Tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam: Lời mở đầu.
Dầu khí đã được Đảng và Nhà nước ta xách định là một ngành kinh tế mũi nhọn quan trọng hàng đầu của đất nước. ở nước ta trong lĩnh vực dầu khí có Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã và đang có những đóng góp to lơn cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong năm 2004 Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã đạt được những thành tích to lớn. Dầu thô khai thác 20,07 triệu tấn đạt 115% kế hoạch, khai thác khí 6,25 tỉ m3 đạt 109% kế hoạch và xuất khẩu dầu thô 19,5 triệu tấn đạt 114% kế hoạch, đạt kỷ lục kim ngạch xuất khẩu gần 5,7 tyUSD. Công tác thăm dò tìm kiếm đã có những thành tựu to lớn tăng thêm trữ lượng dầu mỏ của nước nhà. Bên cạnh đó là công tác khai thác và chế biến cũng đạt được những kết quả đáng mừng. Đồng thời triển khai các đề án như : Đề án khí điện đạm Cà Mau, nhà máy lọc dầu Dung Quất…Ngoài những thành tựu đã đạt được thì Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết khắc phục để thích ứng với tình hình giá dầu tăng cao như hiệ...
24 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu.
Dầu khí đã được Đảng và Nhà nước ta xách định là một ngành kinh tế mũi nhọn quan trọng hàng đầu của đất nước. ở nước ta trong lĩnh vực dầu khí có Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã và đang có những đóng góp to lơn cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong năm 2004 Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã đạt được những thành tích to lớn. Dầu thô khai thác 20,07 triệu tấn đạt 115% kế hoạch, khai thác khí 6,25 tỉ m3 đạt 109% kế hoạch và xuất khẩu dầu thô 19,5 triệu tấn đạt 114% kế hoạch, đạt kỷ lục kim ngạch xuất khẩu gần 5,7 tyUSD. Công tác thăm dò tìm kiếm đã có những thành tựu to lớn tăng thêm trữ lượng dầu mỏ của nước nhà. Bên cạnh đó là công tác khai thác và chế biến cũng đạt được những kết quả đáng mừng. Đồng thời triển khai các đề án như : Đề án khí điện đạm Cà Mau, nhà máy lọc dầu Dung Quất…Ngoài những thành tựu đã đạt được thì Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết khắc phục để thích ứng với tình hình giá dầu tăng cao như hiện nay. Do đó em chọn đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam” để tìm hiểu về thực trạng công tác tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí và các giải pháp để đẩy mạnh công tác này. Em xin chân thành cảm ơn thày Nguyễn Thành Hiếu đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành đề tài này.
I.Thực trạng của công tác tìm kiến thăm dò khai thác và chế biến dầu khí của petrovietnam.
1.Dầu khí và công nghiệp dầu khí.
1.1.Dầu mỏ và khí đốt.
Dầu mỏ và khí đốt là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Dầu mỏ và khí đốt là hợp chất hyđrocacbon được khai thác lên từ lòng đất, thường ở thể lỏng và thể khí.ở thể khí, chúng bao gồm khí thiên nhiên và khí đồng hành. Khí thiên nhiên là toàn bộ hyđrocácbon ở thể khí khai thác từ giếng khoan bao gồm cả khí ẩm , khí khô. Khí đồng hành là khí tự nhiên nằm trong các vỉa dầu dưới dạng mũi khí hoặc khí hoà tan và đượoc khai thác đồng thời với dầu thô.
Dầu mỏ khí đốt thiên nhiên đều là loại khoáng sản năng lượng, có tính “linh động” cao. Sau nữa, chúng có bản chất sinh thành, di cư, tích tụ gần giống nhau. Giống như nhều loại tài nguyên khoáng sản khác, dầu khí được hình thành do kết quả quá trình vận động phức tạp lâu dài hàng triệu năm về vật lý, hoá hoc, địa chất, sinh học…
1.2Ngành công nghiệp dầu khí.
Trước hết, ngành công nghiệp dầu khí là một ngành mang tính tổng hợp và đa dạng cao. Chuỗi hoạt động của công nghiệp dầu khí bao gồm: khâu đầu (còn gọi là thượng nguồn), khâu giữa (trung nguồn ) và khâu sau ( hạ nguồn ).
-Khâu đầu bao gồm các hoạt động tìm kiến, thăm dò, khai thác dầu khí. Khâu này sử dụng tổng hợp trị thức và công nghệ của một loạt chuyên ngành như địa chất, địa vật lý, địa hoá, khoáng sản, khoan khai thác.
-Khâu giữa bao gồm các hoạt động vận chuyển , tàng trữ dầu khí. Khâu này liên quan đến các công nghệ đường ống, tàu chứa, bồn chứa, cầu cảng…
-Khâu cuối: gồm các hoạt động xử lý, chế biến kinh doanh và phân phối các sản phẩm dầu khí. Dầu mỏ và khí thiên nhiên khai thác được mới chỉ là nguyên liệu. Muốn có các sản phẩm trực tiếp sử dụng trong đời sống và trong các ngành công nghiệp cần phải xử lý, chế biến chúng.
Thứ hai, công nghiệp dầu khí là ngành đỏi hỏi vốn đầu tư lớn, rủi ro nhiều và lợi nhuận cao. Thông thường khi đầu tư vào một lô tìm kiến thăm dò, các công ty phải bỏ ra hàng trăm triệu đôla Mỹ.
Thứ ba, công nghiệp dầu khí là ngành công nghệ cao và là con đẻ của ngành công nghiệp nặng.
Thứ tư, công nghiệp dầu khí là một ngành mang tính quốc tế cao, khác với than đã trước đây việc thăm dò, khai thác, chế bién và phân phối dầu khí đã nhanh chóng mang tính toàn cầu.
1.3 Vai trò của ngành công nghiệp dầu khí.
Dầu khí được gọi là “Vàng đen”, đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế toàn cầu.
Dầu khí mang lại lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ cho các quốc gia và dân tọc trên thế giới đang sở hữa và tham gia trực tiếp kinh doanh nguồn tài nguyên trời cho náy.
