Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty thương mại và đầu tư phát triển Hà Nội

Tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty thương mại và đầu tư phát triển Hà Nội: Lời nói đầu. Từ khi nền kinh tế thị trường hình thành và dần dần thay thế các hình thái kinh tế xã hội trước kia, cạnh tranh đã trở thành quy luật kinh tế phổ biến ;các hình thức cạnh tranh ngày càng phong phú hơn. Đặc biệt là vào thập niên cuối của thế kỷ hai mươi và hiện nay những năm đầu của thế kỷ mới, như một động lực thúc đẩy và là kết quả của các xu hướng liên kết kinh tế: toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, cạnh tranh lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong môi trường kinh doanh như vậy, để tồn tại và phát triển ,các doanh nghiệp phải biết cách kinh doanh và hơn thế nữa, phải biết kinh doanh có hiệu quả. Để đạt hiệu quả cao nhất với cơ sở vật chất, tiền vốn và lao động không hạn, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định được phương hướng, biện pháp đầu tư và sử dụng các điều kiện nguồn lực hiện có một cách tối ưu nhất. Muốn vậy, doanh nghiệp cần thiết phải nắm được những nguyên nhân ảnh hưởng, mức độ, xu hướng của từng yếu tố; và hơn hết doanh nghiệp phải tự biết mình là...

doc64 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty thương mại và đầu tư phát triển Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu. Từ khi nền kinh tế thị trường hình thành và dần dần thay thế các hình thái kinh tế xã hội trước kia, cạnh tranh đã trở thành quy luật kinh tế phổ biến ;các hình thức cạnh tranh ngày càng phong phú hơn. Đặc biệt là vào thập niên cuối của thế kỷ hai mươi và hiện nay những năm đầu của thế kỷ mới, như một động lực thúc đẩy và là kết quả của các xu hướng liên kết kinh tế: toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, cạnh tranh lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong môi trường kinh doanh như vậy, để tồn tại và phát triển ,các doanh nghiệp phải biết cách kinh doanh và hơn thế nữa, phải biết kinh doanh có hiệu quả. Để đạt hiệu quả cao nhất với cơ sở vật chất, tiền vốn và lao động không hạn, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định được phương hướng, biện pháp đầu tư và sử dụng các điều kiện nguồn lực hiện có một cách tối ưu nhất. Muốn vậy, doanh nghiệp cần thiết phải nắm được những nguyên nhân ảnh hưởng, mức độ, xu hướng của từng yếu tố; và hơn hết doanh nghiệp phải tự biết mình là ai? ở đâu? điểm mạnh, điểm yếu, những tiềm năng phát triển và thách thức trong tương lai? Vậy doanh nghiệp phải làm gì? Câu trả lời nằm ở "Phân tích tài chính doanh nghiệp". Bởi chính hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đem lại cho các nhà quản lý doanh nghiệp nói chung và quản trị tài chính doanh nghiệp nói riêng những thông tin chính xác kịp thời và tương đối đầy đủ về tình hình thực hiện công tác tài chính tại doanh nghiệp trong quá khứ đưa ra những mặt được và chưa được, từ đó giúp họ đưa ra các quyế định quản lý cũng như tài chính phù hợp nhằm khắc phục những tồn tại, tận dụng cơ hội tương lai để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, khả năng cạnh tranh và an toàn. Trong nền kinh tế thị trường, ta thấy có nhiều chủ thể kinh tế khác nhau cùng tham gia vào các quá trình kinh tế, họ đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ kinh tế trước pháp luật. Trong khi các doanh nghiệp không thể tự mình tiến hành hoạt động kinh doanh mà không cần đến các quan hệ kinh tế - tài chính với các chủ thể kinh tế khác thì cũng dễ hiểu khi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng là mối quan tâm không chỉ của doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của các đối tác kinh tế của doanh nghiệp như chủ ngân hàng, nhà cung ứng, khách hàng, người lao động... Mỗi đối tượng cần những thông tin phân tích tài chính ở những mức độ khác nhau để có thể đưa ra những quyết định tài chính và đầu tư phù hợp với mục tiêu đặt ra khi thiết lập quan hệ tài chính với doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của Phân tích tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là tại các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, khi đang trong quá trình hoàn thiện về cơ chế quản lý và vận hành, dần từng bước tiến lên nền sản xuất hiện đại theo định hướng XHCN; đặc biệt là sau thời gian nghiên cứu về chuyên ngành tài chính doanh nghiệp tại khoa Ngân hàng-Tài chính và sau thời gian thực tập tại công ty Thương Mại và Đầu tư phát triển Hà Nội Tôi đã quyết định chọn dề tài "Giải pháp hoàn thiện công tác Phân tích tài chính tại Công ty Thương mại và đầu tư phát triển Hà Nội" làm chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng công tác Phân tích tài chính tại Công ty Thương Mại và Đầu tư phát triển Hà Nội Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Thương Mại và Đầu tư phát triển Hà Nội Với trình độ và thời gian có hạn cho nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Em mong được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các chú trong ban lãnh đạo Công ty để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Cô Lê Hương Lan và các cô chú trong Ban lãnh đạo Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. CHƯƠNG 1: TổNG QUAN Về HOạT ĐộNG PHâN TíCH tài chính DOANH NGHIệP TRONG NềN KINH Tế. 1. Tính tất yếu của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. khái niệm về doanh nghiệp và hoạt động tài chính tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu của doanh nghiệp và phát triển. Doanh nghiệp được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu về tài chính các quan hệ tài chính, Doanh nghiệp được phân chia theo hình thức sở hữu thành nhiều loại khác nhau như Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu điểm và những nhược điểm riêng do đặc thù của ngành nghề kinh doanh song bản chất và nội dung của hoạt động tài chính và quản lý tài chính về cơ bản là giống nhau. Mỗi doanh nghiệp từ khi thành lập và đăng ký kinh doanh đã phải xác định cho mình những vấn đề sau: Xác định ngành nghề và mặt hàng kinh doanh. Xác định quy mô và phạm vi hoạt động. Xác định nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh Lên các phương án, kế hoạch chiến lược và chiến thuật kinh doanh trong ngắn hạn và dài hạn. Các vấn đề trên chỉ được thực hiện khi doanh nghiệp tiến hành các hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp. Nó đề cập đến mọi hoạt động từ đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phân phối lợi nhuận đến tái sản xuất mở rộng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp đó. Hoạt động tài chính được thực hiện nhằm trả lời câu hỏi: Đầu tư vào đâu và như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã lựa chọn và đạt tới mục tiêu của mình. Nguồn vốn doanh nghiệp cần có cho hoạt động kinh doanh huy động từ đâu? bằng cách nào? để có được cơ cấu vốn tối, với chi phí vốn thấp nhất. Hoạt động phân phối tại doanh nghiệp như thế nào để vừa đảm bảo doanh nghiệp đạt được trạng thái cân đối tài chính vừa đảm bảo sự phát triển và tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai, không ngừng mở rộng thị trường, tăng cường đóng góp cho nền KTQD. Hoạt động tài chính được biểu hiện qua các dòng tài chính và dự trữ tài chính. Sự chuyển hoá giữa chúng được biểu hiện trong các báo cáo tài chính. Quan hề giữa chúng là nền tảng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Muốn sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp cần phải có yếu tố đầu vào như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhân lực… Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải đầu tư vào Tài sản. Tại những thời điểm nhất định, Tài sản của doanh nghiệp được phản ánh bên trái của bảng cân đối kế toán với hai loại là tài sản lưu động và tài sản cố định. Lật lại vấn đề, ta thấy, muốn đầu tư vào tài sản, đương nhiên doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn tài trợ. Hay nói cách khác, doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn đầu tư. Doanh nghiệp có thể tự tài trợ bằng hình thức góp cổ phần, nhận vốn từ NSNN; hoặc có thể huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp bằng hình thức đi vay Ngân hàng, đi vay khách hàng. Khi đã đủ vốn để tài trợ cho tài sản và tiến hành kinh doanh, doanh nghiệp phải xác định thu nhập, chi phí từ các hoạt động, xác định các luồng tiền thực nhập quỹ, thực xuất quỹ để xác định kết quả kinh doanh. Như vậy, ta thấy dòng tài chính được thể hiện thông qua báo cáo kết quả kinh doanh và bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Xét các dòng tài chính ở những thời điểm nhất định, ta xác định dược các dự trữ tài chính. Chúng được thể hiện qua Bảng cân đối kế toán. Nếu như các quan hệ tài chính được tiến hành qua các chu kỳ kinh doanh tạo ra các dòng tài chính không ngừng vận động thì nhờ chúng, doanh nghiệp có nguồn tài chính để tổ chức kinh doanh. Và ngược lại, dòng tài chính luân chuyển trôi chảy trong suốt chu kỳ sản xuất kinh doanh và trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp lại chứng tỏ rằng các quan hệ tài chính được thiết lập tại doanh nghiệp là sự lựa chọn đúng đắn và bền vững dựa trên cơ sở lợi ích của các bên. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với bên ngoài (nhà đầu tư, chủ ngân hàng). Đây là mối quan hệ tiền đề tài ra nguồn vốn đủ về khối lượng và chất lượng. Nếu khai thác tốt, doanh nghiệp sẽ có một cơ cấu vốn tối ưu. Quan hề tài chính trong nội bộ doanh nghiệp (với người lao động, với các cổ đông). Tận dụng tốt mối quan hệ này, doanh nghiệp sẽ tạo ra một khả năng độc lập về mặt tài chính và sự đoàn kết nội bộ. Quan hề tài chính giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý cấp trên. Đây là mối quan hệ kiểm soát và bị kiểm soát. Tận dụng tốt mói quan hệ này, doanh nghiệp sẽ tạo được những ưu thế so với những đơn vị khác trong và ngoài ngành trong khi vẫn thực hiện tốt nghĩa vụ đối với NSNN. Như vậy, hoạt động tài chính và các quan hệ tài chính là nội dung cơ bản trong quản trị tài chính doanh nghiệp. Nó liên quan tới việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung tại doanh nghiệp. Và nhiệm vụ chủ yếu của các nhà phân tích tài chính doanh nghiệp là phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các luồng tài chính và dự trữ tài chính và sự vận động của chúng một cách khoa học; trên cơ sở đó, đưa ra những quyết định có giá trị về các quan hề tài chính và hướng tới mục đích hàng đầu mà doanh nghiệp theo đuổi. 1.2.Tính tất yếu của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. Như ta đã biết, hoạt động tài chính tại doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng với sự thể hiện ở trạng thái động của các dòng tài chính và ở trạng thái tĩnh của các dự trữ tài chính. Các hoạt động này được hình thành từ các quan hề tài chính. Trong đó, mỗi bên đều quan tâm tới lợi ích mà họ momg muốn đạt được từ quan hệ đó. Có nghĩa là, mỗi bên quan tâm toí những thông tin từ những khía cạnh khác nhau: Đối với chủ doanh nghiệp và nhà quản trị doanh nghiệp: cái họ quan tâm là tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường, mức độ rủi ro tài chính, … Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp (chủ nhà băng và các chủ nợ khác): cái họ quan tâm hàng đầu là khả năng thanh toán các khoản nợ khi toí hạn bao gồm cả gốc và lãi mà không cần biết đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với người lao động: Đây là nhóm đối tượng liên quan trực tiếp tới tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Cái họ quan tâm là khả năng chi trả các khoản tiền lương đúng hạn và sự ổn định việc làm lâu dài. Đối với nhà đầu tư: Mối quan tâm hàng đầu của họ là giá trị doanh nghiệp. Họ kỳ vọng vào khả năng sinh lời, tối đa hoá giá trị của chủ sở hữu doanh nghiệp thông qua mức tăng trưởng đều của giá trị cổ phiếu trên thị trường và cổ tức trả lãi cho các cổ đông trên cơ sở an toàn tài chính. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế (cục thuế, các bộ chủ quản…) không chỉ thực hiện việc giám sát, kiểm tra tình hình kinh doanh và tài chính của mỗi doanh nghiệp, mà còn theo dõi khả năng hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, lợi ích kinh tế -xã hội mà hoạt động của doanh nghiệp đem lại cho nền kinh tế, để từ đó kịp thời điều chỉnh vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo những chủ trương, định hướng của Đảng và Chính phủ. Như vậy, mỗi đối tượng lại quan tâm tới mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ thông qua các báo cáo tài chính thì chưa đủ thoả mãn yêu cầu của người sử dụng thông tin. Do đó, họ thường phải sử dụng các công cụ và kỹ thuật cơ bản để phân tích, thuyết minh các mối quan hệ chủ yếu trong các báo cáo tài chính nhằm đưa ra quyết định tài chính. Đó chính là nhờ hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp là tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ cho phép thu thập và xử lý thông thi kế toán cũng như những nguông thông tin khvs trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm năng của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính và quản lý phù hợp. Với khái niệm trên phân tích tài chính phải đạt được các mục tiêu sau đây: Cung cấp đầy đủ thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các tín chủ và những đối tượng có nhu cầu sử dụng khác giúp họ đưa ra các quyết định đúng đắn. Cung cấp thông tin cho chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay và các đối tượng khác trong việc đánh giá khả năng, tính chắc chắn của các dong tiền mặt và tình hình sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tình hình vầ khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình, sự kiện và các tình huống làm biến đổi cơ cấu nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. 