt doanh số trên 10 tỷ đồng với lãi gộp trên 500 triệu đồng. Trong năm tới, Công ty sẽ tăng cường công tác tiếp thị hơn nữa nhằm tiến tới gia công bao bì để cung ứng cho các đơn vị sản xuất xi măng, tạo nên sự khép kín từ cung ứng nguyên liệu giấy, nhựa nhập và lấy sản phẩm bao bì để tiêu thụ. Công ty TRASCO đã quan hệ liên kết với đối tác Trung Quốc để kinh doanh phụ liệu, bước đầu đã tìm được phương thức kinh doanh hợp lý, tuy mới kinh doanh trên lĩnh vực này nhưng rất có triển vọng vì đây là một thị trường khá lớn còn bỏ ngỏ và nhu cầu của nó ngày càng một cao. Ngoài việc cung ứng vật tư hàng hóa cho các bạn hàng truyền thống, Công ty còn đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu nguyên liệu của các làng nghề, nắm chắc nhu cầu nguyên liệu sản xuất ở các khu vực này, những nguyên liệu trong nước sản xuất được, Công ty tổ chức đặt hàng cho các đơn vị trong nước sản xuất, những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được thì tổ chức nhập khẩu. Đây là một thị trường rộng lớn nếu Công ty biết khai thác và tận dụng tiềm lực của mình để xây dựng một thị phần mới đáng tin cậy với khách hàng. c. Đặc điểm về đối thủ cạnh tranh. Kinh doanh nhập khẩu là chính cho công ty nên có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, cả hiện hữu lẫn tiềm ẩn. Việc tồn tại cạnh tranh là có lợi cho nền kinh tế và người tiều dùng nhưng lại là nguy cơ tiêu diệt bất kỳ doanh nghiệp nào nếu không đầu tư và nỗ lực hơn nữa trong việc duy trì thế vị trên thị trường. Sự thôn tính tranh giành người cung cấp và khách hàng diễn ra hàng ngày hàng giờ và vô cùng khốc liệt diễn ra giữa các công ty thuộc mọi thành phần kinh tế. Thực tế cho thấy rằng mọi chi phí để lôi kéo một khách hàng mới sẽ lớn hơn rất nhiều chi phí để giữ chân khách hàng cũ, vì vậy sự cố thủ, bảo vệ khách hàng cũ và mở rộng quy mô thu hút khách hàng mới đã làm cho cạnh tranh được đẩy lên định điểm. Đối thủ cạnh tranh của Công ty có rất nhiều và xuất hiện dưới nhiều hình thức cùng với cách thức cạnh tranh của mỗi đối thủ là khác nhau, điển hình nhất là những thương nhân buôn bán không cần chứng từ, hoá đơn, trốn thuế và giảm giá bán để cạnh tranh với Công ty. d. Đặc điểm về vốn, tài sản của Công ty. Đặc điểm về vốn và tài sản: Công ty TRASCO là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam nên nguồn vốn của Công ty được hình thành từ hai nguồn là vốn do Tổng công ty dệt may Việt Nam cấp và vốn tự có. Khi thành lập Công ty năm 1996: +Tổng số vốn kinh doanh: 6.650 triệu đồng. + Vốn lưu động là: 4.825 triệu đồng. Bởi vốn kinh doanh được cấp quá ít nên vốn kinh doanh phần lớn là vay Ngân hàng và CBCNV, năm 2000 Công ty phải trả lãi vay với tổng số tiền lãi vay trên 1 tỷ đồng. Về tài sản cố định: Cơ sở hạ tầng của công ty tại Hà Nội gồm trụ sở chính tại 20 đường Lĩnh Nam, quận Hai Bà Trưng và một số đơn vị kinh doanh nằm xung quanh thành phố như Cửa hàng giới thiệu sản phẩm 16 Lý Nam Đế, Cửa hàng giới thiệu sản phẩm 85 Cầu Đông, Trung tâm thời trang Dệt May 19-21 Định Tiên Hòang, Trung tâm thời trang Dệt May ASEAN số 10 Phạm Ngọc Thạch và Nhà nghỉ Hoa Lan. Hiện nay Công ty đang hiện đại hoá máy móc thiết bị cơ sở vật chất, điều này cho thấy sự định hướng đúng đắn, lâu dài trong qúa trình phát triển kinh doanh, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. 4. Kết quả hoạt động của Công ty dịch vụ thương mại số I trong những năm qua. a. Tình hình thực hiện kế hoạch. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch của Tổng công ty Dệt May giao cho về tăng cường phục vụ nhu cầu mặc trong nước và từng bước giành lại thị phần bị hàng ngoài nhập chiếm lĩnh, Công ty đã thành lập các trung tâm thời trang ở Hà Nội và liên kết với công ty thương mại thành phố Vinh để cùng nhau mở rộng các chi nhánh tiêu thụ sản phẩm. Các đơn vị bán lẻ này chủ yếu là bán đại lý cho các công ty dệt may thuộc Tổng công ty và một số mặt hàng do Công ty khai thác. Việc mở cửa hàng bán lẻ của Công ty đã gây được có sức cạnh tranh đáng kể đối với hàng nhập lậu vì hàng của ta đã có nhiều tiến bộ về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng đảm bảo. Hiện nay khách hàng đã quen và ưa thích hàng may mặc sản xuất trong nước. Trong kinh doanh Công ty luôn coi trọng chất lượng phục vụ, kể cả khâu bán buôn và bán lẻ. Coi trọng chữ Tín. ý thức này được quán triệt trong toàn đơn vị. Mọi người đều nghiêm túc thực hiện. Nhờ vậy được khách hàng tin mến, giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài với Công ty. Hơn bốn năm hoạt động trong điều kiện khó khăn, đơn vị mới thành lập, thị phần còn nhỏ bé lại phải đối đầu với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường, song Công ty vẫn luôn giữ được bản sắc, phong cách làm ăn của một doanh nghiệp Nhà nước thời kỳ đổi mới, sau đây là kết quả kinh doanh qua các năm mà Công ty đặt được: ĐV: Triệu đồng. Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Toàn công ty Trđó VP Toàn công ty Trđó VP Trđó VP Doanh thu cóVAT 90.733 80.841 104.716 100.210 104.914 133.536 Giá vốn 85.192 76.936 99.851 95.568 91.735 128.492 Lãi gộp 5.541 3.905 4.865 4.642 3.646 5.044 Thuế DT VAT 724 461 769 594 3.510 5.867 Khấu hao 632 228 602 235 360 384 Lãi trước thuế 705 234 314 311 189 250 Thu nhập b/q năm 0.760 0.900 1.473 1.647 Bảng 2. Doanh thu không có VAT kinh doanh qua các năm: Năm 1996: 75.566 triệu đồng, thu nhập bình quân tăng 49%. Năm 1997: 90.009 tr.đ, thu nhập bình quân tăng 76%. Năm 1998: 103.947 tr.đ, thu nhập bình quân tăng 90%. Năm 1999: 101.404 tr.đ, thu nhập bình quân tăng 147.3%. Năm 2000: 127.669 tr.đ, thu nhập bình quân tăng 164.7%. - Về xuất khẩu: Công ty tổ chức gia công các loại quần áo dệt thoi và dệt kim để xuất khẩu sang thị trường Đông âu. Khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài. - Về nhập khẩu: Công ty đã ký hợp đồng nhập khẩu với hầu hết các nước trong khu vực như Châu á, Châu âu với nhiệm vụ này Công ty đã giao cho phòng nghiệp vụ 2 thực hiện, vì là khâu quan trọng nhất của Công ty hoặc có thể nói đây là yếu tố quyết định sự tồn tại của Công ty, như vậy phòng luôn được sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc để việc kinh doanh nhập khẩu của Công ty đạt kết quả cao nhất. Từ năm 1996 đến 2000, mặt hàng nhập khẩu của Công ty chủ yếu là: + Bông nhập: 1.750 tấn. + Xơ nhập: 500 tấn. + Giấy kraft: 920 tấn. + Hạt nhựa: 108 tấn. + Sợi các loại: 1.352 tấn. Riêng mặt hàng giấy và hạt nhựa Công ty mới bắt đầu khai thác từ cuối năm 1999 nhưng năm 2000 đã đạt được một giá trị cao với 920 tấn giấy,108 tấn nhựa, đạt trên 10 tỷ đồng doanh thu với lợi nhuận cao, ngoài ra kết quả này đã góp phần tích cực bù vào giá trị các mặt hàng bị thiếu thụ của năm 1999. Riêng năm 2001, doanh thu đạt 152 tỷ đồng (đạt 101,33% so với kế hoạch), lợi nhuận trước thuế đạt 210 triệu đồng . Cụ thể ở các đơn vị như sau: Stt Các đơn vị Kế hoạch doanh thu năm 2001 (tỷ đồng) Thực hiện năm 2001 (tỷ đồng) Thực hiện so với kế hoạch (%) 1 Phòng NV1 31 30 97 Trong đó: -Văn phòng 29,76 - Cửa hàng 0,240 2 PhòngNV2 100,5 98,535 98 3 Phòng NV3 16 4 Trung tâm Dệt may 3 18 18,541 103 5 TTTT 61-63 Cầu Gỗ 2,4 2,278 95 6 Phòng TCHC 1 0,950 95 Trong đó: MEX 0,320 0,3 93,7 7 Nhà nghỉ Hoa Lan 0,250 0,29 116 Kế hoạch Tổng Công ty giao năm 2001 tăng 30% so với kế hoạch năm 2000, tăng 12,7% so với thực hiện năm 2000. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ trong hoàn cảnh công ty không được bổ sung vốn cho đến ngày 24/10/2001. b. Thuận lợi và khó khăn của Công ty: Những thuận lợi: Công ty đã có nhiều hệ thống cửa hàng trong các trung tâm thành phố như ở Hà Nội và cửa hàng liên doanh ở Nghệ An (Vinh). Mặt hàng kinh doanh của các cửa hàng là rất đa dạng về mẫu mã, số lượng để góp phần thuần lợi gây được sự chú ý và có ấn tượng đối với khách hàng. Công ty có nhiều bạn hàng lâu năm có nhu cầu lớn như các công ty Dệt May, các nhà làng nghề, công ty xi măng, các công ty sản xuất nhựa ... Đội ngũ cán bộ Công ty theo một hệ thống nhất định, luôn đoàn kết, hợp tác trong công việc nên Công ty rất thuận lợi trong việc giải quyết những khó khăn. Trong qúa trình kinh doanh, Công ty đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Tổng công ty dệt may Việt Nam, sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng. Đặc biệt, Công ty đã được sự giúp đỡ của Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội ... giúp Công ty có vốn để kinh doanh. Trong suốt những năm qua, Công ty đã xây dựng được uy tín với Ngân hàng, thực hiện các khế ước vay đúng thời hạn. Những khó khăn: Khó khăn lớn nhất của Công ty hiện này là thiếu vốn, hiện nay vốn lưu động của Công ty chỉ có 4.825 triệu đồng so với kế hoạch của Tổng Công ty giao về doanh thu 150 tỷ đồng là quá ít, nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của Công ty là dựa vào vốn vay ngân hàng, riêng năm 2000 Công ty phải trả lãi vay trên 1 tỷ đồng, trong năm 1998 và những năm cuối năm 2000 đồng tiền Việt Nam mất giá nhanh, trong khi đó Công ty phần lớn đều vay bằng đô la Mỹ để nhập khẩu nên phải bù trượt giá ( năm 1998: gần 300 triệu đồng; năm 2000: trên 500 triệu đồng ). Trong các cửa hàng kinh doanh của Công ty tuy đã đạt được kết qủa cao nhìn chung nhưng đối với một số cửa hàng trong thời gian qua đã gặp không ít khó khăn như Trung tâm ASEAN, mặt bằng ở đây rộng song lợi thế thương mại bị hạn chế, một mặt do cửa hàng nằm ở tầng 2, mặt khác do sức mua của dân cư không cao, Trung tâm đã khai thác thêm nguồn hàng để bán buôn nhưng hiệu quả kinh doanh còn bị hạn chế. Đối với siêu thị Vinh, kinh doanh chỉ hoà vốn do sức mua kém, ngoài ra nguồn hàng chỉ do Công ty Dịch vụ-Thương mại số 1 cung cấp, còn công ty Thương mại Vinh là chưa quan tâm đúng mức như vậy nhiều khi các mặt hàng để kinh doanh trong cửa hàng lại không phong phú để áp ứng nhu cầu của khách hàng. Hơn nữa đội ngũ mậu dịch viên thiếu năng động. Như đã nêu ở phần trên mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Công ty là bông, xơ, sợi nhưng lại có rất nhiều đối tác với những thành phần kinh tế khác nhau, trong đó các thành phần tư nhân là có lợi thế hơn vì Nhà nước chưa có cơ chế quản lý thực hiện như các doanh nghiệp Nhà nước. Từ đó họ có thể bán giá thấp hơn do trốn thuế và việc chăm sóc khách hàng của họ là hấp dẫn hơn. II. PHÂN TíCH Thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Công ty trong những năm gần đây. Trong các năm từ 1999 đến 2001 mặc dù gặp nhiều điều khó khăn nhưng Công ty đã không ngừng phấn đấu để đạt kết quả năm nay lớn hơn năm trước với mức độ quyết tâm cao, Công ty đã vượt qua những thách thức và khó khăn đó để trở thành một Doanh nghiệp Nhà nước thời kỳ đổi mới thực sự. Kết qủa nhập khẩu theo thị trường năm 1999. STT Thị trường Tên hàn nhập Số Lượng NK (kgs) Trị