Hiện nay, trong cán cân năng lương, dầu khí vẫn giữ vai trò quan trọng nhấ so với các dạng năng lượg khác. Cùng với than đá, dầu khí chiếm tới 90% tổn tiêu thụ năng lượng toàn cầu.
Không ít các cuộc chiến tranh, các cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị có nguyên nhân sâu xa từ các hoạt động cạnh tranh sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực dầu khí. Kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế của các nước châu á đến nay, không một vấn đề nào tác động mạnh đến toàn cầu bằng vấn đề tăng giá nhiên liệu.
2.PetroViệtNam và những chặng đường phát triển.
Sau ngày giải phóng miên Nam, thống nhất đất nước, tháng 9/1975 tổng cục Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam được thành lập, trên cơ sở Liên đoàn Địâ chát 36 thuộc Tổng cục Địa chất và Ban Dầu thuộc Tổng cục Hoá chất, đến năm 1990 chính thức trở thành Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam sau 30 năm đã có những bước tiến vượt bậc , trở thành ngành công nghiệp mũi nhọ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách, đưa nước ta vào danh sách các nước sản xuất dầu khí trên thế giới và đứng thứ 3 ở Đông Nam á về sản lượng khai thác dầu thô. Giai đoạn 2001-2004 và đặc biệt là năm 2004 là năm mà Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đạt kết quả tăng trưởng cao nhất, không chỉ trong hoạt động khai thác dầu khí, mà cả trong các lĩnh vực hoạt động khác. Cụ thể:
Đã xác định được trữ lượng tiềm năng về tài nguyên dầu khí của Việt Nam ( chủ yếu khu vực thềm lục địa vào khoảng 3000-4000 triệu m3 qui dầu ( trữ lượng tiềm năng về khí thiên nhiên chiếm khoảng 60%). Trữ lượng dầu khí xác minh đạt khoảng 1 tỉ m3 qui dầu với khoảng 60 cấu tạo phát hiện có chứa dầu khí, nhiều mỏ dầu khí có giá trị thương mại được phát hiện và lần lượt đưa vào khai thác. Hoàn thành mục tiêu gia tăng trữ lượng dầu khí, đảm bảo cân đối bền vững với hoạt động khai thác, đảm bảo an ninh năng lượng của đất nước. Hiện nay, cùng với việc tăng cường công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí trong nước, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang tích cực triển khai các dự án tìm kiếm thăm dò ở nước ngoài. Sản lượng khai thác dầu khí giai đoạn 2001-2004 đạt 85.36 triệu tấn qui dầu (gồm 72.1 triệu tấn dầu thô và 13.26 tỉ m3 khí). Riêng năm 2004, sản lượng khai thác dầu khí đạt 26.403 triệu tấn qui dầu (gồm 20.403 triệu tấn dầu thô và 6 tỉ m3 khí). Với những tấn dầu thô đầu tiên được khai thác từ thềm lục địa miền Nam nước ta trong những năm đầu thập niên 80 của thế ký trứơc, dầu khí
Việt Nam đã có những đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới gcủa đất nước. Dầu thô đã góp phần chống lạm phát, phục vụ các chương trình kinh tế lớn của nước nhà, góp phần ổn định tình hình kinh tế – xã hội suốt thời gian bị bao vây cấm vận kinh tế. Dầu khí đã được ghi nhận là ngành công nghiệp mới đạt hiệu quả kinh tế cao, là cánh cửa mở để đi đến tương lai…
Để có được những lời đánh giá tốt đẹp đó, trong những năm qua cán bộ, công nhân dầu khí Việt Na đã chung lưng đấu cật lao động sáng tạo, vượt qua muôn vàn khó khăn , thách thức, liên tục hoàn thành vượt mức kế hoạch năm sau cao hơn năm trước. Chỉ tính 4 năm 6 tháng đầu thế kỷ mới này, toàn ngành đã khai thác 98,852 triệu tấn dầu thô qui đổi, xuất khẩu 79, 324 triệu tấn dầu thô, đạt kim ngạch 19,313 tỷ USD, nộp ngân sách Nhà nước 169,539 tỷ đồng, cung cấp khí cho các nhà máy điện Phú Mỹ, Bà Rịa… hiện đang sản xuất an toàn liên tục 40% sản lượng điện của cả nước. Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro, con chim đầu đàn của ngành dầu khí nước ta kể từ khi khai thác tấn dầu đầu tiên đến hết tháng 8 năm 2004 đã khai thác được 147,213 triệu tấn dầu thô; thu gom và vận chuyển vào bờ hàng chục tỷ m3 khí đồng hành cung cấp cho các nhà máy điện PHú Mý, Bìa Rịa và Nhà máy chế biến khí Dinh Cố. Riêng 8 tháng năm 2004, công ty đã khai thác trên 7,035 triệu tấn dầu thô từ 2 mỏ Bạch Hổ và Rồng Đen, thu gom và vận chuyển vào bở trên 1,245 tỷ m3 khí.
Hay Công ty liên doanh dầu khí Cửu Long tính đến tháng 6 năm 2005 đã khai thác được 5,6 triệu tấn dầu thô, mang lại doanh thu gần 1,6 tỷ USD.