2. Nội dung của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. 2.1. Các bước tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp. 2.1.1 Thu thập thông tin. Đây là bước đầu tiên và có ý nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. Cũng trong bước này, mục đích phân tích phải dược xác định rõ ràng; mà dựa vào đó, những nhà phân tích sẽ lựa chọn thông tin phù hợp. Có rất nhiều nguồn khác nhau để thực hiện "thu thập thông tin" từ thông tin nội bộ đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thôn tin kế toán đén các thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị..., trong đó, thông tin kế toán được coi là nguồn quan trọng nhất được phản ánh trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, thực chất của phân tích tài chính doanh nghiệp là phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. 2.1.2 Xử lý thông tin. Đây là bước thứ 2 tiếp sau quá trình thu thập thông tin. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin phải thực hiện công đoạn phân loại thông tin theo những tiêu thức nhất định phù hợp với mục tiêu phân tích đã xác định ở bước 1, tiến hành nghiên cứu và xử lý chúng bằng những công cụ và phương pháp nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định các nguyên nhân của các kết quả đạt được và xu hướng vận động của các đối tượng phục vụ cho quá trình tiếp theo. Nhưng phân tích tài chính sẽ không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là công việc tổng hợp và sắp xếp số liêu trong khi các đối tượng tài chính cần nghiên cứu lại luôn luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên ở giai đoạn này, các chuyên gia phân tích tài chính phải biết dặt một đối tượng tài chính này trong mối quan hệ biện chứng với các đối tượng khác trong các báo cáo tài chính và trong mối liên hệ với các tiêu chuẩn, các định mức tài chính và kinh tế được đặt ra bởi các đối tác tài chính của doanh nghiệp. Ví dụ như để hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp được chấp nhận thì một chủ nhà băng phải không thấy được những dấu hiệu bất ổn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, cũng như về khả năg sinh lời cần thiết trong tương lai từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng chính là duy trì một lượng ngân sách bằng tiền mặt kết hợp với các loại chứng khoán thanh khoản; lên kế hoạch sử dụng nguồn vốn, quản lý tài sản, kế hoạch về thu nhập, chi phí ... Mỗi đối tượng đều đưa ra cho doanh nghiệp những tiêu chuẩn khác nhau song nhìn chung, đều nhằm vào 4 mục tiêu: khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, khả năng cân đối tài chính và mức độ rủi ro. 2.1.3 Dự đoán và ra quyết định. Đây là giai đoạn cuối cùng, là mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp. Nếu 2 giai đoạn trên được thực hiện theo đúng thứ tự và đúng nguyên tắc thì kết quả của giai đoạn này chỉ còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của những người sử dụng thông tin. Dự đoán và ra quyết định được thực hiện sẽ xây dựng lên bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng của doanh nghiệp trong quá khứ. Qua đó, mỗi đối tượng khác nhau khi sử dụng các kết quả phân tích để đưa ra các quyết định riêng của mình trong tương lai đáp ứng mục tiêu đã lựa chọn ở giai đoạn 1. Đối với chủ doanh nghiệp, nhà quản lý doanh nghiệp: đó là quyết định có liên quan tới mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư và chủ nợ của doanh nghiệp: đó là các quyết định tài trợ và đầu tư. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: đó là các quyết định quản lý doanh nghiệp 2.2 Nguồn thông tin sử dụng. Như đã đề cập ở trên, phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng chủ yếu các số liệu kế toán được phản ánh trong các báo cáo tài chính. Vì vậy, chủ yếu nguồn thông tin được sử dụng là các báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp các số liệu từ các sổ kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phat sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Thông thường, hệ thông các báo cáo tài chính doanh nghiệp gồm 4 loại sau: - Bảng cân đối kế toán: là bảng tổng hợp- cân đối tổng thể phản ánh tình hình vốn kinh doanh của đơn vị cả về tài sản và nguồn vốn ở một thời điểm nhất định thường là ngày cuối cùng của năm tài chính. Đây là tài liệu quan trọng nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình đọ sử dụng vốn ở một thời điểm xác định và triển vọng của doanh nghiệp. Thực chất bảng cân đối kế toán là bảng cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu nội bảng và ngoại bảng - Báo cáo kết quả kinh doanh: nếu như bảng cân đối kế toán cho ta biết toàn cảnh tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm thì báo cáo kết quả kinh doanh lại cho ta biết tình hình thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh từ các hoạt động trong cả một thời kỳ. Tài liệu này được lập trên cơ sở các báo cáo kết quả kinh doanh trước đó và số dư cuối kỳ trên các sổ chi tiết theo dõi các tài khoản phản ánh thu nhập, phản ánh chi phí và tài khoản phản ánh kết quả. Thông qua báo cáo này, các nhà phân tích tài chính có thể đánh giá hiệu quả trong các hoạt động của doanh nghiệp (hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư) băng cách sử dụng các chỉ tiêu có tính chất định lượng về tương đối và tuyệt đối. Đây là phương pháp thường được sử dụng nhất trong phân tích tài chính doanh nghiệp có tác dụng nhận biết xu hướng vận động của các đối tượng tài chính. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: ta đã biết rằng hoạt động tài chính là sự khái quát các dòng và các dự trữ tài chính. Một nhiệm vụ quan trọng của nhà phân tích là phải kiểm soát được sự thường xuyên vận động của các luông tiền tệ thực nhập quỹ và thực xuất quỹ, tình hình đầu tư, tài trợ bằng tiền của doanh nghiệp. Báo cáo trên được sử dụng để cung cấp thông tin về các luồng tiền ra, vào, các khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro như lỗ về mặt giá trị do sự biến động của lãi suất hay tỷ giá... Những luồng tiền này được tổng hợp và xếp thành 3 nhóm:luồng tiền có nguồn gốc từ hoạt động kinh doanh, từ hoạt động tài chính, từ hoạt động đầu tư.Như vậy ta thấy, báo cáo này không phản ánh về tài sản, nguồn vôn, kết quả kinh doanh hay tinh hình thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN mà phản ánh về sự biến động quỹ tiền mặt của doanh nghiệp trong kỳ, tạo cơ sở để phân tích khả năng thanh toán, sự đảm bảo chắc chắn sẽ duy trì một mức độ rủi ro mất khả năng thanh toán thấp nhấtcó thê trong hiện tại trước những khoản nợ tới hạn, những khoản nợ mới và mới được gia hạn trong tương lai. - Bản thuyết minh các báo cáo tài chính: đây là một báo cáo quan trọng của bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế, có tính chất bổ sung, hoàn thiẹn thông tin cho ba báo cáo tài chính trên. Đó là những thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh (hình thức sở hữu vốn, hình thức hoạt động, lĩnh vực kinh doanh...), chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp, chi tiết một số chỉ tiêu trong các báo cáo tài chính (chi phí sản xuất kinh doanh, tình hình tăng giảm tài chính cố định, tình hình thu nhập của công nhân viên, tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản phải thu và nợ phải trả... ) Ngoài thông tin từ các báo cáo tài chính, phân tích tài chính còn có thể sử dụng thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp. Đó là những chỉ tiêu tài chính của ngành hoặc ít nhất là nhóm những doanh nghiệp tương tự mà doanh nghiệp lấy đó làm tham chiếu đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Thông tin này chỉ có ở các nước có nến kinh tế phát triển cao bởi một tổ chức có chức năng thu thập và xử lý thông tin theo ngành và toàn bộ nên kinh tế khi đã tách rời khỏi chức năng quản lý nhà nước. Có thể nói, các báo cáo tài chính tuy có nội dung khác nhau, song chúng có một mối liên hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau. Một sự thay đổi của chỉ tiêu này sẽ dẫn tới sự thay đổi của một, thậm trí một nhóm chỉ tiêu khác một cách trực tiếp hay gián tiếp. Khi nghiên cứu các báo cáo tài chính, nhất thiết phải tuân theo trình tự từ báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán kỳ trước cho đến bảng cân đối kế toán kỳ này; và phải đặt chúng trong sự tác động của tổng hợp các yếu tố tới kết quả của quả trình phân tích. 2.3 Những yếu tố ảnh hưởng tới Phân tích tài chính doanh nghiệp. Mục đích cuối cùng của phân tích tài chính doanh nghiệp là cung cấp những thông tin chính xác, có giá trị về doanh nghiệp cho người sử dụng đưa ra các quyết định trong tương lai. Tuy nhiên, để những kết quả có được từ phân tích tài chính doanh nghiệp mà thực chất là từ phân tích các báo cáo tài chính, được như mong muốn thì người sử dụng còn cần phải căn cứ vào một số nhân tố ảnh hưởng tới việc đưa ra quyết định sau cùng. 2.3.1 Yếu tố bên trong: * Đó là mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiện tại và tương lai mà một trong những căn cứ quan trọng là Chu kỳ sống của sản phẩm hay chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với kết quả phân tích tài chính từ các báo cáo tài chính, các đối tượng sử dụng phải biết lựa chọn những chỉ tiêu hàng đầu (khả năng sinh lợi, khả năng thanh khoản, khả năng cân đối vốn, khả năng tăng trưởng và phát triển.) khi doanh nghiệp lựa chọn mục tiêu tham gia thi trường, mở rộng thị trường hay giữ vững thị trường... 2.3.2 Yếu tố bên ngoài: Đó là thông tin về thị trường đầu vào (về người cung ứng sản phẩm dịch vụ đối với doanh nghiệp), về thị trường đầu ra (về người tiêu dùng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp). Bên cạnh đó, thông tin về dối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quyết định tới cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư, triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp còn chịu sự quản lý ở tầm vĩ mô từ phía nhà nước. Nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nàh nước vừa là nghĩa vụ lại vừa là quyền lợi của mối chủ thể kinh tế. Đặc biệt hơn, các doanh nghiệp kinh doanh XNK còn phải nắm vững luật pháp của các nước bạn hàng và thông lệ quốc tế. 2.4 Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp . Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp là hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận nghiên cứu các sừ kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông thường, người ta sử dụng hai phương pháp dể phân tích: 2.4.1 Phương pháp so sánh: Trong phương pháp này, ta phải xác định được gốc so sánh, có thể nhặt theo không gian hoặc thời gian. Kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hay kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn là số tương đối số tuyệt đối hoặc số bình quân. Người ta thường tiến hành các cách so sánh sau: So sánh số thực hiện kỳ này so với kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính, đánh giá sự tăng trưởng hay suy thoái của hoạt động kinh doanh. So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch trong kỳ để thấy mục đích phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành để đánh giá tình trạng tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu. So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể dể đánh giá bién động của từng cá thể trong tổng thể. So sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy sự biến đổi về số lượng tương đối, tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán. 2.4.2 Phương pháp tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Mỗi sự biến đổi của các tỷ lệ cố nhiên sẽ là sự biến động của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các định mức, các ngưỡng để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động tài chính doanh nghiệp trên cơ sở các tỷ lệ nhất định. Các ngưỡng này còn gọi là các tỷ lệ tham chiếu. Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng các nhóm chỉ tiêu tỷ lệ có lựa chọn sau: Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn cuả doanh nghiệp Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp . Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi và phân phối lợi nhuận.: Phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất cuả doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích mà các nhà phân tích tài chính lựa chọn những chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu phù hợp. Ngoài ra, người ta còn sử dụng phương pháp phân tích DUPONT đánh giá sự biến động của lợi tức cổ phần trong sự tác động đồng thời và riêng rẽ của các chỉ tiêu doanh thu thuần, tổng tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu... 2.5 Nội dung hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp : Phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm các nội dung sau: Lựa chọn các nhóm chỉ tiêu tài chính. Phân tích tình hình sử dụng nguồn vốn và diễn biến nguồn vốn. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.5.1 Phân tích các chỉ tiêu tài chính : 2.5.1.1 Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán. Bao giờ cũng vậy, tiến hành hoạt động kinh doanh luôn phát sinh những khoản tín dụng, khoản công nợ giữa doanh nghiệp với khách hàng với người lao động (qua các khoản lương, thưởng...) và với ngân sách nhà nước (khoản phí, lệ phí, thuế...) xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như sự khác biệt về điểm kinh doanh, tính thời vụ của nguồn hàng, những quy định pháp lý có tính chất bắt buộc. Trong quan hệ tín dụng và thanh toán này, doanh nghiệp vừa đóng vai trò là con nợ vừa đóng vai trò là chủ nợ. Vấn đề đặt ra là càng kéo dài thời hạn trả nợ khách hàng càng dài bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu (tức là càng tăng cường đi chiếm dụng vốn) và ngược lại, càng giảm tối đa thời gian thu hồi các khoản nợ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu (tức là giảm thiểu bị chiếm dụng vốn). Như vậy, khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng được đảm bảo, nhờ đó, tăng nhanh vòng quay vốn tiền tệ, tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh và tận dụng tốt những cơ hội. Mặt khác, khả năng thanh toán của doanh nghiệp cũng tác động lớn tới các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp. Bới những rủi ro về khả năng chi trả dễ dàng dẫn tới những rủi ro trong đầu tư của các chủ đầu tư và khả năng không thể thu hồi vốn (và lãi) của chủ ngân hàng và của các chủ nợ khác. Phân tích tài chính doanh nghiệp thường xem xét một số chỉ tiêu sau: Tổng TSLĐ Hệ số thanh toán ngắn hạn = Nợ ngắn hạn. Hệ số này còn được gọi là hệ số luân chuyển TSLĐ hay tỷ số thanh khoản chung. Đây là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, phản ánh mức độ các khoản nợ ngắn hạn của chủ nợ được trang trải bằng bao nhiêu lần các loại tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một thời gian tương đương với thời hạn của khoản nợ đó. Vốn bằng tiền +khoản phải thu Hệ số thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Hệ số này còn gọi là tỷ số thanh toán tương đối, xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp từ hai nguồn là vốn băng tiền (thể hiện qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ) và khảon phải thu (thêt hiện trong bảng CĐKT). So với hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn, dây là hệ số có khả năng thanh khoản cao hơn. Tuy nhiên, tuy nhiên chỉ tiêu tài chính này lại bị phụ thuộc lớn vào độ trễ của các khoản phải thu (tức khả năng chuyển đổi thành tiền mặt của chúng) và khoảng thời gian chuyển tiền về quỹ của xí nghệp, mà khả năng này chỉ đáp ứng yêu cầu khi doanh nghiệp có mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Tỷ lệ này duy trì ở mức độ nào cho phù hợp là điều mà doanh nghiệp cần tính đến trong cơ cấu chung của ngành, trong mục tiêu ưu tiên của doanh nghiệp và nhiều yếu tố khác. Bởi nếu doanh nghiệp duy trì một lượng tiền mặt và phải thu quả cao so với số nợ ngắn hạn để duy trì khả năng thanh toán cao thì sẽ rất dễ rơi vào tình trạng ứ đọng vốn kinh doanh, mất cơ hội kinh doanh và giảm hiệu quả sử dụng vốn… Tiền và khoản coi như tiền Hệ số tt tức thời = Nợ NH đến hạn phải trả. Chỉ tiêu này cho thấy doanh nghiệp đã dự trữ được một lượng tiền ngân quỹ là bao nhiêu để tạo khả năng thanh toán ngay lập tức các khoản nợ đến hạn. Đây là hệ số có tính thanh khoản cao nhất. Bên cạnh các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nội dung phân tích này còn sử dụng "Bảng nhu cầu và khả năng thanh toán" để đánh giá chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp. 2.5.1.2 Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động. Nhìn chung, đây là nhóm xem xét hiêu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh qua chỉ tiêu doanh thu thuần. GVHB Tỷ lệ vòng quay hàng tồn kho = Số dư bq hàng tồn kho. Số dư bình quân hàng tồn kho = (tồn đầu kỳ+tồn cuối kỳ)/2. Số ngày lưu kho = Số ngày trong kỳ / Số vòng quay hàng tồn kho. Hàng tồn kho là một loại TSLĐ có tính chất dự trữ nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra bình thường, liên tục, đáp ứng nhu cầu thị thường qua từng thời kỳ. Do vậy, hàng tồn kho nhiều hay ít chịu sự chi phối của đặc điểm hàng hoá, đặc điểm thị trường và kế hoạch kinh doanh cũng như sự chạy bén với nhu cầu thị trường của nhà quản lý doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ này cao thì doanh nghiệp sẽ tạo ra khả năng tiêu thụ hàng hoá khả quan. Song nếu tỷ lệ này quá thấp thì tốc độ tiêu thụ hàng hoá bị trì trệ, giảm khả năng chi trả và lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. Khi đó, doanh nghiệp sẽ phải nghiên cứu để đưa ra chiến lược sản phẩm và chiến lược khách hàng thích ứng hơn. Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân ngày. Số vòng quay khoản phải thu = Doanh thu thuần / Số dư bq khoản phải thu. Số dư bq khoản phải thu= (số đầu kỳ+số cuối kỳ)/2. Kỳ thu tiền bình quân cho biết thông tin về khả năng thu hồi vốn trong thanh toán, đặc biệt là thu hồi khoản từ bán chịu hàng hoá. Nó chịu tác động bởi nhiều yếu tố: Chính sách bán hàng, chu kỳ sản xuất kinh doanh, chính sách tín dụng, nhu cầu xâm nhập hay mở rộng thị trường, tình trạng của nền kinh tế… Chỉ tiêu này có giá trị cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã bị chiếm dụng vốn,điều này rất có thể đe doạ tới khả năng thanh toán của chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, đổi lại, doanh nghiệp sẽ tăng được lợi nhuận bổ sung do do tăng doanh số bán. Ngược lại, nếu thời hạn thanh toán nợ giảm xuống, chứng tỏ rằng doanh nghiệp đã có những cải thiện trong hệ thống quản lý bán hàng, những chặt chẽ hơn trong chính sách bán chịu hoặc đã đề ra những biên pháp thu hồi nợ gắt gao hơn. Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = (Hiệu suất sử dụng vốn lưu động) Số dư bq vốn lưu động. Trong đó Số dư bình quân VLĐ = số dư VLĐ (đầu kỳ+cuối kỳ)/2. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng TSCĐ = TSCĐ(GTCL). Doanh thu thuần - Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Tổng tài sản. Nhóm chỉ tiêu này cho ta biết hiệu quả sử dụng các loại tài sản của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình có hợp lý không, có tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường hay không.Hệ số này càng cao, càng chứng tỏ doanh nghiệp đang làm ăn tốt, có nhiều triển vọng phát triển. 2.5.1.3 Nhóm chỉ tiêu khả năng cân đối vốn (cơ cấu tài chính). Cơ cấu tài chính là một trong những chính sách quan trọng của doanh nghiệp, là công cụ hữu hiệu giúp nhà phân tích đánh giá mức độ an toàn hay rủi ro có thể chấp nhận được và mức độ khuếch đại lợ nhuận của các khoản nợ. Phân tích thường thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: * Hệ số nợ tổng tài sản = nợ phải trả/tổng tài sản. (hệ số nợ tổng nguồn vốn) = nợ phải trả/tổng nguồn vốn. Tỷ lệ này cho biết cơ cấu nợ phải trả trên tổng tài sản hay mức độ nợ phải trả được tài trợ bởi bao nhiêu phần trong tổng nguồn vốn, qua đó, xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các khoản nợ. Đối với chủ nợ, với mục tiêu là an toàn cho các khoản vay, tức là phải đảm bảo thu hồi đầu tư cả gốc là lãi đúng thời han, thì họ mong muốn hệ số này càng cao càng tốt. Ngay cả trong trường hợp xấu nhất ;à doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản thì các khoản nợ của họ vẫn sẽ được giải quyết theo đúng trình tự pháp lýhiện hành. Còn đối với chủ doanh nghiệp, họ lại thích và mong muốn một hệ số nợ lớn. Nó đồng nghĩa với việc sẽ được sử dụng một lượng tiền nhiều hơn của người khác trong trong tổng nguồn vốn có được vào hoạt động kinh doanh của mình. Trong các khoản nợ của doanh nghiệp, sử dụng vốn của người khác bằng cách đi vay (sử dụng nợ vay) càng cao thì tác động đòn bẩy tài chính càng lớn mà quyền sử hữu của các cổ đông của doanh nghiệp vẫn đảm bảo không bị pha loãng. Nhưng cái gì cũng có giá của nó. Duy trì một hệ số nợ quá cao để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận sẽ dẫn tới rủi ro tài chính do mất cân đối về cơ cấu vốn giữa nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay. Cho dù tình hình kinh doanh của doanh nghiệp có khả quan, nhẹ thì dẫn tới tâm lý thoái lui đầu tư, nặng sẽ dẫn tới phá sản doanh nghiệp. Do đó, xác điịnh một tỷ lệ nợ hợp lý sẽ là cơ sở để tạo ra cơ cấu vốn tối ưu và khả năng kinh doanh cho doanh nghiệp. Lợi nhuận trước thuếvà lãi vay Hệ số khả năng tt lãi vay= CP trả lãi vay Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán lãi vay bằng lợi nhuận trước thuếvà lãi vay; đây cũng chính là khả năng sinh lợi trên các khoản nợ. Chỉ tiêu này càng cao (càng lớn hơn 1) bao nhiêu càng chứng tỏ tình trạng tài chính của doanh nghiệp càng lành mạnh bấy nhiêu. Nếu chỉ tiêu này càng gần 1, thì nó chỉ ra là chi phí vốn vay của doanh nghiệp đang quả lớn mà doanh nghiệp không thể gánh nổi bằng EBIT, theo đó, lợi nhuận sau thuế sẽ giảm sút, buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn tài trợ khác để giảm chi phí vốn, tăng lợi nhuận và tăng giá trị doanh nghiệp. Hệ số cơ cấu tài sản=TSLĐ(TSCĐ)/Tổng TS. Hệ số này phản ánh cơ cấu đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp. Nó cao hay thấp chưa phản ánh được hiệu quả đầu tư vào tài sản nếu không căn cứ vào loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc điểm kinh doanh… Phân tích chỉ tiêu này cho phép xây sựng và điều chỉnh cơ cấu tài sản phù hợp với môi trường kinh doanh của từng doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu Hệ số cơ cấu nguồn vốn = Tổng nguồn vốn. Chỉ tiêu này cho biết khả năng tự tài trợ cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp.Chỉ tiêu này càng lớn chứng minh cho khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao. Sông song với nó là dấu hiệu an toàn để doanh nghiệp kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài doanh nghiệp. Bởi tất nhiên, không một ai lại thừa tiền đầu tư vào môt doanh nghiệp mà VCSH chiếm tỷ lệ quá nhỏ bé trong tổng nguồn vốn, nó chỉ ra khả năng chi trả kém trong tương lai. Tuy nhiên, đối với chủ doanh nghiệp, họ luôn có tâm lý chiếm dụng vốn kinh doanh của người khác . Vì lẽ đó, họ lại mong đợi một tỷ lệ thấp để đạt lợi nhuận tố đa trên đồng vốn mình bỏ ra. Nhưng nhiệm vụ của cá nhà phân tích tài chính là phải dung hoà 2 lợi ích trên. Tức là phải xác định một cơ cấu vốn hợp lý hay tố ưu với chi phí thấp nhất, đảm bảo lợ ích giữa các bên tham gia góp vốn hình thành nguồn kinh doanh chi doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tìm kiếm vốn từ các nguồn khác nhau, tức là đa dạng hoá các nguồn tài trợ có lựa chọn. Theo tiêu thức thời gian, nguồn tài trợ có thể từ: Nguồn tài trợ dài hạn: - Nguồn vốn tự có (vốn chủ sở hữu): Đối với DNNN, vốn tự có chính là nguồn do NSNN cấp và những khoant có nguồn gốc từ NSNN. Đối với DNTN, vốn tự có ít nhất là số vốn pháp định theo quy định thành lập doanh nghiệp. Đối với các công ty cổ phần thì vốn tự có chính là số vốn góp của các cổ đông. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn có và thường xuyên được bổ sung bằng lợi nhuận giữ lại. - Nguồn vốn tín dụng dài hạn: Doanh nghiệp có thể huy động bằng cách vay ngân hàng và phải chịu một mức phí tín dụng nhất định. Các khoản vay này thường có thời hạn trên 1 đến 3 nămhoặc từ 3 năm đến 5 năm trở lên. Hiện nay, doanh nghiệp muốn vay tín dụng dài hạn thường pải theo một dự án nhất định và phải chịu một số điều khoản thẩm định hiệu quả dự án đầu tư nghiêm ngặt. - Vốn huy động bằng phát hành cổ phiếu: Đây cũng là một nguồn tài trợ quan trọng đối với doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN song song với đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán non trẻ. Đó là một dấu hiệu tố cho sự phát triển một thị trường vốn hoàn thiện, tạo cơ hội phát triển cho các DNNN - Vốn huy động bằng phát hành trái phiếu công ty và các công nợ có khả năng chuyển đổi khác. Đây là hình thức bổ sung và tạo khả năng đa dạng hoá các phương ti\hức tài trợ cho doanh nghiệp. - Nguồn tài trợ từ nội bộ: Đây là một hình thức huy động có tác dụng phát huy nội lực của mỗi đơn vị từ đội ngũ cán bộ công nhân viên- những người gắn lợi ích riêng của cả doanh nghiệp. Tài trợ nội bộ có thể bằng chính sách phân phối cổ tức và phát hành cổ phiếu nội bộ Nguồn tài trợ ngắn hạn: - Tín dụng ngân hàng: doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu vốn ngắn hạn từ một vài ngày đến dưới 1 năm bằng nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. - Tín dụng thương mại (tín dụng nhà cung cấp). Đây là phương thức tài trợ vốn của doanh nghiệp với nhà cung ứng sản phẩm dịch vụ phát sinh trong quan hệ thương mại như các hình thức mua hàng trả chậm, trả góp…Khả năng mở rộng tín dụng phụ thuộc lớn vào uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. 