giá NK USD Tỷ lệ % tông giá trị NK. 1 Trung Quốc, Nga, Thái Lan, Đài Loan. Sợi 163.968 386.582 14,78% 2 Nga, Nhật Bản. Bông 1.284.043 1.552.294 59,33% 3 Đài Loan, Hàn Quốc. Xơ 481.369 370.586 14,16% 4 Singapo, Đại Loan, Nhật Bản. Hoá chất 280.280 129.229 4,94% 5 Đài Loan Giấy bao bì 401.522 173.241 6,62% 6 Hàn Quốc Bột PE 2000 4.500 0,17% Tổng cộng: 2.613.182 2.616.432 Nguồn: trích từ báo cáo nhập khẩu trực tiếp năm 1999. Kết qủa nhập khẩu theo thị trường tháng 2000. STT Thị trường Tên hàng nhập Số Lượng NK (kgs) Trị giá USD Tỷ lệ % tổng giá trị hàng NK 1 Nga Sợi Visco 120D/30F 761.692,280 1.767.908,320 57,81% 2 Anh 277.426,990 329.388,767 10,77% 3 Trung quốc Sợi 120D/30F 83.253,400 185.943,100 6,08% 4 Đài Loan Sợi 150D/34-48F 370.122,400 171.039,580 5,59% 5 Indonesia Xơ PE 218.334 162.118,470 5,30% 6 Hàn quốc Xơ PE 216.000 181.440,000 5,93% 7 Thụy sĩ 100.592 130.769,600 4,28% 8 úc Bông 9.9694,000 129.602,200 4,24% Tổng cộng 3.127.015 3.058.210 Nguồn: trích từ báo cáo nhập khẩu trực tiếp năm 2000. Kết qủa nhập khẩu theo thị trường năm 2001. Đơn vị: 1000kg STT Thị trường Tên hàng nhập Số Lượng NK (kgs) Trị gía USD Tỷ lệ % hàng NK 1 Uzơbêkistan, Bông xơ thiên nhiên 192 281.328 52,11% 2 Đài Loan Xơ PE, hoá chất 344 258.541 47,89% Tổng cộng: 536 539.869 Nguồn: trích từ báo cáo nhập khẩu trực tiếp năm 2001. Trong những năm qua Công ty dịch vụ-thương mại đã thành lập quan hệ kinh tế thương mại với các nước trong các châu lục như châu á, châu Âu, Châu Mỹ. Trong các lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu, Công ty thường tiến hành nhập khẩu từ các thị trường như: Nhật, Hàn quốc, Singapoe, Trung quốc, Đài Loan, Nga, Uzơbêkistan, Pakistan. Năm 1999. Năm 1999 cơ cấu vốn kinh doanh nhập khẩu của Công ty đạt 2.616.432 USD tăng hơn năm 1998 là 1.184.921 USD. Sở dĩ như vậy là vì, năm 1999 là năm chấm dứt cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực đã bắt đầu từ năm 1997 - 1998, và đây là mốc đường mới để các nước bị ảnh hưởng, sớm lại khôi phục nền kinh tế của mình từ các khoản vốn vay quỹ tiền tệ quốc tế. Như vậy sức mua, khi từ trước đây đã giảm xuống mà bây giờ đã dần dần tăng lên, làm cho thị trường trong và ngoài nước sôi nổi hơn. Công ty TRASCO đã nhập khẩu những mặt hàng mà thị trường trong nước có nhu cầu nhất để làm sao các doanh nghiệp sản xuất trong nước có thể sản xuất những hàng hóa có tính lợi thế cạnh tranh nhất và Công ty đã thành công trong chiến lược này với tổng doanh thu năm nay tăng 108.000 triệu đồng, so với năm 1998 là 104.850 triệu đồng tương đương 3% và tăng hơn 19,03% so với tổng doanh thu năm 1997 là 90.732 triệu đồng. Năm 2000 đến năm 2001. Năm 2000 và năm 2001, Công ty coi là hai năm vàng với tổng trị giá hàng nhập khẩu năm 2000 đạt 3.058.210 USD, tăng hơn năm 1999 là 441.778 USD, năm 1998 là 1.626.699 USD và năm 1997 là 4.664.246 USD và năm 2001 đạt 5.882.331USD tăng hơn năm 2000 là 2.824.121 USD. Hiện nay Công ty đã mở rộng được nhiều quan hệ kinh doanh với các nước trong khu vực châu á và châu âu. Đặc biệt khu vực châu Âu như Thụy Sĩ, Anh, úc, Uzơbêkistan để nhập khẩu các mặt hàng có chất lượng cao, giá hợp lý, chẳng hạn như giấy kraft, hạt nhựa PP, bột PE cung cấp cho ngành dệt may trong nước. Nhìn chung trong năm 2000 và 2001 là năm có sự biến động lớn về phân bố khu vực thị trường nhập khẩu. Trong đó đáng chú ý nhất là thị trường châu á tỏ ra quan trọng đối với Công ty, điều này được thể hiện qua số lượng hàng nhập khẩu từ khu vực này ngày càng tăng, còn các thị trường khác, Công ty rất coi trọng và tìm hiểu những mặt hàng có nhu cầu và lợi thế trên thị trường. 