2. Thực trạng của công tác tìm kiếm thăm dò.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đặc biệt chú trọng tới công tác tìm kiếm thăm dò, đề ra nhiều biện pháp để thực hiện kế hoạhc gia tăng trữ lương, đạt mức 150 triệu tấn dầu qui đổi cho cả giai đoạn 2001- 2005. Một số dự án tìm kiém thăm dò dầu khí ở trong nước cũng đã được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam triển khai, như Dự án tìm kiếm thăm dò dầu khí tổng thể ở Miền Võng như Hà Nội; Đề án khảo sát địa chấn 3D lô 103/107 vịnh Bắc Bộ; Đề án khảo sát địa chấn 2D các lô từ 113 tới 121; giếng Đông Quan S_1X thuộc vùng trũng Hà Nội, giếng Rồng Tre và giếng Cá Ngừ Vang. Mỏ Đại Hùng đã được đưa trở lại khai thác từ ngày 30/11/2004. Dự kiến, năm 2005 sản lượng khai thác dầu khí đạt 24,4 triệu tấn, trong đó 18 triệu tấn là dầu thô. Việc liên doanh, liên kết và kêu gọi vốn đầu tư với các đối tác kinh doanh trong nước và quốc tế, cũng được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đẩy mạnh và tiếp tục triển khai thực hiện các hợp đồng đã ký ở nước ngoài; Tích cực triển khai công việc ở các dự án thăm dò khai thác dầu khí ở các khu vực trên thế giới như Hợp đồng Lô 433a và 416b ở Angiêri; Hợp đồng lô SK 305 ở Malaysia; Hợp đồng Madura I và II, Đông Jawa Indonesia; Hợp đồng phát triển khai thác mở Amara Iraq…Đến nay, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã ký hợp đồng tìm kiếm , thăm dò khai thác dầu khí với nước ngoài tại Việt Nam với tổng số vốn dăng ký trên 7 tỷ USD. Hiện tại, các công ty đang tích cực chuẩn bị và triển khai chương trình công tác đã thống nhất ở Petro Việt Nam ngay từ những ngày đầu năm 2005. Ngoài ra, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã tổ chức hội nghị mở vồng đấu thầu lô 122- 130 bể Phú Khánh, kêu gọi đầu tư với gần 30 công ty đăng ký tham dự; Ký hợp đồng lô 05-1b/1c với Công ty IDEMITSU; Hoàn thành việc xem xét trữ lượng các lô của Unocal (Kim Long, ác quỷ, Cá Voi)….
Ngoài ra một thành viên của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là công ty liên doanh điều hành Cửu Long cũng đã có những thành tích đáng kể trong việc thăm dò tìm kiếm dầu khí : công tyđã thăm dò, khảo sát 15 giếng khoan, đến tháng 8/2000 thì phát hiện dầu tại mở Sư Tử Đen; tháng 10/2001 phát hiện tiếp dầu tại mỏ Sư Tử Vàng và tháng 11/2003 công ty phát hiện được dầu khí –condensat tại mở Sư Tử Trắng thuộc lô 15. 1 ngoài khởi tỉnh Bình Thuận. Tổ hợp mỏ Sư Tử Đên- Sư Tử Vàng- Sư Tử Trắng được mệnh danh là “tam giác vàng”, có trữ lượng ước tính lớn thứ hai Việt Nam sau mỏ Bạch Hổ. Cụ thể mỏ Sư Tử Đen có độ sâu 52 mét nước, cùng với mỏ Sư Tử Vàng và Sư Tử trắng là một cụm mỏ dầu khí giàu tiềm năng mà điều hết sức thuận lợi là cả 3 mỏ chỉ cách mũi Khe Gà- Bình Thuận 60 km, trong khi các mỏ dầu đang khai thác của Liên doanh Dầu khí Việt Xô cách bờ biển Vũng Tàu tới hơn 100km. Hiện nay, kinh phí xây dựng đường ống dẫn dầu trong lòng biển lên tới 1,2 triệu USD/ km, nên nếu đưa dầu khí vào Bình Thuận sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí, cũng như cung ứng các dịch vụ và thiết bị cho giàn khoan cúng nhanh hơn. Khi dịch vụ dầu khí phát triển, bình Thuận sẽ trở thành tỉnh có nền kinh tế phát triển toàn diện trong vùng, đặc biệt là về công nghiệp Dầu khí. Cái mà Bình Thuận đang cần là hệ thống sân bày, cảng biển, đường ống dẫn dầu, dấn khí, kho tàng và nhất là đào tạo nguồn nhân lực để sẵn sàng tiếp cận ngành dầu khí mới mẻ đang phát triển.
Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro là đơn vị đầu tiên phát hiện mỏ dầu trong móng ở bồn trũng Cửu Long, cúng là đơn vị đầu tiên phát hiện vỉa khí- dầu trong từng móng bồn trũng Nam Côn Sơn- ở mỏ Đại Hùng năm 2003 và mở Thiên ưng thuộc lô 02-3 năm 2005. Xí ngiệp đã khoan thành công giếng khoan Đại Bàng 2X là khu vực có điều kiện địa chất hết sức phức tạp, vừa mất dung dịch vừa tồn tại dị thường áp suất cao, nơi mà trước đây nhiều công ty dầu khí nước ngoài đã phải bỏ dở. Năm nay, Xí nghiệp sẽ kết thục khoan 6 giếng thăm dò với 21,6 km khoan, gia tăng thêm 35 triệu tấn trữ lượng địa chất, trong đó có 11 triệu tấn dầu thu hồi.
Có thể nói việc đầu tư cho công tác tìm kiếm thăm dò là việc hết sức quan trọng giúp cho chúng ta gia tăng trữ lượng dầu khí, mà trong bối cảnh giá dầu trên thế giới tăng cao như hiện nay thì điều đó lại càng quan trong hơn.
Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều khó khăn đang tồn tại trong vấn đề tìm kiếm thăm dò hiện nay, thứ nhất là điều kiện vật chất kĩ thuật của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trong lĩnh vực thăm dò là chưa thực sự phát triển, chúng ta vẫn phải mua thiết bị từ nước ngoài, đồng thời các cán bộ công nhân viên chưa có trình độ đủ để đáp ứng yêu cầu do vậy phải thường xuyên đào tạo mới và đào tạo lại.