2.5.1.4 Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời và phân phối lợi nhuận. Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cuối cùng của các hoạt động và quyết định đàu tư trước đó. Bởi doanh nghiệp được thành lập và hoạt động vì mục tiêu sau cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao doanh nghiệp càng khẳng định được vị thế và sự tồn tại của mình. Song nếu đánh giá quá cao chỉ tiêu lợi nhuận thì các kết luận khi phân tích rất có thể dẫn tới những sai lầm bởi vì lợi nhuận cao không đồng thời với luôn luôn có khả năng thanh toán tốt, số lợi nhuận đem lại có thể không tương xứng với lượng vốn và chi phí bỏ ra, lợi nhuận nhưng có được từ sự mất cân đối cơ cấu vốn... Do vậy, khi đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, chúng ta cần phải đặt nó trong mối quan hệ mật thiết với các nhóm chỉ tiêu khác. Lợi nhuận sau thuế (NI) * Hệ số sinh lợi doanh thu = (hệ số doanh lợi tiêu thụ sản phẩm) Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho ta biết 1 đồng doanh thu có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nó thường được sử dụng để xem xét khả năng tạo ra lợi nhuận từ các hoạt động của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp riêng lẻ khác. Lợi nhuận sau thuế + Lãi phải trả. * Hệ số tài sản = Tổng tài sản Tỷ lệ tài chính trên cho ta biết 1 đồng vốn đầu tư của doanh nghiệp sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận; được sử dụng như là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng sinh lời vốn đầu tư, hiệu quả và cách thức sử dụng vốn cũng như mức độ mạo hiểm của hoạt động kinh doanh; bên cạnh đó, lại tạo ra một thông tin phản hồi nâng cao năng lực thu hút vốn đầu tư. Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu Như ta đã biết, các nhà doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế vì mục tiêu lợi nhuận tối đa, còn các chủ sở hữu doanh nghiệp vì mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Sau mỗi kỳ kinh doanh, họ mong muốn được tăng tỷ lệ cổ tức và tăng thị giá cổ phiếu mình đang nắm giữ trên thị trường. Chỉ tiêu trên theo dõi số lợi nhuận sau thuế được tạo ra trên 1 đồng vốn chủ sở hữu. Nếu tỷ lệ này cao thì chứng tỏ rằng doanh nghiệp đang ở đà tăng trưởng bền vững, đầu tư vào doanh nghiệp là một quyết định đúng đắn. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể thêm nguồn vốn kinh doanh qua thị trờng tài chính (đặc biệt là từ thị trường chứng khoán). Mặc dù vậy, tỷ lệ lợi nhuận còn phải đặt trong một mối quan hệ với cơ cấu vốn hợp lý (sự tương đồng giữa vốn chủ sở hữu và các khoản nợ vay khác). 2.5.2 Phân tích khái quát diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Đây là công việc xem xét và đánh giá sự thay đổi các chỉ tiêu tài chính trong bảng cân đối kế toán cuối kỳ so với đầu kỳ. Mỗi sự thay đổi ở nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn (tài sản) nhất thiết phải thân thủ nguyên tắc sau đây: Sử dụng vốn: tăng tài sản và giảm nguồn vốn. Nguồn vốn : tăng nguồn vốn và giảm tài sản. Nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn phải cân đối với nhau. Công cụ hữu ích nhất để thực hiện nội dung phân tích này là Bảng kê chi tiết nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn: Chỉ tiêu 31/12/N-1 31/12/N Sử dụng vốn Nguồn vốn Tiền mặt Phải thu Tồn kho Vay Phải trả ..v...v Tổng cộng Nội dung phân tích này cho ta biết tình hình tăng (giảm) nguồn vốn, tình hình sử dụng nguồn vốn biến động như thế nào, tỷ lệ tài trợ là bao nhiêu. Từ đó, tìm những giải pháp khai thác khả năng nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn. Một công cụ khai thác không kém phần quan trọng trong nội dung này chính là phương pháp phân tích theo luồng tiền mặt đầu kỳ và cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi về luồng tiền đều phải dựa theo nguyên tắc: Tăng tiền mặt: tăng nguồn vốn và giảm tài sản. Giảm tiền mặt: tăng tài sản và giảm nguồn vốn Tổng tăng (giảm) tiền mặt đến cuối kỳ phải đúng bằng sự thay đổi tiền mặt cuối kỳ so với đầu kỳ trên Bảng cân đối kế toán. Các khoản làm tăng tiền: lợi nhuận sau thuế, tăng tiền do tăng khoản vay ngắn hạn, tăng không phải trả phải nộp. Các khoản làm giảm tiền mặt: tăng khoản phải thu, tăng dự trữ, tăng đầu tư dài hạn, giảm vay ngân hàng, trả lãi cổ phần. Từ chỗ xác định nguyên nhân của những biến động, khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt sẽ được xác định, khả năng thanh toán của doanh nghiệp cũng sẽ được định lượng 2.5.3 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh Người xưa đã có câu "Buôn tài không bằng dài vốn". Thật vậy, một doanh nghiệp muốn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, khả năng cạnh tranh và an toàn thì phải có thực lực về vốn để thực thi các kế hoạch, chiến lược đã đề ra. Do vậy, phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động là nội dung cần thiết không thể thiếu trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Trong nội dung này, người ta thường quan tâm tới 3 chỉ tiêu sau; Vốn lưu động thường xuyên (VLĐTX) = Nguồn vốn ngắn hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn Nhu cầu VLĐTX = Tồn kho + khoản phải thu - nợ ngắn hạn. Vốn = tiền = VLĐTX - nhu cầu VLĐ thường xuyên. Chỉ tiêu vốn lưu động thhương xuyên chỉ ra mức dộ an toàn của cá tài sản ngắn hạn. Dễ dàng thầy rằng: nếu VLĐTX < 0, có nghĩa là Một phản ứng tất yếu là doanh nghiệp phải sử dụng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho TSCĐ. Chính sự không tương ứng về cấu trúc thời hạn của nguồn vốn và đối tượng đầu tư đã dẫn tới rủi ro tài chính cho doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp do không đủ TSLĐ để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn rất dễ bị đẩy đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Nhờ phân tích VLĐTX, các nhà quản trị tài chính phải tìm kiếm giải pháp đưa VLĐTX về trạng thái ít nhất là không âm; hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn, tìm kiếm nguồn tài trợ dài hạn (như đã trình bày ở phần 5.1.3) mới. Đối với chỉ tiêu nhu cầu VLĐTX, ta có thể nhận biết phải cần bao nhiêu hàng tồn kho và khoản phải thu để tài trợ đủ bằng nợ ngắn hạn. Nếu nhu cầu VLĐTX > 0, tức là tồn kho và khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn, khi đó nhu cầu chi trả nợ sẽ lớn hơn khả năng chi trả của do doanh nghiệp duy trì quá nhiều hàng tồn kho và một khối lượng khoản phải thu. Doanh nghiệp buộc phải tạm thời sử dụng nguồn dài hạn để thanh toán. Từ kết quả phân tích, áp dụng một chính sách tín dụng thương mại thắt chặt, nhanh chóng thu hồi các khoản nợ từ khách hàng, kích thích tiêu thụ hàng tồn kho là cấp thiết để vực dậy tình trạng tài chính đang tồi tệ của doanh nghiệp Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng phải tuân theo nguyên tắc tương ứng về cấu trúc kỳ hạn của các khoản vốn và sử dụng vốn. Tức doanh nghiệp có thể sử dụng nợ ngắn hạn để tài trợ cho TSCĐ nếu thị trường tạo nguồn ngắn hạn của nó là khá thuận lợi. Nhìn chung, muốn đảm bảo nguồn vốn liên tục về chất lượng và số lượng, đảm bảo lành mạnh về tài chính, doanh nghiệp cần thiết phải duy trì đồng thời VLĐTX > 0, nhu cầu VLĐTX 0. 3.Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo tình hình tài chính. Đây là nội dung cuối cùng và có ý nghĩa quyết định hiệu quả hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Từ kết quả phân tích trên, chủ yếu từ phân tích các nhóm chỉ tiêu tỷ lệ tài chính, các nhà phân tích tiến hành lập bảng tổng hợp phân tích theo mẫu sau: Chỉ tiêu N-1 N So sánh N/N-1 Chỉ tiêu tb của ngành Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán ... Nhóm chỉ tiêu khả năng hoạt động ... Nhóm chỉ tiêu cân đối vốn … Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lợi ... Qua bảng này, nhà phân tích tài chính sẽ đưa ra những nhận định chính xác có cơ sở khoa học về những mặt được và những tồn tại yếu kém trong tình hình tài chính của doanh nghiệp. Qua đó, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định tài chính, lập các kế hoạch và chiến thuật trong ngắn hạn và dài hạn cho doanh nghiệp. Đồng thời giúp cho các đối tượng quan tâm khác trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quyết định quản lý xứng đáng nhất. CHƯƠNG 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội 1. Vài nét về Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội . 1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội . Quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế đất nước nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, Công ty Thương mại và Đầu tư Phát triển Hà Nội ra đời từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết của nhà nước . Công ty Thương mại và Đầu tư Phát triển Hà Nội có: Tên giao dịch: Hanoi trade and investment development company Tên viết tắt: HAPEXCO Địa chỉ: Số 46 Thanh Nhàn – Quận Bà Trưng – Hà nội Tiền thân của công ty Thương mại và Đầu tư phát triển Hà Nội là Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thanh niên Hà Nội và Trung Tâm sản xuất dịch vụ Tổng hợp Hà Nội, được thành lập từ năm 1987 trực thuộc Tổng đội Thanh niên Xung Phong-Xây Dựng Kinh tế Thủ đô - Thành Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hà Nội. Đến năm 1992, theo quyết định số 388/HĐBT của hội đồng bộ trưởng ( nay là chính phủ) và quyết định số 3549/QĐ-UB ngày 29/12/1992 của UBND Thành phố Hà nội cho phép đổi tên Công ty thành : Công ty sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu Theo quyết định số 6258/QĐ-UB ngày 03/12/1993 được đổi tên thành Công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu Thanh niên Hà nội. Để phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của mình đến năm 1995 theo quyết định số 4426/QĐ-UB ngày 14/12/1995 lấy tên là Công ty Thương mại và Đầu tư Phát triển Hà Nội Công ty Thương mại và Đầu tư Phát triển Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa , thực hiện theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tiền Việt Nam và tài khoản ngoại tệ Tại Ngân Hàng, có con dấu riêng theo quy định của nhà nước. Mục tiêu sáng tạo của Công ty nhằm khai thác tiềm năng lao động, khả năng sáng tạo của lực lượng Thanh niên xung phong, đẩy mạnh sản xuất thương mại, phát triển dịch vụ, thực hiện xuất nhập khẩu theo đúng chủ trương của Nhà nước và của Thành phố ,từ đó tạo việc làm cho thanh niên ,tănng cường tích luỹ hoạt động chung của lực lượng thanh niên xung phong và phong trào thanh niên thành phố. Đồng thời giáo dục nâng cao trình độ chính trị tưởng , phong cách lao động mới , rèn luyện thanh niên . Từ những năm mới thành lập , Công ty còn gặp nhiều khó khăn ,nhuwng được sự chỉ đạo quan tâm của thành phố Hà Nội và các ngành ủng hộ đổi mới. Cùng với tinh thần nỗ lực của cán bộ công nhân viên trong công ty và tính tích cực chủ động đổi mới của lãnh đạo .Công ty đã nhanh chóng khắc phục được những khó khăn giữ vững và phát triển sản xuất đạt hiệu quả cao, từng bước khảng định mình trong tình hình mới Là một doanh nhgiệp Nhà nước nên Công ty có một phần vốn do ngân sách nhà nước cấp ,có thể nói lượng vốn do ngân sách nhà nước cấp là quá ít trong thời điểm kinh doanh hiện nay , bên cạnh đó vốn vay của ngân hàng hạn chế do các quỉ định của Nhà nước.Trong những năm trước ,qua lượng vốn tự bổ sung của Công ty đã tăng lên chứng tỏ sự làm ăn có hiêụ quả.Tuynhiên , trong những năm gần đây khi nền kinh tế khó khăn ,bên cạnh số lượng vốn do nhà nước còn có nhiều biện pháp nhằm huy động thêm các nguồn khác như :Vay ngân hàng ,vay cán bộ công nhân viên . qua 10 năm hoạt động theo cơ chế thị trường (1989-1999), HAPEXCO đã đạt được một số thành tựu đáng kể: * Tổng kim ngạch XNK :1036 triệu USD. -trong đó xuất khẩu :65,15 triệu USD. *Tổng doanh thu :2580 tỷ đồng. *Tổng nộp ngân sách :288,2 tỷ đồng. *Tổng lãi :57 tỷ đồng. *Tăng trưởng vốn đạt :273% từ 10,5% tỷ đồng năm1991 lên đến 26,685 tỷ đồng. Đặc biệt trong năm 1998, mặc dù nền kinh tế cả nước đã phải chịu cơn bão khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực, nhưng nhờ vận dụng sáng tạo chủ chương,đường lối của Chính phủ, và phát huy nội lực vào nhiệm vụ kinh doanh, công ty vẫn không ngừng mở rộng và đa dạng hoá loại hìng kinh doanh, duy trì khách hàng truyền thống và tìm kiếm bạn hàng mới trong nước và quốc tế, luôn coi trọng lợi ích của khách hàng, chú trọng các dịch vụ sau bán hàng và thực hiện văn hoá trong kinh