1. Phân tích tình hình hoạt động nhập khẩu theo thời gian. Qua số liệu tổng trị giá hàng nhập khẩu của Công ty thì xu hướng chung đều tăng, thể hiện qua năm 2001, tổng giá trị hàng nhập khẩu là 142 tỷ đồng tăng hơn năm 1999 là 4,187%, năm 1998 là 5,277% so với năm 1998. Như vậy trị giá hàng nhập khẩu của Công ty qua các năm đều tăng dần, đây cũng là tình hình chung của nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng có sự biến động theo xu hướng tăng lên về quy mô cũng như thị trường tiêu thụ. Đặc biệt mặt hàng nguyên vật liệu, hoá chất, giấy kraft phục vụ cho ngành dệt may, nhựa cung cấp cho ngành sản xuất bao bì xi măng là những mặt hàng đang có nhu cầu ngày càng tăng trên thị trường bởi Việt Nam là một đất nước đang phát triển, trong giai đoạn quá độ như hiện nay Nhà Nước đã coi ngành dệt may là một bộ phận quan trọng để tạo việc làm cho nhiều người lao động trong xã hội và chiếm lại thị phần của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước. Như vậy Công ty TRASCO trong thời gian qua đã tạo được uy tín là một nhà cung cấp nguyên vật liệu cho các công ty dệt may, giúp các công ty này hoàn thiện khâu sản xuất nhanh hơn và kịp thời theo nhu cầu của thị trường. 2. Phân tích tình hình hoạt động nhập khẩu theo mặt hàng. Nhập khẩu theo kết cấu mặt hàng. TT Mặt hàng ĐVT 1999 (1) 2000 (2) 2001 (3) % (1) so với (2) %(2) so với (3) 1 Vải các loại M 1804443 2536000 1611800 140 -63 2 Vải tuyn M 153068 103597 -67 3 Màn tuyn C 1126 135 -82 4 Mày mặc sẵn C 265800 360000 5340 131 -1,48 5 Chăn các loại C 11586 19600 40030 169 204 6 Bông Tấn 1354,76 1750 1770,4 129 101 7 Xơ Tấn 419,9 500 465,8 119 -68 8 Sợi các loại Tấn 1167,7 1500 1522,1 128 101 9 Hoá chất TN Tấn 395,6 280 259,58 -70 -07 10 Giấy Kraft Tấn 400 920 895,85 230 -0,9 11 Hạt nhựa Tấn 0 108 Qua bảng biểu trên ta thấy, trong những năm cần đây, Công ty tiến hành nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu sau: + Bông: Mặt kinh doanh này được Công ty nhập với khối lượng mỗi năm đều tăng, năm 1999 là 1354,76 tấn, năm 2000 là 1750 tấn, so với năm 1999 là tăng 129%, năm 2001 là 1770,4 tấn tăng so với năm 2000 là 101%. Công ty rất thành công trong lĩnh vực này, bởi khối lượng tiêu thụ bông của Công ty mỗi năm đêù tăng lên và xu hướng này cho ta thấy ngành dệt may Việt Nam đang có bước phát triển cao cả khối lượng cũng như chất lượng của hàng dệt may của Việt Nam, để phục vụ nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước ngày càng tăng hiện nay. + Vải các loại: Mặt hàng này được Công ty kinh doanh từ khi Công ty mới hoạt động trong lĩnh vực này, với số lượng nhập mỗi năm tăng dần. Đặc biệt năm 1999 số lượng nhập vải của Công ty là 1,804,443m, năm 2000 là 2,536,000m, tăng tương đương 140% so với năm 1999, tuy nhiên năm 2001là 1,611,800 giảm 63% so với năm 2000 Công ty đã kinh doanh với nhiều hình thức như bán buôn hoặc bán lẻ cho các công ty dệt may, các khách hàng làng nghề, kinh doanh dưới hình thức uỷ thác rồi lấy sản phẩm để tiêu thụ.... Ngoài ra Công ty còn nhập vải tuyn, năm 1999 với khối lượng nhập là 153,068m, năm 2000 là 103,597m, nhưng giảm -67% so với năm 1999, lý do là vì mặt hàng này được nhập theo nhu cầu của khách hàng và tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, như vậy khối lượng nhập đã biến động không đồng đều.Năm 2001 không nhập 2 mặt hàng này. + Xơ: Với mặt hàng này Công ty nhập vào năm 1999 là 419,9 tấn, năm 2000 là 500 tấn tăng hơn năm 1999 là 119%, tuy nhiên năm 2001 là 465,8 tấn, giảm so với năm 2000 là 6,84% . Xơ là một phần