3. Thực trạng của công tác khai thác .
Trong năm 2004 Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiện vụ sản xuấtkinh doanh đã đề ra, đặc biệt tronglĩnh vực khai thác. xuất khẩu dầu thô, vận chuyển , quản lý và phân phối khí thiên nhiên, sản xuất phân đạm…
Cụ thể về phần khai thác thì Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã khai thác được trên 20 triệu tấn dầu thô, trên 6 tỷ m3 khí trong năm 2004. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2004, sản lượng ước đạt 9 triệu tấn dầu, bằng 55% tăng 24,5% so với cùng kỳ năm 2003, tăng trên 1,2 triệu tấn dầu thô và 1,3 tỷ m3 khí so với cùng ký 2003. Hoạt động khai thác dầu khí hiện đang được triển khai tại 7 mỏ: Rạng Đông, Sư Tử Đen- lô 15.5, mỏ khí Lan Tây- Lan Đỏ. Sản lượng khai thác trung bình của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đạt mức 50 nghìn tấn dầu thô/ ngày và 16 triệu 3 khí/ngày. Mỏ Đại Hùng dự kiến cuối quý 3 /2004 sẽ khai thác trở lại sau thời gian sửa chữa. Trong đó, hệ thống Bạch Hổ, hệ thống Nam Côn Sơn vận hành ổn định, an toàn phát huy hiệu quả. Hai đường tuyến ống hiện nay dang đảm bảo vận chuyển khí đồng hành từ các mở thuộc mỏ Cửu Long và khí thiên nhiên lô 02 bể Nam
Côn Sơn đáp ứng nhu cầu khí cho sản xuất điện, sản xuất công nghiệp khu vực miền Đông nam bộ và trên 60% nhu cầu khí hoá lỏng trong nước.
Để hiểu thêm ta có thể xem xét về tình hình khai thác của một liên doanh trong Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đó là liên doanh dầu khí Viêtsovpetro 29/12/1988 khai thác tấn dầu thứ 1 triệu, tấn dầu thứ 10 triệu vào 3/2/1992. Sau ngày 27/5/1993 hiệp định về việc Liên bang Nga thừa kế quyền và nghĩa vụ của bên Liên Xô trước đây được ký kết, tấn dầu thứ 20 triệu được khai thác vào ngày 12/11/1993. Ngày 16/4/1995 liên doanh bắt
Bảng tham khảo về lượng dầu khai thác của Việt Nam so với 1 số nước trong khu vực. Đơn vị:tấn/ ngàyđêm.
Năm
Brunây
Việt Nam
Malayxia
Indônêxia
1994
21.56
18.7
83.12
190.39
1995
23.25
23.37
88.96
191.69
2000
23.38
38.96
87.01
170.13
đầu dẫn khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ vào bờ cung cấp cho Nhà máy Nhiệt diện Bà Rịa. Ngày 23/4/1995 khai thác tấn dầu thứ 30 triệu và 19/10/1997 tấn dầu thứ 50 triệu. Tấn dầu thứ 90 triệu được khai thác vào 22/2/2001 và khai Liên doanh tròn 20 tuổi thì tấn dầu thứ 100 triệu đã được khai thác vào tháng 11/2001/ Liên doanh phấn đấu hoàn thành khai thác tấn dầu thứ 150 triệu vào tháng 11/2005. Để đạt được sản lượng khai thác dầu khí như trên, liên doanh đã khoan vào lòng đất trên 250 giếng khoan các loại với hơn 1 triệu mét khoan. Cùng với việc nâng cao sản lượng dầu. Liên doanh đã tập trung nhiều trí tuệ, công sức để giải quyết vấn đề cng cấp khí đồng hành vào bờ, hỗ trợ tích cực cho việt phát triển cụm khí điện, đạm Bà Rịa –Vũng Tàu.
Ngoài ra còn có công ty liên doanh dầu khí Cửu Long cũng đẩy mạnh việc khai thác dầu khí cụ thể : song song với việc khai thác dầu từ mở Sư Tử Đen giai đoạn 1, liên doanh còn đang triển khai kế hoạch phát triển mỏ dầu Sư Tử Vàng, kế hoạch thẩm lượng mỏ dầu khí condensat Sư Tử Trắng. 29/10/2003 dòng dầu thương mại đầu tiên đã được khai thác từ mỏ Sư Tử Điên và chỉ trong 1 năm , Công ty đã khai thác được 27,1 triệu thùng dầu thô ( tương dương với 3,6 triệu tấn ). Dầu thô khai thác lên được bơm vào tàu Cửu Long MV9 với sức chứa 1 triệu thùng để xử lý.
Công ty thăm dò và khai thác dầu khí trực thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã hựp tác chặt chẽ với các đối tách thúc đẩy khai thác để tăng nhanh sản lượng dầu khí tại hầu hết các mỏ như Rạng Đông, Ruby, Sư Tử Đen, Lan Tây. Công ty đã khai thác được trên 8 triệu tấn dầu thô và 4, 639 tỷ m3 khí thiên nhiên. Trong đó, riêng mỏ Sư Tử Đên đã khai thác được 3,47 triệu tấn dầu thô, vượot 43,26% kế hoạch cả năm ; mỏ Lan Tây có tiềm năng các giếng tốt, khai thác ổn đinh, đạt sản lượng 2, 55 tỷ m3 khí thiên nhiên vượt kế hoạch 9,44% đáp ứng thoả mãn nhu cầu khí cho các nhà máy nhiệt điện và các ngành kinh tế.
Trên đây ta đã thấy được thực trạng của công tác khai thác dầu mỏ của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Đó thực sự là những con số đáng mừng, tuy nhiên chung ta khai thác dầu thô chủ yếu để xuất khẩu mà vẫn chưa thể chế biến dầu thô được và chỉ có khí đồng hành là chúng ta mới có thể xử lý và sử dụng được.Chính vì vậy chúng ta sẽ đề cập tới việc chế biến dầu trong phần tiếp theo.
4. Thực trạng của việc chế biến dầu khí.
4.1.Thực trạng của việc chế biến dầu.