doanh. Chính vì vậy, công ty vẫn đạt được một số thành tích đáng kể: * Kim ngạch XNK :92 triệu USD * Tổng doanh thu :238 tỷ đồng * Tổng nộp ngân sách :42,4 tỷ đồng. * Tổng lợi nhuận :3,8 tỷ đồng. Bình quân một cán bộ làm lãi 18 triệu đồng/năm. * Thu nhập bình quân :1,286 triệu đồng/tháng. Đến nay từ một tổ chức nhỏ bé ban đầu, HAPEXCO đã trưởng thành và trở thành một doanh nghiệp có bề dày kinh nghệm, có mạng lưới cơ sở đặt tại các trung tâm thương mại lớn trong cả nước: Hà nội, Hải phòng, Đà nẵng, thành phố Hồ chí minh, và đẫ thiết lập quan hệ thương mại với rất nhiều tổ chức thương mại nhiều quốc gia trên toàn thế giới. 1.2 Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh của Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội . Tổ chức bộ máy kinh doanh của Công ty Trên cơ sở tình hình tổ chức sản suất, kinh doanh của Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội đã xây dựng mạng lưới các đơn vị trực thuộc như sau : - Xí nghiệp xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị . - Trung tâm nhôm kính . - Chi nhánh Công Ty tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Chi nhánh Công Ty tại Đà Nẵng . - Chi nhánh Công Ty tại Phú thọ . - Chi nhánh Công Ty tại Hải Phòng . - Công viên Tuổi trẻ Thủ đô. - Văn phòng đại diện tại Liên bang Nga Các đơn vị trực thuộc và chi nhánh nhận vốn từ Công ty hoạt động theo đúng qui của Nhà Nước .Trong quá trình hoạt động kinh doanh các đơn vị chủ động giao dịch tìm kiếm bạn hàng, xây dựng phương án kinh doanh của mình . Hàng tháng các đơn vị trực thựôc tự hạch toán rồi lập báo cáo gửi lên phòng kế toán . Sơ đồ bộ máy kinh doanh của Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội Văn phòng đại diện liên bang nga Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội Công viên tuổi trẻ thủ đô Chi nhánh tại Vĩnh phúc Chi nhánh tại Phú Thọ Chi nhánh tại Đà Nẵng Chi nhánh tại Hải phòng Chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh Trung tâm Nhôm kính Xí Nghiệp xây lắp và kinh doanh vật tư thiết bị Tổ chức bộ máy quản lý của công ty Đứng đầu Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội là Giám đốc do UBND Thành phố Hà Nội bổ nhiệm và là người chụi trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội là đơn vị sản xuất, kinh doanh trên lĩnh vực lưu thông và thương mại dịch vụ. Đơn vị có 9 đơn vị trực thuộc và 5 phòng ban chính chụi sự lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty, hoạt động theo sự chức năng và nhiệm vụ được giao. Các phòng ban nghiệp vụ hỗ trợ, hướng dẫn, phục vụ chu đáo cho các bộ phận sản xuất kinh doanh Tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty là 250 người theo hợp đồng dài hạn, ngoài ra mỗi chi nhánh có thể thuê thêm lao đông theo thời vụ hoặc theo nhu cầu công việc. Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban: Ban giám đốc : bao gồm Giám đốc và 2 phó giám đốc trợ giúp cho Giám đóc , một là Giám đóc Xí nghiệp xấy lắp và kinh doanh thiết bị vật tư và một là Giám đốc chi nhánh cuả Công ty tạiThành phố Hồ chí Minh Phòng kế hoạch Tổng hợp: có chức năng giúp Giám đốc lập kế hoạch các chỉ tiêu kinh tế về hoạch động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng lên cấp trên, tiếp thu phổ biến các chính sách do Pháp Luật Nhà nước ban hành. Phòng kế toán Tài vụ: Có nhiệm vụ theo dõi tình hình tài chính của doanh nghiệ, hướng dẫ kiểm tra công tác kế toán của Công ty, khai thác sử dụng và quản lý nguồn vốn có hiệu quả phục vụ hoạt đọng sản xuất kinh doanh của đơn vị, xét duyệt theo quyết toán, tổng hợp lập báo cáo tài chính cho toàn Công ty theo định kỳ. Phòng tổ chức hành chính: là bộ phận tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức, sắp xếp bộ máy toàn công ty . thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động theo quyết định của nhà nước, quản lý và sử dụng tài sản phục vụ cho công tác hành chính quản trị. Các phòng kinh doanh: có nhiệm vụ trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh doanh trong nước và vói nước ngoài Sơ đồ Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Ban giám đốc Phòng Tổ chức hành chính Phòng Kinh doanh II Phòng KInh doanh I Phòng Kế toán Tài vụ Phòng kế hoạch Tổng hợp 2 Thực trạng phân tích tài chính tại Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội Phân tích tài chính doanh nghiệp là một nội dung rất quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nói chung. Song tại Việt Nam, tất cả các DNNN cũng như Hapexco thì phân tích tài chính doanh nghiệp mới được áp dụng khi Nhà nước có chủ trương ban hành chế độ kế toán mới. Trong khoảng thời gian tuy ngắn ngủi đó, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty HAPEXCO đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh và vẫn không ngừng hoàn thiện. 2.1. Công tác chuẩn bị cho phân tích tài chính tại HAPEXCO Mục tiêu là điều đầu tiên cần xác định khi thực hiện bất kể một công việcgì dù lớn hay nhỏ. ở đây, cũng vậy phân tích tài chính doanh nghiệp tại HAPEXCO nhằm mục đích tự đánh giákết quả sản xuất kinh doanh trong năm qua, những nguyên nhân và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả; thông qua đó, hoạt động này còn nhằm vào mục đích cao hơn là xây dựng các báo cáo, các kế hoạch tài chính chiến lược ngắn hạn và dài hạn, định hướng kinh doanh cho doanh nghiệp trong thời gian tới. Đây mới là cái đích quan trọng cần đạt tới của phân tích tài chính doanh nghiệp: nhìn nhận lại quá khứ và hiện tại để hướng tới tương lai. Căn cứ vào mục tiêu cơ bản đó, phân tích tài chính doanh nghiệp được thực hiện dựa trên cơ sở các số liệu thông tin từ các báo cáo tài chính của mình. Các báo cáo này bao gồm Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh và bản thuyết minh báo cáo tài chính. Đây là các nguồn thông tin được lập vào thời điểm cuối kỳ báo cáo (hay cuối năm). Như vậy, ta thấy báo cáo lưu chuyển tiền tệ không được đề cập đến bởi công ty không xây dựng loại báo cáo này- một loại có ý nghĩa khá quan trọng trong việc phản ánh diễn biến của các luồng tiền mặt ra vào công ty trong cả năm (các khoản tiền thực nhập và thực xuất quỹ), qua đó có đủ khả năng phản ánh khả năng thanh toán tức thời, cũng như là liên quan đến các quyết định quản lý bằng tiền mặt- một nội dung quan trọng bậc nhất trong quản lý thanh khoản hay quản lý tài sản lưu động tại công ty. Như ta đã biết, HAPEXCO hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu chủ yếu là thiết bị và dây truyền công nghệ. Do đó, để xây dựng được các báo cáo tài chính như trên, cán bộ phòng kế hoạch tổ chức đã phải thực hiện công tác thu thập, ghi chép, tổng hợp số liệu, phản ánh vào các sổ kế toán theo dõi tài khoản, phản ánh vào bảng đối chiếu số phát sinh. Cơ sở pháp lý của các hoạt động kế toán này là các chứng từ gốc trong các hợp đồng xuất nhập khẩu (hợp đồng ngoại). Ngoài những thông tin có được từ các báo cáo tài chính trên, công ty không có thêm một nguồn nào từ bên ngoài như số liệu về các chỉ tiêu tài chính và tỷ lệ tài chính trung bình của ngành hoặc của một nhóm các doanh nghiệp trong ngành. Đây là một thực tại khách quan của nước ta hiện nay. 2.2 Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp. Qua nghiên cứu thực tế tại HAPEXCO đã và đang sử dụng đồng thời cả hai phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ để phân tích hoạt động tài chính Công ty. Báo cáo kết quả kinh doanh . Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Doanh thu thuần 413.026.369.453 755038507940193 1.280.717.083.665 GVHB 396.889.333.286 745.108.794.193 1.267.595.355.374 Lãi gộp 16.137.036.167 10.277.408.862 12.722.703.975 Chi phí BH 2.890.1473.572 2.116931.984 2.521.696.742 Chi phí QLDN 9.523.788.183 6.496973.398 5.939.434.598 LN từ HĐ KD 3.723.100.412 1.663.503.480 4.261.572.635 TN từ HĐ TC 2.567.531.872 1.740.164.310 1.695.054.556 CP từ HĐ TC 924.515.787 205.630.236 2.801.002.721 LN từ HĐ TC 1.643.016.085 1.534.534.074 -1.105.9480165 LN từ HĐ bất thường - - - Tổng LN trước thuế 5.366.116.497 3.1980.137.554 3.554.648.786 Thuế TNDN phải nộp 2.637.729.514 1.023.404.016 1.137.487.612 LN sau thuế(NI) 2.728.386.983 2.174.663.538 2.417.119.100 Đối với phương pháp so sánh, các chỉ tiêu tài chính được so sánh về số tuyệt đối đầu kỳ so với cuối kỳ để xác định giá trị chênh lệch, qua đó nhận biết diễn biến tăng (giảm) của mỗi chỉ tiêu. Cũng trong phương pháp này, các chỉ tiêu tài chính được so sánh theo chiều dọc để đưa ra tỷ trọng của các chỉ tiêu tài chính trong tổng thể của nó như xem xét tỷ trọng của tiền mặt hay khoản phải thu trong cơ cấu của tổng tài sản lưu động; hoặc so sánh vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng nguồn vốn của công ty. Song song với so sánh chiều dọc, phân tích tài chính còn được sử dụng thêm phương pháp so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy sự biến động của các chỉ tiêu tài chính thông qua các niên độ về số tuyệt đối và tương đối, từ đó dự báo xu hướng biến động của chúng. để phân tích dùng Bảng cân đối kế toán Bảng : Bảng cân đối kế toán của HAPEXCO năm 2001. Đơn vị: Đồng. Tài sản Đầu năm Cuối năm I. TSLĐ & đầu tư ngắn hạn 12.705.557.004 132.808.741.773 1. Tiền 25.045.680.721 28.472.263.174 - Tiền mặt tại quỹ 1.332.875.269 1.386.542.912 - Tiền gửi ngân hàng 23.712.808.452 27.040.720.262 2. Các khoản phải thu 71.442.716.269 73.424.423.910 - Phải thu khách hàng 50.881.687.480 60.477.326.968 - Thuế GTGT khấu trừ 779.661.659 1.136.821.284 - Các khoản phải thu khác 19.781.367.130 11.810.275.658 3. Hàng tồn kho 28.877.509.914 29.304.273.932 - Hàng mua đi đường 26.751.644.069 16.342.112.752 - Hàng gửi bán 2.125.865.845 12.962.161.180 4. TSLĐ khác 339.650.100 1.652.780.757 - Tạm ứng 339.650.100 289.850.100 - Chi phí trả trước - 1.362.930.657 II. TSCĐ & đầu tư dài hạn 4.966.880.471 4.727.512.247 1. TSCĐ 3.626.342.531 3.386.974.307 - TSCĐ hữu hình 3.626.342.531 3.386.974.307 - Nguyên giá 7.645.513.400 7.744.702.585 - Giá trị hao mòn - 4.019.170.869 - 4.357.728.278 2. Các khoản đầu tư tài chính DH 1.340.537940 1.430.537.940 - Đầu tư chứng khoán DH 300.000.000 300.000.000 - Góp vốn liên doanh 1.040.537.940 1.040.537.940 Tổng tài sản 130.672.437.475 137.536.254.020 Nguồn vốn Đầu năm Cuối năm I. Nợ phải trả 99.487.848.161 105.553.742.826 1. Nợ ngắn hạn 99.490.473.472 105.569.106.863 - Vay ngắn hạn 22.831.901.922 59.417.556.153 - Phải trả khách hàng 22.157.616.000 10.130.888.724. - Người mua trả trước 48.421.399.776 19.469.672.633 - Thuế và các khoản phải nộp NSNN - 664.722.501 - 923.635.463 - Phải trả CNV 2.013.455.893 1.722.005.294 - Phải trả khác 34.730.822.382 15.752.619.522 2. Nợ khác - 2.625.311 - 15.364.037 - BHXH, BHYT, KPCĐ - 2.625.311 - 15.364.037 II. Nguồn vốn chủ sở hữu 31.184.589.314 31.982.511.194 1. Nguồn vốn & quỹ 31.184.589.314 31.982.511.194 - Nguồn vốn kinh doanh 16.786.532.370 16.902.679.255 - Quỹ phát triển kinh doanh 11.731.460.220 12.460.357.766 - Quỹ dự trữ 642.417.671 806.293.648 - Quỹ khen thưởng phúc lợi 838.145.448 627.046.920 - Nguồn vốn XDCB 1.186.133.605 1.086.133.605 2. Nguồn kinh phí - - Tổng nguồn vốn 130.672.437.475 137.536.254.020 (Nguồn: Phòng Kế toán- Tài chính). Còn đối với phương pháp tỷ lệ, HAPEXCO đã áp dụng đầy đủ 4 nhóm chỉ tiêu tỷ lệ tài chính tổng hợp là nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động, nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lợi và phân phối lợi nhuận. Nhưng nhìn vào các chỉ tiêu cụ thể trong từng nhóm ta thấy công ty đã sử dụng một số chỉ tiêu sau đây: Bảng: Một số chỉ tiêu tỷ lệ đánh giá tình hình tài chính của HAPEXCO Chỉ tiêu Kỳ gốc Kỳ báo cáo Tình hình tài chính : tỷ lệ nợ phải trả so với toàn bộ tài sản Khả năng thanh toán (%) + Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tài sản lưu động / nợ ngắn hạn. + Hệ số thanh toán nhanh = Tiền hiện có / nợ ngắn hạn Bố trí cơ cấu vốn (%): Tài sản cố định / Tổng tài sản. Tài sản lưu động / tổng tài sản. Tỷ suất lợi nhuận (%) Tỷ suất lợi nhuận / doanh thu Tỷ suất lợi nhuận / vốn. Nguồn: Phòng kế hoạch Ta thấy, nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động không được lựa chọn để phân tích tài chính tai công ty. Tức là các tỷ lệ giữa giá vốn hàng bán và hàng tồn kho cho biết khả năng tiêu thụ hàng hoá, tỷ lệ giữa các khoản phải thu và doanh thu bình quân cho biết khả năng thu hồi vốn, tỷ lệ doanh thu thuần với cốn lưu động, với tài sản cố địnhhay với tổng tài sản phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp có hiệu quả hay không đã không được đề cập đến trong nội dung phân tích. Mà đây lại là nhóm chỉ tiêu có thể nói là đánh giá trực tiếp hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp và một phần quan trọng tình hình khả năng tài chính của doanh nghiệp qua các khoản phải thu trong cơ cấu doanh thu, khoản tồn kho trong cơ cấu giá vốn hàng bán. 2.3 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp tại HAPEXCO . 2.3.1 Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính lựa chọn của Công ty. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán của Công ty. Tình hình công nợ và khả năng tài chính phản ánh chất lượng công tác tài chính tại doanh nghiệp. Việc đi chiếm dụng vốn của người khác (tăng các khoản phải thu) và bị chiếm dụng vốn (tăng các khoản phải trả) là cơ sở để xác định nhu cầu và khả năng thanh toán của một doanh nghiệp. Trong đó, khoản phải thu và khoản phải trả được thể hiện trong bảng chi tiết sau đây: Các khoản phải thu Đầu năm Cuối năm Phải thu khách hàng 50.881.687.480 60.477.326.968 VAT khấu trừ 779.661.659 1.136.621.284 Phải thu khác 19.781.367.130 11.810.275.658 Tổng cộng 71.442.716.269 73.424.423.910 Các khoản phải trả Phải trả khách hàng 22.157.616.000 10.130.888.724 Người mua trả tiền trước 18.421.399.776 19.469.672.133 Thuế và các khoản phải nộp NS -664.722.501 -923.635.463 Vay ngắn hạn NH 22.831.901.822 59.417.556.153 Trả CBCNV 2.013.455.893 1.722.005.294 Phải trả khác 34.730.822.382 15.752.619.522 Tổng cộng 100.155.195.973 106.492.741.826 Đối với các khoản phải thu, chúng chiếm 53.39% tổng tài sản và đang có xu hướng tăng nhanh, chủ yếu là các khoản phải thu từ khách hàng, chứng tỏ Công ty đang bị chiếm dụng vốn khá lớn. Để quay vòng vốn nhanh và tăng nhanh khả năng thanh toán, trong thời giam tới Công ty cần phải có những biẹn pháp mạnh mẽ hơn nữa trong chính sách thu hồi nợ từ phía khách hàng, cần xây dựng kế hoạch bán chịu khắt khe hơn trong khi vẫn đảm bảo khả năng tăng trưởng của doanh thu và lợi nhuận. Còn đối với các khảon phải trả, chúng chiếm tới 76.75% tổng tài sản. Đây là một tỷ lệ khá lớn , nó cho thấy mức độ Công ty đang chiếm dụng vốn của người khác là bao nhiêu cho hoạt động kinh doanh ccủa nó. Nhưng trong tổng các khoản phải thu thì nợ vay ngân hàng lại chiếm một tỷ trọng lớn (khoảng 56% tổng các khoản phải thu). Như vậy, trong tương lai tình hình tài chính của Công ty sẽ gặp khó khăn do các khoản nợ là có thời hạn xác địnhnên không thể thương lượng, động thời, chi phí trả lãi vay ngân hàng sẽ là một gánh nặng làm giảm lợi nhuận thu được của Công ty. Để đánh gái chính xác khả năng thanh toán của Công ty trong ngắn hạn , ta đi sâu vào xem xét một số chỉ tiêu cơ bản sau: TSLĐ - Hệ số khả năng thanh toán hiện hành = (%). Nợ ngắn hạn. 132.808.741.773 (1999) = *100 =125.803%. 105.569.106.863 125.045.680.721 (2000) = *100 =125.686%. 99.490.473.472 chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành của Công ty đã tăng từ năm 1999 sang năm 2000 nhưng mức độ tăng không đáng kể (khoảng 0.117 %) nhưng nhìn chung đều lớn hơn 1, chứng tỏ TSLĐ của Công ty có thừa khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn của mình. Tiền hiện có - Hệ số khả năng thanh toán tức thời = (%). Nợ ngắn hạn 25.045.680.721 ( 2000) = *100 =25.175% 99.487.848.161 28.427.263.174 (2001) = *100=26.932%. 105.553.742.826 Khả năng thanh toán tức thời của Công ty trong thời gian qua là quá thấp mặc dù năm 2000 đã tăng so với năm 1999 nhưng tỷ lệ này tăng không đáng kể (khoảng 1.757%). Công ty chỉ có thể đáp ứng được hơn 25% các khoản nợ ngắn hạn của mình xét tức thời tại thời điểm lập chỉ tiêu, phần còn lại, đương nhiên Công ty phải tìm kiếm từ các khoản phải thu và hàng tồn kho.Như vậy lượng dự trữ tiền mặt của Công ty (bao gồm tiền mặt tại quỹ của xí nghiệp và tiền gửi ngân hàng) là chưa đủ để đảm bảo khả năng thanh toán tức thời tại Công ty. Tóm lại, nhìn chung về số tuyệt đối thì khả năng thanh toán của Công ty là tương đối tốt, đủ để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Nhưng nếu xét về góc độ tương đối thì các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của Công ty lại đang chỉ ra những dấu hiệu không tốt. Công ty cần có những điều chỉnh về cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản để cải thiện và ổn đình khả năng thanh toán và tạo đà chủ động hơn nữa trong hoạt động kinh doanh. Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn (cơ cấu tài chính). Phân tích cơ cấu tài sản và nguồn vốn sẽ đea ra những nhận định tổng quát về cơ cấu tài chính của Công ty. Phân tích tài chính nd tại HAPEXCO xem xét 3 chỉ tiêu tài chính chủ yếu sau đây: Nợ phải trả - Hệ số nợ phải trả so với tổng tài sản = (%). Tổng tài sản 99.487.848.161 (2000 ) = *100=76.135%. 130.672.437.475 105.553.743.826 (2001)= -----------------------*100=76.746%. 137.536.254.020 Nợ phải trả chiếm phần lớn tổng tài sản (trên 75%) đồng nghĩa với việc Công ty phải đối mặt với nghĩa vụ trả nợ lớn trong thơì gian tới. Hệ số này quá cao thể hiện mức độ rủi ro tài chính tương đối lớn. Do đó, để đảm bảo tình hình tài chính lành mạnh, trong thời gian tới Công ty cần có kế hoạch cơ cấu lại nguồn vốn hợp lý và có kế hoạch đầu tư vào các tài sản có hiệu quả và an toàn hơn. TSLĐ TSCĐ - Hệ số cơ cấu tài sản = ------------------- (1) hoặc = ------------------ (2). Tổng tài sản Tổng tài sản (1): 125.705.557.004 (2000)=125.705.557.004 *100=96.199% 130.672.437.475 (2001)= 1.322.677.098.165*100=96.467%. 137.536.254.020 (2): (2000)= 4.966.880.471 *100=3.801%. 130.672.437.475 (2001)= 485.915.585.452 *100=3.533%. 137.536.254.020 TSLĐ chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng tài sản của Công ty và có xu hướng tăng chậm ổn định. Công ty cần duy trì trạng thái sử dụng vốn như trên, đồng thời, phòng tránh những tác động có hại dẫn tới những bién đổi trong cơ cấu tài sản, dẫn tới những ảnh hưởng xấu tới kết qảu kinh doanh của Công ty. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi: Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng cần đạt được của mọi quá trình kinh tế, chúng được phản ánh trong Bảng báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty lập vào cuối năm tài chính. Phân tích tài chính doanh nghiệp tại HAPEXCO sử dụng chủ yếu 2 chỉ tiêu sau đây; Lợi nhận sau thuế -Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu=------------------------ (%). Doanh thu thuần 2.174.633.538 (2000)= -----------------------*100=0.289% 755.385.794.193 2.417.119.100 (2001)=----------------------------*100=0.188%. 1.280.717.083.665 Trong năm qua, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu hay tỷ suất sinh lợi doanh thu của Công ty đã giảm sút rõ rệt từ 0.289% năm 1999 xuống còn 0.188% năm 2000 với lượng giảm là 0.101%. Như vậy, mặc dù lợi nhuận của Công ty có tăng về số tuyệt đối (269.475.562 triệu đồng) với tốc độ là 1,11 lần nhưng tốc độ tăng vẫn chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng nhanh của doanh thu, thêm vào đó, các chi phí của Công ty cũng không ngừng tăng lên, đặc biệt là chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, nên một đồng doanh thu chỉ đem lại một lượng ít hơn lợi nhuận. Công ty cần nghiên cứu lại cơ cấu tổ chức quản lý và cơ cấu bộ phận bán hàng để giảm thiểu chi phí không cần thiết, để mở rộng quy mô lợi nhuận cho doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế -Hệ số lợi nhuận / vốn=-------------------------(%). Vốn chủ sở hữu 2.147.633.538 (2000)=-------------------------*100=6.973%. 31.184.589.314 2.417.119.100 (2001)=-----------------------*100=7.558%. 31.982.511.194 Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu của Công ty đã tăng lên đáng kể (khoảng 0.585%) do lợi nhuận đạt được trong năm 2001 tăng nhanh hơn so với tốc độ bổ sung vốn chủ sở hữu của Công ty. Tuy chưa có một cơ sở tham chiếu, song duy trì được tốc độ sinh lợi vốn chủ sở hữu tăng ổn định là điều cần tiếp tục phát huy tại Công ty trong thời gian tới. Phân tích tài chính nd tại Công ty trong năm qua cho thấy khả năng thanh toán còn bất ổn và khả năng sinh lợi của cả tài sản và nguoòn vốn đều thấp. Công ty cần có biện pháp cân đối cơ cấu vốn hợp lý bằng các kế hoạch cụ thể (kế hoạch thu hồi nợ; kế hoạch quản lý ngân quỹ, khoản phải trả, kế hoạch khách hàng ...) 2.3.2 Phân tích tình hình diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn của Công ty HAPEXCO Nhìn vào bảng phân tích tình hình nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn, trong năm 2001, công ty đạt mức độ tăng trưởng khá cao: 38.671.217.192 VND chiếm 28.12% so với quy mô của tổng nguồn vốn. Như vậy, Công ty vẫn duy trì được sự tăng trưởng khá trong hoạt động kinh doanh của mình và điều đó đồng nghĩa với đạt hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn. Xét về sử dụng vốn, trong năm qua, nguồn vốn của công ty được sử dụng chủ yếulà từ các khoản phải trả trong đó lớn nhất là khoản phải tar và phải nộp khác với số tuyệt đối là 31.004.930.136 VND, chiếm 80.18% tổng sử dụng vốn của Công ty. Điều này chứng tỏ rằng Công ty đã tạo lập được mối quan hệ tốt đẹp với các đối tác (bạn hàng và khách hàng), qua đó, tạo dựng uy tín và sự tin cậy hơn nữa trên thương trường. Đây là một trong những đièu kiện thuận lợi để Công ty khai thác tại nguồn vốntừ bên ngoài cho hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, sử dụng nguồn vốn của công ty còn từ khoản vốn bằng tiền mà chủ yếu là từ khoản tiền gửi ngân hàng (chiếm 8.75%). Đây là một phương thức sử dụng vốn phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh, đặc điểm thanh toán của Công ty. Bởi hầu hết các giao dịch thanh toán của Công ty với khách hàng đều theo phương thức thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống các ngân hàng thương mại. Xét về hàng tồn kho, do đặc điểm kinh doanh của Công ty chủ yếu là thực hiện theo sự uỷ thác của khách hàng nên hàng hoá sau khi được vận chuyển đến cảng đến sẽ được gửi đi bán ngay hoặc giao tay ba tại cảng đến, nên hàng tồn kho của Công ty chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong sử dụng vốn khoảng 1.1%. Như vậy, nhìn chung, tình hình sử dụng nguồn vốn của Công ty là khả quan và đảm bảo sự tưng trưởng nguồn vốn. 2.3.3 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của Công ty trong năm vừa qua. Bảng Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn kinh doanh của Công ty. VLĐ thường xuyên=TSCĐ+Vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm 1.TSCĐ(GTCl) 3.626.342.531 4.727.512.247 2.Vốn chủ sở hữu 31.184.589.314 31.982.511.194 3.Nợ dài hạn 0 0 VLĐ Thường xuyên 34.810.931.845 36.710.023.471 Nhu cầu VLĐ thường xuyên = Khoản phải thu+hàng tồn kho - Nợ ngắn hạn 1. Khoản phải thu 71.442.716.269 73.424.423.910 2. Hàng tồn kho 28.877.509.914 29.304.273.932 3. Nợ ngắn hạn 99.490.473.472 105.569.106.863 Nhu cầu VLĐ 829.752.711 -2.840.409.021 (Nguồn: Phòng Kế toán - tài chính). Khả năng đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của Công ty được đo lường bằng ba chỉ tiêu sau đây: nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. vốn lưu động thường xuyên. vốn bằng tiền. Các chỉ tiêu này được thể hiện trong bảng Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Nguồn vốn của Công ty được duy trì ở trạng thái sẵn sàng cho hoạt động kinh doanh phát sinh trong tương lai. Điều này thể hiện ở chỉ tiêu Vốn lưu động thường xuyên của Công ty luôn dương. Nguyên nhân là do Công ty đã không sử dụng nợ vay dài hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Đây cũng là điều dễ hiểu. Thường thì mỗi doanh nghiệp chỉ đi vay dài hạn khi nó có kế hoạch đầu tư dài hạn hoặc sắp thực hiện một dự án khả thi nào đó. Trong khi, HAPEXCO lại là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, thực hiện xuất nhập khẩu hàng hoá theo đơn đặt hàng của các khách hàng trong nước là chủ yếu, còn phần còn lại là tự doanh, chứ không tiến hành bất kỳ một hoạt động đầu tư nào vào hoạt động sản xuất hàng hoá thông thường... do đó, Công ty không cần đi vay vốn dài hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình nếu khả năng vay ngắn hạn ngân hàng và khả năng đi chiếm dụng vốn của người khác vẫn còn có thể khai thác được. Tuy nhiên, nhìn vào nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, nếu như năm 2000 còn đạt số dương khá lớn (là 829.752.711 VND) thì đến năm 2001 con số này đã giảm mạnh xuống dưới mức độ không (-2.840.409.021 VND) phản ánh một mức biến động lớn về nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty trong năm qua. Tình hình này gây ra do Công ty đã tăng nhanh quy mô của nợ ngắn hạn, trong đó, chủ yếu là tăng ở các khoản phải trả người bán, ở mức độ hơn nhiều lần tốc độ tăng của tổng các khoản phải thu và hàng tồn kho cộng lại. Điều này cho thấy giá trị của các khoản tồn kho và phải thu không đủ để đảm bảo nhu cầu trả nợ trong ngắn hạn khi các khoản nợ tới hạn phải trả. Tức là mức độ rủi ro về khả năng thanh toán của công ty là khá cao. Nhưng do đã có sự trích lập các quỹ dự phòng nên có thể nói tình hình trên là không đáng lo ngại, Công ty vẫn có đủ sự chủ động trong việc giải quyết các khoản nợ tới hạn một cách hợp lý nhất. 2.4 Đánh giá thực trạng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại HAPEXCO Nhìn chung, công tác phân tích tài chính tại công ty được thực hiện trong thời gian qua phát huy tác dụng của nó, phục vụ đắc lực cho các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, không ngừng gia tăng lợi nhuận đảm bảo tăng trưởng và phát triển vững chắc trong