nguyên liệu rất cần thiết cho việc sản xuất của các bà con làng nghề để dệt vải, dệt khăn tây, khăn mặt, khăn tắm... bà con làng nghề là khách hàng chính, vì vậy mỗi năm tổng khối lượng xơ được nhập đều biến động theo nhu cầu của nhóm khách hàng này có thể tăng lên và giảm đi vì bà con làng nghề chỉ sản xuất theo đa phần lớn là làm ăn lời theo từng mùa, nếu năm nào giá trị hàng thấp thì đổi làm cái khác và ngược lại. Cụ thể là năm 1997 xơ chiếm tỷ trọng trong tổng kim ngạch nhập khẩu khá lớn là 40,85%, năm 1998 là 26,44% , năm 1999 là 18,42%, năm 2000 là 14%. Còn khách hàng thứ hai là các công ty dệt như dệt Hồng Quân, dệt Nam Định, dệt Kim Đông Xuân.... + Sợi các loại: Đây là mặt hàng nhập khẩu chủ lực và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị hợp đồng nhập khẩu của Công ty. Mặt hàng này chiếm tỷ trọng tăng dần đặc biệt là năm 1999 là 1167,7/tấn, năm 2000 là 1500/tấn tăng hơn năm 1999 là 128%, năm 2001 là 1522,1 tấn tăng 101%. Đây là mặt hàng mang lại lợi nhuận tương đương lớn cho Công ty. Năm 1999 Công ty TRASCO đã tăng được lượng tiêu thụ sợi các loại cho hai công ty lớn như: công ty Dệt Kim Đông Xuân với số lượng tiêu thụ sợi mà Công ty đưa vào là 441,740,55 kg, có tổng trị giá 19.463.853.470 triệu đồng, và năm 2000 số lượng sợi đưa vào là 568.000 kg tăng +28%, tổng trị giá là 25.298.000.000 triệu đồng, tăng +29,9%, đây là khách hàng chủ yếu nhất của Công ty. +Mặt hàng giấy kraft và hạt nhựa vì Công ty TRASCO mới bắt đầu khai thác từ cuối năm 1999 nhưng năm 2000 đã đạt được một giá trị cao với 920/tấn giấy, 180/tấn nhựa, đạt trên 10 tỷ doanh thu với lợi nhuận cao và đã góp phần tích cực bù vào giá trị các mặt hàng bị thiếu hụt năm 1999.Năm 2001, Công ty nhập khẩu 895,85 tấn giấy Craft đạt 6,373 tỷ đồng. 3. Hiệu qủa hoạt động nhập khẩu của Công ty TRASCO. Trên phương diện lý thuyết, có nhiều cách khác nhau để phân tích và tính toán hiệu qủa kinh doanh như lợi nhuận, hiệu qủa sử dụng vốn... Tuy nhiên đối với một doanh nghiệp thương mại hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực XNK thì ta thấy các chỉ tiêu vốn, chỉ tiêu chi phí và tỷ suất lợi nhuận là yếu tố có giá trị phân tích khá cao. Hiệu quả của hoạt động nhập khẩu năm 2000 TT NK Đơn giá Thuế VAT 10% Số lượng Thành tiền Tổng cộng Bông 1,25 31.250 250.000 312.500 343.750 1,298 32,450 250.000 325.500 356.950 Sợi 32,76 5896,80 18.000 58968 64897,56 35,80 6428,58 18.000 64285,80 70750,18 Các chi phí và hiệu qủa phương án Bông Sợi Chi phí vận tải 0 214,285,71 Mua bảo hiểm 0 206,388 Phí mở L/C 800 235,872 Trả lãi tiền vay 5078 1149,876 Thuế GTGT 1200 Các chi phí khác 500 71,428571 Tổng cộng 7578 1877,85020 Lãi thu được 5.622,00 55.168,15 Tổng lợi nhuận thường được xác định là doanh thu trừ đi chi phí, trên đây là hai mặt hàng kinh doanh chủ lực của Công ty đã cho ta thấy các chỉ tiêu lợi nhuận và chi phí trong quá trình nhập khẩu năm 2000 là: Vốn kinh doanh của mặt hàng bông là 343.750 USD, sợi là 64897,56 USD, gồm các chi phí để hoàn thành hoạt động nhập hai lô hàng này về bông là 7.578 USD, sợi 1877,85020 USD và tiền bán hàng mà Công ty thu được, bông là 356.950 USD, sợi 70750,18 USD. Như vậy lãi thu được từ bông là 5,622.00 USD và sợi là 55.168,15 USD. Nhìn chung Công ty đã nghiên cứu về thị trường tiêu thụ, tỷ gía hàng nhập với các chi phí phát sinh trong quá trình nhập khẩu, tỷ lệ lãi tiền vay ngân hàng và mức thuế đang được áp dụng hiện nay của chính phủ trước khi nhập hàng về, ngoài ra Công ty rất tích cực trong việc dự kiến mức tiêu thụ hàng hóa của khách hàng trong từng thời kỳ. Đây là một