Dầu mỏ chúng ta khai thác hiện nay chủ yếu là dầu thô và phục vụ trực tiếp cho việc xuất khẩu. Năm 2004 ngành dầu khí đạt kim ngạch xuất khẩu gần 5,7 tỷ USD, tương đương 19,5 triệu tấn dầu thô, vượt 93% kế hoạch năm về doanh thu ngoại tệ, chiếm ngót 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của các ngành kinh tế trong nước. Tuy nhiên mục tiêu của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam không chỉ dừng lại ở xuất khẩu dầu thô mà còn là việc lọc dầu để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu trong nước hạn chế nhập khẩu xăng dầu. Các công trình trọng điểm dầu khí, đặc biệt nhà máy lọc dầu Dung Quất đã và đang được triển khai một cách khẩn trương, dự án lọc dầu Dung Quất do đích thân Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo, cứ 10 ngày Tổng công ty Dầu khí Việt Nam phải báo cáo tiến độ 1 lần. Hiện dự ấn đã hoàn thành cơ bản công tác chuẩn bị mặt bằng và hạng mục hạ tầng cơ sở phục vụ công tách xây dựng nhà máy, một số hạng mục đã được đưa vào xử dụng. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang cùng nhà thầu Technip triển khai hợp đông phát triển thiết kế tổng thể của gói 1 với việc bổ sung hai phân xưởng xử lý LCO băng hydro và đồng phân hoá naptha nhẹ vào sơ đồ công nghệc ủa nhà máy như đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Các đề án như : Khí Nam Côn Sơn, Đề án Liên hợp hóa dầu Nghi Sơn Thanh Hoá, dự án Đường ống dẫn khí Phú Mỹ –TP Hồ Chí Minh, Dự án Đạm Phú Mỹ đang được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cùng các nhà thầu triển khai, trình Chính phủ.
4.2.Thực trạng của công tác chế biến khí.
Khí đồng hành thu được cùng khai thác dầu mỏ ở nước ta hiện nay được chế biến rất hiệu quả. Các đường ống dẫn khí trong lòng biển đã được xây dựng để dẫn khí vào trong đất liền phục vụ cho việc sản xuất điện, đạm, hoá lỏng, hoá Gas…
ở Việt Nam hiện nay có một công ty chế biến và kinh doanh các sản phẩm về khí PetroVietNam Gas,được thành lập 20-9-1990. Chức năng và nhiệm vụ chính là thu gom, vận chuyển, chế biến và kinh doanh các sản phẩm khí, cung cấp khí cho các hộ tiêu thụ công nghiệp trong khu công nghiệp liên hiệp khí điện đạm Phũ Mỹ thuộc huyện Tân thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có tầm cỡ lớn nhất Đông Nam á với số vốn đầu tư hơn 4,5 tỷ USD. Công ty đã bắt tay vào việc triển khai dự án thu gom và sử dụng khí đồng hành Bạch Hổ. Đây là dự án lớn, phức tạp, bao gồm hệ thống đường ống thu gom và vận chuyển khí, giàn nén khí, nhà máy xử lý khí, kho chứa và cảng xuất sản phẩm lỏng, các trạm phân phối khí với tổng vốn đầu tư 450 triệu USD.
Giai đoạn 1, đưa khí vào bờ hoàn thành đầu quý 2 /1995. Ngày 26/4/1995, dòng khí đầu tiên mà trước đầy phải đốt bỏ ngoài khơi đã được đưa vào bờ cấp cho nhà máy Điện Bà Rịa với lưu lượng 1 triệu m3 / ngày đêm, góp phần giảm giá thành sản xuất điện năng. Đây là bước ngoặt đánh dấu một ký nguyên mới, kỷ nguyên của ngành công nghiệp khí Việt Nam.
Giai đoạn 2, cùng với việc hoàn thành giàn nén nhỏ, giàn nén lớn và mở rộng hệ thống đường ống dẫn khí trên bờ, công suất đưa khí vào bờ đã được nâng lên 2 triệu m3 / ngày đêm vào ngày 14/12/1997.
Giai đoạn3 phần nhà máy xử lý Dinh Cố, kho chứa và cảng xuất Thị Vải đã hoàn thành vào cuối năm 1998. Đây là 2 công trình có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế và công nghệ. Ngoài việc nâng sản lượng khí lên 4 triệu m3 / ngày đêm, công trình khí còn cung cấp mỗi năm 130.000 tấn khí hoá lỏng phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Giai đoạn 4, đường ống dẫn khí dài 45 km từ mỏ Rạng Đông về mỏ Bạch Hổ được hoàn thành vào cuối tháng 11/2201, nâng công suất của dự án khí đồng hành Bạch Hổ từ 4,7 triệu m3 /ngày đêm lên 5,7 triệu m3 / ngày đêm, góp phần tăng sản lượng cung cấp khí.
Hiện nay, toàn bộ Dự án khí Bạch Hổ đang được vận hành và khai thác có hiệu quả với 3 loại sản phẩm: Khí khô 1,5 tỷ m3 . năm, khí hoá lỏng 350.000 tấn / năm và condensate 130.000 tấn/ năm.
Ngoài ra giai đoạn 1 củ Sự án khí thấp áp đã hoàn thành vào cuối năm 2003 với vốn đầu tư gần 100 tỷ đồng, mỗi ngày cung cấp gần 1 triệu m3 khí cho các hộ công nghiệp tiêu thụ và có hơn 30 xe ô tô dang trong giai đoạn thử nghiệm dùng khí hoá lỏng thay thế nhiên liệu truyền thống. Các dự án này đã góp phần đa dạng hoá các hình thức sử dụng khí, mở rộng thị trường tiêu thụ khí và góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường.
Thêm vào đó PetroVietNam Gas đã tích cực tham gia vận hành dự án khí Nam Côn Son. Dự án này bao gồm hệ thống đường ống chính dài 400km, bắt nguồn từ các mỏ khí Lan Tây- Lan Đỏ thuộc vùng bồn trũng Nam Côn Sơn và kết thúc ở Phúc Mỹ. Nhà máy xử lý khí Dinh Cố, trung tâm phân phối khí Phú Mỹ. Các dự án khí Bạch Hổ, Nam Côn Sơn đi vào hoạt đồng đã có nhứng đóng góp hết sức có ý nghĩa đối với sự phát triểnkinh tế xã hội của đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà một chuyên gia kinh tế đã cho rằng, ngành công nghiệp Khí đốt non trẻ của Việt Nam thực sự là một cuộc chơi lớn của sự nghiệp phát triển.