khi vẫn đảm bảo tốt khả năng thanh toán, chi trả cho công ty. Cụ thể là, thứ nhất, hoạt động kinh doanh vẫn được thường xuyên đánh giá kết quả, hiệu quả, tìm ra những mặt mạnh để không ngừng phát huy, cũng như những mặt còn tồn tại để nghiên cứu giải pháp khắc phục. Bên cạnh đó, phân tích tài chính còn đưa ra những nguy cơ thách thức trong tương lai để đề phòng và chiến thắng. Thứ hai, công tác dự đoán tài chính, lập các kế hoạch kinh doanh, các chiến lược, chiến thuật trong ngắn hạn vav dài hạn đã giúp công ty tận dụng tốt các cơ hội kinh doanh mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội cao trên nền tảng thông tin từ các kết quả phân tích tài chính. Tuy nhiên, hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty đã bộc lộ những hạn chế vừa mang tính khách quan vừa mang tính chất chủ quan Về các số liệu được sử dụng: Mặc dù có cơ chế quản lý hệ thống sổ sách, chứng từ kế toán chặt chẽ, tuân thủ nghiêm túc các quy định của Chính phủ, của các bộ chủ quản về quy chế quản lý tài chính, kế toán và biểu mẫu. Song công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty vẫn chưa hạn chế được những sai lệch về mặt thông tin và số liệu cung cấp. Trong công ty vẫn còn tồn tại lưu hành đồng thời hai chế độ sổ sách, báo cáo tài chính để đối phó trước những cuộc kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Thêm vào đó, hoạt động phân tích tài chính tại công ty bị hạn chế do sử dụng thông tin không đầy đủ với 3 báo cáo tài chính trong đó không có báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Do đó, kết quả phân tích chưa phản ánh chính xác tình hình diễn biến tiền tệ. Trong khi thông tin không đầy đủ, các số liệu sử dụng để phân tích chủ yếu là trong 2 năm (hay số liệu đầu năm và cuối năm) hoặc cùng lắm là lên đến 3 năm. Vì vậy, kết quả phân tích chỉ có ý nghĩa trong ngắn hạn, chưa đem lại cho đối tượng sử dụng thông tin hình ảnh về doanh nghiệp nói chung và tình hình tài chính nói riêng một cách có chiều sâu. Các thông tin này hơn nữa mang nặng tính chất thống kê, tổng hợp mà không nêu được bản chất ý nghĩa của chúng. Nói chung, nguồn thông tin sử f dụng hiện nay vẫn còn thiếu sót cả về chất lượng và số lượng. Về công tác chuẩn bị phân tích. Hoạt động phân tích nội dung tài chính sẽ được tiến hành sau khi đã thu thập đầy đủ thông tin cấn thiết. Như vậy, thời điểm để bắt đầu các nội dung phụ thuộc lớn vào thời điểm hoàn tất quyết toán của doanh nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy, các báo cáo tài chính đến cuối quý i, thậm chí sang quý II mới hoàn tất, trong khi mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp là từ thực trạng hoạt động kinh doanh, đưa ra các kế hoạch chiến lược trong tương lai. Cho nên kết quả hoạt động phân tích sẽ bị giảm ý nghĩa thực tiễn, những chiến lược xây dựng nên có thể sẽ không theo kịp những biến đổi của môi trường kinh doanh . Về nội dung phân tích . Phân tích tài chính tại công ty có nội dung còn tràn lan, thiếu tính trọng điểm chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động phân tích tài chính chuẩn mực của nền kinh tế cũng như thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty. Cụ thể là, các kết quả phân tích phần nhiều mang tính khái quát, đi sâu vào đánh giá các yếu tố liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nói chung như tình hình tài sản, nguồn vốn…Mặt khác, các chỉ tiêu phân tích rc được áp dụng quá sơ sài, manh mún và thiếu tính tổng quát. Các chỉ tiêu được lựa chọn quá ít, mang tính lấy lệ. Nguyên nhân là do chưa tạo một quy trình phân tích hợp lý, mục đích của từng giai đoạn . Về phương pháp phân tích. Do nội dung phân tích còn nhiều bất cập, nên những phương pháp phân tích được sử dụng không phát huy được vai trò trong phân tích chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính Về mặt nhân sự. Căn cứ vào sơ đồ tổ chức và bản thân phân công, phân nhiệm của phong kế hoạch- tài chính, ta dễ nhận thấy mọi hoạt động tài chính đều phải thông qua phòng này. Đồng thời, trưởng và phó phòng (kiêm kế toán trưởng và phó kế toán trưởng), ngoài chức năng và nhiệm vụ về công tác hạch toán, kế toán, còn thực hiện cả công tác phân tích tài chính, dự báo và lập kế hoạch tài chính; những công việc đáng lẽ ra phải do phòng kế hoạch và phòng tài chính cùng thực hiện. Điều này tất yếu dẫn tới những công chéo, không tách biệt công việc mà các nhân viên kế toán phải làm. Kết quả sẽ làm cá kết quả phân tích kém chính xác, không kịp thời phản ánh tình trạng kinh doanh và tài chính, dẫn tới những kết luận sai lầm, chủ quan duy ý chí. Nguyên nhân của tình trạng này là khách quan bởi toàn bộ nhân sự của công ty bao gồm các chi nhánh và cả văn phòng đại diện tại nước ngoài cũng chỉ lên tới 158 người ở các trình độ khác nhau, chủ yếu phục vụ bộ phận kinh doanh. Bên cạnh đó, công ty thực hiện chế độ hạch toán phụ thuộc với tất cả các chi nhánh và trung tâm, văn phòng đại diện, kết hợp với giảm gánh nặng chi phí quản lý doanh nghiệp nên phòng kế hoạch- tổng hợp đã tiếp nhận các công việc liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Đây cũng là hiện tượng chung của nhiều công ty xuất nhập khẩu trong nước. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Tại các nước có nền kinh tế phát triển cao, các chỉ tiêu trung bùnh của ngành nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung đều được tổng hợp, công bố công khai và thường xuyên được cập nhật bởi một tổ chức chuyên trách trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ Tài chính. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sử dụng các chỉ tiêu của ngành mình cho việc phát triển chung của ngành, từ đó đề ra phương hướng phấn đấu. Còn tại Việt Nam, đang trong quá trình hoàn thiệnvềcơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp, sửa đổi liên tục các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là DNNN, vẫn chưa thể thành lập một tổ chức có chức năng như trên. Đây hẳn là những tồn tại có tính chất vĩ mô từ phía các cấp thẩm quyền, đòi hỏi cấn có thời gian để chuẩn bị về kiến thức, về thực tiễnvà nhân sự. Từ những tồn tại trên của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại HAPEXCO , ta nhận định rằng, hoạt động này vẫn chỉ dừng lại ở công việc công khai tài chính qua các báo cáo tài chính trong toàn công ty, xây dựng một số chỉ tiêu tài chính cụ thể, qua đó đưa ra những ưu khuyết điểm, những mặt còn tồn tại trong hoạt động, đưa ra các nguyên nhân khách quan; bên cạnh đó, lấy ý kiến đóng góp cho sự phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của công ty. Điều này có nghĩa phân tích tài chính doanh nghiệp ở đây vẫn mang nặng tính lý thuyết và tính thủ tục, sử dụng chủ yếu các thông tin nội bộ mà không quan tâm đúng mức tới các yếu tố ngoại lai, công tác phân tích, dự báo tài chính chưa tách rời với công việc kế toán. Do đó, dù có nhiều cố gắng nhưng nguồn thông tin sử dụng còn nhiều thiếu sót và phiếm diện. Tóm lại, công tác phân tích tài chính tại công ty thực chất là tổng hợp và báo cáo về tính hình tài chính. Cần thiết phải có giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty. Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại HAPEXCO . 1. Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại HAPEXCO 1. Hoàn thiện quy trình phân tích. Một trong những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp chính là phải xác định rõ các bước cần phân tích và mục tiêu cần đạt được từ mỗi giai đoạn. Đây là một yếu kém đầu tiên trong khâu thực hiện phân tích tại công ty. Quy trình phân tích nhất thiết phải thực hiện theo các bước sau: 1.1. Bước một: Thu thập thông tin. Chất lượng của các kết quả phân tích phụ thuộc lớn vào các nguồn thông tin thu thập được từ bên ngoài và từ nội bộ công ty. [ Nguồn thông tin bên trong công ty: Đây là nguồn thông tin giữ vai trò quyết định thành công của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Trong hệ thống thông tin nội bộ, mảng thông tin kế toán với trọng điểm là các báo cáo tài chính là nguồn đảm bảo chính xác, trung thực và kịp thời nhất. [ Nguồn thông tin từ bên ngoài: Đây là nguồn có vai trò quan trọng, có tính chất bổ sung trong nâng cao hiệu quả hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các thông tin về môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý, các quy chế quản lý tài chính hiện hành, các số liệu tài chính của ngành, của cả nền kinh tế ... Cũng trong bước này, các nhà phân tích muốn có được thông tin có lựa chọn, có trọng tâm, trọng điểm trong tổng số các nguồn thông tin đa dạng, phong phú đó, thì cần thiết phải xác định rõ cho mình mục tiêu phân tích và lên kế hoạch phân tích: - Đánh giá thực trạng tài chính của công ty trong thời gian qua. - Xây dựng các kế hoạch tài chính trong thời gian tới. 1.2. Bước hai: Xử lý thông tin. Đây là giai đoạn tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp trên cơ sở các thông tin đã thu thập được, với các nội dung: - Phân tích tình hình tài chính: + Phân tích tình hình nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. + Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. - Phân tích các chỉ tiêu tài chính. Yêu cầu của giai đoạn này là phải xây dựng được bức tranh toàn cảnh về thực trạng tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở cho bước cuối cùng. 1.3. Bước ba: Chuẩn đoán và lập kế hoạch tài chính. Với đánh giá thực trạng tài chính, các nhà phân tích phải dự báo được xu hướng biến động của các đối tượng tài chính, chỉ ra mối quan hệ giữa chúng, từ đó xây dựng các kế hoạch tài chính cho doanh nghiệp. 2. Hoàn thiện phương pháp phân tích. Hiện nay, HAPEXCO cũng như các chủ thể kinh tế khác đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, chưa có điều kiện hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính bởi họ vẫn còn nhiều vướng mắc trong xác định các tỷ lệ tham chiếu giữa các chỉ tiêu tài chính của mình với số trung bình của ngành. Để khắc phục tình trạng này, công ty nên có những giải pháp có tính bước ngoặt như tự tổ chức thu thập thông tin ít nhất từ một số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu điển hình, đầu ngành để xử lý và lấy đó làm đối tượng tham chiếu, làm thành hệ thống chỉ tiêu chuẩn mực phù hợp nhất. Những chỉ tiêu này đòi hỏi phải được thường xuyên cập nhật, trên cơ sở so sánh và nghiên cứu kỹ lưỡng các nguồn thông tin ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp phân tích không chỉ là trách nhiệm của doanh nghiệp mà còn là trách nhiệm, là nghĩa vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, để các cơ quan này có thể phát huy tối đa vai trò trong quản lý, điều tiết và định hướng hoạt động của các thành phần kinh tế. 3. Hoàn thiện về nội dung phân tích. Bảng: Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu phân tích. Chỉ tiêu Các chỉ tiêu đã sử dụng Các chỉ tiêu bổ sung 1. Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán Hệ số hiện hành Hệ số thanh toán tức thời Hệ số thanh toán nhanh 2. Nhóm chỉ tiêu cơ cấu vốn Hệ số TSCĐ/Σ tài sản Hệ số VCSH/ Σ nguồn vốn Hệ số TSLĐ/ Σ tài sản 3. Nhóm chỉ tiêu lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu Hệ số sinh lời tài sản Tỷ suất lợi nhuận/vốn 4. Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động Hệ số vòng quay hàng tồn kho Hệ số kỳ thu tiền bình quân Hệ số kỳ trả nợ bình quân Với những kiến nghị về nội dung các chỉ tiêu tài chính, ta đi sâu vào phân tích để hoàn thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp, giúp người sử dụng đưa ra những quyết định chính xác và có hiệu quả cho riêng mình. [ Hệ số thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền + Khoản phải thu x 100% Nợ ngắn hạn (99) = 25 045 680 721 + 71 442 716 269 x 100 = 96,6825% 99 490 473 472 (00) = 28 427 263 174 +73 424 423 910 x 100 = 96,4787 % 105 569 106 863 Hệ số thanh toán nhanh đánh giá chính xác khả năng thanh toán trong thời hạn ngắn của mỗi doanh nghiệp. Tại HAPEXCO , hệ số này < 1 có nghĩa là vốn bằng tiền và các khoản phải thu không đủ để trang trải cho các khoản nợ của công ty khi đến hạn thanh toán. Kết hợp với sự không đảm bảo được khả năng chi trả tức thời các khoản nợ bằng tiền (chỉ khoảng 25%) và tốc độ tăng nhanh các khoản nợc của công ty (tăng nhanh đi chiếm dụng vốn: khoảng 1,061 lần) như vậy làm cho khả năng thanh toán của công ty càng trở nên khó khăn hơn trong tương lai. Tuy rằng, có uy tín lâu năm, có mối quan hệ kinh doanh với bạn hàng, với ngân hàng lâu năm, song nguy cơ rủi ro tài chính vẫn là điều nhà quản lý tài chính của công ty cần quan tâm, cần nhanh chóng đưa ra biện pháp cân đối cơ cấu tài sản, tìm kiếm nguồn dự trữ cho thanh toán từ nội bộ (cán bộ công nhân viên) và có biện pháp thu hồi nợ từ khách hàng. [ Hệ số cơ cấu nguồn vốn = Vốn chủ sở hữu .