khâu kinh doanh nhập khẩu rất cơ bản nhưng đảm bảo được lợi nhuận của Công ty sau khi tiến hành kinh doanh nhập khẩu. Với hai mức lãi trên có thể nhận xét là Công ty đã hoàn thành khâu tiêu thụ hàng hóa, trên phương diện mức lãi cao hơn mức chi phí bỏ ra, điều nay đã cho thấy trong tổng doanh thu hàng năm của Công ty đều tăng, năm 2000 tốc độ tăng trưởng là 83,16% so với cùng kỳ năm trước, doanh thu đặt 133.536 triệu đồng. Vì vậy qua các chỉ tiêu phân tích trên ta có thể kết luận rằng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty hàng năm đã mang lại những khoản lợi nhuận khá so với các chi phí bỏ ra. III. Đánh giá hoạt động nhập khẩu của Công ty TRASCO. Đánh giá hoạt động kinh doanh nhập khẩu nhằm giúp Công ty có thể khai thác, tận dụng triệt để những thế mạnh của mình cũng như đề ra các chủ trương, biện pháp hành động hạn chế ảnh hưởng của mặt yếu trong kinh doanh. Mặt khác, qua việc đánh giá này giúp cho Công ty phát hiện và nắm bắt được những cơ hội và thách thức trong kinh doanh. 1.Những thành tựu đạt được và nguyên nhân. Qua các năm hoạt động Công ty đã thu được những kết qủa đáng khích lệ trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Trong hoạt động này, Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể sau: - Thứ nhất là về mặt hàng kinh doanh: Kim ngạch nhập khẩu của Công ty trong các năm qua có giảm nhưng Công ty vẫn đứng vững trên thị trường vì Công ty đã khắc phục được nhược điểm này bằng các hoạt động dịch vụ trong nước. Điều này đã làm cho tổng doanh thu của Công ty không giảm. Năm 1998 là 104.850 tr.đồng, năm 1999 là 108.000 tr.đồng, năm 2000 là 133.536 triệu đồng, năm 2001 là 152 tỷ đồng . Mức lương bình quân của cán bộ công nhân viên Công ty qua nam năm đã tăng lên 2.16 lần, đặc biệt năm 1999 là 1.473 triệu đồng, năm 2001 là1.607 triệu đồng. Qua các năm hoạt động với ngành này Công ty đã mở rộng thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Công ty đã mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh tế, nhập khẩu hàng hóa ở các nước thuộc khu vực châu á, các nước đông Âu, châu Mỹ. Ngoài ra Công ty đã phát triển mạng lưới tiêu thụ ra các tỉnh, đa dạng hoá mặt hàng, nhập thêm những hàng hóa có truyền vọng mà có thể đem lại lợi ích cao cho Công ty. Thứ hai, ngoài những thành tựu về mặt kinh tế đơn thuần, hoạt động kinh doanh nhập khẩu nguyên vật liệu còn mang lại hiệu qủa xã hội rất lớn. Trước hết hoạt động kinh doanh nhập khẩu các mặt hàng nguyên vật liệu đã giúp thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, góp phần kích thích ngành sản xuất của các nhà làng nghề ở các làng xóm như: hàng vải thủ công, hàng gia công phục vụ người tiêu dùng. Hoạt động nhập khẩu của Công ty còn tạo công ăn, việc làm ổn định đời sống cho số lớn người lao động. Điều này tạo ra động lực và tâm lý ổn định cho người lao động để tạo niềm tin cho họ gắn bó với Công ty. Hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu còn giúp các công ty sản xuất trong nước có điều kiện sản xuất tốt hơn trong việc phát triển sản xuất, không phải lo nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, không chỉ có vậy mà nhập khẩu nguyên liệu còn giúp cho việc xuất khẩu các sản phẩm ra nước ngoài có tính cạnh tranh và phù hợp với thời đại hơn. Bên cạnh đó Công ty còn góp phần đáng kể vào việc tăng thu ngân sách Nhà nước bằng việc thực hiện đầy đủ các khoản nộp thuế với Nhà nước. * Những nguyên nhân dẫn đến thành tưu kể trên là do Công ty đã áp dụng thành công những lợi thế của mình như: được phép xuất nhập khẩu trực tiếp, phát huy mối quan hệ sẵn