Hiện nay nghành công nghiệp khí đã cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu để sản xuất trên 40% tổng sản lượng điện năng của cả nước, gần 30 % nhu cầu phân đạm ure và gần 40 % nhu cầu khí hoá lỏng của cả nước.
Kết quả cụ thể các chỉ tiêu chính Tổng công ty Dầu khí Việt Nam thống kê về chế biến khí từ 1995 tới nay:
-Về sản lượng, đã cung cấp hơn 15 tỷ m3 khí khô, gần 2 triệu tấn khí hoá lỏng và hơn 8 triệu tấn condensat.
-Tổng doanh thu trên 34.500 tỷ đồng, riêng năm 2005 ước tính gần 10.000 tỷ đồng.
-Nộp ngân sách nhà nước trên 8.000 tỷ đồng, riêng năm 2005 ước đạt 2.000 tỷ đồng.
II.các giải pháp đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò khai thác và chế biến dầu khí.
Với mục tiêu chiến lược phát triển của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đến năm 2020 đã được xác định gồm xây dựng Tổng công ty thành một tập đoàn dầu khí mạnh ở khu vực Đông Nam á, có khả năng điều hành các hoạt động thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến và phân phối dầu khí, gia tăng trữ lượng thu hồi khoảng 150-200 triệu tấn quy dầu vào năm 2005 và vào khoảng 250-300 triệu tấn quy dầu vào năm 2010, đảm bảo sản lượng khai thác từ 22-24 triệu tấn quy dầu vào năm 2005 và từ 27030 triệu tấn quy dầu vào năm 2010. Từ mục tiêu chiến lược đó mà Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã đưa ra các giải pháp để hoàn thành nhiệm vụ chiến lược này.
1.Giải pháp về cơ chế chính sách.
Để thích ứng với điều kiện mới thì Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chính sách và cơ chế thích hợp. Một mặt khuyến khích Tổng công ty Dầu khí Việt Nam phát triển nhanh hơn, mặt khác thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển.
Đầu tiên phải nói về chính sách trợ giá xăng dầu nhập khẩu trong bối cảnh giá xăng dầu trên thế giới tăng mạnh như hiện nay.Điều này vô cùng quan trọng bởi vì nước ta nhập khẩu 100% xăng dầu, giá xăng dầu tăng cao không chỉ ảnh hưởng tới nền kinh tế mà còn ảnh hưởng tới cả chính trị. Nhà nước cần ban hành các qui định như chấn chỉnh lại hệ thống phân phối, kinh doanh xăng dầu, quy chế quản lý kinh doanh xăng dầu, quy chế đại lý xăng dầu, quy định việc giá bán định hướng xăng dầu. Nhà nước phải có chính sách bù lỗ xăng dầu, để bình ổn thị trương, đồng thời giúp cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam làm ăn có hiệu quả hơn. Và ở nước ta có xuất khẩu dầu thô nên cũng có khoản để bù lỗ. Ta thấy thực tế trong năm 2004 nhà nước 3 lần quyết định tăng giá xăng dầu. Tuy nhiên tăng giá xăng dầu thì các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu vẫn bị lỗ, do vậy bù lỗ không phải là một giải pháp lâu dài mà chỉ là tạm thời. Do đó Nhà nước đang có những bước đi tạo đà cho các hãng kinh doanh xăng dầu đủ mạnh để cạnh tranh với các hãng nước ngoài, hiện đang chuẩn bị vào nước ta , khi Việt Nam gia nhập WTO.
Thứ hai là giá xăng dầu tăng cao đòi hỏi sử dụng năng lượng phải hết sức hiệu quả. Để đảm bảo an ninh năng lượng thì tiết kiệm năng lượng là biện pháp hàng đầu. Hoạt động tiết kiệm có quy mô lớn nhất trong ngành dầu khí là chấm dứt tình trạng đốt bỏ khí đồng hành tại nơi khai thác dầu thô, thu gom và đưa lượng khí lớn lao này vào bờ phục vụ cho phát điện, sản xuất ure và các hoá chất khác, thậm chí có thể chế biến thành nhiên liêu lỏng thay thế cho xăng.
Ngoài ra Nhà nước cần hoàn thiện lại hệ thống pháp luật đặc biệt là Luật Đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam có thể dễ dàng thu hut vốn liên doanh liên kết. Hay là đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực dầu khí ở nước ta.
2.Giải pháp về nguồn nhân lực.
Cùng với quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, ngành dầu khí cũng đã xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học công nghệ và công nhân kỹ thuật với hàm lượng tri thức cao, dần dần thay thế nhiều chức danh trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài. Để triển khai mọi mặt hoạt động của một ngành kinh tế có yêu cầu công nghệ cao, đầu tư lơn, kèm theo rủi ro cao, con người là yếu tố quyết định. ý thức được điều đó, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã sớm đầu tư tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đặt biệt là những cán bộ khoa học có trình độ kỹ thuật cao. Hàng năm, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã cử hàng trăm cán bộ, công nhân kỹ thuật đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có nền công nghiệp dầu khí phát triển, mặt khác đã tuyển chọn những sinh viên học giỏi ở các trường đại học trong nước gửi đi đào tạo đại học và trên đại học tại các cơ sở đào tạo có chuyên môn có kinh nghiệm về lĩnh vực Dầu khí ở nước ngoài. Kết quả hàng trăm sinh vien đã tốt nghiệp trở về và hiện đang làm việc có hiệu quả cho các đơn vị. Song song vời việc đào tạo chuyên môn ngoại ngữ, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã tổ chức đào tạo và gửi đi đào tạo chính trị cao cấp, quản lý hành chính cho hầu hết các cán bộ và giám đốc, phó giám đốc các đơn vị, trưởng, phó các ban ở Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Nhờ chủ trương đúng đắn trên , đội ngũ cán bộ Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã có khả năng đáp ứng nhiệm vụ được giao cả trong quả lý và điều hành. Tính đến tháng 6/2005, đội ngú cán bộ công nhân viên ngành dầu khí đã lên tới 2,2 vạn người, trog đó số cán bộ có trình độ đại học chiếm 32,63% trên đại học chiếm 1,81% và hàng nghìn công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
Có thể nói, đội ngũ cán bộ đảng viên, công nhân viên ngành Dầu khí là những người có tri thức, có năng lực và giàu tâm huyết, là nhân tố quyết định cho sự phát triển của ngành công nghiệp dầu khí, nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực thế giới.