% Tổng nguồn vốn (99) = 31 184 589 314 x 100 = 23,865% 130 672 437 475 (00) = 31 982 511 194 x 100 = 23,254% 137 536 254 020 Hệ số cơ cấu nguồn vốn thể hiện năng lực tự tài trợ của công ty. Như vậy, phân tích chỉ tiêu tỷ lệ trên cho thấy vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của công ty là rất thấp chỉ chiếm chưa đầy 1/4 tổng nguồn vốn. Tức khả năng tự tài trợ hay độc lập về tài của công ty là thấp đáng kể. Song, bên cạnh đó, công ty lại đang có lợi khi sử dụng vốn không phải của mình để kinh doanh (phần ngoài 23% vốn chủ sở hữu). Đây là kết quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu uỷ thác của công ty với khách hàng. Nguồn vốn nợ phải trả tăng nhanh qua 2 năm 1999 và 2000 chứng tỏ khả năng huy động vốn của công ty là khá tốt. Tuy nhiên, song song với nó là sự tăng lên của trách nhiệm phải chi trả các khoản nợ, không phải hoàn toàn không có chi phí sử dụng vốn. Do vậy, công ty cần lên kế hoạch các khoản dự phòng thanh toán các món nợ để chủ động về tài chính, tránh những xáo trộn tâm lý của các chủ nợ. Mặt khác, nguồn vốn chủ sở hữu có tăng song lại chủ yếu vào quỹ phát triển kinh doanh và quỹ dự trữ, trong khi, quỹ khen thưởng phúc lợi lại giảm đáng kể (năm 2000 chỉ bằng 74,82% giá trị của quỹ này năm 1999). Công ty cần nghiên cứu điều chuyển hợp lý giữa các quỹ nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, thực hiện chế độ khen thưởng kịp thời và khuyến khích tinh thần hăng say của cán bộ công nhân viên trong công ty. [ Hệ số sinh lời tài sản = Lợi nhuận sau thuế + Lãi vay(%) Tổng tài sản (99) = 2 147 633 538 + 22 831 901 922 x 0,072 x 100 = 2,902% 130 672 437 475 (00) = 2417 119 100 + 59 417 556 153 x 0,072 x100 = 4,868% 137 536 254 020 Hệ số sinh lời tài sản của công ty đã đạt tốc độ tăng đáng kể trong năm 2000 (tăng gấp đôi năm 199), một đồng tổng tài sản đã tạo ra 0,04868 đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy tính hiệu quả cao trong sử dụng vốn kinh doanh của công ty, tài sản của công ty mà chủ yếu là tài sản cố định đã đạt hiệu quả sinh lợi cao. [ Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân = Khoản phải thu . Doanh thu bình quân/ ngày (99) = 71 443 716 269 x 100 = 34 ngày 755 385 794 193/360 (00) = 73 424 423 910 x 100 = 20 ngày 1 280 717 083 665/360 Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân của công ty qua hai năm vừa rồi đã giảm đáng kể 14 ngày từ 34 ngày xuống còn 20 ngày, cho thấy, tình hình công ty bị chiếm dụng vốn đã giảm xuống. Nhờ đó, nợ thu hồi nhanh chóng, được đưa vào kinh doanh nhanh hơn, làm tăng tốc độ quay vòng vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Để đạt được chỉ tiêu khả quan như vậy, công ty đã áp dụng nhiều hơn những biện pháp thu hồi nợ có hiệu quả. [ Chỉ tiêu kỳ trả nợ bình quân = Khoản phải trả GVHB/360 Năm 1999 99 487 848 161 = 48 ngày 745 108 385 331/ 360 Năm 2000 105 553 742 826 = 30 ngày 1 267 595 355 374/360 Tương tự như kỳ thu nợ bình quân, kỳ trả nợ bình quân của công ty trong 2 năm gần đây cũng bị giảm 18 ngày từ 48 ngày xuống còn 30 ngày, chứng tỏ khả năng chiếm dụng vốn của công ty đã bị giảm sút. Nhưng so sánh tuyệt đối thì kỳ trả nợ trung bình vẫn lớn hơn kỳ thu nợ trung bình 10 ngày. Như vậy, trong trạng thái chiếm dụng và bị chiếm dụng vốn lẫn nhau trong các quan hệ thương mại, công ty vẫn giữ được một lợi thế nhất định. [ Vòng quay hàng tồn kho = GVHB . Hàng tồn kho (99) = 745 108 385 331 = 25,8 28 877 509 914 (00) = 1 267 595 355 374 = 43,26 29 304 273 932 Hệ số vòng quay hàng tồn kho tăng nhanh qua 2 năm từ 25,8 lần lên 45 lần cho thấy tốc độ tiêu thụ hàng hóa của công ty trong thời gian qua rất khả quan. Đây cũng là nguyên nhân giải thích sự tăng trưởng cao của doanh thu năm 2000 so với năm 1999. Nhưng đồng thời, để tăng nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, công ty đã phải tăng chi phí bán hàng và chi phí quản lý lên tương đối so với năm trước. Từ hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp được thực hiện tại công ty, trên giác độ quản lý tài chính doanh nghiệp, có thể đưa ra các nhận định, kết luận sau cùng về tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của công ty: - Về tình hình sản xuất kinh doanh: Nhìn chung, doanh thu từ các hoạt động của doanh nghiệp có sự tăng trưởng khá (trừ từ hoạt động tài chính) dẫn đến lợi nhuận có tăng đáng kể song chi phí từ các hoạt động đặc biệt là chi phí quản lý và bán hàng còn quá cao nên hiệu quả sinh lợi doanh thu còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của nó trên thị trường. - Về tình hình công nợ và khả năng thanh toán: Công ty đã thành công lớn trong chính sách sử dụng vốn, đầu tư vốn của mình. Song mức độ bị chiếm dụng vốn của công ty cũng lớn tương đối so với mức độ chiếm dụng vốn của các đơn vị khác. Trong khi nguồn dự trữ quỹ tiền mặt ( tại két và tại ngân hàng) còn khiêm tốn, tình trạng trên đã dẫn tới sự giảm sút của tất cả các chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán của công ty. Do đó, vấn đề đặt ra là công ty phải lên kế hoạch quản lý các khoản phải thu, phải trả chặt chẽ hơn nữa. Đồng thời, với nhu cầu trước mắt cũng như trong tương lai khi áp dụng kế toán máy vào doanh nghiệp, mở rộng văn phòng ... cần đến lượng đầu tư tài sản cố định khác có liên quan, buộc doanh nghiệp phải lên kế hoạch tìm kiếm nguồn tài trợ dài hạn từ bên ngoài cho phù hợp là điều khó tránh khỏi. - Về năng lực hoạt động: Tốc độ vòng quay hàng tồn kho đã tăng lên đáng kể, kỳ thu tiền và trả nợ bình quân của công ty đều có dấu hiệu giảm song xét về quy mô, các khoản phải thu và phải trả vẫn chiếm phần lớn trong cơ cấu tài sản và nguồn vốn. Tuy năng lực hoạt động là tốt nhưng lại kéo theo khả năng thanh toán thấp và lợi nhuận chưa cao. Với những hạn chế về nội dung phân tích như đã trình bày ở chương II, công ty, chính xác hơn là bộ phận phân tích tài chính, nên và cần phải bổ sung thêm một số các chỉ tiêu tài chính quan trọng khác nhằm tạo ra một hệ thống chỉ tiêu tài chính hoàn chỉnh. 4. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn thông tin sử dụng. Thông tin là yếu tố sống còn của mọi quá trình kinh tế. Chất lượng của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp chỉ được đảm bảo khi ngay từ đầu nguồn thông tin sử dụng được đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Như đã phân tích ở trên, nguồn số liệu mà công ty sử dụng cho việc phân tích tài chính còn rất nhiều hạn chế. Trước hết, để khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc lập các báo cáo tài chính, ban giám đốc điều hành công ty nên tăng cường đôn đốc, chỉ đạo các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu, cùng với trưởng phòng kế hoạch tài chính (kế toán trưởng) thực hiện ký kết hợp đồng, thanh quyết toán hợp đồng nhanh chóng, đúng thời hạn, đảm bảo đầy đủ các chứng từ gốc làm cơ sở pháp lý để hạch toán vào các sổ kế toán. Đồng thời, các nhân viên kế toán cần thực hiện phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ngay khi nhận được các chứng từ kế toán và công việc kiểm tra hạch toán tránh tình trạng chồng chất công việc đến cuối quý, cuối năm mới làm. Tiếp theo, để nguồn thông tin phản ánh một cách trung thực kết quả kinh doanh và thực trạng tài chính của công ty, từ đó làm cơ sở thực hiện công khai tài chính, cung cấp chính xác thông tin cho những đối tượng quan tâm tới doanh nghiệp, công ty cần thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm toán nội bộ theo tinh thần của quy chế hậu kiểm mới tại doanh nghiệp. Để thực hiện được công tác này, việc công ty cần làm là phải nghiên cứu để đi tới thiết lập một bộ phận riêng biệt có thẩm quyền thực hiện thanh tra kiểm tra công tác tài chính, công tác hạch toán kế toán tại chỗ một cách độc lập. Mặt khác, để theo kịp sự tiến bộ của nền kinh tế thế giới và đảm bảo sự chính xác cũng như tốc độ hạch toán kế toán, công ty nên thực hiện đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, tin học hóa công tác quản lý và kế toán, thực hiện chế độ kế toán máy hoàn thiện thay vì phương pháp hạch toán thủ công như hiện nay. Công việc này phải được thực hiện qua từng bước với sự chuẩn bị đủ về nguồn vốn đầu tư phát triển và nhân sự. Tuy nhiên, để tạo ra được những điều kiện thuận lợi, công ty cần phải tổ chức mã hóa các đối tượng quản lý thống nhất theo ngôn ngữ máy. Nếu giải pháp này trở thành hiện thực, những bất cập trong việc áp dụng chế độ hạch toán phụ thuộc tại các chi nhánh của công ty ở trong nước và các văn phòng đại diện ở nước ngoài cũng sẽ được giải quyết triệt để. 5. Về nguồn nhân lực. Như đã trình bày ở chương trước, HAPEXCO tuy là một công ty lớn nhưng lại hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế, với tổng số cán bộ là 250 người chủ yếu hoạt động kinh doanh nghiệp vụ xuất nhập khẩu và hoạt động dịch vụ , do đó, đội ngũ cán bộ tài chính kế toán chỉ chiếm một lượng nhỏ bé khoảng 20 người Với chức năng thực hiện hoạt động hạch toán kế toán, phân tích tài chính và lập kế hoạch đồng thời, các công tác mà các thành viên phòng kế hoạch - tài chính phải đảm nhiệm là rất lớn, dễ bị chồng chéo lên nhau, nhiều khi, họ không nhận biết hết trách nhiệm, phạm vi công việc của mình. Do vậy, chất lượng thông tin sẽ bị giảm sút. Bên cạnh đó, nhìn vào độ tuổi trung bình của đội ngũ cán bộ, ta thấy tỷ lệ người trên 40 tuổi chiếm một tỷ trọng lớn, tuy gần đây, công ty đã tổ chức nhiều lớp đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ song do hạn chế về thời gian, về tuổi tác và nhiều yếu tố khác, nên đa phần chưa đáp ứng được những yêu cầu mới của công việc. Vậy trong thời gian tới, công ty nên lập các kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với chức vụ, yêu cầu công việc của họ. Các kế hoạch đó có thể do công ty tự tổ chức tại chỗ, hoặc kết hợp với bộ thương mại, các bộ ban ngành khác có liên quan, hoặc liên hệ với các tổ chức, tập đoàn kinh tế quốc tế lớn khác trên thế giới theo các chương trình trợ giúp. Song song với điều này, công ty nên xây dựng các chế độ chính sách ưu tiên, khuyến khích và ủng hộ về mặt vật chất cho cán bộ công nhân viên tham gia và động viên tự tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho bản thân. Đây cũng là vấn đề thuộc về nhận thức của mỗi cán bộ công nhân viên của công ty. Bên cạnh đó, công ty cũng nên thường xuyên mở rộng tuyển dụng cán bộ từ bên ngoài để tận dụng nguồn nhân lực đã qua đào tạo chính quy. Vấn đề nguồn nhân lực được giải quyết đi sâu vào chất lượng, tinh giảm về số lượng thì chất lượng của công tác phân tích tài chính và đưa ra các quyết định tài chính và quản lý đúng đắn được coi như đã thành công tới 99%. 2. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế đối với công ty. Với chủ trương mở cửa nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế không phân biệt khu vực quốc doanh hay ngoài quốc doanh tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, phát huy cao độ tính độc lập, tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình, Chính phủ cùng với các bộ chức năng, đã ban hành hàng loạt các nghị định, thông tư ... để định hướng hoạt động của các chủ thể pháp nhân kinh doanh theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên thực tế, do môi trường kinh tế không ngừng đổi mới, nhiều nhân tố nảy sinh đã làm cho các văn bản pháp lý không ngừng bị sửa đổi, bổ sung. Văn bản chưa ra đời, chưa đi vào cuộc sống thì đã bị lạc hậu bởi một văn bản khác. Điều này càng chứng tỏ năng lực hoạch định chính sách của bộ phận chính sách còn yếu kém. Các điều khoản quy định lại rơi vào tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Chúng được quy định quá chi tiết dẫn đến không phản ánh hết các đối tượng kinh tế một cách tổng quát, tạo ra nhiều "kẽ hở" để thương nhân "lách" luật. Trong đó, đối với khu vực quốc doanh, Chính phủ đã ban hành nghị định 59/NĐ - CP ra ngày 03/10/1996 về quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước và đã bổ sung, chỉnh sửa theo nghị định 27/1999/ NĐ - CP ra ngày 20/04/1999 bổ sung quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng những tồn tại vẫn còn tương đối lớn. Vậy hơn bao giờ hết, để phát huy vai trò, chức năng của mình trong quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế quốc doanh - khu vực kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế đất nước theo hướng CNXH, nói chung trong đó HAPEXCO , Chính phủ cần nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý, đổi mới các chính sách kinh tế, tạo hành lang thông thoáng hơn nữa cho các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh hiệu quả. Cụ thể là: - Cần quy định rõ ràng hơn về quyền lợi, cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước với 100% vốn ngân sách Nhà nước cấp hay một phần vốn do ngân sách Nhà nước cấp trong việc sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn. - Cần xây dựng một cơ chế hạch toán kinh doanh linh hoạt, đưa ra những quy định về xác định doanh thu, chi phí rõ ràng hơn nhưng lại mang tính tổng quát cao, phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp theo từng lãnh vực hoạt động. - Cần sửa đổi những quy định về phân p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24379.DOC
Tài liệu liên quan