có với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó Công ty còn thực hiện được những phương thức bán hàng tiên tiến với các phương thức khuyến mại như: dịch vụ trước và sau bán hàng, điều kiện giá cả hợp lý và điều kiện thanh toán thuận tiện. Ngoài ra Công ty rất coi trọng công tác tìm hiểu và nghiên cứu, khai thác thị trường, kể cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Nhưng nguyên nhân chủ yếu mang lại những thành tựu cho Công ty là do Công ty luôn giữ được chữ tín trong kinh doanh, luôn lấy chất lượng làm mục tiêu phấn đấu. 2. Những hạn chế và nguyên nhân. Thực tế phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, bên cạnh những thành tựu kể trên, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty còn tồn tại một số vấn đề cần được giải quyết và khắc phục. Thứ nhất, khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, Công ty không còn bao cấp nữa, không còn những trợ cấp như mua theo địa chỉ bán theo chỉ định của cấp trên, giờ đây doanh nghiệp phải tự khai thác kinh doanh với phương châm "bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mà mình có", những khoản bù lỗ như trứơc kia mà Công ty phải tự tìm kiếm bạn hàng và thị trường. Cuối năm 1996, với 6.650 triệu đồng được Tổng công ty giao, trong đó vốn lưu động là 4.825 triệu đồng để kinh doanh và tự hoạch toán riêng. Nhưng mục tiêu kế hoạch hàng năm là do Tổng công ty đề ra, như vậy nhiều khi tổng số vốn mà Công ty nhận được lại quá nhỏ so với kế hoạch cho nên vốn kinh doanh phần lớn là vay ngân hàng và CBCNV. Như vậy, nó đã có ảnh hưởng đến việc hoạt động kinh doanh của Công ty nhiều khi phải gặp trục trặc và không đúng tiến độ được đề ra. Thứ hai, trong việc nghiên cứu thị trường, giao dịch đối ngoại nhiều khi còn thể hiện những sơ hở yếu kém, thiếu hiểu biết về khách hàng và nhu cầu của thị trường, do vậy đã làm ảnh hưởng đến kim ngạch nhập khẩu. ở Công ty không có bộ phận chuyên trách nhiệm về nghiên cứu thị trường cho nên phòng xuất nhập khẩu chỉ quan tâm đến thị trường hiện tại mà bỏ qua thị trường tiềm năng mà Công ty có thể khai thác được trong tương lai. Thứ ba, danh mục hàng nhập khẩu của Công ty mặc dù có nhiều mặt hàng, nhưng nhìn chung danh mục mặt hàng nhập khẩu trong các năm qua không thay đổi. Hiện nay những mặt hàng này vẫn tiêu thụ được trên thị trường nhưng bất kỳ một loại hàng hóa nào cũng có chu kỳ sống của nó sau một thời gian nó sẽ đến thời kỳ suy thoái. Thứ tư, Công ty chưa cân đối giữa xuất và nhập khẩu hàng hóa. Từ năm 1996 cho đến nay hàng hóa Công ty xuất khẩu được còn quá ít so với kế hoạch đề ra. Ngoài ra về mặt khách quan, là hiện nay mức thuế nhập khẩu hàng hóa của Việt nam vẫn khá cao, lại thực hiện thuế giá trị gia tăng ở ngay đầu vào, làm giá hàng nhập khẩu ở mức cao, còn một điều nữa là sự lên xuống thất thường của tỷ giá hối đoái năm 1998 và những tháng cuối năm 2000 đã làm cho Công ty gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh nhập khẩu. Riêng về việc chêch lệch giá Công ty phải bù trượt giá. Điều này đã có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành nhập khẩu của Công ty và sẽ tác động đến giá bán các loại sản phẩm trên thị trường trong nước. Những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của Công ty: - Công ty duy trì một hình thức tổ chức gồm nhiều bộ phận kinh doanh hoạt động trên nhiều địa bàn khác nhau, nhưng trong công tác quản lý lại chưa có sự giám sát chặt chẽ đúng mức, hoạt động tài chính không đúng theo các nguyên tắc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100596.doc
Tài liệu liên quan