3.Giải pháp về hợp tác quốc tế.
Hợp tác quốc tế của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trong thời gian qua được đẩy mạnh và đính giá là có hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư và liên doanh của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trong nhiều lĩnh vực hoạt động của mình. Nền tảng quan trọng nhất cho việc hợp tác kinh tế quốc tế là môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn và hấp dẫn. Điều này đã được Nhà nước Việt Nam hết sức lưu tâm giải quyết tạo thuận lợi cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam hội nhập tích cực và hiệu quả với nền công nghiệp dầu khí quốc tế. Tổng công ty Dầu khí Việt Namđã ký 47 hợp đồng với tổng mức đầu tư nước ngoài trên 4 tỷ USD cho thăm dò khai thác dầu khí. Đã chọn được hình thức hợp đồng phù hợp và được các nhà đầu tư nước ngoài ưa thích là hợp đồng chia sản phẩm. Một hình thức mới trong đầu tư là liên doanh điều hành đã và đang được áp dụng có hiệu quả. Tỷ lệ phần tham gia của các Công ty dầu khí quốc tế vào hoạt động thăm dò khai thác ở Việt Nam đã phản ánh đúng chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong hợp tác quốc tế của ngành công nghiệp dầu khí. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã tích cực triển khai đầu tư tìm kiếm , thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài và bước đầu đã thành công trong việc ký kết một số hợp đồng dầu khí ở nước ngoài dưới hình thức cùng phát triển mở, tham gia quyền lợi vào các dự án thăm dò, hướng tới tự điều hành các đề án thưm dò và khai thác. Mức đầu tư hàng năm có thể đạt 50 triệu USD. Hiện tại Tổng công ty Dầu khí Việt Nam tiếp tục triển khai thực hiện các hợp đồng dầu khí ở nước ngoài và tích cực tìm kiếm các cơ hội đầu tư mới vào các dự án thăm dò, khai thác dầu khí ở các khu vực trên thế giới.
Hợp tác đầu tư giai đoạn 2001-2010 của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
Các dự án đầu tư
Tổng vốn đầu tư(triệu đô la)
Phần tham gia của Việt Nam
Giá trị(triệu đô la)
Giai đoạn 2001-2005
Giai đoạn2006-2010
-Các dự án tìm kiếm thăm dò
-Các dự án phát triển mỏ
-Các dự án thu gom vận chuyển khí
-Các dự án TDKT ở nước ngoài
-Các dự án chế biến dầu khí
-Các dự án phân phối và tiêu thụ sản phẩm
-Các dự án dịch vụ và kinh doanh dầu khí
Tổng nhu cầu đầu tư
3.954-4.150
6.120-7.020
1.399
550-700
5.199
1.319-1.369
819
19.356-20.656
900-1.100
1.945-2.312
853
225-600
3.132-3.232
1.319-1.369
819
9.193-10.285
425-525
1.017-1.177
591
150-250
1.582,1-1.662
457-477
423
4.645-5.105
475-575
928-1.135
263
75-350
1.550-1.570
862-892
396
4.548-5.181
Sắp tới đối với khu vực thượng nguồn, việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ tập trung vào khu vực nước sâu, xa bờ, các diện tiéhc đã thăm dò sơ bộ với các điều khoản hợp đồng hấp dẫn. Hình thức hợp đồng được áp dụng là phân chia sản phẩm. Phấn đấu đạt sản lượng trong vòng 10 năm tới là khoảng 25-30 triệu tấn dầu quy đổi/ năm, song song với việc gia tăng sản lượng, các cơ sở hạ tầng như cảng, đường ống, trạm xử lý… và các đề án thuộc hạ nguồn như lọc hoá dầu, phân bón, phát điện…sẽ ưu tiên phát triển đồng bộ với sự hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài.
4.Giải pháp về công nghệ.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất và làm tốt công tác an toàn, bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Viện dầu khí Việt Nam nhận thức được hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai côngnghệ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành dầu khí, trong 27 năm xây dựng và trưởng thành đã rất coi trọng đầu tư cho hoạt động ngiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới thiết bị thí nghiệm, đào tạo đội ngũ cán bộ, gắn công tác nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ với hoạt động sản xuất kinh doanh dầu khí. Kết quả của các công trình nghiên cứu, triển khai công nghệ và và phân tích đã không chỉ phục vụ cho công tác quản lý điều hành của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam như góp phần quan trọng trong việc chính xác hoá các bể trầm tích, từng bước làm sáng tỏ tiềm năng dầu khí của Việt Nam, giải quyết các vấn đề kỹ thuật, tạo thuận lợi cho gia tăng sản lượng khai thác và nâng hệ số thu hồi dầu.
Các giải pháp kỹ thuật và công nghệ thăm dò và khai thác dầu của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cũng đạt tiền đề cho việc đầu tư và hiệu quả kinh tế của mỏ, với các giải pháp từ khi phát hiện ra dòng dầu công nghiệp và tiến hành khai thác mỏ như: Tiến hành khai thác theo giai đoạn, từ tự phun bằng năng lượng tự nhiên của mỏ, khai thác theo chế độ đàn hội, sau
đó khai thác bằng phương pháp cơ học kết hợp phương pháp duy trị áp suất vỉa, bơm nước vào vỉa, ứng dụng các công nghệ khoang ngan hoặc khoan xiên, vỡ vỉa thuỷ lực và xử lý vùng cận đáy giếng. Với những giải pháp công nghệ tiên tiến về khoan và khai thác dầu khí cho phép Tổng công ty Dầu khí Việt Nam thường xuyên khai thác vượt mức kế hoạch hàng năm. Hệ số thu hồi dầu được nâng lên đáng kể tại tầng móng từ giữa thập kỷ 90 đạt 0,35 dến nay đã đạt trên 0.4 với hiệu quả kinh tế và kỹ thuật rất cao.
5.Giải pháp về tài chính và huy động vốn.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang tích cực các chương trình huy động các nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) nước ngoài, khuyến khích góp vốn vào các liên doanh hoạt động trong lĩnh vực dầu khí. Hơn nữa khi Tổng công ty Dầu khí Việt Nam phát triển thành tập đoàn thì việc quản lý vốn chuyển hương phi tập trung, các thành viên ngày càng được tôn trọng và phát huy năng lực, tức là có quyền tự chủ về quyết định huy động vốn. Điều này yêu cầu nhà nước phải nới rộng giới hạn tín dụng cho các ngân hàng thương mại trong nước để các công ty dầu khí huy động vốn có hiệu quả hơn. Tức là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam phải khuyến khích các công ty thành viên huy động cả vốn trong nước và vốn nước ngoài. Thiết lập được quan hệ hợp tác, tin cậy với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng tại Việt Nam và trên thế giới tạo nên kênh huy động vốn cho các dự án trong và ngoài Ngành.
Hơn nữa Tổng công ty Dầu khí Việt Nam còn nhận nguồn và sử dụng nguồn uỷ thác đầu tư, Giao dịch có kỳ hạng trái phiếu và chứng từ có giá;Xử lý khi phát sinh dòng tiền tương lai. Trực tiếp thông qua Công ty tài chính Dầu khí để sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn: dịch vụ ký quỹ du học cho con em cán bộ công nhân viên trong ngành Dầu khí; Nghiệp vụ uỷ thác quản lý vốn cá nhân, thực hiện quyền đòi nợ đối với bên thứ ba khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
Tóm lại các giải pháp về huy động vốn và ổn định tài chính của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là:
-Sắp xếp lại Tổng công ty Dầu khí Việt Nam théo định hướng phát triển thành tập đoàn kinh tế kinh doanh đa ngành đa nghề, đa dạng hoá các loại hình sở hữu. Tập đoàn dầu khí được tổ chức theo cấu trúc công ty mẹ con. Trong tập đoàn công ty mẹ với đầy đủ tư cách pháp nhân. Các công ty con có nhiều cấp và được đầu tư bởi nhiều cổ đông như : công ty mẹ, công ty con cùng cấp, công ty mẹ khác cấp công ty con…
- Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá đơn vị thành viên có đủ điều kiện. Đẩy mạnh cổ phần hoá các đơn vị thành viên, chuyển sang hoạt động thưo mô hình công ty mẹ công ty con.
- Hoàn thiện cơ chế huy động vốn theo hướng mở rộng quyền và tráhc nhiệm của các đơn vị thành viên. Cơ chế huy động vốn là một trong những cơ chế quan trọng trong quản lý tài chính của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Khi phát triển thành tập đoàn, cơ chế quản lý bên trong của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam phải được vận dụng một cách linh hoạt, thích hợp với điều kiện mới và phải thực sự có hiệu quả.
-Xác lập được hệ thống định chế tài chính phù hợp với sự phát triển của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn tới bao gồm: Ngân hàng Đầu tư phát triển dầu khí, công ty chứng khoán tài chính dầu khí, công ty bảo hiểm dầu khí. Với hệ thống định chế này, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam sẽ khắc phục được những hạn chế của hệ thống hiện tại, đồng thời tham gia tích cực vào thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
-Hoàn thiện cơ chế đầu tư vốn, có các biện pháp huy động vốn đầu tư cụ thể và hiệu quả.
ở cấp Tổng công ty phải thẩm định dự án đầu tư để có quyết định đầu tư hay không, từ đó đầu tư theo góp vốn cổ phần, lời ăn lỗ chịu. Cơ chế này được thực hiện thông qua một định chế tài chính trung gian trong Tổng công ty Dầu khí Việt Nam mà hiện nay là Công ty tài chính dầu khí.
-Tăng cường hệ thống kiểm soát quản trị của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.Chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ con Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cần có hệ thống kiểm soát thông qua một hệ thống chỉ tiêu có tính bao quát và tổng hợp cao, làm thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị thành viên.
Kết Luận.
Qua những phần đã trình bày ở trên, chúng ta đã được biết cụ thể, tường tận về thực trạng của việc tìm kiếm thăm dò khai thác và chế biến hiện nay của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Đồng thời cũng thấy được các giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động tìm kiếm thăm dò khai thác và chế biến dầu mỏ ở nước ta hiện nay. Để thích nghi với tình hình gía dầu tăng cao như hiện nay, ổn định thị trường và nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, cũng như các công ty thành viên. Góp phần đẩy nhanh vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, giữ vững sự ổn định chính trị. Tổng công ty dầu khí Việt Nam không chỉ chú trọng đầu tư phát triển, tìm kiếm thăm dò thêm các mỏ dầu mớimà còn không ngừng áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại, đào tạo thêm cho cán bộ công nhân viên ngành Dầu khí nâng cao trình độ tay nghề và còn đẩy mạnh việc thay đổi cơ cấu tổ chức, hướng tới trở thành một tập đoàn kinh tế lớn mạnh. Giữ vai trò là ngành công nghiệp mũi nhọn, chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Tài nguyên khoáng sản và công nghiệp hoá hiện đại hoá-GSTS Vũ Đình Cự- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội-1996.
Tạp chí công nghiệp kỳ 1-tháng 2-2005.
Tạp chí công nghiệp kỳ 1-tháng 5-2005.
Tạp chí thương mại số 1-tháng 2-2005.
Tạp chí thương mại số 33-2004.
Tạp chí năng lượng số( 1,2, 7, 8)- 2005,
Kinh tế châu á -Thái bình dương số 10-2005
Thời báo kinh tế số 6, 8 -2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74622.DOC